Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng - Bài số 1
Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng - Bài số 1
How much responsibility a child should take and whether modern children are less interested in performing their duties and
obligations is debatableI personally believe that the way children take responsibilities has changed over the time, mostly as a
positive change. with the change of the family structure and social norm, people these days want their children to excel in
education and other creative fields rather than taking care of the family. Joint family predominated the society and parents had
more children in the past. With the rise of the nuclear family and one-to-two-child-family policy, parents totally focus on a
child's education, unlike the past. In my opinion, blaming children for not taking responsibilities is an impartial judgement as
modern children have far more pressure from schools and parents. They are not expected to earn money or do house hold
works in a well-to-do family. With the increasing literacy rates, less discrimination in a family, women empowerment and
better lifestyle, the trend has more positive outcomes, without a doubt.
đoạn 2 - Mẫu 1
Trong “Thi nhân Viê ̣t Nam”, nhà phê biǹ h văn ho ̣c Hoài Thanh từng khẳ ng đinh: ̣ “Thơ Xuân
Diê ̣u là mô ̣t nguồ n số ng da ̣t dào chưa từng có ở chỗ nước non lă ̣ng lẽ này”. Nhắ c tới Xuân
Diê ̣u, ta không thể không nhắ c tới mô ̣t bài thơ in đâ ̣m dấ u ấ n, phong cách của ông - Vô ̣i vàng.
Đươ ̣c rút ta từ tâ ̣p “Thơ thơ”, “Vô ̣i vàng” là nỗi ám ảnh thời gian và lòng ham yêu, khát số ng
đế n cuố ng quýt của Xuân Diê ̣u. Nế u phầ n đầ u tiên của bài thơ là ước muố n táo ba ̣o cùng vẻ
đe ̣p đô ̣c đáo của mùa xuân thì sang phầ n thơ thứ hai, nhà thơ giải thích lí do phải số ng vô ̣i
vàng.
Ta ̣i sao Xuân Diê ̣u la ̣i vô ̣i vàng tiế c nuố i mùa xuân ngay khi xuân còn đang thắ m. Có lẽ vì thi
si ̃ có quan niê ̣m rấ t mới về thời gian:
Xuân đương tới nghiã là xuân đương qua
Xuân còn non nghiã là xuân sẽ già
Mà xuân hế t nghiã là tôi cũng mấ t
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.
Nế u người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi ho ̣ quan niê ̣m thời
gian là tuầ n hoàn thì Xuân Diê ̣u la ̣i quan niê ̣m thời gian, mùa xuân, tuổi trẻ mô ̣t đi không trở
la ̣i. Thế nên Xuân Diê ̣u luôn hố t hoảng lo âu khi thời gian trôi mau. Thi si ̃ không chỉ tiế c mùa,
tháng, ngày mà tiế c từng khoảng khắ c, từng phút giây. Ở mô ̣t bài thơ khác, nhà thơ cũng từng
nói:
Tôi từ phút ấ y trôi qua phút này
Điề u thi si ̃ sơ ̣ là tuổ i trẻ qua đi, tuổ i già mau tới bới thời gian như mô ̣t dòng chảy mà mỗi mô ̣t
khoảnh khắ c trôi qua là mấ t đi viñ h viễn. Cách sử du ̣ng că ̣p từ đố i lâ ̣p “tới - qua”, “non - già”
đã cho thấ y sự cảm nhâ ̣n tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian. Cùng với hàng loa ̣t
câu thơ văn xuôi theo lố i đinh ̣ nghiã cùng sự lă ̣p la ̣i liên tiế p điê ̣p ngữ “nghiã là”, Xuân Diê ̣u
đã khẳ ng đinh ̣ chắ c nich ̣ mô ̣t sự thâ ̣t hiể n nhiên không gì phủ nhâ ̣n: Dù xuân đương tới, xuân
còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hế t và tuổ i trẻ cũng mấ t. Đố i diê ̣n với sự thâ ̣t hiể n nhiên
mà phũ phàng ấ y, Xuân Diê ̣u không khỏi hoảng thố t. Liên tiế p các dấ u phẩ y đươc̣ huy đô ̣ng
ta ̣o nên điê ̣u thơ ngâ ̣m ngùi, nghe ̣n ngào.
Để tăng sức thuyế t phu ̣c mo ̣i người tin vào chân lí: mùa xuân tuổ i trẻ là tuyế n tiń h, Xuân Diê ̣u
đã chủ đô ̣ng đố i thoa ̣i, tranh luâ ̣n bác bỏ ý nghi ̃ cố hữu của mo ̣i người là mùa xuân vẫn tuầ n
hoàn:
Nói làm chi rằ ng xuân vẫn tuầ n hoàn
Nế u tuổ i trẻ chẳ ng hai lầ n thắ m lại
Với Xuân Diê ̣u, tuổ i trẻ không thắ m la ̣i nên cũng không thể nói mùa xuân là tuầ n hoàn. Thế là
Xuân Diê ̣u tiế c mùa xuân mà thực chấ t là tiế c tuổ i trẻ. Và đó là nguyên cớ xâu xa khiế n thi si ̃
vô ̣i vàng mô ̣t nửa khi xuân mới bắ t đầ u:
Còn trời đấ t nhưng chẳ ng còn tôi mãi
Nên bâng khuân tôi tiế c cả đấ t trời
Đúng vâ ̣y, giữa cái mênh mông của vũ tru ̣, vô cùng, vô tâ ̣n của thời gian, tuổ i trẻ, sự số ng của
con người bỗng trở nên quá ngắ n ngủi, mong manh chỉ như bóng câu qua cửa sổ , như cái chớp
mà thôi. Suy ngẫm về điề u đó, day dứt về điề u đó, Xuân Diê ̣u đã đem đế n mô ̣t nỗi ngâ ̣m ngùi
mà mới mẻ trong thơ ca Viê ̣t.
“Với quan niê ̣m mô ̣t đi không trở la ̣i và bằ ng tâm hồ n rấ t đỗi nha ̣y cảm tới mức có thể nghe
thấ u cả sự mơ hồ” (Thế Lữ), Xuân Diê ̣u cảm nhâ ̣n thấ m thiá sự phôi pha, phai tàn đang âm
thầ m diễn ra trong lòng vũ tru ̣ trên cả hai tru ̣c không gian và thời gian.
Mùi tháng năm đề u rớm vi ̣ chia phôi
Khắ p núi sông vẫn than thầ m tiễn biê ̣t
Con gió xinh thì thào trong lá biế c
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiế ng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắ p sửa.
Thời gian thì rớm vi ̣ chia phôi, khắ p không gian đâu đâu cũng vo ̣ng lên khúc chia li, lời than
thầ m tiễn biê ̣t. Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh vui tươi, số ng đô ̣ng của thiên
nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nha ̣c chào xuân rô ̣n
ràng bỗng ngừng bă ̣t, chẳ ng có mố i nguy hiể m hiể m nào cả, mà vì chúng sơ ̣ đô ̣ tàn phai, héo
úa. Vâ ̣y là va ̣n vâ ̣t không thể cưỡng la ̣i quy luâ ̣t tàn phai nghiê ̣t ngã của ta ̣o hóa. Chiụ ảnh
hưởng sâu sắ c thuyế t tương giao trong tươ ̣ng trưng Phá, Xuân Diê ̣u chẳ ng những đã đem đế n
những cảm nhâ ̣n tinh tế rấ t mới, rấ t Tây, rấ t hiê ̣n đa ̣i về thời gian:
Mùi tháng năm đề u rớm vi ̣ chia phôi.
Thời gian vố n vô hình, vô ảnh, không mùi, không vi,̣ đi vào thơ Xuân Diê ̣u bỗng có mùi, có vi ̣
chia phôi. Thơ trung đa ̣i, kể cả thơ mới cũng hiế m có câu thơ nào có cách cảm nhâ ̣n như vâ ̣y.
Khép la ̣i phầ n thơ thứ nhấ t - phầ n lí giải vì sao phải số ng vô ̣i vàng là dòng thơ tràn ngâ ̣p cảm
xúc:
Chẳ ng bao giờ, ôi! Chẳ ng bao giờ nữa…
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiề u hôm
Đế n đây thi si ̃ đã vỡ lẽ chẳ ng bao giờ có thể tắ t nắ ng buô ̣c gió, niú giữ maĩ tuổ i trẻ mùa xuân
ở la ̣i. Khát vo ̣ng cháy bỏng, ước muố n táo ba ̣o đã tan thành mấ y khói. chỉ còn la ̣i nỗi bàng
hoàng, thảng thố t còn in dấ u trong dấ u chấ m cảm giữa dòng thơ và dấ u chấ m lửng cuố i dòng
thơ. Không thể buô ̣c gió, chẳ ng thể tắ t nắ ng để níu giữ maĩ hương sắ c mùa xuân, Xuân Diê ̣u
đã hố i thúc miǹ h và mo ̣i người hãy số ng vô ̣i vàng, hãy cha ̣y đua cùng thời gian: “Mau đi thôi!
Mùa chưa ngả chiề u hôm.” Lời giu ̣c giã hố i thúc mang sắ c điê ̣u ma ̣nh me,̃ quyế t liê ̣t bởi kiể u
câu cầ u khiế n có sử du ̣ng dấ u chấ m cảm giữa dòng. Có thể nói câu thơ “Mau đi thôi! Mùa chưa
ngả chiề u hôm” rất điể n hiǹ h, tiêu biểu cho hồ n thơ vô ̣i vàng cuố ng quýt của Xuân Diê ̣u trước
cách ma ̣ng tháng 8. Không chỉ ở “Vô ̣i vàng”, Xuân Diê ̣u luôn hố i thúc giu ̣c giã mo ̣i người cầ n
số ng mau, số ng vô ̣i:
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi
- Gấ p đi em, anh rấ t sợ ngày mai
Đời trôi chảy lòng ta không viñ h viễn
- Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ
Em, em ơi tình non sắ p già rồ i!
“Mùa chưa ngả chiề u hôm” là mô ̣t cách kế t hơ ̣p từ mới la ̣, thú vi.̣ Xuân Diê ̣u đã dùng từ chỉ
thời gian cuố i ngày để chỉ thời điể m cuố i mùa. “Mùa chưa ngả chiề u hôm” là mùa chưa tàn,
chưa úa, vì thế hãy vô ̣i vàng mau chóng tâ ̣n hưởng hương sắ c của nó.
Có thể thấ y, Xuân Diê ̣u có cách cảm nhâ ̣n về thời gian khác la ̣ như vâ ̣y là nhờ vào “sự ý thức
sâu xa về sự số ng của cá thể ”. Quan niê ̣m mới mẻ ấ y của Xuân Diê ̣u đã khiế n cho ta phải trâng
tro ̣ng từng phút giây của cuô ̣c đời, tâ ̣n hưởng mô ̣t cuô ̣c số ng tro ̣n ve ̣n và đầ y ý nghiã . Quan
đoa ̣n thơ, ta đã thấ y đươc̣ niề m khát khao số ng mañ h liê ̣t, cháy bỏng của ông Hoàng thơ tiǹ h
Viê ̣t nam. Từ đó, chúng ta thêm trân tro ̣ng quan niê ̣m nhân sinh, tić h cực, tiế n bô ̣. Cũng như
giáo sư Nguyễn Đăng Ma ̣nh từng nói: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống
đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ
chưa thấy trong thơ ca truyền thống
Mở đầu bải thơ là một câu hỏi tu từ ẩn chứa nhiều ý nghĩa, đã tốn không ít giấy mực của các nhà các phê
bình văn học:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”
Có ý kiến cho rằng, nhà thơ Hàn Mặc Tử khi đang nằm điều trị căn bệnh nan y, người con gái tên Hoàng
Thị Kim Cúc mà ông thầm thương trộm nhớ đã gửi cho nhà thơ một tấm bưu ảnh với vài lời thăm hỏi trong
đó có hỏi nhà thơ sao bấy lâu không về thăm thôn Vĩ. Nếu hiểu theo hoàn cảnh này, có lẽ nhà thơ đã mượn
lời hỏi thăm ấy để mở đầu cho bài thơ của mình. Câu hỏi tu từ đầu tiên thể hiện một sự trách móc nhẹ nhàng
của người con gái. Cũng có thể do nhà thơ tự phân thân hoặc tự vấn bản thân mình đã bấy lâu rồi không về
thăm mảnh đất ấy với một niềm mong ước một lần được quay trở lại nơi đây.
Trong khổ thơ đầu, bài thơ cũng đã mang người đọc đến với một quê hương thôn Vĩ đẹp đẽ, thơ mộng:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Những hình ảnh thân thuộc bình dị và đặc trưng của thôn Vĩ như “hàng cau”, “vườn ai” đã được nhà thơ
khéo léo tái hiện trong ba câu thơ. Trước mắt người đọc hiện lên là hình ảnh của những hàng cau tăm tắp
vươn lên trước “nắng mới”, với khu vườn đã “mướt” lại “ xanh như ngọc”. Với cách sử dụng ngôn ngữ tài
tình trong hai từ “ nắng mới”, “mướt” , câu thơ thể hiện một khung cảnh thật tươi đẹp và đầy sức sống. Biện
pháp tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng khéo léo trong câu thơ thứ ba “xanh như ngọc” cho thấy thôn Vĩ
không chỉ hữu tình, nên thơ mà còn rất trù phú. Cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ thì tuyệt vời đến thế, còn
con người thì rất thật thà và đôn hậu qua hình ảnh “lá trúc” với “mặt chữ điền”. Chỉ hai hình ảnh ấy thôi
cũng đủ để người đọc cảm nhận được điểu đó bởi người xưa thường ví cây trúc với người quân tử, còn gương
mặt chữ điền thường là những người có tấm lòng nhân hậu. Không chỉ khắc họa hình ảnh tươi đẹp, con
người đáng yêu của thôn Vĩ, bài thơ còn cho người đọc nhận thấy được sự ngợi ca, lòng yêu mếm của tác
giả đối với con người và cảnh vật vùng đất yên bình đó.
Nếu như khổ thơ đầu mang đến một hình ảnh tươi vui, đẹp đẽ thì ở khổ thơ thứ hai lại mang ta đến với những
hình ảnh chia lìa, một nỗi buồn trống trải chất chứa của nhà thơ:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"
Người ta thường nói “gió thổi, mây bay” bởi gió và mây thường đi liền với nhau, gắn bó, hòa quện với nhau.
Tuy nhiên trong câu thơ trên thì gió đi một lối, mây đi một đường. Kết hợp với nhịp thơ rứt khoát 4-3, câu
thơ thể hiện một sư chia lìa, xa cách. Nhà thơ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa tài tình trong câu thơ tiếp
theo với hình ảnh “dòng nước buồn thiu” kết hợp với hình ảnh “hoa bắp lay”. Điều đó dường như hé lộ một
nỗi buồn mang mác của người thi sĩ lúc này bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Càng đọc những câu thơ tiếp, người đọc càng dần thấy được một Hàn Mặc Tử cô đơn, u sầu và hướng nội:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Trong thơ ca xưa nay, người ta thường thấy hình ảnh của trăng được rất nhiều thi nhân đưa vào trang viết
của mình. Nếu nhà thơ Lý Bạch có “Ngẩng đầu ngắm trăng sang – Cúi đầu nhớ cố hương”, Bác Hồ có “trăng
vào cửa sổ đòi thơ” thì Hàn Mặc Tử cũng góp vào nguồn cảm hứng vô tận ấy hình ấy một “bến sông trăng”
và con thuyền “chở trăng”. Có lẽ hình ảnh ẩn dụ “sông trăng” và thuyền “chở trăng” là hai hình ảnh cực kỳ
đắt giá và mang nhiều ý nghĩa nhất trong khổ thơ này. “Trăng” ở đây có thể hiểu như một người bạn tri kỷ
mà lúc cô đơn này nhà thơ rất cần để giãi bày tâm sự. Nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác và kết hợp với nội
dung khổ thơ đầu, người đọc cũng có thể hiểu rằng trăng chính là nhà thơ. Bởi lẽ ở khổ thơ đầu hình ảnh
thôn Vĩ và con người đáng yêu đến thế thì hình ảnh thuyền “chở trăng về” chính là hình ảnh ẩn dụ một mong
ước của thi nhân được trở về mảnh đất ấy. Hai từ “thuyền ai” cùng câu hỏi tu từ cuối khổ thơ dù thể hiện nỗi
niềm đau đáu nhớ về thôn Vỹ, mong muốn về thăm nhưng dường như lại chất chứa cả một nỗi khác khoải,
cô đơn của nhà thơ khi biết mình đang mang bệnh khó có thể trờ về.
Sau những hình ảnh buồn man mác và sự cô đơn trong nỗi lòng người thi sĩ thì bài thơ lại tiếp tục đưa ta đến
với một cõi mộng ảo, hư hư thực thực với một sự chới với, vô vọng trong trái tim tác giả:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Aó em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Với điệp từ “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần, câu thơ thể hiện một sự xa cách vô cùng. Vậy vị
‘khách đường xa” ấy là ai? Có thể đó chính là nhà thơ – một vị khách đường xa muốn trờ về thăm xứ Huế.
Khổ thơ không chỉ có vị khách mà còn có hình ảnh người em áo trắng. Trong một số tài liệu có viết rằng bà
Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho ông một tấm bưu ảnh phong cảnh đẹp đẽ, một số tài liệu lại cho rằng đó là bức
hình của bà mặc một chiếc áo dài. Và dù theo tài liệu nào thì người ta cũng vẫn ngầm hiểu rằng hình ảnh cô
gái áo trắng trong bài thơ chính là Hoàng Cúc – người mà thi sĩ thầm thương bấy lâu. Hình ảnh “trắng” “
nhìn không ra” cùng “sương khói mờ nhân ảnh” đã đưa độc giả đến một cõi xa xôi nào đó, mờ mờ ảo ảo.
Dường như niềm thương, nỗi nhớ và mong ước trở về thăm lại người xưa trốn cũ của nhà thơ với con thuyền
chở trăng khó kịp nên ông đã vào tận trong cõi mơ để tìm kiếm. Nhưng có lẽ cuộc tìm kiếm ấy vẫn chới với,
vô vọng khi thi sĩ thốt lên “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Lại một lần nữa nhà thơ tự hỏi lòng mình – một câu
hỏi không biết có lời giải đáp ấy lại càng cho thấy rõ sự khắc khoải vô cùng của nhà thơ. Nếu khổ thơ đầu
có “vườn ai”, khổ thơ thứ có “thuyền ai” thì khổ thơ thứ ba lại có “tình ai” nằm trong những câu hỏi tu từ ở
mỗi khổ đều có sức truyền cảm lớn đến trái tim của người đọc và thể hiện tài năng sử dụng ngôn từ tài tình
bậc thầy với lời ít nhưng ý nhiều của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Gấp lại trang thơ, hình ảnh miền quê tươi đẹp, trù phú và con người xứ Huế cùng tình yêu của nhà thơ với
mảnh đất yên bình thôn Vĩ vẫn khắc sâu trong tâm trí độc giả. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ tài tình và các
biện pháp tu từ một cách khéo léo, bài thơ cũng mang cho người đọc một sự thấu hiểu về sự cô đơn khắc
khoải và mong ước trở về với mảnh đất đẹp đẽ cũng như mong ước trở về với cuộc sống đời thường của nhà
thơ Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” sẽ mãi ghi dấu ấn trong trái tim bạn đọc, đóng góp một tác phẩm xuất
sắc cho nền thi ca nước nhà.