Tương đương dịch thuật và tương đương trong dịch Anh - Việt: Lê Hùng Tiến
Tương đương dịch thuật và tương đương trong dịch Anh - Việt: Lê Hùng Tiến
Tương đương dịch thuật và tương đương trong dịch Anh - Việt
Lê Hùng Tiến*
Khoa Sau Đại học, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Đường Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 27 tháng 8 năm 2010
Tóm tắt. Tương đương dịch thuật luôn là vấn đề trung tâm của các cuộc bàn luận về dich thuật từ
khi dịch ra đời. Bài viết khảo sát những lý thuyết chính liên quan tới tương đương dịch thuật
(Savory, Catford, Koller, Snell - Hornby, Venuti, v.v…) và tìm hiểu việc thiết lập tương đương
dịch thuật giữa tiếng Anh và tiếng Việt. Việc khảo sát cho thấy các cách phân loại về tương
đương dịch thuật có thể áp dụng cho dịch Anh - Việt, tuy nhiên một sự tương đương hoàn toàn
giữa bản gố và bản dịch là không thể đạt được và thành công của bản dịch phụ thuộc nhiều vào ưu
tiên của người dịch trong việc chọn lựa và thiết lập loại hình tương đương hợp lý.
1. Vấn đề tương đương dịch thuật trong lý khác biệt này có thể là các tác giả xuất phát từ
luận dịch* cách nhìn khác nhau về bản chất của ngôn ngữ,
bản chất của dịch thuật và áp dụng các lý
1.1. Những quan niệm khác nhau về tương thuyết ngôn ngữ học khác nhau vào nghiên cứu
đương dịch thuật dịch thụât.
Savory [2] đã đưa ra một danh sách rất nổi
Tương đương dịch thuật là vấn đề đã được
tiếng tổng kết lại 12 quan niệm mâu thuẫn nhau
bàn tới ngay từ khi dịch thuật ra đời. Nú luụn
về tương đương dịch thuật, dưới đây là một vài
là "khái niệm trung tâm của bất cứ công trình
ví dụ:
nghiên cứu nào về dịch thuật" (Munday, [1]).
Trước đây khi quan niệm dịch thuật giữa các 1. Bản dịch phải dịch các từ ngữ của bản gốc.
ngôn ngữ còn đơn giản và lệ thuộc khá nhiều 2. Bản dịch phải dịch được các ý tưởng của
vào cấu trúc luận và ngôn ngữ học so sánh, bản gốc.
tương đương dịch thuật chỉ là sự giống hoặc 3. Bản dịch phải đọc giống như bản gốc.
khác nhau giữa hai đơn vị ngôn ngữ nào đó của 4. Bản dịch phải đọc giống như bản dịch.
hai hệ thống ngôn ngữ. Nhưng ngày nay với sự
phát triển nhanh chóng của ngôn ngữ học và 5. Bản dịch phải phản ánh được phong cách
các khoa học liên quan, vấn đề tương đương của bản gốc.
trong dịch thuật càng trở nên phức tạp hơn rất 6. Bản dịch phải mang phong cách của
nhiều nhưng đồng thời cũng sáng tỏ hơn và người dịch, v.v...
phục vụ hữu ích hơn cho công việc nghiên cứu Khái niệm "tương đương dịch thuật"
và thực hành dịch thuật. Nguyên nhân của sự (translation equivalence) thường xuất hiện khi
______ các tác giả đưa ra định nghĩa hoặc mô tả quá
*
ĐT: 84-4-37547435. trình dịch thuật. Nhưng khái niệm này đặc biệt
E-mail: [email protected] quan trọng khi vấn đề đánh giá, thẩm định bản
141
142 L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150
dịch được bàn đến. Catford [3] bàn đến "tương dịch thuật một cách tổng thể nhất đồng thời
đương chất liệu văn bản" (equivalent textual cũng phức tạp nhất. Những ý kiến khác nhau
material) khi ông đưa ra quan niệm dịch là sự của các tác giả trên cho thấy sự phức tạp khó
thay thế chất liệu văn bản ngôn ngữ gốc bằng thống nhất của khái niệm này. Các tác giả trên
chất liệu văn bản tương đương ở ngôn ngữ từ quan niệm về sự tương đương dịch thuật của
nhận. Sau đó tác giả (Catford [4]) đề xuất hai mình còn đề xuất rất nhiều tiêu chí để đánh giá
loại hỡnh tương đương dịch thuật chính là và thẩm định bản dịch.
tương đương ngôn ngữ học (linguistic
Hiện tại các nhà lý luận dịch có ba quan
equivalence) và tương đương ở cấp đọ văn hóa
điểm khác nhau về tương đương dịch thuật như
(cultural equivalence). Nida và Taber [5] bàn
sau:
đến sự "tương đương động" (dynamic
equivalence) khi các tác giả bàn đến sự cần 1) Tương đương là điều kiện cần thiết để
thiết phải thiết lập một sự tương đương chức dịch thuật thực hiện được và tương đương là
năng, tức là sự tương đương về tác động của đích của dịch thuật, là cái có thể đạt được
bản dịch lên người đọc bản dịch và tác động (Catford, Nida, Toury, Koller).
của bản gốc lên người đọc bản gốc và cho rằng 2) Tương đương dịch thuật là không thể
đó mới là mục đích đích thực của dịch thuật. thực hiện được và là điều cản trở cho việc
Wilss [6] đưa ra khái niệm "tương đương về nghiên cứu dịch thuật (Snell - Hornby,
mặt thông báo" (communicative equivalence) Gentzler).
trong dịch thuật. Barkhudarop [7] đặt yêu cầu
3- Tương đương là cách phân loại hữu ích để
cho việc dịch là phải tạo ra "nội dung không
mô tả và nghiên cứu dịch thuật (Baker), là khái
thay đổi" giữa bản dịch và bản gốc, tức là
niệm tận dụng để nghiên cứu dịch thuật và thực
tương đương về ý nghĩa của văn bản. Newmark
[8] cũng có quan niệm tương tự nhưng tác giả hành dịch thuật chứ không hẳn là do đơn vị nào
gắn ý nghĩa của văn bản với ý định của người đó của khái niệm này trong lý thuyết dịch.
nói/ viết là cái mà người dịch cần tạo ra cho Sở dĩ vấn đề tương đương dịch thuật trở
bản dịch. Nhưng đồng thời tác giả lại nêu ra thành một vấn đề gai góc trong lý luận dịch
một băn khoăn rất đáng quan tâm là liệu ý thuật và ý kiến của các nhà nghiên cứu về vấn
nghĩa phải chuyển dịch là ý nghĩa do người viết đề này rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau là
nhằm tạo ra hay chỉ là ý nghĩa được cấu tạo lại vì cách nhìn về bản chất của dịch thuật còn quá
của người dịch? Koller [9] xột tương đương khác nhau. Nhóm thứ nhất gồm các nhà nghiên
dịch thuật dựa trên ý nghĩa (meaning - based) cứu nhìn nhận dịch thuật là một quá trình giao
và phõn loại thành tương đương biểu vật, biểu tiếp mà trọng tâm là việc chuyển dịch thông
thái, dụng học và hình thức. Baker [10] chỉ ra điệp từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ dịch
ba cấp độ tương đương dịch thuật dựa trên (quan điểm chức năng ngôn ngữ đối với dịch
hỡnh thức ngụn ngữ là tương đương ở cấp độ thuật). Do vậy, khi chuyển dịch thông điệp từ
từ, cấp độ câu và cấp độ văn bản. ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác người dịch
Venuti [11] lại đặt vấn đề tương đương thực ra là phải giải quyết các vấn đề thuộc hai
xuất phát từ bản chất đặc biệt của dịch thuật: nền văn hoá chứ không chỉ là vấn đề ngôn ngữ
“Dịch thuật thường được xem xét với một sự và người dịch đóng vai trò trung gian trong quá
nghi ngại vì nó không tránh khỏi việc nhập nội trình giao tiếp liên văn hoá này. Việc dịch
các văn bản ngoại, tái tạo chúng với các giá trị (giao tiếp) sở dĩ thực hiện được là vì nó được
ngôn ngữ và văn hoá có thể thông hiểu được tiến hành ở bình diện liên văn hoá và tương
với một bộ phận công chúng quốc nội nào đó”. đương dịch được thiết lập là nhờ các yếu tố
Và với định nghĩa dịch là “viết lại văn bản như văn bản, văn hoá và tình huống tham gia
ngoại với ngôn ngữ và diễn ngôn bản địa”. vào quá trình dịch. Nói cách khác là ngôn ngữ
Venuti thực sự đã đặt ra vấn đề tương đưong trong sự hành chức của nó.
L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150 143
Nhóm thứ hai có quan điểm về dịch thuật chương I), coi dịch thuật chỉ thuần tuý là
hẹp hơn rất nhiều so với nhóm thứ nhất và điều chuyển đổi các đơn vị ngôn ngữ (từ vựng, cấu
này đã dẫn tới cái nhìn bi quan về dịch thuật trúc ngữ pháp) từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ
cũng như sự tồn tại của tương đương dịch thuật. khác một cách cơ giới. Cùng với sự phát triển
Họ quan niệm rằng dịch thuật giữa hai ngôn của ngôn ngữ học theo hướng ngôn cảnh giao
ngữ là vấn đề hoàn toàn thuộc về ngôn ngữ học tiếp, dịch thuật được nhìn nhận là quá trình
và xem xét bản chất dịch thuật và tương đương giao tiếp và từ đó các khái niệm của dịch thuật
dịch thuật theo quan niệm này là vấn đề chuyển cũng được xem xét đúng với bản chất của
dịch các đơn vị ngôn ngữ từ ngôn ngữ gốc sang chúng hơn. Tương đương dịch thuật cũng như
ngôn ngữ dịch một cách khá cơ giới, trên chất vậy, nó được phân biệt với tương đương của
liệu ngôn ngữ thuộc hệ thống. Do vậy sự tương ngôn ngữ học so sánh về bản chất. Chính sự
đương dịch thuật là khó đạt được, nếu không phân biệt quan trọng này mà dịch thuật được
nói là bất khả thi. nhìn nhận gần với bản chất của nó hơn.
Nhóm thứ ba có quan điểm trung dung khi Tương đương ngôn ngữ học so sánh dựa
căn cứ vào thực tế là bất luận thế nào đi chăng trên các tương đồng giữa hai ngôn ngữ với tư
nữa thì dịch thuật giữa các ngôn ngữ vẫn đã, cách là hệ thống. Đó là sự tương đương liên
đang và sẽ được tiến hành một cách thành công. ngôn ngữ (interlingual equivalence) dựa trên các
Có thể tương đương một cách triệt để là bất giả thiết về một quan hệ tương đương giữa các
khả thi nhưng dù sao thì tương đương ở một thành tố của hai hệ thống trừu tượng của hai ngôn
mức nào đó, ở bình diện nào không quan trọng ngữ được so sánh. Tương đương ngôn ngữ học so
giữa hai ngôn ngữ vẫn được các nhà dịch thuật sánh cũng là nền tảng của dịch máy (từ điển, mẫu
thiết lập được và do đó dịch thuật vẫn được câu và các quy tắc ngữ pháp cơ bản).
tiến hành như một công cụ giao tiếp giữa Tương đương dịch thuật dựa trên mối quan
những người thuộc các ngôn ngữ khác nhau. hệ giữa các văn bản thực, các phát ngôn ở hai
Có thể nói đây là quan điểm về tương đương ngôn ngữ khác nhau, các đơn vị ngôn ngữ
dịch thuật kết hợp cả khía cạnh ngôn ngữ học trong sự hành chức (language in use). Đây là
lẫn giao tiếp khi xem xét quá trình dịch thuật. sự tương đương liên văn bản (Intertextual
equivalence) dựa trên sự quan sát thực tế giữa
1.2. Tương đương dịch thuật và tương đương các thành tố của văn bản thực sự ở ngôn ngữ
ngôn ngữ học so sánh gốc và ngôn ngữ dịch. Đây cũng là nền tảng
của dịch thuật thông thường của con người.
Lâu nay dịch thuật thường bị coi là hoạt
Hãy xem xét và so sánh các phát ngôn tiếng
động ứng dụng của lý thuyết ngôn ngữ học so
Anh được dịch bằng máy (dựa trên sự tương
sánh. Quan niệm lầm lẫn này xuất phát từ cách
đương ngôn ngữ học so sánh) và do người dịch.
hiểu giản đơn về dịch thuật (như đã phân tích ở
V
Dịch máy (EVitran 2.0)
- I love you - Tôi yêu anh
- Blood is thicker than water - Máu thì dày hơn nước
- Damn you! - Chê trách anh!
- Best Buy - Mua tốt nhất
Người dịch
- Anh yêu em
- Một giọt máu đào hơn ao nước lã
- Đồ chết tiệt!
- Sự lựa chọn hoàn hảo
Ơ
144 L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150
2. Các loại hình tương đương dịch thuật phần tương đương (Quantity based): tương
đương một với một, một với nhiều hơn một,
Hiện có nhiều cách phân loại tương đương một với phần nhỏ hơn một, bất tương đương.
dịch thuật khác nhau dựa trên những cơ sở
Dưới đây ta sẽ xem xét một số loại hình
khác nhau. Có 4 cách phân loại tương đương
tương đương hay được nói tới nhất và được
khá phổ biến như sau:
ứng dụng nhiều khi nghiên cứu, đánh giá bản
1) Tương đương dựa trên hình thức (form- dịch và bàn về dịch thuật.
based equivalence): tương đương ở cấp độ từ,
cấp độ câu và cấp độ văn bản (Baker). 1. Tương đương dựa trên số lượng các phần
tương đương (Quantity based equivalence)
2) Tương đương dựa trên ý nghĩa (meaning
- based): tương đương biểu vật, biểu thái, dụng a- Tương đương một - một:
học và hình thức (Koller). - Là kiểu tương đương trong đó một cách
3) Tương đương dựa trên chức năng diễn đạt ở ngôn ngữ gốc chỉ có một cách diễn
(Function - based): tương đương động và đạt tương đương ở ngôn ngữ dịch. Kiểu tương
tương đương hình thức (Nida). đương này thường xảy ra ở hệ thống thuật ngữ.
Ví dụ:
4) Tương đương dựa trên số lượng các
tu
Xây dựng:
Batching plant Trạm trộn
Bond stress Ứng suất dính bám
Compressive Test Thí nghiệm nén mẫu
Geo-textile Vải địa kỹ thuật
Điện lực:
Capacitance across the mains Giá trị điện dung đi qua mạch chính
Grounding system Hệ thống nối đất
Lead wires Dây tín hiệu
Pull box Hộp kéo dây
b- Tương đương một đối với nhiều hơn một: (One to many equivalence)
Một cách diễn đạt ở ngôn ngữ gốc có nhiều cách diễn đạt tương đương ở ngôn ngữ dịch.
Ví dụ:
Nuôi - To breed Bamboo Tre
- To feed Nứa
Trúc
- To raise Mai
- To keep Vầu
- To support
nm
c- Tương đương một với một bộ phận nhỏ mạc của nước Úc đôi khi được dịch bằng từ
hơn một (One to part of one) 'thảo nguyên” ở tiếng Việt có nghĩa hẹp hơn rất
nhiều (chỉ tương đương với một nét nghĩa của
Một cách diễn đạt ở ngôn ngữ gốc có nhiều
từ “bush”).
nét nghĩa mà một cách diễn đạt ở ngôn ngữ
dịch chỉ tương đương với một trong các nét d- Bất tương đương: (Nil-equivalence)
nghĩa đó. Ví dụ: Từ “Bush” trong tiếng Anh Một cách diễn đạt có ở ngôn ngữ gốc nhưng
Úc có nội hàm rất rộng thường được dùng dể không có ở ngôn ngữ dịch có nguyên nhân từ sự
chỉ vùng đất hoang dã xa xôi hẻo lánh, kể cả sa bất tương đồng ngôn ngữ và văn hoá.
L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150 145
Ví dụ: sushi, pizza, internet, nano đương này còn được gọi là tương đương về
Bánh Chưng = Chung cake/Banhchung phong cách (stylistic equivalence).
áo dài = aodai Mỳa khốn: khen dance Đây là sự tương đương được tạo bởi cách
Wallaby (một loại thú có túi nhỏ ở úc) lựa chọn từ ngữ cụ thể từ các diễn đạt đồng
nghĩa trên nhiều phương diện khác nhau như
2. Tương đương dựa trên ý nghĩa (Meaning văn phong, cách sử dụng, xã hội, địa phương,
- based equivalence) của Koller: tần số sử dụng, v.v…
a- Tương đương biểu vật (Denotative Dưới đây ta sẽ xem xét một số kiểu loại
equivalence) tương đương biểu cảm trong thực tiễn dịch
Là kiểu tương đương trong đó cách diễn thuật Anh - Việt.
đạt ở ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ dịch đều chỉ - Khía cạnh cấp độ lời nói (speech level)
cùng một khái niệm, sự vật trong thực tại. Đây gồm: các giá trị phong cách khác nhau như:
là sự tương đương nội dung ngoài ngôn ngữ Nghi thức, gọt giũa, thơ ca, trung hoà, khẩu
của văn bản (hai văn bản có cùng nghĩa sở chỉ). ngữ, tiếng lóng, thô tục. Vớ dụ: Giá trị biểu
Yếu tố nội dung ngoài ngôn ngữ và kiểu loại cảm dựa trên cấp độ ngôn ngữ:
tương đương hướng tới yếu tố này là tương - Ngôn ngữ nghi thức: Thư từ giao dịch
đương biểu vật (denotative equivalence). Đây công việc
cũng là mục đích của bất kỳ quá trình dịch
thuật nào: đó là phải đạt được sự quy chiếu tới Dear Sir/Madam,
sự vật, hiện tượng tương đương của các đơn vị As I am deeply interested in the salesman
ngôn ngữ gốc và dịch. Ví dụ: Khi dịch cụm từ career, I write to your company in the hope that
“the Great Fire of London” sang tiếng Việt you will be able to employ me.
dịch giả phải làm cho đọc giả tiếng Việt liên hệ […]
tới vụ hoả hoạn lớn năm 1666 ở Luôn Đôn. Có I am earnest in my desire to offer my
bản dịch tiếng Việt đã dịch thành “cuộc khởi service to you. I therefore sincerely hope that
nghĩa Great Fire” (?) khiến người đọc tiếng you will give due consideration to my
Việt liên hệ tới một hiện tượng khác hẳn so với application. I look forward to receiving your
hiện tượng mà nguyên tác nói tới. reply.
b- Tương đương biểu cảm (connotative Faithfully Yours,
equivalence)
Kính gửi Quí ông/bà,
Là kiểu tương đương dựa trên ý nghĩa biểu
Tôi viết thư này với mong muốn được quý
cảm của ngôn ngữ. Ngoài ý nghĩa biểu vật, từ
công ty tuyển vào vị trí nhân viên bán hàng,
ngữ của cả ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ dịch cần
bởi đây là công việc phù hợp với năng lực và
tạo ra các giá trị giao tiếp tương đương khi
sở thích của tôi.
được người đọc bản ngữ của hai ngôn ngữ tiếp
nhận. […]
Các ý nghĩa biểu thái (connotations) được Với tất cả lòng nhiệt thành, tôi rất mong
thể hiện qua việc lựa chọn từ ngữ. Yếu tố này muốn được phục vụ trong công ty. Tôi hy vọng
dẫn tới kiểu loại tương đương biểu thái Quí ông/bà sẽ lưu tâm xem xét đơn xin việc
(connotative equivalence). Sự tương đương này của tôi. Kính mong nhận được hồi âm của Quí
được thiết lập trên cơ sở các cấp độ khác nhau ông/bà .
về phong cách chức năng (register), các bình Kính thư.
diện xã hội, địa lý và tần số sử dụng được phản - Ngôn ngữ thi ca:
ánh trong ngôn ngữ, v.v... Kiểu loại tương
Jl
146 L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150
Jkl
Cách diễn đạt ở cả bản gốc tiếng Anh và hoặc nguồn gốc (connotation of geographical
bản dịch tiếng Việt đều có chung một đặc điểm relation or origin). Khía cạnh quan hệ địa lý:
của ngôn ngữ thi ca với những lối nói rất ít chung chung, phương ngữ, thổ ngữ, v.v...
dùng trong đời thường, có tính vang và sáo Ví dụ:
nhằm tạo giá trị thẩm mĩ đặc biệt của thi ca. Để As fast as a kangaroo Nhanh như
tạo được tương đương kiểu loại này người dịch Kăng-gu-ru
phải có trình độ ngôn ngữ ít nhất là gần ngang
Cách dịch này tạo ra giá trị biểu cảm riêng
bằng với tác giả nguyên bản.
cho thấy người nói dùng tiếng Anh Úc (chỉ
- Giá trị biểu cảm dựa trên nghi thức xã hội nguồn gốc, địa phương của người nói). Cách
(connotation of socially determined usage) dịch thuần Việt “nhanh như sóc” sẽ làm mất đi
Khía cạnh quan hệ xã hội: ngôn ngữ người có sắc thái nghĩa này.
học vấn, người lao động, quân nhân, sinh viên,
v.v... - Giá trị biểu cảm dựa trên hiệu quả tu từ
(connotation of stylistic effect)
Ví dụ: Ngôn ngữ thượng lưu
Khía cạnh phương tiện: ngôn ngữ nói, ngôn
Your majesty Tâu bệ hạ ngữ viết. Khía cạnh hiệu quả tu từ: cổ, khoa
Sir Thưa ngài trương, kiểu cách, thời thượng, uyển ngữ, giản
- Giá trị biểu cảm dựa trên quan hệ địa lý dị, v.v...
Ví dụ: Dịch uyển ngữ
Cách nói bình thường: Uyển ngữ:
• The poor • The underprivileged
Người nghèo Người kém may mắn/có hoàn
cảnh khó khăn
• HIV patients • People living with HIV
Bệnh nhân HIV Những người sống chung với/ có HIV
Kl;
Nếu người dịch không ý thức được kiểu dụng để đạt được phong cách đó, gắn chúng
loại tương đương này sẽ dễ dàng tạo ra bản với các khía cạnh phong cách nói trên và tái tạo
dịch bất tương đương về mặt ý nghĩa và bỏ qua lại chúng ở ngôn ngữ dịch bằng các phương
hiệu quả tu từ rất quan trọng này. tiện diễn đạt phù hợp.
Tái tạo các tương đương phong cách là - Giá trị biểu cảm dựa trên ngữ vực
nhiệm vụ khó khăn của người dịch và là việc (register). Khía cạnh phong cách chức năng:
không thể hoàn thành một cách triệt để. Để đạt thường dùng, kỹ thuật, nghề nghiệp.
được tương đương dịch thuật này, người dịch Ví dụ: ngôn ngữ kỹ thuật
phải phân tích cho được các đặc điểm phong First of all, steel plates and bars are taken
cách ngôn ngữ bản gốc, các yếu tố cấu trúc sử from the stockyard to the preparation shop.
L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150 147
Here they are cleaned by shot blasting. Then, sống” (Love of Life) tác giả Jack London dùng
they are coated with primer paint to prevent đại từ “He” trong tiếng Anh để chỉ nhân vật
corrosion. Later they are cut and shaped chính của truyện nhưng khi dịch sang tiếng
automatically by machines. Việt đã có ba cách dịch khác nhau giữa ba dịch
Trước hết, các tấm và thanh thép được đa giả:
ra khỏi kho đưa tới phân xưởng tiền chế. ở đây He anh (Đắc lê)
chúng được làm sạch bằng việc phun cát. Sau (J. London) Y (Dương Tường)
đó chúng được bọc bằng một lớp sơn chống gỉ
gã (Lê Bá Kông)
để ngăn sự ăn mòn. Tiếp theo, chúng được cắt
và tạo phôi tự động bằng máy. Ba cách dịch trên phản ánh ba quan điểm
khác nhau của dịch giả về nội dung câu truyện
Trong bản gốc có rất nhiều thuật ngữ ngành
thép và bản dịch cũng có các thuật ngữ tương qua thái độ của tác giả bản gốc đối với nhân
đương tạo nên giá trị biểu cảm tương tự cho vật chính và được các dịch giả giải thuyết theo
người đọc tiếng Việt. ba cách khác nhau: Đắc Lê dịch với thái độ tích
cực với nhân vật qua đại từ “anh”, Dương
- Giá trị biểu cảm dựa trên sự định giá Tường dịch với thái độ trung tính qua đại từ
(evaluation) và thái độ (attitude). Khía cạnh “y” và bản dịch của Lê Bá Kông có thái độ xa
đánh giá: khen ngợi, chê bai, giễu cợt, v.v...
cách thiếu thiện cảm hơn qua đại từ “gã”. Ba
Ví dụ: cách dịch này cũgn tạo ra tác động khác nhau
die chết (trung tính) đến người đọc tiếng Việt.
pass away đi xa, qua đời (trang trọng) 4 - Tương đương qui chuẩn của văn bản
kick the bucket nghẻo, toi đời (diễu cợt) (text - normative equivalence)
3. Tương đương ngữ dụng (Pragmatic Yếu tố thể loại văn bản và các chuẩn sử
equivalence): Yếu tố người nhận (người đọc) dụng ngôn ngữ (text type and language usage
mà bản dịch hướng tới dẫn tới một loại tương norms) dẫn tới kiểu loại tương đương dịch
đương dịch thuật gọi là tương đương ngữ dụng thuật được gọi là tương đương chuẩn văn bản
(pragmatic equivalence hoặc communicatively (text normative equivalence). Đây là loại tương
equivalence). Đây là kiểu tương đương được đương cần thiết lập khi dịch các văn bản có các
người dịch ưu tiên thiết lập khi phải dịch phục chuẩn về lựa chọn và sử dụng các đơn vị từ
vụ một đối tượng người đọc đặc thù vựng, ngữ pháp đã được quy ước hoá cao như
(readership) nào đó. Người dịch có thể phải văn bản luật pháp, thư tín thương mại, khoa
thoát ra khỏi các yêu cầu của chuẩn sử dụng học kỹ thuật. Người dịch cần nắm chắc các
ngôn ngữ trên văn bản gốc và văn bản dịch, chuẩn về văn bản ở hai ngôn ngữ để có những
thậm chí cả tương đương biểu vật và biểu thái chuyển dịch cần thiết nhằm đạt được sự tương
nhằm phục vụ sự thông hiểu của lớp người đọc đương hình thức này. Loại tương đương này
nào đó. (Ví dụ như dịch các văn bản khoa học được tạo ra khi cả lối diễn đạt của ngôn ngữ
kỹ thuật phục vụ đối tượng không có chuyên gốc và ngôn ngữ dịch có qui chuẩn giống hay
môn khoa học kỹ thuật). tương tự nhau ở ngôn ngữ.
Kiểu tương đương này cũnng được sử dụng Ví dụ:
khi cần tạo hiệu quả tác động tới người đọc - Thư tín: Dear Sir or Madam, Kính gửi... /
như biểu hiện thái độ của tác giả đối với đối Kính thưa Quí ông/bà
tượng được nói tới trong văn bản (theo cách Yours sincerely, Kính thư
giải thuyết của người dịch). - Luật pháp:
Ví dụ: Trong truyện vừa “Tình yêu cuộc
148 L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150
[
• Article.2. The organization and its members, in • Điều 2. Để đạt được những mục đích nêu ở điều 1,
persuit of the purposes stated in Article 1, shall act liên hợp quốc và các thành viên liên hợp quốc hành
in accordance with the following principles: động phù hợp với những nguyên tắc sau đây:
1) The organization is based on the principle fo 1) Liên hợp quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình
the sovereign equality of all its members. đẳng chủ quyền của tất cả các nước thành viên.
gjkjk
Để tạo được kiểu loại tương đương này Về mặt lý thuyết thì dịch bài hát là loại
người dịch cần có kiến thức về chuẩn văn bản hình dịch đặc biệt được gọi là dịch normal +
ở cả ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ dịch như văn partial phonological translation (dịch thông
bản thư tín thương mại, hành chính, luật pháp, thường + chuyển dịch âm vị học bộ phận).
v.v… Loại hình dịch thông thường (normal
translation) là việc dịch văn bản ở ngôn ngữ
5 - Tương đương hình thức (formal
gốc thành văn bản ở ngôn ngữ dịch trên ba
equivalence)
bình diện chính là từ vựng-ngữ pháp, ngữ
Yếu tố các đặc điểm hình thức - thẩm mỹ nghĩa và ngữ dụng. Nói nôm na là chuyển dịch
của văn bản gốc dẫn tới loại tương đương hình phần câu chữ, phần nội dung và phần tác động
thức (formal equivalence). Các đặc điểm này của văn bản lên người đọc. Nhưng do một mục
bao gồm sự chơi chữ, các khía cạnh ngoài ngôn
đích đặc biệt nào đó ngưòi dịch phải ưu tiên
ngữ, các đặc điểm phong cách cá nhân của
chuyển dịch một trong ba bình diện trên của
người viết. Người dịch phải tạo ra "sự tương tự
văn bản so với các bình diện còn lại thì sẽ có
về hình thức" trong bản dịch qua việc khai thác
các kiểu dịch đặc biệt. Dịch bài hát và dịch thơ
các khả năng sẵn có của ngôn ngữ hoặc sáng
được xếp vào loại hình dịch thông thường +
tạo ra hình thức mơí nếu cần thiết. Đây là loại
tương đương cần thiết lập đối với việc dịch các chuyển dịch âm vị học bộ phận là loại dịch bán
văn bản văn chương nghệ thuật mà ý nghĩa đặc biệt, tức là ngoài việc dịch bình thường
phần lớn được tạo bởi các yếu tố hình thức văn người dịch phải ưu tiên chuyển dịch văn bản
bản. Để tạo tương đương này các yếu tố từ theo các nguyên tắc âm vị học và ngữ âm học
vựng, ngữ pháp, cấu trúc và phong cách văn để đáp ứng được đòi hỏi của loại văn bản đặc
bản phải được sử dụng như thế nào đó để tạo ra thù này. Thơ có vần điệu, bài hát có giai điệu,
hiệu quả thẩm mỹ của văn bản gốc. Đây là loại hoặc cả hai yếu tố trên đều có thể thấy ở loại
tương đương được tạo bởi hình thức diễn đạt văn bản này. Khi viết thơ hoặc đặt lời cho bài
(form expression) khi cả ngôn ngữ gốc và ngôn hát tác giả phải tính tới yếu tố này, thậm chí
ngữ dịch cùng có các đặc điểm thẩm mĩ do còn bị chi phối ràng buộc chính bởi các nguyên
hình thức tạo ra - có thể là các đặc điểm chữ tắc do các yếu tố này đặt ra.
viết hoặc ngữ âm ở văn bản. Các khả năng Khi viết ca từ, tác giả bị chi phối rất nhiều
tương đương hình thức có nguồn gốc từ ngữ bởi các qui luật của âm vị học. Một qui luật
âm học như vần, điệu, thể thơ, tu từ học như quan trọng là mỗi âm tiết phải rơi vào ít nhất là
chơi chữ, ẩn dụ, hoán dụ, v.v... một nốt nhạc thì ca sĩ mới hát được. Do vậy ta
Tương đương hình thức là loại tương thấy trên bản nhạc mỗi tiếng trong tiếng Việt
đương quan trọng bậc nhất trong dịch thơ, lời được viết tương ứng dưới một nốt nhạc. Trong
bài hát, văn xuôi biểu cảm, v.v… vốn là các thể tiếng Anh từ đa âm tiết được viết tách ra để
loại văn bản mà hình thức diễn đạt quan trọng mỗi âm tiết cũng tương ứng với một nốt nhạc.
hơn nội dung diễn đạt. Phân tích kỹ về mặt lý Đôi khi vài âm tiết có thể chỉ tương ứng với
luận việc dịch ca từ cho bài hát ta sẽ thấy một nốt nhạc nhưng chỉ có một âm tiết được
nhiều điều thú vị và sẽ phần nào ‘minh oan’ nhấn mạnh và các âm tiết còn lại bị lướt đi khi
cho các dịch giả ca từ vốn hay bi qui kết là hát (về mặt kỹ thuật trường hợp này bị coi là
“phản” tác giả. lời khó hát). Ngoài ra tác giả lại còn bị chi phối
L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150 149
bởi các qui luật ngữ âm phức tạp hơn nữa là văn bản như một chỉnh thể hay từng trích đoạn
đặc điểm của âm cuối mỗi âm tiết: âm tiết kết của văn bản, người dịch phải thiết lập một
thúc bằng phụ âm tắc (âm tiết đóng) không thể thang độ các giá trị ưu tiên giữ gìn trong quá
phát âm kéo dài được trong khi âm tiết kết thúc trình dịch, từ đó lập ra một thang độ các yêu
bằng nguyên âm (âm tiết mở) có thể phát âm cầu về tương đương cho trích đoạn văn bản và
kéo dài gần như tuỳ ý. Âm tiết kết thúc bằng toàn bộ văn bản đó.
âm vang mũi (như /n/, / /) có thể phát âm kéo Tương đương dịch thuật vẫn đang con là
dài và tạo âm hưởng ngân vang. Nhạc sỹ và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, những quan
nhà thơ thường căn cứ vào các qui luật này để niệm về tương đương dịch thuật phản ánh quan
chọn từ cho thơ và bài hát để tạo các hiệu quả niệm về bản chất dịch thuật. Nhiều vấn đề liên
cần thiết. Ví dụ ở những chỗ cần ngân dài ca từ quan đến tương đương dịch thuật vẫn đang cũn
không thể kết thúc bằng âm tiết đóng mà phải đẻ ngỏ mà câu trả lời vẫn phải phụ thuộc vào
là âm tiết mở hoặc âm tiết có âm vang mũi. những thành tựu mới trong nghiên cứu ngôn
Ngoài ra qui luật về thanh điệu, âm vực cũng ngữ học và các khoa học liên quan.
chi phối đáng kể việc chọn từ của nhà thơ và
nhạc sỹ khi sáng tác. Dịch giả, tác giả thứ hai
của văn bản, cũng bị chi phối bởi các nguyên Tài liệu tham khảo
tắc đã ràng buộc tác giả nguyên bản. Thậm chí
dịch giả còn bị ràng buộc chặt chẽ hơn nhiều so [1] J. Munday, Introducing translation studies- theories and
applications, Routledge, London, 2001.
với tác giả vì dịch giả phải diễn đạt lại ý của
[2] T.H. Savory, The Art of Translation, Cape, London,
tác giả chứ không phải ý riêng của mình. Tác 1968.
giả khi không chọn được từ đáp ứng được đòi [3] J.C. Catford, A linguistic theory of translation, OUP.
hỏi của qui luật ngữ âm thì có thể đổi ý để chọn 1967.
được từ thích hợp còn dịch giả thì không được [4] J.C. Catford, “Translation: overview” In The
làm như vậy (vì nếu đổi ý nghĩa, dịch giả sẽ bị encyclopedia of language and linguistics. Asher, R.E.
qui là “phản bội” tác giả). Ví dụ dịch lời bài (ed). Pergamon Press, 1994.
hát “Love story” - Câu chuyện tình yêu: [5] Nida &Taber, The theorry and practice of translation,
Leiden, (1968/1982).
Where/ do / I / be- / gin?/ To/ tell / a
[6] W. WILSS, The Science of Translation, Problems and
sto/-ry /of /how/great /a love/ can/be?
Methods, Tübingen, Narr, 1982.
Câu / chuyện/ tình/ năm/ xưa,/ từ / thời/ [7] Barkhudarop, Ngôn ngữ và dịch. Matxcova, (Bản dịch
xa /xưa/ nay/ đã / trở / về /trong /tôi. tiếng Việt của Viện Thông tin Khoa học Xã hội, 1979),
The / love/ sto- / ry / that- is/ ol- /der / 1975.
than/ the /sea. [8] P. Newmark, A textbook of translation, Prentice Hall
International, 1988.
Dòng/ thời/ gian/ trôi/ như / áng/ mây/
[9] W. Koller, Equivalence in translation theory,
buồn/ chơi/ vơi. Heidenberg: Quelle Und Meyer, 1990.
Koller (1990) cũng chỉ ra rằng dịch thuật [10] M. Baker, In other words, A coursebook on translation,
không thể bảo đảm giữ gìn được tất cả các giá Routledge- London, 1992.
trị của văn bản gốc mà đây là quá trình ưu tiên [11] L. Venuti, The Translation Studies Reader, Routledge-
một sự lựa chọn nào đó. Căn cứ vào toàn bộ London, 2001.
150 L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150
Le Hung Tien
Department of Post-Gradute Studies, College of Foreign Languages,
Vietnam National University, Hanoi, Pham Van Dong Street, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Translation equivalence has always been the central issue for discussion since translation came
into being. The article reviews some major theories relating to translation equivalence (Savory,
Catford, Koller, Snell - Hornby, Venuti etc.) and investigates how translation equivalence is
established in English -Vietnamese translation. The investiation shows that the general equivalence
categories can be applicable to the translation between English and Vietnamese, however a complete
equivalence between the original and the translation is impossible and the success of translation
depends much on the translator’s priority in the choice of equivalence type to be established.