0% found this document useful (0 votes)
51 views177 pages

Tailieuxanh Luan An Nguyen Thi Tuyet 2917

Luận án
Copyright
© © All Rights Reserved
We take content rights seriously. If you suspect this is your content, claim it here.
Available Formats
Download as PDF, TXT or read online on Scribd
0% found this document useful (0 votes)
51 views177 pages

Tailieuxanh Luan An Nguyen Thi Tuyet 2917

Luận án
Copyright
© © All Rights Reserved
We take content rights seriously. If you suspect this is your content, claim it here.
Available Formats
Download as PDF, TXT or read online on Scribd
You are on page 1/ 177

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ TUYẾT

THƠ DU TIÊN ĐỜI ĐƢỜNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ TUYẾT

THƠ DU TIÊN ĐỜI ĐƢỜNG


Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài
Mã số: 62.22.02.45

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN LÊ BẢO

HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Tư liệu
trong Luận án là trung thực và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Các kết quả
nghiên cứu của Luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình
khoa học nào khác.
Hà Nội, tháng 7 năm 2017
Tác giả Luận án

Nguyễn Thị Tuyết


LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đến
nay tôi đã hoàn thành Luận án với đề tài nghiên cứu Thơ du tiên đời Đường.
Tôi xin chân thành gửi tới PGS.TS Trần Lê Bảo, người thầy đã trực tiếp hướng
dẫn khoa học, giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành bản Luận án này lòng kính trọng và
biết ơn sâu sắc.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Văn học nước
ngoài, khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giúp đỡ
và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn
thiện Luận án.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, ủng hộ của Tập thể lãnh đạo và
cán bộ, giảng viên khoa Khoa học Xã hội, trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa đã
tạo mọi điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những người thân trong gia đình và bạn
bè thân thiết đã dành cho tôi những chia sẻ, động viên, ủng hộ cả tinh thần và vật chất
giúp tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án này.
Do một số hạn chế nhất định, bản Luận án chắc chắn vẫn còn những thiếu sót.
Tác giả Luận án rất mong nhận được những ý kiến đóng góp để tiếp tục hoàn thiện,
nâng cao chất lượng vấn đề được lựa chọn nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội tháng 7 năm 2017
Tác giả Luận án

Nguyễn Thị Tuyết


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU Trang
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Đóng góp mới của luận án 3
6. Cấu trúc của luận án 4
7. Quy ước trong luận án 4
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 5
1.1. Nghiên cứu thơ du tiên đời Đƣờng ở Trung Quốc 5
1.1.1. Về tuyển thơ 5
1.1.2. Về nghiên cứu phê bình nội dung và nghệ thuật 6
1.1.3. Về các tác giả tiêu biểu 14
1.2. Nghiên cứu thơ du tiên đời Đƣờng ở Việt Nam 23
1.2.1. Về tuyển thơ 23
1.2.2. Về nghiên cứu phê bình nội dung và nghệ thuật 24
1.2.3. Về các tác giả tiêu biểu 26
Tiểu kết chƣơng 1 28
CHƢƠNG 2. THƠ DU TIÊN ĐỜI ĐƢỜNG NHÌN TỪ CỘI NGUỒN 30
VĂN HÓA TRUNG HOA
2.1. Giới thuyết khái niệm thơ du tiên 30
2.2. Cội nguồn văn hóa của thơ du tiên đời Đƣờng 33
2.2.1. Tín ngưỡng dân gian và cơ sở lịch sử xã hội 33
2.2.2. Cội nguồn triết học 35
2.2.3. Cội nguồn tôn giáo 37
2.2.4. Cội nguồn thần thoại, tiên thoại 40
2.3. Sự ra đời và phát triển của thơ du tiên 41
2.3.1. Tiến trình thơ du tiên trước đời Đường 41
2.3.1.1. Thơ du tiên thời tiên Tần: khơi nguồn dòng chảy 41
2.3.1.2. Thơ du tiên thời Tần Hán: định hình diện mạo 42
2.3.1.3. Thơ du tiên thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều: phát triển mạnh mẽ 44
2.3.2. Thơ du tiên đời Đường - hiện tượng nổi bật trong lịch trình thơ du tiên 51
2.3.2.1. Khái quát diện mạo 52
2.3.2.2. Các giai đoạn phát triển 53
2.3.3. Thơ du tiên từ đời Tống đến đời Thanh: dần dần suy thoái 56
Tiểu kết chƣơng 2 58
CHƢƠNG 3. ĐẶC TRƢNG THẨM MĨ CỦA THƠ DU TIÊN ĐỜI 59
ĐƢỜNG
3.1. Tiên hóa cảnh vật và con ngƣời trần thế 59
3.1.1. Cơ sở hình thành đặc trưng tiên hóa 60
3.1.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị 60
3.1.1.2. Sự phát triển của Đạo giáo và quan niệm địa tiên 60
3.1.2. Phương thức sáng tạo chủ yếu: lấy đại làm mĩ 62
3.1.3. Những hình tượng “đại mĩ” tiêu biểu 63
3.1.3.1. Núi rừng 63
3.1.3.2. Đạo sĩ, ẩn sĩ 68
3.1.3.3. Chủ thể thi nhân 73
3. 2. Diễm tình hóa 76
3.2.1. Cơ sở hình thành đặc trưng diễm tình hóa 77
3.2.1.1. Sự bùng nổ của phong trào hưởng lạc và thuật phòng trung 77
3.2.1.2. Sự phát triển của đội ngũ nữ quan 77
3.2.1.3. Ảnh hưởng từ tiên thoại thời Lục Triều 78
3.2.2. Phương thức sáng tạo chủ yếu: lấy mộng làm mĩ 79
3.2.3. Biểu hiện diễm tình hóa trong thơ du tiên đời Đường 81
3.2.3.1. Giữa tiên nhân và tiên nhân 81
3.2.3.2. Giữa phàm nhân và phàm nhân 82
3.2.3.3. Giữa tiên nhân và phàm nhân 84
3.3. Thế tục hóa tiên cảnh, tiên nhân và giấc mộng cầu tiên của con 87
ngƣời
3.3.1. Cơ sở hình thành đặc trưng thế tục hóa 88
3.3.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị thời Trung, Vãn Đường 88
3.3.1.2. Nguyên nhân tư tưởng, tôn giáo 89
3.3.1.3. Sự lớn mạnh của tầng lớp thị dân và nhu cầu thế tục hóa đời sống 90
văn học
3.3.2. Phương thức sáng tạo chủ yếu: tự sự kết hợp trữ tình 92
3.3.3. Biểu hiện thế tục hóa trong thơ du tiên đời Đường 95
3.3.3.1. Tục hóa tiên cảnh 95
3.3.3.2. Phàm hóa tiên nhân 98
3.3.3.3. Phê phán con người học đạo cầu tiên 103
Tiểu kết chƣơng 3 109
CHƢƠNG 4. ÂM HƢỞNG CỦA THƠ DU TIÊN ĐỜI ĐƢỜNG 110
TRONG THƠ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900-1945
4.1. Giới thuyết 110
4.1.1. “Hồn cũ thịnh Đường muôn nẻo sáng” 110
4.1.2. Thử “dò cho đến ngọn nguồn lạch sông” 111
4.2. Tƣ thế trữ tình và đề tài du tiên 116
4.2.1. Ý thức về thân phận trích tiên 116
4.2.2. Hành trình du tiên về với cội nguồn 117
4.2.3. Dòng riêng giữa nguồn chung 120
4.2.3.1. Phương tiện du tiên 120
4.2.3.2. Mục đích du tiên 122
4.2.3.3. Xu hướng thế tục hóa 125
4.3. Từ ngữ, hình ảnh tƣợng trƣng ƣớc lệ 129
4.3.1. Hạc vàng 130
4.3.2. Nguồn đào 131
4.3.3. Sáo tiên 132
4.3.4. Suối tiên 133
4.4. Điển tích điển cố 135
4.4.1. Những điển tích điển cố gắn liền với địa danh 136
4.4.2. Những điển tích điển cố gắn liền với nhân vật 137
4.5. Cấu tứ bài thơ dựa trên các mối quan hệ 139
4.5.1. Quan hệ tiên - tục 140
4.5.2. Quan hệ thực - hư, còn - mất 143
4.5.3. Quan hệ động - tĩnh 145
Tiểu kết chƣơng 4 147
KẾT LUẬN 148
1. Những kết luận khoa học chủ yếu 148
2. Hướng nghiên cứu tiếp của đề tài 150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 162
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cùng với thơ biên tái, thơ vịnh sử, thơ khuê phụ, thơ điền viên..., mảng thơ du tiên đã
góp phần tạo nên diện mạo phong phú của Đường thi. Tuy nhiên, trong nguồn mạch bất
tận ấy, thơ du tiên vẫn chảy một dòng riêng không thể lẫn, bởi vẻ mông lung của tiên cảnh,
vẻ thoắt ẩn thoắt hiện của tiên nhân, vẻ thần kì bí ẩn của tiên thuật và quá trình diễm tình
hóa, thế tục hóa diễn ra mạnh mẽ vào thời Trung, Vãn Đường. Nếu những dòng thơ khác
như thơ sơn thuỷ, thơ biên tái... đã được nhiều người khai thác sâu thì thơ du tiên vẫn
chưa hoàn toàn được quan tâm đúng mức. Ở Trung Quốc, trong tầm bao quát tư liệu của
chúng tôi, mãi đến những năm 80 của thế kỉ XX, thơ du tiên mới được nghiên cứu nhiều.
Còn ở Việt Nam, cho tới nay, vẫn chưa có công trình nào chuyên sâu tìm hiểu về thơ du
tiên đời Đường với tư cách là một đề tài lớn của thơ Trung Hoa nói chung và thơ Đường
nói riêng. Thơ du tiên đời Đường với những giá trị độc đáo mà cho đến nay vẫn chưa
được khảo cứu, đánh giá toàn diện, kĩ càng, tự bản thân nó đã rất xứng đáng trở thành đối
tượng nghiên cứu cho những ai tâm huyết với mảng thơ này.
1.2. Thơ Đường nói chung, thơ du tiên nói riêng từ lâu đã ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống
văn học Việt Nam. Từ thơ chữ Hán Việt Nam thời phong kiến đến thơ Nôm, Thơ mới sau
này cũng vẫn ít nhiều phảng phất hồn Đường thi. Có thể nói, thơ Đường thâm nhập rất sâu
đến mức gần như trở thành một yếu tố nội tại của văn hóa dân tộc qua nhiều thế hệ. Đi
vào một bộ phận của thơ Đường giúp chúng tôi hiểu thêm tinh hoa của một nền văn hoá
nước ngoài, đồng thời cũng góp phần khám phá tốt hơn mảng thơ mang âm hưởng du tiên
của Việt Nam, đặc biệt là giai đoạn 1900-1945, với những tên tuổi nổi bật như Tản Đà,
Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương... qua góc nhìn so sánh.
1.3. Trong chương trình giảng dạy đại học, thơ Đường chiếm một vị trí quan trọng. Thơ
Đường hay nhưng khó. Trong khi đó, tài liệu về thơ Đường ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa
đáp ứng đúng mức nhu cầu của người dạy, người học, của độc giả yêu thơ Đường. Vì vậy
nảy sinh yêu cầu về tư liệu tham khảo và những công trình nghiên cứu khoa học phục vụ
cho việc dạy và học thơ Đường. Hơn nữa, đa số học giả vẫn tuyển dịch, bình chú những
bài thơ thuộc đề tài quen thuộc như sơn thuỷ, điền viên, biên tái. Thực tế đó càng thôi thúc
chúng tôi hướng sự quan tâm đặc biệt tới mảng thơ du tiên, góp phần bổ sung một nét mới
vào việc nghiên cứu thơ Đường ở Việt Nam.
1.4. Dẫu biết đến với thơ Đường chỉ là “đem chuyện trăm năm giở lại bàn” nhưng ý
tưởng nghiên cứu thơ du tiên đời Đường đã cuốn hút chúng tôi ngay từ khi còn là sinh
2

viên năm thứ hai đại học. Những kết luận của chúng tôi trong báo cáo khoa học trước
đây quả thực chưa đủ sức bao quát hết cái hay, cái mới của thơ du tiên đời Đường. Vì
vậy, thực hiện đề tài này với chúng tôi còn có ý nghĩa tiếp nối quan trọng, để khẳng
định một tình yêu không đứt đoạn với thơ Đường và để phát triển thêm những ý tưởng
khoa học đã ấp ủ từ lâu.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Luận án tập trung khám phá thơ du tiên đời Đường từ cội nguồn văn hóa Trung Hoa,
xem tín ngưỡng dân gian và đặc điểm lịch sử, xã hội, cội nguồn triết học, tôn giáo, thần
thoại, tiên thoại là cơ sở của sự ra đời thơ du tiên. Ra đời từ cội nguồn ấy, thêm với bối
cảnh riêng của thời đại, thơ du tiên đời Đường trở thành một hiện tượng nổi bật trong
dòng chảy thơ du tiên Trung Quốc và là sản phẩm độc đáo của văn hóa Trung Hoa.
2.2. Tìm hiểu những đặc trưng thẩm mĩ cơ bản của thơ du tiên đời Đường như tiên hóa,
diễm tình hóa, thế tục hóa, những phương thức sáng tạo chủ yếu như lấy đại làm mĩ, lấy
mộng làm mĩ, tự sự kết hợp trữ tình, chúng tôi nhằm khái quát nên một diện mạo riêng,
đầy sức sống của thơ du tiên đời Đường trong toàn cảnh Đường thi và trong dòng chảy
thơ du tiên Trung Quốc.
2.3. Nghiên cứu âm hưởng của thơ du tiên đời Đường trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-
1945, một lần nữa chúng tôi nhằm khẳng định sức lan tỏa, sức sống bất diệt của thơ du
tiên đời Đường và bản lĩnh của các thi nhân Việt Nam trong quá trình tiếp thu.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là thơ du tiên đời Đường. Chúng tôi tiến hành
khảo sát toàn bộ 223 bài thơ du tiên đời Đường, nhưng khi vận dụng để chứng minh cho
từng luận điểm, luận án hướng đến những tác phẩm chọn lọc, tiêu biểu nhất.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu tổng thể thơ du tiên đời Đường là
một việc làm đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Trong phạm vi luận án này, chúng tôi
chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
- Tìm hiểu cội nguồn văn hóa của thơ du tiên đời Đường, sự ra đời và phát triển
của thơ du tiên từ cội nguồn văn hóa ấy.
- Khám phá đặc trưng thẩm mĩ của thơ du tiên đời Đường.
- Âm hưởng của thơ du tiên đời Đường trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945.
3

* Phạm vi văn bản khảo sát: Phạm vi khảo sát của đề tài là toàn bộ các bài thơ
du tiên đời Đường in trong cuốn Toàn Đường thi, Trung Hoa thư cục, 1960. Ngoài ra
chúng tôi có tham khảo thêm cuốn Đường thi tuyển dịch, Lê Nguyễn Lưu dịch, Nxb
Thuận Hóa, Huế, 1997; Thơ Đường tập 1, Nam Trân giới thiệu và tuyển chọn, Nxb
Văn học, Hà Nội, 1987; Đường thi trích dịch, Đỗ Bằng Đoàn, Bùi Khánh Đản dịch,
Nxb Văn học, Hà Nội, 2006.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng ba cách tiếp cận: tiếp cận văn hóa, tiếp cận thi pháp học
và tiếp cận theo hướng nghiên cứu ảnh hưởng và tiếp nhận.
- Cách tiếp cận văn hóa: Chúng tôi tiến hành giải mã thơ du tiên đời Đường bắt đầu
từ mã văn hóa truyền thống Trung Hoa.
- Cách tiếp cận thi pháp học: Chúng tôi bắt đầu từ việc khám phá các phương thức,
phương tiện biểu hiện, các đặc trưng thẩm mĩ để thâm nhập hình tượng nghệ thuật, nắm
bắt nội dung tình cảm của bài thơ.
- Cách tiếp cận theo hướng nghiên cứu ảnh hưởng tiếp nhận: nhằm chứng minh thơ
du tiên đời Đường đã để lại âm hưởng trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945 trên
những phương diện nào.
Luận án cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: để làm sáng tỏ luận điểm và khái quát vấn đề.
- Phương pháp so sánh: nhằm chỉ ra những điểm giống và khác nhau giữa thơ du
tiên đời Đường và thơ Việt Nam mang âm hưởng du tiên giai đoạn 1900-1945.
- Phương pháp liên ngành, thao tác thống kê, phân loại để có những số liệu chính
xác nhằm tăng sức thuyết phục của luận điểm.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu tương đối có qui mô về thơ du
tiên đời Đường, đặt nó trong một trường so sánh rộng rãi, đa dạng để khám phá giá trị của
mảng thơ này dưới một cái nhìn có tính lịch sử và hệ thống.
5.2. Về mặt lí luận, luận án góp phần xác lập khái niệm thơ du tiên đời Đường. Qua phần
tìm hiểu âm hưởng của thơ du tiên đời Đường trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945,
luận án góp phần làm sáng tỏ giá trị của một hiện tượng văn học còn thể hiện ở khả năng
lan tỏa kì diệu sang các thời đại khác, dân tộc khác và thành tựu đột xuất của văn học dân
tộc một phần còn là do biết hấp thu những tinh hoa của văn học nước ngoài.
4

5.3. Về mặt văn học sử, luận án khám phá thơ du tiên đời Đường dưới góc nhìn văn hóa,
phát hiện ba nguyên tắc thẩm mĩ cơ bản của mảng thơ này là lấy đại làm mĩ, lấy mộng
làm mĩ, tự sự kết hợp trữ tình, gắn liền với ba đặc trưng tiêu biểu của thơ du tiên đời
Đường là tiên hóa, diễm tình hóa và thế tục hóa. Qua đó chúng tôi nhằm khẳng định vị trí
không thể thay thế của dòng thơ du tiên trong toàn cảnh thơ Đường. Luận án có thể làm
thành tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến thơ du tiên đời Đường.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung của
luận án được chúng tôi triển khai thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thơ du tiên đời Đường nhìn từ cội nguồn văn hóa Trung Hoa
Chương 3: Đặc trưng thẩm mĩ của thơ du tiên đời Đường
Chương 4: Âm hưởng của thơ du tiên đời Đường trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945
7. Quy ƣớc trong luận án
- Trích dẫn tài liệu tham khảo: Trong ngoặc vuông, đứng đầu là số thứ tự tài liệu
tham khảo trong thư mục tài liệu tham khảo của luận án, đứng sau là số trang được trích
dẫn. Ví dụ [4, 120].
- Trích dẫn thơ: Đối với những bài thơ đã được dịch và giới thiệu ở Việt Nam,
chúng tôi ghi tên người dịch. Đối với những bài chưa dịch sang tiếng Việt mà do tác giả
luận án thu thập và dịch sang tiếng Việt, chúng tôi ghi tạm dịch.
5

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Qua những tư liệu mà chúng tôi sưu tập được, có thể thấy rằng thơ du tiên đời
Đường đã được để ý và thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước. Chúng tôi tạm phân loại các ý kiến về thơ du tiên đời Đường theo hai mảng tư
liệu sau đây:
1.1. Nghiên cứu thơ du tiên đời Đƣờng ở Trung Quốc
1.1.1. Về tuyển thơ
Đời Đường là thời đại hoàng kim của thơ ca. Thơ du tiên đời Đường xét về số
lượng cũng như chất lượng đều vượt trội so với những thời đại trước. Việc nghiên cứu thơ
du tiên đã bắt đầu xuất hiện ngay từ thời Đường, thông qua hình thức tuyển thơ - phương
pháp nghiên cứu nguyên thủy nhất của Đường thi học. Theo thống kê của tác giả Kim Nội
Yên trong bài viết Tổng thuật những nghiên cứu về thơ du tiên của Tào Đường thì ngay từ
thời Vãn Đường, Trương Vị trong cuốn Thi nhân chủ khách đồ đã tuyển 5 bài thơ du tiên
của Lí Bạch và 8 bài của Tào Đường. Cuốn Hựu huyền tập của Vi Trang tuyển 8 bài của
Tào Đường. Đến thời Ngũ đại, Vi Cô trong cuốn Tài điệu tập tuyển 19 bài thơ du tiên của
Tào Đường. Thời Tống, tác giả Hồng Mại trong cuốn Vạn thủ Đường nhân tuyệt cú đặc
biệt coi trọng tuyệt cú Vãn Đường, tuyển cả 98 bài Tiểu du tiên thi của Tào Đường. Đời
Nguyên, Dương Sĩ Hoằng trong cuốn Đường âm - một trong những tuyển thơ đời Đường
nổi tiếng có tuyển 2 bài thơ du tiên của Tào Đường và 5 bài thơ du tiên của Lí Bạch. Cuốn
sách được coi là mẫu mực, xây dựng được hệ thống cơ sở lí luận hoàn chỉnh trong nghiên
cứu Đường thi đời Minh là Đường thi phẩm vựng của Cao Bỉnh cũng tuyển 10 bài thơ du
tiên của Tào Đường. Đời Thanh, Thẩm Đức Tiềm trong cuốn Đường thi biệt tài tập tuyển
20 bài thơ du tiên đời Đường. Đến thời cận, hiện đại, Văn Nhất Đa trong cuốn Đường thi
đại hệ - tuyển thơ Đường có quy mô lớn chọn 22 bài thơ của Tào Đường, tuyệt đại bộ
phận là thơ du tiên [dẫn theo 161, 8].
Thơ du tiên đời Đường không chỉ có mặt trong hầu khắp các cuốn tuyển thơ
Đường ở những triều đại khác nhau mà còn xuất hiện trong cả những tuyển thơ theo tiêu
chí cụ thể. Hoặc tuyển theo tác giả như Đường thi giám thưởng từ điển của Tiêu Điều Phi,
Trình Thiên Phàm (và các tác giả khác), có 25 bài thơ du tiên được chọn. Trong số 112 bài
thơ được tuyển bình trong cuốn Kim Thánh Thán phê bình thơ Đường cũng có 10 bài thơ
du tiên. Hoặc tuyển theo thể loại như cuốn Đường thi tam bách thủ do Hoành Đường
6

Thoái Sĩ tuyển chọn, Trần Uyển Tuấn bổ chú, tuyển 12 bài thơ du tiên. Cuốn Đường thi
tam bách thủ của Lưu Thủ Thuận tuyển 11 bài thơ du tiên.
Như vậy, ở từng triều đại, theo từng tiêu chí, trong những tuyển tập thơ Đường dù
lớn hay nhỏ, thơ du tiên đời Đường nhiều hay ít cũng đã được tuyển chọn. Điều đó chứng
tỏ các nhà nghiên cứu đã có sự quan tâm nhất định đối với mảng thơ này. Tuy nhiên, số
lượng thơ du tiên đời Đường được tuyển chọn ít hơn so với các loại khác như thơ sơn thủy,
điền viên, thơ tống biệt, thơ biên tái... Và thơ du tiên tuy chiếm vị trí quan trọng trong
toàn bộ Đường thi nhưng cho đến nay vẫn chưa có một tuyển tập nào dành riêng cho
mảng thơ này. Theo khảo sát của chúng tôi, trong cuốn Trung cổ tiên đạo thơ tinh hoa, tác
giả Chung Lai Ngân tuyển gần 400 bài thơ của 109 nhà thơ, nhưng chỉ dừng lại ở trước
đời Đường. Việc biên tuyển thơ du tiên chính là cơ sở hữu ích cho việc nghiên cứu nội
dung, nghệ thuật của mảng thơ này.
1.1.2. Về nghiên cứu phê bình nội dung và nghệ thuật
Trung Quốc đã có một bề dày nghiên cứu thơ Đường, khởi xướng ngay từ
thời Đường và kéo dài đến tận ngày nay. Trong đó có thể thấy một số ý kiến về
mảng thơ du tiên.
Trước thế kỉ XX, những lời bình về thơ du tiên chủ yếu được tiến hành cùng với
việc tuyển thơ hay viết lời tựa. Đỗ Mục đời Đường viết bài tựa cho tập Lí Trường Cát ca
thi có đoạn: “Cá kình hút nước, rùa lớn vẫy vùng, ma trâu thần rắn không đủ để nói lên cái
vẻ hoang lương quái đản mà kì ảo” [dẫn theo 13, 20]. Những lời lẽ sắc sảo này của Đỗ
Mục đã điểm “trúng huyệt” phong cách nghệ thuật thơ Lí Hạ, đặc biệt được thể hiện qua
những bài thơ viết về tiên giới và ma quỷ chốn âm ti. Phạm Truyền trong Lời tựa bài bia
mộ mới của ông Lí hàn lâm học sĩ tả thập di đời Đường viết về Lí Bạch như sau: “Ông
uống rượu không phải là lấy cái say sưa làm lạc thú, không phải lấy cái mê muội làm giàu
sang, làm thơ không phải ở chỗ văn chương, âm luật để ngân nga cho vui thích, theo thần
tiên không phải hâm mộ cái phù phiếm của nó, cầu xin những cái không thể cầu xin được”
[dẫn theo 3, 489]. Trương Vị thời Vãn Đường trong Thi nhân chủ khách đồ dựa vào
phong cách nghệ thuật phân những thi nhân nổi tiếng thời Trung, Vãn Đường thành 6 phái.
Trong mỗi phái lại dựa vào thành tựu nghệ thuật cao thấp của từng thi nhân mà phân
thành 5 cấp khác nhau. Tào Đường được liệt vào cấp thứ 3, phái khôi kì mĩ lệ [dẫn theo
161, 8]. Điều này không chỉ cho thấy rõ đặc sắc nghệ thuật thơ du tiên Tào Đường mà còn
cho thấy vị trí tương đối cao của ông trên thi đàn đời Đường. Đời Thanh, Kim Thánh
Thán phê bình thơ Đường cũng đã chọn một số bài thơ du tiên như Đề Tiên du quán (Hàn
7

Hoằng), Hán Vũ (Tiết Phùng), Thánh nữ từ, Trùng quá Thánh nữ từ (Lí Thương Ẩn),
Nhạc tiên quán (Nhược Hư)... Đặc biệt khi bình bài Hán Vũ - một bài thơ thể hiện ý thức
phản du tiên độc đáo, người đọc như bị lôi cuốn, đắm chìm trong cái đà nghị luận của tác
giả: “Vì không tiện chỉ trích Đường Minh Hoàng nên mượn Hán Vũ Đế mà nói. Tiền giải
tả việc Vũ Đế thờ tiên, hậu giải tả việc tiên đáp ứng vua Hán. Chờ đợi lâu ngày rồi Hán
Vũ Đế mệt mỏi, rồi Hán Vũ Đế băng hà, rồi Hán Vũ Đế nằm dưới sơn lăng, mà những
nàng tiên gọi là Giáng Tiết, Bích Đào cuối cùng vẫn mịt mờ chẳng thấy đâu cả. Thế rồi
mới hiểu rằng thạch mã, mạn thảo (ngựa đá, cỏ lan) chẳng phải là trạng thái thăng tiên vậy.
Than ôi! ngu xuẩn biết bao!” [70, 231]. Tuy nhiên, đây chỉ là những bình điểm thoáng qua
về một số bài thơ du tiên tiêu biểu, với tư cách đơn lẻ chứ không mang ý nghĩa khái quát
cho cả mảng thơ này.
Bước sang thế kỉ XX, lịch sử nghiên cứu thơ du tiên Trung Quốc bắt đầu có những
chuyển động mới, khởi sắc hơn nhờ cách tiếp cận khoa học. Bắt đầu xuất hiện những công
trình nghiên cứu mang tính quy mô, đi sâu vào một đề tài, một thể thơ, một tác giả hay
nhóm tác giả cùng một phong cách, thi phái. Năm 1949, Trình Thiên Phàm trong bài viết
Nghiên cứu thơ du tiên của Quách Phác và Tào Đường đã có những nhận định mới mẻ:
“Đại du tiên thi, Tiểu du tiên thi của Tào Đường xuất hiện hình ảnh quân, thần, triều đình,
phụ nữ, bạn bè, có ngựa xe, phục sức, ẩm thực, có bi hoan li hợp, sinh tử, yêu đương...
Tuy viết chuyện trên trời nhưng không khác gì ở nhân gian” [dẫn theo 161, 173]. Những
năm 50, tác giả Nhiệm Bán Đường trong danh tác Đường hí lộng lần đầu tiên bàn tới mối
quan hệ giữa Đại du tiên thi của Tào Đường và văn học thuyết xướng. Tác giả cho rằng:
“19 bài Đại du tiên thi của Tào Đường viết về 11 câu chuyện, mỗi chuyện ít thì 1 bài,
nhiều thì 5 bài, thi đề hoặc dài hoặc ngắn” [dẫn theo 161, 173]. Những năm 60, các tác giả
nghiên cứu trong cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc (Dư Quan Anh, Tiền Chung Thư,
Phạm Ninh chủ biên) cũng có những kiến giải sâu sắc về tư tưởng và mảng thơ du tiên của
Lí Bạch: “Việc ông uống rượu tìm tiên, ngao du sơn thủy không phải là ông thật sự say
đắm những chuyện đó để hòng được siêu thoát, chẳng qua là mượn cớ để rũ sạch những u
uất buồn giận mà thôi. Nguồn gốc của nỗi “u uất buồn giận” đó là: giai cấp thống trị lớp
trên đẩy ông ra khỏi đời sống chính trị làm cho ông không thể thực hiện lí tưởng chính trị
của mình, và chế độ phong kiến ràng buộc cá tính phóng túng và khát vọng tự do của ông.
Cái đó làm cho nhiều bài thơ của ông, đặc biệt là những bài có liên quan đến việc uống
rượu tìm tiên vẫn sáng ngời tư tưởng, vẫn mang lại cho chúng ta sự cổ vũ mạnh mẽ, mặc
dù ở đó nhân tố tiêu cực thường xen lẫn với nhân tố tích cực, nhưng tinh thần lãng mạn
8

tích cực thường bao trùm cả những nhân tố tiêu cực” [3, 490]. Các tác giả cũng đặc biệt
quan tâm tới những bài thơ thể hiện ý thức phản du tiên của Lí Thương Ẩn: “Một tư tưởng
tiến bộ khác biểu hiện trong thơ vịnh sử của Lí Thương Ẩn là châm biếm việc cầu thần
tiên hão huyền vô ích của bọn vua chúa và hành động ngu xuẩn không trọng người hiền
tài, quý nhân dân bằng quỷ thần của bọn này” [3, 626]. Hay khi bàn về thơ Lí Hạ, các tác
giả cũng có nhận định đúng đắn: “Trong thơ Lí Hạ cũng có phản ánh một số hiện tượng
xấu xa, thối nát của giai cấp thống trị. Như trong các bài Mãnh hổ hành, Vinh hoa lạc,
Khổ trú đoản đều có những chỗ vạch trần và châm biếm bọn đế vương quý tộc ham mê
tửu sắc, say đắm thần tiên cùng bọn quan lại địa phương tàn hại nhân dân” [3, 616].
Những ý kiến nêu trên có nhiều điểm lí thú, nhưng đều có tính chất gợi ý chứ chưa được
phân tích, chứng minh triệt để và cũng mới chỉ dừng lại ở những tác giả cụ thể chứ chưa
đặt thành vấn đề khảo sát thơ du tiên đời Đường một cách có hệ thống và toàn diện.
Từ những năm 80 của thế kỉ XX trở lại đây, việc nghiên cứu thơ du tiên trở nên vô
cùng phát triển và được soi chiếu từ nhiều góc nhìn. Các công trình nghiên cứu về thơ du
tiên đời Đường khá phong phú, đề cập tới nhiều phương diện về nội dung và nghệ thuật
của mảng thơ này. Đặc biệt thơ du tiên đời Đường được xem là nguồn đề tài dồi dào cho
luận văn thạc sĩ của học viên các trường đại học ở Trung Quốc trong những năm gần đây.
Có thể kể một số luận văn như: Đường đại du tiên thi luận lược của Lỗ Hoa Phong (Đại
học Sư phạm An Huy, 2002), Đường đại văn nhân du tiên thi nghiên cứu của Trần Yên
Tường (Đại học An Huy, 2001), Luận Đường đại đích du tiên thi của Lí Dĩnh Lợi (Đại
học Sơn Tây, 2007), Trung Vãn Đường du tiên thi nghiên cứu của La Giai Ni (Đại học
Hắc Long Giang, 2012)... Trong những công trình này, hầu hết các tác giả đều gặp nhau ở
cách thức chia thơ du tiên đời Đường thành bốn giai đoạn: Sơ Đường, Thịnh Đường,
Trung Đường, Vãn Đường để tìm hiểu số lượng tác phẩm, tác giả tiêu biểu và đặc điểm
chính của từng giai đoạn. Các tác giả đều đánh giá thơ du tiên Sơ Đường có ý nghĩa kế
thừa đời trước, mở đường cho đời sau. Về phương thức du tiên, thi nhân thời Sơ Đường
chủ yếu vận dụng phương thức hoài tiên. Đây là sự kế thừa trực tiếp từ Tào Tháo. Về mục
đích du tiên, họ chủ yếu thể hiện nỗi khổ đau do thất ý trên con đường chính trị. Đây là sự
kế thừa từ Tào Thực, là cầu nối giữa Tào Thực và Lí Bạch. Thơ du tiên thời Thịnh Đường
mĩ hóa tiên cảnh, thể hiện nổi bật trong thơ du tiên Lí Bạch. Tiên cảnh trong thơ du tiên
thời Trung Đường lại hiện lên theo hai cực trái chiều: hoặc là xấu, ác chưa từng thấy, qua
đó tác giả nhằm khúc xạ hiện thực, hoặc là đẹp đẽ, nhằm thỏa mãn tâm tình của thi nhân
trong chốc lát. Đến thời Vãn Đường, thi nhân không còn đôi cánh tưởng tượng ngao du
9

nơi tiên cảnh, chỉ có thể để tư tưởng, tình cảm thần du trong mộng. Do đó, thời kì này xuất
hiện một loạt tác phẩm du tiên trong mộng, thơ du tiên có khuynh hướng nhân gian hóa rõ
ràng. Cách khám phá thơ du tiên đời Đường theo từng thời kì phần nào cho người đọc
hình dung được diễn tiến về mặt nội dung của thơ Đường và mối quan hệ giữa sự phát
triển của thơ ca với bối cảnh thời đại. Hướng đi trên sẽ được chúng tôi tiếp thu trong quá
trình triển khai luận án, nhằm minh chứng cho sự xuất hiện nổi bật của thơ du tiên đời
Đường ở chương 2.
Tác giả Hùng Hiểu Yên trong công trình Khái luận về thơ du tiên Trung Quốc đã
dành hẳn một chương để tìm hiểu về thơ du tiên đời Đường. Những nhận định của tác giả
về đặc điểm thơ du tiên trong từng giai đoạn Sơ, Thịnh, Trung, Vãn Đường song trùng với
những ý kiến trên đây. Tuy nhiên, chúng tôi đặc biệt hứng thú với những lời bàn của tác
giả về thơ du tiên của thi nhân phái biên tái và phái điền viên: “Cảm thấy mệt mỏi vì cuộc
sống căng thẳng, muốn thả lỏng thần kinh trong thế giới thần tiên, xúc cảm ấy xuất hiện
nhiều trong thơ du tiên của thi nhân phái biên tái. Thoát khỏi bụi trường chinh chiến, đắm
say nơi tiên cảnh khiến tâm hồn tạm thời được nghỉ ngơi và an ủi. Nhưng cho dù nghĩ tới
thần tiên, trong thơ Sầm Tham cũng không thoát khỏi khí vị biên tái. Gió bụi phong trần
nơi biên tái cũng thổi vào tận đạo quán trong núi sâu” [160, 86]. Còn thơ du tiên của thi
nhân thuộc phái điền viên như Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên thì “mượn sơn thủy tả ý để
thể hiện thần vận của tiên nhân. Tuy phong cách thơ du tiên của họ khác nhau, nhưng đều
biểu đạt hi vọng kéo dài vĩnh viễn cảnh phồn vinh, hoa lệ của xã hội Thịnh Đường” [160,
89]. Những khám phá mới mẻ này về thơ du tiên của thi nhân phái biên tái và phái điền
viên làm đầy đặn hơn diện mạo thơ du tiên Thịnh Đường. Và những nhận định mang tính
chất gợi mở ấy sẽ được chúng tôi tiếp thu khi đánh giá tổng thể về thơ du tiên đời Đường.
Đáng kể hơn cả là những công trình, những bài viết xâu chuỗi vấn đề theo chiều
dọc, tìm hiểu thơ du tiên đời Đường trên nhiều phương diện, có thể khái quát thành một số
vấn đề nổi bật sau:
Thứ nhất là ảnh hưởng của Đạo giáo đối với thơ du tiên đời Đường. Các tác giả
của sách Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc cho rằng: “Quan hệ giữa Đạo giáo và văn
học đương thời cũng không kém Phật giáo. Lí Bạch là nhà thơ lớn chịu ảnh hưởng sâu của
Đạo giáo. Còn có không ít thơ du tiên và bi kí của Đạo Quang nội dung cũng có quan hệ
với Đạo giáo” [56, 234]. Vương Hữu Thắng trong bài viết Thử bàn về sáng tác du tiên và
phong trào sùng đạo của văn nhân đời Đường nhận định: “Khảo sát hành tung và quá
trình sáng tác của văn nhân đời Đường, họ đều hoặc nhiều hoặc ít từng có một quãng thời
10

gian qua lại với cao nhân dật sĩ trong núi, hoặc nhiều hoặc ít có sáng tác những bài thơ du
tiên phỏng đạo. Ra vào đạo quán, kết giao với đạo sĩ, đọc sách đạo, thậm chí luyện đan
phục dược rồi nhập đạo trở thành cái mốt của văn nhân sĩ đại phu đương thời. Phong khí
xã hội ảnh hưởng tới văn học, dẫn tới sự xuất hiện của một loạt bài thơ du tiên đời
Đường” [156, 38]. Lí Vĩnh Bình trong bài viết Ảnh hưởng của Đạo giáo đối với thơ du
tiên đời Đường cho rằng hệ thống lí luận của Đạo giáo trực tiếp ảnh hưởng đến sự ra đời
của thơ du tiên. Đạo giáo cung cấp ý tượng thẩm mĩ, kinh nghiệm thẩm mĩ và đề tài sáng
tác cho thơ du tiên. Đạo giáo còn ảnh hưởng lớn đến bản thân những thi nhân đời Đường.
Nhiều người trong số họ đã từng học đạo như Vương Bột, Lư Chiếu Lân, Trần Tử Ngang,
Bạch Cư Dị, Lí Thương Ẩn, Ngô Quân, Tào Đường. Đa số những bài thơ du tiên đều ra
đời từ tay những văn nhân chịu ảnh hưởng Đạo giáo sâu đậm hoặc là tín đồ của Đạo giáo.
Đó là ảnh hưởng tích cực. Còn mặt tiêu cực thể hiện ở chỗ một số bài thơ biến thành sự
tụng ca Đạo giáo, tính nghệ thuật và tính trữ tình giảm mạnh. Tác giả Đông Lâm trong bài
Nội hàm văn hóa Đạo giáo trong thơ du tiên Thịnh Đường lại có những phát hiện thú vị
khi cho rằng thi nhân thời Thịnh Đường cầu tiên, học tiên không thuần túy là sự kí thác
tinh thần khi thất ý mà trước hết và cơ bản nhất là sự chân thành và nhiệt tình theo đuổi
trường sinh bất lão, vượt qua giới hạn không, thời gian để hưởng đời mãi mãi. Quan niệm
của Đạo giáo về những ngọn núi như là nơi có thần tiên cư trú cũng được các thi nhân thời
Thịnh Đường thấm nhuần. Núi trở thành tiên cảnh. Cảnh vật sơn thủy và thế giới thần tiên
không có sự phân biệt. Những ý kiến trên đây gợi mở cho chúng tôi nhiều điều bổ ích khi
tìm hiểu về nguyên nhân hưng thịnh của thơ du tiên đời Đường, một phần không nhỏ bắt
nguồn từ sự phát triển của Đạo giáo.
Thứ hai là mối quan hệ giữa thơ du tiên và truyện truyền kì đời Đường. Tác giả Lỗ
Hoa Phong trong bài viết Thơ du tiên Trung Vãn Đường và truyền kì đã tiến hành phân
thành ba loại chủ yếu: một là những bài thơ phát huy tác dụng trực tiếp hoặc gián tiếp
trong tình tiết của câu chuyện truyền kì. Hai là những bài thơ dùng để tuyên truyền tư
tưởng xuất thế thành tiên của Đạo giáo. Ba là thơ tình yêu thuộc thể du tiên. Điều kiện tồn
tại đặc biệt của thơ trong truyện này khiến nó thoát khỏi một số giới hạn của thơ du tiên
truyền thống, đa dạng hóa phạm vi biểu hiện của thơ du tiên, xuất hiện những bài thơ du
tiên mang tính tự sự và hình thức xướng họa. Nhìn từ góc độ so sánh, tác giả Nghiêm
Xuân Hoa trong bài viết Điểm giống và khác nhau trong cách thể hiện chủ đề tiên cảnh
trong thơ ca và truyền kì đời Đường cho rằng chủ đề tiên cảnh xuất hiện phổ biến trong
thơ ca và truyền kì, nhưng do sự khác biệt về thể loại, cội nguồn văn học, động cơ sáng
11

tác, chủ thể tiếp nhận nên có sự thể hiện không giống nhau về cách ăn mặc, hành động,
cuộc sống của tiên nhân. Thơ miêu tả trừu tượng bao nhiêu thì truyền kì lại cụ thể bấy
nhiêu. Đặc biệt, tiên cảnh được miêu tả trong thơ do chịu ảnh hưởng từ thần thoại, truyền
thuyết nên luôn xa cách nhân gian. Còn trong truyền kì, do bắt nguồn từ tín ngưỡng dân
gian nên chủ yếu là những danh lam thắng cảnh gần với nhân gian, con người có thể tìm
thấy. Chúng tôi cho rằng cách giải thích như vậy có những điểm hợp lí song chưa thật
thấu đáo. Thực tế thơ du tiên đến đời Đường đã xem rừng núi tự nhiên ở trần gian là tiên
cảnh, đã tục hóa cảnh tiên hư ảo trên cao, cảnh tiên không còn quá xa vời khó thấy như
trong thơ du tiên trước đời Đường.
Thứ ba là khuynh hướng thế tục hóa trong thơ du tiên đời Đường. Đây là một vấn
đề thú vị, lôi cuốn sự luận giải của các nhà nghiên cứu. Họ hầu hết đều khẳng định thế tục
hóa là khuynh hướng chủ yếu, là cái mới về nội dung của thơ du tiên đời Đường. Lưu
Khiết trong công trình Luận về đề tài trong thơ Đường tuy chưa bao quát hết mọi phương
diện biểu hiện của khuynh hướng thế tục hóa trong thơ du tiên đời Đường nhưng đã chỉ ra
được hai vấn đề cơ bản: Một là từ tiên cảnh trở về với nhân gian. Tiên cảnh không còn là
nơi cao không với tới, tiên nhân cũng không còn là những đấng thiêng liêng, không ăn
thức ăn chín trên trần thế nữa. Đặc biệt, đến thời Trung Đường, tiên cảnh vốn đẹp đẽ dưới
ngòi bút thi nhân đã biến thành ác, xấu. Thời kì này còn xuất hiện những truyền thuyết về
tiên du nhập cảnh (tiên xuống chơi cảnh trần) và những bài thơ du tiên ra đời từ truyền
thuyết ấy. Hai là đem gặp tiên viết thành gặp người đẹp. Đến đời Đường, chuyện tiên nữ
hạ giáng gặp phàm nam trở thành đề tài được các tác giả say sưa thể hiện. Người thời
Trung Đường không chỉ gọi nữ đạo sĩ đẹp đẽ, đa tình, phong lưu, ngông cuồng là tiên, mà
đến kĩ nữ cũng được gọi là tiên. Đa Lạc Khẳng trong bài viết Khuynh hướng thế tục hóa
trong thơ du tiên thời Trung Đường lại có phần cực đoan khi khẳng định: “Cùng với sự
tiêu tan của giấc mộng phồn hoa, đến thời Trung Đường, thơ du tiên cũng bước vào cuộc
sống thế tục” [119, 121]. Thực ra, ngay từ thời Sơ, Thịnh Đường, thơ du tiên đã có dấu
hiệu thế tục hóa. Chỉ có điều đến giai đoạn Trung Đường, do hoàn cảnh thay đổi, nó diễn
ra mạnh mẽ hơn, triệt để hơn thôi. Tuy nhiên, những đoạn phân tích của tác giả về thơ du
tiên mang khuynh hướng thế tục hóa của Lư Đồng và Thi Kiên Ngô theo chúng tôi là khá
sắc sảo. Lí Vĩnh Bình trong bài viết Thế tục hóa trong thơ du tiên đời Đường và nguyên
nhân của nó cũng chủ yếu tập trung luận giải ở giai đoạn Trung, Vãn Đường, ngoài ra còn
đi sâu lí giải nguyên nhân dẫn tới hiện tượng này là do những cơn kịch biến của xã hội từ
Thịnh Đường đến Trung Đường, ảnh hưởng của tiên thoại thời Lục Triều, đặc biệt là ảnh
12

hưởng của Đạo giáo. Những ý kiến trên đây đã bắt trúng phần đặc sắc của thơ du tiên đời
Đường là vấn đề thế tục hóa. Tuy vậy, điều đáng tiếc là vấn đề này mới chỉ được xem như
là kết quả của những nguyên nhân khách quan từ phía xã hội mà chưa đề cập tới nguyên
nhân chủ quan từ sự phát triển nội tại của thơ du tiên. Ngay trên phương diện khách quan,
sự phát triển của ba dòng tư tưởng, tôn giáo Nho, Phật, Đạo ảnh hưởng như thế nào đến
xu hướng thế tục hóa cũng chưa được khai thác. Và chương 3 của luận án sẽ triển khai
triệt để vấn đề này.
Tâm thái sáng tác của thi nhân và thái độ của con người đối với thần tiên cũng là
những vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Tác giả Từ Lạc Quân trong bài viết Bàn
về tâm thái sáng tác của thi nhân làm thơ du tiên đời Đường cho rằng truy cầu trường
sinh, khát vọng tự do tuyệt đối và thỏa mãn tình yêu nam nữ là ba phương diện thể hiện
tâm thái sáng tác của các tác giả làm thơ du tiên đời Đường. Nguyên nhân tạo thành tâm
thái ấy là do sự hưng thịnh của Đạo giáo và cảnh ngộ của bản thân nhà thơ. Bằng cái nhìn
so sánh, Lật Xuân Na trong công trình Nghiên cứu thơ du tiên Hán Đường đã đưa ra
những kết luận đáng chú ý: “Từ Hán đến Đường, tư tưởng, thái độ của con người đối với
thần tiên có sự thay đổi. Đời Hán, con người tin tưởng sự tồn tại của thần tiên, cầu thần
tiên vì mục đích đạt được trường sinh về nhục thể. Bước sang thời Ngụy Tấn, con người
đã bắt đầu tỉnh ngộ, hoài nghi đối với thần tiên. Họ cầu trường sinh là để kí thác, để hoàn
thành giá trị của sinh mệnh, thực hiện lí tưởng kiến công lập nghiệp, hoài bão chính trị của
mình. Đến đời Đường, con người không chỉ hoài nghi mà còn phê phán thần tiên. Sự phát
triển của thơ du tiên đời Đường đã rời xa khái niệm và hàm nghĩa vốn có của thơ du tiên
truyền thống. Du tiên trở thành tượng trưng cho sự tự do về mặt tinh thần” [129, 20]. Tác
giả còn có ý kiến đáng lưu ý khi bàn về thơ du tiên Đỗ Phủ. Theo ông, Đỗ Phủ chỉ mượn
hình thức du tiên để biểu đạt nỗi ưu sầu vì nhân dân không được bình yên. Bậc “thi thánh”
này không hề cầu tiên để đạt được mục đích trường sinh hay hưởng lạc, cũng không hề có
sự tuyên truyền hay làm nổi bật tiên cảnh. Vì vậy, du tiên với Đỗ Phủ không có niềm vui
đích thực, nó chỉ như một liều thuốc tinh thần tạm thời ràng rịt vết thương lòng trong ông.
Một số luận văn thạc sĩ, bài báo cũng đã bắt đầu chú ý tới ý nghĩa mĩ học, ý nghĩa
văn hóa của thơ du tiên đời Đường. Tác giả Miêu Hà trong bài Ý nghĩa mĩ học của thơ du
tiên đời Đường khẳng định: “Thơ du tiên đời Đường ở những mức độ khác nhau đều thể
hiện khát vọng của thi nhân đối với thần tiên và tiên giới. Nhưng đó không phải là sự biểu
lộ tín ngưỡng, mà là sự thể hiện cảnh giới tâm linh, hoặc là sáng tạo ra một cảnh giới hư
ảo để đối chiếu với thế giới hiện thực, biểu đạt cách nhìn và hi vọng của của thi nhân đối
13

với hiện thực và nhân sinh. Đề tài thần tiên trong tác phẩm chủ yếu là mang tính chất
tượng trưng, ẩn dụ, là biện pháp để thể hiện tình, chí” [113, 59]. Tác giả Lâm Hải trong
luận văn thạc sĩ Ý nghĩa văn hóa của thơ du tiên đời Đường cho rằng thơ du tiên đời
Đường ca ngợi tình yêu, ca ngợi núi sông tự nhiên của đất nước, trọng sự sống, ghét cái
chết, mơ tưởng tiên cảnh mĩ lệ, tiên nhân siêu phàm thoát tục. Tất cả những điều đó đều
thể hiện ý thức vũ trụ, ý thức ưu hoạn và ý thức hài hòa của con người thời Đường.
Phương diện nghệ thuật thơ du tiên đời Đường ít được các nhà nghiên cứu quan
tâm hơn so với phương diện nội dung. Trong số tư liệu tiếng Trung tập hợp được, chúng
tôi nhận thấy có mấy vấn đề cơ bản sau đây đã được đề cập:
Trước hết là vấn đề thể loại. Lí Nãi Long trong bài Ý nghĩa xã hội học của thơ du
tiên thời Trung Đường ngoài những nhận định về đặc điểm thơ du tiên Trung Đường
tương tự với các tác giả trên đây thì còn có một phát hiện thú vị: “Thể loại được vận dụng
chủ yếu trong thơ du tiên Trung Đường là tuyệt cú và trường thiên cổ thể. Hình thức ngắn
nhỏ của tuyệt cú có thể biểu hiện cảnh giới tâm linh tương đối chật hẹp của nhân sĩ thời
Trung Đường. Họ vận dụng trường thiên cổ thể cũng không giống người thời Thịnh
Đường là thể hiện cảnh tượng bát ngát và lòng dạ rộng mở, mà là tiện cho tả thực và tự sự.
Điều này cũng hợp với xu thế lớn của thơ thời Trung Đường” [121, 232].
Tiếp theo là vấn đề ý tượng. Đa số các tác giả đều cho rằng ý tượng thơ du tiên có
sự khác biệt lớn so với ý tượng thơ thuộc đề tài khác. Nó lấy tiên cảnh, tiên nhân, tiên
thuật, những ý tượng có tính hư ảo làm hạt nhân. Trong số những ý tượng này, ý tượng
tiên nhân là trung tâm của trung tâm. Tác giả Dung Hải Đào trong luận văn thạc sĩ Ý
tượng tiên nhân trong thơ du tiên đời Đường lấy ý tượng tiên nhân làm đối tượng nghiên
cứu chính, đặt trong tương quan so sánh lịch đại, chia thành ba loại: tiên nhân loại hình
hóa, người phàm thành tiên, tiên nhân có cá tính rõ ràng (người truyền đạo, người kiểm tra,
người yêu, người bạn). Tìm hiểu đặc điểm ý tượng tiên nhân trong từng giai đoạn, tác giả
cho rằng thời Sơ Đường, ý tượng tiên nhân tương đối nghèo nàn, thuộc loại hình hóa, thể
hiện đặc điểm chung của tập thể tiên nhân chứ không được các tác giả chú trọng khắc họa
tính cách. Thi nhân lấy mình làm tiên, trở thành nhân vật chính trong thơ du tiên. Thời
Thịnh Đường, tiên nhân có cá tính rõ rệt, luôn kết hợp mật thiết với núi, chính điều này đã
kéo gần khoảng cách giữa tiên và người. Thời Trung Đường xuất hiện ý tượng tiên nhân
là người kiểm tra (hạ giáng phàm trần tiến hành kiểm tra người cầu tiên để xác định họ có
đủ tư cách thành tiên hay không), xuất hiện ý tượng tiên nhân xấu, ác và nhiều nữ tiên.
Đến thời Vãn Đường, ý tượng tiên nhân được nhân gian hóa toàn diện, tiên khí nhạt dần,
14

nhân khí đậm hơn, đặc biệt thể hiện trong thơ Tào Đường. Những ý kiến của Dung Hải
Đào tương đối cụ thể. Tuy vậy, tác giả mới dừng lại ở thao tác nhận diện và phân tích đặc
điểm ý tượng tiên nhân trong từng giai đoạn mà chưa đi sâu tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới
quá trình nhạt dần về tiên khí, đậm dần về nhân khí của ý tượng tiên nhân. Chúng tôi cho
rằng đây cũng là biểu hiện của khuynh hướng thế tục hóa trên phương diện ý tượng và sẽ
được chúng tôi triển khai cụ thể trong chương 3 của luận án.
Từ những nét lớn được tổng thuật trên đây có thể thấy, giới nghiên cứu đã đề cập
tới nhiều vấn đề về nội dung và nghệ thuật của thơ du tiên đời Đường. Về nội dung, các
tác giả quan tâm tới khuynh hướng thế tục hóa, ảnh hưởng của Đạo giáo, truyện truyền kì
tới thơ du tiên đời Đường, ý nghĩa mĩ học, ý nghĩa văn hóa của mảng thơ này. Về nghệ
thuật, những vấn đề như thể loại, ý tượng... cũng bước đầu được giới nghiên cứu tìm hiểu.
Đó là những gợi ý quý báu mà chúng tôi sẽ tiếp thu trong quá trình triển khai luận án.
1.1.3. Về các tác giả tiêu biểu
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng đại diện cho thơ du tiên Sơ Đường có
Vương Tích, Vương Bột, Lư Chiếu Lân, Trần Tử Ngang, Thịnh Đường có Lí Bạch, Ngô
Quân, Trung Đường có Lí Hạ, Bạch Cư Dị, Vãn Đường có Lí Thương Ẩn, Tào Đường.
Tuy nhiên, qua mảng tư liệu tiếng Trung mà chúng tôi thu thập được cho thấy Lí Bạch, Lí
Hạ, Lí Thương Ẩn, Tào Đường là những tác giả nhận được nhiều sự quan tâm nhất.
Những đánh giá của các nhà nghiên cứu về Lí Bạch hầu hết đều rất có ấn tượng về
ý thức trích tiên sâu đậm trong con người và thơ ca của vị thi tiên này. Tác giả Vương
Đơn Lâm trong bài Luận về thơ du tiên của Lí Bạch nhấn mạnh: “Lí Bạch độc đáo ở chỗ
cả một đời ông luôn cho rằng mình là tiên giáng phàm, Thơ du tiên của ông chính là được
xây dựng trên ý thức trích tiên đó” [123, 56]. Tác giả cũng lí giải cặn kẽ ý thức trích tiên
của Lí Bạch bắt nguồn từ hai nguyên nhân là gia đình và xã hội. Gia đình xem ông là kim
tinh chuyển thế (thể hiện ngay cả trong cái tên) và xã hội với bầu không khí tôn tiên sùng
đạo, du tiên ở ẩn có thể là con đường tiến thân để làm quan. Hùng Hiểu Yên khi bàn về
trích tiên nhân Lí Bạch cũng cho rằng Lí Bạch được người đời gọi là trích tiên, bản thân
ông cũng tin tưởng một ngày nào đó có thể quay về trời. Do vậy, đối với tiên nhân nơi
thiên giới ông vô cùng hâm mộ. Tác giả còn đặc biệt nhấn mạnh: “Sức tưởng tượng như
thiên mã hành không, lòng cuồng nhiệt thành tiên của Lí Bạch là sự khúc xạ tinh thần thời
đại Thịnh Đường cuồng phóng, hào hùng. Không có khí thế Thịnh Đường thì không có
thế giới thần tiên làm xao động lòng người đến thế trong thơ du tiên Lí Bạch” [160, 91].
Uông Dũng Hào trong công trình Văn hóa du tiên Trung Quốc cũng chung nhận xét đó,
15

song còn đi sâu lí giải ý thức trích tiên, tín ngưỡng du tiên chân thành từ góc độ ảnh
hưởng hoàn cảnh sống thời niên thiếu của ông. Cùng bàn về vấn đề này, tác giả Lưu Khiết
trong công trình Luận về đề tài trong thơ Đường lại quan tâm đến ý thức trích tiên mang
đến cho thơ du tiên Lí Bạch diện mạo khác thường. Cụ thể là trong đại bộ phận thơ du tiên
của Lí Bạch, chủ thể thi nhân là vai chính du tiên. Ý thức trích tiên cũng khiến Lí Bạch tự
giác từ phàm trần liên tưởng tới tiên cảnh. Cảnh tượng và sự việc trong cảnh giới hư ảo
được ông miêu tả rất chân thật và thân thiết.
Thái độ của Lí Bạch đối với thần tiên được thể hiện như thế nào trong thơ du tiên
là một vấn đề gây sự tranh cãi. Tác giả Lí Vĩnh Bình trong bài Mối quan hệ giữa cá tính
Lí Bạch và vấn đề du tiên khẳng định: “Thái độ của Lí Bạch đối với vấn đề du tiên có sự
mâu thuẫn. Một mặt ông tiêu phí rất nhiều thời gian và sức lực đi ẩn cư tìm tiên, luyện đan
và sáng tác nhiều bài thơ du tiên, biểu hiện sự chân thành tuyệt đối đối với thuyết thần tiên.
Mặt khác, qua thơ du tiên, ông biểu hiện sự hoài nghi, phủ định và phê phán hành vi cầu
tiên của con người và sự tồn tại của thần tiên” [94, 35]. Tác giả Cổ Binh trong bài Mâu
thuẫn chủ đề trong thơ du tiên Lí Bạch lại cho rằng mâu thuẫn này thể hiện rõ nhất ở sự
phản đối việc đế vương cầu tiên và khẳng định việc mình cầu tiên. Theo Lí Bạch, cầu tiên
phải là người như mình mới có thể thực hiện được, còn quân vương thì không. Nguyên
nhân dẫn tới mấu thuẫn này là do ảnh hưởng từ truyền thống văn học, lí tưởng và tính
cách của nhà thơ và hiện thực xã hội tàn khốc. Vấn đề nhập thế hay xuất thế trong những
bài thơ du tiên của Lí Bạch cũng được các nhà nghiên cứu lưu tâm. Tác giả Lí Hoa trong
bài Nóng và lạnh trong thơ du tiên Lí Bạch khẳng định Lí Bạch du tiên, ẩm tửu, gửi tình
vào sông núi không phải thể hiện tư tưởng tiêu cực như có người bình luận, mà là để thể
hiện nỗi muộn phiền vì có tài mà không gặp thời và là phương thức truy cầu cá tính tự do
cuồng phóng. Đằng sau vẻ bề ngoài lạnh lẽo của thơ du tiên là một trái tim nóng hổi tích
cực nhập thế, quan tâm hiện thực. Nhóm tác giả Phó Minh Thiện, Trương Duy Chiêu
trong bài Thơ du tiên Lí Bạch và ý thức bi kịch cho rằng Lí Bạch vì muốn hóa giải bi kịch
tinh thần mà du tiên. Nhưng vì không có cách nào quên được hiện thực xã hội nên ông lại
mang theo bi kịch sâu sắc hơn quay trở về hiện thực. Thơ du tiên của ông chính là sự thể
hiện bi kịch ấy.
Bàn về cái mới của thơ du tiên Lí Bạch so với thơ du tiên truyền thống cũng là vấn
đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Tác giả Vương Hữu Thắng trong bài Sự kế thừa và
cách tân của Lí Bạch đối với thơ du tiên truyền thống cho rằng Lí Bạch kế thừa truyền
thống du tiên thời Tiên Tần, Ngụy Tấn, khiến tinh thần kí thác tâm lí cô phẫn và sự phản
16

kháng được thể hiện trong thơ du tiên trải qua thời Nam Bắc triều trầm lắng đến đời
Đường đã được khơi lại và bừng sáng. Sự cách tân của Lí Bạch thể hiện ở chỗ du tiên
thống nhất với du sơn, du mộng. Tác giả Tiêu Đình Đình trong bài Phân tích thơ du tiên
của Lí Bạch cũng chung nhận xét đó và còn nhấn mạnh ý du tiên trong mộng không phải
đến Lí Bạch mới xuất hiện, nhưng cái khác của Lí Bạch là ông có ý thức về cái tôi mãnh
liệt. Thơ du tiên bằng mộng và trong mộng của ông vừa là cảnh mộng, cũng vừa là cảnh
tiên. Cư Trung Thành trong bài Hình thái, mô thức và ý nghĩa thẩm mĩ của thơ du tiên Lí
Bạch cũng có ý kiến tương tự khi cho rằng ba mô thức cấu tạo thế giới thơ du tiên Lí Bạch
là lấy ảo viết tiên, lấy mộng viết tiên, lấy du viết tiên.
Bên cạnh việc tìm hiểu đặc điểm thơ du tiên nói chung của Lí Bạch, có tác giả đã
bắt đầu chú ý tới nét riêng biệt của 59 bài Cổ phong. Liêu Văn Hoa trong bài Hình tượng
thần tiên và nghệ thuật khắc họa (nó) trong Cổ phong của Lí Bạch cho rằng có ba loại
hình tượng thần tiên: một là tiên nhân nơi thiên giới như ngọc hoàng, thượng đế, Tây
Vương Mẫu, hai là chim thần như loan, phượng, hạc, ba là người phàm đắc đạo thành tiên
như An Kì Sinh, Hoàng Sơ Bình, Quảng Thành Tử, Xích Tùng Tử... Trong đó loại thứ ba
xuất hiện với tần số cao nhất, có khoảng cách gần nhất với người thường. Đối sánh, miêu
tả chi tiết diện mạo, hành động, bối cảnh xuất hiện của tiên nhân, tăng cường tính tự sự là
những biểu hiện của nghệ thuật khắc họa hình tượng thần tiên của Lí Bạch trong 59 bài
Cổ phong này.
So sánh thơ du tiên Lí Bạch và Quách Phác cũng là vấn đề được các nhà nghiên
cứu khai thác. Trong bài Phân tích đặc sắc thơ du tiên Lí Bạch và Quách Phác, tác giả
Đặng Từ, Trịnh Yên Phi đã tiến hành so sánh trên các phương diện sau: Thứ nhất là lấy
tiên so với tục. Thơ du tiên Quách Phác lấy tiên so với tục chỉ đơn thuần là lấy tiên cảnh
đối sánh với tục cảnh, còn trong thơ Lí Bạch về cơ bản còn chú trọng sự hợp nhất giữa du
tiên và du sơn. Thứ hai là sự dung hòa tình, cảnh, sự lí. Quách Phác nghiêng về tả nội tâm,
Lí Bạch lại thông qua tưởng tượng và liên tưởng để biểu đạt sự lí (lí lẽ). Thứ ba là lựa
chọn ý tượng: ý tượng thơ du tiên Quách Phác hoàn toàn kế thừa từ Sở từ, trong thơ Lí
Bạch còn tăng thêm những thứ gần với cuộc sống hiện thực. Các tác giả Lưu Nhuận Tố,
Vu Hiểu Giao trong bài So sánh thơ du tiên Lí Bạch và Quách Phác cũng chỉ rõ: “Thơ du
tiên Quách Phác và Lí Bạch giống nhau ở tinh thần văn hóa, sự truy cầu thần tiên, khát
vọng trường sinh. Điểm khác nhau thể hiện trên hai phương diện: Về nội dung, thơ Quách
Phác nhấn mạnh ẩn dật, thơ Lí Bạch quan tâm nhiều tới cuộc sống xã hội. Về phong cách
nghệ thuật, thơ Quách Phác hoa mĩ, thơ Lí thanh tân, biểu hiện rõ đặc sắc của chủ nghĩa
17

lãng mạn. Thơ du tiên Lí Bạch vừa kế thừa thơ du tiên Quách Phác, lại vừa vượt lên so
với thơ du tiên Quách Phác” [147, 88]. Đi sâu vào phương diện chủ thể trữ tình, tác giả
cũng cho rằng thơ du tiên Lí Bạch thể hiện ý thức cái tôi mãnh liệt, hình tượng cá thể đột
xuất, triệt để phá vỡ giới hạn giữa tiên và người. Thơ du tiên Quách Phác đối với tiên lại
đầy vẻ sùng kính, thi nhân và tiên nhân có khoảng cách không thể vượt qua.
Lí Hạ cũng là một gương mặt tiêu biểu được các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu.
Đi từ mục đích khảo sát lịch sử phát triển thơ du tiên Trung Quốc, Tống Hiểu Hà trong
cuốn Trung Quốc nhất tuyệt đã cung cấp những tư liệu quý giá về mảng thơ này. Thơ du
tiên đời Đường trong bài viết này chưa được quan tâm đúng mức. Giá trị của nó vô hình
chung đã bị chìm khuất so với thơ du tiên trước đó. Tuy vậy, trong những dòng nhận định
ngắn ngủi sau đây, Lí Hạ cũng được nhắc tới: “Mặc dù các nhà thơ hậu thế có các trước
tác hậu du tiên, tân du tiên, mộng du tiên, song thơ du tiên ngày càng ít. Đời Đường còn
có Lí Bạch ngũ nhạc tầm tiên và Lí Hạ mộng thiên” [11, 226]. Chúng tôi tạm phân loại
những đánh giá của giới nghiên cứu về thơ du tiên Lí Hạ thành mấy phương diện sau: Về
cội nguồn ra đời thơ du tiên và mục đích du tiên của Lí Hạ: Uông Dũng Hào trong công
trình Văn hóa du tiên Trung Quốc nhận định: “Phú quý, sinh nhai đều bị tước mất, cuộc
sống hưởng lạc càng không hề có được, vì vậy, Lí Hạ có khát vọng mãnh liệt đối với
những gì là phồn hoa cao quý, thúc đẩy ông hay nói tới du tiên và trong thơ xuất hiện
nhiều ý tượng thần tiên. Lí Hạ thông qua du tiên để thể hiện khát vọng sinh mệnh vĩnh
cửu và tự do hưởng lạc” [107, 265]. Trong cuốn Văn học sử Trung Quốc, tập 2 (Chương
Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh chủ biên), các tác giả cũng khẳng định: “Lí Hạ đem hi vọng
giải thoát sự đau khổ cho mình gửi gắm vào thế giới quỷ thần hư vô, phiêu diêu. Những
bài thơ nổi danh của ông như Thiên thượng dao, Mộng thiên, Dao hoa lạc, Thượng vân
lạc đều miêu tả thế giới hư vô hoan lạc, thần kì, mĩ lệ trong nội tâm của ông” [34, 285].
Tác giả Trần Doãn Cát trong bài Tư tưởng du tiên trong Mộng thiên và thế giới tinh thần
Lí Hạ cũng có những kiến giải tương tự khi cho rằng những bài thơ lấy thần tiên làm đề
tài phản ánh khát vọng sống của Lí Hạ. Ông dùng hình tượng nghệ thuật phong phú, sinh
động để bổ sung những khiếm khuyết trong thế giới hiện thực. Về quan điểm của ông đối
với vấn đề trường sinh thành tiên: Liêu Minh Quân trong bài Khát vọng và lí tưởng sinh
mệnh, luận về thơ du tiên của Lí Hạ cho rằng Lí Hạ tuy một đời đau khổ nhưng lại hết sức
tỉnh táo, thậm chí tỏ ra hoài nghi và có thái độ phủ định đối với việc người đời nhiệt liệt
truy cầu trường sinh bất lão. Do đó chủ điểm trong thơ du tiên Lí Hạ không phải ở việc
truy cầu trường sinh bất lão, cũng không phải chỉ ở việc mượn du tiên để giải tỏa nỗi phẫn
18

hận vì công danh chưa đạt, mộng lớn không thành, mà ở chỗ thông qua ảo giác để dựng
lên một thế giới lí tưởng, nhằm trút hết nỗi phẫn hận của mình đối với trần thế, từ đó biểu
hiện sự tìm kiếm vĩnh hằng trước sinh mệnh hữu hạn của nhân loại. Về mối quan hệ giữa
ba thế giới: trần gian, âm ti và thiên đường trong thơ Lí Hạ: Tác giả Vương Tuệ trong bài
Sinh, tử, tiên - tìm hiểu triết học nhân sinh trong thơ Lí Hạ cho rằng lo âu bệnh tật và ám
ảnh về cuộc đời ngắn ngủi làm cho Lí Hạ chán ghét trần gian đau khổ. Ông quay về ca hát
sự vĩnh hằng của cái chết với hồn ma bóng quỷ. Nhưng chốn mộ địa trong thơ Lí Hạ âm u,
đáng sợ, lạnh lẽo, vô tình, thực chất chỉ là sự kéo dài nỗi đau của con người nơi trần thế.
Ông chuyển hướng nhìn về thế giới thần tiên. Tiên giới trong thơ ông đẹp, tĩnh tại, nhưng
thiên đường mờ mịt, thần tiên cũng phải chết. Sinh, tử, tiên, trần thế, địa ngục và tiên giới
chỉ là nơi quy nạp nỗi tuyệt vọng của Lí Hạ, thể hiện những mâu thuẫn giằng xé trong tâm
hồn ông. Về hình ảnh tiên nữ trong thơ Lí Hạ: Các tác giả Uông Dũng Hào, Du Hạo Mẫn
trong cuốn Văn hóa du tiên Trung Quốc kết luận: “Mỗi bài thơ du tiên của Lí Hạ đều có
hình ảnh tiên nữ sống an nhàn thoải mái. Vì bản thân tác giả có những khiếm khuyết về
ngoại hình nên tiên nữ dưới ngòi bút Lí Hạ đại đa số đều có diện mạo đẹp đẽ, như một sự
bổ sung cho khiếm khuyết của ông” [107, 265]. Liêu Minh Quân bổ sung thêm một ý theo
chúng tôi là hợp lí: “Những hình tượng nữ tiên như Lộng Ngọc, Thường Nga, Tây Vương
Mẫu, Ngạc Lục Hoa, Bối cung phu nhân, Lan Hương thần nữ... là minh chứng hùng hồn
cho sự truy cầu của ông đối với tình yêu. Diện mạo bề ngoài của họ cố nhiên là đẹp đẽ,
nhưng cái mà nhà thơ chú ý khai thác là thế giới nội tâm của họ, nhằm tìm kiếm sự đồng
cảm về tâm hồn” [141, 115].
Soi chiếu thơ du tiên Lí Hạ từ góc nhìn so sánh cũng mang lại những kết quả
nghiên cứu thú vị. Ôn Thành Vinh trong bài Sự khác biệt về tư tưởng Đạo giáo trong thơ
Lí Bạch và Lí Hạ cho rằng Lí Bạch đã tận dụng triệt để tư tưởng của Đạo gia và Đạo giáo,
xem nó là công cụ để thực hiện lí tưởng chính trị, đồng thời mượn nó để truy cầu nhân
cách độc lập và tự do về tinh thần. Còn Lí Hạ vì đường đời trắc trở, lại chịu ảnh hưởng tư
trào cảm thương của thời đại, không tránh khỏi tiếp nhận Đạo giáo theo hướng tiêu cực,
xem nó là nơi kí thác tinh thần, hoài nghi và phủ định hiện thực nhân sinh. Nhóm tác giả
Khuyết Văn Văn, Tống Diên Triển trong bài Sự kế thừa và phát triển của Lí Hạ đối với
thơ du tiên Quách Phác cho rằng Lí Hạ là tri âm không cùng thời đại với Quách Phác.
Ông cũng là một nhà thơ đau khổ. Nhưng điểm khác giữa Lí Hạ và Quách Phác là ở chỗ
Lí không nguyện thổ lộ nỗi đau âm ỉ trong thơ du tiên của mình. Thơ Lí Hạ vẫn đi theo
con đường du tiên, nhưng mục đích của ông không thuần túy là trốn tránh hiện thực, mà là
19

sự mê luyến một cách cố chấp đối với thế giới lí tưởng. Lí còn làm nhạt hóa tinh thần
ngạo thế bất bình trong thơ du tiên Quách Phác, thay vào đó là sự mong mỏi về công danh
phú quý, tình yêu, sự trường sinh... Vì vậy mà thơ du tiên Lí Hạ phát triển theo hướng thế
tục hóa và đạt được tầm cao mới trong kĩ thuật miêu tả.
Nếu Lí Hạ là tác giả đại diện của thơ du tiên Trung Đường thì Lí Thương Ẩn là
gương mặt tiêu biểu của thơ du tiên Vãn Đường. Những bàn luận về ông chủ yếu xoay
quanh mấy vấn đề sau: Trước hết là ảnh hưởng của Đạo giáo đối với sáng tác thơ Lí
Thương Ẩn, đặc biệt là mảng thơ du tiên. Chu Khánh Lộng trong bài Tính hai mặt trong
quan niệm về tiên đạo của Lí Thương Ẩn cho rằng do thời trẻ cầu tiên học đạo nên Lí
Thương Ẩn rất am hiểu những điển cố, ẩn ngữ của phái Thượng Thanh. Những truyền
thuyết, thuật ngữ chuyên dùng có liên quan đến tiên nhân và tiên cảnh đã cung cấp chất
dinh dưỡng cho thơ ông, góp phần mở rộng khả năng biểu hiện của thơ ca, làm tăng thêm
vẻ đẹp mông lung, thần kì, khôi lệ của ý cảnh, khiến ý tượng thơ thêm phong phú, hàm
nghĩa thêm vô cùng. Tiếp theo là thái độ của ông đối với thần tiên. Cũng trong bài viết
trên, Chu Khánh Lộng đã có những luận giải tỉ mỉ về vấn đề này. Theo tác giả, Lí Thương
Ẩn sáng tác nhiều bài thơ châm biếm việc cầu tiên hoang đường của các bậc đế vương.
Song ông chỉ là người phê phán đầy lí trí, tỉnh táo chứ không phải là người phủ định triệt
để. Lỗ Hoa Phong trong luận văn thạc sĩ Luận về thơ du tiên đời Đường cũng có ý kiến
tương tự khi cho rằng Lí Thương Ẩn không thật sự tin tưởng có sự tồn tại của một thế giới
thần tiên siêu nhiên, càng không thật sự truy cầu trở thành thần tiên. Trong sáng tác của
ông không biểu hiện sự hướng vọng, truy cầu đối với thần tiên và sự trường sinh. Ngược
lại, có không ít tác phẩm thể hiện sự hoang đản bất kinh và hư ảo đối với vấn đề trường
sinh thành tiên. Phạm Minh Tuệ trong luận văn thạc sĩ Thơ ca tam Lí và thần thoại cũng
chung nhận xét ấy, đặc biệt được thể hiện trong sự so sánh với Lí Bạch và Lí Hạ: “Lí
Bạch có tín ngưỡng thần tiên kiên định, thơ Lí biểu đạt sự ngưỡng mộ của mình đối với
thế giới thần tiên và khát vọng trường sinh. Lí Hạ có thái độ nghi ngờ đối với thuyết thần
tiên. Lí Thương Ẩn cũng nghi ngờ, đặc biệt phản đối cách trường thọ bằng luyện đan
uống thuốc của Đạo giáo. Đa số những bài thơ phê phán chính trị của ông đều chỉ ra tính
vu vơ của việc cầu tiên” [146, 20]. Thơ du tiên diễm tình và hình tượng nữ tiên trong thơ
Lí Thương Ẩn cũng là phần đặc sắc được các nhà nghiên cứu lưu tâm. Cũng trong công
trình trên, Phạm Minh Tuệ đã nhận xét so với thơ Lí Bạch, Lí Hạ thì hình tượng nữ tiên
xuất hiện nhiều nhất trong thơ Lí Thương Ẩn, thể hiện sự quan tâm và đồng tình của ông
đối với vận mệnh của nữ giới và gửi gắm những tâm tư khó nói của mình, như hình ảnh
20

Thường Nga xuất hiện nhiều lần là để ngầm chỉ chuyện tình của thi nhân với nữ quan. Lỗ
Hoa Phong nhận định: “Thơ du tiên diễm tình của Lí Thương Ẩn chủ yếu biểu hiện tình
yêu với nữ quan” [135, 27].
Bên cạnh đó là nội dung cơ bản và tình điệu chung của thơ du tiên Lí Thương Ẩn.
Trong bài Mục tận thanh thiên hoài kim cổ - bàn về thơ du tiên của Lí Thương Ẩn, tác giả
Khương Triều Huy đã khái quát nội dung thơ ông thành 4 mặt sau đây: mượn du tiên để
thể hiện nỗi khổ vì con đường làm quan gập ghềnh, lí tưởng không thực hiện được, mượn
du tiên để thể hiện những điều khó nói, mượn du tiên để thể hiện lí tưởng nhân sinh, mượn
du tiên để viết về tình yêu. Hùng Hiểu Yên trong cuốn Khái luận về thơ du tiên Trung
Quốc thì cho rằng thơ du tiên Lí Thương Ẩn tràn đầy không khí buồn thương. Tâm tình
sầu khổ của ông trong cuộc sống hiện thực cũng không có cách nào gạt bỏ trong tiên cảnh.
Những kiến giải trên đây có tác dụng định hướng cho chúng tôi giải mã những bài thơ du
tiên được xem là rất khó hiểu của Lí Thương Ẩn, nhằm minh chứng cho đặc điểm thơ du
tiên Vãn Đường.
Tào Đường cũng là tác giả tiêu biểu thời Vãn Đường thành công trong mảng thơ
du tiên. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều công nhận Tào Đường là thi nhân có số lượng thơ
du tiên nhiều nhất trong lịch sử thơ ca Trung Quốc, là người thứ hai (sau Quách Phác) nổi
danh nhờ thơ du tiên. Lư Hiểu Huy trong bài Đặc sắc nội dung thơ du tiên của Tào
Đường cho rằng nhà thơ đã phá vỡ mô thức của thơ du tiên truyền thống, vận dụng hình
thức thơ cận thể nhằm thi ca hóa câu chuyện thần tiên, khiến nó trở thành một dạng thức
văn học thuần túy. Đi sâu vào nội dung tình yêu, tác giả Trương Chấn Khiêm trong bài
Khuynh hướng tình yêu trong thơ du tiên Tào Đường khẳng định Đại du tiên thi và Tiểu
du tiên thi chủ yếu viết về đề tài tình yêu nam nữ, hình thức là du tiên nhưng thực chất
viết về tình yêu. Mô thức tình tiết thường là nữ tiên xuống trần gian gặp phàm nam, người
trần lạc lối gặp tiên, hai bên nam nữ yêu nhau, cùng tu luyện và bay lên trời, nam nữ tiên
nhân yến ẩm giao du... Nguyên nhân xuất hiện khuynh hướng này là do bầu không khí tôn
giáo của thời đại và sự lưu hành thuật phòng trung của Đạo giáo. Bàn cụ thể về Đại du
tiên thi, các nhà nghiên cứu cũng có những kiến giải độc đáo. Tác giả Tân Hạ trong bài
Giá trị văn học của Đại du tiên thi của Tào Đường cho rằng Đại du tiên thi thể hiện sự kết
hợp lần đầu tiên giữa tiên thoại và thơ du tiên, nội dung phong phú, tình cảm sâu sắc, danh
là du tiên, thực là trữ tình, mang màu sắc lãng mạn chủ nghĩa, cách luật ưu mĩ, từ ngữ hoa
lệ. Tác giả Trần Yên Tường trong luận văn thạc sĩ Nghiên cứu thơ du tiên của văn nhân
đời Đường cũng có ý kiến tương tự khi cho rằng Đại du tiên thi cơ bản lấy tài liệu ở
21

truyền thuyết tiên đạo. Ông xem tiên thoại là cơ sở không thể thiếu được trong thơ du tiên,
sau đó sáng tạo lại, lợi dụng triệt để chức năng trữ tình, lãng mạn của thơ ca, ra sức phát
huy khả năng tưởng tượng của mình. Điểm nổi bật nhất là trong những thần thoại, truyền
thuyết nguyên thủy không xuất hiện môi trường, sự kiện hay nội tâm nhân vật, Tào
Đường thêm vào những thứ đó nhằm biểu đạt một cách uyển chuyển chủ ý của tác giả.
Lục Văn Quân trong bài Từ du tiên đến gặp người đẹp - bàn về Đại du tiên thi của Tào
Đường lưu ý người đọc nên chú ý tới ba vấn đề khi đọc Đại du tiên thi: một là ý nghĩa
mới của từ tiên (Tào Đường hay dùng từ chân thay thế cho tiên, chỉ mĩ nữ, thậm chí kĩ nữ),
hai là những câu chuyện tiên thoại mà tác giả lấy làm tài liệu, ba là quan hệ giữa cuộc đời
Tào Đường và bối cảnh sáng tác Đại du tiên thi. Lỗ Hoa Phong trong Luận về thơ du tiên
đời Đường khái quát thành tựu nghệ thuật của Đại du tiên thi trên hai phương diện là lấy
toàn bộ đề tài từ tiên thoại, truyền thuyết cổ đại và phương thức sáng tạo dạng chùm thơ.
Cũng trong công trình này tác giả còn đề cập tới Tiểu du tiên thi. Xét về mặt tài liệu, Tiểu
du tiên thi lựa chọn tài liệu ở truyền thuyết và kinh điển Đạo giáo, khác Đại du tiên thi
chủ yếu lựa chọn ở tiên thoại. Trong Tiểu du tiên thi, tác giả còn đem sự vật nơi tiên giới
và hiện thực nhân gian phối hợp với nhau, tạo nên đặc sắc nhân gian hóa cao độ.
Luận văn thạc sĩ Luận về thơ du tiên của Tào Đường của Triệu Đình Đình có thể
xem là công trình nghiên cứu đầy đủ nhất về thơ du tiên Tào Đường mà chúng tôi có được.
Tác giả đặc biệt nhấn mạnh lịch sử thời loạn Vãn Đường, sự hưng thịnh của Đạo giáo và
sự phát triển của Đường truyền kì là những nhân tố cơ bản dẫn tới sự ra đời của thơ du
tiên Tào Đường. Động cơ sáng tác thơ du tiên của Tào Đường cũng được tác giả chỉ ra
trên bốn phương diện: mượn sáng tác du tiên để ghi lại những bi hoan li hợp chốn trần
gian, mượn đôi cánh tưởng tượng để thể hiện lí tưởng siêu hiện thực, mượn thế giới mộng
ảo để kí thác sự bất mãn đối với hiện thực, mượn thơ du tiên diễm tình để sáng tạo nên
một thế giới không tưởng trong tâm hồn. Về nội dung tư tưởng, thơ du tiên Tào Đường có
khuynh hướng thế tục hóa. Về nghệ thuật, từ ngữ trang nhã, dùng nhiều điệp tự, kết hợp
tính tự sự và tính trữ tình, bút pháp tinh tế, thủ pháp biểu hiện của chủ nghĩa lãng mạn
được dùng một cách sáng tạo.
Ngoài ra, có một số tác giả khác, ít tiêu biểu hơn nhưng cũng thường được đề cập
tới trong những công trình nghiên cứu về thơ du tiên đời Đường. Chẳng hạn như thơ du
tiên Vương Tích “về cơ bản kế thừa cách viết của thơ du tiên Nam Bắc triều, xem du sơn
là du tiên, xuất hiện nhiều thuật ngữ Đạo giáo và những câu chuyện, truyền thuyết thần
tiên” [160, 74]; “Tưởng tượng du tiên của ông không thể hiện lòng cuồng nhiệt thành tiên
22

mà là kí thác nỗi cảm khái về nhân sinh, thể hiện sự thất vọng và ưu phẫn của ông đối với
hiện thực” [135, 23]. Thơ du tiên Vương Bột “thể hiện tinh thần tích cực tiến thủ của con
người thời Đường” [160,76], “Đường đời lận đận nhưng tư tưởng được biểu lộ trong thơ
du tiên của ông lại không có màu sắc ủy mị. Ông tin thờ thần tiên, tưởng tượng những
điều kì diệu trong thế giới thần tiên, không phải là mượn thần tiên để trốn tránh hiện thực”
[135, 28]. Lư Chiếu Lân “cầu tiên nhiệt tình hăng hái, dù cuối cùng không đến được tiên
cảnh, không tìm được tiên nhân nhưng vẫn hướng về nó” [160, 79], và “tinh thần không
quản gian nan, hiên ngang này chỉ đến thơ du tiên Sơ Đường mới xuất hiện” [135, 29].
Ngô Quân - “một thi nhân đạo sĩ nổi tiếng thời Thịnh Đường, thơ du tiên của ông thể hiện
sự truy cầu cảnh giới siêu nhiên, biểu hiện mơ ước về thế giới thần tiên” [135, 38]. Bạch
Cư Dị “thời trẻ tỏ ra châm biếm, phủ định thuyết thần tiên. Những năm về già, ngoài việc
tin Phật, tham thiền, phục dược, tịch cốc để truy cầu trường sinh thành tiên cũng là nội
dung chủ yếu trong cuộc sống và trong thơ ông” [160, 102].

Bên cạnh Trung Quốc đại lục, một số nhà nghiên cứu người Đài Loan cũng dành

sự quan tâm cho thơ du tiên đời Đường. Tác giả Lí Phong Thu trong cuốn Ưu và du: Lục
Triều Tùy Đường du tiên thi luận tập có dành hẳn một phần tìm hiểu sự kế thừa và sáng
tạo của thi nhân làm thơ du tiên đời Đường trên các phương diện thi đề, ngôn ngữ, ý
tượng, chủ đề. Truyền thuyết Đạo giáo trong Đại du tiên thi, thế giới thần tiên trong Tiểu
du tiên thi của Tào Đường cũng là những vấn đề được tác giả quan tâm tìm hiểu. Cuốn
Nghiên cứu thơ du tiên đời Đường của Nhan Tiến Hùng có thể xem là công trình quy mô
nhất ở Đài Loan mà chúng tôi tiếp cận được. Trong công trình này, tác giả đã chia thơ du
tiên đời Đường thành bốn loại: du tiên, mộng tiên thi; hoài tiên, vịnh tiên thi; mộ đạo cầu
tiên thi; tu luyện thể đạo thi. Khi tìm hiểu bối cảnh thời đại dẫn tới sự hưng thịnh của thơ
du tiên đời Đường, tác giả đã chỉ ra ba phương diện là sự phát triển của Đạo giáo, phong
khí phục thực và sự hưng thịnh của đạo quán viên lâm, trong đó phong khí phục thực là
quan trọng nhất. Đi vào từng giai đoạn, tác giả cho rằng thời Sơ Đường, phong mạo tinh
thần cơ bản được biểu hiện trong thơ du tiên khó tránh khỏi di phong thời Lục Triều.
Thịnh Đường là thời kì phát triển vượt bậc của thơ du tiên, cả về số lượng cũng như chất
lượng. Hai nhà thơ tiêu biểu được tác giả phân tích kĩ là Ngô Quân và Lí Bạch. Thơ du
tiên Trung, Vãn Đường thể hiện vẻ đẹp mềm mại, thiên về âm tính (đặc biệt rõ trong thơ
du tiên Lí Hạ và Lí Thương Ẩn). Tác giả cũng đã xuất phát từ cuộc đời và động cơ sáng
23

tác của Tào Đường để nghiên cứu nội hàm và đặc sắc nghệ thuật thơ du tiên của thi nhân
được xem là tiêu biểu của thời Vãn Đường này.
Tóm lại, mảng tư liệu tiếng Trung Quốc mà chúng tôi cố gắng sưu tầm và chiếm
lĩnh được có thể còn chưa đầy đủ, chưa bao quát trọn vẹn, nhưng từ những gì có được,
thiết nghĩ cũng có thể giúp cho người đọc hình dung được những nét cơ bản về thơ du tiên
đời Đường. Chúng tôi cũng tìm thấy ở đây những gợi ý quý báu và sẽ tiếp thu trong quá
trình triển khai luận án.
1.2. Nghiên cứu thơ du tiên đời Đƣờng ở Việt Nam
1.2.1. Về tuyển thơ
Ở Việt Nam, thơ du tiên đời Đường hầu như còn là một vùng đất ít được khai phá.
Về mặt tác phẩm, thơ du tiên chưa được tuyển chọn và công bố thành một tuyển tập thơ ca
riêng, nhằm giúp độc giả yêu thơ Đường có một cái nhìn khái quát và xuyên suốt. Thơ du
tiên mới chỉ được tuyển dịch cùng với những bài thơ viết về đề tài khác trong các tuyển
tập thơ Đường nói chung hoặc trong các tuyển thơ về một tác giả, như thơ Lí Bạch, thơ Lí
Hạ, thơ Bạch Cư Dị... Trong phạm vi tư liệu hiện có, chúng tôi thống kê có 73 bài thơ du
tiên đời Đường đã được dịch sang tiếng Việt. Có thể kể tên những tập thơ Đường ở Việt
Nam đã tuyển thơ du tiên như: Thơ Đường (2 tập) do Nam Trân tuyển chọn; Thơ Đường
(3 tập) của Trần Trọng San; Đường thi của Trần Trọng Kim, Đường thi tuyển dịch của Lê
Nguyễn Lưu, Đường thi trích dịch của Đỗ Bằng Đoàn, Bùi Khánh Đản, Bình giảng 100
bài thơ Đường hay nhất của Nguyễn Danh Đạt; Tuyển tập thơ Đường (2 tập) của Trần
Văn Nhĩ... Tuyển theo một tác giả có các tập như: Thơ Lí Bạch của Ngô Văn Phú; Lí Hạ -
quỷ tài quỷ thi của Huỳnh Ngọc Chiến; Lí Thương Ẩn - lan trong rừng vắng của Nguyễn
Quang Trường; Thơ Bạch Cư Dị của Ngô Văn Phú...
Trong những cuốn tuyển dịch thơ Đường trên đây, số lượng thơ du tiên được tuyển
ít hơn, được chọn dè dặt hơn so với những bài thơ viết về đề tài khác. Sự xuất hiện khiêm
tốn của thơ du tiên trong các tuyển tập thơ Đường theo chúng tôi vì hai lí do sau: Thứ nhất,
bản thân thơ du tiên là loại thơ khó hiểu, do vẻ mơ hồ, mông lung của tiên cảnh, vẻ thoắt
ẩn thoắt hiện của tiên nhân, vẻ thần kì bí ẩn của tiên thuật và sự xuất hiện dày đặc những
điển tích, điển cố liên quan đến Đạo giáo. Thứ hai, trong quan niệm của một số nhà tuyển
thơ và nghiên cứu, thơ du tiên là mảng ít có giá trị, ý nghĩa xã hội hơn so với thơ biên tái,
tống biệt, vịnh vật... nên ít nhiều họ còn giữ thái độ dè dặt. Tuy vậy, sự hiện diện của
những bài thơ du tiên trong những tuyển tập thơ Đường đã được dịch và xuất bản tại Việt
Nam đã phần nào chứng tỏ vị trí và giá trị của mảng thơ này.
24

1.2.2. Về nghiên cứu phê bình nội dung và nghệ thuật


Trong tầm bao quát tư liệu của chúng tôi, ở Việt Nam chưa có một công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về thơ du tiên đời Đường. Những ý kiến về mảng thơ này chỉ xuất
hiện trong các sách viết về văn hóa, về thơ Đường nói chung hay về tiên thoại, về một tác
giả cụ thể. Trong cuốn Văn hóa Trung Hoa, khi bàn về ảnh hưởng của Đạo giáo đến văn
học nghệ thuật, tác giả Đặng Đức Siêu viết: “Thời Đường, các nhà thơ lớn như Vương Bột,
Lư Chiếu Lân, Trần Tử Ngang, Vi Ứng Vật, Bạch Cư Dị... và đặc biệt là Lí Bạch đều có
nhiều thi phẩm nói lên lòng sùng mộ Đạo giáo, mơ ước tiêu dao nơi tiên cảnh, thoát li cõi
phàm trần, mà thực chất có thể được coi như là tư tưởng khát vọng tự do, phản đối những
hiện tượng phi lí xấu xa đương thời” [72, 120]. Tuy đây chỉ là nhận định tương đối khái
quát nhưng đặt trong công trình nghiên cứu về văn hóa mà văn học chỉ là một trong rất
nhiều thành tố, chúng ta sẽ thấy thơ du tiên đời Đường cũng đã bước đầu được chú ý.
Tác giả Trần Lê Bảo trong bài viết Tiên thoại - một đặc sản văn hóa Trung Hoa đã
cung cấp một cái nhìn đầy đủ từ cơ sở lịch sử xã hội đến cội nguồn triết học, tôn giáo của
sự ra đời tiên thoại Trung Hoa. Do tiêu điểm bài viết là bàn về tiên thoại nên sự ảnh
hưởng của nó tới văn học Trung Quốc nói chung, thơ du tiên nói riêng chỉ được điểm qua
theo tiến trình phát triển: “Thời Tần - Hán, việc tìm thuật trường sinh bất lão hết sức sôi
nổi từ Thần Thủy Hoàng đến Hán Vũ Đế... Đến những danh sĩ Ngụy - Tấn với lối sống
buông thả cuồng phóng, thuận theo tự nhiên, trốn đời tu luyện cho trong sạch đều thể hiện
sự tiếp nhận tư tưởng thần tiên của họ. Tư tưởng này lại được thi tiên Lí Bạch đẩy lên cao
với tư tưởng tìm tiên, ngạo đời. Ông dốc lòng luyện đan, phục thuốc để cầu trường sinh
bất lão. Cũng vì vậy ông được gọi là vị trích tiên” [6, 152]. Tuy vậy, ý tưởng tiên thoại
hóa thần thoại Trung Hoa của tác giả là một gợi ý bổ ích cho chúng tôi tìm hiểu quá trình
thi ca hóa tiên thoại, kết tinh trong thơ du tiên đời Đường. Trong một bài viết khác, bàn về
Bút pháp mộng ảo và truyện Đạo sĩ núi Lao trong Liêu trai chí dị, tác giả nhận định: “Đề
tài du tiên đã có từ xa xưa trong lịch sử Trung Quốc. Người đặt nền móng cho đề tài này
có lẽ là Trang Tử khi ông miêu tả cảnh thần tiên trong Tiêu dao du... Con người tìm đến
làng tiên để giải bớt u sầu, chí ít cũng là trong tưởng tượng và tâm linh. Hơn nữa tu tiên
còn để tăng tuổi thọ và trường sinh bất lão là vấn đề có thực, thiết thực, lại cũng là ảo
tưởng muôn đời nay của người Trung Quốc” [6, 323]. Tuy không trực tiếp bàn về thơ du
tiên nhưng kết luận của tác giả cũng định hướng cho chúng tôi tìm hiểu cội nguồn, mục
đích du tiên của các thi nhân đời Đường.
25

Lê Nguyễn Lưu trong Đường thi tuyển dịch dẫn ý của một số nhà nghiên cứu, chia
thơ Đường thành bốn phái, trong đó có phái tự nhiên “chuyên tả phong cảnh sông núi,
thừa kế di phong của Tạ Linh Vận, Đào Tiềm, gồm những nhà thơ chán ngán cuộc đời và
nghĩ rằng không có cách nào cải tạo được thời thế, nên tìm thú điền viên ẩn dật, phỏng
đạo cầu tiên” [43, 94]. Theo cách chia này, những thi sĩ sáng tác thơ du tiên thuộc về phái
tự nhiên. Khi đi sâu tìm hiểu một số đề tài trong thơ Đường, Lê Nguyễn Lưu đã phát hiện
ra thơ nhàn dật là thơ của những người lận đận chốn khoa trường, hay bị những thế lực
cao hơn chèn ép, ngăn trở khiến cho bất đắc chí, hoặc chán ngán sự ràng buộc cúi đầu
khom lưng chốn triều đình, hoặc vì tuổi già sức yếu chặn đứng chí tiến thủ, đã sẵn sàng
rút lui, chọn cuộc sống nhàn dật. “Họ tìm vào đạo Phật, đạo tiên có khi với thái độ của
người nghiên cứu nghiêm túc, lấy tư tưởng vô vi xuất thế để soi rọi vào thực tại nhân sinh,
nhưng cũng có khi với thái độ của kẻ mê tín dị đoan, lấy việc luyện đan để mong kéo dài
cuộc sống” [43, 99]. Ngô Văn Phú trong cuốn Thơ Đường ở Việt Nam nhận xét chung về
đề tài trong thơ Đường: “Đề tài thể hiện từ những sinh hoạt xa hoa quý tộc đến cảnh
nghèo túng nhất của dân chúng, cảnh đời, cảnh tiên, cảnh thiền, núi non, sông nước, trận
mạc, biên tái, hoa cỏ, rất phong phú” [67, 7]. Tác giả Trần Trọng San trong cuốn Thơ
Đường thì cho rằng “Ảnh hưởng của Đạo giáo với thi ca rất lớn lao. Những bài thơ thần
tiên của Lí Bạch, tự nhiên của Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, duy mĩ của Lí Thương Ẩn
là những tác phẩm tiêu biểu của loại thơ có màu sắc Đạo giáo... Nhà thơ thần tiên Tào
Đường thời Vãn Đường với những bài thơ Thiên Thai đem lại cho thi ca thời kì này một
sắc thái mới” [69, 22]. Tiếp cận từ góc độ thi pháp học, tác giả Trần Đình Sử trong bài
viết Thời gian, không gian nghệ thuật trong thơ Đường đã phát hiện ra năm phạm trù thời
gian nghệ thuật, trong đó có thời gian siêu nhiên. Theo tác giả, đây là “sản phẩm của ý
thức sợ hãi cái chết và mong muốn cởi bỏ các ràng buộc của trần tục để giải thoát vào một
thế giới vĩnh viễn và tự do. Thời gian tiên cảnh có đặc điểm là trôi chậm, kéo dài, bất biến,
khác hẳn với thời gian vùn vụt như bóng câu qua cửa sổ, như tên bay, như thoi đưa ở trần
gian” [59, 18]. Tiếp cận từ góc độ so sánh, tác giả Trần Lê Bảo trong bài viết Tư tưởng
thần tiên trong văn học Trung Quốc và Việt Nam cũng có nhận định đáng lưu ý: “Tư
tưởng thần tiên đã được hình tượng hóa hết sức đặc sắc trong các trang thơ của các nhà
thơ cận hiện đại Việt Nam. Mỗi nhà thơ tìm đến tư tưởng này theo một cách khác nhau và
thể hiện nó cũng theo những cách riêng” [9, 36]. Tác giả Lê Thị Anh trong cuốn Thơ mới
với thơ Đường lại khẳng định cảm xúc thoát tục trong thơ Đường đã được một số nhà thơ
Mới tiếp thu: “Những linh hồn u buồn của thơ Mới đều cố gắng tìm cho mình một con
26

đường thoát li cuộc sống. Họ chịu ảnh hưởng nhiều của Lí Bạch. Có người mượn ảo
tưởng thần tiên để rũ sạch những nỗi u uất buồn giận như Thế Lữ” [2, 83]. Nhận định này
của tác giả đã gợi cho chúng tôi một hướng tiếp cận mới đối với thơ du tiên đời Đường.
Đó là đặt nó trong mối quan hệ với thơ Việt Nam. Và chương 4 của luận án sẽ tập trung
tìm hiểu âm hưởng của thơ du tiên đời Đường trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900 - 1945.
Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu thơ du tiên đời Đường ở Việt Nam bước đầu đã có
những kết quả đáng trân trọng nhưng hầu hết đều chưa lấy thơ du tiên đời Đường làm đối
tượng nghiên cứu chính. Các bài viết từ nhiều góc độ mới chỉ đề cập một cách lẻ tẻ, sơ
lược về một vài phương diện của thơ du tiên đời Đường. Chúng tôi đã tiếp thu ở nguồn tài
liệu này những gợi ý quý báu trong quá trình triển khai luận án.
1.2.3. Về các tác giả tiêu biểu
Nói đến thơ du tiên đời Đường không thể không kể đến Lí Bạch như một đại diện
tiêu biểu. Khi nhận xét về nội dung tư tưởng thơ Lí Bạch, tác giả Trương Chính trong
cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc cho rằng: “Trong sáng tác của Lí Bạch có nhiều bài nội
dung không được thật lành mạnh, hoặc ca tụng sự hành lạc, xui giục người ta uống rượu,
xem cuộc đời như giấc mộng, mơ ước sống tự do tự tại, ngoài trần thế. Dù mối sầu vạn cổ
của ông bắt nguồn từ đâu, việc bỏ cuộc đời buông xuôi như thế cũng là đáng trách. Trước
sự mâu thuẫn giữa thực tế và lí tưởng của mình, nhà thơ không tăng cường ý chí phấn đấu,
trái lại, tìm một cuộc sống phóng lãng. Đó là phần lãng mạn tiêu cực ở Lí Bạch, không
tách rời tư tưởng Đạo giáo, tư tưởng du tiên vốn sẵn có” [14, 195] và “Ngày nay đọc Lí
Bạch cần phải tước bỏ phần thoát li hiện thực, ca tụng hành lạc, du tiên mà đặc biệt chú ý
đến tư tưởng yêu tự do, yêu nước, tính cách quật cường, tình cảm phóng khoáng, lạc quan
của ông” [14, 206]. Chúng tôi cho rằng giải thích như vậy có điểm hợp lí song cũng có
điều cần phải bàn lại, vì rất nhiều bài thơ du tiên của Lí Bạch không hề thể hiện ý trốn đời
thoát tục. Có lẽ tác giả Nguyễn Khắc Phi đã hợp lí hơn khi cho rằng những bài thơ du tiên
của Lí Bạch tuy có yếu tố siêu thoát, rốt cuộc vẫn không cách tuyệt với cõi đời, “trong
những bài thơ về tiên và rượu, chúng ta lại thường tìm thấy những nét đáng thông cảm,
những yếu tố phản kháng đáng trân trọng” [63, 136]. Tác giả Lê Đức Niệm trong cuốn
Diện mạo thơ Đường cũng đưa ra những kiến giải thấu đáo khi cho rằng những bài thơ du
tiên của Lí Bạch là những bài thơ lãng mạn nhất vì ông đã dựng lên một giấc mơ, một thế
giới thần tiên. “Có điều thế giới ấy không phải là nơi ông thoát li, mà đó là thế giới tưởng
tượng, một thế giới tự do, không có người bóc lột người, không bị chèn ép, hầu như ở thế
giới ấy con người được trân trọng hơn nhiều” [48, 94]. Tác giả Lương Duy Thứ trong
27

cuốn Giáo trình văn học Trung Quốc cũng chung nhận xét ấy khi cho rằng: “Lí Bạch đã
mượn bóng trăng, cõi tiên, bình rượu, thanh kiếm để tố cáo, phản kháng, tâm sự. Thế giới
thần tiên trong thơ Lí Bạch là một thế giới lí tưởng, không có những hiện tượng xấu xa
như trong thực tại” [83, 133]. Tác giả Trần Lê Bảo thì cho rằng ba biểu tượng tiên, rượu,
kiếm xuất hiện nhiều lần trong thơ Lí Bạch để gửi gắm, kí thác tâm sự, và “tìm tiên và
ngao du sơn thủy là một biểu hiện khác của sự phản kháng xã hội đen tối trong thơ Lí
Bạch. Ông mượn cảnh tiên để rũ sạch những điều không vừa ý trong cuộc đời ở nhân thế
và gửi gắm lí tưởng, khát vọng tự do, giải phóng cá tính của mình” [8, 83]. Trần Xuân Đề
trong cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc cho rằng Lí Bạch ngao du cõi tiên là để giải tỏa
niềm u uất trong lòng, tỏ sự bất mãn với thời cuộc. Cõi tiên trong thơ ông “là thế giới vô
cùng đẹp đẽ, không có kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, ông mượn cõi tiên để rũ
sạch những điều không vừa ý trong cuộc đời, gửi gắm khát vọng tự do” [23, 91]. Trần
Trung Hỷ trong luận án Thi pháp thơ Lí Bạch một số phương diện chủ yếu khẳng định:
“Thơ Lí Bạch xuất hiện dòng thời gian tiên cảnh siêu nhiên và không gian thần tiên, thể
hiện ý thức phản kháng nhằm chiến thắng sự hữu hạn của đời người” [36, 98].
Lí Hạ cũng là tác giả được các nhà nghiên cứu quan tâm. Nguyễn Tôn Nhan trong
bài viết Thơ siêu thực của Lí Hạ đưa ra một nhận định có tính chất gợi mở: “Hơn mười
thế kỉ trước, Lí Hạ - một thi nhân được mệnh danh là quỷ thi sống ở đời Đường đã làm
thơ siêu thực. Thơ ông thích miêu tả cảnh giới siêu hiện thực với những ảo giác thần kì
quái đản” [54, 116]. Tác giả Huỳnh Ngọc Chiến trong cuốn Lí Hạ quỷ tài quỷ thi lại quan
tâm tới những bài thơ phản du tiên của Lí Hạ nhưng chỉ với tư cách đơn lẻ chứ không
mang ý nghĩa khái quát cho cả mảng thơ này: “Tuy Lí Hạ còn trẻ nhưng cũng đủ thông
tuệ để công kích cái thuyết hoang đường thần tiên. Ông sáng tác nhiều bài về chủ đề này,
như Mã thi, Khổ trú đoản, Quan nhai cổ, Kim đồng tiên nhân từ Hán ca, Hạo ca” [13,
260]. Tác giả Lê Khánh Trường trong cuốn Lí Thương Ẩn lan trong rừng vắng cũng quan
tâm tới những bài thơ thể hiện ý thức phản du tiên và lí giải tư tưởng của nhà thơ này như
sau: “Lí Thương Ẩn cũng có lúc tìm đến với tư tưởng Phật, Lão, nhưng chưa bao giờ ông
có ý định quy ẩn như một nhà nho ẩn dật. Có chăng Lí Thương Ẩn chỉ tìm đến khung
cảnh của nhà chùa, của đạo quán để tìm một niềm yên ổn cho tâm hồn, để rồi sau đó cái
khát vọng muốn được thi triển tài năng trong ông lại trỗi lên mạnh mẽ hơn” [86, 125].
Đối với Bạch Cư Dị, giới nghiên cứu lại đặc biệt quan tâm tới sự chuyển biến về tư
tưởng của nhà thơ dẫn tới sự thay đổi nội dung thơ ca. Tác giả Trương Chính trong cuốn
Lịch sử văn học Trung Quốc viết: “Sau 40 tuổi, mặc dù tại chức, ông chẳng khác gì một
28

ẩn sĩ chốn sơn lâm. Ông có làm nhiều bài thơ lấy đề tài ẩn dật, du tiên, ẩm tửu, tham thiền,
học đạo. Toàn là những lời thảng thích, tiêu cực” [14, 238]. Tác giả Lương Duy Thứ trong
Giáo trình văn học Trung Quốc cũng nhận xét: “Sau khi bị biếm trích, tư tưởng của ông
cũng chuyển biến, ý chí đấu tranh nguội lạnh dần. Lúc này làm quan nhưng ông chẳng
khác gì một ẩn sĩ. Ông làm nhiều bài thơ về học đạo, tham thiền, về cuộc sống nhàn tản,
siêu thoát” [83, 186]. Lê Đức Niệm trong Diện mạo thơ Đường cũng có ý kiến tương tự:
“Qua nhiều lần thất bại chua cay, trải qua những phút bàng hoàng trong tình cảm, ông mất
hết nhuệ khí chiến đấu, cho nên quãng cuối đời đã đi vào miêu tả cuộc sống nhàn thích, có
lúc trốn tránh hiện thực” [48, 173].
Ngoài ra, trong một số công trình nghiên cứu khác về thơ Đường như Thơ tứ tuyệt
Lí Bạch, phong cách và thể loại (1996) của Phạm Hải Anh, Thi pháp thơ Lí Bạch - một số
phương diện chủ yếu (2002) của Trần Trung Hỷ, Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ
tuyệt đời Đường (1996) của Nguyễn Sĩ Đại cũng có lựa chọn một số bài thơ du tiên của Lí
Bạch, Lí Thương Ẩn... làm dẫn chứng.
Việc nghiên cứu thơ du tiên ở các quốc gia Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc...,
các nước phương Tây như Nga, Mĩ... cũng khá sôi nổi. Tuy nhiên vì một số hạn chế nhất
định, chúng tôi chưa thể đề cập đến trong luận án này.
Tiểu kết chƣơng 1:
Qua nghiên cứu lịch sử vấn đề chúng tôi đi tới một số kết luận sau:
1. Thơ du tiên đời Đường đã được xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ, từ cổ đến kim, từ
Trung Quốc đến Việt Nam, từ sự khái quát về toàn bộ mảng thơ đến việc đi sâu vào từng
nhà thơ tiêu biểu. Những ý kiến về thơ du tiên đời Đường phong phú, đa dạng nhưng hầu
như không mâu thuẫn trên các nét lớn.
2. Có một số ý kiến rất đáng chú ý (sẽ được chúng tôi tiếp thu khi triển khai luận án) như
ảnh hưởng của Đạo giáo đến sự hưng thịnh của thơ du tiên đời Đường, xu hướng thế tục
hóa, nghệ thuật sử dụng điển tích điển cố.
3. Tuy vậy, một số vấn đề then chốt còn chưa được giải quyết thỏa đáng. Đâu là cội nguồn
văn hóa của thơ du tiên đời Đường? Đặt trong tiến trình lịch sử phát triển của thơ du tiên
nói chung, mảng thơ du tiên đời Đường có gì nổi bật? Thơ du tiên đời Đường có những
đặc trưng thẩm mĩ cơ bản nào? Thế tục hóa là khuynh hướng nổi trội của thơ du tiên đời
Đường, vậy nó thuần túy là sản phẩm của bối cảnh thời đại nhà Đường hay còn là sự phát
triển tất yếu của một mạch chảy thơ ca? Một số vấn đề hầu như mới chỉ được điểm xuyết
trong một vài bài báo chứ chưa được bàn sâu. Chẳng hạn mối quan hệ giữa thơ du tiên đời
29

Đường và thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945. Những khoảng trống khoa học ấy đã thôi
thúc chúng tôi tìm đến đề tài Thơ du tiên đời Đường và có tham vọng được bổ sung, giải
quyết trong luận án này. Đề tài Thơ du tiên đời Đường của chúng tôi vì vậy vừa có thể
tiếp thu những thành quả nghiên cứu của người đi trước, đồng thời vẫn mở ra một hướng
nghiên cứu độc lập, thể hiện cách nhìn của người Việt Nam về thơ du tiên đời Đường và
âm hưởng của nó trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945.
30

CHƢƠNG 2
THƠ DU TIÊN ĐỜI ĐƢỜNG NHÌN TỪ CỘI NGUỒN VĂN HÓA TRUNG HOA

Thơ du tiên là đề tài độc đáo trong lịch sử thơ ca Trung Quốc, tồn tại song song
cùng với thơ vịnh sử, thơ vịnh vật, thơ sơn thủy, thơ điền viên, thơ khuê oán, thơ tống biệt,
thơ biên tái...Về số lượng cũng như chất lượng, thơ du tiên không thua kém bất kỳ một đề
tài thơ nào khác. Nhưng trong khi hòa tiếng ca của mình vào bản giao hưởng chung ấy,
thơ du tiên vẫn mang một âm điệu riêng không thể lẫn. Đa số các đề tài thơ từ vịnh sử,
vịnh vật, khuê oán, tống biệt đến sơn thủy điền viên đều miêu tả cuộc sống hiện thực. Thơ
du tiên thì khác, cái mà nó miêu tả chủ yếu là một thế giới thuần túy tưởng tượng, hư ảo,
cái mà nó biểu hiện là lý tưởng của con người về sự tồn tại vĩnh hằng, tự do, thoát tục,
một cuộc sống tận thiện tận mĩ, chỉ có trăng, hoa, nhạc và hương. Dòng thơ ấy là nơi
thăng hoa của những khát vọng trần tục, được hoài thai và phát triển từ truyền thống văn
hóa độc đáo của người Trung Hoa.
2.1. Giới thuyết khái niệm thơ du tiên
Ngược nguồn lịch sử thơ ca cổ điển Trung Quốc, chúng tôi nhận thấy tên gọi của
thể thơ này bắt nguồn sớm nhất là từ bài thơ Du tiên của Tào Thực. Còn Chung Vinh
trong Thi phẩm khi bàn về thơ du tiên của Quách Phác đã chia thơ du tiên làm hai loại là
liệt tiên chi thú (miêu tả cảnh vui thú của tiên nhân) và khảm lãm vịnh hoài (thể hiện
những gập ghềnh chìm nổi), khẳng định thơ Quách Phác thuộc loại thứ hai: “Chẳng qua
muốn ngâm vịnh trong hoàn cảnh bất đắc chí, chứ không phải có ý thích thú đối với việc
đi tìm tiên cảnh” [dẫn theo 33, 494]. Trong Văn tuyển (quyển 21), Tiêu Thống đã xếp thơ
du tiên thành một mục, cắm mốc quan trọng cho sự xác nhận của giới phê bình xem nó là
một loại độc lập với các đề tài thơ khác, và gọi nó là du tiên thi, chọn 1 bài của Hà Thiệu,
7 bài của Quách Phác để giới thiệu. Lý Thiện đời Đường trong Văn tuyển (quyển 2) khi
bàn về thơ du tiên Quách Phác cũng giới thuyết tương đối cụ thể về mảng thơ này.
Vậy thơ du tiên là gì? Theo Từ điển Từ Hải, đó là “thơ mượn việc miêu tả cảnh
tiên để gửi gắm tư tưởng tình cảm của tác giả” [dẫn theo 160, 1]. Quan niệm này đã đề
cập đến hai nội hàm của khái niệm thơ du tiên. Thứ nhất, thơ du tiên lấy cảnh tiên làm đối
tượng miêu tả độc lập. Thứ hai, nó phải thể hiện được tư tưởng tình cảm mà tác giả gửi
gắm thông qua cảnh tiên đó. Ý kiến của các nhà nghiên cứu đương đại về thơ du tiên về
cơ bản cũng thống nhất với định nghĩa đã dẫn trên đây trong Từ điển Từ Hải. Chẳng hạn,
Lưu Khiết trong Luận về đề tài trong thơ Đường cho rằng: “Trong quan niệm thời cổ đại,
31

tiên cảnh là một thế giới mộng ảo, có thể an ủi linh hồn, giúp con người vượt qua những
khổ đau trong hiện thực. Tiên nhân thì được phú cho sinh mệnh vô cùng, có thể lên trời
xuống biển. Chính vì vậy, người đời sau trong nhiều thi đề đã lấy hai chữ du tiên làm tên
gọi chung cho loại thơ ca này, phản ánh tiên cảnh, tiên nhân, tiên thuật trong tưởng tượng,
biểu hiện một cách khúc chiết lí tưởng nhân sinh và thế giới nội tâm của thi nhân” [118,
333]. Tống Hiểu Hà trong Trung Quốc nhất tuyệt lại tập trung nhấn mạnh đối tượng miêu
tả của thơ du tiên: “Trăm vẻ của muôn vật trong giới tự nhiên vẫn chẳng đủ để kí thác tâm
hồn thơ, thế nên thơ lại có duyên với một thiên nhiên huyễn tưởng - thế giới thần tiên siêu
nhiên. Tiên giới là do tưởng tượng cấu thành, có thể vượt lên trên giới hạn của trần thế mà
đạt tới cái vô hạn của thời gian và không gian. Thơ du tiên chính là văn học tiêu dao ngoài
tám cõi, lâng lâng tiên giới” [11, 186].
Như vậy, theo nét nghĩa chung nhất thì thơ du tiên là thơ miêu tả tiên cảnh, tiên
nhân để gửi gắm tư tưởng, tình cảm của tác giả. Xét từ góc độ nội dung thể hiện, thơ du
tiên gồm hai loại: thứ nhất là những bài thơ hướng tới tiên cảnh siêu nhiên, miêu tả cảnh
vui thú của tiên nhân, qua đó biểu đạt khát vọng trường sinh bất tử và tự do ngao du. Thứ
hai là mượn đề tài thần tiên, thể hiện những gập ghềnh chìm nổi, sự bất mãn đối với chính
trị và nhu cầu giải thoát khỏi hiện thực. Xét từ góc độ chủ thể trữ tình, cũng có thể phân
làm hai loại: Một là chủ thể trữ tình tham dự vào quá trình du tiên và được trần thuật từ
ngôi thứ nhất. Hai là chủ thể trữ tình không tham dự vào quá trình du tiên mà trần thuật
cuộc đi chơi của tiên nhân từ góc độ của người ngoài cuộc, từ ngôi thứ ba. Xét từ góc độ
cảm hứng thể hiện, bao gồm chính du tiên (tức những bài thơ thể hiện thái độ khẳng định,
ngưỡng vọng đối với tiên cảnh, tiên nhân) và phản du tiên (tức những bài thơ tuy lựa chọn
hình thức du tiên nhưng thể hiện thái độ nghi ngờ, phủ định việc cầu tiên, thành tiên và
trường sinh bất tử, là dấu hiệu của thơ du tiên phát triển theo hướng thế tục hóa). Sự phân
loại trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế, có những bài thơ du tiên vừa thể
hiện cảnh vui thú của tiên nhân và khát vọng trường sinh bất tử vừa nhìn về hiện thực để
thêm phần bất mãn, vừa mới đắc đạo lại đã đau đời, như thơ du tiên Lí Bạch. Hay trong
một bài thơ, phần đầu ca ngợi vẻ ung dung tự tại của tiên nhân, đến hai câu kết lại thể hiện
sự châm biếm, vừa chính du tiên vừa phản du tiên (như bài Tiên nhân của Lí Hạ).
Mặc dù đến đời Đường, thơ du tiên về cơ bản vẫn là sự tiếp nối dòng mạch truyền
thống vốn đã được khơi chảy từ thời tiên Tần, định hình ở thời Tần Hán, phát triển ở thời
Ngụy Tấn, trầm lắng ở thời Nam Bắc triều, nhưng đã thoát khỏi cái khung chật chội, mở
rộng diện phản ánh, gắn liền với nhu cầu biểu hiện hiện thực và đặc trưng thẩm mĩ của
32

thời đại. Núi rừng được tiên hóa, đạo quán là động tiên, ẩn sĩ, đạo sĩ được xem là tiên
nhân và bản thân cái tôi thi sĩ cũng đặt một dấu bằng giữa mình với tiên. Cảnh tiên vốn
khó nghe khó thấy được kéo về tọa lạc giữa trần gian, người tiên vốn khó thân khó gần
cũng được nhân gian hóa. Thơ du tiên đời Đường không dừng lại ở việc thể hiện nguyện
vọng trường sinh bất tử của người đời Hán, cũng không chỉ gắn liền với mục đích công
danh lợi lộc, đạt được tự do như thời Ngụy Tấn, mà còn thể hiện sự thăng hoa cao độ về
tinh thần. Phạm vi phản ánh được nới rộng một vòng, cảm thức về tiên và du tiên được
nâng lên một tầm. Nó đã mở rộng hàm nghĩa vốn có của thơ du tiên truyền thống. Vì vậy,
trong phạm vi luận án này, chúng tôi không chỉ xét khái niệm thơ du tiên nói chung mà
còn quan tâm hơn tới nội hàm khái niệm của thơ du tiên đời Đường và chọn cách định
nghĩa của Từ điển Từ Hải mà chúng tôi đã dẫn trên đây để làm chỗ dựa cho những luận
điểm của mình. Theo quan niệm của chúng tôi, thơ du tiên đời Đường là thơ lấy tiên
cảnh, tiên nhân làm đối tượng thẩm mĩ chủ yếu. Tiên cảnh ở đây có thể là cung tiên
trên trời, đảo tiên trên biển, núi tiên ở trần gian hay động tiên vốn được hình tượng
hóa từ những đạo quán. Tiên nhân cũng không chỉ là những nhân vật trên trời, từng
tồn tại trong thần thoại, truyền thuyết như Ngọc Nữ, Lộng Ngọc, Thường Nga... mà
còn là người trần đắc đạo thành tiên như đạo sĩ, ẩn sĩ hay cái tôi thi sĩ tự tiên hóa
chính mình. Thông qua việc miêu tả những hình ảnh siêu phàm ấy, các tác giả nhằm
bộc lộ tư tưởng tình cảm của mình. Đó có thể là niềm khao khát trường sinh bất lão, tự
do, trốn đời dứt tục, thoát khỏi những ràng buộc nơi trần thế, nỗi phẫn hận vì công
danh chưa đạt, sự nghiệp khó thành, hay tâm sự thầm kín về một tình yêu chưa trọn.
Các thi nhân đời Đường rất ít lấy du tiên hay viễn du làm tiêu đề, nhưng họ mượn hình
thức du tiên để miêu tả tự nhiên, thể hiện tâm tình, khiến thơ du tiên đi theo hướng càng
thêm rộng mở. Vì vậy, không phải những bài có tiêu đề là du tiên mới được liệt vào thơ
du tiên. Phàm là những bài đề cập đến tiên cảnh, tiên nhân, hoặc lấy tiên luận người, lấy
người thuật tiên đều được xem là thơ du tiên.
Tuy không cùng tên gọi nhưng đến đời Đường, thơ du tiên đã tiếp cận với thơ sơn
thủy và hai đề tài thơ này có chỗ “hòa nhi bất đồng”. Thực tế cho thấy, sự thịnh hành ngao
du và ẩn dật của người đời Đường khiến du tiên và du sơn có thể dung hợp với nhau một
cách hoản hảo. Thi nhân du tiên trong núi, vào núi tìm tiên, núi xanh thành tiên cảnh, ẩn sĩ,
đạo sĩ là tiên nhân. Ngay cả những Minh Tinh, Ngọc Nữ, Lộng Ngọc, Thường Nga -
những tiên nữ vốn chỉ trú ngụ trên trời, qua tưởng tượng của thi nhân cũng không hiếm
lần giáng hạ chốn núi cao rừng thẳm. Chính vì có sự thống nhất này mà đến đời Đường đã
33

nảy sinh hiện tượng giao thoa giữa thơ du tiên và thơ sơn thủy. Trong một số bài thơ du
tiên, cảnh sơn thủy trở thành đối tượng để thi nhân trình bày ý thức bay lên trời thành tiên.
Những Ngũ Nhạc, Thái Sơn, Tung Sơn, Hoa Sơn, Nga Mi Sơn, Thanh Thành Sơn... đều là
núi thực ở cõi trần, nhưng trong thơ chúng được tiên hóa thành nơi ở của tiên. Theo tác
giả Trần Trung Hỷ: “Thơ du tiên nói chung đều miêu tả cảnh núi sông nơi hạ giới, cái
thực thường được hư hóa, ảo hóa và tiên hóa. Do vậy, thơ du tiên có thể được xem là thơ
sơn thủy nếu xét ở mức độ tương đối” [37, 88]. Chúng ta không dễ dàng phân biệt được
những bài như Tây nhạc Vân Đài ca tống Đơn Cân Tử, Lư sơn dao kí Lư Thị Ngự Hư Chu,
Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt, Sơn trung vấn đáp... thuộc dòng thơ du tiên hay thơ
sơn thủy. Vì trong những bài này, tả cảnh và du tiên như hai dòng suối giao nhau, thậm
chí đã hòa vào làm một. Nếu loại bỏ thành phần du tiên trong những bài thơ tả cảnh này
thì không chỉ sức hấp dẫn nghệ thuật của bài thơ bị giảm mà nội dung cũng không còn
trọn vẹn. Thơ du tiên đời Đường do có sự gia nhập của một dòng máu mới nên thêm đa
dạng hóa, mở rộng phạm vi phản ánh. Nó không chỉ hoàn thiện đề tài du tiên mà còn rót
sức sống mới cho thơ sơn thủy.
Văn học là sự tự ý thức văn hóa. Muốn hiểu rõ hơn về thơ du tiên đời Đường,
không thể không xem xét nó trong mối quan hệ với tín ngưỡng dân gian, lịch sử xã
hội, cội nguồn thần thoại, tiên thoại và cội nguồn triết học, tôn giáo riêng có của
người Trung Hoa.
2.2. Cội nguồn văn hóa của thơ du tiên đời Đƣờng
2.2.1. Tín ngƣỡng dân gian và cơ sở lịch sử xã hội
Cuộc đời vốn vô thường. Từ ngàn xưa đến giờ, những dòng sông chưa bao giờ
ngưng trôi chảy, những hương sắc chưa bao giờ ngưng nhạt phai, những bãi bể nương dâu
chưa bao giờ ngưng biến cải, giữa cái nôi và chiếc quan tài chỉ là một chớp mắt, chập
chờn cánh bướm hư ảo của Trang Chu. Chính điều ấy khiến cho nguyện vọng trẻ mãi
không già của con người dần dần biến thành bào ảnh, rồi bắt đầu sinh ra nỗi sợ hãi cái
chết, thậm chí tránh nhắc tới, sợ xui. Nhưng càng sợ hãi cái chết, người Trung Hoa càng
thêm quý trọng và lưu luyến sự sống. Họ muốn tìm trong cuộc sống giấc mộng hồng lâu,
tìm trong vô thường đóa hoa bất tử. Khi phát hiện ra không ai qua nổi lưỡi hái của tử thần
cũng là khi con người bắt đầu sém lửa muộn phiền đặng tìm ra con đường giải thoát. Nói
cách khác, từ khi có loài người, có sự sống và cái chết, người Trung Hoa luôn luôn được
chuốt nhọn ý thức sống và khao khát trường sinh bất tử, khao khát lên tiên giới. Cái thế
giới cực lạc ấy không có sự tồn tại của thời gian, được tự do đi lại, tiêu dao hạnh phúc.
34

Huyền thoại về tiên là hư ảo, song khát vọng thành tiên trường sinh bất tử, tự do tự tại của
con người lại là thực muôn đời. Thành tiên trở thành cảnh giới nhân sinh cao nhất mà con
người hướng tới. Trong ý thức sâu thẳm của người Trung Quốc, hầu như ai cũng mong
trường sinh bất tử. Đó là khát vọng cháy bỏng mà từ thuở sơ khai cho đến tận bây giờ, trải
qua hàng nghìn năm họ vẫn không giây phút nào nguôi quên ấp ủ. Khao khát ấy được thể
hiện rõ qua quan niệm của họ về ngũ phúc và sự trừng phạt. Trong ngũ phúc thì hạnh
phúc lớn nhất là trường thọ. Trong sáu hình phạt thì hình phạt lớn nhất là đoản mệnh. Như
vậy, ý thức về cái chết và quan niệm trường sinh bất tử của người Trung Hoa trở thành cơ
sở tâm lí đầu tiên cho sự ra đời của thơ du tiên.
Song, quan niệm về sự trường sinh bất tử của người Trung Hoa cũng có điểm khác
biệt so với Thiên chúa giáo của phương Tây. Nếu Thiên chúa giáo nhấn mạnh linh hồn bất
tử thì người Trung Hoa lại quan tâm nhiều hơn đến thân thể bất tử. Nếu chỉ linh hồn bất tử
thì rốt cuộc cũng không có cách nào khiến con người vượt qua được giới hạn của sinh
mệnh. Xác thịt cũng phải bất tử thì mới được hưởng lạc thú ở đời. Trung Quốc là một đất
nước nông nghiệp. Sự gian khổ của cuộc sống nông canh khiến họ không thể không quan
tâm tới vấn đề sinh kế trong hiện thực. Họ không có nhiều thời gian mà mơ tưởng. Chân
đứng vững trên mặt đất, sống cuộc sống đời thường yên ổn là lí tưởng của người Trung
Quốc. Lí tính, thực tế từ rất sớm đã trở thành đặc điểm nổi bật trong phương thức tư duy
của họ. Người Trung Quốc trọng thực tế mà coi nhẹ huyễn tưởng, trọng kiếp này mà coi
nhẹ kiếp sau. Họ không giống những dân tộc khác đem hi vọng sinh mệnh vĩnh hằng gửi
gắm vào thế giới bên kia xa xôi. So với cái thế giới bên kia mù mịt, họ quan tâm hơn tới
hiện thế, tới sinh mệnh trong cuộc đời này và truy cầu thể xác bất tử. Thế là phục thực đan
dược, tu luyện nội đan cầu trường sinh bất lão trở thành phương thức riêng có để người
Trung Quốc vượt qua sinh mệnh hữu hạn. Thơ du tiên được nảy mầm từ mảnh đất tâm lí
muốn vượt lên giới hạn không, thời gian, sự truy cầu linh hồn và thể xác cùng trường tồn
ấy của người Trung Quốc.
Không chỉ bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian, sự ra đời, phát triển của tư tưởng thần
tiên và thơ du tiên còn có cơ sở lịch sử xã hội cụ thể. Lịch sử xã hội từ cổ đại đến Xuân
Thu, Chiến Quốc đầy biến động. Những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giành quyền
bá chủ diễn ra thường xuyên làm xã hội rối ren, sinh mệnh con người không được bảo
đảm. Tâm lí kính sợ thần quyền và vương quyền nhạt dần. Mọi người bắt đầu dồn sức chú
ý vào bản thân, quý trọng sự tồn tại của sinh mệnh. Con người thời này mong cốt sao giữ
được tính mạng, bảo tồn lâu dài được cuộc sống. Họ mơ ước tới tiên cảnh siêu trần tuyệt
35

tục để rời xa chiến tranh, lại có thể tu thân dưỡng tính, kéo dài tuổi thọ. Tâm lí này đặc
biệt rõ rệt ở tầng lớp trên trong xã hội - những con người đã tận hưởng vô vàn khoái lạc
do quyền lực và địa vị mang lại. Tư tưởng thần tiên từ đây ra đời và định hình, là sản
phẩm của sự thức tỉnh ý thức sinh mệnh cá thể và thể hiện sự coi trọng kiếp này của người
Trung Quốc. Kéo dài tuổi thọ và vĩnh viễn hưởng thụ khoái lạc là tư tưởng đặc biệt của
thuyết thần tiên. Thời Chiến Quốc xuất hiện nhiều phương sĩ cổ xúy cho học thuyết cầu
tiên trường sinh, chế ra một loạt thuốc trường sinh, khích lệ những ông vua như Yên
Chiêu Vương, Tề Uy Vương, Tề Tuyên Vương... ra biển cầu tiên. Trải qua sự mê cuồng
của giai cấp thống trị, sự tâng bốc của phương sĩ thần tiên, sự theo đuổi của nhân dân
thuộc tầng lớp dưới, tư tưởng thần tiên dần dần trở thành một hiện tượng văn hóa độc đáo.
Thời Tần Hán, việc tìm thuật trường sinh bất lão diễn ra mạnh mẽ từ Tần Thủy Hoàng đến
Hán Vũ Đế, từ hoàng đế đến thứ dân là một minh chứng hùng hồn cho ảnh hưởng lớn lao
của tư tưởng thần tiên trong xã hội đương thời. Tư tưởng thần tiên thấm sâu vào mọi ngõ
ngách của đời sống. Và thi sĩ là người hơn ai hết đã nhiệt tình thể hiện tư tưởng này như
một quan niệm sống, khát vọng sống đầy lãng mạn qua những bài thơ du tiên.
Như vậy, thơ du tiên là sản phẩm của khao khát trường sinh bất tử và mong muốn
cởi bỏ các ràng buộc của trần tục để giải thoát vào một thế giới vĩnh cửu và tự do. Tín
ngưỡng dân gian và điều kiện lịch sử xã hội cụ thể là cái nôi sản sinh ra thơ du tiên. Tuy
nhiên, sự ra đời và phát triển của dòng thơ này còn gắn bó chặt chẽ với triết học (Đạo gia),
tôn giáo (Đạo giáo) và cội nguồn thần thoại, tiên thoại.
2.2.2. Cội nguồn triết học
Đạo gia là một triết thuyết lớn, có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Đạo là hạt nhân trung
tâm của Đạo gia. Song cái đích cao nhất mà triết thuyết này muốn hướng tới chính là tự
nhiên. Lão Tử - người sáng lập Đạo gia cho rằng: “Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu
thân” (Ta sở dĩ đau khổ nhiều vì có tấm thân mình) [78, 181]. Vì có thân nên mới đau nỗi
đau ấm lạnh của đời, thấy đời biến ảo mới sinh ra buồn lo. Do đó, Lão Tử quan niệm thân
xác phải được sống thoải mái, tự tại, gắng sức vô ích nên khuyên ta vô vi để bảo toàn sinh
lực mà trường thọ, mục đích cuối cùng là giữ thân thể. Từ quan niệm đời sống nên ẩn dật,
Lão Tử cổ xúy cho con người trở về với trạng thái một mình ngao du trong trời đất, theo
đuổi sự tiêu dao, không chịu ràng buộc, về với tự nhiên. Theo quan niệm của Đạo gia, sở
dĩ tự nhiên tồn tại vĩnh viễn vì nó vận động hợp quy luật. Con người vốn cùng sinh ra với
trời đất, cùng với trời đất là một, cũng phải hòa mình vào dòng chảy, hòa mình vào vũ trụ,
vào sự vận động của tự nhiên như “giọt nước hòa với biển khơi” thì sẽ tìm tới Đạo. Triết
36

học của Đạo gia là tìm tự do tuyệt đối về tinh thần trong điều kiện “nước nhỏ dân ít”,
trong “thiên trường địa cửu”.
Kế thừa Lão Tử, Trang Tử cũng quan niệm: “Trời đất cho ta hình hài làm ta lao
khổ vì phải sinh tồn” [dẫn theo 55, 239]. Trang Tử chủ trương muốn vượt lên trên mọi
chướng ngại, tiến vào vương quốc tiêu dao, thanh tịnh, đạm bạc, lặng lẽ, vô vi. Tiêu dao là
đạo của một vị tiên chân chính, là đạt tới sự tự do vĩ đại về tinh thần, không để những lo
âu vặt vãnh, những công việc, dục vọng đời sống làm tê liệt tâm hồn. Ông coi đời là một
cuộc chơi. Cái mà ông quan tâm là sự tự do tuyệt đối trong lĩnh vực tinh thần của cá nhân.
Trang Tử chủ trương vượt lên cõi nhân sinh chật hẹp bằng cách cổ xúy cho con người
phát triển bản tính tự nhiên, mà biểu hiện là tinh thần cá Côn, chim Bằng. Theo tác giả
Tống Hiểu Hà: “Sự khẳng định đối với tự do tinh thần của nhân loại và sự miệt thị với
thói truy cầu danh lợi thế gian mà Trang Tử đề xướng là cội nguồn tinh thần trọng yếu của
thơ du tiên sau này” [11, 187]. Nhiều chương trong Nam Hoa kinh của Trang Tử có miêu
tả liên quan đến thần nhân và tiên du. Đặc biệt trong thiên Tiêu dao du (Nam Hoa kinh),
Trang Tử đã miêu tả hình ảnh tiên từ khái niệm thần nhân: “Trên núi Rưởu, Cô Dịch có
thần nhân ở, da thịt như băng tuyết, thơ ngây như gái chưa chồng, không ăn ngũ cốc, hút
gió uống sương, cưỡi khí mây, ngự phi long mà chơi ngoài tứ hải, định thần lại làm cho
mọi người hết đau ốm, lúa tốt được mùa” [79, 121]. Có thể nói đây là hình tượng thần tiên
sớm nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc được Trang Tử miêu tả nhằm làm sáng tỏ
“Đạo” của Lão Tử. Hình tượng thần nhân trong Nam Hoa kinh của Trang Tử tượng trưng
cho tinh thần tự do tiêu dao, siêu thoát, không gì ràng buộc, qua đó nhằm khẳng định lý
tưởng tự thích, tự khoái, khinh đời ghét tục, chứ không thể hiện tín ngưỡng thần tiên của
tác giả. Phương thức này có ảnh hưởng lớn đến thơ du tiên đời sau. Nhiều thi nhân làm
thơ du tiên không phải thuần túy chỉ mong cầu trường sinh thành tiên, mà còn là mượn
hình thức này để thể hiện tinh thần tự do không ràng buộc thế tục (như thơ du tiên Tào
Thực, Nguyễn Tịch, Kê Khang...)
Có thể thấy, cả Lão Tử và Trang Tử đều lấy tự nhiên làm cõi tối cao, coi trọng tự
do tâm linh, dựa vào cái chính khí của trời đất (đạo), cưỡi trên sự biến hóa của lục khí (âm,
dương, gió, mưa, sáng, tối) mà rong chơi trong cõi vô cùng. Đạo gia theo đuổi một nhân
sinh quan xuất thế, thanh tịnh vô vi, coi nhẹ sự sống chết, không quan tâm đến thế sự, chủ
trương giữ cho được sự thuần nhất, sự hồn nhiên, dứt bỏ sự khôn ngoan, tinh khéo. Đạo
gia đề cao tự do, phủ nhận mọi gò bó, cưỡng ép, cố gắng giảm bớt dục vọng ham muốn
cho tâm hồn được trong sáng, thanh thản. Tư tưởng giận đời ghét tục, trở về với tự nhiên
37

đã ảnh hưởng đến phương châm xử thế của kẻ sĩ từ bao đời nay. Sống trong nền quân chủ
chuyên chế, lễ giáo phong kiến đè nén họ đến không thở được. Họ bị nhồi sọ bởi bao độc
tố tư tưởng. Lại gặp phải thời loạn, chính trị đen tối, đến sinh mệnh cũng khó mà bảo toàn.
Đối diện với hiện thực này, những văn nhân nhạy cảm một mặt ôm chí hướng “đạt kiêm tế
thiên hạ”, mặt khác cũng chú ý tới đường lui “cùng tắc độc thiện kì thân”. Đồng thời với
việc tích cực nhập thế, họ cũng nỗ lực tìm kiếm một bến đỗ cho linh hồn để có thể xuất
thế, đóng cửa tu đạo, trở về với tự nhiên, ẩn dật chốn núi rừng. Thế giới thần tiên mà họ
theo đuổi là một thế giới lí tưởng như thế. Ở đó không có sự đè nén của lễ giáo, sự ràng
buộc của luân lí, không vì bảo vệ mạng sống mà phải im lặng, không vì tận trung tận hiếu
mà phải ngoan ngoãn phục tùng. Thế là văn nhân nhiều người chọn du tiên làm con đường
vượt lên mọi giới hạn. Tuy rốt cuộc không thể thành tiên, nhưng thông qua du tiên họ đạt
được sự tự do, tự tại nhất định.
2.2.3. Cội nguồn tôn giáo
Triết lí Đạo gia đã trở thành cơ sở triết học của Đạo giáo - tôn giáo bản địa lớn
nhất Trung Quốc. Nếu như nỗi sợ hãi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh tôn
giáo thì nỗi sợ hãi cái chết, khát vọng trường sinh là kim chỉ nam để người Trung Hoa tìm
đến với Đạo giáo. Đạo giáo hình thành từ thời Đông Hán, nhưng có nguồn gốc từ tín
ngưỡng ma thuật thời xưa ở Trung Quốc như đoán mộng, xem sao, bói mai rùa, cúng quỷ
thần, đồng cốt. Đến đời Hán, những tín ngưỡng ấy kết hợp với tư tưởng của Đạo gia, đặc
biệt của học phái Hoàng lão, dần dần hình thành nên Đạo giáo. Đạo giáo thờ Lão Tử làm
giáo chủ, tín ngưỡng cơ bản là đạo, tư tưởng trung tâm là tư tưởng thần tiên. Lí tưởng tối
cao mà Đạo giáo truy cầu là khát vọng phá vỡ giới hạn của sinh mệnh, biến cái hữu hạn
thành vô hạn, biến thân xác phàm tục thành thần tiên siêu thoát, trường sinh mãi mãi, có
thể cưỡi mây đè gió, thần thông biến hóa, thanh thoát tiêu dao nơi tiên cảnh. Vì vậy, cảnh
thần tiên trở thành không gian phổ biến của Đạo giáo. Trong truyền thuyết Đạo giáo, nơi
linh thiêng huyền diệu nhất là núi Côn Luân, một cõi trời bất diệt, một quần đảo thần tiên.
Mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú đều xoay quanh ngọn núi này. Ngoài ra còn có một
khu vườn thần tiên, nơi có những trái đào tiên mà ăn vào sẽ trở thành bất tử, nơi có một
mạch nước ngầm mà uống nước ở đó sẽ được trường sinh. Để có thể đắc đạo thành tiên,
chinh phục cái chết, Đạo giáo chỉ ra hai cách: thứ nhất là ngoại đan (từ thời Tần Thủy
Hoàng đã cho xây dựng lò bát quái để luyện đan, uống thuốc), thứ hai là nội đan (luyện
tinh, khí, thần mà lò luyện là thân thể, để có thể từ con người xác thịt tội lỗi trở lại con
người nhân bản mà cuộc đời tôn xưng là thần, tiên, phật). Những phương thức ấy đã trở
38

thành một loại mê tín của thế tục. Ma lực tôn giáo của nó đã lôi cuốn từ hoàng đế cho tới
thứ dân phải lao vào để thỏa mãn khát vọng trường sinh bất lão. Đạo giáo đem đến cho
con người trong xã hội phong kiến Trung Quốc xưa một sự yên ổn, cân bằng trong tâm
thái, một ước mơ trường sinh bất lão có khả năng thành hiện thực nhờ tu luyện, uống
thuốc, luyện đan.
Bản chất của tôn giáo là tìm kiếm sự vĩnh hằng. Mỗi tôn giáo đều có phương thức
tìm kiếm và lí giải khác nhau về sự vĩnh hằng ấy. Phật giáo và Cơ đốc giáo thường quan
niệm cõi đời là chốn khổ đau và hướng con người nhìn về thế giới bên kia, một thế giới
huyền ảo bên ngoài trần gian. Cơ đốc giáo chủ trương con người sau khi chết, linh hồn
được cứu rỗi lên thiên đường. Vì vậy hưởng lạc trong đời sống hiện thực sẽ chuốc lấy khó
khăn cho việc lên thiên đường của linh hồn. Phật giáo thì cho rằng đời người đầy rẫy sự
đau khổ, chết chóc, chỉ đến cõi Niết Bàn mới thoát khỏi đau khổ, tiến đến giới hạn cao
nhất. Niết Bàn là một cõi siêu thoát, chỉ có thể đạt tới khi thông hiểu mọi lẽ vô ngã, vô
thường. Cho nên thân này, đời này đều không đáng luyến tiếc. Vấn đề mà các tôn giáo
khác muốn giải thích là con người sẽ ra sao sau khi chết, còn vấn đề mà Đạo giáo muốn
giải quyết là người ta làm thế nào để không chết, tức là truy cầu trường sinh bất tử, nhục
thể thành tiên. Đạo giáo là tôn giáo duy nhất không bàn đến đời sau mà mưu cầu hạnh
phúc cho con người trong thì hiện tại, ở cõi đời này. Đạo giáo ca ngợi và tuyên dương
cuộc sống hiện thế, bởi vậy mới luyện thuốc trường sinh, tu tiên để kéo dài tuổi thọ. Đạo
giáo cũng chủ trương thanh tịnh vô vi, thuận theo tự nhiên nhưng không phải để đạt tới sự
siêu thoát về tinh thần như Lão Trang mà nhằm thỏa mãn dục vọng trường sinh bất tử của
con người trong thế giới hiện thực. Thế giới thần tiên trong quan niệm của Đạo giáo
không phải được đẩy lên tít tắp mây xanh, hay nước trời mênh mông, mà được thực hiện
ngay trong thế giới hiện thực, được cụ thể hóa thành 36 động thiên, 72 phúc địa. Những
vùng đất thần cảnh tiên ấy thường gắn với những ngọn núi nổi tiếng trong thiên hạ. Không
phải ngẫu nhiên mà các giáo phái của Đạo giáo trong quá trình hình thành và phát triển
đều ở trên những ngọn núi nổi tiếng. Vì họ cho rằng núi là nơi cư trú tốt nhất của thần tiên
khi hạ giáng phàm trần. Những nơi đạo sĩ tụ tập cũng đều là những danh lam thắng cảnh.
Hễ nhắc tới Đạo giáo là người ta nghĩ ngay tới những đạo sĩ trong núi, thích đời sống yên
tĩnh, di dưỡng tính tình, tìm cách trường sinh. Cõi trần và cõi tiên trong Đạo giáo không
hề có sự cách biệt. Cho dù đã tu luyện thành tiên, nhưng tiên vẫn có thể sống cuộc đời trần
tục. Đây là tôn giáo mang tính thế tục nhất. Muốn làm quan ư? Đạo giáo có “đường đến
núi Chung Nam”, không tốn nhiều sức lực mà lại có thể một bước lên mây xanh, nhỏ thì
39

có thể làm quan sử tuần châu, lớn có thể thành tể tướng. Muốn trường thọ ư? Đạo giáo có
thuật luyện đan, ít thì có thể kéo dài tuổi thọ, nhiều thì có thể trường sinh bất tử. Muốn tự
do ư? Đạo giáo có thần tiên động phủ và thuyết bay lên trời thành tiên, trên thì có thể ngao
du chín tầng trời, dưới lại có thể du ngoạn núi cao sông lớn. Muốn hưởng thụ ư? Đạo giáo
có thuật phòng trung, có thể thỏa mãn giấc mơ hạnh phúc. Có lẽ trên thế giới không có tôn
giáo nào quan tâm nhiều đến cuộc đời hiện thế như Đạo giáo. Nó biến nhân thế thành
thiên đình, biến hoàng đế thành ngọc đế, đem những bước đi nơi trần thế biến thành
chuyện thăng thiên thành tiên bay lên trời. Nó có sức mê hoặc đối với những người chịu
nhiều chua xót mà cảm thấy nhân sinh như mộng. Nó phù hợp với nhu cầu kịp thời hành
lạc của những con người phong lưu sung túc. Nó cũng phù hợp với sự theo đuổi tinh thần
của những văn nhân sĩ tử muốn cao bước xuất thế tìm trường sinh bất lão. Theo tác giả
Tống Hiểu Hà: “Đặc điểm và tư tưởng của Đạo giáo đã ảnh hưởng và quyết định sự phát
triển của thơ du tiên trên nhiều phương diện” [11, 187].
Những quan điểm triết học, tôn giáo không chỉ hóa thân vào phong tục tập quán
của dân tộc Trung Hoa mà còn chi phối quan điểm sống, những ứng xử nghệ thuật của họ.
Chịu ảnh hưởng của Đạo gia và Đạo giáo, du tiên trở thành một hoạt động xã hội phổ biến.
Những câu chuyện luyện đan, đạo dẫn, dùng y dược cứu đời phổ biến trong dân gian, trở
thành liều thuốc an thần xoa dịu nỗi sợ hãi cái chết và chắp cánh cho khát vọng trường
sinh bất tử của con người. Biết bao nhiêu người vào rừng leo núi, mơ giấc mơ hái thuốc
trường sinh hay giấc mơ Từ Thức gặp tiên trong động. Biết bao nhiêu đạo sĩ suốt đời tìm
linh chi, tiên dược, luyện đan, mong thực hiện khát vọng thọ ngang trời đất. Và biết bao
nhiêu ông vua vì mê đắm tiên dược mà rơi vào bi kịch, vì họ nghĩ rằng tìm kiếm tiên dược
là chìa khóa để mở cánh cửa tiên cảnh, là con đường tốt nhất để thực hiện khát vọng
trường sinh. Trong Hàn Phi Tử. Thuyết lâm thượng có ghi lại một câu chuyện như sau:
“Có người đem thuốc bất tử dâng vua Sở. Một viên quan gặp, hỏi cái mà anh ta cầm trong
tay có uống được hay không. Khi nghe nói có thể uống được, viên quan liền giật lấy thuốc
mà uống. Vua Sở biết chuyện, nổi giận đùng đùng, sai người giết viên quan ấy. Viên quan
nhờ người nói với vua Sở: “Thần hỏi người dâng thuốc, người ấy trả lời có thể uống được
nên thần mới uống. Thật thần vô tội, mà tội là ở người dâng thuốc. Người ta dâng vua
thuốc “bất tử”, thần uống vào mà lại bị vua giết, như vậy đó là “thuốc tử”. Vua giết thần là
giết một người vô tội. Nhưng thiên hạ dối vua thì vua vẫn tin”. Vua Sở nghe xong, không
có cách nào khác đã phải tha chết cho viên quan ấy” [107, 19]. Sở dĩ ông làm như vậy vì
không muốn nhìn thấy giấc mộng trường sinh của mình biến thành bào ảnh. Nếu giết viên
40

quan, thuốc “bất tử” thành “thuốc tử”, tức là dù không muốn cũng phải thừa nhận một
thực tế là không có thuốc nào giúp con người bất tử. Còn xử tội kẻ dâng thuốc đã lừa gạt
quân vương thì sau này ai còn dám hiến thuốc cho vua, còn đâu hi vọng trường sinh bất tử?
Gạt đi những mê cuồng thái quá, chúng ta thấy khát vọng trường sinh ấy thể hiện ý thức
ham sống đầy chất nhân văn của người Trung Hoa. Vì theo đuổi trường sinh bất lão, xét
cho cùng chính là truy cầu sự hưởng lạc mãi mãi trong thế giới hiện thực này. Song, du
tiên rốt cuộc là điều không thể thực hiện được trong cuộc sống hiện thực. Những mảnh vỡ
của hoạt động xã hội đã được bảo lưu trong hoạt động nghệ thuật. Và nghệ thuật - nơi
thăng hoa của những khát vọng, đã làm hiển linh khát vọng trường sinh thành những câu
chuyện thần thoại, tiên thoại hấp dẫn, li kì.
2.2.4. Cội nguồn thần thoại, tiên thoại
Thần thoại là thể loại truyện ra đời và phát triển sớm nhất trong lịch sử truyện kể
dân gian của các dân tộc. Thần thoại cổ đại Trung Quốc không có sách chuyên ghi chép
lại. Ngày nay muốn nghiên cứu phải căn cứ vào các bộ Sơn Hải Kinh, Thủy Kinh Chú,
Thượng Thư, Sử Kí, Lễ Kí, Tả Truyện, Hoài Nam Tử. Qua những câu chuyện được chép
trong bộ Sơn Hải Kinh, chúng ta thấy ý thức du tiên của người Trung Quốc đã manh nha
từ thần thoại cổ. Trong bộ sách thần thoại này có nhiều đoạn miêu tả thần bí, li kì, lãng
mạn mê người về thần và sự bất tử: núi bất tử, cây bất tử, người bất tử, thuốc bất tử.
Những câu chuyện như Thường Nga lên cung quế, Đất nước có thần nhân ở, Xích Tùng
Tử và người con gái của Viêm Đế, Ngưu Lang Chức Nữ, Hậu Nghệ xin thuốc của Tây
Vương Mẫu... không nghi ngờ gì nữa đã kích thích khát vọng của người Trung Quốc về
thế giới thần tiên, hi vọng có được “thẻ thông hành” để tiến vào “bất tử quốc” vĩnh hằng,
cực lạc. Từ thời Chiến Quốc đến Đông Hán đã diễn ra quá trình tiên thoại hóa một số thần
thoại. Tiên thoại là một dòng biến hóa của thần thoại, ra đời sau thần thoại. Tiên thoại là
những câu chuyện hoang đường tưởng tượng về các vị thần tiên, ma quỷ do người Trung
Quốc cổ xưa nghĩ ra để lí giải các hiện tượng tự nhiên và xã hội, đồng thời thể hiện khát
vọng chinh phục các hiện tượng đó. Trong tiên thoại có ba chủ đề cơ bản: chủ đề tu tiên
(bao gồm việc học pháp thuật, học ăn mặc, luyện khí công), chủ đề luyến ái (bao gồm tiên
nữ giáng trần và phàm nam du tiên), chủ đề cứu thế. Trong tiên thoại còn có cả một hệ
thống thần tiên như Ma Cô, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Bát Tiên, Xích Tùng Tử, Tây Vương
Mẫu, có linh thánh kì lạ, có tiên đồng làm phép, có chân nhân bay bổng. Nó tạo thành một
thế giới tự do và hạnh phúc, đủ cho ta mơ ước. Thơ du tiên lấy cảm hứng từ chính những
41

câu chuyện thần thoại, tiên thoại ấy và tạo cho mình một dòng chảy riêng biệt, để cuối
cùng hợp lưu thành dòng văn học mộng ảo Trung Hoa.
2.3. Sự ra đời và phát triển của thơ du tiên
Được gieo mầm và vun xới từ mảnh đất văn hóa màu mỡ, thơ du tiên khi sôi nổi bề
mặt, lúc ngầm ẩn tầng sâu đã xuyên suốt lịch sử phát triển thơ ca Trung Quốc. Ở mỗi thời
đại ta đều có thể nhìn thấy bóng dáng và những đặc điểm riêng của nó, gắn với bối cảnh
lịch sử và tâm thái sáng tạo độc đáo của thi nhân.
2.3.1. Tiến trình thơ du tiên trƣớc đời Đƣờng
2.3.1.1. Thơ du tiên thời tiên Tần: khơi nguồn dòng chảy
Thời tiên Tần, ý thức du tiên được thể hiện đậm nét trong Sở từ. Có thể gọi Sở từ là
tác phẩm của Khuất Nguyên vì toàn bộ tác phẩm theo thể loại này hiện nay còn giữ được
hầu hết là của Khuất Nguyên. Nếu Trang Tử miêu tả hình tượng thần nhân - người tiên
sớm nhất thì Khuất Nguyên là người đầu tiên thể hiện tư tưởng thần tiên trong thơ ca của
mình. Nếu du tiên của Trang Tử là chủ động, lạc quan, nhằm làm rõ đạo lí thì du tiên của
Khuất Nguyên là bị động, bi kịch, nhằm thể hiện tâm tình hoài bão. Sở dĩ Khuất Nguyên
có nhiều sáng tác thể hiện tư tưởng du tiên là vì tư tưởng này lưu truyền rộng rãi trong xã
hội đương thời, thêm với ảnh hưởng phong trào vu thuật của nước Sở, ý thức bi kịch sinh
mệnh và cảm giác gấp gáp thời gian không đợi người. Sống trong thời đại đen tối, hỗn
loạn, lí tưởng chính trị không thể thực hiện, mâu thuẫn giữa lí tưởng với hiện thực khiến
nhà thơ thả sức tưởng tượng, thần du cõi trời, tìm kiếm sự kí thác tinh thần ở một thế giới
khác. Nhưng Khuất Nguyên hâm mộ thần tiên, mong cầu trường sinh hoàn toàn khác với
đế vương, quý tộc và phương sĩ, không phải để làm thần tiên sống vui vẻ mà để tranh thủ
thời gian hoàn thành sự nghiệp, thực hiện lí tưởng nhân sinh. Li tao là bài thơ trữ tình cá
nhân đầu tiên, thể hiện tâm sự khổ đau của nhà thơ có tài, có tâm mà bị vu oan, muốn
trung quân ái quốc mà không được. Ông muốn đi tìm lí tưởng ở thế giới thần tiên và đã
bay lên trời tìm thần tiên để hỏi. Tư tưởng thần tiên trốn đời đen tối, tục lụy đã hình thành
từ đây. Khuất Nguyên đem thần thoại, truyền thuyết, tư tưởng thần tiên và vu thuật nước
Sở hòa vào làm một, sáng tạo nên hình tượng nhân vật trữ tình đạp gió, cưỡi rồng bay lên,
mở đầu cho loại hình thơ giàu màu sắc lãng mạn: thơ du tiên. Nhưng ước vọng cũng
chẳng làm tiêu tan được nỗi lòng bi phẫn: “Cất mình khoảng trời mây rộng rãi. Chợt
ngoảnh đầu trông lại quê hương. Ngựa buồn đầy tớ thảm thương. Co ro nhớn nhác ngại
đường chẳng đi”. Tổ quốc, quê hương đã níu chân ông lại. Thế giới hư ảo chỉ là cái bóng,
42

là âm bản của thế giới hiện thực. Tác giả nói đến thế giới thần tiên nhưng thực chất chỉ là
mượn ngoài để nói trong, mượn người để nói mình.
So với Li tao, Viễn du xuất hiện nhiều tiên nhân có tên tuổi, nhiều phương thuật tu
luyện của thần tiên, tư tưởng thần tiên trường sinh được biểu hiện nổi bật hơn. Trước tiên
nhà thơ thể hiện nguyên nhân viễn du của mình: “Bi thời tục chi bách hề. Nguyện khinh
cử nhi viễn du” (Buồn vì thói đời hay bức hại. Muốn nhẹ cất mình đi xa). Trong quá trình
viễn du, trải qua dưỡng khí, luyện khí, tu đạo, cuối cùng thi nhân đã đắc đạo thành tiên,
triệt để thoát khỏi những áp lực, hưởng hạnh phúc khoái lạc, tự do tự tại mà cuộc đời
không thể mang lại cho ông. Nhưng đó chỉ là sự giải thoát tạm thời, không thể triệt để giải
trừ được những lo âu về sinh mệnh. Từ trên trời nhìn xuống thấy quê hương, tình cảm yêu
nước đã khiến ông quay lại và đau khổ đầy lòng.
Thực ra, cả Li tao và Viễn du đều không thể gọi là những bài thơ du tiên thành thục
mà mới chỉ có sự manh nha của tư tưởng du tiên. Đây là dạng chưa định hình sớm nhất
của thơ du tiên. Từ đầu nguồn của thơ du tiên, Li tao và Viễn du đã lưu lại dấu ấn đậm nét
hình thức mượn du tiên để ngụ ý chính trị. Có thể nói Khuất Nguyên là người đặt ra mô
thức khảm lãm vịnh hoài (thể hiện những gập ghềnh chìm nổi) cho thơ du tiên đời sau.
Như Tào Tháo mượn đề vịnh thần tiên để biểu đạt hoài bão đế vương trong bài Thu hồ
hành, Tào Thực thể hiện tâm sự muốn phá vỡ sự ràng buộc của hiện thực trong các bài
Viễn du, Tiên nhân thiên. Thời Chính Thủy, Nguyễn Tịch mượn du tiên để vịnh hoài, Kê
Khang dùng du tiên để thuật chí. Ngoài ra, phương pháp sáng tác cụ thể của Li tao cũng
được các thi nhân đời sau học tập. Như cách viết từ trên trời nhìn xuống trần gian, tạo nên
mối quan hệ tiên - tục, hữu hạn - vô cùng (Tào Thực với Tiên nhân nhiên, Nguyễn Tịch
với Vịnh hoài bài 13, Lý Hạ với Mộng thiên, Lý Bạch với Cổ phong bài 19).
2.3.1.2. Thơ du tiên thời Tần Hán: định hình diện mạo
Đến cuối thời Chiến Quốc, đội ngũ phương sĩ càng lớn mạnh. Họ bắt đầu chuyển
trung tâm hoạt động từ vùng Yên Tề sang kinh đô nước Tần. Tần Thủy Hoàng thống nhất
Trung Quốc năm 221 TCN. Tài năng và ngạo khí kiêu hùng của bậc đế vương không dễ gì
chấp nhận giới hạn ngắn ngủi 100 năm. Chính lúc đó, cái tư tưởng thần tiên mà bọn
phương sĩ cổ xúy mang lại cho ông hi vọng bất tử thành tiên. Thế là ông lập tức nuôi giấc
mộng cầu tiên của vương hầu thời trước. Bốn lần tuần du trong đời, ngoài việc thể hiện uy
phong, quan trọng hơn là ông muốn tìm kiếm thuật trường sinh thành tiên. Nuôi hoài bão
xây dựng đế chế ngàn năm, ông sai phương sĩ ra khơi để tìm cho được thần dược bất tử.
Như vậy, sự tuyên truyền thuyết thần tiên của bọn phương sĩ và sự truy cầu không biết
43

mệt mỏi của Tần Thủy Hoàng về tiên nhân, tiên dược khiến văn hóa du tiên thời Tần đặc
biệt phát triển.
Nhưng Tần là thời đại về cơ bản không có văn học, do chính sách đốt sách chôn
nho của Tần Thủy Hoàng. Thơ du tiên đời Tần chỉ có bài Tiên chân nhân thi. Đây là bài
thơ Tần Thủy Hoàng sai bác sĩ làm để hóa giải nỗi lo của ông về chữ tử trong câu mật ngữ
mà ông nghe được do bọn đầu đen khắc vào đá: “Thủy Hoàng chết thì đất bị chia”. Bài
thơ hiện không còn, nhưng nội dung không nằm ngoài việc miêu tả cuộc sống của tiên
nhân, thể hiện sự ngưỡng mộ đối với tiên nhân. Khác với Li tao mượn du tiên để vịnh
những gập ghềnh chìm nổi trong lòng, điều mà bài thơ này thể hiện thuần túy là trường
sinh thành tiên, mở ra dòng sông liệt tiên chi thú (ca ngợi cảnh vui thú của tiên nhân) cho
thơ du tiên đời sau. Do đó, mặc dù bài thơ đã thất truyền nhưng vị trí quan trọng của nó
trong lịch sử phát triển thơ du tiên là không thể coi nhẹ.
Tư tưởng thần tiên ra đời và truyền bá rộng rãi ở thời Tần, đến thời Hán càng phát
triển, đặc biệt đến triều đại của Hán Vũ Đế thì đạt tới cao trào. Hán Vũ Đế một mặt theo
đuổi sự nghiệp vĩ đại, một mặt ôm giấc mơ trường thọ, sai dựng tượng tiên nhân bằng
đồng, hai tay bưng một mâm vàng hứng sương khuya từ mặt trăng rơi xuống để luyện
thuốc trường sinh bất lão. Việc mê cuồng cầu tiên của Hán Vũ Đế đã thúc đẩy đội ngũ
phương sĩ ngày càng lớn mạnh. Những người này được Hán Vũ Đế tín nhiệm. Họ hoặc ở
các ngọn núi nổi tiếng hầu thần đón tiên, hoặc ra biển tìm thuốc tiên, tham dự chính trị, có
ảnh hưởng lớn đối với xã hội đương thời. Dưới sự kích thích của Hán Vũ Đế và bọn
phương sĩ, một loạt hoạt động cầu tiên với quy mô lớn cũng ra đời. Cả xã hội phổ biến
phong trào cầu tiên, cầu trường sinh bất tử, thể hiện sự quan tâm của con người đối với
vấn đề sinh mệnh. Đây cũng là thời kì kinh tế phồn vinh, xã hội thái bình, con người đòi
hỏi được hưởng lạc. Nhưng sinh mệnh thì hữu hạn, làm thế nào để có thể vĩnh viễn kéo
dài cuộc sống? Tín ngưỡng thần tiên lấy việc truy cầu thân thể bất tử và tự do bay lên trời
làm mục đích thỏa mãn được nhu cầu tâm lý hưởng lạc của người Hán. Đây chính là
nguyên nhân quan trọng khiến tư tưởng thần tiên được truyền bá và tiếp nhận rộng rãi ở
thời kì này. Như vậy, tâm lí khao khát thành tiên của đế vương, phong trào tìm tiên hỏi
thuốc mà bọn phương sĩ dấy lên, tâm lí dân tộc truy cầu hưởng lạc... tất cả những yếu tố
đó đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của thơ du tiên đời Hán.
Thơ du tiên đời Hán chủ yếu tập trung trong Hán Nhạc Phủ. Nó đi chệch khỏi
truyền thống mượn du tiên để gửi gắm tình chí có từ thời tiên Tần với tác phẩm của Khuất
Nguyên, bắt đầu chuyển hướng biểu hiện liệt tiên chi thú. Có thể nói, tâm lí hưởng lạc và
44

ý thức bi kịch sinh mệnh của người đời Hán là nguyên nhân quan trọng của sự chuyển
hướng này. Trong Cổ thi thập cửu thủ, lần đầu tiên sự cảm thán về nhân sinh ngắn ngủi
được bộc lộ đến bi thương trong sự đối sánh với sông núi vĩnh hằng và khao khát trở
thành thần tiên: “Thọ mệnh phi tùng kiều. Thùy năng đắc thần tiên” (Thọ mệnh không
được như tùng bách. Ai có thể trở thành thần tiên). Tác phẩm du tiên của văn nhân trong
Hán Nhạc Phủ ít. Ngược lại, tác phẩm của dân gian lại rất nhiều, nội dung cũng phong
phú, đa dạng. Có bài thể hiện hình ảnh thần tiên tiêu dao tự tại (Ngâm thán khúc - Vương
Tử Kiều). Có bài thể hiện mơ tưởng quá trình thăng thiên và cảnh tượng nơi tiên giới
(Lũng Tây hành). Có bài miêu tả cảnh truy cầu tiên dược (Bình điệu khúc. Trường ca
hành). Có bài thể hiện cuộc sống thần tiên tốt đẹp, như trong bài Tạp khúc ca từ. Diễm ca,
thi nhân và người bạn cùng tới thiên giới. Ở đó, nhà thơ nhận được sự khoản đãi nhiệt tình
của các vị thần tiên. Thiên công - vị thống trị cao nhất nơi thiên giới và nhân thế tổ chức
yến tiệc chào mừng sự có mặt của thi nhân. Nam Tào, Bắc Đẩu cùng nhau diễn tấu, Hằng
Nga, Chức Nữ khiêu vũ theo nhạc. Không chỉ tiên nhân chào đón thi nhân, đến những
động vật linh thiêng như rồng xanh, hổ xám cũng đều tham gia vào hàng ngũ phục vụ.
Thực ra, khung cảnh yến tiệc náo nhiệt nơi tiên giới không khác với cảnh yến tiệc của quý
tộc ở thế gian. Do đó, nó là sự phản ánh khao khát bất tử để hưởng thụ khoái lạc chốn
nhân gian của người đời Hán.
Tóm lại, tư tưởng hạt nhân của thơ du tiên Tần Hán là sự lưu luyến đối với sinh
mệnh và truy cầu thân thể tồn tại vĩnh hằng. Đặc trưng của nó là sự chân thành tin tưởng
đối với thần tiên và khát vọng trường sinh bất tử. Trong thơ nhiều lần thể hiện nguyện
vọng mãnh liệt gặp tiên nhân, học tiên đạo, được tiên dược và trường sinh bất tử. Thơ du
tiên đến thời Tần Hán đã bổ sung thêm dòng liệt tiên chi thú (ca ngợi cảnh vui thú của tiên
nhân) bên cạnh dòng khảm lãm vịnh hoài (thể hiện những gập ghềnh chìm nổi trong lòng)
vốn được khơi nguồn từ thời tiên Tần. Thơ du tiên các đời sau về cơ bản men theo hai
dòng chảy đó mà phát triển.
2.3.1.3. Thơ du tiên thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều: phát triển mạnh mẽ
Manh nha từ thời tiên Tần, dần dần định hình ở thời Tần Hán, nhưng phải đến thời
Ngụy Tấn Nam Bắc triều, thơ du tiên mới chính thức trở thành thể loại đáng chú ý và phát
triển mạnh mẽ. Đó là kết quả tất yếu của một bối cảnh thời đại đặc thù. Bốn trăm năm thời
Ngụy Tấn Nam Bắc triều, chiến tranh liên miên, xương trắng phơi đầy đồng, nghìn dặm
không có nhà ở. Nội họa, ngoại hoạn liên tiếp, mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giai cấp rất
kịch liệt. Trong tình hình khủng bố tàn khốc ấy, Nho học sa sút, tư tưởng Lão Trang thịnh
45

hành. Kẻ sĩ thời Ngụy Tấn từ chỗ lo cho vua, cho nước chuyển sang lo cho mình. Họ ý
thức mãnh liệt về sinh mệnh cá thể. Nhiều văn nhân đi vào rừng, ẩn trong núi, lên núi cao
để độc lập với càn khôn, phóng lãng hình hài, uống rượu ngâm thơ, luyện đan, chìm đắm
trong tư tưởng hư vô của Lão Trang để giải phóng tâm linh, vơi bớt sầu khổ, lánh những
hệ lụy của đời thường. Phong khí ẩn dật chốn núi rừng trở thành thời thượng nhằm trốn
tránh tai họa, chứ thực ra trong tâm thức, họ không hoàn toàn nguội lạnh với cuộc đời. Bối
cảnh chính trị động loạn tăng thêm tình điệu bi kịch cho văn học. Đây là văn học thời loạn.
Sáng tác văn học rất tự nhiên hình thành một số chủ đề chung như sống, chết, du tiên, ẩn
dật. Tuy nhiên trong từng giai đoạn cụ thể lại có những biểu hiện khác nhau:
Thời Kiến An lâu nay vẫn được xem là thời đại hoàng kim của văn học. Thơ du
tiên thời kì này phải kể tới những sáng tác của Tào Tháo, Tào Thực, Tào Phi. Theo tác
giả Hùng Hiểu Yên, Tào Tháo có 8 bài thơ du tiên, chiếm 1/3 số lượng thơ ông [160, 21].
Những bài thơ này đều được sáng tác khi ông đã về già. Đây là thi nhân đầu tiên có ý
thức sáng tác thơ du tiên. Việc du tiên của Tào Tháo ở một mức độ lớn có liên quan đến
sự thức tỉnh ý thức cá nhân của con người cuối thời Hán. Đây là thời kì chiến loạn liên
miên, tính mệnh con người không được đảm bảo. Thảm trạng này khiến con người càng
quyến luyến vô hạn sinh mệnh của mình. Do đó, có một bộ phận lớn dấn thân vào du
tiên. Tào Tháo cũng không ngoại lệ. Nhưng với tư cách là một nhà chính trị sáng tác thơ
du tiên, ngoài việc sùng bái thần tiên, ông còn xem thơ du tiên là hình thức phát tiết tốt
nhất cho tâm lí bị ức chế khi nghiệp lớn chưa thực hiện được. Vì vậy, thơ du tiên Tào
Tháo không phải là loại thơ thuần du tiên, không quan tâm gì tới chính trị, tới khói lửa
nhân gian. Ông không phải là một tín đồ Đạo giáo cuồng nhiệt. Thơ du tiên của ông
danh là du tiên, nhưng tràn ngập giữa những dòng chữ là tinh thần tích cực tiến thủ,
phấn đấu không ngừng. Có thể phân thơ du tiên Tào Tháo thành hai loại: Loại thứ nhất
kế thừa truyền thống thơ du tiên trong Hán Nhạc Phủ, biểu hiện sự lãng mạn và ảo tưởng
đối với cảnh giới thần tiên và trường sinh bất tử, có thể xem là “tập đại thành” của thơ
du tiên Hán Nhạc Phủ. Như trong bài Mạch thượng tang ông viết: “Thực chi anh. Ẩm lễ
tuyền. Trụ trượng quế chi, bội thu lan. Tuyệt nhân sự, du hỗn nguyên. Nhược tật phong
du, hốt phiên phiên” (Tạm dịch: Ăn linh chi. Uống cam tuyền. Cầm gậy quế và đeo hoa
lan. Dứt chuyện đời, du đất trời. Như gió lốc bay nhảy muôn nơi). Loại thứ hai mượn đề
vịnh thần tiên để trữ tình, vịnh hoài, tìm kiếm triết lý nhân sinh, từ đó mở ra truyền
thống và cảnh giới mới cho thơ du tiên của văn nhân (các bài Khí xuất xướng 1, 2, 3,
Thu hồ hành). Ông hoàn thành bước chuyển từ thơ du tiên trong Hán Nhạc Phủ quan
46

tâm tới trường sinh, trốn đời, liệt tiên chi thú đến việc miêu tả tình chí và cuộc sống cá
nhân. Ông khơi lại dòng khảm lãm vịnh hoài trong Li Tao của Khuất Nguyên vốn bị đứt
đoạn từ thời Tần Hán, khiến tính chất thơ du tiên trữ tình điệu vui chuyển sang tình điệu
bi kịch, từ chúc mừng thượng thọ chuyển sang biểu hiện tâm tình cá nhân, trở thành một
dạng đặc biệt của thơ trữ tình vịnh hoài.
Trong số các thi nhân Kiến An, Tào Thực là người sáng tác nhiều thơ du tiên nhất
(12 bài). Ông cũng là người đầu tiên lấy du tiên làm tiêu đề. Thật ra, Tào Thực không tin
thờ Đạo giáo, từng viết Biện đạo luận để bài bác sự giả dối của các phương sĩ. Ông có thái
độ hoài nghi và phủ định đối với thuyết thần tiên. Ông hâm mộ thần tiên, tả cảnh tiên là
xuất phát từ cảnh ngộ trói buộc trong hiện thực. Ngay từ thời niên thiếu, ông đã ôm chí
lớn lập công dựng nghiệp. Ông tự ví như chim hồng hộc, tự xưng là người có đại đức,
muốn vung kiếm thét vang, khí tiết bừng bừng sôi. Sau này bị đãi ngộ lạt lẽo, trên danh
nghĩa ông là vương hầu nhưng thực tế lại là tù nhân, sống như bị giam lỏng, bao nhiêu lí
tưởng sự nghiệp tuổi trẻ đều hóa thành bọt nước. Thơ du tiên Tào Thực không trở thành
sản phẩm tuyên truyền cho thần tiên mơ mộng mà trở thành phương thức nghệ thuật để thi
nhân suy nghĩ về sinh mệnh, tìm kiếm chân giá trị cuộc đời. Vì vậy danh là du tiên, thực
là vịnh hoài. Ông cũng có những bài thể hiện cảnh vui thú của tiên nhân (như Thăng thiên
hành, Phi long thiên, Tiên nhân thiên). Trong bài Tiên nhân thiên, nhà thơ đã xây dựng
nên thế giới thần tiên khôi lệ. Ở đó ông được nghe nhạc tiên cảm động lòng người, được
hưởng đồ tiên trân quý, được vui vẻ cùng tiên nhân: “Tiên nhân lãm lục trước. Đối bác
Thái Sơn ngung. Tương Nga phụ cầm sắt. Tần nữ xuy sinh vu. Ngọc tôn doanh quế tửu.
Hà bá hiến thần ngư” (Tạm dịch: Tiên nhân cầm lục trước. Thái Sơn dạo bước chân.
Tương Nga đàn cầm sắt. Lộng Ngọc sáo trong ngân. Chén ngọc tràn rượu quế. Hà bá dâng
cá thần). Tuy nhiên, Tào Thực chủ yếu thể hiện khát vọng tự do trong những vần thơ du
tiên mơ mộng này. Như trong bài Du tiên ông viết: “Nhân sinh bất mãn bách. Tuế tuế
thiểu hoan ngu. Ý dục phấn lục cách. Bài vụ lăng tử hư. Thiền thuế đồng tùng tề. Phiên
tích đăng đỉnh hồ. Ngao tường cửu thiên thượng. Sính bí viền hành du. Đông quan phù
tang diệu. Tây lâm nhược thủy lưu. Bắc cực huyền thiên chử. Nam tường trắc đan khâu”
(Tạm dịch: Chẳng đầy trăm đời người. Năm tháng ít ngày vui. Ý muốn tung sáu cánh. Rẽ
mây vút lên trời. Ve lột xác cùng thông. Đỉnh hồ bước lên chơi. Chín tầng trời bay liệng.
Giọng cương tít xa vời. Đông ngắm Phù Tang sáng. Tây nhìn Nhược Thủy trôi. Bắc đến
huyền thiên bến. Nam lên Đan Khâu chơi). Phong cách thơ Tào Thực cũng như Tào Tháo,
đều hùng hồn, sục sôi, tinh thần tiến thủ mãnh liệt. Song, Tào Tháo vốn gửi gắm trong thơ
47

du tiên khát vọng kiến công lập nghiệp của mình, do đó thơ du tiên mang khí thế khoáng
đạt, như sông dài biển rộng. Còn Tào Thực nặng về thể hiện nỗi khổ đau và sự ức chế
trong lòng. Tình cảm kí thác khác nhau, phong cách thơ ca hùng kì phiêu dật thì “dị khúc
đồng công” (khác điệu nhưng hay như nhau).
Khác với Tào Thực, Tào Phi sống đời vương tôn công tử, đế vương, đường đời đắc
ý, tự xem là “đạt nhân”. Đối với chuyện thần tiên ông giữ thái độ phê phán. Thơ du tiên
của ông số lượng ít nhất nhưng tính hiện thực mạnh nhất. Ông mượn đề tài thần tiên để
biểu hiện tư tưởng phản thần tiên. Ví dụ bài Chiết dương liễu hành trước sau không thống
nhất. Phần đầu viết chuyện phục dược bay lên trời: “Thượng hữu lưỡng tiên đồng. Bất ẩm
diệc bất thực. Dữ ngã nhất hoàn dược. Quang diệu hữu ngũ sắc. Phục dược tứ ngũ nhật.
Thân thể sinh vũ dực. Khinh cử thừa phù vân. Thúc hốt hành vạn ức” (Tạm dịch: Trên có
hai tiên đồng. Không ăn và chẳng uống. Đưa ta một viên thuốc. Chói lóa năm sắc màu.
Uống bốn năm ngày sau. Trên mình sinh đôi cánh. Nhẹ vỗ lên mây thẳm. Thoát vượt vạn
dặm dài). Phần sau lại thể hiện sự hư ảo của thần tiên và thuyết trường sinh. Chủ điểm của
bài thơ là phê phán thần tiên, càng không nói đến chuyện có kí thác gì. Thực ra, chính Tào
Thực trong bài Tặng Bạch Mã vương Bưu cũng từng phủ định chuyện cầu tiên và trường
sinh bất tử: “Khổ tân hà lự tư. Thiên mệnh tín khả nghi. Hư vô cầu liệt tiên. Tùng Tử cửu
ngô khi” (Tạm dịch: Đau khổ rồi lo lắng. Mệnh trời chẳng đáng tin. Cầu tiên đều hư huyễn.
Tùng Tử lừa ta đâu). Điều đó cho thấy, ngay từ thời này, con người đã bắt đầu có dấu hiệu
hoài nghi tư tưởng thần tiên.
Tóm lại, thơ du tiên của Tào Tháo, Tào Thực, Tào Phi kế thừa mô thức cầu tiên,
cầu trường sinh trong thơ du tiên Tần Hán, nhưng đối với vấn đề sinh mệnh có sự nhận
thức tỉnh táo và lí trí, sớm nhìn thấy tính hư vô của thần tiên. Thơ du tiên thời này bắt
đầu thể hiện sự nghi ngờ đối với phương thuật thần tiên và trường sinh bất tử. Tư tưởng
thần tiên và niềm tin của người đời Hán về sự tồn tại vĩnh hằng bị phủ định dưới ánh
sáng của lí trí. Tam Tào còn mở rộng chủ đề và cách thức biểu hiện của thơ du tiên. Thơ
du tiên trong Hán Nhạc Phủ trọng tự sự (kể chuyện), của tam Tào có màu sắc trữ tình
nồng đậm. Trước đây, thơ du tiên dài ngắn không đều, kiểu câu pha tạp, không có sự
thống nhất. Đến Tào Tháo, thơ trở nên tề chỉnh, cách luật. Họ còn vận dụng thể loại ngũ
ngôn để sáng tác thơ du tiên, kết hợp tự sự và trữ tình, thúc đẩy sự phát triển của thơ du
tiên. Họ đưa tình cảm mãnh liệt của cá nhân vào thơ du tiên, không chỉ miêu tả tiên cảnh
và quá trình du tiên mà còn chú trọng biểu hiện ý chí cá thể. Đến tam Tào, thơ du tiên từ
chỗ lấy biểu hiện cảnh vui thú của tiên nhân làm chính ở đời Hán một lần nữa quay trở
48

về với truyền thống thể hiện những gập ghềnh chìm nổi trong lòng mà Khuất Nguyên là
người khơi dòng định lối.
Đến thời Chính Thủy, Tư Mã Chiêu sau khi cướp được chính quyền Tào Ngụy,
để củng cố sự thống trị của mình đã làm suy yếu lực lượng văn nhân đối kháng, sát hại
nhiều danh sĩ trong thiên hạ. Hoàn cảnh chính trị hiểm ác khiến nhân sĩ thời đó không còn
muốn kiến công lập nghiệp mà đem toàn bộ nhiệt tình vào việc trốn đời tiêu cực, bảo
trọng mạng sống. Họ truy cầu sự tự do, thỏa mãn về nhục thể và tâm linh. Trong số họ có
người gửi thân nơi rừng núi, có người đắm chìm vào phục thực dưỡng sinh, nôn nóng với
mộng tưởng trường sinh, có người cuồng ẩm để truy cầu sự kích thích giác quan và nhục
thể. Có người lại đi vào con đường huyền học để phản ứng lại với vương triều đó. Do sức
ép của chính trị và tinh thần lẩn trốn hiện thực của các trí thức nên phần lớn các tác phẩm
cuối Ngụy đã không còn tính hiện thực như của các nhà văn Kiến An. Trong thiên Minh
thi, Lưu Hiệp viết: “Thời Chính Thủy làm sáng đạo, thơ xen ý thần tiên” [dẫn theo 3, 261].
Tuy vậy, Kê Khang và Nguyễn Tịch vẫn giữ được truyền thống Kiến An, kết hợp chặt chẽ
với hiện thực. Hai nhà thơ này đều tôn sùng Lão Trang và phản đối lễ giáo, bởi vì thấy lễ
giáo đã thành công cụ của họ Tư Mã tàn bạo, hủ bại. Họ đều theo đuổi một lối sống tự do
về tinh thần, chủ trương vượt qua danh giáo để phó mặc tự nhiên. Họ đều sáng tác nhiều
thơ du tiên để thể hiện chí hướng thoát khỏi trần thế, tiêu dao vũ trụ, thể hiện tinh thần
phản kháng đối với hiện thực. Tác giả Tống Hiểu Hà nhận định: “Thơ du tiên của họ nói
là khao khát thần tiên không đúng bằng nói rằng họ mượn cớ du tiên để biểu hiện thái độ
ngông nghênh ngạo đời và tâm thái tự xưng cao khiết, cái mà Khuất Nguyên gọi là “cử thế
giai trọc, nhi ngã độc thanh” (cả cõi đời đục mà riêng mình ta trong). Do đó thơ du tiên
của họ hàm chứa sự truy cầu nhân cách lý tưởng và niềm thanh cao cô độc [11, 196].
Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Kê Khang chủ yếu sống ẩn dật, thể hiện thái
độ bất hợp tác với tập đoàn Tư Mã. Thơ du tiên của Kê Khang thể hiện nguyện vọng trốn
tránh lưới trần và kiếm tìm tri kỉ, phục thực dưỡng sinh và theo đuổi cảnh vui thú của tiên
nhân. Theo Kê Khang, ẩn dật là con đường nhân sinh lý tưởng. Trong thơ du tiên của ông
không có suy nghĩ cố chấp kiến công lập nghiệp như Tào Tháo, Tào Thực, chỉ có thú ẩn
dật xuất thế. Ông lấy ẩn dật để đối kháng với xã hội ô trọc, xem ẩn dật là con đường trốn
tránh sự bức hại của chính trị. Do đó, Du tiên thi của ông cất cao giọng tuyệt tục: “Dao
vọng sơn thượng tùng. Long cốc uất thanh thông. Tự ngộ nhất hà cao. Độc lập quý vô
song. Nguyện tưởng du kì hạ. Khê lộ tuyệt bất thông. Vương Kiều khí ngã khứ. Thừa vân
giá lục long. Phiêu phiêu hí huyền phố. Hoàng lão lộ tương phùng. Thu ngã tự nhiên đạo.
49

Khoáng nhược phát đồng mông. Thái dược Chung sơn ngung. Phục thực cải tư dung.
Thiền thuế khí uế lụy. Kết hữu gia bản đồng. Lâm trường tấu cửu thiều. Nhã ca hà ung
ung. Trường dữ tục nhân biệt. Thùy năng đổ kỳ tung” (Tạm dịch: Xa trông tùng trên núi.
Thông cao cây xanh um. Kìa ngọn cây cao vút. Đứng đó thật vô song. Những muốn chơi
dưới ấy. Ngõ quanh đường không thông. Vương Kiều lìa bỏ tớ. Đáp mây cưỡi sáu rồng.
Phiêu diêu đùa huyền phố. Hoàng lão được tương phùng. Trao ta đạo tự nhiên. Như dạy
trẻ vỡ lòng. Hái thuốc góc núi Chung. Uống vào đổi tư dung. Ve lột bỏ ô uế. Kết bạn nhà
gỗ đồng. Nâng chén tấu cửu thiều. Nhã ca tiếng trập trùng. Xa cách mãi người đời. Ai biết
tung tích ông). Thơ du tiên Kê Khang là một cách đối kháng lại hiện thực ô trọc, làm nhạt
hóa nỗi bi ai, đau xót trong lòng ông, là sự lựa chọn bất đắc dĩ để ông thoát khỏi bi kịch
sinh mệnh. Những bài thơ thể hiện tâm tình ẩn dật ấy không chỉ mở rộng phạm vi đề tài
cho thơ du tiên cổ đại, mà còn mở ra con đường cho thi nhân đời sau lấy du tiên làm
phương thức trốn đời, ẩn dật.
Cũng như Kê Khang, Nguyễn Tịch là một nhân vật bi kịch trong một thời đại đặc
biệt. Lịch sử đã khơi dậy sự thức tỉnh của cá nhân, nhưng lại không tạo hi vọng gì để thực
hiện sự theo đuổi đó, ông đành phải giả cuồng lánh đời. Hình ảnh chim hạc đen vỗ cánh
bay vút lên tận trời xanh, không muốn chung bầy với loài gà vịt chính là tượng trưng cho
tính cách trong sạch, cao thượng của nhà thơ. Theo tác giả Hùng Hiểu Yên, Nguyễn Tịch
“lưu danh hậu thế nhờ 82 bài Vịnh hoài thi, trong đó có khoảng hơn 20 bài là thơ du tiên”
[160, 38]. Đặc điểm chung của những bài thơ này là kín đáo, sâu sắc, xa xôi, khó biết nói
gì. Sở dĩ có đặc điểm ấy, ngoài nguyên nhân Nguyễn Tịch thích trình bày huyền lý, còn có
liên quan đến việc ông mượn đề tài thần tiên để vịnh thời sự, thể hiện tâm tình. Thơ du
tiên Nguyễn Tịch thường thể hiện nỗi cảm khái vì thói đời hiểm ác mà dẫn tới sinh mệnh
ngắn ngủi (Vịnh hoài thi, bài 35). Ông khao khát trường sinh: “Độc hữu diên niên thuật.
Khả dĩ úy ngô tâm” (Riêng có thuật trường thọ. An ủi được lòng ta) (Vịnh hoài, bài 10).
Ông viện dẫn những nhân vật thần tiên trong truyền thuyết như Vương Tử Kiều, Xích
Tùng Tử, An Kì Sinh, Tây Vương Mẫu, những tiên cảnh như Côn Luân, Thái Hoa để thể
hiện tình cảm hâm mộ tiên của mình: “Nguyện đăng Thái Hoa sơn. Thượng dữ Tùng Tử
du” (Muốn leo lên núi Thái Hoa. Bay cùng Xích Tùng Tử) (Vịnh hoài thi, bài 32). Song,
dù tiên cảnh trong thơ ông được miêu tả lý tưởng đến thế nào, bản thân ông rốt cuộc vẫn
tỏ ra thương cảm, sầu muộn. Ông lấy việc du tiên - cái thế giới tiêu dao mà ông hằng theo
đuổi làm một trong những điểm tựa của tinh thần, làm một con đường tự giải thoát.
50

Nhưng đau khổ trong lòng vẫn không được giải trừ, ông vẫn ôm một niềm cô độc thanh
cao: “Thanh điểu minh ngã tâm” (Chim xanh rõ lòng ta) (Vịnh hoài, bài 22).
Bước sang thời Tây Tấn, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa đều tương đối khoan
dung. Phần nhiều trí thức chọn con đường triều ẩn, tức là vừa tham gia đời sống chính trị
vừa ẩn dật. Đây là thời kỳ tương đối trầm lắng của thơ du tiên, số lượng ít, chất lượng
cũng không cao. Văn sĩ thời này vừa không giống Tào Tháo mượn du tiên để thể hiện hoài
bão công danh, cũng không như Tào Thực mượn hình tượng đại bàng bay lên để thể hiện
sự truy cầu tự do. Họ cũng không làm được như Kê Khang, Nguyễn Tịch mượn du tiên để
thể hiện cái tình của ẩn sĩ trốn đời, tiêu dao. Sự truy cầu của văn sĩ thời này đại đa số chỉ
để thỏa mãn lợi ích cá nhân, thiếu đi lí tưởng và tinh thần trách nhiệm đối với vận mệnh
đất nước. Xu hướng tư tưởng của nó là quay trở về ca ngợi cảnh vui thú của tiên nhân thời
Hán, ít kí thác những gập ghềnh chìm nổi. Tác phẩm tiêu biểu có Du tiên thi, Tiêu sử khúc
của Trương Hoa, Đông vũ ngâm hành, Tiền hoãn thanh ca của Lục Cơ.
Cuối Tây Tấn cho tới Đông Tấn, chính trị loạn lạc. Danh sĩ thời này mất dần ý
thức kiến công lập nghiệp, nguội lạnh với cuộc đời, tâm hồn thản nhiên trước những biến
cố, những bi kịch nhân sinh mà chỉ quan tâm tìm sự giải thoát. Huyền học ngày càng trở
thành cái hầm trú ẩn cho các trí thức lẩn trốn hiện thực. Mọi người chuyên chú bàn về
những vấn đề cao diệu của nhận thức, về bản thể vũ trụ mà quên mất chuyện thế sự, nhân
sinh. Thời kỳ này có Quách Phác chuyên làm thơ du tiên. Thơ du tiên của ông hiện còn 19
bài. Cũng như Khuất Nguyên, Tào Thực, Kê Khang, Nguyễn Tịch, thơ du tiên Quách
Phác biểu hiện những gập ghềnh chìm nổi chứ không phải cảnh vui thú của tiên nhân.
Ông lấy việc du tiên để phủ định vinh hoa phú quý trong thế tục: “Chu môn hà túc vinh.
Vị nhược thác Bồng Lai” (Cửa son đâu có gì vinh. Sao bằng gửi kiếp lên trình Bồng Lai).
Ông ca ngợi cảnh nhàn tản, lánh đời: “Cao đạo phong trần ngoại. Trường ấp tạ Di Tề”
(Thanh thoát ngoài trần tục. Vái dài chào Di, Tề). Đem chuyện ẩn dật hòa đồng chuyện du
tiên, cho thấy mục đích chính của tác giả chỉ là muốn lánh đời phiền tạp, muốn bày tỏ nỗi
niềm của mình chứ không phải nghĩ tới chuyện du tiên thực sự. Du tiên trở thành “bình
chứa” những tâm tư phiền muộn. Cùng với sự phát triển của Đạo giáo và sự thịnh hành
của phong trào ẩn dật, kẻ sĩ ẩn cư nơi núi sâu, tu luyện tiên đạo ngày càng nhiều, hình
thành nên kiểu quan niệm tiên ẩn, xem ẩn dật là tiên. Thơ du tiên Quách Phác thể hiện sự
kết hợp tuyệt vời giữa tiên và ẩn, ẩn dật và du tiên lúc này không còn là hai cách song
hành mà là một để giải trừ đau khổ. Đây là sự phát triển chủ đề ẩn dật truyền thống, cũng
là sự sáng tạo lớn của thơ ca trong việc thể hiện đề tài tiên đạo. Ngoài ra, thời kì này còn
51

có Dữu Xiển, Dương Hi, Đào Uyên Minh làm thơ du tiên. Đặc biệt là Dương Hi. Trong
thơ ông thể hiện nhiều nghĩa lí Đạo giáo, phát ra âm thanh đầu tiên trong việc Đạo giáo
hóa thơ du tiên.
Đến thời Nam Bắc Triều, trung tâm kinh tế, văn hóa dời về phía Nam. Sáng tác
thơ du tiên Nam triều cũng phát triển hơn so với Bắc triều. Tầng lớp quý tộc Nam triều
tuy cũng sùng bái tín ngưỡng thần tiên của Đạo giáo, nhưng còn say mê những khoái lạc
nhân thế nhiều hơn. Vì vậy thơ du tiên Nam triều đã thể hiện tâm lí song trùng: vừa muốn
thành tiên vừa không nỡ rời những khoái lạc nhân gian, như Du tiên thi của Lương Võ Đế,
Xích Tùng giản thi của Thẩm Ước. Tác giả Trương Chính Kiến trong bài Thần tiên biên
đem diễm ca cung thể và thơ du tiên kết hợp với nhau, trong du tiên có diễm tình, trong
diễm tình có du tiên, phản ánh tâm lí vừa muốn thành tiên vừa không cam lòng từ bỏ tửu
sắc. Do tác giả chủ yếu đều tập trung ở phía Nam nên văn học phương Bắc tương đối khô
khan. Hơn nữa, ở phương Bắc, chiến tranh liên miên, lại chịu sự thống trị của tộc khác,
thơ ca phần nhiều lấy đề tài hiện thực làm chủ, như du hiệp, biên tái. Sáng tác du tiên
thoát li hiện thực không phát triển, chủ yếu có các tác giả Nhan Chi Thôi, Trịnh Đạo
Chiêu... Nhìn chung, thơ du tiên thời Nam Bắc triều chịu ảnh hưởng sâu sắc của Đạo giáo,
trở thành sự diễn dịch cho nghĩa lí Đạo giáo, tô điểm cho cuộc sống phù hoa của quý tộc,
tính tư tưởng và nghệ thuật giảm mạnh. Đây là thời kì tương đối trầm lắng của thơ du tiên.
Nhìn lại toàn bộ thơ du tiên thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, chúng tôi thấy nổi bật
đặc trưng ẩn dật. Thời này, một mặt du tiên và ẩn dật phát triển theo hai hướng độc lập.
Mặt khác, xu hướng kết hợp du tiên và ẩn dật ngày càng mạnh mẽ, cuối cùng khiến ẩn dật
nhập vào du tiên, trở thành một con đường du tiên. Thơ du tiên thời kì này không giống
với thơ huyền ngôn. Thơ huyền ngôn chủ yếu là sản phẩm ảnh hưởng của huyền học, xem
thơ là sự chú thích huyền lí, mất đi tính sinh động và tính hình tượng, là bước lùi, là dòng
nước ngược trong lịch sử thơ ca Trung Quốc. Thơ du tiên là hình thức đầu tiên của văn
học chịu ảnh hưởng Đạo giáo nhưng nó không trình bày những giáo lí, đạo nghĩa khô
khan mà ra sức phát huy trí tưởng tượng, miêu tả tiên nhân, tiên cảnh, sáng tạo nên cảnh
giới lí tưởng nhằm thể hiện tư tưởng, tình cảm của thi nhân.
2.3.2. Thơ du tiên đời Đƣờng - hiện tƣợng nổi bật trong lịch trình thơ du tiên
Phát triển lớn mạnh ở thời Ngụy Tấn, tương đối trầm lắng ở thời Nam Bắc triều,
đến đời Đường, các thi sĩ uống trọn mạch nguồn thơ du tiên truyền thống, làm một cuộc
chạy tiếp sức và trở thành những người “giữ lửa” cho thơ du tiên đời sau. Hiện tại được
trang hoàng bởi truyền thống, truyền thống hiển linh trong hiện tại là diện mạo giá trị vĩnh
52

cửu ở mọi thời. Từ tính chất vừa cổ điển vừa hiện đại, mượn cách diễn đạt của Octaviopaz,
ta cũng có thể nói thơ du tiên đời Đường là “sản phẩm của ngàn năm song cũng là của
giây phút, nó ngàn tuổi song lại cũng vừa mới chào đời”.
2.3.2.1. Khái quát diện mạo
Khảo sát thơ du tiên đời Đường trên nền thơ du tiên Trung Quốc, chúng tôi nhận
thấy các thi nhân đời Đường đã kế thừa và nâng dòng thơ này lên đỉnh cao hoàn mĩ. Có
thể nói, đến đời Đường, thơ du tiên phát triển chưa từng có, số lượng tăng vọt (thời Ngụy
Tấn Nam Bắc Triều chỉ có hơn 100 bài, thời Đường 223 bài), chất lượng cũng đạt tới đỉnh
cao. Du tiên không chỉ còn là đề tài, mà còn là hứng, là tứ, là tình. Cảm hứng thần tiên của
các thi sĩ đời Đường gửi gắm theo cánh hạc vàng bay bổng, theo đám mây lưng trời, tiếng
suối róc rách, mơ màng về chốn non ngọc, đài Dao: “Dao Đài hàm vụ tinh thần mãn. Tiên
Kiệu phù không đảo dữ vi” (Đài Dao chứa đầy sương khói trăng sao. Núi tiên bềnh bồng
nhấp nhô gò đảo) (Tống Hạ Giám quy Tứ Minh ứng chế - Lí Bạch). Và không hiếm lần
cảm hứng thần tiên được khởi phát trong những chuyến viễn du, bước chân thi nhân lãng
đãng giữa cõi đời. Thôi Hiệu đi qua Hoa Âm mà cảm khái: “Tá vấn lộ bàng danh lợi
khách. Hà như thử xứ học trường sinh” (Xin hỏi khách danh lợi ngược xuôi bên đường.
Sao bằng ở chốn ấy mà học phép trường sinh) (Hành kinh Hoa Âm). Chu Phác đến quán
đạo Đồng Bách mà ngộ ra chân lí trần thế chính là thiên đường: “Dục thức Bồng Lai kim
tiện thị. Cánh ư hà xứ học vong kinh” (Muốn biết cõi Bồng Lai, nay chính là ở đấy. Lại
còn đi học phép tiên ở đâu nữa) (Đồng Bách quán). Cảm hứng thần tiên nở rộ trong thơ
làm định hình phong cách (thơ du tiên đời Đường), kết tinh trong con người thơ tiêu biểu
là Lí Bạch (người ta gọi ông là người có tiên phong đạo cốt và thơ ông là thơ của một
“trích tiên”). Và đôi khi được trang hoàng cho thêm phần kì ảo, lung linh bằng giai thoại
cuộc đời thi sĩ (giai thoại kể lại rằng Lí Hạ khốn đốn suốt đời, khi sắp chết lại mơ thấy
một người mặc áo đỏ, cưỡi rồng đỏ đến vẫy gọi ông đi. Lí nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi,
thượng đế làm xong lầu Bạch Ngọc rồi, cho gọi con đến để làm thơ lạc thành đây. Ở trên
trời sướng lắm, không khổ đâu” [dẫn theo 13, 13].
Sự hưng thịnh và đạt đến đỉnh cao của thơ du tiên đời Đường không phải là một
hiện tượng ngẫu nhiên mà nó là kết tinh của cả một quá trình chịu sự quy định, ảnh hưởng
nhiều mặt của thời đại và kế thừa truyền thống nghệ thuật thơ ca. Trong rất nhiều nguyên
nhân dẫn tới sự nổi bật của thơ du tiên đời Đường, chúng tôi đặc biệt lưu ý tới sự phát
triển của Đạo giáo và xu hướng thế tục hóa của tôn giáo bản địa này. Song, thi nhân đời
Đường làm thơ du tiên, điều đó không đồng nhất với việc họ là tín đồ trung thành của Đạo
53

gia và Đạo giáo, cũng như tác giả của những bài thơ thiền không hoàn toàn là tín đồ ngoan
đạo của Phật Thích Ca Mầu Ni. Có thể ngoài đời, nhiều người trong số họ là đạo sĩ hay
thiền sư, nhưng khi cầm bút, thơ họ là sự sống lên hương và hồn thi sĩ thăng hoa thành
nghệ thuật. Họ hướng về thế giới thần tiên, nhưng đó không thuần túy là biểu hiện tín
ngưỡng tôn giáo mà trước hết biểu đạt cách nhìn và hi vọng của thi nhân đối với hiện thực
và nhân sinh. Trong thơ du tiên đời Đường, thành phần mĩ học vượt xa thành phần tín
ngưỡng, ý nghĩa nghệ thuật cũng vượt xa ý nghĩa tôn giáo. Những vần thơ “đăng cao”
bằng mơ mộng ấy thể hiện sự xê dịch trong không gian vật chất và quan trọng hơn là
trong không gian tinh thần, đưa con người thoát khỏi những ràng buộc, gò trói, từ chối
những bon chen xô bồ, những toan tính lợi danh của phàm trần thế tục để thuận theo tự
nhiên, tự do tự tại. Thơ du tiên đời Đường là cuộc vượt hiện thực bằng phương pháp ảo
tưởng, là sự lên tiếng của con người tâm linh, con người khát vọng, đưa họ tới một miền
đất hứa, để có thể tạm quên trong giây lát những phiền tạp bất tận của nhân gian, từ đó mà
biết sống sâu hơn khi quay về với cuộc sống đời thường.
2.3.2.2. Các giai đoạn phát triển
Nhìn tổng thể, thơ du tiên đời Đường là dòng mạch giàu sinh lực, góp phần tạo nên
khí tượng dạt dào hoành tráng của thi ca thời đại này. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn, thơ
du tiên lại có những đặc điểm cụ thể, gắn với bối cảnh xã hội, văn hóa và tâm thái thi nhân.
Thời Sơ Đường, chính trị sáng sủa, sức nước cường thịnh, tâm lí thỏa mãn. Tư
tưởng chủ yếu của giới nhân sĩ là nhập thế chứ không phải xuất thế. Quan niệm về thần
tiên của giai cấp thống trị thời kì này cũng rất tỉnh táo. Đường Thái Tông cho rằng chuyện
thần tiên vốn là hư ảo. Trong Đế kinh thiên (bài 9), tác giả đã rất thông minh cự tuyệt yêu
cầu của nhân dân muốn ông viễn du cầu tiên. Trong con mắt của Đường Thái Tông, thiên
cung trên trời không bằng cung điện chốn nhân gian. Vui chơi vườn thượng uyển, thưởng
thức rượu ngon, bạn cùng cung nữ, hà tất phải phí sức cầu tiên. Thời kì này, sùng đạo và
sùng tiên không phải là đồng nhất. Sự tôn sùng Đạo giáo của vương triều Sơ Đường chủ
yếu là vì mục đích chính trị chứ không vì mê tín thần tiên. Thi nhân nhạt loãng ý thức cầu
tiên. Trong bài Tặng học tiên giả, Vương Tích khẳng định con đường tìm thuốc cầu tiên
vô cùng xa xôi, ai biết được tiên nhân ở nơi nào, sống cuộc sống điền viên mùa nào thức
ấy, vui say cùng bè bạn còn hơn là đi học luyện đan sa: “Xuân nhưỡng tiên tùng diệp. Thu
bôi tẩm cúc hoa. Tương phùng ninh khả túy. Định bất học đan sa” (Tạm dịch: Mùa xuân ủ
nước lá tùng. Mùa thu uống trà hoa cúc. Thà say cùng bè bạn. Còn hơn là học đan sa). Tất
cả những điều đó đã ức chế sự phát triển của thơ du tiên. Tác giả tiêu biểu thời kì này có
54

Vương Tích, Vương Bột, Lư Chiếu Lân. Từ Sơ Đường tứ kiệt đến Trần Tử Ngang, thơ du
tiên dần dần thoát khỏi màu sắc nghĩa lí và phương thuật Đạo giáo nồng đậm, sức tưởng
tượng được nâng lên, tinh thần thời đại được thể hiện. Các nhà thơ phát hiện ra cảnh thực
nơi trần thế đẹp như cảnh tiên, xem trần thế là thiên đường hơn là bám víu chốn hư không
thăm thẳm.
Đến thời Thịnh Đường, sự phồn vinh của xã hội đã làm “giãn nở” dục vọng của
con người. Họ tự khẳng định mình bằng những con đường như tòng quân để kiếm ấn
phong hầu, thi cử để bước chân vào con đường làm quan hoặc chờ đợi thời cơ được tiến
cử. Họ hứng thú với tư tưởng thần tiên nhưng không hề cuồng tín. Thơ du tiên vốn được
xem là thoát li hiện thực, tiêu cực trốn đời đến thời kì này cũng thể hiện tinh thần tiến thủ
tích cực. Số thi nhân thời Thịnh Đường tiếp xúc với Đạo giáo tuy nhiều nhưng lượng tác
giả sáng tác thơ du tiên lại ít. Ngô Quân và Lí Bạch là những tên tuổi nổi bật thời kì này.
Ngô Quân là thi nhân kiêm đạo sĩ. Thơ du tiên của ông chủ yếu có Du tiên thi 24 bài, Bộ
hư từ 10 bài, là sản phẩm của sự kết hợp giữa văn học và Đạo giáo. Tuy là một đạo sĩ, có
sự tu dưỡng lí luận cao nhưng màu sắc thuyết giáo trừu tượng trong thơ ông không đậm,
màu sắc mê tín và phương thuật cũng nhạt nhòa, nhường chỗ cho màu sắc lãng mạn nồng
đậm và trí tưởng tượng phong phú của thi nhân. Thơ du tiên Ngô Quân biểu hiện sự vượt
qua thế tục mà hâm mộ việc cầu tiên và truy cầu cảnh giới siêu nhiên, kế thừa dòng mạch
liệt tiên chi thú vốn đã được định hình từ thời Tần Hán: “Nguyện ngôn sách yên giá. Phiêu
miểu tầm An Kỳ. Huy thủ tạ nhân cảnh. Ngô tương tòng thử từ” (Tạm dịch: Những mong
cưỡi mây khói. Phiếu diểu tìm An Kỳ. Nhân thế thôi từ tạ. Từ nay ta biệt ly) (Đăng Bắc
Cố sơn vọng hải). Còn với Lí Bạch, người ta thường nói trong con người ông vừa có khát
vọng của một Đạo gia muốn siêu trần thoát tục, vừa có hoài bão của một hiệp khách băn
khoăn cứu khốn phò nguy. Và tính chất nửa tiên nửa tục ấy cũng là một đặc điểm của thơ
họ Lí. Thơ du tiên Lí Bạch hít thở mạch sống phi thường của thời đại, vừa có tiên phong
đạo cốt lại vừa thể hiện tinh thần thời Thịnh Đường phấn chấn hiên ngang. Chưa bao giờ
trong lịch sử thơ du tiên Trung Quốc lại xuất hiện một thế giới thần tiên xao động đến thế,
thăng hoa đến thế. Ông nói về cảnh thần tiên với tâm thế của một người tiêu dao, không
vướng bận, thật mộng, thật say, thật thoát, thật tình: “Phiêu nhiên huy thủ lăng tử hà.
Tùng phong túng thể đăng loan xa. Đăng loan xa, thị Hiên Viên. Ngao du thanh thiên
trung, kỳ lạc bất khả ngôn” (Nhẹ nhàng vẫy tay bay ngang ráng tía. Theo gió thong thả lên
xe loan. Lên xe loan, chầu Hiên Viên. Ngao du trong trời xanh, vui không nói nên lời)
(Phi long dẫn, bài 1) (Ngô Văn Phú dịch). Lí Bạch không chỉ đại diện cho thơ du tiên
55

Thịnh Đường mà với phong cốt ấy, diện mạo ấy, họ Lí còn chiếu ánh sáng rực rỡ lên toàn
bộ lịch sử thơ du tiên.
Bước sang thời Trung Đường, do xã hội động loạn, sự kinh hoàng chấn động
trong đáy sâu tâm hồn nhà thơ. Họ không còn có thể ngẩng đầu chiêm vọng bầu trời bát
ngát mà rớt xuống đất bằng vất vả, nhọc nhằn. Thơ du tiên thời kì này cũng không còn
phơi phới gió xuân mà hun hút thổi thứ gió thu xạc xào, thê thiết. Các nhà thơ phê phán
mạnh mẽ chuyện cầu tiên học đạo. Tiên cảnh, tiên nhân chốn hư vô cũng được họ miêu tả
đậm đặc mùi vị và màu sắc trần gian. Tác giả tiêu biểu nhất thời kì này là Lí Hạ. Cuộc đời
Lí Hạ nhàu nát vì đau khổ. Những con sóng lòng ông luôn va đập, tạo thành mâu thuẫn
giữa hai nét tâm lí tự tin (vì tài hoa thiên bẩm, cho rằng mình thuộc hậu duệ của tôn thất
nhà Đường) và tự ti (vì thời đại suy vi, thói đời ghẻ lạnh, cảnh nhà khốn khó, thể chất gầy
yếu, bệnh tật, diện mạo bên ngoài xấu xí khó coi, những lận đận trên con đường thi cử,
làm quan). Nhưng Lí Hạ sở trường trong việc nhờ vào ảo giác chuyển đổi sự thiếu hụt của
mình sang phương hướng ngược lại. Ngoài những câu thơ mang âm hồn lãng đãng, với
tiếng hư vô kẹt cửa, tiếng bào thai run rẩy, tiếng mộ địa trở mình của một hồn thơ bị vây
khốn, mang vẻ đẹp quái diễm của một phong cách nghệ thuật có tính chất thần chú, Lí Hạ
còn hấp dẫn người đọc bởi một loạt những bài thơ du tiên độc đáo như Mộng thiên, Thiên
thượng dao, Kim đồng tiên nhân từ Hán ca, Hạo ca, Khổ trú đoản, Quan nhai cổ, Tiên
nhân, Thần tiên khúc, Lan Hương thần nữ miếu... Thơ du tiên Lí Hạ thể hiện khát vọng
của ông về trường sinh, về tình yêu, là sự hóa giải những phẫn hận trong cuộc đời ngắn
ngủi của mình. Mặc dù vậy, những vần thơ du tiên ấy cũng không hoàn toàn siêu thoát.
Đến thời Vãn Đường, Đạo giáo với tư cách là tôn giáo ngày càng trở nên mất
thiêng trong mắt mọi người. Ý thức phản du tiên của giới nhân sĩ ngày càng rõ rệt. Màu
sắc ảo tưởng trong thơ du tiên nhạt dần, hương vị tình người càng thêm nồng đậm. Thơ
du tiên Vãn Đường có đặc trưng nghệ thuật hóa mà ít có ý vị tuyên truyền tôn giáo.
Những thiên cung địa phủ, nhân vật thần tiên, câu chuyện truyền thuyết trong Đạo giáo
được đưa nhiều vào thơ, thay thế hệ thống thần tiên lấy Côn Luân và Bồng Lai làm chủ
thể trong thơ du tiên thời kì đầu. Nhiều nội dung của Đạo giáo được đưa vào thơ du tiên
nhưng không nhằm tăng không khí tôn giáo cho mảng thơ này mà khiến phạm vi biểu
hiện càng thêm phong phú. Lí Thương Ẩn và Tào Đường là hai tác giả tiêu biểu thời kì
này. Trong thơ mình, Lí Thương Ẩn thường tận dụng tính đa nghĩa của ý tượng thần
thoại và thêm vào đó sắc màu bi kịch. Chẳng hạn, non Bồng là nơi ở của tiên, là thế giới
đào nguyên trong mộng tưởng của thi nhân, tượng trưng cho hạnh phúc đong đầy.
56

Nhưng trong Vô đề bài 1, sự xa xôi của non Bồng được thi nhân phóng đại đột xuất:
“Lưu lang dĩ hận Bồng sơn viễn. Cánh cách Bồng sơn nhất vạn trùng” (Chàng Lưu ân
hận chốn non Bồng xa xôi. Nay lại cách non Bồng đến một vạn dặm). Non Bồng vốn
chập chờn ẩn hiện, vốn chỉ là ảo ảnh không thể tới, huống gì lại cách đến vạn trùng.
Hình ảnh thần thoại non Bồng xa xôi càng tô thêm sắc màu bi kịch, thực chất tượng
trưng cho tình yêu không thể truy tìm và sự đau khổ, vô vọng trong tình yêu là tột độ,
vĩnh viễn. So với Lí Thương Ẩn, cuộc đời và thơ ca Tào Đường có nhiều điểm chung:
trước học đạo cầu tiên, sau dự thi tiến sĩ, làm việc tại các phủ, đều một đời trầm luân
khổ ải, đem tâm trạng bất bình kí thác vào những hình tượng nữ tính mềm mại, đều sáng
tác nhiều thơ du tiên, sử dụng những câu chuyện thần tiên, hình ảnh trong kinh điển của
Đạo giáo. Tuy nhiên, nếu thơ Lí mông lung, ai oán, sử dụng nhiều điển tích, điển cố và
biện pháp ẩn dụ, những hình ảnh nhỏ nhoi, tàn tạ, mong manh nhằm thể hiện tiếng kêu
thương của một con người bị dập vùi, cách trở, không lối thoát trong định mệnh kiếp
người thì thơ Tào Đường lại khác. Đặc sắc thơ Tào Đường là chân và tục. Bề ngoài là
du tiên, thực chất nói chuyện tình yêu. Đằng sau câu chuyện thần tiên là cái tình tương
tư giữa nam và nữ. Thơ Lí Thương Ẩn thuần tuý trữ tình. Thơ Tào Đường kết hợp trữ
tình và tự sự. Thơ du tiên của Tào Đường so với thơ du tiên của Lí Thương Ẩn có cái
diệu của “dị khúc đồng công” (khác điệu nhưng hay như nhau).
Trên đây là sự quan sát của chúng tôi đối với thơ du tiên đời Đường theo mặt cắt
ngang. Nó cho thấy ở từng giai đoạn, thơ du tiên đều có những đặc điểm riêng, thay đổi
tương thích với những biến thiên của thời đại và của thơ Đường. Đến đời Đường, thơ du
tiên còn xuất hiện những đặc trưng nổi bật như tiên hóa, diễm tình hóa, thế tục hóa, những
nguyên tắc mĩ học và tình điệu thẩm mĩ như lấy đại làm mĩ, lấy mộng làm mĩ, lấy bi làm
mĩ, tự sự kết hợp trữ tình. Điều đó cho thấy, cái mới không thật sự quyết định ở đề tài, mà
ở cách xử lí đề tài, ở cái nhìn mới về một đề tài đã cũ.
2.3.3. Thơ du tiên từ đời Tống đến đời Thanh: dần dần suy thoái
Đến thời Tống, nội ưu ngoại hoạn, ý thức hiện thực tăng cao: “Tương phùng hưu
vấn Đào nguyên sự. Thế thượng hưng vong hựu kỷ xuân” (Gặp nhau chớ nhắc Đào
nguyên. Hưng vong cuộc thế bao lần xuân qua) (Đào nguyên - Hà Mộng Quế). Diện phản
ánh cuộc sống rộng mở, nhiệt tình sáng tác thơ du tiên của các thi nhân thời này không
cao bằng thi nhân thời Đường. Thêm với đây là thời đại hưng thịnh của Nho học, Lý học.
Mà nhà nho thường bài bác những yếu tố hư ảo, hoang đường, trọng lí tính và thích hướng
về con đường hiện thực nên thơ du tiên thời này còn mang tính nghị luận. Các tác phẩm
57

tiêu biểu thời này là Lưu đề tiên đô quan của Tô Thức, Du tiên ngũ thủ, Hàng hải, Mộng
tiên của Lục Du, Hoài tiên của Chu Hi... Thời Nguyên, sự dung hợp giữa thiên sư đạo và
toàn chân đạo, nhân sĩ và đạo sĩ đã thúc đẩy thơ du tiên thịnh hành thêm một lần nữa.
Song, do sự áp bức của kẻ thống trị và chính sách phân biệt đối xử, khiến cho tâm lí văn
nhân một thời gian dài bị kìm nén, phản ánh vào thơ du tiên tình điệu buồn bã thê lương.
Cũng như thời Ngụy Tấn, thơ du tiên giờ đây trở thành phương thức để các tác giả gửi
gắm những tâm tư muộn phiền. Số thi nhân sáng tác thơ du tiên nhiều, nhưng đại đa số
đều có chung phong cách ai oán, thê lương. Thời kì này có những tác phẩm tiêu biểu như:
Kí mộng (Lưu Ân), Tương phu nhân vịnh (Nguyên Hiếu Vấn), Tiểu du tiên thập thủ
(Dương Duy Trinh)... Sau khi triều Minh thành lập, thời kì đầu một số thi nhân trung
thành với triều đại trước còn sáng tác một số bài thơ du tiên kí thác nỗi cảm khái thân thế,
thời thế. Đến giai đoạn sau, Đạo giáo ngày càng dung tục, mê tín hóa, mất đi sức hấp dẫn
cao nhã. Sáng tác thơ du tiên trở nên tiêu điều do tín ngưỡng thần tiên đã không còn vị thế
trong trái tim của văn nhân sĩ đại phu. Đến đời Thanh, sự thịnh hành của lí học Trình Chu
và văn tự ngục khiến tư tưởng văn nhân bị trói buộc khắt khe, Đạo giáo ngày càng suy tàn,
thơ du tiên càng tỏ ra sa sút. Cũng từ đó, nó không còn hưng thịnh trở lại được nữa.
Như vậy, so với thơ du tiên trước và sau đời Đường, thơ du tiên đời Đường đa
dạng hơn nhiều về phong cách, phong phú hơn nhiều về nội dung, điêu luyện hơn nhiều
về nghệ thuật biểu hiện, xứng đáng là hiện tượng nổi bật trong lịch trình phát triển của thơ
du tiên Trung Quốc. Nhìn sang địa hạt văn xuôi chúng ta thấy cũng có một hệ thống các
tác phẩm viết về đề tài du tiên, bắt đầu từ những câu chuyện thần thoại, tiên thoại mà luận
án đã đề cập ở trên. Ngoài ra còn phải kể đến Đào hoa nguyên kí của Đào Uyên Minh với
sự sáng tạo hình tượng thung lũng suối hoa đào có thể sánh được với cái huyễn tượng xã
hội mà phương Tây gọi là utopia. Rồi một loạt tiểu thuyết mang đậm màu sắc thần tiên
như Phong thần diễn nghĩa, Đông du kí, Tây du kí. Trong Tây du kí, mong muốn bất tử và
khát vọng chinh phục cái chết được Ngô Thừa Ân chung đúc lại trong hình tượng những
viên linh đơn, những quả nhân sâm, những trái đào trường thọ. Trong Liêu trai chí dị (Bồ
Tùng Linh) cũng có một nhóm thư sinh do chán ghét khoa cử, chán cuộc đời đầy ngang
trái bất công mà tìm đến chốn tiên lánh đời phiền tạp. Dòng mạch văn xuôi viết về đề tài
du tiên cũng phát triển không kém so với thơ du tiên. Và đó đều là sự thăng hoa từ truyền
thống văn hóa du tiên, thể hiện nét đặc sắc trong quan niệm nhân sinh, lí tưởng thẩm mĩ
của người Trung Hoa.
58

Tiểu kết chương 2:


Văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường văn hóa của một thời đại và truyền
thống văn hóa độc đáo của một dân tộc. Tín ngưỡng dân gian sợ hãi cái chết và khát vọng
trường sinh bất tử, cơ sở lịch sử xã hội cụ thể thời Xuân Thu Chiến Quốc, triết học (Đạo
gia), tôn giáo (Đạo giáo) và những câu chuyện thần thoại, tiên thoại về đề tài du tiên đều
là cơ sở của sự ra đời thơ du tiên. Thơ du tiên đời Đường được dưỡng nuôi từ cội nguồn
văn hóa độc đáo của Trung Hoa, thể hiện khát vọng của người Trung Hoa về sự trường
sinh bất lão, tự do, về cái đẹp tuyệt đối trong cuộc đời vô thường. Dòng thơ ấy đã ra đời,
phát triển và lên tới đỉnh cao trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, từ manh nha (thời tiên
Tần) đến định hình (thời Tần Hán) và phát triển (thời Ngụy Tấn). Có những giai đoạn
trầm lắng (Nam Bắc triều) nhưng chưa hề đứt đoạn để rồi lại khởi sắc và đạt tới cao trào
(thời Đường). Đến thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh, thơ du tiên vẫn còn xuất hiện, nhưng
do bối cảnh thời đại đặc thù, nó không còn là một đề tài nổi bật nhất và được trao vòng
hào quang bất tử như ở thời Đường. Dù trong từng giai đoạn, thơ du tiên đời Đường lại có
những đặc điểm khác nhau (như chúng tôi đã phân tích ở trên) nhưng vẫn có những điểm
thống nhất xuyên suốt các thời kì, thể hiện diễn trình phát triển và làm nên diện mạo nổi
bật của thơ du tiên đời Đường trong lịch trình thơ du tiên Trung Quốc. Đó chính là những
đặc trưng thẩm mĩ, sẽ được chúng tôi triển khai cụ thể trong chương 3.
59

CHƢƠNG 3
ĐẶC TRƢNG THẨM MĨ CỦA THƠ DU TIÊN ĐỜI ĐƢỜNG

Luận giải của chúng tôi ở chương 2 đã đưa đến kết luận: so với thơ du tiên trước và
sau đời Đường, thơ du tiên đời Đường đa dạng hơn nhiều về phong cách, phong phú hơn
nhiều về nội dung, điêu luyện hơn nhiều về nghệ thuật biểu hiện. Lấy tên đề tài làm tên
của một dòng thơ, một thi phái, thơ du tiên đời Đường hấp dẫn người đọc chính vì những
đặc trưng thẩm mĩ độc đáo của nó. Khái niệm đặc trưng thẩm mĩ mà chúng tôi sử dụng
làm tên chương được hiểu như là sự bao quát những nét đặc sắc nội dung và nghệ thuật
của thơ du tiên đời Đường dưới góc nhìn thẩm mĩ. Thơ du tiên đời Đường nổi bật lên ba
đặc trưng cơ bản là tiên hóa, diễm tình hóa và thế tục hóa. Gắn liền với ba đặc trưng ấy
là những phương thức sáng tạo nghệ thuật chủ yếu: lấy đại làm mĩ, lấy mộng làm mĩ,
tự sự kết hợp với trữ tình. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn có hệ hình thẩm mĩ, hệ hình tiếp
nhận riêng. Nếu đặc trưng nổi bật của thơ du tiên thời Sơ, Thịnh Đường là tiên hóa, siêu
thoát, biến đời thường thành tiên thì đến thời Trung, Vãn Đường, thơ chuyển từ phong
cách hướng ngoại sang hướng nội. Các nhà thơ quan tâm tới tình yêu, đặc biệt là tình yêu
giữa tiên và phàm. Họ kéo tiên về với đời, giải thiêng những hình ảnh mĩ lệ như tiên cảnh,
tiên nhân, những niềm tin tưởng như bất diệt về một thế giới vĩnh hằng không có nơi trần
thế. Và việc nâng một vẻ đẹp trần gian lên tầm vóc thần thoại hay đưa một vẻ đẹp xa xôi,
vốn chỉ tồn tại trong tưởng tượng xuống tiếp cận với hiện thực đời thường đều là những
xu hướng chủ yếu, những đặc trưng thẩm mĩ của thơ du tiên đời Đường, thể hiện diễn
trình từ tiên hóa đến thế tục hóa, từ thăng hoa, siêu thoát đến giải mộng, giải tiên.
3.1. Tiên hóa cảnh vật và con ngƣời trần thế
Bản chất của du tiên là siêu thoát. Và đặc sắc của thơ du tiên so với các đề tài thơ
khác là đã dựng lên được một miền đất hứa, một thế giới lí tưởng, thỏa mãn khát vọng đầy
nhân tính của con người. Hình tượng tiên nhân siêu phàm thoát tục, không gian tiên giới
mĩ lệ, tràn đầy ánh sáng luôn được các nhà thơ tưởng tượng và dồn hết bút mực sáng tạo.
Tuy nhiên, điểm độc đáo của các thi nhân đời Đường là ở chỗ, khi làm thơ du tiên, họ đã
chuyển hướng biểu hiện từ tiên cảnh về với trần gian, quan tâm tới tính khả thi của du tiên
trong đời sống hiện thực. Nếu du tiên trước đây là hư ảo, thường chỉ tồn tại trong tưởng
tượng của con người thì đến đời Đường, họ đã đưa nó vào thực tế cuộc sống, xem đó là
một việc thực để theo đuổi, như theo đuổi giá trị được xác lập trong chính cuộc đời này.
Họ nỗ lực tiên hóa cảnh vật và con người trần thế. Tiên hóa ở đây vừa thể hiện cách nhìn
60

sự vật và con người từ góc độ lãng mạn, vừa thể hiện sự lựa chọn phương thức sáng
tạo lấy đại làm mĩ, hóa thực thành hư, biến thường thành kì khiến đối tượng được
miêu tả lộ ra vẻ đẹp tiên hương thần sắc. Xu hướng này chủ yếu diễn ra ở giai đoạn Sơ,
Thịnh Đường, gắn liền với điều kiện kinh tế, chính trị cụ thể, sự phát triển của Đạo giáo
và quan niệm địa tiên.
3.1.1. Cơ sở hình thành đặc trƣng tiên hóa
3.1.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị
Nhà Đường tồn tại gần ba trăm năm. Trong hơn một trăm năm đầu, sức nước hùng
mạnh, kinh tế dồi dào, chính trị sáng sủa, văn hóa hòa đồng Nam - Bắc, giao lưu trong -
ngoài. Cương vực rộng lớn, núi sông tự nhiên hùng vĩ, bao la khiến con người nảy sinh
cảm giác như tiên cảnh. Đời sống tinh thần của văn nhân cũng phát triển nên việc ngao du,
thưởng ngoạn cảnh đẹp tự nhiên trở thành trào lưu phổ biến. Có những nhà thơ như Lí
Bạch đã giành gần nửa cuộc đời mình cho những cuộc viễn du nơi núi cao rừng sâu, đầu
non vách suối. Không khí lạc quan phấn chấn bao trùm thời đại cộng với cặp mắt nghệ sĩ
khiến các nhà thơ nhìn đâu cũng phát hiện ra thơ tứ. Qua lăng kính lãng mạn của thi nhân,
núi rừng đã trở thành tiên cảnh giữa trần gian, là ốc đảo xanh tươi làm dịu mát hồn người.
Ngoài ra, việc nhà Đường tuyển lựa nhân tài theo con đường thi cử khiến kẻ sĩ có điều
kiện để thi thố tài năng. Xã hội coi trọng tài năng đã cổ xúy cho lòng tin của con người
vào chính mình, kích thích trí tưởng tượng và ý thức khẳng định giá trị cá nhân trước cộng
đồng. Họ hướng tới việc kiến công lập nghiệp, quan cao lộc hậu, phú quý vinh hoa, thỏa
mãn về vật chất và tinh thần, hoan lạc tuổi thanh xuân, hưởng thụ nhân sinh, tự do nơi trần
thế. Người thời Sơ, Thịnh Đường tuy hứng thú với tư tưởng thần tiên nhưng cái mà họ
chú trọng là nhân sinh hiện thực, cái mà họ truy cầu là công danh phú quý hiện thế. Họ
vừa yêu thích tự do, giải phóng cá tính, vừa theo đuổi sự nghiệp để khẳng định cái danh
với đời sau, vừa lí tưởng, vừa trần tục đời thường. Ý thức về cái tôi bừng dậy hơn bao giờ
hết. Cái tôi giải phóng chính mình khỏi những lề thói, chuẩn mực vốn trói buộc con người,
xem mình là tiên, đặt một dấu bằng giữa mình với tiên. Đây chính là cơ sở xã hội của sự
xuất hiện xu hướng tiên hóa cảnh vật và con người trần thế, thể hiện số đo chiều cao khát
vọng, tâm hồn, trí tuệ con người trong thơ du tiên đời Đường.
3.1.1.2. Sự phát triển của Đạo giáo và quan niệm địa tiên
Chính những đặc điểm kinh tế, chính trị trên đây đã quy định sự tiếp nhận của con
người đối với tôn giáo. Đến đời Đường, Nho, Phật, Đạo cùng phát triển. Nghệ sĩ đời
Đường hô hấp không khí ấy, tắm mình trong dòng hội lưu ấy. Tuy vậy, Đạo giáo vẫn
61

được chú trọng hơn cả. Một số ông vua đời Đường tự nhận là hậu duệ của Lão Tử, coi
Đạo giáo là tôn giáo chính thống của hoàng gia, tôn Lão Tử làm thái thượng huyền
nguyên hoàng đế. Họ lợi dụng vai trò to lớn của tôn giáo để thần thánh hóa sức mạnh của
triều đại mình. Đời Đường Huyền Tông có tới 1687 đạo quán được xây dựng ở khắp nơi.
Số lượng đạo sĩ tăng nhiều. Đạo giáo lúc này giống như một mạng lưới cực lớn bao trùm
lên các giai tầng trong xã hội, thẩm thấu vào nhiều bình diện của đời sống. Thi nhân đời
Đường hoặc nhiều hoặc ít đều từng có một giai đoạn qua lại với cao nhân dật sĩ trong núi,
từng viết những bài thơ du tiên phỏng đạo. Ở ẩn chốn núi rừng, du lãm nơi đạo quán, kết
giao với đạo sĩ, khiến đạo sĩ và người thường càng có nhiều sự qua lại. Đặc biệt, ở thời
Thịnh Đường, dưới sự thúc đẩy, khích lệ của hoàng đế, nhân sĩ đồng khởi du tiên, có
luyện đan phục dược mong cầu trường sinh bất lão, có mạn du sông núi, ngắm cảnh thiên
nhiên đầy tình thơ ý họa mà di dưỡng tính tình và nảy sinh ảo giác gặp tiên, thành tiên.
Nhập đạo du tiên trở thành thời thượng, thần tiên trở thành mẫu hình nhân cách và phương
thức sống lí tưởng của nhân sĩ thời bấy giờ. Vừa kiến công lập nghiệp, vừa theo đạo du
tiên, khi đắc ý thì có thể coi là thanh cao thoát tục, khi thất ý trên con đường làm quan thì
lại lên thẳng mây xanh mà ngạo thế bất bình.
Đặc biệt, đến thời kì này, quan niệm địa tiên - một nội dung quan trọng của Đạo giáo
được người đời Đường chú ý. Thực ra, quan niệm này có từ thời Đông Tấn, đến đời Đường
tiếp tục được thừa nhận và phát triển. Cát Hồng thời Đông Tấn trong Bão phác tử. Nội thiên
đã nhấn mạnh vị trí của địa tiên. Địa tiên theo quan niệm của ông là một bộ phận thần tiên
từ tiên giới hạ xuống trần gian, phương thức sống của họ không khác với người phàm
nhưng họ có thể tự do qua lại giữa trần gian và thiên giới. Thừa nhận sự tồn tại của địa tiên
tức là giới hạn giữa tiên và người thêm một bước bị phá vỡ. Cát Hồng muốn mở thông hai
thế giới hiện thực và siêu thực, tiên cảnh chính là nhân thế, nhân thế cũng là tiên cảnh, sửa
mình và trị nước là hai việc song hành. Hai nhà tư tưởng Đạo giáo nổi tiếng, cùng thời với
Lí Bạch là Tư Mã Thừa Trinh và Ngô Quân ra vào chốn cung đình, giao lưu thơ, rượu với
văn nhân, không có gì khác biệt với người thường. Chính họ cũng chủ trương có thể học để
trở thành thần tiên. Bất luận là ở nơi rừng sâu hay núi cao, bất luận là người tốt hay người
xấu, thông qua tu luyện đều có thể thành tiên. Đến đây, màu sắc thần bí của thần tiên cơ bản
đã mất. Đặc biệt ở giai đoạn Sơ, Thịnh Đường, cho dù là ẩn dật, tu đạo cũng mang tinh thần
thời thịnh trị. Động cơ và mục đích ẩn dật lúc này đã khác so với trước, nó không còn thể
hiện sự trốn đời và bất mãn đối với hiện thực mà là một phương thức để tiến thủ. Ẩn dật
thời Sơ, Thịnh Đường là con đường ngắn nhất để đạt được sự thăng hoa chốn quan trường.
62

Giai cấp thống trị đời Đường cất nhắc cả những dật nhân, đạo sĩ, khuyến khích sự lưu hành
phong khí xã hội ẩn dật cầu danh. Ẩn dật đã ngang với tòng quân tác chiến, tuy hình thức
khác nhau nhưng tính chất đều là truy cầu công danh, tích cực tiến thủ và thể hiện ý thức
chủ thể của con người đời Đường. Thơ du tiên đời Đường xem đạo sĩ, ẩn sĩ, cái tôi thi sĩ là
tiên chính là bắt nguồn từ cơ sở tôn giáo ấy.
3.1.2. Phƣơng thức sáng tạo chủ yếu: lấy đại làm mĩ
Để sáng tạo nên những bài thơ du tiên siêu thoát, thể hiện xu hướng tiên hóa cảnh
vật và con người trần thế, các thi nhân đã lựa chọn phương thức nghệ thuật chủ yếu là lấy
đại làm mĩ. Trí tưởng tượng của nhà thơ do đó được bay bổng đến tận trời. Phương thức
sáng tạo lấy đại làm mĩ mà chúng tôi nói tới trên đây bao gồm hai phương diện:
Thứ nhất là thủ pháp phóng đại. Phóng đại là dùng những từ ngữ hoặc cách diễn
đạt để nhân lên gấp nhiều lần những thuộc tính của khách thể hoặc hiện tượng, nhằm mục
đích làm nổi bật bản chất của đối tượng cần miêu tả. Theo Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu
long: “Trong lời văn xưa nay vốn có sẵn lối phóng đại và tu sức. Tuy những lời tao nhã
trong Kinh Thi, Kinh Thư là khuôn phép giáo hóa để dạy cho đời, nhưng các sự việc cũng
có nhiều chỗ phóng đại và lời văn cũng nhiều chỗ nói quá đi. Cho nên cao thì nói chọc tận
trời xanh, hẹp thì nói sông Hoàng Hà không nhét được con thuyền nhỏ, nhiều thì nói con
cháu hàng vạn ức, ít thì nói không sót một mống. Nước ngập gò Tương Lăng thì nói nhìn
lên gặp trời, người trước quay đầu người sau bỏ chạy thì nói máu chảy trôi cán dáo. Lời
tuy quá nhưng không hại đến nghĩa” [32, 121]. Phóng đại trở thành thủ pháp truyền thống
của văn học Trung Quốc. Các nhà thơ lãng mạn cũng thường dùng để xây dựng những
hình tượng kì vĩ. Đặc biệt khi lựa chọn đề tài du tiên và sáng tạo những bài thơ theo xu
hướng tiên hóa, phóng đại càng trở thành thủ pháp nghệ thuật đắc dụng, nâng cánh giấc
mơ của thi nhân bay bổng và thể hiện tính siêu hiện thực của cảnh và người. Trong thơ du
tiên đời Đường, khoa trương, phóng đại kết đọng ở những động từ, tính từ diễn tả tính
chất, cảm giác mạnh. Chẳng hạn, Lí Hạ trong Mộng thiên du ca về cõi tiên thanh sạch qua
hình ảnh “quýnh vô trần” (không chút bụi vương), niềm khát khao cõi tục của thỏ già trên
cung quế lại được phóng đại là “khấp thiên sắc” (lệ nhuốm màu trời). Chu Phác trong
Đồng Bách quán cảm nhận trần thế như thiên đường, đạo quán như động tiên qua hình
ảnh phóng đại “thanh tâm mục” (rửa sạch tấm lòng, đôi mắt), “hữu thử thiên phong sáp
thúy vi” (ở đấy vì có nghìn chỏm núi xanh biếc ngút ngàn). Phóng đại đặc biệt được thể
hiện qua cách nhà thơ xây dựng những hình tượng kì vĩ, thực mà như hư, thể hiện xu
hướng tiên hóa, sẽ được chúng tôi phân tích cụ thể trong những phần tiếp theo của luận án.
63

Thứ hai là hình tượng đại mĩ. Chữ đại ở đây không nhằm giới hạn vào những hình
tượng lớn, rộng, quá khổ (thực tế cho thấy, không phải hình tượng lớn nào cũng đẹp).
Hình tượng “đại mĩ” là những hình tượng đẹp được xây dựng dựa trên thủ pháp phóng đại.
Đó có thể là vẻ đẹp kì vĩ của núi rừng, vẻ đẹp kì dị của đạo sĩ, ẩn sĩ hoặc vẻ đẹp phi
thường của chủ thể thi nhân. Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa hình
tượng “đại mĩ” với thủ pháp phóng đại. Hình tượng và thủ pháp có liên quan với nhau
nhưng không là một. Phóng đại là thủ pháp để xây dựng hình tượng, nhằm chuyển tải
những tình cảm mãnh liệt, hào hùng và tạo ra những hình tượng như “áo nhà trời không
có đường may”. Còn hình tượng “đại mĩ” là hệ quả của thủ pháp phóng đại. Như vậy, lấy
đại làm mĩ cần phải được hiểu như một phương thức sáng tạo trong đó các nhà thơ sử
dụng thủ pháp phóng đại để xây dựng những hình tượng đẹp, mang đặc điểm kì vĩ, phi
thường, siêu hiện thực và đậm màu tiên hương thần sắc. Thơ du tiên đời Đường thường
mở ra những cảnh giới bao la, không biên giới. Đặc biệt là hình tượng núi cao chạm trời
xanh, dường như chiều cao của nó được đo bằng số đo thẩm mĩ, là chiều cao của khát
vọng vượt thoát, mơ ước thần du cõi trời: “Thiên Mụ liên thiên hướng thiên hoành. Thế
bạt Ngũ Nhạc, yểm Xích Thành. Thiên Thai tứ vạn bát thiên trượng. Đối thử dục đảo
Đông Nam khuynh” (Thiên Mụ liền trời lại vươn chắn ngang trời. Có cái thế vượt Ngũ
Nhạc, ép cả Xích Thành. Núi Thiên Thai cao bốn vạn tám nghìn trượng. Trước nó cũng bị
áp đảo mà nghiêng về Đông Nam) (Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt - Lí Bạch); “Thiều
nghiêu Thái Hoa phủ Hàm Kinh. Thiên ngoại tam phong tước bất thành” (Núi Thái Hoa
cao ngất trông xuống Hàm Kinh. Ba ngọn vượt lên trời, khó đẽo gọt nên như thế) (Hành
kinh Hoa Âm - Thôi Hiệu). Những hình tượng được phóng đại theo sức tưởng tượng của
nhà thơ nhưng không thoát li cơ sở hiện thực. Do bắt nguồn từ hiện thực nên “tu sức mà
không vu khoát” (Lưu Hiệp). Sau đây chúng tôi sẽ tập trung phân tích ba hình tượng tiêu
biểu của xu hướng tiên hóa cảnh vật và con người trần thế, được các thi nhân xây dựng
bằng cái nhìn lãng mạn và thủ pháp phóng đại, tạo ra vẻ đẹp rung động lòng người.
3.1.3. Những hình tƣợng “đại mĩ” tiêu biểu
3.1.3.1. Núi rừng
Có lẽ từ khi thơ ca bắt đầu xuất hiện, rừng núi tự nhiên đã chọn thể loại trữ tình
này để nghiêng mình soi bóng. Và những thắng cảnh đẹp được soi mình vào thơ càng trở
nên quyến rũ bội phần. Mĩ lệ hóa hình ảnh là đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn, nhưng
tiên hóa núi rừng tự nhiên, khiến nó hiện ra lộng lẫy, gọi mời bao bước chân Lưu Nguyễn
lạc lối Đào nguyên lại là sản phẩm của những thi sĩ làm thơ du tiên. Qua lăng kính của các
64

thi nhân, núi rừng như được bao bọc trong một bầu khí quyển thần tiên, tràn đầy tiên
phong đạo khí. Vì vậy, chỉ cần nhắc tới những cái tên như Hoa Sơn, Thái Bạch Sơn, Tung
Sơn, Lư Sơn, Kính Đình Sơn, Thiên Mụ Sơn... là những thi sĩ làm thơ du tiên mường
tượng ra ngay những kì hoa dị thảo, tiên đồng ngọc nữ uốn mình trong không, những đạo
sĩ hái thuốc luyện đan, dáng thanh thoát phiêu bồng, mơ một ngày đắc đạo thành tiên bay
lên thiên giới.
Nhìn lại mạch chảy của thơ du tiên, không phải từ khởi nguồn đã xuất hiện xu
hướng tiên hóa núi rừng. Trong những bài thơ du tiên thời Tần Hán, Ngụy Tấn thường
xuất hiện hình ảnh Côn Luân, Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu - những ngọn núi
tiên từng tồn tại trong thần thoại, truyền thuyết xa xôi, nhìn từ xa giống như gấm mây, khi
đến gần chúng lại chìm xuống nước một cách thần kì, chỉ thần tiên mới có thể đặt chân tới.
Phải đến Quách Phác, tiên cảnh mới chính là nhân cảnh, du tiên thực chất là du sơn.
Truyền thống kết hợp du sơn và du tiên đến các thi nhân đời Đường đã được đẩy cao hơn
một bước, trở thành một khuynh hướng rõ rệt và được lí giải từ cái nhìn nhiều chiều. Lư
Chiếu Lân - một thành viên thuộc nhóm Sơ Đường tứ kiệt, nhiệt huyết cầu tiên. Phong khí
thời đại sùng đạo sâu sắc kết hợp với nỗi đau bệnh tật khiến ông càng ngưỡng mộ thần
tiên, hi vọng cầu tiên để được giải thoát về nhục thể. Trong bài Hoài tiên dẫn, nhà thơ như
nhìn thấy cảnh tiên lấp ló trong núi, tâm tình càng yêu mến bội phần. Những bài thơ liên
quan đến đề tài thần tiên của Vương Bột đều được thi nhân sáng tác trong quá trình du
lãm chốn núi rừng, sông suối. Trong bài Sơn cư vãn thiều tặng Vương đạo sĩ, Vương Bột
xem đạo sĩ là bạn tiên, đạo quán là động tiên, du sơn là du tiên. Trần Tử Ngang trong bài
Cảm ngộ thi một lần nữa khẳng định hành trình du tiên trong núi, vào núi tìm tiên. Đến
thời Thịnh Đường, cảnh núi rừng càng trở thành đối tượng để thi nhân trình bày ý thức
“phi thăng thành tiên” và đặc biệt thể hiện trong thơ du tiên Lí Bạch. Sự thực trong cuộc
đời, Lí Bạch từng là một giáo đồ nổi tiếng, và cầu tiên học đạo từng trở thành một bộ phận
quan trọng trong cuộc sống của ông. Nhưng với ông, cầu tiên phỏng đạo không phải là
cứu cánh mà chỉ là phương tiện hoạt động chính trị, ẩn dật không phải là trốn đời thoát tục
mà là để chờ thời. Đời ông là một cuộc chơi hùng. Gót chân ông hầu như đã in dấu khắp
những ngọn núi con sông nổi tiếng của Trung Quốc. Mỗi khi đắm say trong cảnh sắc núi
sông, Lí Bạch thường có những bài thơ hay về du tiên xuất thế. Trong thơ du tiên Lí Bạch
xuất hiện những núi tiên trên mặt đất như Thái sơn, Hoa sơn, Lư sơn và cả những cảnh
tiên không có nơi trần thế như Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu... Song, xu hướng
của tác giả là thiên về khẳng định thiên đường trên mặt đất, có thực, rất trần thế chứ không
65

quá hão huyền xa vời. Đến Lí Bạch, du tiên không chỉ còn tồn tại trong quan niệm và
tưởng tượng mà là du tiên thật, gắn liền với hành vi thực tiễn vào núi tìm tiên. Ông không
chỉ là người “giữ lửa” thành công truyền thống kết hợp du sơn và du tiên bắt đầu manh
nha từ thời Quách Phác, mà còn làm một “cuộc chạy tiếp sức” vẻ vang khiến núi rừng tự
nhiên được thăng hoa và tràn đầy tiên khí.
Nhìn núi rừng bằng cái nhìn lãng mạn, cảnh vật trở nên đẹp lạ lùng và ẩn chứa bao
điều kì bí. Với tính chất tĩnh tại, vững vàng, núi là nơi lí tưởng nhất của cảnh quan thiên
nhiên có thể giúp con người tu tiên luyện đạo, xa lánh cuộc đời, nghiền ngẫm nhân sinh
thế sự cũng như chiêm nghiệm về vũ trụ vô cùng. Những lúc chính trị đen tối càng có
nhiều người vào núi ở ẩn tu tiên, xem đó là cứu cánh tối ưu để đoạn tuyệt với cuộc đời.
Các đạo sĩ lên núi cao, vào rừng sâu, hấp thu được nhiều dương khí, tu luyện mới nhanh

thành công. Nếu chiết tự chữ Tiên (仙) chúng ta sẽ thấy nó có nghĩa là “người ở trong núi,

ở trên núi”, chữ Tiên bao gồm bộ nhân (人) viết đứng và chữ sơn (山). Hình ảnh núi trong

thơ du tiên đời Đường trước hết được thể hiện như là nơi các đạo sĩ của Đạo giáo ẩn
thân, là không gian ẩn dật cao khiết. Đạo sĩ Thái Thượng từng làm bài thơ Đáp nhân
như thế này: “Ngẫu lai tùng thụ hạ. Cao chẩm thạch đầu miên. Sơn trung vô lịch nhật.
Hàn tận bất tri niên” (Tình cờ đến dưới gốc thông. Nằm gối cao trên tảng đá mà ngủ.
Trong núi không có sách lịch. Rét hết mà chẳng biết ấy là năm nào) (Lê Nguyễn Lưu
dịch). Bài thơ gợi lên hình ảnh một đạo sĩ trong không gian ẩn dật núi biếc. Đó là con
người tự do tự tại, đến, đi bất chợt, an nhàn thoát tục, gối đầu vào vũ trụ và bạn với vô
cùng, giấc ngủ êm đềm, thanh thản. Dường như con người ấy không sống trong hiện tại
mà sống bằng tâm tưởng, mơ màng về một cõi tinh thần cao khiết nên đạt tới trạng thái
lãng quên thời gian. Núi từ một không gian cụ thể trở thành không gian tượng trưng bay
hết sắc màu - một biểu hiện đạt đạo của con người tràn ra ngoài cảnh vật. Người xưa
thường lên núi với hai tư cách: hoặc như một thi sĩ ngao du sơn thủy, thưởng ngoạn danh
lam, kiếm tìm thi hứng, hoặc như một ẩn sĩ tìm nơi thanh sạch để lánh đời, hái thuốc, tu
tiên. Thực tế tu luyện có thành tiên hay không và thật sự có tiên hay chỉ là huyền thoại,
điều đó còn tùy thuộc vào niềm tin tôn giáo của mỗi người. Còn Lí Bạch, có lẽ vì nhận ra
núi rừng có khả năng kì diệu trong việc giúp con người thanh lọc tâm tính và nguôi quên
những tham vọng tầm thường, những bon chen danh lợi ngược xuôi nên sau giấc mơ đi
chơi Thiên Mụ, Lí Bạch đã viết nên những vần thơ phản kháng nổi tiếng trong lịch sử văn
học Trung Quốc: “Thả phóng bạch lộc thanh nhai gian. Tu hành tức kỵ phỏng danh sơn.
66

An năng tồi mi chiết yêu sự quyền quí. Sử ngã bất đắc khai tâm nhan” (Hãy thả con hươu
trắng nơi ghềnh núi xanh. Hễ cần thì cưỡi ngay ngựa thăm núi nổi tiếng. Chứ sao lại cúi
mày khom lưng thờ bọn quyền quí. Khiến ta không được mở lòng mở mặt) (Mộng du
Thiên Mụ ngâm lưu biệt) (Ngô Văn Phú dịch).
Qua cái nhìn tiên hóa của các thi nhân đời Đường, núi còn là nơi nối trần gian và
tiên giới, là con đường dẫn lên trời. Điều này có liên quan đến tín ngưỡng “thang trời”
trong thần thoại nguyên thủy. Sau khi thần và người li biệt, cái để gắn bó mối quan hệ
giữa hai bên chỉ có thể dựa vào thang trời. Mà thang trời thường là núi. Lên cao là lên với
khí dương, khí sinh tạo, khác với xuống thấp là đến gần khí âm, khí đau thương, hủy diệt.
“Các đạo sĩ đi ra khỏi cõi đời, đi vào trong núi, đó là một cách đồng nhất hóa với đường
lên trời. Việc leo núi được hình dung như việc đi lên trời, như là phương tiện bước vào
quan hệ với thần linh, trở về với khởi nguyên, lên cao là một bước tiến hướng tới giác
ngộ” [12, 700]. Chính ở ý nghĩa này, núi trở thành nơi giao tiếp giữa thiên đường và mặt
đất, “môi giới” cho con người mơ mộng để du tiên. Lưu Nguyễn du Thiên Thai của Tào
Đường miêu tả cuộc du ngoạn Bồng Lai của hai chàng Lưu Nguyễn. Núi Thiên Thai trở
thành không gian mơ mộng và khi hồn người nhập mộng thì rơi ngay vào trạng thái không
phân biệt giữa Trang Sinh và bướm vàng. Còn Lí Bạch “đi vào thế giới nhà trời không
phải bằng cưỡi rồng gióng phượng bay lên, mà từ đất đi thẳng lên trời bằng những đỉnh
cao của núi non, chùa chiền đã nối hai thế giới làm một” [48, 95]. Thi sĩ trèo lên đỉnh núi
Liên Hoa (Cổ phong, bài 19) cũng chính là hành trình du tiên bằng mộng ảo, trong đó núi
Liên Hoa trở thành phương tiện hợp nhất người và trời. Núi Thiên Mụ (Mộng du Thiên
Mụ ngâm lưu biệt) lại như chiếc thang bắc giữa mây xanh, nối thông thiên đường và trần
thế: “Cước trước Tạ Công lý. Thân đăng thanh vân thê. Bán bích kiến hải nhật. Không
trung văn thiên kê” (Chân mang giày Tạ Công. Mình đi lên thang mây xanh. Lưng chừng
vách núi thấy mặt trời ngoài biển. Nghe gà trời gáy vang không trung) (Ngô Văn Phú
dịch). Cái hay của bài Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt là ở chỗ nhà thơ kể chuyện mơ
chơi núi Thiên Mụ, lên đến đỉnh thấy nứt ra một kẽ, và từ kẽ nứt ấy nhà thơ bay vào cõi
tiên. Phương thức du tiên này thường xuyên xuất hiện trong thơ Lí Bạch. Nó cho thấy sức
tưởng tượng như ngựa trời rong ruổi, như áo nhà trời không có đường may của nhà thơ
này. Như vậy, lên núi cũng đồng nghĩa với việc thần du cõi mộng, cõi trời.
Nhưng núi không chỉ là đường lên trời, mà leo lên tới đỉnh, các thi nhân còn phát
hiện ra đó là nơi hội tụ của thần tiên. Từ thần thoại, tiên thoại, truyền thuyết đến thơ ca
khi miêu tả không gian hoạt động của tiên nhân đều khoanh vùng ba địa điểm chủ yếu là
67

cung tiên trên trời, đảo tiên trên biển, núi tiên ở trần gian. Tuy nhiên, trong thực tế, người
cầu tiên khó mà ra biển, càng không thể lên trời, do vậy vào núi là con đường duy nhất có
thể thực hiện được. Và khi leo lên đến đỉnh, con người dễ sinh ra ảo giác gặp được thần
tiên. Trong bài Đăng Ngọc Thanh, khi leo lên đỉnh núi, Lư Chiếu Lân bồi hồi bái vọng
người tiên: “Tuyệt đỉnh hoành lâm nhật. Cô phong bán ỷ thiên. Bồi hồi bái chân lão. Vạn
lí kiến phong yên” (Tạm dịch: Trên đỉnh cao nhất nhìn ngang thấy gần mặt trời. Ngọn núi
trơ một nửa dựa trời xanh. Bồi hồi bái vọng người tiên. Thấy mây gió nổi lên hàng vạn
dặm). Còn Lí Bạch khi du lãm núi rừng, ông thường có cảm giác lâng lâng như sắp gặp
tiên. Trong bài thơ Đăng Thái Bạch phong, tác giả hầu như không nói tới cảnh vật tự
nhiên nơi núi Thái Bạch. Trọng điểm toàn bài là nói về ảo tưởng du tiên khi leo lên ngọn
núi “bản mệnh” này: “Tây thướng Thái Bạch phong. Tịch dương cùng đăng phan. Thái
Bạch dữ ngã ngữ. Vị ngã khai thiên quan. Nguyện thừa lãnh phong khứ. Trực xuất phù
vân gian. Cử thủ khả cận nguyệt. Tiền hành nhược vô san” (Tạm dịch: Leo lên phía tây
đỉnh Thái Bạch. Xế chiều thì tới đỉnh cao nhất. Sao Thái Bạch nói với ta. Vì ta mà mở
cổng trời. Ta nguyện cưỡi gió lạnh. Bay ra khỏi tầng mây nổi. Lúc đó giơ tay là tới mặt
trăng. Trước mặt hết còn núi non). Núi Thái Bạch còn trở lại một lần nữa trong bài thơ Cổ
phong số 5 của nhà thơ họ Lí. Nó không còn thuần túy là ngọn núi thực mà đã trở thành
núi tiên, xuất hiện cả tiên nhân, và nhà thơ được tiên nhân trao cho dược pháp. Khi trèo
lên núi Lư, nhà thơ nhìn thấy những vị tiên đang dạo gót trong mây, tay cầm những đóa
phù dung đẹp: “Tảo phục hoàn đan vô thế tình. Cẩm tâm tam diệp đạo sơ thành. Dao kiến
tiên nhân thái vân lý. Thủ bả phù dung triều Ngọc Kinh” (Buổi sớm uống thuốc tiên, tình
đời sạch không. Luyện khí dồn vào ngực, vừa học thành đạo. Xa trông thấy người tiên
trong áng mây rực rỡ. Tay cầm hoa sen đến chầu Ngọc Kinh) (Lư Sơn dao ký Lư thị ngự
Hư Chu) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Còn núi Thiên Mụ mặc dù nhà thơ mới chỉ du ngoạn
trong mộng nhưng qua sự tưởng tượng của Lí Bạch nó cũng trở nên hùng vĩ lạ thường.
Vượt lên Thiên Mụ, nhà thơ đã đi vào cõi trời, hội tụ cùng thần tiên.
Như vậy, tiên hóa núi rừng vừa thể hiện sự tinh tế, lãng mạn trong cảm nhận, chiều
sâu trong quan niệm nhân sinh vừa đánh dấu trình độ chiếm lĩnh thế giới của các thi nhân.
Sự thống nhất giữa du sơn và du tiên khiến tiên cảnh, tiên nhân vốn hư vô trở nên gần gũi,
có căn cứ cụ thể. Còn cảnh sắc núi rừng do có sự xuất hiện của dấu tiên mà thêm mông
lung, thần bí. Bất luận là núi rừng hay tiên cảnh, mĩ cảm đều được nâng cao. Đây cũng là
một nguyên nhân khiến thơ du tiên đời Đường tiếp cận với thơ sơn thủy. Nó không chỉ mở
rộng để tài cho thơ du tiên mà còn rót sức sống mới cho thơ sơn thủy như chúng tôi đã đề
68

cập trong chương 2. Khuynh hướng tiên hóa núi rừng chủ yếu diễn ra ở thời Sơ, Thịnh
Đường mà ít xuất hiện ở thời Trung, Vãn Đường. Thời kì này chủ yếu là “mộng đăng”
(lên cao trong mộng, du tiên bằng mộng) chứ không phải “thân đăng” (trực tiếp lên cao).
Nếu có hành động leo núi tìm tiên thì cũng nhanh chóng tỉnh táo nhận ra sự thực núi rừng
lúc này không còn được trang hoàng bằng một quầng mộng ảo, cũng chẳng còn diệu tình
diễm ý, thiêng liêng: “Khả tri Lưu Nguyễn phùng nhân xứ. Hành tận thâm sơn hựu thị
sơn” (Mới biết rằng nơi Lưu Nguyễn gặp tiên. Đi hết núi non rậm rạp lại vẫn là núi non)
(Tảo phát Thiên Thai Trung Nham tự, độ Quan Lĩnh, thứ Thiên Mụ sầm - Hứa Hồn).
3.1.3.2. Đạo sĩ, ẩn sĩ
Linh hồn của núi rừng chính là những ẩn sĩ, đạo sĩ. Không chỉ thiền giả nơi am
ẩn mà cả đạo sĩ giữa núi mây, chốn đạo quán tịch tĩnh, thanh u, ẩn sĩ nơi thâm sơn cùng
cốc đều mang lại cho người ta cảm thức nhàn và cảm hứng phiêu dật, thần tiên. Đặc biệt
ở thời Đường, văn nhân khi thất ý trên con đường chính trị thường thích phóng du nơi
đầu non vách suối, hi vọng suối trong có thể dập tắt lửa ưu phiền, non cao có thể xoa dịu
vết thương tinh thần chưa kín miệng lên da. Những gì không thực hiện được trong thực
tế, họ không chôn chặt bằng cách đào sâu hang mạch đáy lòng mình mà hóa giải bằng
việc tưởng tượng ra một thế giới lí tưởng hoặc trở về với rừng núi tự nhiên để được hòa
mình vào vũ trụ. Chính trong những lần trở về, những lần qua lại tiếp xúc giữa văn nhân
và đạo sĩ, ẩn sĩ, những lần “tống đạo sĩ quy sơn” hay “tầm ẩn giả bất ngộ” ấy, các tác giả
đã phát hiện ra diện mạo, phẩm chất, năng lực thần tiên trong hình hài những đạo sĩ, ẩn
sĩ và biết cách làm mới những đối tượng, hành vi đã cũ bằng thủ pháp phóng đại và cái
nhìn lãng mạn.
Trong thơ du tiên đời Đường, đạo sĩ, ẩn sĩ trước hết là những người có diện mạo
thần tiên, tiêu dao tự tại, mãi mãi thanh xuân, trường sinh vĩnh viễn. Trong Cảm ngộ
bài 1, Lí Bạch viết: “Ngô ái Vương Tử Tấn. Đắc đạo Y Lạc tân. Kim cốt bất khước hủy.
Ngọc nhan trường tự xuân” (Tạm dịch: Ta yêu Vương Tử Tấn. Đắc đạo tại bến Y Lạc.
Xương cốt như vàng không hủy hoại. Nhan sắc như ngọc luôn giữ vẻ xuân). Vương Tử
Tấn là thái tử của Chu Linh Vương, tương truyền đã tu luyện đắc đạo thành tiên, thường
cưỡi hạc thổi sáo ngao du ở vùng sông Y Lạc. Thông qua một nhân vật trong truyền
thuyết, Lí Bạch thể hiện lòng ngưỡng mộ và gửi gắm khao khát trường sinh bất tử. Tính
chất trường sinh bất tử của những đạo sĩ, ẩn sĩ nhiều khi không được thể hiện cụ thể qua
số tuổi hay diện mạo mãi mãi thanh xuân mà được thể hiện qua tiên dược, qua ngôi nhà
muôn thuở chốn núi vắng. Và vẻ tiêu dao tự tại, thần kì rất nhiều khi chỉ cần thể hiện qua
69

điểm nhấn duy nhất: cưỡi rồng trắng bay qua trời xanh: “Ngã hữu vạn cổ trạch. Tung
Dương Ngọc Nữ phong. Trường lưu nhất phiến nguyệt. Quải tại Đông Khê tùng. Nhĩ khứ
xuyết tiên thảo. Xương bồ hoa tử nhung. Tuế vãn hoặc tương phỏng. Thanh thiên kỵ bạch
long” (Ta có ngôi nhà muôn thuở. Trên ngọn Ngọc Nữ ở huyện Tung Dương. Vầng trăng
sáng vẫn còn mãi mãi. Treo trên cây thông ở khe Đông. Anh đã ra đi hái cỏ tiên. Và hoa
màu tía ở bụi xương bồ. Cuối năm nếu có đi thăm nhau. Thì cưỡi con rồng trắng bay qua
trời xanh) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Bài thơ này được sáng tác năm 744, lúc Lí Bạch đã
chán ngấy những công việc vô vị của chức Hàn lâm học sĩ bù nhìn và đã nảy ra ý định rời
bỏ cung đình. Bởi vậy, tiễn Dương sơn nhân về núi cũng là cách bày tỏ trước ý định “về
núi” của chính mình, để có thể cùng bạn nắm tay nhau nằm khểnh trong mây trắng. Qua
thủ pháp phóng đại, cảnh sắc nơi núi Tung trở nên thần kì hóa, thành nơi ở của tiên. Một
ngôi nhà bình thường (trạch), không có gì mới mẻ, nhưng phía trước thêm hai chữ vạn cổ
thì sự vật bỗng được tiên hóa thành ngôi nhà muôn thuở. Một vầng trăng vốn xuất nhập
theo chu kì tự nhiên, được treo trên ngọn núi Tung, cảnh vật đẹp mê người nhưng chưa
thần kì. Phía trước tác giả thêm hai chữ trường lưu, thành vầng trăng treo vĩnh viễn ở trên
cao, tạo cảm quan thời gian ngừng trôi, gửi gắm tâm tình cao khiết của người ẩn dật. Hai
câu năm và sáu viết hoạt động của Dương sơn nhân sau khi quay về núi: hái cỏ tiên và
xương bồ hoa tím. Toàn là những vật phẩm gắn liền với sự đắc đạo, trường sinh. Đặc biệt
đến hai câu cuối xuất hiện hình ảnh rồng trắng (bạch long) càng khiến ý tưởng tiên hóa
đạo sĩ, ẩn sĩ trở nên rõ ràng. Và không chỉ Dương sơn nhân, ngay cả tác giả dường như
cũng đã thành tiên thông qua tưởng tượng ngôi nhà của mình ở trên ngọn núi Tung (câu
đầu), qua cách nói một hành động có thể đúng với cả bạn và mình (hai câu cuối, có thể là
Dương sơn nhân, cũng có thể là Lí Bạch cưỡi rồng trắng bay qua trời xanh). Dù bài thơ có
nhan đề Tống Dương sơn nhân quy Tung sơn và nhiều người đã xếp nó vào dòng chảy của
thơ tống biệt, nhưng cũng có thể xem đây là thơ du tiên bởi âm hưởng hào phóng, phiêu
dật và góc nhìn tiên hóa cảnh vật cũng như con người.
Không chỉ có diện mạo thần tiên và trường sinh bất tử, đạo sĩ còn là những người
có đạo thuật cao diệu, sức mạnh thần kì. Lí Bạch đã từng đi thăm nơi ở của Tiêu Luyện
Sư. Bài thơ Tặng Tùng sơn Tiêu Luyện Sư được sáng tác dựa trên những gì nhà thơ nhìn
thấy khi leo núi. Mở đầu bài thơ, tác giả đã đưa người đọc vào cảnh giới thần bí của núi
Tùng, tiếp theo miêu tả hình ảnh Tiêu Luyện Sư có pháp lực vô biên, đến Đông Hải, lên
đảo Bồng Lai, tự nhiên khoáng đạt, thần kì phi phàm. Đến bài Ngọc Chân tiên nhân từ, nữ
đạo sĩ đã được miêu tả thành một vị tiên đích thực: “Ngọc Chân chi tiên nhân. Thời vãng
70

Thái Hoa phong. Thanh thần minh thiên cổ. Tiêu soát đăng song long. Lộng điện bất
chuyết thủ. Hành vân bản vô tung. Kì thời nhập thiếu thất. Vương Mẫu ứng tương phùng”
(Tạm dịch: Ngọc Chân công chúa là tiên nhân. Thường lên núi Thái Hoa. Sáng sớm luyện
thuật “minh thiên cổ”. Lên cao như cưỡi rồng. Không ngừng dồn nguyên khí, như điện
như cầu vồng. Đi lại phiêu hốt như mây. Khi nào đến núi Tung. Có thể gặp được Tây
Vương Mẫu). Nhà thơ dùng một loạt động từ: vãng (qua lại), đằng (lên cao), lộng (làm),
hành (đi), phùng (gặp) thể hiện vẻ thoắt ẩn thoắt hiện, tư thế đạp gió cưỡi mây, hành vi
phi thường của Ngọc Chân công chúa. Lí Bạch làm bài thơ này để yết kiến Ngọc Chân
công chúa. Tác giả không chỉ xem công chúa có bản lĩnh thần tiên mà còn được sánh cùng
Tây Vương Mẫu, khiến một tác phẩm tặng đáp bình thường trở nên giàu màu sắc lãng
mạn. Đây là cách thức mở rộng của Lí Bạch đối với đề tài du tiên truyền thống.
Trong số những đạo sĩ mà Lí Bạch hay qua lại, Nguyên Đơn Khâu là nhân vật xuất
hiện nhiều nhất trong thơ ông. Nguyên Đơn Khâu ẩn ở núi Vân Đài, làm bạn với thần tiên,
sau khi công thành cưỡi rồng bay lên, hưởng cuộc sống tự do đầy đủ. Nhìn từ đề mục có
thể thấy bài Tây Nhạc Vân Đài ca tống Đơn Khâu tử chia làm hai phần: phần một tả núi
Hoa, phần hai tả tống biệt Nguyên Đơn Khâu. Cảnh thực mà như hư qua bút pháp phóng
đại. Cái hùng vĩ của ba đỉnh Liên Hoa, Vân Đài, Lạc Nhạn gợi cảm giác tiên - tục tương
giao, làm nền cho sự xuất hiện của một con người bất tử: đạo sĩ Nguyên Đơn Khâu. Nơi
ông ở là núi thiêng hùng kì tráng lệ. Minh Tinh, Ngọc Nữ vì ông mà quét tước, thần nữ
Ma Cô vì ông mà gãi lưng. Ông vừa có thể nói chuyện với trời, vừa hít gió uống sương, tự
do khoáng đạt. Trong bài Nguyên Đơn Khâu ca tác giả cũng tập trung khắc họa cuộc sống
tự do tự tại của vị đạo sĩ - tiên nhân này: “Nguyên Đơn Khâu, ái thần tiên. Triều ẩm dĩnh
xuyên chi thanh lưu. Mộ hoàn Tung sầm chi tử yên. Tam thập lục phong thường chu toàn.
Trường chu toàn, nhiếp tinh hồng. Thân kị phi long nhĩ sinh phong. Hoành hà khóa hải
dữ thiên thông. Ngã tri nhi du tâm vô cùng (Tạm dịch: Nguyên Đơn Khâu thích thuật thần
tiên. Sáng sớm uống nước trong ở sông Dĩnh. Buổi tối dạo chơi trên núi Tung khói tím
cuồn cuộn. Ba mươi sáu ngọn của núi Tung nơi nào cũng có dấu tích của ông. Chân bước
trên sao băng, cầu vồng. Như cưỡi rồng bay, nghe tiếng gió bên tai. Có thể vượt qua sông,
bay ra biển lớn, thông với trời. Ta biết anh tâm du vô cùng). Không chỉ tự do, Nguyên
Đơn Khâu còn có đạo thuật cao diệu, có thể bước trên sao băng, cầu vồng, cưỡi rồng
gióng phượng, vượt qua mọi giới hạn không gian để siêu việt sự tồn tại của mình. Đến đây,
vị đạo sĩ nơi trần thế đã trở thành vị tiên xuất thần nhập ảo, năng lực siêu phàm.
71

Trong thơ du tiên đời Đường, bên cạnh những bài trực tiếp miêu tả đạo sĩ, ẩn sĩ,
còn có nhiều bài gián tiếp thể hiện qua cách nhà thơ vận dụng thủ pháp phóng đại,
miêu tả môi trường sống của họ như đạo quán hay động đá chốn rừng núi thâm u.
Tiêu biểu là các bài Xuân nhật đăng Cửu Hoa quán (Trần Tử Ngang), Tầm Ung tôn sư ẩn
cư (Lí Bạch), Yến Mai đạo sĩ sơn phòng (Mạnh Hạo Nhiên). Trong những bài thơ ấy, ta
không thấy cụ thể diện mạo hay hoạt động của đạo sĩ, ẩn sĩ và cảnh trong thơ đôi khi
không được miêu tả vì bản thân nó mà là hình ảnh quy chiếu từ tâm trạng, cảm xúc và ý
đồ nghệ thuật của chủ thể trữ tình. Tất cả đều nhằm thể hiện sự đắc đạo của những tiên
nhân giữa trần gian này và lòng ngưỡng mộ của thi sĩ đối với cuộc sống ẩn dật chốn núi
mây. Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ nổi tiếng thời Thịnh Đường, cả đời sống trong núi,
thong dong theo ý mình. Có một lần thi nhân - ẩn sĩ ấy đã theo dấu chim xanh tìm tới nhà
ông tiên Xích Tùng Tử: “Lâm ngọa sầu xuân tận. Khiên duy lãm vật hoa. Hốt phùng
thanh điểu sử. Yêu nhập Xích Tùng gia. Kim táo sơ khai hỏa. Tiên đào chính phát hoa.
Đồng nhan nhược khả trú. Hà tích túy lưu hà?” (Nằm khểnh ở rừng, buồn xuân đã hết.
Vén màn trông cảnh vật đẹp đẽ. Chợt gặp sứ giả là chim xanh đến. Mời ta vào nhà ông
tiên Xích Tùng Tử. Lò vàng vừa mới nhóm lửa. Đào tiên đang lúc nở hoa. Ví như tuổi trẻ
vẫn giữ được mãi. Thì tiếc gì mà không uống say chén rượu lưu hà?) (Yến Mai đạo sĩ sơn
phòng) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Hai câu đầu miêu tả trạng thái đời sống thường nhật của
tác giả, biểu đạt sự tương thông với mọi biến động của giới tự nhiên ở một thi nhân luôn
gửi tình vào sơn thủy. Ẩn sĩ đến thăm đạo sĩ, uống rượu ở nhà trên núi của Mai đạo sĩ,
không ngừng cụng li chúc nhau mãi thanh xuân, trường thọ, vừa biểu đạt tâm nguyện của
thi nhân, vừa phù hợp với nguyện vọng cầu trường sinh của người trong giới đạo. Xem
đạo sĩ là ông tiên Xích Tùng Tử, cho thấy cách nhìn khoa trương và tâm tình yêu mến của
thi nhân đối với cuộc sống nhàn. Nhà thơ vận dụng khéo léo các điển cố và thuật ngữ Đạo
giáo như chim xanh, Xích Tùng Tử, kim táo (lò vàng), tiên đào (đào tiên), tru nhan (tuổi
trẻ), lưu hà (chén rượu lưu hà) để miêu tả cảnh tràn đầy tiên khí. Tác giả không trực tiếp
miêu tả hình tượng Mai đạo sĩ, chỉ tập trung thể hiện cảnh vật xung quanh, từ đó làm nổi
bật sự an nhàn, thoát tục của vị đạo sĩ - tiên nhân này. Cách nhìn tiên hóa ấy ta còn bắt
gặp trong bài thơ Tầm Ung tôn sư ẩn cư của Lí Bạch. Thầy Ung vô ảnh, vô hình nhưng
thông qua việc miêu tả không gian núi biếc gắn liền với tiếng suối chảy, thông reo, hạc
trắng, trâu xanh cũng cho thấy hình ảnh một con người đạt đạo. Hay trong bài Xuân nhật
đăng Cửu Hoa quán, Trần Tử Ngang cũng có cách nhìn tương tự: “Bạch Ngọc tiên đài cổ.
Đan Khâu biệt vọng diêu. Sơn xuyên loạn vân nhật. Lâu tạ nhập yên tiêu. Hạc vũ thiên
72

niên thụ. Hồng phi bách xích kiều. Hoàn phùng Xích Tùng Tử. Thiên lộ sinh tương yêu”
(Bạch Ngọc là đài tiên ngày xưa. Nhìn cõi Đan Khâu riêng ở nơi xa xôi. Mây và nắng lẫn
lộn trên núi sông. Khói sương che mờ lầu gác. Hạc múa trên cây nghìn năm. Cầu vồng
bay thành chiếc cầu dài trăm thước. Lại gặp ông tiên Xích Tùng Tử. Cùng mời nhau đi
trên đường trời) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Trong bài thơ này, đạo quán được xem là động
tiên, có linh cầm (hạc múa trên cây nghìn năm) như không biết đến bước đi của thời gian,
có khói sương giăng giăng như mộng như thực. Đạo sĩ được xem là bạn tiên Xích Tùng
Tử. Giữa tác giả và đạo sĩ có sự đồng cảm sâu sắc trong chí hướng nhàn dật, tâm tư thoát
tục, phong thái tự tại, ung dung, cùng mời nhau đi trên đường trời.
Song có lẽ, đặc sắc nhất vẫn là những bài tìm người mà không gặp, đạo sĩ, ẩn sĩ
hoàn toàn vắng bóng trong thơ nhưng qua việc miêu tả cảnh vật xung quanh vẫn làm
bật lên hình ảnh con người đắc đạo, như thần tiên giữa thế gian: “Lạc hoa lưu thủy
tổng Thiên Thai. Bán túy nhàn ngâm độc tự lai. Trù trướng tiên ông hà xứ khứ? Mãn đình
hồng hạnh bích đào khai” (Hoa rụng, nước chảy, đâu cũng là cảnh Thiên Thai. Ngất ngây
say, thong thả hát, một mình tìm đến. Buồn bã vì ông tiên đã đi đâu rồi. Đầy sân, hồng
hạnh và bích đào cùng nở) (Tầm ẩn giả bất ngộ - Cao Biền) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Cảnh
đấy người đâu, chỉ có hồng hạnh, bích đào vẫn đua khoe tiên hương thần sắc, như nhân
chứng không lời cho sự đạt đạo của vị ẩn sĩ - tiên nhân này. Thi nhân có xu hướng khai
thác tính chất của cảnh để làm nổi bật người và gửi gắm những tâm tình tương hợp. Điều
này càng được thể hiện rõ trong bài Phỏng Đái Thiên Sơn đạo sĩ bất ngộ của Lí Bạch:
“Khuyển phệ thủy thanh trung. Đào hoa đới vũ nùng. Thụ thâm thì kiến lộc. Khê ngọ bất
văn chung. Dã trúc phân thanh ái. Phi tuyền quải bích phong. Vô nhân tri sở vãng. Sầu ỷ
lưỡng tam tùng” (Tiếng chó sủa lẫn trong tiếng suối reo. Hoa đào đẫm nước mưa mơn
mởn. Cây rậm rạp, thỉnh thoảng thấy bóng nai. Khe về trưa, không nghe thấy tiếng chuông.
Bụi trúc rừng cách biệt đám mây mù xanh. Dòng suối tuôn treo lưng chừng ngọn núi biếc.
Không ai biết đạo sĩ đi đâu. Buồn rầu đứng tựa vào đôi ba gốc thông) (Lê Nguyễn Lưu
dịch). Bài thơ gồm tám câu, sáu câu đầu viết phỏng, nặng về tả cảnh, hai câu sau viết bất
ngộ, nặng về tả tình. Liên đầu thể hiện nơi ở của đạo sĩ - một cảnh tượng đào nguyên
ngoài cõi thế. Câu đầu viết cái nghe được (tiếng suối reo, chó sủa), câu sau viết cái nhìn
thấy được (hoa đào đẫm nước mưa mơn mởn), biểu tượng cho sự giác ngộ của đạo sĩ. Câu
3, 4 cực tả sự vắng vẻ trong núi, ngầm chỉ đạo sĩ đã đi ra ngoài. Giữa trưa là thời khắc đạo
quán cần phải đánh chuông, nhưng lại không nghe thấy tiếng chuông, chỉ nghe tiếng suối
chảy. Rừng yên tĩnh mới thấy hươu. Thời kiến lộc chứng tỏ cảnh vắng vẻ u tịch, là sự nối
73

tiếp cảnh tượng đào nguyên trong liên đầu. Hai câu này tả cảnh nhưng đã hàm ý thuật việc:
lấy thời kiến lộc để làm nổi bật việc không thấy người, lấy bất văn chung để ngầm chỉ đạo
quán không người. Đến hai câu 5 và 6 tác giả tập trung tả cảnh nhìn thấy khi đứng trước
đạo quán: đạo sĩ không có mặt, duy chỉ có trúc xanh hòa vào sắc núi và suối treo lưng
chừng núi biếc. Hai câu kết tập trung thể hiện nỗi buồn của tác giả qua động tác tựa gốc
thông. Toàn bài không có câu nào nói bất ngộ mà câu nào cũng thể hiện ý bất ngộ, không
có chữ nào miêu tả đạo sĩ mà câu, chữ nào cũng làm bật lên hình tượng một bậc đạt đạo
chỉ tĩnh tại trong động đá này mà thấu được mọi lẽ huyền vi của vũ trụ.
Như vậy, tiên hóa đạo sĩ, ẩn sĩ, một lần nữa các nhà thơ khơi sâu thêm quan niệm
“địa tiên” vốn có từ thời Đông Tấn. Con người thông qua tu luyện cũng có thể trở thành
thần tiên. Phát hiện “vẻ tiên” trong hình bóng những đạo sĩ, ẩn sĩ cũng là cách để thi nhân
khẳng định giá trị của con người ngay trong cuộc đời thực và hết sức trần thế này.
3.1.3.3. Chủ thể thi nhân
Không chỉ xem đạo sĩ, ẩn sĩ là tiên nhân giữa trần gian, các nhà thơ còn biến mình
thành tiên, thể hiện ý thức chủ thể mãnh liệt. Và khi chủ thể trữ tình đã được tiên hóa, thì
theo quy luật, bất cứ một hình sắc nào khi đi vào trong thơ cũng mang hồn vía của cái tôi
kia. Các nhà thơ tả núi, tất nó phải là nơi có dấu tiên, núi xanh thành tiên cảnh, tả đạo sĩ,
ẩn sĩ thì đó phải là những người có sức mạnh và phẩm chất của thần tiên. Xu hướng tiên
hóa chủ thể thi nhân đặc biệt thể hiện trong thơ du tiên Sơ, Thịnh Đường, kết tinh trong
nhà thơ tiêu biểu là Lý Bạch. Vì vậy, trong phần này chúng tôi lựa chọn phương pháp
điểm nhãn, tập trung chứng minh thông qua thơ của vị thi tiên này.
Lí Bạch xưa nay vẫn được xem là “tập đại thành” của thơ ca lãng mạn Thịnh
Đường. Trong đề tài du tiên, ông cũng dựng riêng một cờ, để lại nhiều bài thơ nổi tiếng.
Cái tôi phá vỡ vòng trói buộc của mọi luật lệ, khẳng định mình không vướng tục ngay
trong cõi tục, hướng về tự do, về thế giới thần tiên như là một điểm tựa của cõi lòng. Đặc
biệt khi làm thơ du tiên, ông như cá gặp nước, thỏa sức vẫy vùng, hân hoan tột đỉnh, thoải
mái bộc lộ cái tôi nghệ sĩ đầy bản lĩnh và giàu cá tính của mình. Trước đời Đường, các thi
nhân khi tưởng tượng du tiên, thông thường đều ý thức một cách tỉnh táo mình là người
phàm. Khi miêu tả thế giới thần tiên, bản thân họ chỉ là kẻ bàng quan, đứng ngoài thế giới
ấy biểu hiện sự ngưỡng mộ của mình. Đến thời Sơ, Thịnh Đường, các nhà thơ tiến hành
giải trung tâm, đưa cái ngoại vi vào trung tâm, xóa nhòa ranh giới giữa cái bình thường và
cái cao cả. Tôi trở thành trung tâm, Tôi ngang hàng với Tiên. Đặc biệt trong thơ Lí Bạch,
ranh giới giữa người và tiên đã bị phá vỡ. Ông đặt mình vào vị trí của người trong cuộc
74

để cảm nhận tiên cảnh, tiên nhân. Tôi trở thành vai chính, có thể giao du bình đẳng
với tiên nhân: “Ngã tích Đông Hải thượng. Lao sơn san tử hà. Thân kiến An Kì Công.
Thực táo đại như qua” (Xưa ta ở chốn Đông Hải. Leo núi ăn ráng tía. An Kỳ Sinh gặp mặt.
Đem táo lớn ra mời (ta) (Kí Vương Ốc sơn nhân Mạnh Đại Dung) (Ngô Văn Phú dịch).
Giữa thi nhân và tiên nhân An Kỳ Sinh dường như không hề có khoảng cách. Ông hò hẹn
với tiên nhân như với một người bạn đã quen thân từ muôn kiếp trước: “Sở kỳ tựu Kim
Dịch. Phi tựu đăng vân xa. Nguyện tùy Phu Tử thiên đàn thướng. Nhàn dữ tiên nhân tảo
lạc hoa” (Xin hẹn đến Kim Dịch. Ta sẽ bước lên xe mây. Nguyện cùng Phu Tử lên đàn
trời. Thong thả cùng người tiên quét hoa rụng) (Ký Vương Ốc sơn nhân Mạnh Đại Dung)
(Ngô Văn Phú dịch). Người tiên trở thành bạn tâm giao, có thể cùng nhau đối thoại, giao
lưu với thi nhân một cách bình đẳng, thân tình. Trong bài Hoài tiên ca, khi thi nhân tưởng
tượng mình cưỡi con hạc vàng bay qua biển lớn, những tiên nhân ở bờ bên kia chờ đợi rất
lâu để hát mừng đón ông: “Tiên nhân hạo ca vọng ngã lai. Ứng phan ngọc thụ trường
tương đãi” (Tiên nhân hát vang mong đợi tôi đến. Mong mòn con mắt, họ đứng dựa vào
cây ngọc). Hay khi trèo lên đỉnh núi Liên Hoa, từ xa đã thấy Minh Tinh, Ngọc Nữ tay cầm
đóa sen xinh hân hoan, niềm nở mời ông lên đỉnh Vân Đài gặp tiên nhân Vệ Thúc Khanh,
cùng nhau cưỡi nhạn thăng thiên (Cổ phong, bài 19). Chỉ qua động thái mời đủ thấy sự
trân trọng và thân thiết của tiên nhân đối với thi nhân. Trong những vần thơ du tiên tràn
đầy ý thức tiên hóa cái Tôi của Lí Bạch, chúng ta thấy ông không bao giờ ở thế bị động
hay xấu hổ, cầu xin tiên nhân mà ngược lại, luôn thể hiện đặc điểm mình là tiên nhân, tự
do rong ruổi. Điều này đặc biệt được thể hiện trong chùm thơ Du Thái Sơn lục thủ. Buổi
sáng ông uống nước ở ao của Tây Vương Mẫu, buổi tối ngủ ở cửa nhà trời, tai nghe tiếng
đàn hát du dương của tiên nữ (bài 6). Với ông, tự do là cái mệnh giá bao trùm của một
kiếp tồn sinh. Trích tiên nhân Lí Bạch còn có những hành động phi thường: “Thiên môn
nhất trường khiếu. Vạn lí thanh phong lai” (Cổng trời kêu một tiếng. Gió mát vạn dặm
đến, bài 1), “Cử thủ lộng thanh thiển. Ngô phán Chức Nữ cơ” (Giơ tay ôm Ngân Hà. Lỡ
nắm lấy khung dệt của Chức Nữ, bài 6). Nếu không có niềm kiêu hãnh, tự ý thức về cái
tôi vĩ đại của mình, sao Lí Bạch có thể đặt một dấu bằng giữa mình và tiên, thăng hoa đến
tột cùng như thế?
Bước đột phá lớn nhất, thể hiện ý thức tiên hóa cái tôi trong thơ du tiên Lí Bạch
là ông luôn đồng hóa mình với tự nhiên, hòa nhập bản thể vào với tự nhiên, tham hợp
vào nhịp sống vô biên của vũ trụ, thể hiện sự thăng hoa, siêu thoát. Và chính ở đây giấc
mơ tự do của Lí Bạch được khúc xạ thành giọng điệu an nhiên, tự tại: “Vấn dư hà sự thê
75

bích san. Tiếu nhi bất đáp tâm tự nhàn. Đào hoa lưu thủy yểu nhiên khứ. Biệt hữu thiên
địa phi nhân gian” (Người hỏi ta sao lại ở trong núi. Ta chỉ cười không đáp, cõi lòng
thảnh thơi. Hoa đào theo nước chảy trôi đi xa hun hút. Riêng chiếm một khoảng trời đất ở
ngoài cõi nhân gian) (Sơn trung vấn đáp) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Bài thơ dùng hình thức
nêu câu hỏi, khêu gợi sự chú ý của người đọc. Khi mọi người muốn nghe câu trả lời, thi
nhân lại cố ý “tiếu nhi bất đáp” khiến bài thơ tăng thêm sức hấp dẫn, biến ảo, quanh co.
Chữ tiếu không chỉ thể hiện tâm thái an nhiên, thần thái vui vẻ mà còn tạo nên sự hồi hộp,
kích thích hứng thú theo dõi, tìm tòi của người đọc. Ba chữ tâm tự nhàn vừa khắc họa tâm
cảnh trong núi, vừa thể hiện rõ vấn đề hà sự thê bích san. Hai câu cuối tả cảnh trong núi
thực chất cũng là trả lời cho câu hỏi trong câu đầu. Khoảng trời phi nhân gian này không
có những đua tranh, xu nịnh, không có những thăng giáng thất thường, chỉ có sự yên bình,
đắc đạo và di dưỡng nét thanh cao trong tâm hồn con người. Kiểu kết cấu không đáp mà
lại đáp, tưởng đứt mà lại nối này đã làm sâu sắc thêm ý vị của bài thơ. Tác giả mượn hình
ảnh thần tiên (cảnh đào nguyên) để thấy mình thoát tục, chẳng cần thần tiên mà tự mình
cũng phơi phới, phiêu dật, “trần mà như thế kém gì tiên”? Tiên theo quan niệm của Đạo
giáo “là một con người lánh mình vào nơi hoang vắng, ở Trung Quốc là nơi núi sâu, trong
đó người ta hi vọng nhận thức được bí mật của tự nhiên và mong tìm ra bí quyết để trường
sinh bất tử [40, 84]. Xét từ khía cạnh quan hệ với tự nhiên, Lí Bạch cũng là một vị tiên
thực sự. Công chưa bao giờ thành nên thân chưa bao giờ thoái, nương thân nơi thâm sơn
cùng cốc mà lòng vẫn dõi theo những ba động của cuộc sống, của vương triều, Lí Bạch
không nhập thế song cũng chẳng đoạn đời. Thi sĩ như con hạc vàng cứ bay lên đáp xuống
giữa khoảng chân thực và hư ảo để hát ca về cái đẹp treo lơ lửng giữa trần thế và thiên
đường, cái đẹp vương vào lòng như những sợi tơ trời mỏng mảnh. Trong bài Tầm Ung tôn
sư ẩn cư ông viết: “Quần tiểu bích ma thiên. Tiêu dao bất kế niên. Bát vân tầm cổ đạo. Ỷ
thụ thính lưu tuyền. Hoa noãn thanh ngưu ngọa. Tùng cao bạch hạc miên. Ngữ lai giang
sắc mộ. Độc tự há hàn yên” (Núi lô nhô xanh biếc ngút trời. Rong chơi không cần kể năm.
Vén mây tìm con đường cũ. Dựa cây nghe tiếng suối chảy. Trâu xanh nằm dưới bóng hoa
ấm áp. Hạc trắng ngủ trên cành thông cheo leo. Chuyện trò đến khi sông ngả bóng chiều.
Ta lại một mình xuống nơi khói lạnh) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Xưa, Trang Tử dùng chữ
tiêu dao để chỉ sự đạt đạo của một vị tiên chân chính. Tiêu dao nghĩa là đạt tới sự tự do vĩ
đại về tinh thần, thoát khỏi những quan niệm cổ hủ, những định kiến tầm thường, những
khen chê phàm tục, không có gì trói buộc, tự tại, ung dung. “Tiên” Lí Bạch phóng túng
hình hài, tiêu dao quên ngày tháng, rũ sạch bụi trần, hòa điệu với thiên nhiên, mở lòng ra
76

đón nhận những âm thanh của vũ trụ. “Tiên” Lí Bạch biết nghe và hiểu tiếng suối róc rách,
bài ca của gió, biết giao tiếp với thiên nhiên như là một thực thể sống. “Tiên” Lí Bạch
tương thông với thiên nhiên để trường tồn như thiên nhiên. Tìm đến thế giới thần tiên, Lí
Bạch như đã tìm thấy lối thoát cho những năng lượng tích tụ, những xúc cảm dồn nén,
những ước vọng không thành. Cái Tôi thi sĩ rũ tuột những quy ước, những quan niệm xã
hội để được là mình, được sống với con người bản thể, được khẳng định giá trị cá nhân.
Như vậy, tiên hóa cảnh vật và con người trần thế thể hiện một cái nhìn mới về hiện
thực, về chính mình, một cái nhìn không bị đóng cứng trong định kiến mà biểu hiện sự
thăng hoa phơi phới và niềm tin vào sức mạnh bất diệt của con người. Xu hướng ấy cũng
phần nào biểu hiện được hình ảnh con người thời đại Sơ, Thịnh Đường: hăm hở vươn lên,
tự tin, hưng phấn. Từ Trung Đường về sau, xã hội suy yếu rệu rã không còn mang lại sức
tưởng tượng vô bờ cho các thi nhân làm thơ du tiên. Thi nhân không còn đủ sức bay lên
trời du ngoạn cùng thần tiên, đành để thần tiên xuống chơi nơi trần thế hoặc cấp cho tiên
nhân trong tưởng tượng, ở trên cao những đặc điểm của người phàm.
3.2. Diễm tình hóa
Không chỉ tiên hóa cảnh vật và con người trần thế, các nhà thơ đời Đường còn
diễm tình hóa, xem tình yêu giữa tiên và tiên, phàm và phàm, tiên và phàm là đẹp, cho dù
vì tình yêu mà người ta có thể “chết ở trong lòng một ít”. Chữ “diễm” có nghĩa là đẹp.
Nếu như văn nhân xưa lạc lối nguồn đào đa phần là nhằm vươn tới ý thức tinh thần tự do
cao cả (như trong Đào hoa nguyên kí của Đào Uyên Minh) thì đến đời Đường, đặc biệt là
thời Trung, Vãn Đường đã có sự biến chuyển văn hóa từ ý thức tinh thần tự do cao cả
sang ý thức nhục thể hưởng sống, bay bướm lãng mạn cùng tiên nương. Thời Thịnh
Đường, trong bài Phú đắc minh tinh ngọc nữ đàn tống liêm sát úy Hoa Dương, Vương
Hàn đã mượn du tiên để viết về tình yêu giữa tiên nữ và tiều phu đốn củi. Tình yêu tiên -
phàm cảm động lòng người ấy thể hiện sự lạc quan, lãng mạn của người Thịnh Đường.
Nhưng phải đến thời Trung, Vãn Đường, mượn hình thức du tiên để thể hiện những mối
tình đẹp mới trở thành một hiện tượng phổ biến của thơ du tiên. Thời kì này, tình yêu giữa
tiên và phàm, nhân sĩ và nữ quan, tình yêu nam nữ trong cuộc sống thế tục, thậm chí tình
yêu của đế vương và phi tần đều được thể hiện trong môi trường tiên cảnh. Sự bùng nổ
của phong trào hưởng lạc, sự phát triển của đội ngũ nữ quan và thuật phòng trung, ảnh
hưởng tiên thoại thời Lục Triều là những cơ sở dẫn tới sự hình thành đặc trưng diễm tình
hóa trong thơ du tiên đời Đường.
77

3.2.1. Cơ sở hình thành đặc trƣng diễm tình hóa


3.2.1.1. Sự bùng nổ của phong trào hƣởng lạc và thuật phòng trung
Do những cơn kịch biến của xã hội, đến thời Trung, Vãn Đường, nhân sĩ tỏ ra bi
quan, thất vọng trước cuộc sống nhân sinh. Và không khí xã hội mục ruỗng, loạn lạc, suy
vong đã góp phần tạo nên lối sống “hiện sinh” hưởng thụ đương thời. Họ dám nói lên nhu
cầu được sống, được thỏa mãn lạc thú của mình trong hiện tại, không màng đến những
chuyện phù phiếm xa xôi. Triết lí về “toàn sinh”, “quý sinh” của Lão Trang đã không còn
đông cứng trong khái niệm mà phập phồng sức sống khi được con người thời này hành vi
hóa chúng qua phong trào hưởng lạc. Đa số khách du (du tử, thương nhân, chinh nhân, cử
tử) để thỏa mãn sự hưởng lạc đã quan hệ với kĩ nữ vô cùng mật thiết. Đi hát cô đầu trở
thành cái mốt thời bấy giờ. Văn nghệ sĩ còn kết giao với nữ đạo sĩ, tìm kiếm sự an ủi,
khoái lạc cho tâm hồn. Tư tưởng hưởng lạc lúc này như một phản ứng trước thực tại, là
liệu pháp để xoa dịu những rạn vỡ trong tâm hồn mỗi người và lấy lại cân bằng cho cuộc
đời. Sự bùng nổ của phong trào hưởng lạc đã thúc đẩy tư tưởng thần tiên hướng về tình
cảm con người, tạo nên xu hướng diễm tình hóa trong sáng tác của các văn nhân. Con
người truy cầu hạnh phúc trong tình yêu và cuộc sống hưởng lạc đã phản ánh đặc sắc thời
đại, mở rộng đề tài cho thơ du tiên. Từ tiên lúc này không chỉ được dùng để chỉ tiên nhân,
nữ quan mà còn chỉ những cô gái xinh đẹp, những kĩ nữ. Gặp tiên chỉ còn là để ca ngợi
nam nữ vượt qua lễ giáo phong kiến đến với tình yêu tự do, cho dù có màu sắc hư ảo.
Bên cạnh đó là sự phát triển của thuật phòng trung. Đây là thuật dưỡng sinh thông
qua nhiều kĩ thuật giao hợp nam nữ, nhằm kéo dài mệnh sống, phản ánh khúc chiết ý thức
sinh mệnh của Đạo giáo, cho thấy nó không chủ trương cấm dục như Phật giáo. Thuật
phòng trung rất lưu hành trong giới nhân sĩ thời Đường, đặc biệt là thời Trung, Vãn
Đường. Cùng với sự phồn vinh của các đô thị thời Đường và sự ra đời của tầng lớp thị dân,
một loại văn hóa hưởng thụ mang màu sắc thế tục, lấy tình dục làm hạt nhân cũng dần dần
phát triển, thúc đẩy văn nhân tìm hiểu nhiều về thuật phòng trung, để có thể hưởng lạc
nhiều hơn, trường sinh hơn. Cơ sở tu dưỡng của nó là dựa trên chuyện hưởng lạc, dưỡng
sinh. Tất nhiên, ở đó hưởng lạc không phải là mục đích, cứu cánh mà nhiều khi chỉ là
phương tiện, nhưng nó đã tạo chỗ dựa cho khuynh hướng hưởng lạc phát triển và sự ra đời
của những bài thơ mượn du tiên để nói về tình yêu.
3.2.1.2. Sự phát triển của đội ngũ nữ quan
Trở lên trên, chúng tôi đã nói tới sự phát triển của Đạo giáo ở thời Đường có ảnh
hưởng lớn tới sự hình thành xu hướng tiên hóa cảnh vật và con người trần thế trong thơ du
78

tiên. Vị trí đặc biệt của Đạo giáo còn thúc đẩy sự xuất hiện của đội ngũ công chúa, cung
nhân và phụ nữ quý tộc nhập đạo, trở thành nữ quan trong đạo quán, là đối tượng miêu tả
của những bài thơ du tiên diễm tình đời Đường. Những nữ hoàng quan (mũ vàng) này
tương tự như ni cô bên Đạo Phật. Phật giáo rất nghiêm khắc với ni cô. Cơ hội cho ni cô
tham gia các hoạt động xã hội so với nữ quan là rất ít. Ngược lại, nữ quan trong đạo quán
vốn không phải là người đã trải mọi lẽ đời, chuyên tâm mộ đạo, theo đuổi trường sinh,
cách tuyệt với cuộc sống. Họ nhập đạo là để thoát khỏi gông cùm của lễ giáo phong kiến.
Họ tỏ ra phản nghịch đối với quy phạm đạo đức truyền thống, dũng cảm theo đuổi tình
yêu tự do và sống với nhân tính tự nhiên. Do đó, nữ quan thân nơi đạo quán nhưng tâm ở
thế gian, nỗi sầu li biệt, bi hoan li hợp của họ không khác với người thường. Họ phong lưu
lãng mạn, ăn mặc diêm dúa, thỏa mãn tâm lí truy cầu nữ tiên của văn nhân ngay ở chốn
nhân gian. Đa số nữ quan đều có sự tu dưỡng văn hóa nghệ thuật tương đối cao, thông
minh hơn người, không chỉ theo đuổi các hoạt động tôn giáo như dưỡng luyện tại các đạo
quán mà còn hoạt động sôi nổi trong xã hội, trở thành cây cầu đặc biệt kết nối văn nhân
với Đạo giáo. Đời Đường là thời đại phong lưu, tự tin, ít có sự cấm đoán đối với tư tưởng
con người. Do đó, theo đuổi nữ quan trở thành cái mốt của văn sĩ đời Đường, đặc biệt là
thời Trung, Vãn Đường. Giới sĩ tử thường ví nữ quan với tiên nhân, xem mình là Lưu
Thần, Nguyễn Triệu hoặc Tiêu Sử lạc bước vào tiên cảnh. Giữa họ nảy sinh tình cảm là
điều không tránh khỏi. Đây chính là cội nguồn của sự xuất hiện những bài thơ mượn du
tiên để thể hiện tình cảm với nữ quan, mà Lí Thương Ẩn là tác giả điển hình.
3.2.1.3. Ảnh hưởng từ tiên thoại thời Lục Triều
Ngoài những nguyên nhân khách quan do thời đại mang lại, xu hướng diễm tình
hóa còn có cội nguồn sâu xa từ truyền thống tiên thoại thời Lục Triều. Tiên nữ lấy phàm
nam là một mẫu đề quan trọng của tiên thoại thời Lục Triều. Hình tượng tiên nữ trong
những câu chuyện tiên thoại thời kì này thường có những đặc điểm sau đây: Một là tiên
nữ thường đẹp tuyệt vời, phong lưu đa tình, giỏi đàn cầm thơ phú, là lý tưởng về cái đẹp
trong mắt phàm nam. Hai là hành động không bị trói buộc, cống hiến mà không đòi hỏi.
Ba là địa vị cao mà không chê nghèo thích giàu. Bốn là quý trọng phàm nam nghèo hèn,
phàm nam dựa vào họ có thể thành tiên. Mô típ tiên nữ giáng trần xuất hiện trong những
tác phẩm tiêu biểu như truyện Đổng Vĩnh trong Liệt tiên truyện của Lưu Hướng đời Hán,
truyện Huyền Siêu trong Sưu thần ký của Can Bảo. Tiêu biểu cho mô típ nam phàm lạc
vào động tiên, nam nữ thỏa tình hoan lạc là những tác phẩm như Lưu Thần, Nguyễn Triệu
nhập Thiên Thai trong Sưu thần ký của Can Bảo, Hàn Tử trong Liệt tiên truyện. Tuy vậy,
79

những câu chuyện thần nữ hạ giáng, tiên - phàm qua lại này chủ yếu là dẫn dắt người
phàm học đạo cầu tiên, trường sinh bất tử, thể hiện ý nghĩa tôn giáo. Đến thời Trung, Vãn
Đường, mẫu đề này đã được thế tục hóa, nghiêng về thể hiện tình yêu nhiều hơn. Mô típ
cơ bản tạo thành câu chuyện tình yêu trong thơ du tiên đời Đường có cội nguồn trong tiên
thoại Trung Hoa, như hai bài Ngọc nữ Đỗ Lan Hương hạ giáng vu Trương Thạch, Trương
Thạch trọng kí Đỗ Lan Hương của Tào Đường là ảnh hưởng từ câu chuyện tiên thoại Đỗ
Lan Hương biệt truyện, chùm bài Lưu Nguyễn du Thiên Thai ảnh hưởng từ câu chuyện
Lưu Thần, Nguyễn Triệu nhập Thiên Thai trong Sưu thần ký của Can Bảo. Thơ du tiên
diễm tình đời Đường chính là đã được khơi nguồn văn học từ tiên thoại thời Lục Triều.
Như vậy, không phải ngẫu nhiên mà chuyện tình yêu vốn ít được nói đến trong xã
hội phong kiến lại chọn mảnh đất đắc địa là thơ du tiên để tưng bừng khai hội. Và không
gì đắc dụng hơn là dựa vào phép giả tưởng, mộng tưởng, lấy mộng làm mĩ để nói lên
những khao khát yêu đương, hạnh phúc, để hóa giải những bi kịch tinh thần.
3.2.2. Phương thức sáng tạo chủ yếu: lấy mộng làm mĩ
Bản thân du tiên chỉ là giấc mộng nên mộng ảo trước hết được xem là nội dung của
thơ du tiên. Tuy nhiên ở đây chúng tôi chỉ bàn đến mộng ảo nhƣ một thủ pháp, một
đặc trƣng nghệ thuật chuyển ý tƣởng mà hiện thực thông thƣờng không thể thực
hiện đƣợc. Thơ du tiên đời Đường chính là những vần thơ “đăng cao” bằng mơ mộng.
Mộng không chỉ được thể hiện ngay trong tiêu đề (Mộng thiên - Lí Hạ, Mộng du Thiên
Mụ ngâm lưu biệt - Lí Bạch, Ký mộng - Hàn Dũ, Mộng trung - Thôi Đồ...) mà còn hòa tan
vào toàn bộ cấu trúc tác phẩm, từ ngôn từ, hình ảnh đến các trạng thái của nhân vật khi
mơ. Chỉ trong mộng và bằng mộng, con người mới có thể thực hiện giấc mơ trở về với
bản nguyên, với căn nhà ở đời của mình chốn mây trắng, với tiếng suối róc rách, mùi
hương hoang đường của hoa quế và vẻ đẹp ma mị của nguồn đào. Mộng ảo trong thơ du
tiên đời Đường góp phần tạo ra một thế giới đủ cho ta mơ ước. Đó là nơi không có bất
công, áp bức, không đói nghèo, bệnh tật mà toàn đàn ca yến hội tưng bừng.
Trong thơ du tiên đời Đường, phần mộng ảo nhất chính là những câu chuyện tình
yêu. Chạm vào tình yêu, cái lĩnh vực bộc lộ sâu sắc, run rẩy nhất của nhân tính, bị cấm kị
nhiều nhất, đối với các thi nhân là một thách đố nghệ thuật. Vì thực ra, trong xã hội phong
kiến, tình yêu luôn chịu sự chi phối của tư tưởng thời đại. Mà Nho gia tiết dục, Đạo gia
quả dục, Phật giáo diệt dục, tự do cá nhân chưa được đề cao, vì vậy tình yêu chưa bao giờ
được chiếm giữ vị trí trung tâm mà luôn bị dạt ra ngoại vi, bị gạt ra khỏi những diễn ngôn
chính thống của thời đại. Nhưng thực tại càng khắc nghiệt, nhu cầu giải thoát thực tại càng
80

mãnh liệt. Các thi sĩ đã tìm đến một phương thức để giải tỏa ẩn ức, để gỡ bỏ cái lá nho vờ
vịt, xóa bỏ dần những cấm kị vô lối: lấy mộng làm mĩ, mượn du tiên để thể hiện tình yêu.
Cần phải khẳng định rằng lấy mộng làm mĩ không phải là phương thức sáng tạo nghệ
thuật riêng có của những bài thơ du tiên diễm tình mà còn xuất hiện trong cả những bài
thơ du tiên khác. Nhưng không thể phủ nhận, phép giả tưởng, mộng tưởng được sử dụng
với tần số cao nhất khi các tác giả đề cập đến chuyện tình yêu giữa tiên nhân và tiên nhân,
phàm nhân và phàm nhân, tiên nhân và phàm nhân. Bởi vì bản thân hình tượng tiên nhân
đã là hư cấu. Giữa tiên nhân và phàm nhân nảy sinh tình yêu càng là điều không có thật.
Người ta chỉ có thể dựa vào mộng ảo để vượt lên hiện thực đời sống, để thực hiện ước mơ
hạnh phúc trong tình yêu, để hóa giải bi kịch trong cuộc đời. Chỉ với mộng và bằng mộng
người ta mới nói được những khao khát yêu đương, hạnh phúc phải kìm nén bấy lâu.
Trong những bài thơ du tiên diễm tình, mộng trước hết tạo ra sự hư ảo. Mộng khiến con
người chạm tới được cái hư, biến hư thành thực. Sự vật có đấy mà như không, những hình
ảnh thực thực hư hư, những sắc màu lung linh diệu ảo, những thanh âm trầm bổng hư
huyền. Không gian tình yêu trong thơ du tiên đời Đường tràn đầy những hình ảnh huyền
hồ, hư ảo. Lối Thiên Thai là lối tiên, cũng chính là con đường tình yêu, nơi hai chàng Lưu
Nguyễn đã gặp những người đẹp muôn đời, đã nên duyên chồng vợ. Cái hư, nhờ mộng ảo
đã hiện hình thành thực. Và khi tỉnh mộng, thực lại biến thành hư, sau khi trở về cõi trần
hai chàng lại tìm đến chốn Thiên Thai nhưng không gặp tiên nữa, chỉ còn dòng suối và
hoa đào như nhân chứng cho mối tình giữa tiên nữ và phàm nam. Có lẽ hình ảnh hư ảo
nhất chính là hình ảnh tiên nữ. Các thi sĩ luôn xem nàng như bóng hình tượng trưng cho
cái đẹp. Nàng hữu hình mà vô thanh: “Minh tinh tiên nữ từ xa hiện hình” (Cổ phong, bài
19 - Lí Bạch). Thậm chí vô thanh lẫn vô hình, chỉ được vẽ ra thông qua miêu tả vùng ảnh
hưởng của nàng nơi tiên giới: “Nguyện đắc hoa gian hữu nhân xuất. Miễn linh tiên khuyển
phệ Lưu Lang” (Mong rằng trong hoa có người ra đón. Để chó nhà tiên khỏi sủa chàng
Lưu) (Lưu Nguyễn động trung ngộ tiên tử - Tào Đường). Chính sự hư ảo làm cho nàng
thêm đẹp, vì nếu xuất hiện rõ ràng giữa thanh thiên bạch nhật sẽ làm hư hao sự trong trẻo,
thanh tao của cõi tiên, nơi mà tạo vật, con người chỉ như những nét mong manh thấp
thoáng cánh hoa bay. Hư ảo gia tăng trọng lượng cho sự khẳng định cái không có thực của
cõi tiên trong cuộc sống con người. Nhưng thông qua những hình ảnh hư ảo đó, ta vẫn
thấy cái thực được phản ánh. Chốn Thiên Thai của hai chàng Lưu Nguyễn là thăng hoa
của niềm mơ ước về một thế giới tốt đẹp, nơi tình yêu không bao giờ phai tàn. Còn tiên nữ
81

là cội nguồn của tình yêu, tượng trưng cho cái đẹp vừa cao sang để người phàm ngưỡng
vọng, đam mê, lại vừa cao xa để ta suốt đời theo đuổi rồi hụt hẫng.
Trong những bài thơ du tiên diễm tình đời Đường, mộng còn tạo ra sự biến hóa.
Đặc biệt, trong những bài thơ đề cập đến tình yêu giữa tiên và phàm, điều này càng được
thể hiện rõ. Ở đó có hiện tượng người tục thần tiên hóa (như Tiêu Sử và Lộng Ngọc), thần
tiên trần tục hóa (như ngọc nữ Đỗ Lan Hương hạ giáng nhà Trương Thạch). Tiên nhân
thành người phàm, người phàm thành tiên nhân thông qua phép bay biến hư ảo. Mỗi câu
chuyện tình yêu là một giấc mộng, mỗi sự biến hóa từ người phàm thành tiên hay từ tiên
thành người phàm đều thể hiện khát vọng tình yêu và hạnh phúc của con người. Lấy mộng
làm mĩ, các tác giả đã làm hiện hình sống động tình yêu giữa tiên và tiên, tiên và phàm,
phàm và phàm trong môi trường tiên cảnh.
3.2.3. Biểu hiện diễm tình hóa trong thơ du tiên đời Đƣờng
3.2.3.1. Giữa tiên nhân và tiên nhân
Không phải ngẫu nhiên trong thơ du tiên đời Đường lại xuất hiện nhiều hình ảnh
nữ tiên đến thế. Những tiên nữ có tên như Ngọc Nữ, Thường Nga, Chức Nữ, Lộng Ngọc,
Tây Vương Mẫu, Đỗ Lan Hương và rất nhiều những tiên nữ vô danh. Tất cả họ đều tượng
trưng cho cái đẹp. Ở đâu có tiên nữ là ở đó có tình yêu. Cảnh nam nữ tiên nhân yến ẩm
giao du, ngất ngây, thậm chí đau khổ vì tình cũng được các nhà thơ tập trung khắc họa.
Dương Hành trong bài Tiên nữ từ miêu tả hình ảnh tiên nữ thành thiếu nữ hoài xuân, xuân
tình nảy nở. Đại du tiên thi và Tiểu du tiên thi của Tào Đường hình thức là thơ du tiên
nhưng thực chất là thơ tình yêu. Có những bài thơ được tác giả tập trung khắc họa tình
yêu giữa tiên nhân với tiên nhân như bài 59 trong Tiểu du tiên thi thể hiện giấc mộng tơ
tưởng yêu đương của một tiên nữ, có thể là đang nhớ về người yêu nơi xa hoặc khát vọng
tìm được một đức lang quân như ý. Bài 98 trần thuật cảnh tiên nữ ăn trộm đào tiên để tặng
người yêu. Tiêu biểu nhất là tình yêu giữa Ngưu Lang và Chức Nữ. Trong câu chuyện tiên
thoại thời Lục Triều, Chức Nữ là cháu trời, làm nghề dệt vải rất siêng năng. Trời đem gả
cho Khiên Ngưu làm nghề chăn trâu. Hai vợ chồng quá âu yếm nhau, không giữ được
đúng phép trời. Trời phạt, đem đày mỗi người ở một bên sông Ngân Hà. Mỗi năm trời chỉ
cho phép hai vợ chồng qua sông gặp nhau một lần, vào đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch,
do cái cầu của chim ô thước (chim quạ và chim khách) bắc cầu Ô. Vợ chồng gặp nhau
khóc than về cảnh li biệt. Nước mắt chan chứa, rơi xuống trần gian thành mưa rơi tầm tã.
Nhiều nhà thơ đã dựa vào cốt truyện ấy, sáng tác thành những bài thơ du tiên diễm tình
cảm động lòng người, như bài Thất tịch của Lí Thương Ẩn: “Khủng thị tiên gia hiếu biệt
82

li. Cố giao điều đệ tác giai kì. Do lai Bích lạc Ngân hà bạn. Khả yếu kim phong ngọc lộ
thì. Thanh lậu tiệm di tương vọng cửu. Vi vân vị tiếp quá lai trì. Khởi năng vô ý thù ô
thước. Duy dữ tri thù khất xảo ti” (E rằng thần tiên thích chuyện chia li. Nên khiến Ngưu
Lang, Chức Nữ xa cách nhau để có ngày gặp gỡ. Từ đó đến nay ở hai cõi trời cách bờ
sông Ngân. Nên mong đến lúc gió vàng, móc ngọc (mùa thu). Thời khắc chậm chạp trôi,
khiến cho đôi tình nhân mòn mỏi đợi. Chòm mây chậm nối liền đôi bờ, nên đi qua muộn.
Những cô gái đâu phải không có ý nhờ ô thước bắc cầu. Chỉ vì lo xin nhện cho chút tơ, để
mong được khéo tay) (Lê Quang Trường dịch). Bài thơ tập trung khắc họa nỗi nhớ thương
từ hai phía Ngưu Lang và Chức Nữ. Thời gian càng chậm chạp trôi, chòm mây càng dềnh
dàng, chậm nối liền đôi bờ thì đôi tình nhân càng mỏi mòn trông ngóng. Giấc mộng tình
yêu dồn trong nỗi khắc khoải đợi chờ. Cũng khơi nguồn cảm hứng từ câu chuyện tiên
thoại ấy, Chức Nữ hoài Khiên Ngưu của Tào Đường lại tập trung khắc họa nỗi nhớ nhung,
đau khổ từ một phía: Chức Nữ đối với chàng Ngưu: “Bắc đẩu giai nhân song lệ ngưu.
Nhãn xuyên trường đoạn vị Khiên Ngưu. Phong đề cẩm tự ngưng tân hận. Phao trịch kim
thoa chức cựu sầu. Quế thụ tam xuân yên mạc mạc. Ngân hà nhất thủy dạ du du. Dục
tương tâm hướng tiên lang thuyết. Tá vấn du hoa tảo vãn thu” (Tạm dịch: Mĩ nhân bắc
đẩu lệ rơi. Mắt mòn ruột đứt trông vời Ngưu Lang. Thư đề chữ gấm hận tan. Ném thoi
vàng dệt hàng hàng sầu xưa. Ba xuân cung quế sương mờ. Dải ngân hà những đêm mơ
mòng chàng. Mở lòng nói với tiên lang. Hỏi hoa du sớm hay tàn mùa thu). Có phải vì bao
nhớ thương khắc khoải được tác giả dồn hết vào đầu cầu Chức Nữ nên mắt mòn ruột đứt,
lệ sầu như mưa? Thông qua những bài thơ thể hiện tình yêu giữa tiên và tiên ấy, các tác
giả phần nào đã hé lộ sự thực tiên nhân cũng như người phàm, cũng khao khát tình yêu,
cũng nhớ nhung vì xa xôi cách trở và đứt ruột vì tình.
3.2.3.2. Giữa phàm nhân và phàm nhân
Không chỉ diễm hóa tình yêu giữa tiên với tiên, các nhà thơ đời Đường còn tập
trung thể hiện tình yêu giữa phàm và phàm. Cái hay của những bài thơ này là mặc dù viết
về tình yêu giữa người phàm với nhau nhưng các tác giả thường đặt nó trong môi trường
tiên cảnh, hoặc xem phàm nhân như tiên nhân khiến tình yêu được tiên hóa, giảm sắc màu
bi kịch. Và ta chỉ còn thấy nó đẹp, dù thực chất đầy trắc trở, gập ghềnh. Chẳng hạn, Lí
Khang Thành trong bài Ngọc Hoa tiên tử ca kể lại câu chuyện tình yêu giữa tác giả và nữ
quan Trịnh Ngọc Hoa. Tác giả đem tình yêu của mình và Trịnh Ngọc Hoa đặt vào tiên
cảnh, khiến cuộc tình vốn phổ thông, bình thường lại có màu sắc lí tưởng, siêu hiện thực.
Còn thế giới thần tiên cũng vì có chuyện tình yêu của người phàm mà trở nên chân thực,
83

gần gũi. Lưu Ngôn Sử trong bài Tặng thành luyện sư tứ thủ lại dùng hình thức chùm thơ,
miêu tả nữ quan dung mạo đẹp đẽ, ví họ với tiên nữ chốn Bồng Lai hay Dao Trì tiên tử,
còn mình như Lưu Thần, Nguyễn Triệu để biểu đạt tình cảm quyến luyến ái mộ của mình.
Lưu Nguyễn thê nhị thủ của Nguyên Chẩn cũng vận dụng điển cố Lưu Thần Nguyễn Triệu
gặp tiên, thực tế ám chỉ cuộc tình vụng trộm giữa nữ đạo sĩ trong đạo quán và người trần.
Trong số những thi nhân đời Đường, Lý Thương Ẩn là nhà thơ giỏi vận dụng hình
thức du tiên để biểu hiện tình yêu nam nữ. Nam nữ thuộc giới đạo yêu nhau không được
xã hội mặn mà công nhận, chỉ có thể bí mật gửi trao tình cảm. Một khi tình cảm bại lộ,
còn phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc. Nữ quan Tống thị mà Lí Thương Ẩn yêu là
người hầu hạ công chúa nhập đạo. Những trói buộc và hình phạt mà cô phải chịu càng
nhiều, càng nghiêm khắc. Vì vậy, tình yêu của họ là một sự khiêu chiến đối với những
giới luật của Đạo giáo, và do bị can thiệp nên đã kết thúc trong bi kịch. Sự thất bại ấy
được thể hiện trong thơ ông thành giấc mộng tương tư đầy tuyệt vọng giữa tiên và phàm
(mà thực chất là giữa phàm và phàm): “Thâu đào thiết dược sự nam kiêm. Thập nhị thành
trung tỏa thái thiềm. Ưng cộng tam anh đồng dạ thưởng. Ngọc lâu nhưng thị thủy tinh
liêm” (Trộm đào, cắp thuốc, cả hai đều khó vô cùng. Vầng trăng đẹp bị nhốt trong tòa
thành cao mười hai tầng. Giá được cùng ba nàng ngắm trăng đêm nay. Lầu ngọc mà sao
vẫn là nơi màn thủy tinh ở cấm cung?) (Nguyệt dạ trùng kí Tống Hoa Dương tỉ muội) (Lê
Quang Trường dịch). Trong bài thơ này, nhà thơ dùng điển cố Đông Phương Sóc ăn trộm
đào tiên (thâu đào) của Tây Vương Mẫu trong Hán Vũ đế nội truyện nhằm chỉ tình yêu,
điển cố Thường Nga ăn trộm linh dược của Hậu Nghệ và bay lên cung trăng nhằm ví với
phàm nhân học đạo cầu tiên. Cả hai việc ấy đều khó vô cùng (sự nan kiêm). Phép giả
tưởng, mộng tưởng thể hiện khát vọng đoàn viên. Nhưng mộng tưởng mãi chỉ là mộng
tưởng. Hình ảnh vầng trăng bị nhốt trong tòa thành cao và sự khép kín của màn thủy tinh
nơi cấm cung (thủy tinh liêm) ngầm chỉ nam nữ trong giới đạo phải chịu ngăn cách, luyến
ái và cầu tiên khó mà song toàn. Đọc thơ Lý Thương Ẩn, đặc biệt là những bài thơ du tiên,
ta như lạc vào một mê cung, như lạc giữa rừng sâu chằng chịt cây lá. Những bài thơ đó ý
tứ quá sâu, hàm nghĩa quá rộng, tạo thành những nghi án thơ ca và không dễ trượt đi trong
trí nhớ người đọc. Chẳng hạn trong Bích Thành (bài 1), bề mặt viết tiên nữ trên trời, thực
chất viết công chúa nhập đạo. Bề mặt viết nơi ở, phục trang, thực chất làm nền cho cuộc
hẹn hò bí mật. Công chúa nhập đạo nhưng tâm chẳng đoạn đời, dục tình không dứt. Tác
giả không trực tiếp thể hiện ý tứ mà dùng phương pháp giả tưởng, mộng tưởng, tượng
trưng, ám thị và sử dụng điển cố, không tả cảnh nơi trần thế mà đưa cảnh tượng ấy lên trời,
84

đưa thần thoại cổ đại và truyền thuyết Đạo giáo nhập thơ, không những biểu hiện sinh
động chủ đề thơ ca mà còn khiến cho tác phẩm tỏ ra khôi kì, mĩ lệ. Trùng quá thánh nữ từ
cũng là một là một bài thơ du tiên như thế: “Bạch thạch nham phi bích tiển tư. Thượng
Thanh luân trích đắc quy trì. Nhất xuân mộng vũ thường phiêu ngõa. Tận nhật linh phong
bất mãn kỳ. Ngạc Lục Hoa lai vô định sở. Đỗ Lan Hương khứ vị di thì. Ngọc Lang thử hội
thông tiên tịch. Ức hướng thiên giai vấn Tử Chi” (Rêu biếc mọc ẩm ướt ở cửa hang đá
trắng. Từ cung Thượng Thanh đày xuống, chậm được trở về. Một cơn mưa trong mơ
thường thổi bay ngói. Gió thiêng suốt ngày không làm căng lá cờ. Ngạc Lục Hoa đến
không có chỗ nào nhất định. Đỗ Lan Hương ra đi chưa bao lâu. Lần gặp gỡ ấy đã qua
được sổ tiên của Ngọc Lang. Nhớ đến thềm trời mà hỏi Tử Chi) (Lê Nguyễn Lưu dịch).
Đền thánh nữ thực chất là đạo quán mà nữ quan ở. Thi nhân thăm lại đạo quán, nơi người
yêu đã từng ở, giờ đã cách xa và đạo quán đã đóng cửa im lìm. Tức cảnh sinh tình, nhà
thơ viết nên nỗi cảm khái không được đoàn tụ với tình nhân. Song, tất cả những nội dung
ấy lại được thể hiện quanh co kín đáo qua hình ảnh vị thánh nữ và hoàn cảnh sống của cô
ta. Cửa hang xây dựng bằng đá trắng mà lại đã đầy rêu, xem ra vị thánh nữ từ cung
Thượng Thanh bị đày xuống này đã ở trần thế rất lâu rồi. Sự đối lập giữa bạch thạch (đá
trắng) và bích tiển (rêu xanh) cho thấy vẻ tịch liêu, hoang vắng của không gian đền thánh
nữ. Từ cửa hang, tác giả tiến tới miêu tả toàn cảnh đền thánh nữ. Cảnh thực trước mắt
được thêm vào thành phần tưởng tượng, mang ý vị tượng trưng. Những hình ảnh hư ảo
trong Đạo giáo thần tiên như “mộng vũ” được vận dụng nhằm ẩn dụ cho sự chờ đợi, hi
vọng của thánh nữ đối với tình yêu. Những nhân vật trong truyền thuyết Đạo giáo như
Ngạc Lục Hoa, Đỗ Lan Hương cũng được huy động nhằm tôn thêm bi kịch của thánh nữ.
Cô còn chờ đợi Ngọc Lang - người trông coi sổ tiên đến giúp cô thực hiện giấc mộng trở
về tiên giới. Bài thơ bề mặt viết về thánh nữ, thực chất ngâm vịnh nữ quan vì truy cầu tình
yêu mà bị trừng phạt biếm trích, mặc dù vậy vẫn ôm hi vọng, chờ đợi có thể được tái hợp
với người yêu. Và đằng sau hình ảnh song trùng thánh nữ - nữ quan ấy, ta còn thấy thấp
thoáng hình ảnh tác giả với bi kịch tình yêu và bi kịch quan trường.
3.2.3.3. Giữa tiên nhân và phàm nhân
Phần đẹp nhất, cảm động nhất trong thơ du tiên đời Đường là tình yêu giữa tiên
nhân và phàm nhân. Mô thức tình yêu giữa tiên nhân và phàm nhân thường có hai kiểu.
Thứ nhất là tiên nữ giáng phàm gặp chàng trai nơi hạ giới và họ kết nghĩa vợ chồng.
Như trong bài Ngọc nữ Đỗ Lan Hương hạ giáng vu Trương Thạch của Tào Đường, hai
câu đầu viết thiên giới và nhân gian cách trở, tình yêu giữa người và tiên là chuyện khó vô
85

cùng để làm nổi bật cái kì lạ trong tình cảm của tiên nữ Đỗ Lan Hương và phàm nam
Trương Thạch. Câu thứ ba viết lộ trình dằng dặc của tiên nữ từ trên trời xuống trần gian,
thể hiện sự hướng vọng và truy cầu nhiệt liệt đối với tình yêu. Nhưng cuối cùng vẫn phải
chia li và cách trở (câu 4). Thứ hai là người trần lạc lối vào tiên cảnh và lấy vợ tiên, như
chùm thơ Lưu Nguyễn du Thiên Thai của Tào Đường. Theo truyền thuyết, vào khoảng
năm Vĩnh Bình (58-75) nhà Hán, Lưu và Nguyễn nhân tết Đoan Ngọ lên núi hái thuốc, lạc
vào động Thiên Thai, được gặp tiên nữ, sau khi trở về cõi trần lại tìm đến Thiên Thai
nhưng không gặp tiên nữa. Câu chuyện này từng được các tín đồ Đạo giáo yêu thích, được
lưu truyền trong dân gian và ăn sâu vào tâm thức con người, cũng được Tào Đường chọn
làm đề tài và khai triển thành giấc mộng tình yêu giữa tiên và phàm. Tất nhiên, câu
chuyện được đưa vào đây không bao gồm đầy đủ các chi tiết, biến cố. Nó chỉ được tái
hiện một cách cô đọng, vừa đủ để làm cơ sở cho việc bộc lộ và triển khai tứ thơ. Năm bài
thơ về câu chuyện Lưu, Nguyễn du Thiên Thai được Tào Đường kết cấu theo kiểu móc
xích, liên hoàn với nhau thành chùm, thể hiện hoàn chỉnh sự vận động của một giấc mơ
lớn, giấc mơ thoát trần đến chốn hạnh phúc nhưng không đạt kết quả. Nói đúng hơn, một
đôi lần trong cảnh Bồng Lai, con người đã được hưởng tình tiên tha thiết nhưng không
bền. Tác giả lần lượt thuật lại năm sự kiện tương đối độc lập, có nhân vật (tiên nữ, Lưu,
Nguyễn), tình tiết (chơi núi Thiên Thai, gặp tiên, đưa tiễn về trần, hoài nhớ, quay lại chốn
cũ), môi trường (động tiên). Dựa vào sự thay đổi của thời gian và sự biến ảo của không
gian, Tào Đường đã tổ chức thành câu chuyện tình yêu tiên - phàm cảm động lòng người.
Bài đầu tiên, Lưu Nguyễn du Thiên Thai tập trung nhiều nhất những yếu tố mồi mơ mộng:
“Thụ nhập Thiên Thai thạch lộ tân. Vân hoà thảo tĩnh, quýnh vô trần. Yên hà bất tỉnh sinh
tiền sự. Thuỷ mộc không nghi mộng hậu thân. Vãng vãng kê minh nham hạ nguyệt. Thời
thời khuyển phệ động trung xuân. Bất tri thử địa qui hà xứ. Tu tựu Đào nguyên vấn chủ
nhân” (Theo lối đá mới, hàng cây dẫn vào Thiên Thai. Mây êm ái, cỏ lặng lẽ không
vướng chút bụi. Ở chốn khói mây, không còn biết đến việc trước. Trông có nước, cứ ngỡ
mình vừa tỉnh cơn mơ. Thỉnh thoảng nghe gà gáy dưới trăng treo sườn núi. Chốc chốc có
tiếng chó sủa trong động vào mùa xuân. Chẳng biết đây đi về chốn nào thế nhỉ? Hãy tới
nguồn đào hỏi thăm chủ nhân) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Bài thơ thể hiện hình ảnh hai chàng
Lưu Nguyễn tình cờ lạc chốn Thiên Thai. Nếu khói, ráng, dòng nước đóng vai trò hữu
hiệu trong việc nuôi dưỡng mộng mị thì mây lại tượng trưng cho cõi cao khiết, đã được
“tính từ hoá” trong tâm thức con người. Bài đầu tiên tuy chưa viết là gặp tiên, nhưng đã
dùng hình thức nghi vấn để dẫn tới bài sau, rất tự nhiên phát sinh câu chuyện gặp tiên
86

trong động: “Thiên hoà thụ sắc ái thương thương. Hà trọng lam thâm lộ diểu mang. Vân
đậu mãn sơn vô điểu tước. Thuỷ thanh duyên giản hữu sinh hoàng. Bích sa động lý càn
khôn biệt. Hồng thụ chi biên nhật nguyệt trường. Nguyện đắc hoa gian hữu nhân xuất.
Miễn linh tiên khuyển phệ Lưu lang” (Màu trời lẫn với màu cây xanh bát ngát. Ráng nặng,
khí mờ, đường đi vời vợi. Hốc mây khắp núi không có chim chóc. Tiếng nước trong khe
như tiếng sênh sáo. Trong động cát biếc riêng chiếm một bầu trời đất. Bên cành lá đỏ ngày
tháng dài lâu. Cứ mong trong đám hoa có người bước ra. Để chó nhà tiên khỏi sủa chàng
Lưu) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Bài thơ khẳng định sự hư ảo bằng trạng thái thiếu vắng bóng
người. Ngoài ra, tiếp tục lựa chọn hình ảnh nước và bổ sung thêm hình ảnh hoa đào cũng
là cách để Tào Đường khẳng định Lưu, Nguyễn đã thật sự lạc chốn Thiên Thai. Nhưng
vui quá hoá bi. Người trần lạc lối Thiên Thai vừa đê mê trong hạnh phúc của kẻ được lạc
vào động tiên ăn quả cấm, vừa buồn rầu chán ngán vì vĩnh viễn cũng trở thành buồn tẻ
như vòng quay luân hồi. Dù vũ khúc Hằng Nga có quyến rũ nhưng cõi nhân gian vẫn là
cuộc sống thực, thôi thúc hai chàng trở lại cố hương. Và lời giã từ Tiên tử tống Lưu,
Nguyễn xuất động đã bật lên như những điệu đàn li biệt thiết tha: “Ân cần tương tống xuất
Thiên Thai. Tiên cảnh na năng khước tái lai! Vân dịch kí quy tu cưỡng ẩm. Ngọc thư vô
sự mạc tần khai. Hoa lưu động khẩu ưng trường tại. Thủy đáo nhân gian định bất hồi. Trù
trướng khê đầu tòng thử biệt. Bích sơn minh nguyệt chiếu thương đài” (Ân cần đưa tiễn
nhau ra khỏi Thiên Thai. Khó có thể trở lại cõi tiên một lần nữa. Người về hãy gượng
uống chén vân dịch. Nếu không có việc gì chớ mở luôn thư ngọc. Hoa ở lại cửa động vẫn
còn mãi. Nước chảy về cõi trần chắc không quay lại. Từ ấy xa nhau, lòng xót xa bên khe
suối. Trăng sáng trên núi biếc rọi lớp rêu xanh) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Hoá ra tình tiên
nhưng duyên tục. Tiên giới nhất nguyên chỉ là mơ ước, cõi đời nhị nguyên mới là chốn
“đào nguyên” mời gọi con người trở về. Bởi nặng tình đời, nên dù hưởng mọi lạc thú, hai
chàng Lưu, Nguyễn vẫn thức tỉnh tìm về cố hương. Cõi trần dù bào ruột xót gan, dù lăng
nhăng trăm sự vẫn là cái “cõi người thẳm sâu” mà con người yêu còn chưa đủ. Hai bài thơ
còn lại lần lượt viết về tình cảm của hai bên nam nữ nhớ nhau sau khi từ biệt, cũng là cao
trào của chùm thơ này. Trước tiên tác giả viết tiên nữ nhớ hai chàng (Tiên tử động trung
hữu hoài Lưu Nguyễn). Sau đó viết hai chàng nhớ tiên nữ, lại “tìm tiên để nộp ấn phong
hầu” nhưng không thấy (Lưu Nguyễn tái đáo Thiên Thai bất phục kiến chư tiên tử). Năm
bài thơ nhất thể nhất khí, tình tiết phát triển logic, từ du, ngộ, tống, hoài đến tái đáo, cấu
thành giấc mộng tình yêu giữa tiên và phàm cảm động lòng người. Tâm trạng của các
nhân vật được nhà thơ thể hiện cụ thể: gặp tiên: vui mừng, hoan hỉ, tiên và người chia tay:
87

đau khổ, bi thương, tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn: bất lực, cô đơn, Lưu Nguyễn quay lại gặp
tiên: thất vọng, hối hận. Người trần thế mê hạnh phúc Bồng Lai trong khi những nàng tiên
lại khao khát khúc tình duyên trần thế. Lưu Nguyễn khi ở Thiên Thai chẳng quên được
trần gian, khi về trần, muốn tìm lại cõi tiên thì Đào nguyên nơi nao. Đó là sự lệch pha
trong tình yêu giữa tiên và phàm. Mặc dù vậy, nó vẫn đẹp.
Như trên chúng tôi đã nhận định, tiên nữ lấy phàm nam là một mẫu đề quan trọng
của tiên thoại thời Lục Triều. Thơ du tiên đời Đường ảnh hưởng trực tiếp từ tiên thoại. Và
trong quá trình khảo sát, tìm kiếm những biểu hiện của xu hướng diễm tình hóa giữa tiên
và phàm, chúng tôi cũng chỉ thấy xuất hiện hai mô thức cơ bản như đã dẫn trên đây. Thực
tế, trong thơ du tiên đời Đường không xuất hiện mô típ tiên nam lấy phàm nữ. Điều này
phản ánh một vướng mắc, một mâu thuẫn nội tại của ý thức nam quyền. Nó ăn sâu vào
tiềm thức văn hóa Trung Hoa và phóng chiếu cả vào mảng thơ du tiên vốn thoát nhất, ảo
nhất. Cũng không thể phủ nhận xu hướng diễm tình hóa trong thơ du tiên đời Đường có
mối quan hệ với phái hương diễm thời Vãn Đường - một phái thơ dùng ngôn ngữ hoa lệ,
phần lớn để tả diễm tình nam nữ mà Hàn Ốc, Ôn Đình Quân là những tác giả điển hình.
Và cống hiến không thể coi nhẹ của Lí Thương Ẩn, Tào Đường là đưa thơ du tiên nhập
vào quĩ đạo thi phong hương diễm. Song, nếu thơ Hàn Ốc, Ôn Đình Quân nghiêng về sắc
tình, dùng những lời bay bướm huê tình để tả cuộc sống ăn chơi phóng đãng, truy tìm
hoan lạc hồng hồng tuyết tuyết của giới văn nhân sĩ đại phu đương thời, không tránh khỏi
sự suy đồi ủy mị thì thơ du tiên của những nhà thơ như Lí Thương Ẩn, Tào Đường lại
nghiêng về diễm tình, thoát khỏi vòng hương phấn lụa là để đụng chạm đến vấn đề nhân
bản nhất. Và sự bùng nổ của đề tài tình yêu trong thơ du tiên đời Đường có lẽ cần phải
được nhìn nhận như một hiện tượng xã hội và hiện tượng văn hóa lắng kết lại trong ngôn
từ nghệ thuật. Nó thể hiện sự ức chế, đè nén cần được giải phóng. Nó xuất phát từ nhu cầu
vượt thoát áp lực của định kiến xã hội, thứ định kiến “nhúng mũi” vào mọi thứ, trừ sự
quan tâm đến tình yêu và hạnh phúc đích thực của con người.
Song, dù đưa con người bay lên chín tầng mây, các nhà thơ đời Đường cuối cùng
cũng trở về với đời thường. Nếu xu hướng tiên hóa, diễm tình hóa chủ yếu thể hiện sự
thăng hoa, siêu thoát của mảng thơ du tiên đời Đường thì xu hướng thế tục hóa mà chúng
tôi sẽ đề cập sau đây lại thể hiện sự thực ngay cả khi tìm đến đề tài thoát nhất, ảo nhất, các
nhà thơ Đường cũng không hoàn toàn siêu thoát. Họ vẫn mơ ước nhưng không còn mê
đắm, vẫn có lí tính ngay trong những bài thơ du tiên tưởng chỉ thuần túy mộng mơ này.
3.3. Thế tục hóa tiên cảnh, tiên nhân và giấc mộng cầu tiên của con ngƣời
88

Du tiên là sản phẩm của tâm hồn lãng mạn. Và thơ du tiên phát triển theo xu hướng
thế tục hóa khi nó nhấn mạnh ý thức cái tôi của con người. Khái niệm thế tục hóa mà
chúng tôi sử dụng ở đây được hiểu như là quá trình đưa tiên về với đời, cái thiêng tiến
gần tới cái cái thực, khiến những đối tượng thiêng liêng, cao nhã như tiên cảnh, tiên
nhân cũng mang đặc điểm của trần gian, của đời thường. Và như vậy, thế tục hóa
không đồng nghĩa với sự thô tục, tầm thường, nhạt nhẽo. Cái đích mà nó hướng tới là
phát hiện ra những giá trị của đời thường, khẳng định cuộc đời trần thế. Song, cá tính
sáng tạo của nhà thơ dù độc đáo đến đâu cũng không thể thoát khỏi những ràng buộc của
thời đại, của môi trường văn hóa, thẩm mĩ. Chính điều kiện kinh tế, chính trị thời Trung,
Vãn Đường, sự phát triển của Đạo giáo, sự ra đời của tầng lớp thị dân và nhu cầu thế tục
hóa đời sống văn học là những nguyên nhân khách quan dẫn tới sự phát triển xu hướng
thế tục hóa trong thơ du tiên thời Trung, Vãn Đường.
3.3.1. Cơ sở hình thành đặc trƣng thế tục hóa
3.3.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị thời Trung, Vãn Đường
Đời Đường là thời đại hoàng kim trong lịch sử Trung Hoa. Nhưng thời thịnh trị
của triều Đường cũng chỉ diễn ra trong khoảng một trăm năm, và ngay khi phát triển đến
đỉnh cao cũng đã ẩn chứa mầm tai họa. Đến năm 755, An Lộc Sơn mang quân vào Trường
An kéo sập vòm mái mục ruỗng của triều đại Đường Huyền Tông. Nhà Đường từ đỉnh cao
của thái bình thịnh trị đột ngột rớt xuống vực thẳm tối tăm. Hàng triệu người bị ném vào
lò lửa chiến tranh. Nguy cơ xã hội cùng các loại mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc và
mâu thuẫn trong nội bộ tập đoàn thống trị ngấm ngầm đã lâu, nay như núi lửa phun trào
không thể ngăn chặn. Chính trị ngày càng đen tối, sức nước ngày càng suy yếu, dân sinh
ngày một lầm than. Giữa thời đại rối ren, những ràng buộc tam cương ngũ thường trở nên
lỏng lẻo. Nhân sĩ chẳng còn đem chí bình sinh đặt nơi khoa hoạn. Lý tưởng tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ cũng không còn là niềm rung cảm. Ý thức cá nhân làm con người
không tin vào cái vĩnh viễn. Họ chỉ tin vào lúc này, kiếp này, thân này, chỉ thời hiện tại là
có ý nghĩa, thời quá khứ và tương lai mờ mịt, vô thường. Theo tác giả Trần Trọng San:
“Cuộc loạn Thiên Bảo làm cho những người có cao vọng thần tiên cũng phải băn khoăn
về trần tục và những ẩn sĩ Chung Nam thắc mắc về chuyện đời” [69, 17]. Sự thất vọng của
họ đối với hiện thực khách quan cuối cùng dẫn tới việc theo đuổi tâm linh chủ quan để
giải thoát phiền não. Đặc biệt đối với văn nghệ sĩ, từ người tham dự vào đời sống xã hội,
họ trở thành kẻ nản lòng nhụt chí, nguội lạnh nhiệt tình kinh bang tế thế. Nỗi sợ sinh tồn
không được bảo hiểm trong thời loạn thúc đẩy văn nhân tìm đến thế giới thần tiên tốt đẹp
89

để bù đắp cảm giác thiếu hụt trong hiện thực, từ đó mà được an ủi tinh thần, giảm bớt
muộn phiền, đau khổ, tăng thêm niềm tin và nhiệt tình đối với cuộc sống, như Tư Không
Đồ trong bài Đinh Mùi tuế quy Vương Quan cốc đã viết: “Tương thủ nhất hồ nhàn nhật
nguyệt. Trường ca thâm nhập Vũ Lăng khê” (Ôm bầu rượu quên tháng ngày. Vũ Lăng ta
lại hát bài quy lai). Song, ngay cả khi du tiên họ cũng không còn nhuệ khí bừng bừng, tình
điệu hào hùng và màu sắc lãng mạn như thời Sơ, Thịnh Đường. Mục đích du tiên lúc này
là để tìm một phương thuốc cho con người quên đi đau khổ. Đây chính là cơ sở xã hội của
sự xuất hiện xu hướng tục hóa tiên cảnh, tiên nhân, ý thức phản du tiên, phê phán con
người học đạo cầu tiên trong thơ du tiên đời Đường.
3.3.1.2. Nguyên nhân tư tưởng, tôn giáo
Như đã hơn một lần nói đến ở phần trên, đến đời Đường, Nho, Phật, Đạo cùng
phát triển. Có sự dung hội ưu điểm của ba dòng tư tưởng: tính thực tiễn và duy lí của
Nho gia, tính chất huyền diệu, vô vi của Đạo gia, tính chất từ bi và siêu thế của Phật
giáo. Theo tác giả Nguyễn Thị Bích Hải, ba dòng tư tưởng này “đồng thời cũng chế ước
lẫn nhau, không có một kiểu tư duy nào độc chiếm ưu thế, khiến cho tư duy Trung Quốc
thời này đã đạt được một sự quân bình. Nó hướng tới cái cao siêu nhưng không thoát li
vào hư vô, nó hợp lí và thực tiễn nhưng không dung tục tầm thường” [29, 264]. Người
đời Đường dù tìm lên tiên hay chạy về với điền viên sơn thủy, dù vì hiện thực hắc ám
mà phải lui về ở ẩn để giữ được mạng sống lâu hơn hay vì sợ cuộc đời quá ngắn mà kịp
thời hành lạc thì cũng đều thể hiện ý thức sống, khát vọng sống đậm chất nhân văn.
Nhưng mọi con đường đều trở về với đất, họ có ra công theo đuổi thuật trường sinh,
luyện đan sa, luyện khí cốt để kéo dài tuổi thọ, mong được thành tiên thì những hoạt
động này cũng không hẳn là sự sùng bái theo ý thức tôn giáo đích thực. Do vậy họ dễ
dàng thức tỉnh, hướng về thế tục, về những gì mình thực có. Ý thức hài hòa và quân bình
trong tư duy và trong quan niệm sống khiến thơ du tiên thời kì này cũng không hoàn
toàn siêu thoát mà lạc xuống nhân gian, đi vào thế tục.
Tuy Nho, Phật, Đạo cùng phát triển, nhưng trong từng giai đoạn lại có sự ưu tiên
khác nhau đối với mỗi dòng tư tưởng, tôn giáo. Sống trong thời Trung, Vãn Đường chìm
nổi, con người không đủ sức xoay chuyển trời, cũng không có cách nào để nắm chắc vận
mệnh của mình. Họ cảm thấy nhân sinh như mộng, tâm tình dần dần kí thác vào Phật giáo
thiền tông. Phật giáo đề xướng tự tại, tự túc, hư tĩnh đãi vật, phù hợp với “khẩu vị” của
con người thời này. Còn Đạo giáo đến thời Trung, Vãn Đường vẫn giữ vị trí độc tôn song
không còn thiêng liêng. Bởi vì, sau khi trải qua thực tiễn cầu tiên luyện đan mong đạt
90

được trường sinh, con người thời này đã tỉnh táo nhận ra sự hư ảo của phương thuật thần
tiên và trường sinh bất tử chỉ còn là một “đại tự sự” không có thật. Khi hào quang đã
không còn lấp lánh, cơn sốt du tiên thời Sơ, Thịnh Đường trải qua loạn An Sử, bước vào
thời Trung, Vãn Đường đã có chiều hướng nguội dần. Ý thức phản du tiên của giới nhân
sĩ ngày càng mạnh. Thuật ngoại đan dần dần mất đi thị trường của nó. Lý tưởng thành tiên
bị phá hoại, thay vào đó là thực tiễn luyện đan tầm thường. Họ thế tục hóa lí tưởng trường
sinh để bù đắp sự trống rỗng trong tâm hồn. Phần lớn họ muốn tìm kiếm một sự yên tĩnh
cho tâm hồn trong thế gian nhốn nháo. Như vậy, không phải cầu tiên mà là cầu tĩnh,
không phải mê đắm du tiên mà là giải mộng, giải tiên.
3.3.1.3. Sự lớn mạnh của tầng lớp thị dân và nhu cầu thế tục hóa đời sống văn học
Trở lên trên, chúng ta đang quan sát những đặc điểm kinh tế, chính trị, tư tưởng,
tôn giáo ảnh hưởng đến xu hướng thế tục hóa trong thơ du tiên đời Đường. Văn học còn là
sự tự ý thức văn hóa. Văn hóa đời Đường có đặc trưng là văn hóa thế tục. Theo tác giả
Trần Lê Bảo: “Nếu như “sĩ văn hóa” chủ yếu quan tâm đến tư tưởng “tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ” thì “văn hóa thế tục” hay “văn hóa thị dân” từ đời Đường về sau lại quan tâm
đến xã hội, nhân tình thế thái, đến khát vọng tự do dân chủ của con người” [7,71]. Loạn
An Sử không sinh thành mà chỉ hủy diệt, xé toang chiếc áo khoác phồn vinh giàu mạnh
của triều Đường. Nhưng nó có tác dụng làm rạn vỡ cơ cấu chế độ phong kiến và mở
đường cho sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa. Do sự phát triển của kinh tế hàng hóa, sự nổi
dậy và phồn vinh của thành thị, dẫn tới sự xuất hiện và không ngừng lớn mạnh của tầng
lớp thị dân. Họ mang theo một lối cảm, lối nghĩ khác với người nông dân làng xã và nho
sĩ thư lại. Họ chỉ thích những gì liên quan mật thiết đến đời sống của họ. Hấp dẫn được họ
phải là những tác phẩm có màu sắc thế tục nồng đậm, phải mới mẻ, có tính kích thích,
thỏa mãn được nhu cầu hưởng thụ, dễ hiểu, có tính chuyện.
Chính nhu cầu tiếp nhận ấy đã đem đến cho văn học những đơn đặt hàng mới, định
hướng cho người cầm bút thế tục hóa các sáng tác của mình. Thực tế cho thấy, đến thời
Đường, văn học nghệ thuật không còn bị buộc chặt vào những đối tượng cao cả, thánh
thiện để nhà văn thành kính chiêm ngưỡng mà gần gũi với đời thường. Chẳng hạn trong
lĩnh vực hội họa, những tranh vẽ về đề tài tôn giáo cũng bộc lộ xu hướng thế tục hóa khá
rõ. Các vị bồ tát, tiên đồng ngọc nữ từ dáng dấp đến vẻ mặt đều mang vẻ đẹp bình dị, yếu
tố siêu phàm giảm đi nhiều. Ngoài những đề tài liên quan đến tôn giáo đã thấy xuất hiện
nhiều tranh đẹp của các họa gia nổi tiếng vẽ phụ nữ quý tộc với thân hình đầy đặn, phục
sức điểm trang sang trọng đẹp đẽ, đầu tóc cài hoa đứng ngồi với tư thế thoải mái trong
91

một khung cảnh thiên nhiên thoáng đãng, tràn đầy sức sống. Một số thể loại thuộc lĩnh
vực văn học cũng phát triển theo xu hướng thế tục hóa. Ví dụ tiên thoại đến thời kì này
cũng hàm chứa ý vị trần tục. Như truyện Du tiên quật (chơi động tiên) của Trương Trạc,
nhan đề là du tiên nhưng thực tế là tả đời sống dung tục kiểu gặp gỡ phong lưu, trong đó
xen kẽ những đoạn miêu tả tình dục. Truyện truyền kỳ cũng có nội dung xã hội khá phong
phú. Nhân vật chính hoạt động ở trung tâm của tiểu thuyết đã dần biến hóa từ quỷ thần trở
thành con người của đời sống hiện thực, làm thay đổi hiện tượng chìm đắm trong thế giới
thần quái của tiểu thuyết Trung Quốc một thời gian dài trở về trước. Những tác phẩm
miêu tả cuộc sống hiện thực và nội dung mang tính thế tục lần lượt xuất hiện. Điều đáng
nói là có những tác phẩm đã phản ánh ý thức hôn nhân nam tài nữ mạo manh nha trong xã
hội đương thời. Đây là một kiểu tinh thần thế tục mới nổi, là sự phản kháng đối với quan
niệm hôn nhân môn đăng hộ đối truyền thống. Và thơ ca - một thể loại bộc lộ sức mạnh
của thế giới nội cảm, tiêu biểu cho văn học cao nhã cũng bắt đầu nhuốm màu thế tục. Sau
thời Trung Đường, dòng thơ biểu hiện ý chí tu, tề, trị, bình của văn nhân sĩ đại phu không
còn chiếm vị trí chủ đạo trên văn đàn. Những biến động gọi nhà thơ nhìn vào xã hội, thu
rút tầm mắt xa xăm để hướng về sự thực nhãn tiền. Thời kì này, phái thơ Nguyên - Bạch
(Nguyên Chẩn và Bạch Cư Dị là đại biểu) chủ trương thông tục hóa thơ ca, cụ thể là cổ
xúy cho ngôn ngữ thơ thông tục, hình tượng thơ chân thực. Như vậy, bắt đầu từ thời
Đường, đặc biệt đến giai đoạn Trung, Vãn Đường, khuynh hướng thế tục hóa văn học
ngày càng rõ rệt, trở thành một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển từ nhã
sang tục của văn học cổ điển Trung Quốc. Từ đó về sau, càng ngày càng có nhiều tác giả
thoát ra khỏi cái vòng ngôn chí, tải đạo, hướng văn học về với xã hội rộng lớn. Tiến trình
thế tục hóa văn học đến đời Tống càng vận hành gia tốc, cuối cùng đã tiến vào thời đại
văn học lấy hí kịch, tiểu thuyết làm chủ đạo.
Nhìn thơ du tiên đời Đường trong mối quan hệ cộng sinh với các thể loại khác
chúng tôi thấy, thế tục hóa không phải là mạch chảy riêng của dòng thơ này mà là xu thế
chung của văn hóa, văn học một thời đại. Khi cái thế tục lên ngôi, trở thành hệ quy chiếu
cho nhiều bình diện của đời sống thì ngay cả mảng thơ ít có tính thế tục nhất là thơ du tiên
cũng không ngoại lệ. Tuy vậy, thế tục hóa trong thơ du tiên thời Trung, Vãn Đường
không chỉ là hệ quả của sự tương tác giữa thơ ca với các diễn ngôn khác của thời đại
mà còn là kết quả từ sự vận động nội tại của thơ du tiên trước đó. Ngay từ thời Ngụy
Tấn, Tào Thực, Tào Phi đã bắt đầu nhận ra sự hư ảo của thần tiên, còn Quách Phác tả
cảnh tiên đã là cảnh sắc núi rừng chân thực: “Lục la kết cao lâm. Mông lung cái nhất sơn”
92

(Tằm gửi xanh kết rừng cao. Mông lung che khắp núi). Nơi tiên ở cũng không phải là lầu
quỳnh điện ngọc nữa mà ở trong núi thẳm: “Thanh khê thiên dữ nhận” (Khe xanh hơn tám
ngàn thước). Các vị tiên cũng không còn quá nhiều vẻ tiên mà giống ẩn sĩ chốn rừng núi.
Thơ du tiên Quách Phác từ tiên cảnh siêu nhiên đã trở về với tự nhiên hiện thực: “Linh khê
khả tiềm bàn. An sự đăng vân thê?” (Khe thiêng cuộn ẩn được. Việc gì lên thang mây?).
Từ núi tiên trên biển di chuyển về rừng núi thâm u, hang sâu động thẳm, từ Xích Tùng,
Vương Mẫu chuyển hướng khắc họa ẩn sĩ thanh cao chốn núi rừng, đây chính là biểu biện
của khuynh hướng thế tục hóa trong thơ du tiên Quách Phác. Và cái mầm lửa được châm
lên từ thời Ngụy Tấn, đến đời Đường, gặp ngọn gió thời đại đã bốc thành đám cháy. Thời
Sơ, Thịnh Đường, các tác giả tiên hóa cảnh vật và con người trần thế, thực chất cũng là
đặt những viên gạch đầu tiên để kéo tiên về với đời, xem đời thường là tiên. Đến thời
Trung, Vãn Đường, xu hướng này diễn ra mạnh mẽ hơn nhưng đã được bẻ lái và định
hướng theo một dòng chảy khác. Các tác giả tục hóa tiên cảnh, phàm hóa tiên nhân, phê
phán con người học đạo cầu tiên. Thế tục hóa tuy không phải là hiện tượng quá đột xuất
nhưng thật sự được xem là đặc trưng nổi bật của thơ du tiên thời kì này.
3.3.2. Phương thức sáng tạo chủ yếu: tự sự kết hợp trữ tình
Để sáng tạo nên những bài thơ thể hiện rõ xu hướng thế tục hóa, các nhà thơ đã
sử dụng phương thức nghệ thuật chủ yếu là kết hợp tự sự và trữ tình. Trung Quốc là đất
nước của thơ. Người Trung Quốc có thiên hướng coi trọng thế giới tâm linh, lấy biểu
hiện cảm xúc, lấy trữ tình làm trọng. Do quan niệm đó mà thơ Trung Quốc chủ yếu là
thơ trữ tình, còn thơ tự sự không phát triển lắm. Thơ du tiên đời Đường là thơ trữ tình,
nhưng ngay trong nhiều bài thơ trữ tình này vẫn xen tự sự, đặc biệt là mảng thơ du tiên
có xu hướng thế tục hóa thời Trung, Vãn Đường. Nói cách khác, cái nhìn thế tục hóa
làm “rạn vỡ” cả khuôn khổ loại hình thơ vốn chỉ để trữ tình, chộp tả một thần sắc của
cảnh, gieo một ấn tượng, truyền một rung động. Để có thể tự sự ngay trong hình thức
vốn chỉ giành cho trữ tình, các nhà thơ đã phải đổi thể loại thơ cho phù hợp. Kim thể do
quy mô nhỏ và niêm luật, kết cấu quá chặt chẽ nên chỉ thích hợp với việc thể hiện tâm
tình sâu lắng trầm tư của con người. Còn cổ thể có dung lượng lớn hơn, thể cách không
chặt chẽ nên thường được các nhà thơ dùng để phản ánh những diễn biến phức tạp của
đời sống. Trong thơ du tiên Trung, Vãn Đường, bên cạnh những bài tứ tuyệt ngắn nhỏ
như Thường Nga, Dao Trì... còn có một xu hướng các nhà thơ vận dụng thể loại
trường thiên cổ thể để tả thực và tự sự. Phải chăng vì khuôn khổ không bó buộc của nó
về một phương diện nào đó là thích hợp với việc kể chuyện. Các bài thơ như Hoa sơn nữ
93

(Hàn Dũ), Nguyệt thực thi (Lư Đồng), Tẩu bút tạ Mạnh Gián Nghị kí tân trà (Lư Đồng),
Kim đồng tiên nhân từ Hán ca (Lí Hạ)... chính là được viết theo hình thức trường thiên
cổ thể. Trong những tác phẩm này, do được thoải mái về số câu, niêm luật nên các nhà
thơ có thể tung hoành theo dòng cảm xúc, kết cấu bài thơ theo quá trình nhận thức, theo
trình tự tình tiết một câu chuyện thần tiên và lựa chọn góc độ miêu tả từ hư tới thực, từ
thần kì tới đời thường, từ tiên giới tới nhân gian, bằng thái độ phản tư sắc sảo. Vẫn khoa
trương nhưng không nhằm mĩ hóa, lí tưởng hóa, các nhà thơ hướng tới thể hiện một thế
giới tiên cảnh không khác gì đời thường.
Không chỉ vận dụng thể loại trường thiên cổ thể, các nhà thơ còn dựa vào hình
thức chùm thơ để tự sự. Thực ra, hiện tượng chùm thơ rất phổ biến trong thi ca cổ điển
Trung Quốc. Ấy là dạng một nhóm tác phẩm châu tuần quanh một trục nào đó, một cảm
hứng chung, một thi đề chung, một đối tượng chung chẳng hạn. Những bài trong chùm
đều có tính trọn nghĩa và độc lập của nó. Nhưng không thể nói rằng những bài thơ đó là
các đơn nguyên độc lập hoàn toàn. Chúng vẫn liên hệ với nhau và bổ sung ý nghĩa cho
nhau đến mức người ta có cảm tưởng đó là liên khúc của một bài thơ dài. Thơ du tiên đời
Đường xuất hiện nhiều chùm bài độc đáo. Để có thể trần thuật cụ thể hoạt động du tiên
ngay trong khuôn khổ một thể thơ có dung lượng ngắn nhỏ, các nhà thơ đã sáng tạo ra
kiểu tự sự liên bài. Chính nhờ có quan hệ liên bài mà tác giả dễ dàng hơn trong việc miêu
tả cảnh vật theo bút pháp “di bộ hoán hình” (thay đổi theo bước chân đi) và quá trình nhận
thức của nhân vật trữ tình cũng được thể hiện theo sự đổi thay của cảnh. Ngay từ thời
Thịnh Đường, Lí Bạch đã có chùm bài nổi tiếng Du Thái Sơn lục thủ. Sáu bài thơ thuộc về
một hơi thơ, một mạch cảm hứng, thể hiện sự phát triển của tình tiết tự sự, từ gặp tiên,
được tiên dẫn dắt đến nhớ về tiên, học theo tiên và cuối cùng là ngưỡng mộ thần tiên, ước
được như thần tiên, kết thúc hành trình du lãm ngoạn mục. Nhưng phải đến thời Trung,
Vãn Đường, kiểu tự sự liên bài này mới ngày càng được vận dụng nhiều hơn, đặc biệt là
trong những sáng tác của Tào Đường. Đây là nhà thơ thứ hai sau Quách Phác đời Tấn nổi
danh nhờ thơ du tiên. Người đời sau mỗi khi nói tới thơ du tiên đều đặt hai tác giả này
ngang nhau. Họ được xem là “chòm song sao” ngạo nghễ trên thi đàn du tiên. Thực tế thơ
du tiên Tào Đường không chỉ có số lượng không tiền khoáng hậu mà còn có giá trị nghệ
thuật cao. Cái tinh xảo trong thơ thất luật của Tào Đường so với vẻ mộc mạc trong thơ
ngũ ngôn của Quách Phác có một phong vị hấp dẫn riêng. Thơ thất ngôn cách luật với
những quy định ngặt nghèo về số chữ, số câu, luật bằng trắc thường thích hợp với trữ tình
và vịnh vật. Tào Đường lại dùng nó để tự sự. Để khắc phục hạn chế của khuôn khổ ngắn
94

nhỏ, nhà thơ đã sâu chuỗi những bài thơ cùng một nội dung với nhau, tạo thành những
chùm bài độc đáo. Đại du tiên thi của Tào Đường gồm 19 bài, đề cập tới 11 câu chuyện.
Trong đó chuyện Lưu Nguyễn du Thiên Thai (5 bài), chuyện Ngọc Nữ Đỗ Lan Hương (2
bài), chuyện Hán Vũ Đế gặp Tây Vương Mẫu (4 bài) đều được tác giả dùng hình thức
chùm thơ để kết nối mạch tự sự, có nhân vật sống động, có tình tiết hoàn chỉnh, mở rộng
dung lượng phản ánh của thơ ca, khiến câu chuyện được thể hiện trong thơ có đầu có đuôi
và kết cấu rõ ràng.
Như vậy, đến thời Đường, đặc biệt là thời Trung, Vãn Đường, tự sự trở thành
phương thức mới trong việc thể hiện tình cảm trong thơ du tiên. Điều này, ngoài việc ảnh
hưởng từ tư duy thẩm mĩ của thời đại còn có mối liên hệ trực tiếp và tất yếu với tính tự sự
trong truyện truyền kì đời Đường. Sau thời Trung Đường, sáng tác truyền kì bước vào giai
đoạn hưng thịnh. Nó được nuôi dưỡng bởi kinh tế phồn vinh, văn hóa phát triển. Và thơ ca
- đại diện cho thành tựu cao nhất của văn học đời Đường đã tăng thêm sức hấp dẫn cho
truyện truyền kì. Trong nhiều truyện truyền kì ưu tú, thơ ca chiếm một tỉ trọng đáng kể.
Nhờ sức truyền cảm trữ tình của thơ ca khiến truyền kì tỏ ra đẹp đẽ cả tình ý lẫn lời văn.
Thơ và tiểu thuyết tô điểm cho nhau, như Trường hận ca truyện và Trường hận ca của
Bạch Cư Dị nổi tiếng song song, châu liên bích hợp, truyền thành giai thoại trên văn đàn.
Đường truyền kì không chỉ thúc đẩy sự ra đời ngày càng nhiều của thơ du tiên mà còn mở
rộng nội hàm khái niệm Tiên, xuất hiện thơ du tiên giàu tính tự sự. Thơ du tiên truyền
thống phần nhiều lấy trữ tình làm chủ. Đến thời kì này, nhiều bài thơ du tiên mang hình
thức tự sự với quy mô lớn, chính là ảnh hưởng từ mô thức tự sự của truyện truyền kì.
Tuy nhiên, thơ du tiên đời Đường dù có tự sự đi nữa thì cũng chỉ là phương tiện để
trữ tình. Ngay cả khi tự sự dựa vào cái lõi của câu chuyện thần tiên trong tiên thoại thời
Lục Triều thì mục đích của các nhà thơ cũng không chỉ dừng lại ở việc phục hiện tình tiết
sao cho đúng với logic của câu chuyện mà chủ yếu vận dụng sức mạnh của tưởng tượng,
đi sâu vào thế giới tình cảm, thể hiện sâu sắc hoạt động nội tâm của nhân vật trữ tình. Như
trong câu chuyện thần tiên về Lưu Thần Nguyễn Triệu không xuất hiện hoạt động nội tâm
của nhân vật. Tào Đường khi sáng tác chùm bài Lưu Nguyễn du Thiên Thai vẫn theo mô
thức kết cấu nguyên thủy song đã khéo léo vận dụng chức năng trữ tình của thơ để thi ca
hoá, lãng mạn hoá. Vì vậy, thơ du tiên của Tào Đường không thuần tuý kể lể gắn liền với
sự kiện, tình tiết mà vẫn giàu chất trữ tình. Nhà thơ đi sâu vào thế giới tình cảm của Lưu,
Nguyễn và tiên nữ, sáng tạo nên một truyền thuyết mới, theo khuynh hướng thế tục hoá
chốn tiên cảnh Bồng Lai. Chính nhờ việc lựa chọn phương thức thể hiện chủ yếu là kết
95

hợp trữ tình và tự sự nên các nhà thơ đã phản ánh được sự chuyển động triệt để trong quan
niệm về thế giới thần tiên và vấn đề du tiên của con người thời Trung, Vãn Đường, sẽ
được chúng tôi triển khai trong phần tiếp theo của luận án.
3.3.3. Biểu hiện thế tục hóa trong thơ du tiên đời Đường
3.3.3.1. Tục hóa tiên cảnh
Trong tâm thức của người phương Đông, cõi tiên là cõi lý tưởng, chốn mộng mơ
tình tứ. Mọi bụi bặm của cuộc đời đều dừng lại nơi đây, chỉ còn lại sự trong vắt của thơ
mộng và bình yên. Con người được tự do phát triển tài năng, được trút bỏ mọi câu thúc
hình hài, cùng với thiên nhiên hòa đồng trong một bản thể duy nhất là Đạo. Xuân tiên giới
là xuân không mùa, xuân vĩnh viễn. Cây cỏ muôn năm một màu bất diệt, trời xanh có từ
thuở hồng hoang. Đó là nơi hoa xuân chưa gặp bướm trần gian, vĩnh viễn nước trong xưa
chảy, điệu đàn xưa ca về tình yêu không phai tàn trong sắc hương tiên giới. Cảnh tiên vốn
được xem là mĩ lệ như vậy, dưới ngòi bút của các nhà thơ đời Đường, đặc biệt là thời
Trung, Vãn Đường đã có những biến hình. Tiên cảnh trong thơ du tiên thời kì này không
tươi sáng, vui vẻ, không có tiếng đàn ca xênh phách rộn ràng, với thiên tiên vui múa
khúc Nghê Thường, không có chim hạc sải cánh chơi vơi như biểu tượng của sự thanh
khiết, thoát tục. Các tác giả nghiêng về khắc họa một tiên cảnh vắng vẻ, âm u, lạnh lẽo,
mờ ảo. Nếu lên cao thường là lên với khí dương thì độ cao tiên cảnh trong thơ Lí Hạ lại
chủ yếu tỏa ra khí âm với sắc điệu lạnh bao trùm. Trong bài Mộng thiên tác giả viết: “Lão
thố hàn thiềm khấp thiên sắc. Vân lâu bán khai bích tà bạch. Ngọc luân loát lộ thấp đoàn
quang. Loan bội tương phùng quế hương mạch. (Con thỏ già và con cóc lạnh cùng khóc
màu trời. Lầu mây hé mở một nửa, bức vách mây trắng mở nghiêng nghiêng. Vầng trăng
ngọc ép sương làm ướt ánh sáng tròn. Những vị tiên đeo ngọc bội hình chim loan, gặp
nhau trên những con đường đẹp đẽ ngạt ngào mùi hương hoa quế) (Huỳnh Ngọc Chiến
dịch). Tiên cảnh trong bài thơ này là một bầu trời trĩu nặng nước, nước mắt, nước mưa
hay cũng có thể là những giọt sương. Tính chất già cỗi, lạnh lẽo của nó được thể hiện
thông qua hình ảnh lão thố và hàn thiềm vốn tượng trưng cho mặt trăng. Có thể đọc câu
thơ đầu theo hai cách: một trận mưa từ trên trời rơi xuống, giống con thỏ già, con cóc lạnh
đang khóc. Hay thỏ và cóc đang khóc vì sầu bi trước cái già, cái lạnh của thiên cung?
Gam màu chủ đạo trong ba câu đầu là gam lạnh, với sự xuất hiện của hình ảnh trăng mờ
giống như được hà hơi bởi chính trận mưa vừa dứt và một loạt từ nghiêng về âm tính như
lão, hàn, khấp, thấp. Đến câu 4, tiếng ngọc bội leng keng của tiên nữ và hương thơm của
hoa quế có vẻ như tăng thêm chút sinh khí và màu sắc ấm áp cho bức tranh, nhưng chỉ là
96

thoảng qua giây lát. Nó không vang vọng, dư âm như tiếng nhạc lênh đênh dội từ cung
Hằng xa thẳm. Điều đặc biệt là thơ du tiên của Lí Hạ thường miêu tả hương hoa quế hay
cây quế như là sản phẩm độc đáo của chốn Bồng Lai. Quế là cây thiêng, có bản chất
dương, nuôi dưỡng âm - nguồn sống. Nhưng ngay sự bất tử này cũng phải chết. Quế cứ
mọc và tiều phu Ngô Chất lại chặt đi. Dương lại chuyển thành âm, không có gì là thiêng
liêng, vĩnh viễn. Đọc thơ du tiên Lí Hạ ta không có được cái cảm giác lâng lâng tiên khí,
hoàn toàn thoát li lí trí về cõi trời rung cảm cũng chính vì lẽ đó. Điều này hoàn toàn khác
nếu so sánh với thơ du tiên Lí Bạch thời Thịnh Đường. Nếu Lí Bạch như ngựa trời bay
trên mấy tầng mây thì Lí Hạ như lửa lân tinh lượn lờ giữa mộ địa tối tăm. Thơ Lí Bạch
thường đưa người đọc vào trạng thái bồng bềnh như sắp gặp tiên. Thơ Lí Hạ lại làm cho
người ta thấy âm u, sởn tóc gáy như nhìn thấy quỷ. Lí Bạch là trích tiên giáng trần, tuy bị
đày xuống trần gian đau khổ, song người tiên hào khí không hề suy giảm, thanh khí ngang
dọc tung hoành, dật khí ngàn năm không ai sánh nổi. Lí Hạ là nữ quỷ u buồn còn lưu lại
nhân gian, chán nản, buồn thương, bi phẫn và không nguôi vần vụ dưới nấm mồ tiềm thức.
Từ tiên cảnh tươi sáng, phi phàm trong thơ Lí Bạch đến tiên cảnh âm u, lạnh lẽo trong thơ
Lí Hạ phản ánh tiến trình lịch sử của triều đại nhà Đường từ đỉnh cao đang rớt xuống vực
sâu và không còn cơ hội khôi phục lại khí tượng Thịnh Đường. Đến tiên cảnh trong thơ du
tiên của Lí Thương Ẩn thời Vãn Đường, không khí buồn thương càng được thể hiện rõ nét.
Dường như tâm tình sầu khổ của ông trong cuộc sống hiện thực không có cách nào gạt bỏ
đi ngay cả khi tiến vào tiên cảnh. Trong bài Thất nguyệt thập bát nhật dạ dữ Vương Trịnh
nhị tú tài thính vũ hậu mộng tác tác giả miêu tả cảnh tiên khi mờ khi tỏ, bất định, bồng
bềnh trong gió thảm mưa sầu. Từ xa truyền đến tiếng nhạc như có như không, khó mà
nắm bắt. Lý Thương Ẩn nếu có chú tâm viết về cái tĩnh của tiên cảnh thì cũng không phải
là cái tĩnh của sự siêu phàm thoát tục mà nghiêng về biểu hiện xứ sở ngưng trệ, già cỗi, lụi
tàn. Trong bài Hải thượng dao ông viết: “Hải để mịch tiên nhân. Hương đào như sấu cốt.
Tử loan bất khẳng vũ. Mãn sí bồng sơn tuyết” (Tạm dịch: Dưới đáy biển tìm tiên nhân.
(Gặm) quả đào tiên còi cọc. Chim loan không buồn khiêu vũ. Tuyết rơi đầy cánh). Tiên
cảnh gì mà âm u, lạnh lẽo. Tất cả đều như đang bất động, lụi tàn, đến chim loan cũng
không buồn khiêu vũ, để tuyết rơi trắng xóa cả cánh chim thần. Chỉ có một tiên nhân đang
gặm nhấm quả đào tiên còi cọc. Cảnh tiên trong thơ ông không siêu phàm thoát tục, không
thanh thoát, lãng đãng phiêu bồng, không giàu sức hấp dẫn để có thể gọi mời bước chân
Lưu Nguyễn lạc lối Đào nguyên. Lý Thương Ẩn cũng không miêu tả nó bằng tâm tình
ngưỡng mộ bội phần, bằng nỗi khát khao không thỏa về một cõi tươi sáng hài hòa và tràn
97

đầy phúc lộc mà chỉ có sự lạnh lẽo của cảnh và vẻ sầu bi cô độc của người: “Thố hàn
thiềm lãnh quế hoa bạch. Thử dạ Hằng Nga ưng đoạn trường” (Đêm nay khí lạnh tràn
cung quế. Chắc hẳn Hằng Nga đứt ruột sầu) (Nguyệt tịch).
Trong thơ du tiên Trung, Vãn Đường, tiên cảnh không còn là thế giới Đào
nguyên trong mắt mọi người mà biến thành ảnh xạ của nhân gian ô trọc (Như bài
Tặng Mao tiên ông của Lí Thân). Tiên cảnh cũng không còn là nơi cao không với tới,
không biết đến mùi khói lửa nhân gian mà biến thành bản thân nhân cảnh (như trong
bài Hội tiên ca của Bào Dung). Những hình ảnh phi mĩ chiếm một địa vị danh dự trong
thánh đường thơ du tiên vốn rất thiêng liêng này và tạo sốc cho những ai không quen với
cảm giác gai gợn khi tưởng tượng về thế giới thần tiên. Trong bài Ức kim nga sơn thẩm
sơn nhân nhị thủ, bài 2, Lư Đồng đem tiên cảnh vốn do tiên đồng ngọc nữ trông giữ viết
thành thế giới quỷ quái do quỷ dạ xoa canh cửa. Thế giới này trắng đen lẫn lộn, cổng trời
chỉ mở vào ban đêm. Quỷ dạ xoa lộng quyền tác oai, vô cớ sinh sự, mồm mép ác độc, mặt
mày dữ tợn. Trong thế giới ấy, nếu chỉ lo luyện thành tiên đơn thì không thể tiến vào cửa
trường sinh, thậm chí còn có thể mất đi tính mệnh. Thông qua việc xây dựng hình ảnh tiên
giới như thế, tác giả nhằm phê phán nhân gian ô trọc. Quỷ dạ xoa trông cửa tượng trưng
cho quan lại chuyên quyền. Con đường tiến tới công danh chỉ có thể dựa vào họ mới có
khả năng thực hiện. Hay trong bài Nguyệt thực thi, tác giả cũng tập trung khắc họa tiên
cảnh với hình ảnh hồng thủy ngập lụt, máu trôi đỏ nước. Ngưu Lang Chức Nữ vốn là
những nhân vật chính khiến người ta thương cảm bởi bi kịch tình yêu lại trở thành đôi
nam nữ khiến người ta chán ghét. Cố ý bôi xấu hình tượng đẹp đẽ vốn đã định hình trong
truyền thuyết một mặt phản ánh phong cách sáng tác cầu kì cầu mới, mặt khác cũng thể
hiện sự bất lực và phẫn khích của tác giả trước những quan niệm, giá trị truyền thống bị
phá vỡ, bị hoài nghi, bị giải thiêng.
Không thể phủ nhận thời Trung, Vãn Đường còn có xu hướng xây dựng một thế
giới tinh thần đẹp đẽ trong thơ du tiên, như một ảo ảnh, một miền đất hứa, một tịnh thổ lí
tưởng. Giải mã bài thơ Thiên thượng dao của Lí Hạ từ một góc độ khác ta sẽ thấy tác
phẩm thể hiện một cuộc sống nhàn hạ, một môi trường lý tưởng, thi nhân khéo kết hợp lí
tưởng và hiện thực, hư cấu nên cảnh tiên tận thiện tận mĩ, nhằm biểu hiện sự bất mãn đối
với hiện thực và cảnh ngộ cá nhân. Hay Tào Đường trong Đại du tiên thi và Tiểu du tiên
thi đã xây dựng nên một động tiên thần bí, trong động bốn mùa như xuân. Thời Vãn
Đường còn xuất hiện một số tác phẩm mộng du tiên, như Mộng tiên của Hạng Tư, Mộng
trung của Tư Không Đồ. Những tác phẩm này đều miêu tả cảnh thi nhân bay lên tiên giới
98

trong mộng, gặp được tiên nhân, ngao du tiên cảnh mĩ lệ. Đây cũng là một kiểu an ủi về
mặt tinh thần. Tuy nhiên, về cơ bản, các nhà thơ Trung, Vãn Đường đã sáng tạo nên một
tiên cảnh khác với thế giới quen thuộc, đã đi lệch rất xa quỹ đạo truyền thống, giải thiêng
những tín điều đã cũ, những giá trị đã định hình. Cái nhìn nhất phiến về tiên cảnh đã
không còn đứng vững trong một không gian thẩm mĩ nhiều chiều. Tục hóa tiên cảnh, các
nhà thơ đã mang lại cho cảnh giới nghệ thuật thơ du tiên đời Đường thứ ánh sáng khác lạ,
làm ngơ ngác những người đọc vốn quen với những gì thơ mộng, ảo diệu, và đưa ta vào
một chiều kích thẩm mĩ mới, thô nhám hơn nhưng hiện thực hơn, đời thường hơn.
3.3.3.2. Phàm hóa tiên nhân
Không chỉ tục hóa tiên cảnh, các tác giả còn tiến hành phàm hóa tiên nhân, đem
hành vi, tình cảm và tính cách của con người bình thường cấp cho tiên nhân, khiến tiên
nhân có đặc trưng giống như người phàm. Ngược dòng thời gian chúng ta thấy, trong cảm
thức của con người thời cổ, tiên nhân luôn ở trên cao và đồng nghĩa với trường sinh bất
lão, tự do khoái lạc, tùy theo ý mình, đặc biệt là có những khả năng siêu việt, thần kì.
Nhưng đến thơ du tiên Quách Phác đã bắt đầu xuất hiện hình ảnh tiên nhân ẩn dật. Ẩn sĩ
là vừa thần tiên đích thực, vừa là trung gian thực hiện sự thay đổi từ người thành tiên. Họ
thông qua con đường tu đạo như phục thực, dưỡng khí để có thể bay lên trời. Đến thời Sơ,
Thịnh Đường, các thi nhân đã phá vỡ giới hạn giữa tôi và tiên, thần tiên được nhân cách
hóa, tôi được thần tiên hóa, đạo sĩ, ẩn sĩ là tiên nhân. Đặc biệt tiên nhân thời kì này luôn
có sự kết hợp với hình ảnh núi. Đem hoạt động của tiên nhân đặt vào bối cảnh tự nhiên,
không nghi ngờ gì nữa các tác giả đã kéo gần khoảng cách giữa tiên và người.
Trung, Vãn Đường là thời kì mà con người tập trung mọi nghịch lý, mâu thuẫn
bởi nhiều tôn giáo nhưng thiếu đức tin. Thi nhân làm thơ du tiên nhưng không hề hưng
phấn tung bay. Tiên nhân trong thơ họ chẳng còn vầng hào quang kì bí, huyền hồ. Trước
tiên các nhà thơ miêu tả hoạt động của tiên nhân như của người thường. Nếu Lí
Bạch du tiên như trở về quê cũ, gặp tiên nhân như gặp lại cố nhân, quen thuộc, thân thiết
và đầy màu sắc lí tưởng thì Lí Hạ chỉ là người phàm du ngoạn chốn Bồng Lai. Nên từ
đây, tiên cảnh, tiên nhân được nhìn theo hàm số của trần thế phôi pha. Với Lý Bạch,
người tiên tự tại, luyện đan hái thuốc, dạo chơi tiêu nhàn, lúc cưỡi chim hồng, lúc cưỡi
hươu trắng, lúc lại ngồi xe mây. Còn với Lí Hạ, tiên nhân giống như đám nam nữ phàm
trần đang lao động: “Tần phi quyển liêm bắc song hiểu. Song tiền thực đồng thanh
phượng tiểu. Vương Tử xuy sênh nga quản trường. Hô long canh yên chủng dao thảo”
(Trời sáng, Tần phi đang cuốn rèm ở cửa Bắc. Trước cửa sổ, trồng cây ngô đồng, thấy
99

chim phượng xanh như nhỏ lại. Vương Tử Kiều thổi ống sáo dài có hình như con ngỗng.
Gọi rồng cấy cày trong khói để trồng những loài cỏ ngọc) (Thiên thượng dao) (Huỳnh
Ngọc Chiến dịch). Hóa ra người tiên cũng thức khuya dậy sớm. Cuộc sống của họ cũng
chỉ là cuộc sống nông nghiệp, cấy cày trồng trọt thành từng khoảnh, từng mẫu. Nhà thơ
cố ý lựa chọn những hoạt động mà người tục thường thấy như hái hoa, cuốn rèm, cấy
cày. Trong bài Thần tiên khúc, hoạt động của tiên nhân trên biển cũng chẳng khác gì
người tục: “Bích phong hải diện tàng linh thư. Thượng đế giản tác thần tiên cư. Thanh
minh tiếu ngữ văn không hư. Đẩu thừa cự lãng kị kình ngư. Xuân la thư tự yêu Vương
Mẫu. Cộng yến hồng lâu tối thâm sở. Hạc vũ xung phong quá hải trì. Bất như khước sử
thanh long khứ. Do nghi Vương Mẫu bất tương hứa. Thùy vụ yêu hoàn canh truyền
ngữ” (Tạm dịch: Ngọn núi thần tiên trên biển có quyển sách thiêng. Thượng đế chọn
làm nơi thần tiên ở. Tiếng cười vui của tiên nhân sáng sớm vang lên không trung. Tiên
nhân cưỡi cá kình ngao du trong sóng biển. Họ cầm thư đi mời Tây Vương Mẫu. Cùng
dự tiệc lầu hồng ở nơi sâu nhất. Lo chim hạc bay chậm để lỡ việc. Nên phái rồng xanh đi
đưa thư. Lại đắn đo (sợ) Tây Vương Mẫu không đồng ý. Bèn phái thị nữ trực tiếp
chuyển lời). Thiên đế phái người đi mời Tây Vương Mẫu, nhưng lại sợ bà ta không đến.
Vậy là đến vị thống trị cao nhất nơi tiên giới cũng không phải muốn gì được nấy, quyền
uy đầy mình, không còn là trung tâm tối cao trong thế giới mà ông ta làm chủ nữa, mà
cũng như mọi người phàm trần khác. Thái độ lo để lỡ việc và hành động trực tiếp đi mời
rõ ràng mang kinh nghiệm nhân gian, nhuốm sắc màu thế tục.
Không dừng lại ở hoạt động bề ngoài mà đến nội tâm của tiên nhân cũng đang
dậy sóng trần thế. Tiên nhân cũng bất lực và bi thương như người trần (như hình tượng
Tây Vương Mẫu trong bài Dao trì của Lí Thương Ẩn, hình tượng Chức Nữ trong bài
Chức Nữ hoài Khiên Ngưu của Tào Đường). Tiên nữ Thường Nga trong thơ du tiên Lí
Thương Ẩn luôn cô đơn, không có người quan tâm. Khi sương xuống là lúc cô lạnh lẽo, bi
thương nhất (bài Nguyệt tịch), bị giam cầm trong cung trăng, có phúc trường sinh nhưng
không được hưởng niềm vui vợ chồng (bài Thường Nga). Trong chùm thơ về Lưu Nguyễn
đi chơi núi Thiên Thai, cảm hứng của Tào Đường dựa trên câu chuyện nhiều người đã biết
rõ. Nhưng Tào Đường đi sâu vào thế giới tình cảm của Lưu Nguyễn và tiên nữ, sáng tạo
nên một truyền thuyết mới. Tiên tử động trung hữu hoài Lưu Nguyễn chính là cao trào của
sóng lòng, là bài thơ hay nhất của chùm thơ này: “Bất tương thanh sắc lý Nghê thường.
Trần mộng na tri hạc mộng trường. Động lí hữu thiên xuân tịch tịch. Nhân gian vô lộ
nguyệt mang mang. Ngọc sa dao thảo liên khê bích. Lưu thủy đào hoa mãn giản hương.
100

Hiểu lộ phong đăng dị linh lạc. Thử sinh vô xứ vấn Lưu lang” (Không đem đàn sắt nhẹ ra
gảy khúc Nghê Thường. Người trong mộng trần đâu biết mộng tiên là dài. Trong động có
bầu trời riêng, cảnh xuân vắng lặng. Nhân gian không lối đi về, ánh trăng bát ngát. Cỏ tiên
trên bãi ngọc xanh biếc ven khe. Hoa đào trên dòng nước chảy mùi thơm khắp suối. Móc
ban mai, đèn trước gió, dễ tan dễ tắt. Kiếp này không có nơi đâu hỏi tìm được chàng Lưu)
(Lê Nguyễn Lưu dịch). Trong bài thơ này, tiên nữ và tạo vật dường như đều đang động
lòng trần, nên giữa cõi thanh sạch lại đã gợn lên rồi những suy tư vướng víu nợ trần gian.
Tiên nữ phải chăng cũng thuộc số kiếp tĩnh lắm muốn động. Và người tiên mơ màng về
trần thế phải chăng là nguồn cội của những cuộc tình duyên tiên - trần? Hình ảnh tiên nữ
không thoát tục, không đạt đạo, không những không hề vạn sự như ý mà còn luôn ôm một
khối cô độc, nhớ nhung, khao khát, chờ đợi sự xum vầy. Nỗi nhớ niềm thương của tiên nữ
giành cho hai chàng Lưu Nguyễn khiến hình tượng này rũ bỏ hết vàng son, lộ chân thuần
bình dị, đời thường.
Ngoài việc cấp cho tiên nhân những suy nghĩ, động thái giống như người thường,
các nhà thơ còn giải thiêng, vén màn thần bí bằng cái nhìn đầy mỉa mai, giễu cợt: “Đàn
cầm thạch bích thượng. Phiên phiên nhất tiên nhân. Thủ trì bạch loan vĩ. Dạ tảo Nam sơn
vân. Lộc ẩm hàn giản hạ. Ngư quy thanh hải tân. Đương thời Hán Vũ Đế. Thư báo đào
hoa xuân” (Đánh đàn cầm trên vách đá. Nhẹ nhàng phiêu hốt một tiên nhân. Tay cầm
lông đuôi trắng của con chim loan. Buổi tối quét hết mây ở núi Nam. Hươu uống nước
dưới khe lạnh. Cá bơi về bờ biển xanh. (Tiên nhân ấy có thể là) Hán Vũ Đế ngày trước.
Viết thư báo hiệu mùa xuân về trong những cánh đào nở) (Tiên nhân - Lí Hạ) (Huỳnh
Ngọc Chiến dịch). Sáu câu đầu tả cảnh ung dung tự tại của tiên nhân. Thời gian (buổi tối),
địa điểm (vách đá), nhân vật (tiên nhân), đạo cụ (đàn cầm), động tác (đánh đàn, quét mây),
thần vận (nhẹ nhàng, phiêu hốt). Phong mạo tiên nhân như bừng bừng sống trên mặt giấy.
Tiên nhân hồn nhiên như hươu nai uống nước khe, như cá tàng thân nơi biển xanh, xa rời
thế sự. Nếu dừng lại ở đây, tác phẩm trở thành hình thức dùng thơ để tuyên truyền đạo,
biểu hiện cuộc sống thần tiên. Nhưng sự xuất hiện của hai câu kết đã làm biến đổi hình
thần và kết cấu bài thơ. Nhà thơ dùng điển cố, truyền thuyết Tây Vương Mẫu mở tiệc đào
tiên mời Hán Vũ Đế, làm cho cảnh giới thơ ca chuyển từ tĩnh sang động, từ trong sáng
sạch sẽ hướng về phía bụi bặm phàm trần. Người tiên vốn phải an nhiên tự tại, thế mà vừa
nghe Hán Vũ Đế thích thần tiên, bèn vội vàng tranh giành báo cho Hán Vũ Đế rằng vườn
đào Tây Vương Mẫu đã nở hoa. Đây là biểu hiện của sự không trong sáng, không đắc đạo.
Đối sánh trước, sau làm nổi bật ý vị châm biếm của Lí Hạ đối với bọn phương sĩ bợ đỡ,
101

nịnh hót, cầu trường sinh bất tử. Đương thời, Đường Hiến Tông mê thích thần tiên nên
xuất hiện nhiều phương sĩ giả, lấy phương thuật lừa người để mưu cầu phú quý. Lý Hạ
cảm nhận một cách sâu sắc điều đó và không đồng tình với phong khí cầu tiên trong toàn
xã hội. Hai câu cuối, theo tác giả Huỳnh Ngọc Chiến: “Có sách diễn giải là Lý Hạ hận
không được sinh vào thời Hán Vũ đế đang ái mộ thuật thần tiên để báo cho vua biết mùa
xuân về trong những cánh hoa đào nở. Bậc đạt sĩ ngộ đạo cứ hồn nhiên thưởng ngoạn
cảnh thần tiên của trời đất, hà tất phải tu thuật trường sinh” [13, 107].
Vậy đó, thần tiên không thoát tục, không đạt đạo. Ngay cả sự bất tử cũng không
còn có ở những con người vốn được xem là toàn năng này. Trong thơ Lí Hạ, thần tiên
cũng phải chết và tiếng trống quan nhai trở thành nhân chứng của mọi sự biến thiên dâu
bể: “Chùy toái thiên niên nhật trường bạch. Hiếu vũ Tần vương thính bất đắc. Tùng quân
thúy phát lô hoa sắc. Độc cộng Nam sơn thủ Trung Quốc. Kỷ hồi thiên thượng táng thần
tiên. Lậu thanh tương tương vô đoạn tuyệt” (Tạm dịch: Thế sự nghìn năm đã tan thành
mây khói như bị tiếng trống gõ nát, vũ trụ cứ tồn tại mãi. Hán Vũ Đế và Tần Vương
không còn nghe được tiếng trống này. Mái tóc xanh cùng theo ngài cho đến khi đầu điểm
bạc. Các ngài muốn trường thọ riêng cùng núi Nam để giữ lấy Trung Quốc. Mà không
biết rằng trên cõi trời đã bao lần chôn cất các vị thần tiên. Tiếng trống trong đêm vẫn vang
lên không ngừng nghỉ) (Quan nhai cổ). Ngày ngày tiếng trống ban mai vẫn không ngừng
vang lên cùng mặt trời dịch chuyển, tiếng trống chiều hôm vẫn thúc dục ánh trăng trôi như
muốn giễu cợt tham vọng bất tử của con người. Những bậc đế vương cầu tiên học đạo như
Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế rốt cuộc cũng nát tan cùng cây cỏ, làm sao còn nghe được
tiếng trống vang lên từ tay một lính lệ tầm thường? Hai câu cuối không còn đối sánh tiếng
trống với nhân sinh mà xác lập quan hệ đối sánh với thần tiên. Đến thần tiên trên trời cũng
phải tuân theo luật tuần hoàn sinh tử. Chỉ có tiếng trống vẫn trước sau gõ nhịp, như ngậm
ngùi cho cảnh đời phế hưng dâu bể. Trong bài Hạo ca, một lần nữa Lí Hạ nghiệm sinh
triết lí ấy: “Nam phong xuy sơn tác bình địa. Đế khiển Thiên ngô di hải thủy. Vương Mẫu
đào hoa thiên biến hồng. Bành Tổ, Vu Hàm kỷ hồi tử” (Ngọn gió nam thổi mòn núi, san
bằng thành bình địa. Thượng đế sai Thiên ngô dời nước biển. Vườn đào của Tây Vương
Mẫu, trái chín màu hồng khắp nơi nơi. Bành Tổ, Vu Hàm đã bao lần chết) (Huỳnh Ngọc
Chiến dịch). Vườn đào Tây Vương Mẫu ba nghìn năm nở hoa một lần, lại ba nghìn năm
nữa mới một lần kết trái. Trong dòng chảy bất tận của thời gian, không biết nó đã ra hoa,
kết trái bao nhiêu lần. Bành Tổ, Vu Hàm được coi là trường thọ cũng không trở thành
người khách vĩnh hằng của thiên thu. Đến đây, tác giả đã lật ngược vấn đề vĩnh hằng
102

trong nhận thức của nhân loại. Thần tiên không bất tử. Người phàm trên trần thế cầu
trường sinh bất tử chỉ còn là chuyện hoang đường. Thực ra, trong tiềm ý thức, Lí Hạ thể
hiện sự theo đuổi của mình về vấn đề sinh mệnh vĩnh hằng. Điều này bắt nguồn từ nỗi lo
âu bệnh tật trên thân thể gầy yếu của một thi nhân kì hình dị tướng. Ông luôn cảm thấy
sinh mệnh dễ mất như ngọn đuốc trên mâm, như ngọn đèn hết dầu, như ánh chiều tà chìm
khuất. Ông như nghe thấy tiếng bước chân của quỷ thần đang đến gần, thấy lưỡi hái của tử
thần đã huơ lên lạnh buốt sau lưng và tiếng cười săn lùng đón đợi của cái chết. Đời người
hữu hạn, ông đi tìm vĩnh cửu. Ông cầu mong sự sống và chuyển hướng nhìn về thế giới
thần tiên. Thế giới thần tiên ở một góc độ nào đó là sự bù đắp và làm cân bằng tâm lí của
nhà thơ đối với thế giới trần gian đầy lo âu bệnh tật và thế giới quỷ quái với nỗi sợ cái
chết. Nhưng cảm giác hư ảo đến từ ý thức về vũ trụ biến động khiến thế giới thần tiên ông
xây dựng nên chỉ có thể giúp nhà thơ đạt được sự yên tĩnh tâm hồn trong chốc lát mà
không có cách nào giải thoát triệt để cảm giác nguy ngập về thời gian sinh mệnh đè nặng
trong lòng. Nhà thơ từng bước phủ nhận sự tồn tại vĩnh hằng của thần tiên. Và nỗi đau lớn
nhất của thi nhân là cảnh giới lí tưởng mà họ kì vọng, khao khát hướng tới lại tiêu tan như
ảo vọng trong ánh sáng của nhận thức lí trí.
Bước giải thiêng cuối cùng chính là sự phủ nhận niềm tin có tiên nhân: “Thần
quân hà tại, thái nhất an hữu”? (Thần quân nơi đâu, thái nhất có chăng?) (Khổ trú đoản -
Lí Hạ). Nhà thơ cho rằng trên đời này không có thần tiên phù hộ cho con người trường
sinh bất tử: “Thần tiên chuyện ở đâu đâu. Đào nguyên chỉ thấy trước sau hoang đường”
(Đào nguyên đồ - Hàn Dũ). Kết cục của mỗi người đều là cái chết. Về căn bản con người
không phải uống thuốc trường sinh. Trong thơ du tiên Trung, Vãn Đường, chúng ta không
tìm thấy sự thành kính và nhiệt tình theo đuổi tiên đạo như thơ du tiên thời Thịnh Đường.
Những đam mê khao khát kiểu Lí Bạch: “Ngũ nhạc tầm tiên bất từ viễn. Nhất sinh hiếu
nhập danh sơn du” (Lên núi tìm tiên xa chẳng ngại. Cuộc đời chỉ thích núi non chơi) hầu
như vắng bóng trong thơ du tiên thời này. “Giấc Thiên Thai để trắng tay Lưu Thần”, làm
gì có thượng đế, sự bất tử, thần linh. Chúa Giêxu, Phật thích ca mầu ni, Thánh Ala hay
tiên tri Mohamet rốt cuộc cũng chỉ là những con người toàn năng được sinh ra trong khát
vọng cháy bỏng của nhân loại. Và tiên giới, Niết Bàn chỉ là những địa chỉ có thật trong
tâm linh con người. Thơ du tiên Trung, Vãn Đường không trong veo như ngọc tuyền,
không đài trang như tiên nữ. Tâm thái người thơ cũng không phải là tâm thái của người
trần nhớ tiên hay người tiên nhớ trần vì trần gian cứ lộng lẫy như chốn Thiên Thai mời gọi
bước chân Lưu Nguyễn trở về. Các tác giả tục hóa cái thiêng liêng, nhận thức lại, giải
103

thiêng những giá trị, tín điều cũ. Thơ du tiên thời kì này do vậy không giống với thơ du
tiên các giai đoạn trước đó thuần túy mang ý nghĩa cầu trường sinh, mượn chuyện du tiên
để hóa giải nỗi hận vì công danh không đạt, hoài bão không thành, hay khẳng định cả cõi
đời đục, riêng mình ta trong, thể hiện tâm thái tự xưng cao khiết. Với họ, cõi tiên chỉ là
một ảo giác thẩm mĩ, qua chiêm nghiệm lại đã hiện nguyên hình ảo ảnh bi đát. Và thần
tiên chẳng khác gì người tục, ôm khổ đau, phẫn hận, không có cách gì vượt qua cái chết,
tử biệt sinh li, những giới hạn đời người. Tục hóa tiên cảnh và phàm hóa tiên nhân chính
là biểu hiện sự phát triển của nhận thức lí trí. Thơ du tiên đời Đường không đủ sức mạnh
bứng chúng ta ra khỏi đời thực cũng chính vì lẽ đó.
3.3.3.3. Phê phán con người học đạo cầu tiên
Trên đây chúng tôi đã chứng minh cách nhìn thế tục hóa của của các thi nhân kéo
theo một loạt sự thay đổi trong thơ du tiên đời Đường: không gian tiên thay đổi (tiên cảnh
có bóng dáng hiện thực trần gian), người tiên thay đổi (tiên nhân như phàm nhân). Và
ngay cả ý thức của con người về vấn đề học đạo cầu tiên cũng được các nhà thơ soi rọi
bằng cái nhìn thế tục hóa. Chúng ta biết rằng luyện dưỡng cầu tiên và du tiên luôn là mơ
ước của người Trung Quốc. Ngay từ thời Đông Tấn, Đào Uyên Minh đã ý thức được một
cách sâu sắc đời người hữu hạn, trăm năm chẳng là gì so với tự nhiên vĩnh hằng. Nếu
không có phương thuốc thần tiên thì nỗi khổ truyền kiếp này không bao giờ được hóa giải:
“Ngã vô đằng hóa thực. Tất nhĩ bất phục nghi” (Ta không thể có phương thuật để biến
hóa thành tiên. Tất nhiên sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa) (Hình tặng ảnh). Tạ Linh
Vận đắm say trong cảnh sắc thiên nhiên, liên tưởng đến truyền thuyết An Kì Sinh luyện
thuốc trường sinh bất lão cũng nhận ra rằng đã đến lúc mình phải tin có một cách dưỡng
sinh và quyết tâm theo đuổi nó: “Thủy tín An Kì thuật. Đắc tận dưỡng sinh niên” (Bắt đầu
tin vào thuật bất tử của An Kì Sinh. Để được tận hưởng sự trường sinh). Vậy là, đối diện
với cái chết, người ta nảy sinh ham muốn bất tử. Người xưa đã cất công tìm thuốc trường
sinh, đã bền bỉ tu tiên, đã cẩn trọng ướp xác mong vượt qua giới hạn không, thời gian. Ở
đời Đường, từ hoàng đế tới thứ dân ai cũng muốn trường sinh bất lão. Còn trong thơ,
không ít lần thi tiên Lí Bạch muốn luyện đan sa: “Ngô tương doanh đan sa” (Ta muốn
kiếm đan sa) (Cổ phong, bài 5); “An đắc bất tử dược. Cao phi hướng Bồng Doanh” (Sao
có thuốc bất tử. Bay thẳng lên Bồng Lai, Doanh Châu) (Du Thái Sơn lục thủ, bài 4).
Nhưng thực tế cho thấy các hoàng đế như Hiến Tông, Mục Tông, Kính Tông đều phục
thực đan dược đến chết. Họ dần dần vỡ mộng, chỉ còn truy cầu khát vọng tự do tuyệt đối
và thỏa mãn tình yêu nam nữ chứ không còn theo đuổi mục đích xa xôi là trường sinh bất
104

tử nữa. Cảm hứng ngợi ca, tuyên truyền thoái vị, nhường ngôi cho cảm hứng phê phán.
Các nhà thơ lựa chọn hình thức thơ du tiên để giải giấc mộng cầu tiên, phê phán việc mê
muội cầu tiên. Một loạt bài thơ phản du tiên đã ra đời trên cơ sở ấy.
Trước hết, các nhà thơ tập trung phê phán sự mê muội cầu tiên ở những bậc đế
vương. Tham vọng bất tử đặc biệt mạnh ở những con người đầy quyền uy này. Hai vị vua
trong lịch sử Trung Hoa nổi tiếng về lòng hâm mộ thuyết trường sinh là Tần Thủy Hoàng
và Hán Vũ Đế. Thuở sinh tiền, Hán Vũ Đế sai dựng một tượng tiên nhân bằng đồng, hai
tay bưng một mâm vàng hứng sương khuya từ mặt trăng rơi xuống để luyện thuốc trường
sinh bất lão. Nhưng rốt cuộc Hán Vũ Đế cũng chỉ như người khách đến và đi trong dòng
chảy lịch sử, lăng tẩm chỉ còn là đám xương mục, cung điện phồn hoa xưa giờ rêu phong
khắp chốn. Trong Học tiên nhị thủ, bài 1, Vi Ứng Vật tập trung thể hiện sự đối lập giữa
việc Hán Vũ Đế mê muội cầu tiên và sự thực thần tiên không xuất hiện: “Hán Vũ nghinh
tiên tử cấm thu. Ngọc sinh dao sắt tự Côn khâu. Niên niên vọng đoạn vô tiêu tức. Không
bế trùng thành thập nhị lâu” (Tạm dịch: Hán Vũ Đế nghênh đón thần tiên. Núi Côn Luân
đàn quý cúng dường. Chẳng thấy gì nhiều năm liền. (Chỉ có) mười hai gác tía vắng không
đợi chờ). Vũ Nguyên Hành trong bài Học tiên nan một lần nữa khẳng định điều đó, đồng
thời còn chỉ ra sự nguy hại của hành động cầu tiên: “Ngọc ân sinh ca Hán Đế sầu. Loan
long nghiễm giá vọng Doanh Châu. Hoàng kim hóa tận phương sĩ tử. Thanh thiên dục
thướng vô duyên do” (Tạm dịch: Dẫu sênh ca vẫn buồn Hán Đế. Truyền long xa đưa đến
Doanh Châu. Phương sĩ chết, tiền bạc hao. Muốn lên tiên cảnh mà nào đủ duyên). Hình
tượng Hán Vũ Đế còn xuất hiện trong bài Mã thi, Kim đồng tiên nhân từ Hán ca của Lí
Hạ, Hoa nhạc hạ đề Vương Mẫu miếu của Lí Thương Ẩn, Học tiên kì 2 của Vi Ứng Vật.
Đến bài Hán Vũ của Tiết Phùng, ý vị phê phán càng thêm mạnh mẽ: “Hán Vũ thanh trai
dạ thướng đàn. Tự châm minh thủy tiếu tiên quan. Điện tiền ngọc nữ di thiên án. Vân tế
kim nhân phủng lộ bàn. Giáng Tiết kỉ thì hoàn nhập mộng. Bích Đào hà xứ cánh tham
loan? Mậu Lăng yên vũ mai cung kiếm. Thạch mã vô thanh mạn thảo hàn” (Hán Vũ Đế
giữ chay tịnh, đang đêm lên đàn. Tự tay rót nước trong làm lễ tiên quan. Trước điện, ngọc
nữ dâng thư lên trời. Trong mây, người vàng bưng mâm hứng móc. Nàng Giáng Tiết bao
phen lại vào giấc mơ. Cô Bích Đào cưỡi loan ở nơi đâu? Mưa khói Mậu Lăng chôn vùi
cung kiếm. Ngựa đá không lên tiếng, cỏ bò lan lạnh lùng) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Sự cầu
thị, kính cẩn nghiêng mình của Hán Vũ Đế trong việc thờ tiên được thể hiện qua một loạt
động thái (thanh trai, tự châm minh thủy tiếu). Nhưng có đâu nàng Giáng Tiết, Bích Đào,
có đâu sự trường sinh bất tử, và hình ảnh ngựa đá, cỏ lan lẽ nào là trạng thái thăng tiên?
105

Thi sĩ chỉ cần nêu tên địa danh Mậu Lăng cũng đủ gợi ra tất cả: từ thành kính, đợi chờ đến
mệt mỏi, băng hà nằm dưới sơn lăng. Lại nhớ đến lời đại sư Pháp Loa: “Nếu đi tu mà đắc
đạo thành tiên thì loài trâu nó đắc đạo trước nhất vì chỉ ăn cỏ mà không ăn thịt”. Trong
nhiều bài thơ du tiên đời Đường, hình tượng Hán Vũ Đế và Tần Thủy Hoàng cùng xuất
hiện, như minh chứng hùng hồn cho sự thực cơn lốc vô thường cuốn bạt ngay cả những
bậc đế vương ngạo khí kiêu hùng (các bài Khổ trú đoản, Quan nhai cổ của Lí Hạ, Hải
thượng, Hải thượng dao, Quá cảnh lăng, Hán cung từ của Lí Thương Ẩn). Bạch Cư Dị
trong bài thơ Hải man man cũng đặt ra những chất vấn, khơi gợi những phản tư. Tần Thủy
Hoàng sai phương sĩ ra khơi để tìm cho được thần dược bất tử, nuôi hoài bão gây dựng đế
chế ngàn năm, cuối cùng tấm thân lại phải lẫn cùng cá thối ở Sa Khâu. Lão tử - ông tổ của
Đạo gia còn chưa nhắc đến việc uống thuốc thành tiên, bậc đế vương kiên trì liệu có thành
quả gì hay chỉ toàn là gió buồn thổi trên cỏ rối. Họ muốn vượt qua quy luật nhưng cuối
cùng cũng đành phải chấp nhận quy luật đời thường.
Không chỉ phê phán bậc đế vương, các nhà thơ còn châm biếm giấc mộng hão
huyền ấy của người thường (như các bài: Kí mộng, Tạ Tự Nhiên thi (Hàn Dũ), Lí phu
nhân ca (Bào Dung), Cầu tiên khúc (Mạnh Giao). Lý Thương Ẩn không thật sự tin tưởng
có sự tồn tại của thế giới thần tiên siêu nhiên, càng không thật sự truy cầu trở thành thần
tiên. Ngược lại, trong thơ ông xuất hiện nhiều tác phẩm thể hiện sự hoang đường, hư ảo
của việc cầu tiên. Đó là những bài thơ phản du tiên điển hình nếu tham chiếu từ điểm nhìn
chính thống. Trong bài Mộng tiên, Bạch Cư Dị cũng khẳng định việc học tiên, thành tiên
chỉ là chuyện hoang đường, dù dùng phương pháp gì để học cuối cùng cũng chỉ là nước
đổ lá khoai. Đến bài Ký Vương Sơn nhân, sự mê muội của con người càng được nhà thơ
thể hiện sinh động: “Văn quân diệt tẩm thực. Nhật thính thần tiên thuyết. Ám đãi phi
thường nhân. Tiềm cầu trường sinh quyết” (Nghe bác bỏ ăn bỏ ngủ. Suốt ngày nghe
chuyện thần tiên. Ngầm chờ thành người khác thường. Thầm tìm bí quyết sống lâu) (Ngô
Văn Phú dịch). Trước hành vi ấy của ông Vương đất núi, nhà thơ đã khuyên nhủ, phản
tỉnh, khẳng định “vị ly tử sinh triệt” (chưa ai lìa được đường sống chết). Thái độ của Bạch
Cư Dị đối với thuyết thần tiên thực ra cũng hết sức phức tạp. Thời trẻ, ông phủ định Phật
giáo, châm biếm thuyết thần tiên vì lúc này sức hút trọng lực đối với ông vẫn là Nho gia
truyền thống. Những bài như Mộng tiên, Hải man man, Ký Vương sơn nhân là được sáng
tác trong thời kì này. Kể từ khi liên tục bị biếm trích, con đường làm quan không thuận lợi,
để đạt được sự cân bằng về tâm lý, ông bèn đem nỗi cảm khái về thân thế kí thác vào cái
không vô tự tại của Thiền tông và phục thực thành tiên của Đạo giáo (như trong bài Thù
106

tặng Lý Luyện Sư kiến chiêu). Và bước chân ông cũng từng như Lý Bạch, vào núi tìm đạo
sĩ, thể nghiệm cái thú cảnh đấy người đâu, chủ nhân đi vắng, chỉ có hạc trắng, tùng xanh,
lò luyện linh đan tượng trưng cho sự đắc đạo của con người. Song có lẽ đối với Bạch Cư
Dị, tư tưởng Lão Trang hay Phật giáo chỉ là những thế năng sống, chứ không phải là điểm
hội tụ, nơi tìm đến cuối cùng. Cảm hứng chủ đạo trong thơ du tiên của ông vẫn là phê
phán mạnh mẽ sự hư ảo của giấc mộng thành tiên.
Thực ra, ngay từ thời Thịnh Đường, Lí Bạch tuy rất có cảm tình với hành vi luyện
dưỡng cầu tiên, phỏng đạo du tiên nhưng cũng đã phê phán việc Tần Thủy Hoàng, Hán
Vũ Đế cuồng nhiệt cầu tiên trên biển: “Hà do thự Bồng Lai. Từ thị tải Tần nữ. Lâu thuyền
kỷ thời hồi? Đãn kiến cam tuyền hạ. Kim quàn táng hàn hôi” (Sao còn muốn tìm vẻ đẹp
Bồng Lai. Thành Từ chở con gái Tần. Thuyền lầu bao giờ quay lại? Chỉ thấy ở dưới núi
cam tuyền. Quan tài vàng chôn dưới tro lạnh) (Cổ phong, bài 3) (Ngô Văn Phú dịch). Và
đôi lúc, khi túy lúy nâng vò, nhà thơ cũng phủ nhận thần tiên: “Thánh hiền khước ẩm tửu.
Hà tất cầu thần tiên” (Thánh hiền đã uống rượu. Việc gì phải tìm kiếm thần tiên) (Nguyệt
hạ độc chước, bài 2). Song ý thức phản du tiên mới chỉ lúc ẩn lúc hiện. Phải sau loạn An
Sử, tư trào này mới nổi lên mạnh mẽ. Người ta không còn sống chết muốn thành tiên mà
hoài nghi, phản tỉnh. Giấc mộng du tiên chỉ còn là một ảo ảnh hão huyền.
Tìm hiểu những bài thơ du tiên có xu hướng thế tục hóa này, chúng tôi thấy nổi bật
lên tình điệu bi thương, vì những lí do sau: Thứ nhất, con người luôn hướng về tiên giới,
xem đó là thế giới để người ta thực hiện được ước mơ một cuộc sống hạnh phúc, ngọt
ngào. Nhưng trong ánh sáng của nhận thức lí trí, các thi nhân đời Đường lại phát hiện ra
cảnh tiên không còn mang vẻ đẹp lí tưởng, cũng lạnh lẽo, âm u, người tiên cũng âu sầu,
đau khổ chẳng khác gì người tục và đặc biệt là không bất tử. Thậm chí thần tiên chỉ là hư
ảo, chỉ tồn tại trong mơ ước của con người. Đó là cái bi của những bài thơ có xu hướng
giải tiên. Thứ hai, con người đăng cao để tránh khỏi những ràng buộc thế tục, mơ ước
thành tiên. Nhưng vì sơn thủy vĩnh hằng mà đời người lại thoáng chốc, vũ trụ vô biên mà
con người lại chỉ là hạt cát bên sông Hằng, trường sinh chỉ là hư ảo, lên cao tu luyện
không thể thành tiên. Con người thất vọng mình không thể thành tiên. Dù hùng tài đại
lược như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế hay là người dân thường, dù lập đàn hứng sương
khuya từ mặt trăng rơi xuống hay luyện đan, tu tiên, cuối cùng đều vỡ mộng. Đó là cái bi
của những bài thơ có xu hướng giải mộng, phê phán con người học đạo cầu tiên. Thứ ba,
thi sĩ du tiên, chiêm ngưỡng cảnh Bồng Lai song hành sự chiêm nghiệm về đời thường
nhân thế, vừa lãng đãng phiêu bồng, siêu thoát lại đã trầm tư, đau xót khi nhìn về trần gian,
107

thấy hiện thực cuộc đời vẫn bày ra những hệ lụy nhân sinh. Đó là cái bi được phát hiện ra
từ tư thế trữ tình lên cao nhìn ra xa, nhìn về “một cõi nhân gian bé tí”, không chỉ xuất hiện
trong những bài thơ có xu hướng thế tục hóa mà còn có trong những bài thơ được xây
dựng theo mô thức kết cấu đối sánh tiên - tục. Ngay cả Lí Bạch - người xứng đáng nhận
danh hiệu quán quân khi đã sáng tạo nên những bài thơ du tiên say nhất, thoát nhất rốt
cuộc vẫn không hoàn toàn cách tuyệt với cõi đời. Dù có nỗ lực tìm tiên, có thăng hoa về
tâm hồn đến đâu chăng nữa, Lí Bạch vẫn không thể trốn tránh cuộc sống hiện thế mà ông
đã lầm lỡ bước chân vào. Từ cõi tiên nhìn về trần thế, chiêm nghiệm hiện thực ấm lạnh,
vô thường lại tha thiết một tình điệu buồn thương. Hay Lư Đồng dù có ảo giác du tiên
thông qua chén trà thơm quan gián nghị họ Mạnh gửi cho, muốn trở về với bản nguyên
của mình vẫn không nguôi ngoai lòng trần vì quá nặng nợ với cuộc đời. Lấy bi làm mĩ,
thơ du tiên đời Đường đã chạm đến nỗi sầu tận đáy hồn nhân loại: sầu sinh mệnh ngắn
ngủi, sầu nhân thế vô thường, nhu cầu giải phóng khỏi những hệ lụy nhân sinh. Điều đó
góp phần quyết định đến sự lí giải vì sao những vần thơ du tiên lại cũng không hoàn toàn
thoát, lại tạo được xúc cảm thẩm mĩ thực sự trong lòng người đọc.
Như trong phần đầu của chương 3 chúng tôi đã biện luận, những đặc trưng thẩm
mĩ tiên hóa, diễm tình hóa, thế tục hóa không rải đều, phủ khắp và đậm đặc toàn bộ dòng
chảy thơ du tiên đời Đường. Tùy thuộc vào cơ sở lịch sử, xã hội, văn hóa, tư tưởng, tôn
giáo và thị hiếu thẩm mĩ của từng giai đoạn mà đặc trưng này nổi trội, đặc trưng kia lặn
chìm. Song, vì những hình thái ý thức vừa có tính độc lập tương đối vừa có tính kế thừa,
do đó cái mốc năm 755 không phải là một nhát cắt dứt khoát, rạch ròi và sự phân chia thơ
Đường thành các giai đoạn Sơ, Thịnh, Trung, Vãn Đường cũng chỉ mang tính tương đối.
Cũng như vậy, tiên hóa, diễm tình hóa, thế tục hóa vừa là những đặc trưng thẩm mĩ độc
lập, có thể chia tách rõ ràng lại vừa có mối quan hệ giao hòa, tương tác đôi khi rất khó
tách bạch. Bởi vì những kí ức của hệ giá trị trước một phần vẫn trầm tích trong sáng tác
của lớp người đi sau. Tiên hóa là dòng chủ lưu thời Sơ, Thịnh Đường, đến thời Trung,
Vãn Đường tuy không còn lan rộng nhưng vẫn cườm vào mạch chảy thơ du tiên giai đoạn
này, đặc biệt được thể hiện trong những bài thơ du tiên khẳng định trần thế chính là thiên
đường của Chu Phác thời Vãn Đường. Đâu cần tới Bồng Lai mới mong được ngắm nhìn
tiên cảnh. Có một lần nhà thơ Chu Phác đi qua quán đạo Đồng Bách đã phát hiện ra tiên
cảnh nơi những chỏm núi xanh biếc ngút ngàn: “Đông Nam nhất cảnh thanh tâm mục.
Hữu thử thiên phong sáp thúy vi. Nhân tại hạ phương xung nguyệt thướng. Hạc tòng cao
xứ phá yên phi. Nham thâm thủy lạc hàn xâm cốt. Môn tĩnh hoa khai sắc chiếu y. Dục
108

thức Bồng Lai kim tiện thị. Cánh ư hà xứ học vong ki?” (Một vùng cảnh trí Đông Nam
rửa sạch tấm lòng, đôi mắt. Ở đấy vì có nghìn chỏm núi xanh biếc ngút ngàn. Người ở bên
dưới đi lên như xông thẳng lên trăng. Hạc từ nơi cao rẽ khói mà bay. Hang sâu nước đổ
lạnh giá thấu xương. Cửa vắng hoa phô rực áo người. Muốn biết cõi Bồng Lai, nay chính
là ở đấy. Lại còn đi tìm học phép tiên ở đâu nữa?) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Hóa ra, quá
trình tiên hóa núi rừng cũng chính là quá trình kéo tiên về với đời, nhìn thấy cảnh tiên
ngay giữa đời thường. Đây cũng là dấu hiệu, là một biểu hiện khác của quá trình thế tục
hóa nếu tham chiếu từ điểm nhìn cái thiêng tiến gần tới cái thực, từ cái đích mà xu hướng
thế tục hóa hướng tới là phát hiện ra những giá trị của đời thường. Và mượn hình thức du
tiên để thể hiện tình yêu, mở rộng phạm vi phản ánh cho thơ du tiên cũng chính là các thi
nhân đang thế tục hóa một đề tài thơ vốn rất lãng mạn, siêu thoát này.
Tiên hóa, diễm tình hóa, thế tục hóa không thuần túy là đặc trưng nội dung của thơ
du tiên đời Đường mà đã bao hàm cả hình thức tiếp cận hiện thực, là nội dung đã được
chuyển tải qua hình thức nghệ thuật tương ứng, là sự kết hợp hài hòa hai yếu tố nhằm sáng
tạo nên những cảnh giới nghệ thuật rung động lòng người. Mỗi đặc trưng thẩm mĩ của thơ
du tiên đời Đường đều gắn liền với cơ sở hình thành và phương thức sáng tạo nghệ thuật
chủ yếu. Giữa đặc trưng thẩm mĩ và phương thức sáng tạo tuy cơ bản là có mối quan hệ
như chúng tôi đã phân tích trên đây, song trong thực tế, không phải bao giờ cũng hoàn
toàn như vậy. Có những bài thơ thể hiện rõ đặc trưng tiên hóa, nhưng phương thức sáng
tạo mà tác giả vận dụng trong tác phẩm ấy không chỉ thuần túy là lấy đại làm mĩ mà còn
kết hợp cả phương thức lấy mộng làm mĩ, tự sự kết hợp trữ tình. Chẳng hạn, trong Mộng
du Thiên Mụ ngâm lưu biệt - một bài thơ du tiên điển hình thời Thịnh Đường, Lí Bạch vừa
vận dụng bút pháp phóng đại để xây dựng hình tượng “đại mĩ” - núi Thiên Mụ, vừa vận
dụng thể trường thiên cổ thể để tự sự, kết cấu bài thơ theo mô thức trước mộng (nêu
những thể nghiệm khái quát về cuộc đời), trong mộng (tả cảnh núi và ảo giác gặp tiên),
sau mộng (bộc lộ tình cảm và thái độ phản kháng). Hay trong bài Đào nguyên hành của
Vương Duy cũng vậy. Lấy đề tài từ huyền thoại Vũ Lăng trong Đào hoa nguyên kí của
Đào Tiềm, song tác giả có ý thức tô đậm tính chất “tiên hóa”, biến tuyệt cảnh thành linh
cảnh, đào nguyên thành tiên nguyên. Thể trường thiên cổ thể được tác giả vận dụng nhằm
kết cấu bài thơ dài theo trình tự tình tiết một câu chuyện thần tiên: lạc vào động, người
tiên ra đón, hưởng thú vui chốn thần tiên, từ biệt về quê, trở lại chốn cũ. Nhưng chốn cũ
khó tìm, đào nguyên nơi đâu? Bốn câu kết bài tương ứng với phần mở đầu. Mở đầu là vô
ý lạc đường mà đến được nguồn đào, kết bài là cố ý không lạc mà lại không đến được. Đó
109

là bi kịch của con người sau khi tỉnh mộng. Như vậy, giữa đặc trưng thẩm mĩ và phương
thức sáng tạo nghệ thuật không phải bao giờ cũng theo nguyên tắc “một đối ứng một”. Nó
chỉ mang tính tương đối và gắn với từng đặc trưng thẩm mĩ, chúng tôi chỉ lựa chọn một
phương thức sáng tạo chủ yếu như đã phân tích ở trên.
Tiểu kết chƣơng 3:
Nội dung của chương 3 là tìm hiểu những đặc trưng thẩm mĩ của thơ du tiên đời
Đường, được chúng tôi khái quát thành 3 phương diện: tiên hóa, diễm tình hóa, thế tục
hóa. Đây vừa là những đặc trưng thẩm mĩ độc lập của thơ du tiên đời Đường vừa có mối
quan hệ qua lại, thể hiện quá trình phát triển của nhận thức: từ mơ mộng đến vỡ mộng, từ
lãng mạn đến hiện thực, từ du tiên đến giải tiên. Thơ du tiên đời Đường là một giác ngộ
tôn giáo về cuộc sống, khẳng định trần thế là thiên đường, núi xanh là tiên cảnh, bản thân
thi nhân và những con người như đạo sĩ, ẩn sĩ chính là tiên nhân, còn tiên cảnh, tiên nhân
chốn Bồng Lai xa xôi cũng mang đặc điểm như ở phàm trần. Và như vậy, du tiên cuối
cùng là để khẳng định đời chứ không hẳn là thoát li cuộc sống. Đây là giá trị thẩm mĩ lớn
nhất mà thơ du tiên đời Đường mang đến cho người đọc và là cơ sở để lí giải vì sao dù ít
mang tính xã hội hơn so với các đề tài thơ khác, nhưng mảng thơ du tiên vẫn có được vị
trí xứng đáng trong toàn cảnh thơ Đường. Tuy nhiên, giá trị của một dòng thơ, một thi
phái không chỉ thể hiện ở vị trí của nó trong toàn cảnh văn học cùng thời, ở cùng một dân
tộc mà còn thể hiện ở sự lan tỏa kì diệu sang nền văn học của các thời đại khác, dân tộc
khác. Và chương 4 của luận án sẽ soi chiếu thơ du tiên đời Đường từ góc độ nghiên cứu
âm hưởng của nó trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945.
110

CHƢƠNG 4
ÂM HƢỞNG CỦA THƠ DU TIÊN ĐỜI ĐƢỜNG TRONG THƠ VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1900 - 1945

4.1. Giới thuyết


4.1.1. “Hồn cũ thịnh Đƣờng muôn nẻo sáng” (Chân hứng - Vũ Hoàng Chƣơng)
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước núi liền núi, sông liền sông. Từ xa xưa, Việt
Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Hán khá sâu sắc và đã tiếp thu nhiều tinh hoa từ nền văn
hóa này. Riêng trong lĩnh vực thơ ca, “thơ Đường - chứ không phải toàn bộ thơ Trung
Hoa - có một ảnh hưởng phong phú, lâu dài và tốt đẹp đối với thơ Việt, không chỉ ngày
xưa mà đến cả ngày nay. Có thể nói, không một nhà thơ lớn Việt Nam nào lại không mang
một món nợ tâm hồn ít nhiều sâu nặng với thơ Đường. Người ta đã nói đến nguồn Đường,
hồn Đường, giọng Đường trong thơ Việt” [24, 505]. Hồn Đường đã nhập vào thơ Việt,
trực tiếp hay chỉ là gián tiếp, từ thời Vạn Hạnh, Huyền Quang, qua Nguyễn Trãi đến
Nguyễn Du, rồi Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Tú Xương, Nguyễn Khuyến,
Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh, rồi từ đó mà nhập vào hồn thơ hiện đại.
Công bằng mà nói, thơ ca Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930 đã xuất hiện
những nhà thơ quốc ngữ đầu tiên. Họ có nhiều tìm tòi, song vẫn chịu ảnh hưởng nhiều từ
quá khứ. Phải đến giai đoạn 1932-1945, thơ Việt Nam mới thật sự lột xác, chuyển mình.
Một sự dồn nén, chất chứa, tích tụ lâu ngày giờ đã bùng nổ. Các nhà Thơ mới đã làm nên
một cuộc cách mạng lớn lao chưa từng thấy, đưa thơ ca Việt Nam từ phạm trù cổ điển
bước hẳn sang phạm trù hiện đại. Cáo biệt những tư thế trữ tình, những khuôn thức gò bó,
những biện pháp tu từ cổ điển đã trở nên mòn sáo và không còn thích hợp, Thơ mới là thơ
của những tư tưởng mới, triết lí mới, của cái tôi, của cảm xúc tự do và thành thực. Cảm
xúc mới kéo theo thi pháp mới, từ thể loại thơ đến ngôn ngữ, hệ thống biện pháp tu từ...
đều in dấu mới. Câu thơ tự do, lời thơ điệu nói, điểm nhìn cá nhân, trực tiếp bộc bạch nỗi
lòng. Nhưng mọi cách tân văn học chân chính đều phải cắm rễ rất sâu vào quá khứ. Thực
tế giai đoạn 1900-1945, các nhà thơ dù cách tân hồ hởi vẫn làm chủ truyền thống. Cái
“hồn cũ thịnh Đường” vẫn muôn nẻo sáng và uy nghi như Vạn Lí Trường Thành đâu dễ
sụp đổ cho dù bão táp trời Âu đang ào ạt thổi. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh - Hoài
Chân trong Thi nhân Việt Nam khi phân chia các dòng mạch Thơ mới cũng đã nói tới
dòng mạch chịu ảnh hưởng thơ Pháp, dòng mang tính cách Việt và dòng mạch chịu ảnh
111

hưởng Đường thi. Các nhà thơ thời kỳ này đã hấp thu nhiều tinh túy của thơ Đường, từ thi
hứng, thi liệu, thi tứ đến thi pháp để tạo nên giá trị đặc sắc trên tiến trình hiện đại hóa.
Cuộc duy tân của phong trào Thơ mới không loại trừ khía cạnh phục hưng những giá trị
cổ điển vốn cũng là bản chất của bất cứ một hiện tượng nào. Có thể nói, chất liệu Đường
thi đã khảm sâu và trở thành một bộ phận hữu cơ trong chỉnh thể thế giới nghệ thuật của
thời đại thi ca này. Trong đó, thơ du tiên đời Đường là một ngọn cờ có sức vẫy gọi, để lại
âm vang trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945.
4.1.2. Thử “dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”
Thực ra, từ trong sâu thẳm của tâm thức dân gian Việt Nam đã hình thành ý niệm
về tiên, về cõi Đào Nguyên có ngày tháng rất dài, về những người đẹp muôn đời không có
nơi trần thế. Khi Đạo giáo thần tiên của Trung Hoa nhập vào Việt Nam, nó đã tìm thấy
ngay những tín ngưỡng tương đồng, nhanh chóng hòa quyện và ăn sâu vào đời sống tâm
linh người Việt. Trong cảm thức dân gian, tiên là những người có sức mạnh vạn năng,
luôn cứu giúp kẻ hiền lành gặp khó khăn mà không có cách nào thoát ra được: “Ở hiền thì
lại gặp lành. Người ngay thì gặp người tiên độ trì”. Không phải ngẫu nhiên mà ngoài
chuyện cầu tiên lánh đời, trí thức xưa còn tổ chức cầu tiên để hỏi về vận nước, chuyện
may rủi. Hình tượng tiên còn trở thành một tiêu chí thẩm mĩ, xuất hiện những cách ví von:
đẹp như tiên, sướng như tiên, ăn được ngủ được là tiên. Ngay cả Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng lấy tiên để so sánh với quan niệm sống khỏe, sống vui, sống có ích cho đời. Trong
bài Sáu mươi tuổi Người viết: “Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán. So với ông Bành vẫn
thiếu niên. Ăn khỏe, ngủ khỏe, làm việc khỏe. Trần mà như thế kém gì tiên”. Dường như
đối với người Việt, nếu không có cảnh tiên, người tiên thì họ biết diễn đạt cái đẹp đó,
hạnh phúc lí tưởng đó bằng cách nào?
Có thể nói đến một dòng văn học mang tư tưởng du tiên của người Việt như là sự
kết tinh cảm thức về tiên trong tín ngưỡng dân gian và ảnh hưởng từ văn hóa, văn học
Trung Quốc. Dòng văn học ấy được khơi nguồn từ những câu chuyện cổ tích, với ba
nhóm truyện đáng lưu ý. Nhóm thứ nhất là truyện con người học đạo thành tiên giúp đời
(như Chử Đồng Tử, Sự tích suối Mỡ). Nhóm thứ hai là tiên xuống trần kết duyên với
người trần gian (như truyện Tú Uyên, Ả Chức chàng Ngưu). Nhóm thứ ba là truyện người
đi vào cõi tiên (như Động Từ Thức, Sự tích chú Cuội cung trăng). Trong những truyện
Nôm như Bích Câu kì ngộ, Bích Châu du tiên mạn ký, Mai Đình mộng ký... cũng xuất hiện
nhiều câu thơ đề cập đến thần tiên, bút tiên, tu tiên, cưỡi hạc, tiên phù hóa phép. Đặc biệt,
trong tiểu thuyết chữ Hán, tư tưởng du tiên được thể hiện qua hai loại hình tượng: thần
112

tiên trần tục hóa (như Giáng Hương trong Từ Thức tiên hôn lục, Nữ thần trong Nhất thư
thủ thần nữ, Quỳnh Nương trong Vân Cát thần nữ, Giáng Kiều trong Bích Câu kì ngộ ký),
người tục thần tiên hóa như Đạo sĩ họ La (Nam Ông mộng lục. Áp lãng chân nhân), Chử
Đồng Tử (Lĩnh Nam chích quái. Nhất dạ trạch), Chu Sinh (Thánh Tông di thảo. Hoa
Quốc kì duyên). Riêng trong lĩnh vực thơ ca, từ thời trung đại đến nay, dù đậm hay nhạt,
trong những giai đoạn nhất định đều có xuất hiện tư tưởng du tiên. Vậy là, không chỉ
mang âm hưởng của thơ du tiên đời Đường, thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945 còn được
hấp thu dưỡng chất từ dòng mạch văn học mang tư tưởng du tiên của dân tộc, dù rằng
dòng mạch ấy thực chất cũng được gợi ý rất nhiều từ nền văn hóa, văn học Trung Hoa.
Tìm hiểu âm hưởng của thơ du tiên đời Đường trong thơ Việt Nam, chúng tôi chỉ
chọn một giai đoạn từ 1900 đến 1945, một lát cắt chứ không phải toàn bộ dòng chảy. Thứ
nhất vì trong khuôn khổ một chương của luận án, chúng tôi không thể bao quát hết thơ từ
thời trung đại đến nay. Thứ hai, nói là thơ Việt Nam, nhưng chúng tôi chỉ quan tâm đến
những bài thơ có màu sắc thần tiên, mang âm hưởng du tiên. Mà qua khảo sát thực tế thơ
Việt Nam các giai đoạn khác, do bối cảnh thời đại đặc thù, chúng tôi thấy chưa có thời kì
nào như thời kì 1900-1945, chỉ trong vòng 45 năm mà xuất hiện một loạt bài thơ mang âm
hưởng du tiên đến thế. Thời trung đại ở Việt Nam, Nho giáo vẫn là xương sống ý thức hệ.
Bên cạnh đó, Phật giáo cũng có lúc được xem là ngôn ngữ chung của thời đại (như thời
Lý Trần). Còn Đạo giáo chưa bao giờ được nâng lên thành quốc giáo, du tiên chưa bao
giờ trở thành đề tài nóng hổi đối với những nhà thơ còn nặng gánh cuộc đời. Nếu có xuất
hiện tư tưởng du tiên trong thơ thì hầu hết đều nhằm thể hiện tình yêu hoặc khẳng định
chuyện thần tiên chỉ là mộng ảo. Chẳng hạn trong Hồng Đức quốc âm thi tập, phần thơ
viết về đề tài người phụ nữ và tình yêu đôi lứa, các tác giả cảm hoài tích cũ, đã sáng tác
nên chùm thơ Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai, gồm 12 bài, mượn đề tài du tiên để khai
thông vấn đề tình yêu vốn được xem là cấm kị của văn chương nhà Nho lúc bấy giờ. Hay
trong bài Đề Nguyệt Giản Đạo lục Thái cực chi quán diệu đường, Trần Nguyên Đán thể
hiện ý thức phản du tiên, khẳng định trần thế mới là chân thực, Doanh Châu, Bồng Lai chỉ
là hư ảo: “Doanh Châu, Bồng Đảo tri hà tại? Vô dục, vô tham ngã thị tiên” (Bồng Đảo,
Doanh Châu biết là ở đâu? Không ham muốn, không tham lam, ta là tiên). Trong bài Đề
động Từ Thức, Lê Quý Đôn cũng chung cảm nhận ấy: “Thế nhân khổ tác Thiên Thai
mộng. Thùy thức Thiên Thai diệc hí trường” (Người đời cho rằng đó cũng như chuyện
Thiên Thai. Nhưng ai ngờ đâu rằng Thiên Thai chỉ là chuyện đùa mà thôi). Nguyễn Trãi
cũng từng “mơ cưỡi hạc vàng lên đàn tiên” nhưng thực ra đó chỉ là khát vọng chiếm lĩnh
113

đỉnh cao, mơ ước bầu trời cao rộng. Nguyễn Bỉnh Khiêm lại khẳng định chốn thanh nhàn
chính là tiên giới, người thanh nhàn chính là tiên khách, đâu phải tìm Bồng Lai ở chốn xa
xôi nào. Nhà thơ không tạo ra thế giới mới nhưng có con mắt mới nên phát hiện ra cảnh
tiên ngay giữa cõi trần: “Thanh nhàn ấy chính là tiên khách” (Thơ Nôm, bài 31); “Chốn
ấy thanh nhàn được thú. Lọ là Bồng Đảo mới là tiên” (bài 118). Còn có tác giả như
Nguyễn Phi Khanh, do cuộc đời thăng trầm khiến nhiều khi rơi vào khoảng trống mà lí
tưởng Nho gia không bao bọc nổi. Chính khoảng trống đó đã tạo cơ hội cho tư tưởng du
tiên của Đạo giáo đôi lúc xen vào tâm tưởng: “Vân nạp tế tham Hoàng Nghiệt thoại. Hà
tâm cao ấp Xích Tùng du” (Áo nạp như mây, tụng niệm lời kinh Hoàng Nghiệt. Lòng son
tựa ráng, chắp tay theo tiên Xích Tùng) (Bài 361, Thơ văn Lí Trần, tập 3); “Quan nhàn
ngã đắc tu thân quyết. Lão khứ thiên tri học đạo tâm. Nhược kiến Xích Tùng bằng kí ngữ.
Giai du hà nhật quả u tầm” (Việc quan nhàn hạ, ta tìm được bí quyết tu thân. Già đi rồi,
lòng học đạo đã có trời biết. Nếu thấy vị tiên Xích Tùng nhờ nhắn một lời. Đến ngày nào
mới thật có cuộc chơi hứng thú ở chốn thanh vắng) (Đề Huyền Thiên tự). Đến giai đoạn
1945-1975, cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến liền sau đó đã khơi dậy và
phát triển cao độ ý thức cộng đồng mà cốt lõi là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Hầu hết
các nhà thơ đều đi theo quỹ đạo “phá cô đơn ta hòa hợp với người”, hòa theo bản hành
khúc của thời đại chiến tranh và những cuộc cách mạng. Tâm thế sáng tạo thay đổi, họ
đâu còn khao khát muốn làm thằng Cuội với những lời giãi bày táo bạo và trần trụi như
Tản Đà hồi đầu thế kỉ. Cái tôi cá nhân nhường ngôi cho cái ta cách mạng, cộng đồng.
Những vần thơ du tiên mơ mộng, phi duy lí sẽ trở nên không tương thích ở một thời đại
đang cần dồn hết lí trí, năng lượng vào một mục đích tối thượng. Sau 1975, một thời gian
dài thơ tiếp tục trong dư âm chiến tranh. Đến thời kì đổi mới đất nước, định hướng phát
triển kinh tế thị trường và quan hệ giao lưu văn hóa đa chiều đã tạo “môi sinh” thuận lợi
cho ý thức cá nhân thức tỉnh trở lại. Thơ đi vào thế giới riêng tư. Song, sự phát triển như
vũ bão của khoa học và tinh thần duy lí khiến Tiên, Phật, Thánh Thần càng trở nên mất
thiêng. Vì vậy, thơ sau 1975 không chú ý tới những điều lãng mạn, trừu tượng xa xôi mà
khẳng định cái cần thiết thực sự trong đời: “Con ơi con, trên ấy Ngân Hà. Cao xa lắm
nhưng rồi con sẽ tới. Nhưng đêm nay con cần phải thuộc. Mấy phép tính cộng trừ hoặc
một trang thơ” (Thạch Quỳ). Sự trở lại với đề tài du tiên trong thơ ca may ra chỉ có ở số ít
nhà thơ mà hồn thơ nghiêng về âm tính như Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thơ ông là sự tiếp
nối một dòng mạch cảm hứng đã từng có lúc như đứt đoạn. Ông như chàng Từ Thức thuở
nào thoát trần lên chốn Thiên Thai, và giữa chốn Bồng Lai tiên cảnh, nhà thơ đã gặp tiên,
114

những “nàng tiên nhân từ”, “người tiên lưu lạc”, “tiên nữ buồn”, những “nàng xõa tóc tiên
nga”: “Mai kia rồi cũng xa người. Tôi về ngủ dưới khung trời cỏ hoa. Có nàng xõa tóc
tiên nga. Quỳ hôn cát bụi khóc òa như mưa” (Về chơi với cỏ).
Trở lại với thời cận - hiện đại 1900-1945, chúng tôi thấy xuất hiện một số bài thơ
mang âm hưởng của thơ du tiên đời Đường. Vậy, vì sao thời kì này lại có những nhà thơ
hướng về tiên giới? Điều này có liên quan đến bối cảnh thời đại, vì chính hiện thực xã hội
góp phần quyết định phương hướng tiếp thu, ảnh hưởng của văn học. Lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1900-1930 nổi bật lên tình trạng khổ nhục mất nước và những cuộc đấu tranh
liên tục để giành độc lập tự do. Đất nước mất vào tay quân giặc, làm nghẹt thở cả một dân
tộc, đó là một sự thực. Thời kỳ này, đất nước đang đi vào con đường tư sản hóa, đó cũng
là một sự thực khác. Xã hội vận động từ văn hóa nông thôn sang văn hóa đô thị, từ Nho
học sang Tây học, từ khu vực ra thế giới, từ thời trung đại sang thời đại mới. Lối vào đời
truyền thống (bằng thi cử đỗ đạt) hoàn toàn bị phá sản. Ngả rẽ kì vọng vào một sự nghiệp
kinh bang tế thế trở nên mờ mịt đối với nhà Nho. Những con người như Tản Đà bị trượt ra
khỏi quỹ đạo truyền thống, hoàn toàn mất phương hướng trong hành xử, không thể tránh
khỏi những sầu mộng vẩn vơ, chán nản, muốn lên cung quế với chị Hằng để được giải tỏa
tâm trạng muộn phiền. Đến giai đoạn 1930-1945, cải cách sự học, đô thị ra đời, một thế hệ
thanh niên, học sinh, công chức, trí thức mới xuất hiện. Sự cộng sinh với văn hóa phương
Tây làm thay đổi nếp cảm nếp nghĩ. Nếu trước kia, trong đời sống tư tưởng của người
Việt Nam, ý thức cá nhân luôn bị che khuất, con người chỉ sống với những bổn phận và
khuôn phép đã được quy định trước mà không thể “việt vị” thì giờ đây nó đã trỗi dậy, đòi
được sống và đi đến tận cùng những khao khát của riêng mình. Sự bừng tỉnh của ý thức cá
nhân đã làm cho vũ trụ quan thay đổi và đem đến một khung khổ mới cho không gian tinh
thần của xã hội. Nhưng khi cá thể tách khỏi đoàn thể, như con diều đứt dây, bỗng trở nên
lạc loài, chống chếnh. Và cô đơn càng lớn thì khát vọng chạy trốn cô đơn càng mạnh mẽ,
quyết liệt. Người thì tìm sự xê dịch trong không gian bằng những chuyến giang hồ, tha
hương như Nguyễn Bính. Người ẩn nấp vào vàng son quá khứ, chắt chiu những dư âm, dư
ảnh của thời tàn, xem đó mới là thời hoàng kim, thời oanh liệt như Vũ Đình Liên, Phạm
Huy Thông. Kẻ khác đi vào nhảy đầm, thuốc phiện hoặc mộng thoát lên tiên, lên cõi trời
phiêu diêu như Vũ Hoàng Chương, Thế Lữ... Chúng tôi đặc biệt lưu ý tới khuynh hướng
du tiên thoát ly này của Thơ mới. Kiểu du hành tinh thần đến một thế giới huyễn tưởng,
không tưởng, đối lập với thực tại tầm thường, khổ đau, cằn cỗi này vừa thể hiện tinh thần
chơi vừa thể hiện nỗi cô đơn của phận người và niềm bất an thời đại. Đứng trước ngã ba
115

văn hóa Đông Tây, sầu nhân thế, sầu thân thế, sầu thời thế dồn tụ khiến Tản Đà và một số
nhà thơ trong phong trào Thơ mới đã bắt gặp những gì rất phù hợp với mình trong nhiều
sáng tác của các nhà thơ Đường, đặc biệt là xúc cảm thoát tục, niềm khao khát lên tiên
giới để cởi bỏ lốt tục vướng bụi trần ai, để được thanh thản tâm linh, thanh lọc tâm hồn.
Xã hội càng rối ren, đen tối càng kích thích con người quay lưng lại với nó, hướng về thế
giới thần tiên, thanh bình, mượn tiên để trốn cô đơn. Giai đoạn 1900-1945 xuất hiện nhiều
bài thơ mang âm hưởng của thơ du tiên đời Đường cũng chính vì lẽ đó.
Xác lập mối quan hệ giữa thơ du tiên đời Đường và thơ Việt Nam giai đoạn 1900-
1945 thực chất là tìm hiểu âm hưởng của cái trước vọng đến cái sau trên những phương
diện nào. Tuy nhiên, như trên chúng tôi đã nhận định, mối quan hệ văn hóa Việt - Trung
rất sâu. Nó không thể hiện ngay trên bề mặt mà lặn chìm vào bề sâu thâm thúy. Tác giả
Trần Đình Sử trong bài viết So sánh văn học và văn hóa: Nguyễn Dữ và tiên thoại Trung
Hoa qua truyện Từ Thức lấy vợ tiên đã nhận định: “Trong điều kiện Việt Nam tiếp thu gần
như cả một nền văn hóa, từ ngôn từ, thể loại, phong cách học, điển cố, kinh điển, thi pháp,
thì việc nghiên cứu so sánh “một đối một” rõ ràng không thể lý giải đầy đủ sự tiếp nhận
ảnh hưởng của một tác phẩm” [75, 438]. Thật khó để chỉ ra một cách thực chứng bài thơ
du tiên đời Đường nào đã ảnh hưởng trực tiếp đến bài thơ mang âm hưởng du tiên nào của
Tản Đà hay Thế Lữ theo kiểu “một đối một”. Bởi vì thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945
không hẳn là chỉ mang âm hưởng của thơ du tiên đời Đường mà có thể còn khơi nguồn từ
những dòng mạch khác, như thơ du tiên Ngụy Tấn, truyện tiên thoại, thậm chí cả nền văn
hóa du tiên Trung Quốc, đặc biệt là chính cảm thức về tiên đã ăn sâu vào tâm thức người
Việt và những bài thơ có tư tưởng du tiên thời trung đại ở Việt Nam mà chúng tôi đã đề
cập ở trên. Chẳng hạn, Tống biệt của Tản Đà, Đào nguyên lạc lối, Hận rừng mai của Vũ
Hoàng Chương, Hai tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn của Bích Khê là những tác phẩm mang âm
hưởng của chùm thơ Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai của Tào Đường. Nhưng ai dám bảo các
tác giả này không ảnh hưởng từ tác phẩm Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm, Lưu Thần,
Nguyễn Triệu nhập Thiên Thai (trong Sưu thần ký của Can Bảo) và Từ Thức lấy vợ tiên
(trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ)? Điều này cũng giống với trường hợp Văn Cao
khi sáng tác nhạc phẩm Thiên Thai. Bài hát được sinh thành từ trên dòng sông Hương,
trong nỗi mê cuồng của con phù du thoát xác bay về một cõi đẹp vĩnh hằng không có nơi
trần thế. Song, chính Văn Cao đã tâm sự rằng ông không chỉ ảnh hưởng Đào nguyên hành
của Vương Duy mà còn tiếp thu từ chuyện Lưu Thần Nguyễn Triệu trong Sưu thần kí của
Can Bảo và trong thơ Tào Đường. Âm hưởng của thơ du tiên đời Đường trong thơ Việt
116

Nam giai đoạn 1900-1945 là có thật, có thể cảm thấy, suy luận ra nhưng không dễ chứng
minh. Vì nó được khúc xạ qua văn hóa chứ không thuần túy trực tiếp từ thơ. Nó đã tan ra
và ngấm vào văn hóa chứ không còn nguyên câu, nguyên ý, nguyên bài, thậm chí còn âm
hưởng qua âm hưởng, gián tiếp vang vọng từ những nguồn mạch khác. Thơ du tiên đời
Đường để lại âm hưởng trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1900-1945, trên các phương diện
tư thế trữ tình, đề tài, từ ngữ, hình ảnh, điển tích điển cố và cách cấu tứ bài thơ dựa trên
các mối quan hệ mà chúng tôi sẽ luận giải trong những phần sau đây của luận án có thể
coi là phần nổi của “tảng băng trôi”, của “vỉa ngầm” không dễ khai thác ấy.
4.2. Tƣ thế trữ tình và đề tài du tiên
Công bằng mà nói, thơ ca Việt Nam giai đoạn 1900- 1945 không có dòng thơ du
tiên. Không thể gọi là thơ du tiên Việt Nam như cách chúng ta đã gọi thơ du tiên đời
Đường. Bởi vì đây là hai phạm trù thơ khác nhau (một bên cổ điển, một bên là thơ lãng
mạn thời hiện đại), thuộc về hai nền văn hóa khác nhau. Sẽ thật khiên cưỡng nếu xem
những bài thơ như Tối tân hôn, Động phòng hoa chúc (Vũ Hoàng Chương), Mưa hoa
(Thế Lữ), Ngũ hành sơn (Bích Khê), Chưa hết yêu (Hàn Mặc Tử) là thơ du tiên. Nhưng
không thể phủ nhận trong những bài thơ ấy có xuất hiện những từ ngữ hình ảnh, điển tích,
điển cố, tư thế trữ tình, đề tài, cảm hứng du tiên. Một số nhà thơ Việt Nam giai đoạn
1900-1945 đã đồng điệu với các nhà thơ đời Đường trong việc lựa chọn tư thế trữ tình và
đề tài du tiên. Từ ý thức về thân phận trích tiên, họ đã đặt mình vào hành trình du tiên về
với cội nguồn, xem du tiên như một phương thức giải thoát.
4.2.1. Ý thức về thân phận trích tiên
Thi sĩ luôn mang trong mình phẩm chất mộng mơ, luôn tự coi mình là những vị
“trích tiên” bị biếm trần vì một lỗi lầm hay sứ mệnh nào đó. Điển hình cho cách nhìn này
ở thời Đường trước tiên phải kể đến Lí Bạch. Ngay từ lúc cất tiếng khóc chào đời, Lí
Bạch đã được bao bọc trong một vầng hào quang bất tử. Một đêm mùa thu năm 701, khi
người nhà báo tin cho Lí Khách (cha của Lí Bạch) rằng quý tử đã ra đời, ông ngửa mặt
nhìn trời, bắt gặp ánh sáng tỏa rạng từ một ngôi sao ở phía Tây Bắc - sao Thái Bạch. Và
tên chữ Thái Bạch mà người cha đặt cho con mình phải chăng có hàm ý xem ông là một
tiên nhân? Hạ Tri Chương vừa gặp Lí Bạch đã khen là một vị trích tiên từ trên trời rơi
xuống. Trong thơ, có lần ông từng tự ví mình là tiên nhân: “Thanh Liên cư sĩ trích tiên
nhân. Tửu tứ tàng danh tam thập xuân” (Thanh Liên cư sĩ tiên giáng trần. Ẩn danh quán
rượu ba mươi xuân) (Đáp Hồ Châu Gia Diệp tư mã vấn Bạch thị hà nhân). Ngoài việc tự
xưng là trích tiên, Lí Bạch còn thường xem mình như Nghiêm Tử Lăng - một khách tinh
117

chuyển thế (Trù thôi thị ngự) và Đông Phương Sóc - một tuế tinh chuyển thế (Lưu biệt
Tây Hà lưu thiếu phủ). Lý Thương Ẩn qua hình tượng thánh nữ cũng xem mình là
“Thượng Thanh luân trích đắc quy trì” (Kẻ bị đày xuống từ cung Thượng Thanh chậm trở
về) (Trùng quá Thánh nữ từ).
Ảnh hưởng văn hóa phương Tây khiến cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam giai đoạn
1900-1945 thuộc về một loại hình khác hẳn cái tôi trữ tình trong Đường thi. Song, dù cách
nhau hàng nghìn năm và cả hai thế giới, thi nhân Việt luôn cảm thấy đồng điệu với các tác
giả Đường thi trong ý thức về thân phận trích tiên. Trong Giấc mộng con 2, Tản Đà tự thú:
“Nguyên xưa ông ở trên này là một vị khuê tinh, thượng đế có lòng yêu lắm. Một khi ông
dám làm thơ liệng sang cung Quảng Hàn, bị thằng Cuội bắt được đem trình thượng đế,
ngài giận mới đày xuống hạ giới” [16, 97]. Thơ Tản Đà xét ở một góc độ nào đó chính là
bản “lí lịch trích ngang” về cuộc đời thi sĩ. Người đưa ta trở về nguồn cội, nơi người sinh
ra và nguyên nhân phải đầu thai xuống vườn trần: “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu.
Đày xuống hạ giới vì tội ngông” (Hầu trời); “Người đâu kiếp trước Đông Phương Sóc. Ăn
trộm đào quen học thói ngày xưa. Trần gian đày mãi không chừa” (Trời mắng). Có thể
nói, thành công trong thực tiễn sáng tác và đặc biệt là những công trình dịch thơ Đường
của Tản Đà có tác dụng rất lớn trong việc làm vang lên âm hưởng thơ Đường (trong đó có
thơ du tiên) trong Thơ mới. Với Thế Lữ, khi tự nhận quê hương mình là ở chốn Bồng Lai
tiên cảnh chứ không phải nơi phồn hoa đô hội, chốn trần gian sắc sắc không không này
cũng có nghĩa là thi nhân tự ý thức một cách sâu sắc mình là một trích tiên: “Trông khóm
đào mai bán khắp đường. Ta cười tưởng nhớ cảnh quê hương. Bồng Lai muôn thuở vườn
xuân thắm. Xán lạn, u huyền trong khói sương” (Mưa hoa). Bích Khê cũng tự coi mình là
trích tiên nhớ thượng giới, nhớ lại lỗi lầm xưa khiến mình phải chịu đày đọa xuống trần
gian: “Vắng tiên hạc bơ vơ dưới thế. Gảy tiên cầm điệu lẻ trong sương” (Giọt lệ trích tiên).
Còn Hàn Mặc Tử, ngoài việc nhiều lần tự ví mình là trích tiên bị lưu đày hạ giới, mong
một ngày sẽ trở lại cõi trời cách biệt vô thủy vô chung, nhà thơ còn lý giải: giời đày bởi
giời muốn cho loài thi sĩ làm tròn nhiệm vụ ở thế gian này, nghĩa là tạo ra những tác phẩm
tuyệt diệu, lưu danh lại muôn đời.
Như vậy, ý thức trích tiên thể hiện tư thế trữ tình rất đặc trưng của cái tôi lãng mạn,
do bất hòa với thực tại mà thoát li vào một thế giới khác để thay thế thực tại bên ngoài. Họ
gửi gắm trong nhận thức về nguồn cội của mình niềm khao khát tự do, khao khát hướng
tới những gì thanh tao, cao khiết nhất. Trích tiên trở thành một danh hiệu quen thuộc để
chỉ một cách ẩn dụ những đặc tính tâm hồn của thi nhân.
118

4.2.2. Hành trình du tiên về với cội nguồn


Thức nhận nguồn gốc trích tiên và căn nhà ở đời của mình là chốn tiên cảnh Bồng
Lai nên trong mọi cố gắng của đời mình, thi nhân đều hướng tới cõi cao khiết như một
nhu cầu tự thân. Nơi ấy có thể ẩn trốn mọi sự chướng tai gai mắt và đánh thức những
mộng mơ tưởng chừng đã quá xa trong đời người. Nơi ấy, tài năng của con người được
phát hiện, năng lượng của con người được khai phóng thay vì bị hãm lại, nén lại dưới áp
lực của thực tại. Ngụp lặn mười năm chốn phong trần gió bụi, gập ghềnh, lại bị kẹp chặt
trong cuộc tranh giành của hai phái Ngưu Tăng Nhụ và Lý Đức Dụ, những trải nghiệm
nơi trần thế khiến Lí Thương Ẩn tỉnh ngộ, một ngày kia chợt nhận ra mình vốn có cốt tiên,
tài tiên - điều kiện đầu tiên để có thể tu tiên. Thi nhân cao bước xuất thế, trở lại núi cũ
Tung Dương tìm thầy để tu luyện lại, tìm về căn nhà vũ trụ, căn nhà ở đời của mình để
thực hiện cuộc sống tâm linh trong bản giao hưởng của trời đất: “Tự hữu tiên tài tự bất tri.
Thập niên trường mộng thái hoa chi. Thu phong động địa hoàng vân mộ. Quy khứ Tung
Dương tầm cựu sư” (Tài tiên có sẵn mà lại không tự biết. Mười năm trong giấc mộng dài
mải lo hái hoa chi. Gió thu cuốn bụi bay trong buổi chiều mây vàng. Ta trở lại núi Tung
Dương tìm thầy ngày xưa) (Đông hoàn) (Lê Quang Trường dịch). Còn với Lí Bạch, điểm
độc đáo nhất là ở chỗ cả cuộc đời ông đều cho mình là tiên nhân lạc xuống trần gian. Và
chính ý thức trích tiên mang đến cho thơ du tiên Lí Bạch một diện mạo khác thường. Ông
tưởng tượng quê hương của mình thăm thẳm đâu đó giữa ngàn vạn trăng sao. Ông du
ngoạn Bồng Lai như trở về quê cũ, hoặc cưỡi hươu trắng, hoặc cưỡi rồng, hoặc thắng xe
mây, hoặc bay theo gió lớn, trong hình hài, dáng vóc của một tiên ông siêu trần tuyệt tục.
Luôn đặt mình vào hành trình du tiên nên trong cuộc sống hiện thực cơ hồ như tất cả sự
vật đều có thể khiến Lí Bạch tự giác liên tưởng tới tiên cảnh, cũng khiến ông khi xử lí đề
tài vốn không liên quan gì tới tiên đã lựa chọn thủ pháp hóa thực thành hư, lấy hư viết
thực. Mặc cái áo màu ngũ sắc đẹp đẽ, ông liền tưởng tượng lúc mình trở về trời, tiên nhân
sẽ quây quần, biểu thị sự mến mộ, kinh ngạc. Có người gửi thư cho ông, ông nghĩ có lẽ là
Tây Vương Mẫu phái chim xanh gửi tới. Lí Bạch thậm chí còn muốn gửi cho tiên nữ một
bức thư, thể hiện nỗi khổ tương tư: “Tây lai thanh điểu phi đông khứ. Nguyện kí nhất thủ
tạ Ma Cô” (Chim xanh của Tây Vương Mẫu từ phía Tây bay đến. Muốn gửi cho tiên nữ
Ma Cô một bức thư) (Cổ hữu sở tư). Tư thế trữ tình này gợi ta nghĩ tới Thế Lữ. Trong số
các nhà Thơ mới, Thế Lữ là người sáng tác nhiều bài thơ mang âm hưởng du tiên nhất.
Người lữ khách đi ngang qua trần thế ấy ý thức về thân phận trích tiên một cách sâu sắc
nên luôn mơ màng tới cõi Bồng Lai tiên cảnh. Nhiều khi đang bước giữa chốn trần gian,
119

đang chen chúc trong phố đông người chật, thi sĩ cứ mải mê tưởng nhớ cõi cao xa u huyền
trên kia, thấy mình “đồng hương” cùng những Kim Đồng, Tiên Nga, Ngọc Nữ: “Nửa ở
Bồng Lai nửa dưới trần. Ta đi, trong lúc cả trời xuân. Nồng say, thắm đượm màu thi cảm.
Chợt cánh hoa đào rụng dưới chân” (Mưa hoa). Đang cùng bạn uống rượu, vừa ngà ngà
say là người đã thoát trần, bỏ bạn bè ở lại để đi về chốn “Lung linh vàng dội cung Quỳnh.
Nhịp nhàng biến hiện những mình Tiên Nga” (Ma túy). Thế Lữ “thấy hình tiên ngay giữa
đám trần gian” (Lựa tiếng đàn). Ngay cả tiếng hát bên sông của một cô thôn nữ bình
thường cũng được nhà thơ cảm nhận như vọng về từ cung tiên xa lắc: “Tiếng hát trong
như nước ngọc tuyền. Êm như hơi gió thoảng cung tiên. Cao như thông vút, buồn như liễu.
Nước lặng, mây ngừng ta đứng yên” (Tiếng gọi bên sông).
Đáng chú ý nhất là trường hợp Vũ Hoàng Chương. Ông luôn sống trong sự cô đơn,
lạc loài vì “đầu thai lầm thế kỷ”, vì mối tình đầu bị phụ bạc khiến ông chết điếng sầu đau,
tê rời cảm xúc. Ông tồn tại ở đây, lúc này nhưng luôn tin rằng bản thể chân thực của mình
là ở trong một không gian, thời gian khác. Đó là cõi mộng với những Lạc Phố, Thiên Thai
của Lưu Thần, Nguyễn Triệu, chốn đào nguyên tiên cảnh hay thế giới hư huyền của giấc
mộng Trang Chu. Chính ở không gian vĩnh hằng ấy, bản thể chân thực của ông là người
tiên. Việc ông có mặt ở chốn lưu đày này được hình dung như chuyện tiên nhân bị biếm
trích hoặc trót dại, sẩy chân, từ tiên giới thanh cao phải quay về hạ giới nhơ bẩn: “Thôi hết
nhé thỏa đi niềm rạo rực. Từ cung trăng rơi ngã xuống trần gian. Ta sắp uống bùn nhơ và
sự thực. Sẽ mai đây giày xéo giấc mơ tàn” (Động phòng hoa chúc). Giải mã hành trình du
tiên trong thơ Vũ Hoàng Chương có lẽ nên bắt đầu từ hai bài thơ ấy. Tâm thế trữ tình của
thi nhân là tâm thế của kẻ “từ cung trăng rơi ngã xuống trần gian” nên luôn nhạy cảm
trong lời gọi về nguồn: “Ôm vai nhau cùng lắng tiếng xa xôi. Nguyệt chẳng phải tỳ không
càng không cầm với sắt. Tai dẫu nghe mà lạ tiếng tre. Cung Sế lẫn cung Hồ dìu dặt. Mình
tơ réo rắt. hồn trúc đê mê. Những thanh âm nhạc điệu chửa từng nghe. Như đưa vẳng tự
vô cùng xanh ngắt. Đầy nhớ thương tha thiết gọi ta về” (Tối tân hôn). Thơ du tiên, do vậy
là hành trình về với cội nguồn, cũng là cuộc hành hương thăm non Bồng, nước Nhược, và
đi đến tận cùng lại chính là hành trình tự đào sâu bản thể tâm hồn mình của các thi nhân.
Thực ra, không phải thi nhân Việt Nam nào giai đoạn 1900-1945 cũng lựa chọn đề
tài du tiên, mượn cảnh tiên để gửi gắm ước mơ, thể hiện tâm tình lãng mạn, thoát li.
Người nhìn về dĩ vãng để tiếc nuối, kẻ hoài vọng nơi xa xôi để hướng tìm. Cũng có người
như Xuân Diệu “không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần. Chân bám rễ để hút mùa dưới đất”.
Chính nhà thơ cũng từng tâm sự: “Trong đời làm thơ của tôi trước Cách mạng, tôi chưa hề
120

nói đến cảnh tiên một lần nào, chỉ có một lần viết: “Chớ nên tiết kiệm, hỡi nàng tiên” thì
đây là cách gọi một người trần thế” [4, 214]. Số lượng bài thơ mang âm hưởng du tiên giai
đoạn này không rải đều cho các nhà thơ, mà chỉ tập trung vào mấy tác giả tiêu biểu như
Tản Đà, Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, Bích Khê, Hàn Mặc Tử. Nhưng nó vẫn cho thấy một
khuynh hướng, một cách thức lựa chọn rõ rệt nhằm giải thoát khỏi thực tại tầm thường.
Nhìn sang lĩnh vực âm nhạc thời kì này chúng ta sẽ thấy Văn Cao cũng nhấn phím tơ lưu
luyến, tìm nguồn hương duyên, tìm giải thoát cho những khắc khoải về phận người khi
hướng về chốn Thiên Thai. Nhạc phẩm Thiên Thai của Văn Cao là cơn khát nhớ cánh
bướm hoang đường từ một mùa xuân xa vắng. Và ở chốn tận cùng của niềm khao khát,
con người đã gặp được tình yêu mê đắm của mình. Vậy là cả nhạc và thơ đều có chung
một nhánh lựa chọn đề tài du tiên, đều được gợi ý từ thơ du tiên đời Đường và những
truyền thống khác.
4.2.3. Dòng riêng giữa nguồn chung
Dù cùng lựa chọn đề tài du tiên nhưng các nhà thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945
vẫn có những nét khác so với các nhà thơ đời Đường trong cách xử lí đề tài, cách đưa vấn
đề cơ bản vào tác phẩm và thông điệp mà nhà thơ muốn nói lên qua tác phẩm, thể hiện ở
phương tiện, mục đích du tiên và xu hướng thế tục hóa.
4.2.3.1. Phương tiện du tiên
Thi nhân đời Đường thường du tiên bằng hạc, bằng chim xanh, bằng mộng,
bằng ảo giác khi trèo lên đỉnh núi. Nếu thời Sơ, Thịnh Đường, thi nhân thường du tiên
thực, tức là leo núi tìm tiên, học tiên và ảo giác gặp được tiên khi đã lên đến đỉnh núi thì
đến thời Trung, Vãn Đường chủ yếu du tiên bằng mộng và trong mộng. Không còn khí
thế hăm hở đăng cao của con người thời Thịnh Đường, giờ đây các thi nhân tự đào sâu
hang mạch đáy lòng mình để tìm kiếm Thiên Thai, Bồng Lai tiên cảnh. Thi nhân Việt
cũng nhờ cánh chim tiên bắc cầu tơ tình mỏng mảnh (Tống biệt - Tản Đà), nhờ mộng nối
tiên và tục, trần thế và thiên đường (Mộng lạ - Bích Khê), nhờ núi như một phương tiện
hợp nhất người và trời (Ngũ hành sơn - Bích Khê). Đây là những phương tiện du tiên
quen thuộc trong thơ du tiên đời Đường, để lại âm hưởng trong thơ Việt Nam giai đoạn
1900-1945. Nhưng rõ ràng, thi nhân Việt giai đoạn này ít có hành vi leo núi, dù với tư
cách là ẩn sĩ tìm nơi tu luyện hay thi sĩ thưởng ngoạn danh lam. Trong số những bài thơ
mang âm hưởng thơ du tiên đời Đường giai đoạn này chúng tôi khảo sát được, chỉ có bài
Ngũ hành sơn (tiền, hậu) là vẫn chưa dứt khỏi sức mạnh truyền thống về phương thức du
tiên. Nghĩa là, từ việc lên chơi Ngũ hành sơn - một thắng cảnh, một hòn non nước, qua ảo
121

giác, khách du đã trở thành đạo sĩ chốn linh thiêng tôn giáo. Và một thế giới thần tiên lung
linh, huyền diệu hiện ra: “Trên nền sóng rung rinh. Những tiên nữ trắng tinh. Ngang thân
làn biếc khỏa”. Các nhà thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945 chủ yếu đào sâu vào chủ quan,
vẽ ra một thực tại trong mơ ước để thay thế thực tại bên ngoài. Họ phải nhờ những cơn
say nhân tạo như rượu, nhảy đầm, thuốc phiện, với sự phối hợp của âm nhạc, ánh
sáng, nhịp điệu, hương vị của thân xác, cơ chế sinh ảo giác do men và khói thuốc để
đạt tới cõi tiên. Đây là phương tiện du tiên mới “nhập cảng”, hiện đại hơn so với thi nhân
xưa nhưng qua đó cũng khúc xạ nỗi đau đớn của một thế hệ muốn sống có nghĩa lí, có
niềm tin mà không sao tìm kiếm nổi. Và Thế Lữ - người từng có những vần thơ tiên trong
sáng bậc nhất nhờ tiếng sáo Thiên Thai và chim hạc bắc cầu nối tiên và tục đến lúc này
cũng phải dựa vào men và khói thuốc để về lại chốn Đào nguyên năm nào: “Khói chiều
lên khói huyền lên. Mắt say đậu ở ngọn đèn dần lu. Tưởng bầu mây gió hư vô. Tưởng
vùng trăng lạnh mơ hồ đâu đây. Ở đâu ta ở chốn này. Nằm trong hờ hững gối tay vô tình.
Nhỏ to bạn hữu quanh mình. Trông ra vẫn có mà hình như không. Ưu tư rời bỏ cõi lòng.
Hình hài thoắt chốc bềnh bồng tiêu dao. Dật dờ trí thấp hồn cao. Thoáng qua ngàn cánh
áo đào thiên tiên” (Ma túy). Nhưng dù đằm mình trong dòng sông mê của men khói, Thế
Lữ cũng không còn đến được Đào Nguyên như Lưu Nguyễn thuở xưa: “Khói huyền lên,
khói huyền lên. Thuyền trôi lững thững: Đào nguyên đâu rồi?” (Ma túy). Tiêu biểu hơn cả
là trường hợp Vũ Hoàng Chương. Khi hai tập Thơ say (1940) và Mây (1943) của Vũ
Hoàng Chương ra đời, cái tôi cá nhân đã đi được một chặng đường khá dài. Những hăm
hở, sôi nổi ban đầu đã dần lui, nhường chỗ cho sự chán chường, uể oải. “Cái tôi cá nhân
cá thể của Vũ Hoàng Chương như anh chàng Từ Thức thuở nào, bị chặt đứt đường về với
Thiên Thai, với sự hợp nhất của bản thể, với cái ta, nên phải dùng các phương tiện nhân
tạo (rượu, thuốc phiện)” [82, 147]. Thuốc phiện được coi như một tình nhân, một “nàng
tiên má hồng nâu. Giúp đôi cánh biếc dâng sầu lên khơi”. Những bài thơ mang âm hưởng
du tiên của Vũ Hoàng Chương chính là được óng chuốt từ khói thuốc, men rượu, thậm chí
cả hương vị của thân xác. Vũ đắm chìm trong hương vị túy lúy cuồng ca để lấp đầy cái
thiếu hụt chống chếnh trong lòng (bài Nhớ quê nâu). Vũ nhờ hương vị của thân xác để đến
được Đào nguyên, đã tha thiết lắm, quấn quýt lắm nhưng vẫn rơi vào cảnh “đồng sàng dị
mộng” (bài Tối tân hôn, Động phòng hoa chúc). Vũ đến Đào nguyên bằng khói dìu, men
đẩy, mong tìm thấy cảnh trời mở cuối hang sâu, mong có được cái phong vị Lưu Nguyễn
nhập Thiên Thai nhưng Đào nguyên lạc lối: “Chiều nay nghe vang gọi tiếng quê hương.
Chút thiêng liêng sót lại của thiên đường. Gỡ dây trói sơ sinh cùng thể phách. Trên nẻo
122

hư vô mơ hồ chiếc bách. Khói dìu đi men đẩy phía sau khoang. Dần chơi vơi trong huyễn
mộng huy hoàng. Tưởng bay tới nơi dân Tần trốn giặc. Hỡi người xưa ngư phủ hỡi Đào
nguyên. Ta đêm nay say cũng lạc con thuyền” (Đào nguyên lạc lối). Vũ mượn tiên để nói
tục, để trốn cô đơn. Vũ Hoàng Chương là kẻ lạc loài mang trong mình khối cô đơn quá
khổ. Rồi đây, trong bài Cảm đề Hoàng Hạc lâu, chính ông sẽ phủ nhận tiên cảnh: “Đã
bao giờ có hạc vàng đâu, Mà có người tiên để có lầu. Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở.
Lầu Thôi Hiệu trước, Nguyễn Du sau. Hạc chưa thoát khỏi mê hồn kịch. Tiên vẫn nằm
trong vạn cổ sầu. Trăng gió hão huyền như khói sóng. Nồi kê đã chín nghĩ mà đau”. Vậy
là, dù phấn hương đàn sáo, dù “nhựa níu, men chào, tóc lả lơi”, dù hiện đại hơn trong
phương tiện du tiên, các thi nhân thời Thơ mới vẫn không vì thế mà đến được cõi Đào
nguyên. Những Thiên Thai sập cửa, những nẻo trần không lối và cõi Đào nguyên đã trở
thành hư ảnh quá xa trong đời người.
4.2.3.2. Mục đích du tiên
Không chỉ khác về cách thức thể hiện phương tiện du tiên, ngay trong mục đích du
tiên, các nhà thơ Việt Nam cũng không hoàn toàn đồng điệu với các tác giả đời Đường.
Thi nhân đời Đường du tiên vì những mục đích sau: Thứ nhất là thỏa mãn khát vọng
trường sinh bất lão. Thứ hai là thỏa mãn khát vọng tự do tuyệt đối, thoát lên tiên là để
tránh đời, trách đời, hóa giải những dồn nén của phận người (như nỗi khổ nơi hoạn lộ
quan trường, không được tự do phát triển tài năng, khắc phục sự hữu hạn của đời
người). Thứ ba là thỏa mãn tình yêu nam nữ. Trong đó, khát vọng trường sinh bất lão
đặc biệt nổi trội ở thời Sơ, Thịnh Đường. Thi sĩ thời thịnh trị chìm đắm trong những cuộc
vui ở thế gian, hơn ai hết là người thấu rõ cái mong manh, cái phù du đến tàn nhẫn của
cuộc đời. Và cất công đi tìm một phương thức giải thoát, lối đi vào bất tử đã hé mở trước
mắt: thi sĩ du tiên. Thơ du tiên đời Đường xuất hiện nhiều bài thể hiện khát vọng trường
sinh: “Lai vãng Thiên Thai, Thiên Mụ gian. Dục cầu chân quyết thứ suy nhan” (Qua lại
trong hai vùng Thiên Thai và Thiên Mụ. Muốn tìm ra phép màu để làm cho mặt đừng già
nữa) (Tảo phát Thiên Thai Trung Nham tự, độ Quan Lĩnh, thứ Thiên Mụ sầm - Hứa Hồn);
“Cửu từ vinh lộc tọa sơ y. Tằng hướng trường sinh thuyết tức kì” (Đã lâu muốn từ chối
tước lộc cao sang, mặc tấm áo xưa. Từng mong chuyện sống lâu, bàn thuật tu tiên) (Tống
Hạ Giám quy Tứ Minh ứng chế - Lí Bạch). Thơ du tiên Lí Bạch là sự thăng hoa của những
khát vọng, mà khát vọng lớn nhất là được trường sinh để tiếp tục hưởng đời. Ông tin
tưởng nơi cõi tiên mình có thể trút được cái “ngoại xác”, hòa đồng cùng vạn vật, trở thành
con người của ngàn năm: “An đắc sinh vũ mao. Thiên xuân ngọa Bồng khuyết” (Sao có
123

thể sinh lông cánh. Nghìn năm nơi Bồng Lai) (Thiên Thai hiểu vọng), sẽ giữ được dung
nhan muôn đời không tàn tạ: “Tiếu ngã vãn học tiên. Sa đà điêu chu nhan” (Tiên (Thái
Bạch) cười ta chậm học tiên. Sa đà (nơi trần giới) làm dung nhan tàn tạ) (Du Thái Sơn lục
thủ, bài 3), có thể vượt ra khỏi vòng sinh tử, hữu hạn về không, thời gian để trường tồn và
phóng khoáng như trời đất (Cổ phong bài 7, bài 11). Nếu khát vọng trường sinh bất lão
chủ yếu xuất hiện ở thời Sơ, Thịnh Đường thì khao khát hóa giải những dồn nén của phận
người và thỏa mãn tình yêu nam nữ lại chủ yếu xuất hiện ở thời Trung, Vãn Đường, thể
hiện đậm đặc trong thơ du tiên Lí Hạ, Lí Thương Ẩn, Tào Đường.
Thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945 nói về tư tưởng thần tiên chủ yếu ở giai
đoạn Trung, Vãn Đường, giai đoạn tư tưởng thần tiên đã được thế tục hóa nhiều.
Theo tác giả Trần Lê Bảo: “Trong thơ Việt Nam thời kì này ít thấy có những bài ca ngợi
luyện đan uống thuốc, khát vọng trường sinh bất tử, mà phần lớn các nhà thơ mượn tiên
để nói tục, để thể hiện khát vọng tình yêu” [9, 38]. Họ du tiên không phải vì mục đích tôn
giáo mà chỉ mượn cảnh ấy để gửi gắm ước mơ, để trốn cô đơn. Nói cách khác, sự tiếp thu
đó đã thay đổi theo khuynh hướng sáng tác lãng mạn chủ nghĩa trong một giai đoạn lịch
sử đặc thù. Tản Đà du tiên vì thèm xê dịch, thèm được sống theo tiếng gọi của cảm hứng,
của một khách chơi muốn hưởng thụ vẻ đẹp của cuộc đời: “Trông khắp trần gian hết thú
chơi. Thèm trông con hạc nó lên trời” (Trông hạc bay). Nhưng không chỉ vì lí do đơn giản
ấy mà còn vì thất bại trong khoa cử, đổ vỡ trong tình duyên, bất hòa sâu sắc với thực tại
nên ông ôm ấp khát vọng thoát li: “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi. Trần thế em nay chán
nửa rồi. Cung quế đã ai ngồi đó chửa. Cành đa xin chị nhắc lên chơi” (Muốn làm thằng
Cuội); “Văn ế bao giờ cho bán đắt. Chán đời lắm lúc muốn lên tiên” (Lo văn ế). Đặc biệt,
giấc mơ yêu đương chỉ được thực hiện trọn vẹn, bệnh phong tình chỉ được thỏa mãn khi
Tản Đà thần du cõi trời. Ông lên tiên không phải để tìm thuốc trường sinh mà để tìm giai
nhân. Không có được giai nhân của mình trong đời thực, không gian tiên, mộng là nơi để
Tản Đà được sống và nếm trải những hương sắc ngọt ngào của thế giới tình yêu. Ông
không chịu khép mình vào khuôn khổ mà dám bộc bạch không chút dấu diếm cái tôi tục
lụy, đa tình: “Tình riêng trăm ngẩn mười ngơ. Ngồi buồn lấy giấy viết thơ hỏi giời. Xem
thơ giời cũng bật cười. Cười cho hạ giới có người oái oăm. Khách hà nhân giả? Cớ làm
sao suồng sã dám đưa thơ. Chốn thiên cung ai kén rể bao giờ. Chi những sự vẩn vơ mà
giấy má. Chức Nữ tảo tùng giai tế tá. Hằng Nga bất nại bão phu miên. Mở then mây
quăng giả bức hồng tiên. Mời khách hẵng ngồi yên trong cõi tục” (Giời mắng). Dám gạ
gẫm ông trời cho làm rể chốn tiên cảnh Bồng Lai thì thật là ngông ngạo. Không hiếm lần
124

Tản Đà buồn trông, vọng nguyệt, nhờ hạc vàng chuyên chở giấc mơ phong tình, tri kỉ tới
tận Hằng Nga: “Hạc kia bay bổng tuyệt vời. Hỏi thăm cung Nguyệt có người trọ không”
(Trông hạc bay). Cuộc chơi tình ái được ông quán thông lên tận thiên đình, để được sống
với tất cả những gì mình khát khao, mơ ước chứ không phải sống tròn vo và đạo đức bề bề.
Chốn thiên tiên trong thơ văn Tản Đà do được nhìn qua lăng kính phong tình ân ái nên
luôn sống động như cõi phàm trần (như trong Giấc mộng con 2). Cái kiểu luồn lách vào
mọi ngõ ngách tính nết trong con người mình, dám sống hết mình với xúc cảm yêu đương
ấy của Tản Đà rồi đây sẽ được các nhà Thơ mới tiếp lửa và tiếp tục du hành vào cõi mộng,
cõi tiên. Nó đã hiển linh trong thơ Đông Hồ, với niềm mơ ước của đôi tình nhân son trẻ
được lên chốn Thiên Thai để hưởng nguồn hạnh phúc vô biên và tuổi xuân muôn đời bất
diệt: “Cung nguyệt lầu mây ta với ta. Làm đôi tiên khách ở Thiên Thai. Ngàn xuân thu vẫn
còn xinh trẻ. Cười cợt hoa chiều giỡn gió mai”. Nó còn được thể hiện trong thơ Thế Lữ,
với dáng vẻ thẹn thùng, e ấp như cô dâu mới về nhà chồng, đưa tình nhân lên tiên giới chứ
chưa dám viết về họ trong thế giới trần tục: “Âm thầm ta lại bảo cô rằng. Mặt đất mênh
mang biết mấy chừng. Em có yêu ta thì gắng đợi. Đem lòng mà gửi lên cung trăng. Ở
chốn đường khơi ta nhớ em. Thì lòng ta sẽ hóa ra chim. Bay lên lưu luyến bên cung
nguyệt. Sẽ ngỏ cho nhau thấu nỗi niềm” (Tiếng gọi bên sông). Và trong trời thơ nước Việt
thuở ấy, còn có Hàn Mặc Tử giải tỏa ẩn ức khát vọng yêu đương bằng cách chạy vào
những giấc mộng siêu thoát. Trong Duyên kì ngộ và Quần tiên hội đầy ắp những mơ màng
của cặp uyên ương Quỳnh Tiên và Huyền Tiên trên cõi tiên. Chàng Từ Thức xứ Quy
Nhơn đã tìm thấy tình yêu lí tưởng ở chốn nước non thanh tú với nàng tiên nga xinh đẹp
tuyệt trần tên gọi Thương Thương. Những lần chơi trên trăng, Hàn thường cảm nhận vườn
tiên qua lăng kính phong tình ân ái: “Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát. Để nhờ không khí
đẩy trăng lên. Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi. Để hớp tinh anh của Nguyệt Cầu.
Và để thoát li ngoài thế giới. Để cười để trửng để yêu nhau. Lên chơi cung quế lần đầu.
Ôi phép lạ, ôi nhiệm màu. Vườn tiên sáng láng như lòng người thương” (Chơi trên trăng).
Thơ Hàn thể hiện khao khát của chàng thi sĩ mơ về tiên nữ Hằng Nga trên cung quế (Bài
Uống trăng), những nàng tiên kiều diễm xinh đẹp thấp thoáng trong chốn Đào nguyên và
suối Ngọc Tuyền (bài Chưa hết yêu). Trong bài văn xuôi tuyệt bút Chơi giữa mùa trăng,
Hàn còn thể hiện cảm hứng thần tiên qua ảo giác về chốn nước Nhược non Bồng, động
phủ thần tiên ngày xưa còn sót lại và ý thức đi tìm dấu tích gì lưu lại vết chân của Đào
nguyên tiên nữ.
125

Như vậy, không phải tất cả các đặc trưng thẩm mĩ của thơ du tiên đời Đường đều
để lại âm hưởng trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945. Các nhà thơ Việt Nam thời kì
này chỉ lựa chọn những gì phù hợp với họ. Khát vọng trường sinh bất lão đã từng là niềm
rung cảm ở những những thi nhân như Lí Bạch nhưng không còn làm xao động những nhà
thơ như Tản Đà, Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương... Điều này có thể giải thích từ hai nguyên
nhân: trước hết là do tâm thức của người Việt từ ngàn xưa đến giờ luôn chú trọng đời
sống hàng ngày, ít tư tưởng siêu hình, không thần bí, không chú ý tới tâm linh siêu việt
mà chỉ phổ biến lối sống nặng về tâm linh dân dã. Họ ít chú ý tới cõi tiên, cõi mộng, cõi tu
hành, đi tu thường vì chán đời, vì có những bất hạnh ở đời chứ ít khi vì theo đuổi những
giáo lí cao siêu, thần bí. Người Việt không quá coi nặng chuyện du tiên, nếu có lên tiên thì
chỉ là để siêu thoát chính sự chứ không phải siêu thoát cuộc đời. Họ không chạy theo cảnh
sống trường sinh bất tử. Trong văn học không hay xuất hiện nội dung du tiên như văn học
Trung Quốc. Nếu có (như giai đoạn 1900-1945 mà chúng tôi đang bàn tới) thì cũng chỉ
như một cách thức để thể hiện những điều cần thổ lộ, chứ không nhằm mục đích ca ngợi
lối sống xa rời cuộc đời. Ngoài ra, chính bối cảnh xã hội giai đoạn 1900-1945 với những
bế tắc, thất vọng cũng không tạo sự hưng phấn để họ khao khát trường sinh bất lão mà
hưởng đời mãi mãi như các thi nhân giai đoạn Sơ, Thịnh Đường. Tản Đà, Thế Lữ, Hàn
Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương... nói đến mộng, đến tiên chỉ như một cách giải tỏa
những bất hạnh và giới hạn riêng tư, chứ không hẳn là coi cõi tiên như một thế giới lí
tưởng, để có thể sống với điều đó. Đề tài du tiên trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945
mang âm hưởng của thơ du tiên đời Đường nhưng đã được khúc xạ qua lăng kính chủ
quan của nghệ sĩ, phù hợp với tâm thức người Việt và hoàn cảnh thời đại này.
4.2.3.3. Xu hướng thế tục hóa
Đây là xu hướng chủ yếu của thơ du tiên Trung, Vãn Đường, đã được chúng tôi cụ
thể hóa trong chương 3. Thơ du tiên Việt Nam giai đoạn 1900-1945 cũng mang âm hưởng
ấy. Tản Đà mơ màng mà vẫn không quên chuyện cơm áo, nói chán đời mà không bao giờ
hết bàn về sự đời. “Cho dẫu có lên trời hoặc chu du vào bao cõi mộng, thơ Tản Đà vẫn
không bứng chúng ta ra khỏi đời thực. Thơ Tản Đà mê mà lại rất tỉnh trong những cảm
nhận thế sự về thần tiền, khóc tết, về cảnh buôn văn bán chữ, về những lận đận hoặc túng
quẫn của sự mưu sinh” [58, 397]. Trong một chuyến hầu trời, ngoài việc thể hiện tài năng
văn chương của mình, Tản Đà còn trần tình với Trời về tình cảnh khốn khó của kẻ theo
đuổi nghề văn ở hạ giới: “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó. Trần gian thước đất cũng
không có. Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều. Vốn liếng còn một bụng văn đó. Giấy người,
126

mực người thuê người in. Mướn cửa hàng người bán phường phố. Văn chương hạ giới rẻ
như bèo. Kiếm được đồng lãi thực rất khó. Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều. Làm mãi
quanh năm chẳng đủ tiêu. Lo ăn lo mặc hết ngày tháng. Học ngày một kém tuổi ngày cao”
(Hầu Trời). Hóa ra, tiên giới đâu chỉ kích thích Tản Đà du ca về cái đẹp vĩnh hằng mà còn
là nơi Tản Đà “tự nhiên, thành thực cùng một chút say sưa” kể về cảnh khổ của mình. Cõi
tiên trong thơ Tản Đà không hề xa cõi tục. Lồng trong không gian phi thực tại là không
gian thực tại, đặt vấn đề giải quyết câu chuyện trong cuộc sống hiện tồn: câu chuyện về
con người và nghề văn trong buổi giao thời. Đến cõi tiên để nói chuyện đời, xu hướng ấy
còn xuất hiện trong những bài thơ viết về các hang động. Thời trung đại, Lê Quý Đôn và
Trịnh Sâm đã từng có hai bài Đề động Từ Thức nổi tiếng. Tuy nhiên, nếu hai bài thơ ấy
chủ yếu là miêu tả (đề vịnh) thì bài Phỏng Từ Thức động của tác giả Nguyễn Khắc Niêm
(sáng tác vào khoảng cuối năm 1941, đầu năm 1942) lại thực sự là một tác phẩm vịnh hoài:
“Phiêu phiêu tiên lữ phỏng Đào nguyên. Khước thị trần gian vị liễu căn. Vinh lộc dĩ cam
từ huyện ấn. Ái tình do tự lụy tiên hôn. Nghê thường ảm đạm triêu vân cảnh. Thạch nhũ
lâm li dạ nguyệt hồn. Tiếu ngã đương đồ quy khứ vãn. Tương phùng động khẩu tịch vô
ngôn” (Lâng lâng đi tới cõi tiên để thăm nguồn Đào. Mới thấy khó dứt lời thề với trần
gian. Đã cam bỏ vinh lộc treo ấn từ quan. Thế mà tình yêu vẫn còn vương vấn với duyên
tiên. Xiêm nghê ảm đạm như bóng mây sớm. Thạch nhũ đầm đìa dưới hồn trăng đêm. Tự
cười mình bước hoạn lộ về quá chậm. Nay gặp gỡ nhau trước cửa động đành yên lặng
chẳng biết nói năng gì) (Võ Hồng Phi dịch). Qua bài thơ, có thể chỉ ra dấu vết của khá
nhiều tác phẩm trong kho tàng văn học cổ điển Trung Quốc và Việt Nam như Thiên Thai
phỏng ẩn lục (Thăm người ở ẩn chốn Thiên Thai) của Cù Hựu, Lưu Nguyễn du Thiên Thai
của Tào Đường, Từ Thức tiên hôn lục (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên) trong Truyền kì mạn
lục của Nguyễn Dữ, một số bài thơ của Đào Tiềm, đặc biệt là bài Quy khứ lai hề từ. Bài
thơ có xuất hiện cảnh tiên (động Từ Thức, nguồn Đào), người tiên (Từ Thức, tiên nữ,
đành rằng xuất hiện gián tiếp qua dòng tự sự, bình luận của tác giả). Có lẽ, nhìn cõi tiên từ
cửa ngõ cuộc đời nên phát hiện của tác giả về câu chuyện Từ Thức và tiên nữ Giáng
Hương rất thú vị: nhấn mạnh tính chất bi kịch, mâu thuẫn khó gỡ ở Từ Thức, thoát khỏi sự
liên lụy này (quan trường) lại rơi vào mối liên lụy khác (tình ái), tính chất thế tục hóa của
tiên nữ (Giáng Hương lấy Từ Thức là vì “bảy tình chưa sạch”, “hình ở phủ tía nhưng lụy
vương duyên trần”). Nói cách khác là lên tiên (Từ Thức), làm tiên (Giáng Hương) mà vẫn
nặng lòng trần. Cũng chính vì cảm nhận theo chiều hướng ấy nên tác giả, dù đến thăm
động Từ Thức - một tiên cảnh giữa trần gian, dù tư thế trữ tình cũng như Từ Thức “lâng
127

lâng đi tới cõi tiên để thăm nguồn Đào”, dù tả cảnh động thật lãng mạn, phong tình (tả
cảnh mà như thấy thấp thoáng áo đào thiên tiên) nhưng cuối cùng vẫn không du tiên thật,
không lâng lâng thoát xác, không đắc đạo triết lí siêu hình nào khác mà tỉnh táo quay nhìn
lại lòng mình. Và điểm giống nhau giữa tác giả và Từ Thức cũng chỉ là chuyện “quy khứ”
ấy thôi. Bài thơ dùng cảnh Đào nguyên, cảnh tiên để nói chuyện trần gian, để bộc lộ tâm
tình thế sự. Tất nhiên không phải là tâm tình, khao khát được gặp tiên (vì chính tác giả đã
nhận thức rất rõ bi kịch tình tiên - duyên tục của Từ Thức trong bốn câu đầu) mà là vấn đề
“quy khứ” sớm hơn để ít sai hơn, để thanh thản nhiều hơn.
Thế tục hóa trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945 không chỉ thể hiện ở phương
diện các nhà thơ lên tiên nói chuyện đời mà còn thể hiện qua hình ảnh tiên nhân được
phàm hóa cao độ. Thực ra, ngay từ trong truyền kì Việt Nam đã có xu hướng trần tục hóa
thần tiên. Mô típ người trần lấy tiên trong truyền kì Việt Nam chủ yếu bắt đầu từ tình tiết
tiên nữ giáng trần chứ không phải nam phàm lạc vào cõi tiên. Như các truyện Nữ thần ở
Vân Cát, Cuộc gặp gỡ kì lạ ở Bích Câu (Truyền kì tân phả - Đoàn Thị Điểm), Một dòng
chữ lấy được gái thần (Thánh Tông di thảo). Các truyện trên đều có điểm chung là nhấn
mạnh khía cạnh đời thường của các tiên nữ. Trong bài Hầu trời của Tản Đà, ông trời và
chư tiên không còn là nhân vật tối cao vô thượng mà cũng như những người phàm trần
khác: “Văn dài hơi tốt ran cung mây. Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay. Tâm như nở dạ,
cơ lè lưỡi. Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày. Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng. Đọc
xong mỗi bài cùng vỗ tay”. Dưới ngòi bút tác giả, trời và chư tiên chẳng có gì đạo mạo,
khó gần, mà nói những câu rất đời, rất ngộ, biểu hiện cảm xúc theo một cung cách rất đỗi
bình dân: lẽ lưỡi, chau mày, lắng tai đứng, vỗ tay, bật buồn cười, tranh nhau dặn... Quan
hệ giữa tác giả và chư tiên xem ra cũng suồng sã, thân mật. Chư tiên gọi nhân vật trữ tình
là anh (Chư tiên ao ước tranh nhau dặn. Anh gánh lên đây bán chợ Trời). Lần đầu tiên
gặp tiên mà tác giả tưởng như đã quen từ trước (Ước mãi bây giờ mới gặp tiên. Người tiên
nghe tiếng lại như quen). Ngay trong một bài thơ du tiên được xem là thoát nhất, ảo nhất
của thời kì này là Tiếng sáo Thiên Thai thì hình ảnh tiên nhân cũng không hoàn toàn siêu
thoát. Giai điệu sáo tiên cớ sao lại “tiếng đưa hiu hắt”, người tiên sao lại thiếu vẻ hân hoan
thoát tục, cũng biết buồn như người trần: “Ngọc Chân buồn tưởng tiếng lòng xa bay”. Mơ
cõi tiên là một cách tỏ thái độ chán ghét cõi trần. Thế Lữ buồn ngay cả khi đã thoát lên
tiên. Những tâm tình của thi nhân được khúc xạ vào tận chốn Bồng Lai tưởng chỉ có tiếng
cười điệu hát. Chốn Thiên Thai ấy đâu còn bằng an. Tiên nữ buồn hay chính là nỗi lòng
128

của thi sĩ? Thế Lữ đã gửi lên đây nỗi buồn xa vắng, hiu hắt của một cái tôi cô đơn khi tự
nhìn vào lòng mình. Xem ra cõi tiên ấy không xa cõi trần là mấy.
Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng văn minh phương Tây nên các nhà thơ Việt Nam
giai đoạn này còn đi xa hơn so với những thi nhân đời Đường, dám nói đến nhục cảm
ngay giữa cõi thanh sạch, nơi hoa tiên chưa gặp bướm trần gian. Thực ra, đam mê nhục
cảm cũng là một cảm hứng chính đáng của cái tôi. Và đóng góp lớn nhất của văn học lãng
mạn Việt Nam là xác lập và đề cao cái đẹp thể chất của con người. Điều này phóng chiếu
cả vào mảng thơ du tiên. Ngay từ hồi đầu thế kỉ, Tản Đà đã nhìn tiên nhân qua lăng kính
phong tình ân ái. Tuy vậy, cái tôi Tản Đà mới chỉ là đêm trước của cái tôi Thơ mới. Thơ
du tiên Tản Đà về cơ bản vẫn còn kín đáo. Phải đến phong trào Thơ mới, vẻ đẹp thân xác
mới không còn là một vùng cấm, mà được thức dậy, được sống động ở nhục thể, ở da thịt,
ở ân ái. Nhìn tiên nữ bằng cái nhìn nhục cảm, cái đẹp khỏa thân trong thơ Thế Lữ đã
không còn là viễn cảnh xa xăm, mà được quay từ góc nhìn cận cảnh: “Hồ trong như ngọc
tấm thân ngà. Lồ lộ da tiên phô sắc hoa. Mỉm miệng anh đào tan tác rụng. Tóc buông vờn
mặt nước say sưa” (Vẻ đẹp thoáng qua). Xiêm áo tiên nga đã gửi cho tre trúc giữ hộ,
khiến chim khúc khích hoài và gió thì không ngừng vi vút. Trong bài Tiếng sáo Thiên
Thai, bức tranh tiên cảnh vừa cổ kính, siêu phàm với bóng dáng “hai con hạc trắng bay về
Bồng Lai” vừa rất hiện đại với những rung động trước cái đẹp của thân hình tiên nữ: tiên
nga xõa tóc, Ngọc nữ uốn mình. Những chàng Lưu Nguyễn thời nay trong thơ Vũ Hoàng
Chương khi nhớ tới tiên nữ cũng đọng lại ấn tượng da thịt rưng rưng: “Gối tuyết lạnh lùng
thêm cợt nhắc. Màu da ngà nõn cánh tay ai” (Hận rừng mai). Nhưng phải đến Bích Khê,
khoái cảm nhục thể mới thật sự mạnh mẽ, vẻ đẹp thân xác của tiên nữ mới thật sự được
đặt lên ngôi thần. Trong bài Nghê thường, thi sĩ dựng nên một không gian tràn sóng trăng,
sóng nhạc, cuốn ta vào cơn lốc của mộng ảo, của huyền diệu, của những nhịp điệu mê mải,
say sưa. Sự xuất hiện của tiên nữ thật “liêu trai”, mờ ảo, và đặc biệt là được Bích Khê cảm
bằng mùi thơm da thịt: “Này muôn ngọc nữ ngớp ý thường. Tóc quyện hay mùi tô hợp
hương. Uốn mình say lượn sóng xiêm nghê. Khúc Phụng Cầu Hoàng say đê mê”. Giữa
không gian tiên cảnh, Bích Khê còn phát hiện ra hình ảnh nàng Xuân Hương ngực để trần.
Hình như với thi sĩ này, những gì liên quan đến nhục thể là đáng ca ngợi, đáng được đưa
vào thơ. Trước khi thấy “một người thiếu nữ hiện trong trăng”, thi nhân đã ngửi thấy
“thơm tho mùi thịt bắt say ngà” (Hiện hình). Và khi hồn nhập mộng thì cái lạ của thi nhân
không phải bởi gặp các nàng “giai nhân hiện dưới bóng Hằng Nga” mà chính ở phát hiện
đột ngột: “Ôi đi đoàn tiên lột khỏa thân. Hoan hô xác thịt chiếm ngôi thần” (Mộng lạ).
129

Thế là tiên đã trở thành người trần, mộng đã trở thành thực, thơ tiên đã thành thơ phàm.
Phải vậy chăng mà thi nhân như giục giã lòng mình tìm đến cõi tiên, cướp thời gian,
cướp mây trời, hớp lấy nhạc, lấy hương, lấy xuân chín nõn nà trên môi để thỏa lòng
khách đa tình mười phương phiêu lãng. Cõi tiên trong thơ Bích Khê cũng chẳng khác
cõi phàm, còn người thơ thì tự thú hồn thơ mình mất cả đồng trinh trước những hình tiên
nga gợi lòng đắm say mê luyến: “Hồn tôi mất cả đồng trinh. A ha! Mê luyến những hình
tiên nga. Bao giờ cho mộng nở hoa. Bao giờ xuân chín nõn nà trên môi. Để tôi đi cướp
mây trời. Vén ra cho thấy một vài nường tiên. Ô coi! Hồn đương say nghiền. Đã nư
khoái lạc trong miền chiêm bao!” (Mơ tiên). Cõi tiên lúc này, nói như Hoài Thanh, thật
sự “đã cùng cõi trần Âu hóa”.
Tóm lại, mặc dù khác biệt về thời đại, bản chất của cái tôi trữ tình không hoàn toàn
giống nhau nhưng các nhà thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945 đã tìm thấy ở các nhà thơ
Đường sự đồng điệu trong khao khát giải phóng, du hành tinh thần đến cõi tiên để được
sống với cái tôi đích thực của mình. Và chính trong quá trình tiếp nhận ấy, các nhà thơ đã
bộc lộ được dòng riêng giữa nguồn chung, thể hiện bản sắc Việt Nam.
4.3. Từ ngữ, hình ảnh tƣợng trƣng ƣớc lệ
Cùng một đề tài nhưng mỗi thời đại lại có một cách nói, giọng nói riêng, thể hiện
qua hệ thống từ ngữ, hình ảnh trong tác phẩm. Ngôn từ Thơ Đường thường mang tính
tượng trưng ước lệ. Để có thế nói thật ít mà vẫn gợi thật nhiều, lời đã hết mà ý vô cùng,
các nhà thơ không ngại ngần sử dụng một phương tiện có hiệu lực là ước lệ. Chúng ta
thường bắt gặp trong thơ Đường nhiều từ có tính chất ước lệ, những hình ảnh hàm chứa
nhiều tầng nghĩa sâu xa: màu dương liễu (biểu tượng của sự chia li), tiếng chày đập áo
(âm thanh gợi niềm thương nhớ người thân nơi phương trời giá lạnh), lá ngô đồng rụng
(tín hiệu báo thu về), ngọn núi (phương tiện nối tiên và tục, sự kiên định, vĩnh hằng),
mây (biểu tượng của sự siêu thoát, lánh đời và thời gian vũ trụ miên viễn), dòng sông
(gợi nỗi niềm cảm khái về sự trôi chảy)... Riêng trong mảng thơ du tiên, những từ ngữ,
hình ảnh tượng trưng ước lệ như nguồn đào, chim hạc, suối tiên, mây hồng, tiếng tiêu
tiếng sáo, tiên nga xõa tóc, Ngọc Nữ uốn mình... thường xuyên xuất hiện. Những từ ngữ,
hình ảnh ấy đã thâm nhập vào tâm thức người Việt, lặn sâu trong vô thức cộng đồng,
thành yếu tố nội tại của văn hóa dân tộc. Và cũng đã từ lâu nó được nhập vào kho thi
liệu dân tộc, ngủ yên trong vô thức nhà thơ. Đến một lúc nào đó nó thức dậy, và nhà thơ,
bằng ngôn ngữ tuyệt vời của mình, đã nói ra điều đó, tức hữu thức hóa cái vô thức trên
nền cộng cảm chung. Thậm chí, những từ ngữ, hình ảnh này được các nhà thơ tiếp nhận
130

một cách dễ dàng không chỉ vì trên nền cộng cảm chung, mà dường như có sẵn trong
mỗi người. Sau đây chúng tôi sẽ tập trung phân tích bốn hình ảnh tiêu biểu của thơ du
tiên đời Đường đã để lại âm hưởng đối với các nhà thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945
khi miêu tả thế giới thần tiên.
4.3.1. Hạc vàng
Trong quan niệm của người phương Đông, hạc là loài chim thiêng, sống lâu không
thể tính. Người Nhật Bản tin rằng hạc sống được hàng nghìn năm. Vì vậy người ta thường
tặng các cụ già những bức họa hay đồ khắc có hình con hạc. Còn trong đức tin của người
Trung Quốc, hạc là loài chim huyền thoại, biểu tượng cho sự bất tử, cùng với các vị thần
tiên bay lên cõi tiên. Không như phượng hoàng - loài chim thần cao quý, cao quý đến mức
hoàng đế cũng phải bái vọng nó, nói gì đến chuyện dám cưỡi nó, hạc là vật cưỡi thông
thường của các vị thần tiên. Thơ du tiên đời Đường và những bài thơ Việt Nam giai đoạn
1900-1945 mang âm hưởng du tiên không hiếm những lần xuất hiện hình ảnh con người
du tiên bằng hạc. Và đến với tiên cảnh cũng có nghĩa là đến với thế giới của hạc nội mây
ngàn. Đây cũng chính là điểm khác biệt giữa hình ảnh chim xanh và hạc vàng. Nếu chim
xanh thuần túy là phương tiện, là cánh chim tiên nâng chở giấc mơ thần tiên thì hạc vàng
vừa là phương tiện nối tiên và tục, vừa là biểu tượng của sự bất tử, sự thanh khiết, thoát
tục. Với chức năng phương tiện, hạc vàng bắc cầu tơ tình mỏng mảnh nối tiên với tục,
trần thế với thiên đường. Hạc vàng biến giấc mơ thần tiên của con người thành sự thực,
dù đó chỉ là sự thực của huyền thoại, sự thực nằm trong đức tin của mỗi người. Có một lần
Thôi Hiệu dừng chân ở lầu Hoàng Hạc, thi sĩ bắt đầu từ tên lầu mà hạ bút, cảm truyền
thuyết mà thành thơ: “Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ. Thử địa không dư hoàng hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản. Bạch vân thiên tải không du du” (Người xưa đã cưỡi
hạc vàng đi mất rồi. Nơi đây vẫn còn trơ lại lầu Hoàng Hạc. Hạc vàng một lần bay đi
không trở lại. Mây trắng nghìn năm cứ trôi mênh mang) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Sách
Hoàn vũ ký ghi là Phí Hồi từ lầu này cưỡi hạc lên tiên nên gọi là lầu Hoàng Hạc. Từ
không (chuyện người xưa cưỡi hạc vàng bay đi) thành có (dấu tích lầu Hoàng Hạc), rồi từ
có lại thành không (hạc vàng bay đi không trở lại, chỉ còn lầu Hoàng Hạc trống trải và
mây trắng ngàn năm thao thiết chảy hoài). Nhà thơ tư duy bằng quan hệ còn - mất, tiên -
tục, hiện hữu - hư vô. Thời gian đời người cuốn trôi vào bất tận, nhưng từ xưa, hôm nay
và có lẽ mãi về sau, huyền thoại về hạc vàng vẫn làm rung động lòng người và chắp cánh
cho con người gửi mơ ước trường sinh thành tiên vào loài chim tuyệt mĩ ấy. Tản Đà hồi
đầu thế kỷ đã phải thảng thốt khi nhận ra sự đành đoạn, phũ phàng, dứt khoát, đẩy cõi tiên
131

vào xa lắc qua động thái “bay lên vút tận trời” của hạc vàng: “Cái hạc bay lên vút tận trời.
Trời đất từ đây xa cách mãi” (Tống biệt). Và có lẽ, cũng do ý thức hạc vàng là sứ giả thần
tiên nên đã có lần Tản Đà gửi gắm khao khát lên tiên qua hình ảnh vàng tung cánh hạc ấy:
“Hạc kia bay bổng tuyệt vời. Hỏi thăm cung nguyệt có người trọ không” (Trông hạc bay).
Không chỉ là phương tiện nối tiên và tục, hạc vàng còn là biểu tượng của sự
cao khiết và bất tử. Nói đến hạc vàng là chúng ta liên tưởng ngay đến cõi tiên, nơi con
người được trút bỏ mọi ưu phiền, thảnh thơi, thoát tục: “Tùng cao bạch hạc miên” (Hạc
trắng ngủ trên cành thông cheo leo) (Tầm Ung tôn sư ẩn cư - Lý Bạch), “Lời oanh trên
liễu, yến bên hồng. Hạc ở trong không, phụng dưới tùng. Bỗng chốc cùng nhau cao

tiếng họa. Đờn tiên rộn rã khắp tiên cung” (Vẻ đẹp thoáng qua - Thế Lữ). Và khi nẻo

đường hạnh phúc đã đóng, dấu viết tiên nga đã xóa nhòa cũng là khi cánh hạc vàng
không còn bay bổng, như trong bài Lưu Nguyễn tái đáo Thiên Thai bất phục kiến chư
tiên tử của Tào Đường: “Vân hạc tiêu điều tuyệt cựu lân” (Bóng mây bóng hạc vắng vẻ
ở xóm cũ hoang vu).
4.3.2. Nguồn đào
Cùng với hạc vàng, nguồn đào góp phần làm cho hệ thống hình ảnh liên quan đến
chốn Bồng Lai trong thơ du tiên đời Đường thêm phong phú, thiêng liêng. Có lẽ Đào
Uyên Minh trong Đào hoa nguyên ký là người đầu tiên sáng tạo nên thung lũng suối hoa
đào với ý nghĩa tượng trưng cho thế giới tự do. Văn nhân từ đời Đường về sau cũng hay
lạc lối nguồn đào (trong thể truyền kì và thơ du tiên) nhưng không phải chỉ để tìm đến
suối nguồn tự do và ẩn dật mà còn tượng trưng cho tình yêu. Trong quan niệm của người
phương Đông, hoa là kết tinh phẩm của trời đất, hoa đào là kết tinh phẩm của cõi cao
khiết. Tiên cảnh, Bồng Lai tượng trưng cho sự thanh sạch mà dường như chỉ nhắc tới
nguồn hoa, nguồn đào cũng đủ gợi về một cõi lí tưởng: “Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai”
(Tống biệt - Tản Đà); “Ôi lòng ta khao khát tới Đào nguyên. Hỡi xứ thanh tao thế giới hư
huyền” (Đào nguyên lạc lối - Vũ Hoàng Chương). Ở đây, “nguồn hoa”, “nguồn đào” là sự
kết hợp của hai yếu tố “nước” và “đào”. Hình ảnh dòng nước luôn đi đôi với hình ảnh hoa
đào nơi tiên giới: “Tu tựu Đào Nguyên vấn chủ nhân” (Hãy tới nguồn đào hỏi thăm chủ
nhân) (Lưu Nguyễn du Thiên Thai - Tào Đường); “Lưu thủy đào hoa mãn giản hương”
(Hoa đào trên dòng nước chảy mùi thơm khắp suối) (Tiên tử động trung hữu hoài Lưu
Nguyễn - Tào Đường); “Hương đầy suối, cánh đào trôi. Men khe cát trắng cỏ thôi bơ sờ”
(Hai tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn - Bích Khê). Đạo giáo quan niệm hoa là biểu tượng của sự
132

đắc đạo. Sự nở hoa là kết quả của cuộc luyện đan bên trong, của sự thống nhất, kết hợp
giữa tinh thần và hơi thở, giữa nước và lửa. Hoa đào tượng trưng cho sự giác ngộ tự
nhiên, là biểu hiện của cái không thể diễn đạt và đạt đến độ minh triết. Nhắc cây gợi
nhớ đến rừng, nhắc tới hoa đào không thể không nhắc tới tích vườn đào của Tây Vương
Mẫu, năm trăm năm mới ra quả một lần, ai ăn vào là có thể bất tử. Với ý nghĩa đó, hoa
đào còn tượng trưng cho sự bất tử. Đào tiên là thuốc tiên, thuốc trường sinh của Tây
Vương Mẫu. Các vị tiên nuôi sống mình bằng hoa đào. Cây đào được đồng nhất với cây
đời bất tử ở vườn địa đàng, sự tới đích của hành trình thụ pháp. Nguồn đào tượng trưng
cho dòng thời gian tiên cảnh bất biến, không bị hư vô hóa trước vật đổi sao dời: “Hoa
đương động khẩu ưng trường tại” (Hoa ở lại cửa động còn tươi mãi) (Tiên tử tống Lưu
Nguyễn xuất động - Tào Đường). Nguồn đào tượng trưng cho dấu tiên, lần theo dấu tiên
mà tìm đến chốn thanh thản của lòng mình: “Ngư chu trục thủy ái sơn xuân. Lưỡng ngạn
đào hoa giáp cổ tân” (Thuyền chài trôi theo nước, yêu cảnh xuân miền núi. Hai bên bờ,
hoa đào liên tiếp đến tận bến cũ) (Đào nguyên hành - Vương Duy); “Theo lối hoa về rảo
bước lên. Chân đưa lần đến cảnh thần tiên” (Mưa hoa - Thế Lữ). Hoa đào là sứ giả báo
tin xuân vì hoa đào thường nở sớm, là tín hiệu gợi nhắc sự tuần hoàn của mùa xuân. Xuân
tiên giới chính là xuân không mùa, xuân vĩnh viễn, thể hiện khát vọng về một miền tuyệt
đích, về tình yêu không phai tàn, vạn vật chẳng phôi pha.
4.3.3. Sáo tiên
Đây cũng là hình ảnh thường xuất hiện trong thơ du tiên đời Đường, với hai ý
nghĩa tiêu biểu: là phương tiện môi giới cho con người bay lên cõi tiên và tượng trưng
cho chính cõi tiên ấy. Truyền thuyết Trung Hoa về Tiêu Sử, Lộng Ngọc cũng từng ca
ngợi tính năng siêu nhiên của tiếng sáo, nó tạo nên một luồng gió nhẹ, những đám mây
ngũ sắc và đưa đôi trai gái chung tình lên cõi tiên. Trong thơ du tiên Lí Bạch, Lí Hạ, Tào
Đường, thứ nhạc tiên này thường gắn liền với nhân vật Tiêu Sử, Lộng Ngọc, Vương Tử
Kiều: “Vương Tử xuy sênh nga quản trường. Hô long canh yên chủng dao thảo” (Vương
Tử Kiều thổi ống sáo dài có hình như con ngỗng. Gọi rồng cấy cày trong khói để trồng
những loài cỏ ngọc) (Thiên thượng dao - Lí Hạ).
Khảo sát những bài thơ mang âm hưởng du tiên trong thơ Việt Nam giai đoạn
1900-1945, chúng tôi thấy các nhà thơ cũng hay dùng hình ảnh tiếng sáo để miêu tả chốn
tiên cảnh Bồng Lai. Đó có thể là tiếng vọng từ không trung xa lắc, mời gọi con người trở
về hợp nhất với bản thể, với cảnh Đào nguyên: “Những thanh âm nhạc điệu chửa từng
nghe. Đầy nhớ thương tha thiết gọi ta về” (Tối tân hôn - Vũ Hoàng Chương), là ảo giác du
133

tiên với hình ảnh yên bình và thanh thản: “Tiên đồng bước giữa hoa. Mục đồng lưng trâu
cưỡi. Thổi sáo bên rừng mai. Động huyền không bốc khói” (Ngũ hành sơn - Bích Khê).
Đặc biệt, trong tập Mấy vần thơ của Thế Lữ, âm thanh tiếng sáo môi giới cho thi nhân
thoát du vào ảo giác, kêu gọi từng hình thể xa vời trở về đối thoại. Tiếng sáo quấn quýt
với bầu trời, tầng mây, ngọn gió, nâng tâm hồn thi sĩ lên không gian vời vợi: “Tiếng địch
thổi đâu đây. Cớ sao nghe réo rắt? Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt. Mây
bay...gió quyến mây bay. Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt. Như hắt hiu cùng hơi
gió heo may” (Tiếng trúc tuyệt vời). Âm thanh réo rắt, trong trẻo ấy chính là nhạc của trời,
là tiếng nói của các thiên thần vọng xuống nhân gian. Tiếng sáo “gợi hình ảnh về sự trở về
với trạng thái thiên đường” [12, 441]. Trong thơ Thế Lữ, tiếng sáo bắc cầu tơ tình mỏng
mảnh nối tiên với tục. Say theo tiếng nhạc lãng đãng, thi sĩ dường như đã thoát khỏi lực
hút trọng trường của cái thực, bay vào chốn hư không thanh khiết. Đến Tiếng sáo Thiên
Thai thì âm thanh ngọt ngào, trong trẻo không chỉ còn là phương tiện môi giới cho hồn thi
nhân nhập mộng mà đã trở thành bản thân thế giới ấy: “Theo chim tiếng sáo lên khơi. Lại
theo dòng suối bên người Tiên Nga. Khi cao vút tận mây mờ. Khi gần vắt vẻo bên bờ cây
xanh. Êm như lọt tiếng tơ tình. Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không”. Vũ trụ dường
như đang nín thở để ngân mãi khúc nhạc thiều lung linh, kì ảo. Thế Lữ đã âm thanh hóa
không gian thành muôn ngàn cung bậc chơi vơi, dìu dặt, đã tạo cho mình một Thiên Thai
từ tòa kiến trúc thanh âm, để rồi ngỡ ngàng say luôn chốn Thiên Thai ấy, “ngày không
muốn hết, ta không muốn về”.
4.3.4. Suối tiên
Trong hệ thống hình ảnh của thơ du tiên đời Đường, nếu núi và hạc vàng chủ yếu
được xếp vào nhóm hình ảnh chỉ phương thức du tiên thì nguồn đào và suối tiên chủ yếu
thuộc nhóm hình ảnh chỉ không gian tiên cảnh. Thực ra sự phân định trên đây cũng chỉ
mang tính chất tương đối, vì bản thân hình ảnh hạc vàng, như chúng tôi đã phân tích ở
trên, vừa có ý nghĩa là phương tiện nối tiên và tục, lại vừa tượng trưng cho cõi tiên. Hoặc
như hình ảnh suối tiên, vừa có thể xếp vào nhóm hình ảnh chỉ không gian, vừa có thể xem
nó thuộc hình ảnh chỉ thời gian. Vì suối thực chất là một dạng tồn tại của nước, nơi các
tiên nữ thường xuống tắm, mở đầu cho những cuộc tình duyên tiên - trần. Suối, khe đều là
những biến thể của nước. Hình ảnh suối tiên trong thơ du tiên đời Đường và thơ mang âm
hưởng du tiên của Việt Nam giai đoạn 1900-1945 trước hết tượng trưng cho sự thanh
khiết, là sản phẩm độc đáo của chốn Bồng Lai: “Phi tuyền quải bích phong” (Dòng suối
tuôn treo lưng chừng ngọn núi biếc) (Phỏng Đái Thiên sơn đạo sĩ bất ngộ - Lý Bạch); “Lá
134

đào rơi rắc lối Thiên Thai. Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi” (Tống biệt - Tản Đà).
Chính tính chất thanh khiết làm cho nước còn là một phương tiện thanh tẩy. Trong nghi lễ
của các thầy phù thủy, các đạo sĩ, nước được dùng làm công cụ thanh tẩy, có hiệu lực xóa
bỏ mọi lỗi lầm và vết nhơ. Phải vậy chăng mà thi nhân mỗi lần tìm đến chốn ẩn dật đều
thấy lòng thanh thoát, nhẹ nhàng, tự tại, an nhàn như được gột rửa mọi bụi bặm phàm trần?
Nước là cội nguồn của mọi sự cao khiết. Trở về với nước là trở về với cội nguồn. Việc
quy thủy (đưa về với nước) của các nhà luyện đan Trung Hoa có thể coi là sự quay trở về
trạng thái nguyên sơ, trạng thái phôi thai. Thi nhân trong khi lắng nghe lời gọi về nguồn,
từ đáy thẳm tâm hồn cũng vọng lên âm thanh róc rách của nước: “Ỷ thụ thính lưu tuyền”
(Dựa cây nghe tiếng suối chảy) (Tầm Ung tôn sư ẩn cư - Lý Bạch). Nước thuộc âm (đối
lập với núi thuộc dương). Nước sâu thể hiện sự tăm tối. Với ý nghĩa này nước còn trở
thành một vật chất nuôi dưỡng mộng mị để thi nhân thoát du vào ảo giác: “Suối quanh
co bờ đá dựng cheo leo. Sườn bích lập nâng cao trần thạch nhũ” (Đào nguyên lạc lối - Vũ
Hoàng Chương); “Yên hà bất tỉnh sinh tiền sự. Thủy mộc không nghi mộng hậu thân” (Ở
chốn khói mây không còn biết đến việc trước. Trông có nước, cứ ngỡ mình vừa tỉnh cơn
mơ) (Lưu Nguyễn du Thiên Thai - Tào Đường). Khói, dòng nước là những khiếm thể
không minh định, đóng vai trò hữu hiệu trong việc nuôi dưỡng mộng mị cho con người.
Vì mộng mị có thể hợp nhất người và trời, tiên cảnh và trần gian, sự hợp nhất mà con
người luôn luôn khao khát. Và phải chăng khi ngọn lửa của khát vọng bốc cao, dường như
muốn thiêu đốt tất cả thì theo ngũ hành tương khắc, chỉ có nước và những thể đồng tính
với nước là có khả năng làm nguôi dịu được hiện thực?
Nước chảy liên tục, không dứt tượng trưng cho dòng thời gian vô thủy vô chung.
Thời gian tiên cảnh trôi chậm, dường như không vận động trong cảm quan của người trần
quay trở lại Thiên Thai: “Đào hoa lưu thủy y nhiên tại” (Chỉ hoa đào và dòng nước chảy
vẫn còn như cũ) (Lưu Nguyễn tái đáo Thiên Thai bất phục kiến chư tiên tử - Tào Đường);
“Hương đầy suối, cánh đào trôi. Men khe cát trắng, cỏ thôi bơ sờ” (Hai tiên nữu nhớ Lưu
Nguyễn - Bích Khê). Trong thơ du tiên, hình ảnh nước chảy thường đi đôi với hình ảnh
hoa đào, tạọ nên cảnh “đào hoa lưu thủy” say đắm lòng người. Nhưng có khi dòng nước
và hoa đào lại tạo nên cặp hình ảnh đối xứng giữa tiên và tục, vĩnh viễn và vô thường:
“Hoa lưu động khẩu ưng trường tại. Thủy đáo nhân gian định bất hồi” (Hoa ở lại cửa
động vẫn còn mãi. Nước chảy về cõi trần chắc không quay lại) (Tiên tử tống Lưu Nguyễn
xuất động - Tào Đường). Lão Tử trong Đạo đức kinh đã miêu tả hình ảnh nước lẳng lặng
mà vận hành, âm thầm mà uốn nắn tất cả. Nước chảy đá mòn, mềm thắng cứng, nhu thắng
135

cương. Dòng nước - dòng thời gian trần thế cuồn cuộn chảy, có sức công phá mãnh liệt
đường nét, màu sắc, âm thanh và lòng người.
Tuy nhiên, trong lần tiếp biến này, hình ảnh suối tiên đã trở nên đa âm hơn khi
được “cấy” vào một chỉnh thể nghệ thuật mới. Biến thể của suối là hồ. Không gian hồ
chính là thiên đường trên mặt đất, là con mắt của thiên nhiên, của đất đai. Đó cũng là
“cung điện trong lòng đất, đầy kim cương, đồ nữ trang, pha lê, từ đó xuất hiện các nàng
tiên, các mụ phù thủy, các nữ thần sông núi” [12, 994]. Hình ảnh hồ xuất hiện với tần số
cao trong thơ mang âm hưởng du tiên của Thế Lữ. Đến với hồ, người lữ khách đi ngang
qua trần thế nhằm “thấy hình tiên ngay giữa đám trần gian”, tìm kiếm vẻ đẹp thiên tiên
qua tấm gương soi của mặt đất: “Hôm qua đi hái mấy vần thơ. Ở mãi vườn tiên gần Lạc
hồ. Cảnh tĩnh, trong hoa chim mách lẻo. Gió đào mơn trớn liễu buông tơ. Nước mát hơi
thu thắm sắc trời. Trời xanh, xanh ngắt đượm hồng phai. Ái ân, bở cỏ ôm chân trúc. Sau
trúc, ô kìa! Xiêm áo ai? Rẽ lá thi nhân bước lại bên. Mấy vòng sóng gợn mặt hồ yên.
Nhởn nhơ vùng vẫy ba cô tắm. Dưới khóm hoa quỳnh lá biếc xen. Hồ trong như ngọc tấm
thân ngà. Lồ lộ da tiên thô sắc hoa. Mỉm miệng anh đào tan tác rụng. Tóc buông vờn mặt
nước say sưa” (Vẻ đẹp thoáng qua). Hồ gợi về những giấc mơ xa, gắn liền với những cổ
tích, huyền thoại về các nàng tiên nữ thường xuống hồ tắm, khởi đầu cho những cuộc tình
duyên tiên trần. Phải chăng vì từng có những lần, qua ảo giác, tác giả chụp bắt được vẻ
đẹp thoáng qua của các nữ tiên nên khi cái đẹp bay đi không còn dấu vết đã để lại một trời
đất ngẩn ngơ, tiếc nuối: “Hoa lá cùng bay bướm lượn qua. Người tiên biến mất - khách
trông ra. Mặt hồ nước phẳng nghiêm như giận. Một áng hương tan khói tỏa mờ”. Dấu
gạng ngang (-) chia câu thơ thành hai vế đối lập giữa tiên nữ và khách trần. Đó cũng là
khoảng cách giữa đời và mộng.
Tóm lại, giá trị của một nền văn hóa thường được kết tinh lại trong các hình ảnh,
biểu tượng. Và văn học là sự thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật các hình ảnh, biểu
tượng văn hóa đó. Những hình ảnh tượng trưng ước lệ như hạc vàng, nguồn đào, sáo tiên,
suối tiên giúp chúng ta hiểu hơn về văn hóa du tiên của người Trung Quốc, về khát vọng
trường sinh, phương thức du tiên và quan niệm về một thế giới đào nguyên được họ gửi
gắm qua những vần thơ tuyệt mĩ này. Khi đi vào thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945,
những hình ảnh tượng trưng ước lệ ấy vừa được củng cố thêm tính chất, ý nghĩa vốn có
vừa được gia tăng ý nghĩa mới như những biến thể suối - hồ đã phân tích ở trên.
4.4. Điển tích, điển cố
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Điển tích là câu chuyện trong sách đời trước được dẫn
136

lại một cách cô đúc trong tác phẩm. Còn điển cố là sự việc hay câu chữ trong sách đời
trước được dẫn lại trong thơ văn” [64, 308]. Việc sử dụng lại điển tích, điển cố trong tác
phẩm mới nhằm tăng cường sức biểu hiện, mở rộng, đổi mới ý thơ. Thơ Đường chuộng
dùng điển cố. Điều này vừa cho thấy đặc trưng tư duy trung đại, nhìn mọi sự việc hiện tại
từ góc nhìn hôm qua, vừa cho thấy ý thức rõ ràng của các nhà thơ khi xem việc vận dụng
điển cố như một biện pháp hữu hiệu nhằm tăng sức biểu đạt của ngôn ngữ thơ, tăng tính
cô đọng, hàm súc, ít lời nhiều ý.
Thơ mới là một hình thức diễn ngôn nghệ thuật mới. Diễn ngôn Thơ mới chống lại
diễn ngôn thơ Đường và thơ ca cổ điển Việt Nam như một sự phủ định lịch sử, phá tung
mọi sự mòn sáo để đi đến tận cùng cảm xúc, cảm giác. Những điển tích điển cố được xem
là trò chơi sang trọng của thơ Đường phải nhường ngôi cho thứ ngôn ngữ lấy nguyên từ
đời sống, đánh thức tức thì khả năng giao cảm của người đọc. Song không thể phủ nhận,
những điển tích, điển cố xuất hiện trong thơ du tiên đời Đường vẫn trầm tích sâu nặng
trong những bài thơ Việt Nam mang âm hưởng du tiên giai đoạn 1900-1945. Qua khảo sát
chúng tôi thấy nổi bật lên những điển cố gắn liền với địa danh và những điển cố gắn liền
với nhân vật.
4.4.1. Những điển tích, điển cố gắn liền với địa danh
Trong thơ du tiên đời Đường, những địa danh như Bồng Lai, Phương Trượng,
Doanh Châu, Dao Trì, Thiên Thai, những không gian như cung quế, đào nguyên, nhược
thủy, non đào thường xuyên xuất hiện. Những địa danh có thật hoặc không thật, những
không gian thấm đẫm mùi vị tiên hương thần sắc ấy cũng không ít lần xuất hiện trong thơ
Việt Nam giai đoạn 1900-1945. Này là Nhược Thủy, Thiên Thai: “Ngòi Nhược Thủy bao
quanh. Suối Thiên Thai chảy dựng” (Ngũ hành sơn - Bích Khê); “Dắt dìu nhau lạc vào
nơi tuyệt cảnh. Mười lăm nhà riêng chiếm một Thiên Thai” (Đào nguyên lạc lối - Vũ
Hoàng Chương); “Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai” (Tống biệt - Tản Đà); “Thiên Thai trở lại
tìm ai. Thôi thời cửa động đã cài then hoa” (Lưu Nguyễn vào Thiên Thai - Tản Đà). Này
là Bồng Lai: “Chàng đứng lặng để tâm hồn mê đắm. Vẩn vơ theo mây khói vẩn vơ trôi.
Trong hoa hương nơi giấc mộng Bồng Lai” (Hoa thủy tiên - Thế Lữ); “Ta cũng như nàng.
Cảnh mộng chốn Bồng Lai đâu nhớ tới” (Tối tân hôn - Vũ Hoàng Chương); “Trời cao
xanh ngắt - ô kìa! Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai” (Tiếng sáo Thiên Thai - Thế Lữ).
Rồi những non Ngọc, đài Dao, Diêu Trì cũng đi vào thơ: “Lòng này gởi Hán Vân có được.
Xin gởi về non Ngọc, đài Dao” (Giọt lệ trích tiên - Bích Khê); “Lại đưa đến Diêu Trì thuở
trước. Hội Bàn Đào chén ngọc rời tay” (Giọt lệ trích tiên - Bích Khê). Địa danh Hoàng
137

Hạc lâu cũng là tên gọi được nhắc đến nhiều trong thơ Việt Nam giai đoạn này. Bích Khê
đã viết cả một bài thơ đề tên Hoàng Hạc lâu, trong đó có câu: “Hạc vàng vút cánh về đâu
tá? Có phải bay về Hoàng Hạc lâu?”. Vũ Hoàng Chương lại sử dụng điển cố này theo
kiểu phản đề, đối thoại ngầm ẩn: “Đã bao giờ có hạc vàng đâu. Mà có người tiên để có
lầu” (Cảm đề Hoàng Hạc lâu).
Những địa danh này thường gắn với những câu chuyện, những sự việc lí thú, hấp
dẫn xa xưa. Chẳng hạn, chỉ cần nhắc tới Hoàng Hạc lâu là gợi cho chúng ta nghĩ tới
truyền thuyết về Phí Văn Vi từ nơi này cưỡi hạc vàng lên tiên và từng có người tiên đến
nơi này (Tử An). Hay địa danh Thiên Thai cũng gợi nhắc về câu chuyện Lưu Thần,
Nguyễn Triệu vào núi Thiên Thai hái thuốc, gặp tiên, kết duyên cùng tiên nữ. Trong số
những địa danh kể trên, có những địa danh có thực nhưng đã được huyền thoại hóa, như
Thiên Thai vốn là tên một ngọn núi ở phía bắc huyện Thiên Thai, tỉnh Triết Giang, khi đi
vào thơ đã trở thành không gian tượng trưng cho cõi tiên. Hoàng Hạc lâu là tên một cái
lầu trên mỏm Hoàng Hạc Cơ, núi Hoàng Hạc (còn gọi là núi Xà Sơn) thuộc huyện Vũ
Xương, tỉnh Hồ Bắc, khi vào thơ trở thành một di chỉ thần tiên. Có những địa danh hoàn
toàn không có thật, nhưng ăn sâu vào tâm thức con người và hiện hình trong thơ sống
động như thật (như Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu, Dao Trì, Nhược Thủy...).
Thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945 khi nhắc tới những địa danh ấy thường gợi ra cả một
trường liên tưởng về cõi tiên, nơi có ngày tháng rất dài và những người đẹp muôn đời, nơi
hạnh phúc là điều có thật và tự do không chỉ còn là điều mơ ước.
4.4.2. Những điển tích, điển cố gắn liền với nhân vật
Ngoài những điển tích, điển cố gắn liền với địa danh, thơ Việt Nam giai đoạn
1900-1945 còn xuất hiện những điển tích, điển cố gắn liền với nhân vật. Không khó để có
thể lẩy ra đây những nhân vật từng xuất hiện trong thơ du tiên đời Đường và để lại âm
hưởng trong thơ Việt Nam giai đoạn này. Như tiên nữ Hằng Nga: “Diễm lệ Hằng Nga
bước xuống đền. Điệu ca thần diệu vẳng đưa lên” (Nghê thường - Bích Khê); “Mộng sao
mộng lạ - trắng như ngà. Giai nhân hiện dưới bóng Hằng Nga” (Mộng lạ - Bích Khê).
Như hai chàng Lưu Nguyễn: “Sương mai đèn gió mơ hồ. Sông đành không chốn hỏi đò
Lưu Lang” (Hai tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn - Bích Khê); “Lưu Thần, Nguyễn Triệu hai
người. Rủ nhau vào núi Thiên Thai một ngày” (Lưu Nguyễn vào Thiên Thai - Tản Đà).
Hay như Chức Nữ: “Chức Nữ tảo tùng giai tế tá. Hằng Nga bất nại bão phu miên” (Giời
mắng - Tản Đà); “Văn dài hơi tốt ran cung mây. Trời nghe trời cũng lấy làm hay. Tâm
như nở dạ, cơ lè lưỡi. Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày” (Hầu Trời - Tản Đà).
138

Những điển tích, điển cố mà các nhà thơ Việt Nam tiếp thu trên đây đều mang
tính phổ thông. Chúng ta không cần phải tra cứu cầu kì mới hiểu được, cảm được những
gì tác giả muốn gửi gắm, giãi bày và thường chỉ đóng vai trò bổ sung chứ không quyết
định được ý thơ. Thực tế, bảng hệ thống điển cố nhân vật trong thơ du tiên đời Đường
dày đặc những cái tên như An Kì Sinh, Thường Nga, Tiêu Sử, Lộng Ngọc, Đông
Phương Sóc, Xích Tùng Tử, Tây Vương Mẫu, Lưu Thần Nguyễn Triệu, Chức Nữ, Vệ
Thúc Khanh, Ma Cô, Lan Hương thần nữ, ... Nhưng không phải tất cả những điển cố
nhân vật ấy đều có mặt trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945. Chỉ những cái tên
quen thuộc, dễ gợi ra trường liên tưởng và gần gũi với nếp cảm, nếp nghĩ của Việt Nam
như Hằng Nga, Chức Nữ, Lưu Nguyễn là hay được các nhà thơ lựa chọn. Chẳng hạn,
khi Tản Đà muốn bày tỏ ước ao muốn làm thằng Cuội thì ngay lập tức, cái tên được
nhắc tới là Hằng Nga. Tiếng nói của nhân vật trữ tình được đặt vào không khí đối thoại,
vừa phân cách vừa thống nhất với tiếng nói khác (chị Hằng), có tác dụng giúp chủ thể
bộc bạch mọi ngõ ngách trong con người mình. Cái tôi bấy lâu phải rụt rè, nép kín giờ
đây được ngọn gió thời đại tiếp sức bỗng xốn xang tách vỏ và thành thực tỏ bày một
cách rất ngông ngạo, phong tình: “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi. Trần thế em nay chán
nửa rồi. Cung quế đã ai ngồi đó chửa. Cành đa xin chị nhắc lên chơi”. Điều này cho
thấy, tâm thức dân tộc đóng vai trò quan trọng ngay cả trong cách lựa chọn và tiếp thu
hệ thống điển tích, điển cố của thơ du tiên đời Đường.
Ngoài ra, cũng cần phải kể đến những điển tích, điển cố gắn liền với sự kiện như
hội bàn đào (hội ăn tiệc đào tiên của Tây Vương Mẫu: “Lại đưa đến Diêu Trì thuở trước.
Hội Bàn Đào chén ngọc rời tay” (Giọt lệ trích tiên - Bích Khê); khúc Nghê Thường (chỉ
nhạc vũ ở cõi tiên). “Theo Dị văn lục, đêm trung thu, Đường Minh Hoàng được đạo sĩ đưa
lên chơi cung trăng, thấy đoàn tiên nga mặc áo trắng và xiêm màu cầu vồng múa dưới gốc
cây quế theo một điệu nhạc trong trẻo não nùng. Khi trở về trần thế, Đường Minh Hoàng
bèn cho phỏng theo điệu nhạc ấy mà chế tác ra khúc nhạc Nghê thường vũ y” [dẫn theo 38,
247]. Điển cố khúc Nghê thường khi đi vào văn học luôn gợi ra ý niệm về cõi tiên. Chẳng
hạn trong Hồng Đức quốc âm thi tập có câu: “Chẳng còn nhớ đến khúc Nghê thường. Một
phút chiêm bao một phút thương”. Đó là sự mất mát của hạnh phúc. Sau này, thi sĩ Bích
Khê trong bài Hai tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn cũng mượn điển cố ấy để nhấn vào sự vỡ tan
của hạnh phúc vốn đã tròn đầy giữa tiên nữ và phàm nam: “Khúc Nghê vắng tựa lâu rồi.
Mộng tiên dài dặc mộng người biết đâu”. Đặc biệt, trong bài Nghê thường, thi sĩ đã vận
dụng điển cố này để triển khai thành một bài thơ theo sự dắt dẫn của âm nhạc. Tác giả bị
139

mê hoặc bởi nhạc tính của những câu thơ không được tổ chức theo lối luân phiên thanh
điệu. Bài thơ chủ yếu là vần bằng, chỉ điểm xuyết một vài thanh trắc, mà vẫn không tạo
cảm giác sần sượng, vẫn như trôi đi trong nhịp điệu mê mải, say sưa, ru hồn thi sĩ cùng
nàng thơ lên cung quảng thăm Hằng Nga giữa một không gian tràn sóng trăng, sóng nhạc:
“Diễm lệ Hằng Nga bước xuống đền. Điệu ca thần diệu vẳng đưa lên. Chúng ta lạc giữa
mộng như ngà. Ngỡ vướng vào muôn tơ lụa sa”. Khúc Nghê thường lúc này đóng vai trò
dẫn dụ người thơ lạc vào một thế giới huyền diệu, từ đó mà khám phá những xúc cảm sâu
kín trong tâm hồn.
Không thể phủ nhận, đến đầu thế kỉ XX ở Việt Nam, ý thức dùng điển phần nào đã
phôi pha, không còn hợp với người hiện đại. Nhưng những điển cố xuất hiện dày đặc
trong thơ du tiên đời Đường và một phần trong số đó đã đi vào thơ Việt Nam giai đoạn
1900-1945. Tư duy và mĩ cảm của các thi nhân vẫn gọi về những dấu ấn cổ xưa để nói hộ
tâm tư, tình cảm của mình một cách kín đáo.
4.5. Cấu tứ bài thơ dựa trên các mối quan hệ
Âm hưởng của thơ du tiên đời Đường trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945
không chỉ thể hiện ở cấp độ hình thức với những biểu hiện có thể quan sát được như từ
ngữ, hình ảnh, điển tích, điển cố mà còn thể hiện ở những phương diện trừu tượng hơn
như cấu tứ. Cấu tứ là cách thể hiện tứ thơ, cách tổ chức ý tưởng, tức là làm cho ý hóa thân
vào hình, hình và ý gặp nhau, đúng như hình dung của Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long:
“Cái kì diệu của việc cấu tứ (nghĩa đen của tứ là nghĩ ra, phát hiện một cái gì) là làm cho
tinh thần nhà văn hòa mình (du, nghĩa đen là chơi đùa) với cái tồn tại khách quan bên
ngoài” [32, 77]. Cấu tứ thể hiện sự khám phá cuộc sống một cách độc đáo của từng nhà
thơ trong từng bài thơ. Cấu tứ là linh hồn của tác phẩm, cung cấp một thế đứng, thế nhìn,
cách cảm nhận để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Do ảnh hưởng triết
học cổ đại Trung Quốc, trong đó có cách nhận thức từ các mặt đối lập của Lão Tử, lối tư
duy đặt dấu bằng giữa các hiện tượng đối lập của Trang Tử và yêu cầu của hình thức thể
loại thơ nhỏ bé, các nhà thơ đời Đường khi phản ánh cuộc sống đã không chạy theo lối
miêu tả mà chủ yếu gợi tả, dựng lên các mối quan hệ để cho độc giả tự luận ra dụng ý của
tác giả từ những mối quan hệ đó. Cái gọi là vẽ mây nảy trăng, ý ở ngoài lời, ý đến mà bút
không đến, lời hết mà ý vô cùng trong thơ Đường chính là xuất phát từ cơ sở này. Trong
thơ Đường, không chữ nào, không ý thơ nào được viết ra mà không nằm trong một quan
hệ. Thế giới hình tượng được quy chiếu vào trục quan hệ tiên - tục, mộng - thực, động -
140

tĩnh, bất biến - thường biến, hữu hạn - vô cùng... Từ các mối quan hệ này, người đọc có
thể khám phá ra bản chất sâu kín của hiện tượng cùng những kì thú của nghệ thuật thơ.
Kiểu tư duy quan hệ làm nên sự độc đáo trong cấu tứ thơ Đường. Lựa chọn đề tài
du tiên, các thi nhân cũng không nằm ngoài cách thức tư duy đó. Thực tế cho thấy do
cùng ảnh hưởng của một kiểu tư duy mang tính thời đại, nhiều khi các nhà thơ đã có
những phát hiện giống nhau về sự vật, từ đó xây dựng nên những tứ thơ rất gần nhau. Tạo
dựng mối quan hệ tiên - tục, động - tĩnh, thực - hư, còn - mất không phải là mô hình cấu
tứ riêng của thơ du tiên đời Đường nhưng xuất hiện với tần số cao trong mảng thơ này và
để lại âm hưởng trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945.
4.5.1. Quan hệ tiên - tục
Thi nhân vốn không tự bằng lòng, luôn muốn tìm trong cuộc sống giấc mộng hồng
lâu, tìm trong vô thường đóa hoa bất tử. Không hiếm lần các thi nhân đời Đường đã du
tiên bằng tưởng tượng, mộng ảo. Và tứ thơ lớn xuất hiện trong những bài thơ du tiên ấy
được xây dựng trên sự đối lập triệt để giữa tiên và tục. Tiên giới trong thơ họ thật đẹp, có
tiếng đàn ca xênh phách rộn ràng, những vị tiên đi trên những con đường ngạt ngào hương
hoa quế. Nhưng từ cõi tiên nhìn về cõi tục, từ thiên đường hướng về trần thế, bản nhạc du
ca lại đã vọng lên rồi tình điệu buồn thương: “Hoàng trần thanh thủy tam sơn hạ. Canh
biến thiên niên như tẩu mã. Dao vọng Tề châu cửu điểm yên. Nhất hoằng hải thủy bôi
trung tả” (Bụi vàng nước trong rất nhiều dưới ba ngọn núi. Ngàn năm biến đổi nhanh như
ngựa chạy. Từ thiên cung nhìn xuống chín châu giống như một chấm khói. Và nước biển
sâu thăm thẳm cũng chỉ giống như dòng rượu từ trong li rót ra) (Mộng thiên - Lí Hạ)
(Huỳnh Ngọc Chiến dịch). Giữa không gian tiên cảnh rộng lớn, khuôn mặt trần gian chỉ
còn như hạt bụi, như những chấm khói. Và nếu thời gian tiên cảnh trôi chậm, kéo dài,
thậm chí như ngừng trôi thì thời gian nơi trần thế lại nhanh như ngựa chạy, làm đổi thay
vóng vót mọi đường nét, màu sắc, âm thanh, thậm chí cả lòng người. Những chiêm
nghiệm ấy còn được thể hiện trong những câu thơ của Tào Đường: “Nhất bách niên trung
thị nhất xuân. Bất giao nhật nguyệt triếp di luân” (Trong vòng một trăm năm mới là một
mùa xuân. Bởi không để bánh xe mặt trời mặt trăng di chuyển nhanh). Đó là một ảo ảnh
bi đát, bởi được một ngày trên tiên giới thì phải bỏ lại bao đời trần thế. Cực đại hàm chứa
cực tiểu, cực tiểu soi mình trong cực đại. Cõi tiên trở thành tấm gương soi “một cõi nhân
gian bé tí”. Qua lăng kính mộng ảo, hiện thực cuộc đời không được trang hoàng để thêm
phần lung linh, lộng lẫy mà càng được bóc trần, khám phá tới tận thâm cung. Có một lần,
Lý Bạch ngỡ mình từ nay được như con đại bàng tung cánh, tự do vẫy vùng giữa trời xanh
141

rộng lớn, như con hạc vàng nằm ngủ ở làng tiên, nhưng ảo giác chẳng nhiệm màu vĩnh
viễn. Khi trèo lên núi Thiên Thai - một ngọn núi tiên nổi tiếng trong truyền thuyết Lưu
Thần - Nguyễn Triệu gặp tiên, tâm tình của người học tiên vẫn không chuyên chú vào
duyên kì ngộ, cũng chẳng theo đuổi cái thời gian nửa năm tiên cảnh bằng bảy đời trần thế
nữa mà hướng vào cảnh thương tâm trước mắt: “Vân thùy đại bàng phiên. Ba động cự
ngao một” (Mây rủ đại bàng chao đảo. Sóng lớn cá lớn chìm) (Thiên Thai hiểu vọng). Hay
khi trèo lên đỉnh núi Liên Hoa, Lí Bạch tự do tay cầm phù dung, cũng cưỡi chim hồng,
cũng nhàn nhã dạo giữa trời mây, gặp nàng tiên phất áo nghê thường, mời ông lên chơi
cõi tiên và yết kiến Vệ Thúc Khanh lão tổ. Nhà thơ cảm thấy hồn mình như thoát khỏi
cảnh trần tục. Nhưng rồi sự bất trị của ý thức khiến thế giới trần gian cứ nặng nề hắt bóng
lên thơ du tiên: “Phủ thị Lạc Dương châu. Mang mang tẩu hồ binh. Lưu huyết đồ dã thảo.
Sài lang tận quán anh” (Bỗng nhìn sông núi Lạc Dương. Quân Hồ lố nhố, phố phường
nghênh ngang. Áo xiêm rặt lũ sói lang. Máu trôi thấm đẫm xóm làng đồng quê) (Cổ
phong, bài 19) (Nguyễn Khắc Phi dịch). Bài thơ này sáng tác năm 756 - năm đầu của cuộc
binh biến An - Sử, khiến nhà thơ không thể hoàn toàn làm ngơ trước vận mệnh quốc gia.
Lý Bạch mượn chuyện du tiên để nói lên những thảm cảnh do quân An Lộc Sơn gây ra.
Điểm nhìn của nhà thơ từ trên cao xuống, thu vào tầm mắt hiện thực thời đại mình. Đâu
còn những minh tinh tiên nữ dạo gót trong mây, chỉ thấy quân Hồ lố nhố, lũ sói lang làm
máu trôi đỏ nước. Siêu thế trở thành đầu mối để nhận chân trần thế, thiên đường chỉ là ảo
ảnh tạo khả năng nhận diện sâu sắc, thậm chí bi đát hơn về cõi thực là cuộc đời này. Thực
và mơ, say và tỉnh, thiên đường và trần thế lồng thấu trong nhau và soi tỏ lẫn nhau. Cõi
tiên vừa như một thấu kính hội tụ những gì có thực trong khát vọng, vừa như một bức ảnh
ảo mà nhìn ở góc độ này người ta thấy được hiện thực của ước mơ, ở góc độ kia lại chính
là thực tế được bóc trần.
Khi cầm bút, nhiều nhà thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945 đã kế thừa kiểu cấu tứ
này của thơ du tiên đời Đường làm cho bài thơ đậm đà phong vị Đường thi. Tiêu biểu là
Tống biệt của Tản Đà: “Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai. Suối tiễn oanh đưa luống ngậm
ngùi. Nửa năm tiên cảnh. Một bước trần ai. Ước cũ duyên thừa có thế thôi. Đá mòn rêu
nhạt. Nước chảy huê trôi. Cái hạc bay lên vút tận trời! Trời đất từ nay xa cách mãi. Cửa
động. Đầu non. Đường lối cũ. Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng soi”. Mối quan hệ tiên - tục
không còn được tạo dựng bởi điểm nhìn từ trên cao xuống như thường thấy trong các bài
thơ du tiên đời Đường, mà được xác lập qua hành trình tống biệt, qua tâm trạng của kẻ ở,
người đi. Tản Đà đã nhìn người tiên từ điểm nhìn khách tục, nhìn cảnh tiên từ cửa ngõ
142

cuộc đời. Góc nhìn đặc biệt này đã khiến cảm hứng hiện thực chi phối chất liệu tôn giáo,
tạo nên cái mới, cái sâu cho tứ thơ. Cuộc chia li diễn ra từ cõi mộng. Và chính vì nhìn từ
điểm nhìn khách tục nên cảnh tiên, người tiên đều được trần tục hóa. Cây đào vốn bất tử
nơi cõi tiên sao giờ đây lại rơi rắc, có dấu hiệu héo tàn? Đá tượng trưng cho sự bất tử, vậy
mà cũng phôi pha mình đi theo năm tháng. Màu rêu xanh thắm cũng theo nước chảy trôi
mà trở nên nhạt nhẽo, vô hồn. Các tính từ mòn, nhạt kết hợp với các động từ chảy, trôi gợi
quy luật đào thải nghiệt ngã của thời gian. Hình ảnh dòng nước tượng trưng cho dòng thời
gian trần thế cuồn cuộn chảy. Như vậy, ngay cái đẹp bất tử cũng không còn bất tử. Còn
người tiên vốn an nhiên, tĩnh tại giờ đây cũng ngậm ngùi trước cảnh tiễn đưa. Hiện lên
trong Tống biệt là những chất liệu tượng trưng, ước lệ vốn được coi là khuôn vàng thước
ngọc để thể hiện cảnh thần tiên như lá đào, chim hạc, suối tiên, đá, rêu, nước chảy, hoa
trôi... Nhưng nhà thơ đã chống lại được lực quán tính của cái quen và tạo ra một hình
tượng rất đỗi mới mẻ nhờ cách cấu tứ, khả năng lựa chọn điểm nhìn để phổ vào đó tâm
tình của cái tôi lãng mạn. Hóa ra, cõi tiên không bất tử. Cái hạc đã bay lên vút tận trời,
tiên và tục đã dứt hẳn những giăng mắc để lại niềm thảng thốt cho người thơ núi Tản sông
Đà. Tản Đà đã đã tạo ra một vết nứt địa chấn, chuẩn bị cho dòng dung nham núi lửa phun
lên từ những thi sĩ thơ Mới, qua những bài thơ thể hiện hình ảnh thế giới bị bổ đôi thành
hai nửa đối lập về giá trị: tiên cảnh - trần gian.
Vũ Hoàng Chương - thế hệ thi sĩ sau Tản Đà, chính là người nối dài mạch chảy ấy.
Thơ Vũ thể hiện niềm khao khát tới chốn Đào Nguyên, nơi hoa xuân không tàn, bướm
xuân không nhạt, tình xuân không úa màu: “Ôi lòng ta khao khát tới Đào Nguyên. Hỡi xứ
thanh tao thế giới hư huyền” (Đào nguyên lạc lối). Nhưng Vũ chịu ảnh hưởng châu Âu
sâu đậm hơn, nhìn thế giới bằng con mắt tỉnh táo trần trụi, vạch vòi nên luôn thấy nẻo
đường hạnh phúc đã đóng, dấu vết tiên nga đã xóa nhòa. Vũ đằm mình trong dòng sông
mê của rượu, của thuốc phiện, mong dùng các phương tiện nhân tạo để nối tiên với tục,
thể xác với linh hồn. Nhưng rồi men mau nhạt, khói mau tan, hiện lên trong thơ Vũ vẫn là
tứ thơ lớn được xây dựng trên sự đối lập triệt để giữa tiên và tục, lý tưởng và thực tế, tỉnh
và say. Ngay trong khoảnh khắc quan trọng nhất của đời người là Tối tân hôn, đêm Động
phòng hoa chúc cũng chẳng có được niềm xúc động đê mê của người trần lạc vào động
tiên ăn quả cấm, mà do dự, phân tâm, đau khổ như người tiên bị biếm trần. Tất cả đều
xuống cấp, từ rượu đến thân xác, đến cả tâm hồn. Sự hợp nhất đã không xảy ra, con người
đã không về được tiên cảnh: “Đờn tiên thôi gọi. Âm thầm xa bặt tiếng tiêu” (Tối tân hôn).
Trích tiên thời hiện đại vớt vát cảnh đào nguyên mà không còn được lạc lối thuở nào.
143

Như vậy, chính kiểu cấu tứ được tạo dựng dựa trên mối quan hệ tiên - tục này thể
hiện cái nhìn rất có chiều sâu của thi nhân về cuộc đời. Và thơ du tiên đi đến tận cùng cảm
xúc lại là thơ của cõi tâm linh luôn đau đời, của những tâm hồn luôn tỉnh thức.
4.5.2. Quan hệ thực - hư, còn - mất
Kiểu cấu tứ dựa trên quan hệ thực - hư, còn - mất thường xuất hiện trong những
bài thơ du tiên nghiêng về cảm hứng hoài niệm hay những bài thơ thể hiện ý thức phản
du tiên. Trong những bài thơ này, dù mạch thơ được triển khai bắt đầu từ cái thực, sau
mới gợi cái hư hay ngược lại thì cái tứ vẫn nhằm nhấn mạnh vào sự đối lập. Và giá trị
cuộc đời sẽ được ta nhận thức thấu triệt hơn khi đặt nó trong tương quan với cái hư vô.
Tiêu biểu là bài thơ Dao Trì của Lý Thương Ẩn: “Dao trì A Mẫu ỷ song khai. Hoàng
trúc thanh ca động địa ai. Bát tuấn nhật hành tam vạn lý. Mục Vương hà sự bất trùng
lai?” (A Mẫu ở cung Dao Trì mở cửa sổ căng màn lụa. Tiếng hát bài Hoàng trúc buồn
chấn động khắp nơi. Tiếng con ngựa quý mỗi ngày đi ba vạn dặm. Vì lẽ gì Mục Vương
không trở lại lần nữa?) (Lê Nguyễn Lưu dịch). Dao Trì là nơi ở của Tây Vương Mẫu -
một tiên nhân trong thần thoại cổ đại. Nội dung bài thơ này về cơ bản tương đồng với
thể phản du tiên truyền thống nhưng nghệ thuật biểu hiện lại có bước đột phá. Cách viết
của những bài phản du tiên truyền thống thường là trước viết du tiên, sau đó phê phán
(ví dụ bài Chiết dương liễu hành của Tào Phi, bài Mộng tiên của Bạch Cư Dị). Lí
Thương Ẩn cấu tứ khác người, không từ góc độ người cầu tiên mà hạ bút, mà lại từ
chính tiên nhân Tây Vương Mẫu, không trực tiếp nghị luận, phê phán mà để hình tượng
tự thể hiện một cách cụ thể, sinh động. Tây Vương Mẫu thắc thỏm mong chờ, nhiệt tình
mời Mục Vương quay lại, Mục Vương cũng nhận lời quay lại, mà lại có phương tiện
nhanh chóng để quay lại (tám ngựa ngày phi ba vạn dặm), nhưng nào có thấy tăm hơi.
Ngay đến tiên nhân Tây Vương Mẫu cũng không cứu được Mục Vương khỏi chết, nói gì
đến thuật trường sinh bất lão ở nhân gian. Tác giả không nói Mục Vương đã chết mà cái
chết vẫn hiện ra lồ lộ, không nói sự vu vơ của việc cầu tiên mà sự vu vơ ấy tự hiện. Cái
có thực ở đây là hình tượng Mục Vương không bất tử, hình tượng tiên nhân Tây Vương
Mẫu không toàn thiện, toàn năng, không có cách nào thoát được vòng sinh tử của con
người. Nhân vật Tây Vương Mẫu đã bị Lí Thương Ẩn gỡ bỏ ánh hào quang thần thoại
gắn với chim xanh và thuốc bất tử, trở thành một phàm nữ trong tình yêu, mê mẩn chờ
đợi tái hồi với Mục Thiên Tử nhưng không thay đổi được vận mệnh của người mình yêu.
Tây Vương Mẫu cũng được trùm lên sắc màu bi kịch. Thông qua cái thực là hình tượng
nhân vật với tâm lí và hành động cụ thể, tác giả làm bật lên sự hư ảo của thuyết thần tiên.
144

Ý vị châm biếm tuy sắc bén nhưng phương thức biểu hiện lại khéo léo, uyển chuyển
chính nhờ cách cấu tứ dựa trên mối quan hệ thực - hư ấy.
Xét về nội dung và nghệ thuật cấu tứ, bài thơ Hai tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn của
Bích Khê hoàn toàn trùng khít với bài Tiên tử động trung hữu hoài Lưu Nguyễn của Tào
Đường. Chỉ duy nhất có một điểm khác biệt là bài thơ của Bích Khê làm theo thể lục bát,
phù hợp với tâm thức Việt, phù hợp với việc diễn tả tâm trạng da diết, hẫng hụt, tiếc nuối
của tiên nữ khi nhận ra hạnh phúc đã tuột khỏi tầm tay: “Khúc Nghê vắng tựa lâu rồi.
Mộng tiên dài dặc, mộng người biết đâu. Trời trong động, quạnh xuân sâu. Nẻo trần
không lối, rầu rầu trăng soi. Hương đầy suối, cánh đào trôi. Men khe cát trắng, cỏ thôi bơ
sờ. Sương mai đèn gió mơ hồ. Sông đành không chốn hỏi đò Lưu Lang”. Bài thơ được cấu
tứ dựa trên mối quan hệ còn - mất. Cái còn là động tiên, trăng soi, đào trôi theo dòng suối.
Tất cả đều gợi lên cái mất, cái đã chìm khuất vào dòng thời gian chảy xiết vô định là hình
ảnh chàng Lưu. Tiên nữ cũng biết nhớ thương và ngộ ra hạnh phúc chẳng hằng thường,
chỉ như hạt móc sớm mai, ngọn đèn trước gió, nói gì đến chuyện người trần mong tu
luyện thành tiên để được bất tử và hạnh phúc vĩnh hằng? Cõi tiên chỉ là hư ảo nên khi đã
về tới nẻo trần, dù muốn quay lại, hai chàng Lưu Nguyễn cũng chẳng thể tìm được hạnh
phúc như xưa. Trong bài Hận rừng mai, Vũ Hoàng Chương miêu tả cái còn (dấu cũ, vầng
trăng, hoa, rừng mai...), nhưng không còn nguyên dạng mà thời gian đã phủ rêu phong lên
những ngày tháng cũ, đã cườm lên khắp cảnh vật một màu sắc đổi thay (màu hoa úa, rừng
mai xơ xác, tuyết tan mai rụng...): “Nhớ tiếc hai chàng theo dấu cũ. Mong cùng sống lại
giấc mơ tiên. Hỡi ơi chỉ thấy màu hoa úa. Trăng hạ tuần soi lối mấp mô. Lệ tuyết âm
thầm tuôn đã cạn. Rừng mai xơ xác nắm xương khô”. Tất cả cũng nhằm gợi sư mất mát
của hạnh phúc vốn đã tròn đầy. Cửa động đã cài then hoa, Lưu Nguyễn thời nay trở lại
chốn xưa mong tìm lại một dòng sông như không hề chảy, tìm lại tiếng đàn ca như chẳng
thể ngừng tuôn nhưng cuối cùng bị vây giữa hoang tàn, lạnh ngắt. Nhưng vì cái xưa chưa
xưa hẳn mà như vẫn còn lưu lại một chút hương khiến hai chàng cứ bồi hồi và càng thêm
tiếc nhớ, đi tìm.
Tóm lại, phát hiện tính đồng nhất hoặc bộc lộ sự tương phản đều không phải là cứu
cánh, mà chỉ là phương tiện nhằm tạo ra sự liên tưởng và suy luận những ý tứ sâu xa. Tạo
dựng mối quan hệ thực - hư, còn - mất, các thi nhân một lần nữa giúp người đọc ngộ ra
rằng cõi tiên luôn chỉ là thế giới của mơ ước, của hạnh phúc xa xăm, phân li với chúng ta
bằng cả một trời cách biệt, và con người không thôi nhung nhớ, khao khát đi tìm.
145

4.5.3. Quan hệ động - tĩnh


Đây cũng là dạng cấu tứ quen thuộc trong thơ Đường nói chung, thơ du tiên đời
Đường nói riêng. Đặc biệt trong những bài thơ thể hiện xu hướng thế tục hóa hình tượng
tiên nhân, kiểu cấu tứ này càng được các nhà thơ vận dụng nhiều, nhằm làm nổi bật “cơn
động đất tâm hồn” của những tiên nữ giữa cõi tiên ngàn năm tĩnh tại, hằng thường. Trong
bài Tiên tử động trung hữu hoài Lưu Nguyễn, Tào Đường miêu tả sự tĩnh tại của cảnh:
“Động lí hữu thiên xuân tịch tịch” (Trong động riêng một bầu trời, cảnh xuân vắng lặng).
Tất cả nhằm nhấn mạnh hình ảnh tiên nữ động lòng trần, nhớ nhung, khao khát, ngậm
ngùi khi nhận ra sự phù du của hạnh phúc: “Hiểu lộ phong đăng dị linh lạc. Thử sinh vô
xứ vấn Lưu Lang” (Móc ban mai, đèn trước gió dễ tan, dễ tắt. Kiếp này không có nơi đâu
hỏi tìm được chàng Lưu). Hay trong bài Thường Nga, Lý Thương Ẩn cũng tạo dựng mối
quan hệ động - tĩnh, thể hiện sự vỡ lẽ của Thường Nga về sự lạc hướng trong cách thẩm
định ý nghĩa cuộc đời: “Vân mẫu bình phong chúc ảnh thâm. Trường hà tiêm lạc hiểu tinh
trầm. Thường Nga ưng hối thâu linh dược. Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm” (Bức bình
phong vân mẫu mờ mờ ánh đuốc. Dải ngân hà dài dần dần phai, sao mai xuống thấp.
Thường Nga hối hận trót lấy trộm thuốc tiên. Để tấm lòng đêm đêm giữa bể biếc trời xanh)
(Lê Nguyễn Lưu dịch). Điển cố Hằng Nga trộm thuốc trường sinh bất tử của chồng, sau
khi bị phát hiện bèn chạy lên cung trăng khi đi vào nghệ thuật, qua cảm nhận của Lý
Thương Ẩn đã bao hàm một thái độ, một cách đánh giá. Giấc mộng trường sinh có thể đã
toại nguyện, nhưng giữa trời xanh bể biếc đêm đêm, Thường Nga trở thành người tù của
vĩnh hằng. Thủ pháp tĩnh lược động từ trong câu “bích hải thanh thiên dạ dạ tâm” đã làm
tĩnh hóa tất cả, nhấn mạnh cái hằng thường, bất biến. Tĩnh gợi động, cái động ở đây là cao
trào của sóng lòng, sự bồn chồn, thổn thức của con người luôn luôn hướng vọng về phía
trần gian như một lời tự thú, xám hối, không giấu nổi bão lòng vào cái vời vợi thẳm sâu
của vũ trụ. Bài thơ này có cái tứ hay: cái ấm nóng của cuộc sống chỉ được phát hiện khi đã
lên cõi tiên, lên tiên mới là lúc lắng đọng nhất hạnh phúc của cõi trần, chưa sống cảnh tiên
giới ngàn năm không thay đổi thì chưa thấy được hạnh phúc của trần gian. Chính là qua
sự hối hận của Thường Nga mà ta đọc ra được thông điệp ấy.
Có một lần, Thế Lữ lấy cổ điển làm thi liệu nhưng lại lấy hiện đại làm linh hồn,
học cách cấu tứ dựa trên quan hệ động - tĩnh của thơ xưa nhưng tứ thơ đã được nhào nặn
lại trong hồn thơ Mới và cho ra đời tuyệt tác: Tiếng sáo Thiên Thai. Trong bài thơ này,
không gian trong sáng, xa vắng đến vời vợi, cuộc sống yên bình, thanh thản, cảnh sắc như
ngưng đọng, không biết đến thời gian. Tác giả phác họa cái tĩnh trong không gian để diễn
146

tả sự ngưng đọng của thời gian. Chính sự tĩnh lặng ấy đã tạo nền để làm nổi bật một hình
ảnh động: đôi con hạc trắng đang tìm về chốn nước non hữu tình, nơi trú ngụ của các nàng
tiên. Câu thơ lục bát được ngắt chia đột ngột rồi vắt dòng theo tiếng reo kinh ngạc của nhà
thơ: “Trời cao xanh ngắt - ô kìa! Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai”. Cánh chim tiên
trong thơ Thôi Hiệu như hóa thạch trong một thế giới tĩnh, trở thành vĩnh cửu, bất biến, an
nhiên, đúng là cánh chim của thơ ca cổ điển. Còn cánh chim tiên của Thế Lữ đầy biến
động, xôn xao, mang theo cảm xúc riêng tư rất Thơ mới và một giọng điệu không cổ kính,
trang nghiêm mà hiện đại, tân kỳ. Bay từ thơ Đường về đến thơ Mới, cánh chim tiên đã
được hoán cốt thoát xác, mang một sinh mệnh mới, một dáng điệu mới, được hút vào một
từ trường cảm xúc riêng. Phải chăng linh hồn hiện đại đã phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng
chất chứa bên trong lòng tạo vật? Phải chăng Thế Lữ đã khám phá ra sự sống bí mật đầy
xôn xao qua cánh chim thần? Vì vậy mà trong cái ước lệ muôn thuở của hình ảnh chim
hạc, người ta vẫn thấy được mối chân cảm thuộc về những khoảnh khắc thi sĩ. Nói cách
khác, chính cảm xúc riêng tư rất Thơ mới ấy đã làm sống dậy cả những hình ảnh ước lệ
vốn bị ép khô trong xác chữ quen mòn.
Như vậy, ngay cả khi mang âm hưởng kiểu cấu tứ được xem là mẫu mực của
Đường thi nói chung, thơ du tiên đời Đường nói riêng, các nhà thơ Việt Nam giai đoạn
này cũng thể hiện được tinh thần sáng tạo. Điều đó cho thấy cấu tứ không còn là chuyện
kĩ thuật thuần túy mà đằng sau nó là cái nhìn thế giới, là quan niệm thẩm mĩ của nhà thơ
về cuộc đời. Thực tế, bên cạnh những bài thơ lựa chọn kiểu cấu tứ dựa trên các mối quan
hệ, thể hiện sự cô đọng, hàm xúc và dư ba, thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945 còn xuất
hiện rất nhiều bài thơ rình rang, dài dòng trong những câu chuyện kể, thể hiện sự tôn trọng
dòng chảy tự nhiên, sống động của cảm xúc cá nhân. Hầu Trời của Tản Đà là một ví dụ
tiêu biểu. Bài thơ gồm 114 câu, mạch thơ cũng chính là mạch thuật kể một câu chuyện
theo trình tự thời gian trước sau, rất dễ theo dõi: nằm một mình -> buồn -> đun nước
uống-> ngâm văn, tiên xuống-> nêu lí do -> đưa lên trời -> được đón tiếp long trọng,
được mời đọc thơ-> chư tiên xúm vào khen ngợi, tán thưởng -> trời truyền hỏi danh tính-
> kể lể tình cảnh, giãi bày nỗi lòng -> trời đả thông tư tưởng -> lạy tạ ra về. Chính cách tổ
chức bài thơ nương theo mạch tự sự dài dòng ấy khiến nhà thơ có điều kiện để trực tiếp
đối tượng hóa lòng mình, giãi bày cảm xúc phóng khoáng và tài năng thiên phú của con
người cá nhân. Tản Đà đã “dạo những bản đàn cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp
sửa”, để đến giai đoạn 1930-1945, các nhà thơ đã hoàn toàn phá bỏ rào chắn ngăn cách
giữa thơ trữ tình và văn xuôi, “tiểu thuyết hóa” ngay cả những câu chuyện vốn đơn giản.
147

So với Hầu Trời của Tản Đà, bài Hoa thủy tiên của Thế Lữ cũng dài dòng không kém.
Vận dụng kiểu tổ chức bài thơ theo hình thức chuyện kể, nhà thơ cũng từng kể cho ta nghe
câu chuyện duyên nợ giữa chàng Văn Sinh và những tiên nữ chập chờn ẩn hiện qua những
đóa thủy tiên, thể hiện rõ cõi lòng đắm trong niềm mơ mộng, “coi người tiên như bạn tình
duyên cũ” của Văn Sinh. Văn Sinh thực chất chỉ là sự hóa thân của cái tôi Thế Lữ, hoàn
toàn đồng nhất với tâm trạng hướng về Bồng Lai thanh sạch của nhà thơ được thể hiện
trong nhiều bài thơ mang âm hưởng du tiên không có hình thức kể chuyện (như Tiếng sáo
Thiên Thai, Mưa hoa, Ma túy, ...)
Như vậy, trong quá trình vận động, thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945 có những
cách tân quan trọng song không hề đoạn tuyệt với quá khứ mà luôn tiếp thu tinh hoa của
thơ cổ, liên hệ sâu sắc với thơ Đường. Vừa học tập phương Tây, vừa tiếp thu thơ Đường,
sự hợp lưu của hai nguồn sức mạnh càng khiến thơ Việt Nam giai đoạn này tiến nhanh
trên con đường hiện đại hóa.
Tiểu kết chƣơng 4: Nội dung của chương 4 là tìm hiểu âm hưởng của thơ du tiên
đời Đường trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945. Đặt trong mối quan hệ này, thơ du
tiên đời Đường tiếp tục được chúng tôi khai thác trên các phương diện tư thế trữ tình, đề
tài, từ ngữ, hình ảnh, điển tích điển cố, cấu tứ. Đây cũng chính là những phương diện đã
để lại ảnh hưởng trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945, không hẳn là sự ảnh hưởng
trực tiếp từ thơ mà có thể còn gián tiếp qua những truyền thống văn hóa, văn học khác.
Đây cũng không phải là sự tiếp thu ngẫu nhiên mà là sự tiếp thu có chọn lựa của các nhà
thơ Việt Nam trên cơ sở lịch sử, văn hóa, tư tưởng và thị hiếu thẩm mĩ riêng của giai
đoạn 1900-1945. Có những chất liệu và phương tiện nghệ thuật thơ du tiên đời Đường
khi được đặt vào một chỉnh thể nghệ thuật mới đã được tiếp thêm sinh lực và năng
lượng biểu đạt mới cho phù hợp với tâm thức Việt và bối cảnh thời đại. Những ảnh
hưởng ấy không chỉ cho thấy sự cách tân mang tính nhân văn sâu sắc của các nhà thơ
Việt Nam giai đoạn này, bởi phủ định mà không lãng quên, vượt qua mà không xóa bỏ,
đổi mới hướng tới tương lai mà vẫn trân trọng giữ gìn quá khứ mà một lần nữa còn
chứng tỏ thơ Đường có một sức sống không thể vùi dập, một giá trị không thể quên lãng
trong dòng chảy vĩnh hằng của thời gian.
148

KẾT LUẬN

1. Những kết luận khoa học chủ yếu


1.1. Có những loại hình thơ ca cùng với sự thay triều đổi đại mà mất đi, chỉ “lên ngôi” ở
một thời kì nào đó, như thơ huyền ngôn bừng sắc thời Ngụy Tấn nhưng không phát triển
đến đời Đường, thơ biên tái độc đáo ở đời Đường nhưng đến đời Tống lại rất ít xuất hiện.
Thơ du tiên thì ngược lại, đã chứng tỏ sức sống kì diệu của mình, là đề tài luôn được các
nhà thơ ưa chuộng. Thơ du tiên ra đời trên cơ sở truyền thống văn hóa độc đáo của người
Trung Quốc, từ tín ngưỡng dân gian với nỗi sợ cái chết đến sự truy cầu nhục thể vĩnh
hằng và sự ra đời của tư tưởng thần tiên. Bên cạnh đó là triết học (Đạo gia) cổ vũ cho con
người trở về với tự nhiên, hòa mình vào với Đạo, tôn giáo (Đạo giáo) chủ trương tu luyện
để có thể trường sinh bất lão, thành thần tiên siêu thoát. Đặc biệt là những câu chuyện
thần thoại, tiên thoại đã kích thích khát vọng của con người hướng về thế giới thần tiên.
Được khơi nguồn từ thời tiên Tần, trong những sáng tác của Khuất Nguyên, thơ du tiên
đến thời Tần Hán đã định hình thành hai dòng chảy: liệt tiên chi thú (ca ngợi cảnh vui thú
của tiên nhân) và khảm lãm vịnh hoài (thể hiện những gập ghềnh chìm nổi trong lòng).
Trải qua thời Ngụy Tấn phát triển, thời Nam Bắc triều trầm lắng, đến thời Đường, thơ du
tiên lại bừng lên sắc mới, trở thành một hiện tượng nổi bật trong tiến trình thơ du tiên
Trung Quốc. Bên cạnh là tên gọi một đề tài, nó cũng còn là tên gọi một phái thơ, dòng thơ.
Những bài thơ du tiên đời Đường, đứng riêng có thể thành một dòng mạch, có phong cách,
tư tưởng, đặc trưng thẩm mĩ riêng, làm nên diện mạo độc đáo trong bầu trời thơ ca năm
vạn bài thơ Đường.

1.2. Sự xuất hiện nổi bật của thơ du tiên đời Đường trong quá trình phát triển của thơ du
tiên Trung Quốc không chỉ được thể hiện qua số lượng bài thơ (223 bài), phong cách từng
nhà thơ (Lí Bạch phiêt dật, thần kì, Lí Hạ, Lí Thương Ẩn mông lung, khó hiểu, Tào
Đường uyển chuyển, tinh tế...) mà còn được thể hiện qua những đặc trưng thẩm mĩ cơ bản:
tiên hóa, diễm tình hóa, thế tục hóa. Mỗi đặc trưng này đều có cơ sở hình thành và phương
thức sáng tạo chủ yếu. Tiên hóa cảnh vật và con người trần thế là đặc trưng nổi bật của
thơ du tiên thời Sơ, Thịnh Đường, phản ánh tâm thế thời đại phơi phới đi lên, thăng hoa
tột bậc về tinh thần. Núi rừng thành tiên cảnh, đạo sĩ, ẩn sĩ thành tiên nhân và bản thân thi
sĩ cũng xem mình là tiên thông qua cái nhìn lãng mạn và thủ pháp phóng đại, lấy đại làm
149

mĩ. Thơ du tiên đời Đường còn xuất hiện xu hướng diễm tình hóa. Chuyện tình yêu vốn bị
ngoại vi hóa, bị đè nén trong ngữ cảnh xã hội phong kiến giờ đây cũng được các tác giả
thể hiện qua hình thức thơ du tiên. Lấy mộng làm mĩ, những câu chuyện tình yêu giữa tiên
và tiên, phàm và phàm, tiên và phàm khi được đặt trong môi trường tiên cảnh đã giảm sắc
màu bi kịch và thể hiện được khát vọng thầm kín của mỗi người. Đặc biệt đến thời Trung,
Vãn Đường, cả xã hội chuyển mình theo xu hướng thế tục hóa. Thơ du tiên cũng phát
triển theo xu hướng ấy. Thế tục hóa thể hiện trình độ nhận thức, sự phát triển của tư duy
và quan niệm nghệ thuật về cuộc đời và con người. Lựa chọn phương thức nghệ thuật chủ
yếu là tự sự kết hợp trữ tình, các nhà thơ đã tục hóa tiên cảnh, phàm hóa tiên nhân.
Chuyện mê luyến học đạo cầu tiên, cầu trường sinh bất tử cũng được các thi nhân phê
phán dưới ánh sáng của nhận thức lí trí. Sự phát triển của xu hướng thế tục hóa trong thơ
du tiên đời Đường phản ánh đặc trưng thẩm mĩ của thời đại: hướng về thế tục và sự quân
bình, không chỉ mở rộng phạm vi mà còn mở rộng phương thức phản ánh cho thơ du tiên.

1.3. Trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1900-1945 cũng có một dòng thơ mang âm hưởng
thơ du tiên đời Đường. Dù không thể tiến hành so sánh một đối một nhưng âm hưởng của
thơ du tiên đời Đường trong thơ Việt Nam giai đoạn 1900-1945 là điều có thật và đã được
chúng tôi chứng minh trên các phương diện cơ bản: tư thế trữ tình và đề tài du tiên, từ ngữ
hình ảnh tượng trưng ước lệ, điển tích điển cố, cấu tứ bài thơ dựa trên các mối quan hệ.
Từ ý thức về thân phận trích tiên, các nhà thơ đã đặt mình vào hành trình giải thoát: du
tiên về với cội nguồn. Tuy nhiên, do tâm thức dân tộc, bối cảnh thời đại và cá tính sáng
tạo của thi nhân nên các nhà thơ Việt Nam giai đoạn này cũng có những điểm khác biệt so
với các nhà thơ Đường ngay trong cách thể hiện phương thức, mục đích du tiên và xu
hướng thế tục hóa. Thơ Việt Nam giai đoạn này có những bài đầy dư vị, dựng lên được
chiều sâu triết lí nhân sinh nhờ biết tiếp thu cách cấu tứ dựa trên mối quan hệ tiên - tục,
động - tĩnh, thực - hư, còn - mất của thơ du tiên đời Đường. Và trong cái ước lệ muôn
thuở của những từ ngữ, hình ảnh (hạc vàng, nguồn đào, sáo tiên, suối tiên), những điển
tích điển cố mà các nhà thơ Việt Nam đã tiếp thu, chúng ta vẫn thấy được những nét đặc
sắc riêng, thể hiện ngay trong sự tiếp thu có chọn lựa và sự đổi mới cho phù hợp với quy
luật hiện đại hóa văn học.

1.4. Tiên là một hình mẫu mang đậm giá trị văn hóa Trung Hoa, thể hiện khát vọng
của con người muốn vượt qua khổ đau mà đạt được hạnh phúc, vượt qua cái chết mà
150

có được trường sinh, vượt qua hư vô mà có được ý nghĩa. Thơ du tiên đời Đường là
cuộc vượt hiện thực bằng mộng ảo, đầy màu sắc lãng mạn và đậm chất nhân văn.
Những vần thơ bay bổng ấy được chắp cánh bằng khát vọng, ước mơ, những nỗi niềm
tha thiết của con người về trường sinh bất tử, tự do và tình yêu, được thăng hoa và diễn
hóa theo sự thăng trầm của lịch sử. Nếu các đạo sĩ đi tìm linh chi, tiên dược, luyện đan
mong cầu trường sinh thì thi nhân lấy nghệ thuật và cái đẹp làm chỗ dựa. Với những
giá trị như chúng tôi đã phân tích ở phần nội dung, trong cõi đời vô thường, thơ du tiên
đời Đường chính là một đóa hoa bất tử.

1.5. Ngày nay, cả thế giới đang chuyển mình sang tâm thức hậu hiện đại và guồng quay
của đời sống có xu hướng khiến cảm giác của con người trở nên trơ cạn, cùn mòn. Con
người đang tự giải phóng mình ra khỏi những huyền thoại, dường như không còn đại tự sự
nào để hướng tâm. Nhưng trong ngữ cảnh hậu hiện đại, câu chuyện về tiên và du tiên vẫn
không trở thành dĩ vãng. Thực tế, đâu đó trong những quán nhạc xưa, trong những không
gian yên bình và thanh vắng người ta vẫn thích nghe hát “Thiên Thai”, vẫn thích được như
Lưu Nguyễn bay bướm cùng tiên nương lạc lối nguồn Đào. Và giữa câu chuyện “Thường
Nga bôn nguyệt” và ước mơ của con người hiện đại muốn chinh phục các vì sao không
phải tuyệt không có mối quan hệ gì. Nó đều thể hiện sự hướng vọng của con người về một
thế giới tự do và hạnh phúc. Điều đó một lần nữa cho thấy ý nghĩa “hiện đại” của đề tài du
tiên và giá trị của những bài thơ du tiên đời Đường, dù nhà Đường đã cách chúng ta hàng
nghìn năm và cả hai thế giới.

2. Hƣớng nghiên cứu tiếp của đề tài


2.1.Đào sâu thêm những thành tựu về nội dung và nghệ thuật thơ du tiên đời Đường, mà
những ý kiến của chúng tôi trong công trình này chỉ là những gợi ý ban đầu.
2.2. Mở rộng phạm vi nghiên cứu, tìm hiểu quá trình phát triển liên tục và những đặc điểm
nổi bật của thơ du tiên trong suốt thời kì cổ trung đại của văn học Trung Quốc.
2.3. Nghiên cứu so sánh rộng ra với thơ du tiên Việt Nam qua các thời kì, từ trung đại,
hiện đại đến đương đại.
151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Thị Tuyết (2010), “Hình ảnh thần tiên trong thơ Lí Hạ”, Tạp chí Khoa học,
Trường Đại học Hồng Đức (số 6/12), tr. 65 - 70.
2. Nguyễn Thị Tuyết (2013), “Nghệ thuật tự sự trong một số bài thơ du tiên của Tào
Đường”, Lí thuyết phê bình văn học hiện đại (Tiếp nhận và ứng dụng), Nxb Đại học
Vinh, tr. 346 - 356.
3. Nguyễn Thị Tuyết (2015), “Khuynh hướng tiên hóa núi sông trong thơ du tiên đời
Đường”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Hồng Đức (số 23/3), tr. 48 -57.
4. Nguyễn Thị Tuyết (2015), “Thơ du tiên từ thời tiên Tần đến thời Đường”, Nghiên
cứu Trung Quốc (số 11), tr.57 - 66.
5. Nguyễn Thị Tuyết (2016), “Thơ du tiên nhìn từ cội nguồn văn hóa Trung Hoa”,
Nghiên cứu văn học (số 5), tr. 88 - 97.
6. Nguyễn Thị Tuyết (2016), “Tiên hóa cái Tôi và hình tượng đạo sĩ trong thơ du tiên Lí
Bạch”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (số 5), tr. 31 - 37.
152

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT


1. Phạm Hải Anh (1996), Thơ tứ tuyệt Lí Bạch - phong cách và thể loại, Luận án phó
tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
2. Lê Thị Anh (2007), Thơ mới với thơ Đường, NXB Văn học.
3. Dư Quan Anh, Tiền Chung Thư, Phạm Ninh chủ biên (1993), Lịch sử văn học Trung
Quốc, 2 tập, Lê Huy Tiêu, Lê Đức Niệm... dịch, NXB Giáo dục Hà Nội.
4. Phạm Đình Ân (giới thiệu và tuyển chọn) (2006), Thế Lữ - về tác gia và tác phẩm,
NXB Giáo dục.
5. Trịnh Ân Ba, Trịnh Thu Lôi (2002), Văn học Trung Quốc, Lê Hải Yến dịch, NXB
Thế giới, Hà Nội.
6. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hoá, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Trần Lê Bảo (2012), Giáo trình văn hóa phương Đông, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
8. Trần Lê Bảo (2005), Lịch sử văn học Trung Quốc (dùng cho đại học từ xa), NXB
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
9. Trần Lê Bảo (2015), Tư tưởng thần tiên trong văn học Trung Quốc và Việt Nam, Tạp
chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 7- 2015.
10. Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường, Người dịch:
Trần Đình Sử, Lê Tẩm, NXB Văn học, Hà Nội.
11. Lý Duy Côn (chủ biên) (2004), Trung Quốc nhất tuyệt, tập 1, NXB Văn hoá Thông tin.
12. Jean Chevalier (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Người dịch: Phạm Vĩnh
Cư, NXB Đà Nẵng - Trường viết văn Nguyễn Du.
13. Huỳnh Ngọc Chiến (2001), Lí Hạ quỷ tài quỷ thi, NXB Trẻ.
14. Trương Chính, Trần Xuân Đề, Nguyễn Khắc Phi (1971), Lịch sử văn học Trung
Quốc, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
15. Trương Chính, Lương Duy Thứ, Bùi Văn Ba (1971), Lịch sử văn học Trung Quốc,
tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Đình Chú tuyển chọn, giới thiệu (1993), Thơ văn Tản Đà, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
17. Vũ Hoàng Chương (1992), Thơ say, Tái bản, NXB Hội nhà văn, Hội nghiên cứu -
giảng dạy văn học TP Hồ Chí Minh.
153

18. Nguyễn Xuân Diện - Trần Văn Toàn (1998), Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của thơ
Đường đối với Thơ mới, Hán Nôm, (3).
19. Phan Huy Dũng (2009), Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông một góc
nhìn, một cách đọc, NXB Giáo dục Việt Nam.
20. Nguyễn Sĩ Đại (1996), Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường,
NXB Văn học.
21. Tản Đà (dịch) (1989), Thơ Đường, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, NXB Trẻ Tp.Hồ
Chí Minh.
22. Nguyễn Danh Đạt (1999), Bình và chú giải 100 bài thơ Đường hay nhất, NXB Văn
nghệ TP Hồ Chí Minh.
23. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, NXB Giáo dục, Hà Nội.
24. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Đức Mậu (tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Tản Đà - về tác
gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.
25. Lâm Ngữ Đường (1993), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, NXB Văn hoá.
26. Lâm Ngữ Đường (2001), Trung Hoa đất nước con người, NXB Văn hoá Thông tin.
27. Đỗ Bằng Đoàn, Bùi Khánh Đản (2006), Đường thi trích dịch, NXB Văn học, Hà Nội.

28. Nguyễn Hà (1996), Đường thi tứ tuyệt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, NXB Thuận Hoá, Huế.
30. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (2000), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
31. Phạm Thị Hảo (2008), Khái niệm và thuật ngữ lí luận văn học Trung Quốc, NXB
Văn học.
32. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, Phan Ngọc giới thiệu, dịch và chú thích, NXB
Lao động, trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
33. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh chủ biên (2000), Văn học sử Trung Quốc, tập 1,
Người dịch: Phạm Công Đạt, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
34. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh chủ biên (2000), Văn học sử Trung Quốc, tập 2,
Người dịch: Phạm Công Đạt, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
35. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh chủ biên (2000), Văn học sử Trung Quốc, tập 3,
Người dịch: Phạm Công Đạt, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
36. Trần Trung Hỷ (2002), Thi pháp thơ Lí Bạch một số phương diện chủ yếu, Luận án
tiến sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
154

37. Trần Trung Hỷ, Thơ sơn thủy cổ trung đại Trung Quốc, NXB Giáo dục, Hà Nội.

38. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2008), Điển cố văn học, NXB Khoa học Xã hội.
39. Trần Trọng Kim, (1995), Đường thi, NXB Văn hóa Thông tin.
40. N. Konrat (1997), Phương Đông và phương Tây, Người dịch: Trịnh Bá Đĩnh, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
41. Đỗ Trung Lai (2008), Lí Bạch - Những bài Đường thi nổi tiếng, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
42. Thế Lữ (1992), Mấy vần thơ, Tái bản, NXB Hội nhà văn, Hội nghiên cứu - giảng dạy
văn học TP Hồ Chí Minh.
43. Lê Nguyễn Lưu (1997), Đường thi tuyển dịch 2 tập, NXB Thuận Hoá, Huế.
44. Nguyễn Hiến Lê (1997), Đại cương văn học sử Trung Quốc, NXB Trẻ, TP Hồ Chí
Minh.
45. I.X. Lixêvich (1994), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, Người dịch: Trần Đình Sử,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
46. Hồ Á Mẫn (2011), Giáo trình văn học so sánh, NXB Giáo dục Việt Nam.
47. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ, NXB Trẻ.
48. Lê Đức Niệm (1998), Diện mạo thơ Đường, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
49. Nguyễn Thế Nữu (1999), Thơ Đường bình chú, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
50. Nguyễn Tôn Nhan (1999), Từ điển văn học cổ điển Trung Quốc, NXB Văn nghệ
TPHCM.
51. Nguyễn Tôn Nhan (2001), Bách khoa thư văn hóa cổ điển Trung Quốc, NXB Văn
hoá Thông tin.
52. Trần Văn Nhĩ (2009), Tuyển tập thơ Đường, NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.
53. Nhiều tác giả (Sở nghiên cứu văn học thuộc viện Khoa học Xã hội Trung Quốc),
(1997), Lịch sử văn học Trung Quốc, NXB Giáo dục.
54. Nhiều tác giả (2000), Tuyển tập văn chương 5 (Siêu thực), NXB Thanh niên.
55. Nhiều tác giả (2000), Đạo gia và văn hoá, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
56. Nhiều tác giả (2000), Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, Người dịch: Bùi Hữu
Hồng, NXB Thế giới, Hà Nội.
57. Nhiều tác giả (1999), Lịch sử văn hóa Trung Quốc, 2 tập, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội
155

58. Nhiều tác giả (1997), Tản Đà trong lòng thời đại, NXB Hội nhà văn.
59. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (dịch), (1997), Về thi pháp thơ Đường, NXB Đà Nẵng.
60. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Lưu Đức Trung, Trần Lê Bảo (2002), Lịch sử văn học
Trung Quốc, NXB Đại học Sư phạm.
61. Nguyễn Khắc Phi (1998), Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen mà lạ, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
62. Nguyễn Khắc Phi (2004), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung
Quốc qua cái nhìn so sánh, NXB Giáo dục, Hà Nội.
63. Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1987), Văn học Trung Quốc, tập 1, NXB Giáo dục.
64. Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
65. Duy Phi (2001), Đường thi tinh tuyển, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
66. Ngô Văn Phú (2005), Thơ Lí Bạch, NXB Lao động, Hà Nội.
67. Ngô Văn Phú (2001), Thơ Đường ở Việt Nam, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
68. Ngô Văn Phú (tuyển dịch, biên soạn) (2011), Thơ Bạch Cư Dị, NXB Hội nhà văn,
Hà Nội.
69. Trần Trọng San (1997), Thơ Đường, NXB Thanh Hóa.
70. Trần Trọng San (biên dịch) (1990), Kim Thánh Thán phê bình thơ Đường, Tủ sách
Đại học tổng hợp TPHCM.
71. Đặng Đức Siêu (2002), Văn hóa cổ truyền phương Đông (Trung Quốc), NXB Giáo
dục, Hà Nội.
72. Đặng Đức Siêu ( 2005), Văn hóa Trung Hoa, NXB Lao động, Hà Nội.
73. Nguyễn Quốc Siêu (1998), Thơ Đường bình giải, NXB Giáo dục, Hà Nội.
74. Hoành Đường Thoái Sĩ tuyển chọn, Trần Uyển Tuấn bổ chú, Ngô Văn phú dịch
(2010), 300 bài thơ Đường, NXB Văn học, Hà Nội.
75. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, NXB Văn học.
76. Dịch Quân Tả (1992), Văn học sử Trung Quốc, Huỳnh Minh Đức dịch và chú giải,
Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
77. Lê Huy Tiêu (2004), Cảm nhận mới về văn hoá và văn học Trung Quốc, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
78 Lão Tử (1994), Đạo đức kinh, Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu, NXB Văn
hoá, Hà Nội.
156

79. Trang Tử (1992), Nam Hoa kinh, Thu Giang, Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú,
NXB Hà Nội.
80. Ngô Tất Tố (2000), Thơ Đường, NXB Đồng Nai.
81. Hoài Thanh, Hoài Chân (2000), Thi nhân Việt Nam (tái bản), NXB Văn học, Hà Nội.
82. Đỗ Lai Thúy (2012), Mắt thơ - phê bình phong cách Thơ mới, NXB Hội nhà văn.
83. Lương Duy Thứ, Đỗ Vạn Hỷ (2008), Giáo trình văn học Trung Quốc, NXB Đại học
Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
84. Lương Duy Thứ, Nguyễn Lộc (1997), Tuyển tập thơ ca cổ điển Trung Quốc, Hội
nghiên cứu giảng dạy văn học TP Hồ Chí Minh.
85. Nam Trân (giới thiệu và tuyển chọn) (1987), Thơ Đường, tập 1, NXB Văn học, Hà
Nội.
86. Lê Khánh Trường (2009), Lý Thương Ẩn, lan trong rừng vắng, NXB Văn nghệ, TP
Hồ Chí Minh.
87. Lưu Đức Trung (chủ biên), Trần Lê Bảo, Phạm Hải Anh (1999), Hợp tuyển văn học
Châu Á, tập 1: Văn học Trung Quốc, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

B. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG TRUNG


88. 徐颖瑛 (2004), 论李白和李贺的游仙诗, 渭南师范学院学报,2004 年第 6 期。

89. 李永平 (2003), 道教对唐代游仙诗的影响, 西安石油学院学报(社会科

学版), 2003 年 第 2 期。

90. 李永平 (2001),盛唐李白的游仙诗, 西安石油学院学报(社会科学版),

2001 年第 2 期。

91. 李永平, 高慧 (2006),晚唐曹唐游仙诗中的仙洞原型, 宁夏社会科学, 2006

年 第 3 期。

92. 李永平 (1997)游仙诗中死亡再生母题, 陕西师范大学学报(哲学社会科学

版), 1997 年第 4 期。

93. 李永平 (2012),唐代游仙诗的世俗化及其成因,唐都学刊,2012 年第 3 期。


157

94. 李永平(1999),论李白个性与游仙问题的关系,陕西师大学报,1999 年 第

03 期。

95. 贾兵 (2010), 李白游仙诗的主题矛盾, 信阳农业高等专科学校学报,2010

年 第 2 期。

96. 蔡雁彬 (1995),近年来游仙诗问题研究综述,古典文学知识,南京,1995

年第 4 期。

97. 东玉刚(1999), 简明中国文学史, 陕西人民出版社。

98. 鼓定求(1960),全唐诗,中华 书局。

99. 陈允吉 (1983),梦天的游仙思想与李贺的精神世界,文学评论,1983 年第

1 期。

100. 郭扬(1989),唐诗学引论,广西人民出版社。

101. 柏秀叶(2005),曹唐“大游仙诗”的叙事特色探析,重庆工商大学学报,(社

会科学版),2005 年第 4 期。

102. 荣海涛 (2004), 唐代文人游仙诗仙人意象论稿,吉林大学,硕士学位论

文。

103. 赵婷婷 (2007),曹唐游仙诗论稿,吉林大学, 硕士学位论文。

104. 肖婷婷 (2010),李白游仙诗擘析,怀化学院学报,2010 年第 8 期。

105. 程美化 (2005)试论唐代游仙诗的特点,内蒙古农业大学学报(社会科学版,

2005 年第 4 期。

106. 林海 (2009),唐人游仙诗及其文化意义,内蒙古师范大学, 硕士学位论文。

107. 汪涌家,俞灏敏 (2005),中国游仙文化,复旦大学出版社。


158

108. 卢晓辉 (2006),浅析曹唐游仙诗的内容特色,昭通师范高等专科学院学

报,2006 年第 2 期。

109. 卢晓辉(2005),论游仙诗的起源,滁 州学院学报,2005 年第 4 期。

110. 姜朝晖(2013), 目尽青天怀今古- 李商隐游仙体诗歌论略,西北师大学报

(社会科学版),2013 年第 1 期。

111. 张宏(2009),秦汉魏晋游仙诗的渊源,宗教文化出版社。

112. 颜进雄(1996),唐代游仙诗研究, 台湾文津出版社。

113. 苗霞 (2003),唐代游仙诗的美学意蕴,语文知识,2003 年第 11 期。

114. 李华 (1997),李白游仙诗的冷与热,宁波师院学报,社会科学版 1997 第 5 期。

115. 严春花 (2009),论唐代仙境主题在诗歌和传奇中的异同, 唐都学刊,2009

年第 5 期。

116. 辛贺 (2008),曹唐大游仙诗的文学价值,陕西师大学报,2008 年第 5 期。

117. 廖文华 (2013),李白“古风”“游仙诗”中的神仙形象及其刻画艺术,钦 州学

院学报,2013 年第 5 期。

118. 刘 洁(2005), 唐诗题材类论,北京民族出版社。

119. 多乐垦 (2003),中唐游仙诗的世俗化倾向,新 疆师范大学学报(社会科学

版),2003 年第 1 期。

120. 张振谦(2009),曹唐游仙恋情倾向探析,中南大学学报(社会科学版),

2009 年 第 2 期。

121. 李乃龙 (1996),中唐游仙诗的社会学阐释,东方从刊,1996 年第 1 期。

122 李乃龙(1998),唐代游仙诗的若干特质,陕西师大学报,1998 年 第 03 期。
159

123. 王丹林 (2006),论李百游仙诗, 黑龙江史志,2006 年第 8 期。

124. 李颖利(2007), 论唐代的游仙诗,山西大学,硕士学位论文。

125. 东林(2004),盛唐游仙诗中的道教文化意蕴,沈阳师范大学学报(社会科

学版),2004 年第 6 期

126. 周庆弄(2009),浅谈李商隐的双重仙道观, 河池学院学报,2009 年第 4 期。

127. 杨金梅,刘中(2003),论中国古典诗歌中的游仙意象,重庆大学学报(社

会科学版),2003 年第 1 期。

128. 黄云明(2001),论仙崇拜及其产生的原因,河北大学学报(哲学社会科学

版),2001 年第 4 期。

129. 栗春娜(2007), 汉唐游仙诗研究,东北师范大学,硕士学位论文。

130. 罗佳妮(2012),中晚唐游仙诗研究,黑龙江大学, 硕士学位论文。

131. 钟来银(1991), 中古仙道诗精华,江苏文艺出版社。

132. 朱洪玉(2011),从游仙诗看山水诗的发展过程,湖北成人教育学院学报,

2011 年第 2 期。

133. 萧涤非,程天帆等写(2013), 唐诗鉴赏辞典, 上海辞书出版社, 2013 年 7 月

版。

134. 鲁华峰(2002),中晚唐游仙诗与传奇, 宁夏大学学报(人文社会科学版),

2002 年第 2 期。

135. 鲁华峰(2002),唐代游仙诗论略,安徽师范大学,硕士学位论文。

136. 张英夫(2009),曹唐游仙诗缘起及成就, 首都师范大学,硕士学位论文。

137. 展 永福(2008),论李白诗歌创作与道 教,青岛大 学, 硕士学位论文。


160

138. 梁晓菲(2008),游仙诗发展意脉中的咏怀主题, 太原师范学院学报(社会科

学版),2008 年第 2 期。

139. 徐乐军 (2006), 唐代游仙诗人创作心态论析,花南师范大学学报(社会科

学 版),2006 年第 4 期。

140. 陆文军(2005),从游仙到遇艳- 论曹唐及其大游仙诗,玉漆师范学院学报,

2005 年第 4 期 。

141. 廖明君(1993),生命的渴望与理想 - 李贺游仙诗论,稀南学报 ,1993 年第

4 期。

142. 张振国 (2001),李贺道诗中的神仙世界,中国宗教,2001 年第 3 月。

143. 蘅塘退士(2002),唐诗三百首, 新 疆人民出版社。

144. 堂刊(1999),李白游仙诗的道教化品格,甘肃广播电视大学学报, 1999 年

第 4 期。

145. 陈燕翔(2001), 唐代文人游仙诗研究,安徽大学,硕士学位论文。

146. 范明慧 (2007),三李诗歌与神话,广西师范大学,硕 士学位论文。

147. 刘润素,于晓蛟(2007),郭璞李白游仙诗比较,中国海洋大学学报(社会

科学版),2007 年第 4 期。

148. 邓 徐,郑燕飞(2011),浅析李白郭璞之游仙诗的写作特色,南昌教育,2011

年第 4 期。

149. 王慧(1997),生,死,仙-浅 探李贺诗歌中的生命哲学,台州师专学报,1997

年 第 2 期。

150. 刘首顺(1997),唐诗三百首全译, 陕西人民教育出版社。


161

151. 余 恕诚(2000),唐诗风貌,安徽大学出版社。

152. 王友胜(1999),游仙访道对李白诗歌的影响,船山学刊,1999 年第 1 期。

153. 居忠诚(2013),李白游仙诗世界之形态,模式及其审美意义,毕节学院学

报,2013 年第 12 期。

154. 李丰收(1996), 忧与游 -六朝隋唐游仙诗论集,台湾学生书局,1996 年版。

155. 傅明善,张维昭 (1996),李白游仙诗与悲剧意识,宁波师院学报,社会科

学版 1996 第 5 期。

156. 王有胜(1995), 试论唐代文人的崇道之风与游仙之作, 湘源师范学院学报,

1995 年第 1 期。

157. 王有胜 (1997),李白对游仙传统的拯救与革新,湘源师范学院学报,1997 年

02 期。

158. 温成荣(2011),李白游仙诗中的道教思想及其与李贺的不同,减宁学院学

报,2011 年第 5 期。

159. 阙雯雯,宋延展 (2009),论郭璞“游仙诗”在李贺笔下的继承与发展,内江

师范学院学报,2009 年第 9 期。

160. 熊晓燕(1996),中国游仙诗概论, 山西人民 出版社。

161. 金内燕(2008),晚唐诗人曹唐及其游仙诗研究综述,绥化学院学报,2008

年第 2 期。
162

PHỤ LỤC: NHỮNG BÀI THƠ DU TIÊN ĐỜI ĐƢỜNG

TÁC PHẨM TÁC GIẢ ĐÃ CHƯA


TT DỊCH DỊCH
1 Du tiên tứ thủ Vương Tích x
2 Tặng học tiên giả Vương Tích x
3 Hoài tiên Vương Bột x
4 Tầm đạo quan Vương Bột x
5 Giang Nam lộng Vương Bột x
6 Quan nội hoài tiên Vương Bột x
7 Bát tiên kinh Vương Bột x
8 Hốt mộng du tiên Vương Bột x
9 Hoài tiên dẫn Lư Chiếu Lân x
10 Tặng Lí Vinh đạo sĩ Lư Chiếu Lân x
11 Đăng Ngọc Thanh Lư Chiếu Lân x
12 Tu trúc thiên Trần Tử Ngang x
13 Xuân nhật đăng Cửu Hoa quán Trần Tử Ngang x
14 Du linh công quan Lạc Tân Vương x
15 Dữ sinh công du thạch quật sơn Trương Cửu Linh x
16 Đăng thành lâu vọng Tây Sơn tác Trương Cửu Linh x
17 Đào hoa hành Lí Nghĩa x
18 Đào hoa hành Lí Kiều x
19 Đế kinh thiên (bài 9) Đường Thái x
Tông
20 Vương Tử Kiều Tống Chi Vấn x
21 Tống Tư Mã đạo sĩ du Thiên Thai Tống Chi Vấn x
22 Tống Lương Lục Trương Duyệt x
23 Du tiên thi (24 bài) Ngô Quân x
24 Bộ hư từ (10 bài) Ngô Quân x
25 Đăng Bắc cố sơn vọng hải Ngô Quân x
26 Mộng Thái Bạch tây phong Thường Kiến x
27 Tiên dục ngộ mao nữ ý tri thị tần cung Thường Kiến x
163

nhân
28 Túc thiên đài đồng bách quan Mạnh Hạo Nhiên x
29 Yến Mai đạo sĩ sơn phòng Mạnh Hạo Nhiên x
30 Dữ Vương Xương Linh yến Vương đạo Mạnh Hạo Nhiên x
sĩ phòng
31 Hành kinh Hoa Âm Thôi Hiệu x
32 Hoàng Hạc lâu Thôi Hiệu x
33 Ngọc Đài quán Cao Thích x
34 Ngọc Chân công chúa ca Cao Thích x
35 Đào nguyên hành Vương Duy x
36 Vương Mẫu ca Lí Kì x
37 Cổ ý (bài 2, 3) Lí Kì x
38 Ký Tiêu Luyện Sư Lí Kì x
39 Sơn trung dữ u nhân đối chước Lí Bạch x
40 Tống Dương sơn nhân quy Tung sơn Lí Bạch x
41 Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt Lí Bạch x
42 Sơn trung vấn đáp Lí Bạch x
43 Tầm Ung tôn sư ẩn cư Lí Bạch x
44 Phỏng Đái Thiên Sơn đạo sĩ bất ngộ Lí Bạch x
45 Tống Hạ Giám quy Tứ Minh ứng chế Lí Bạch x
46 Lư sơn dao kí Lư thị ngự Hư Chu Lí Bạch x
47 Cổ phong 59 bài (bài 19) Lí Bạch x
48 Thiên Mụ sơn Lí Bạch x
49 Cảm hứng 6 bài (bài 1,2,4) Lí Bạch x
50 Du Thái Sơn lục thủ Lí Bạch x
51 Cổ hữu sở tư Lí Bạch x
52 Phi long dẫn (2 bài) Lí Bạch x
53 Hoài tiên ca Lí Bạch x
54 Đăng Thái Bạch phong Lí Bạch x
55 Thượng Nguyên phu nhân Lí Bạch x
56 Kí Vương Ốc sơn nhân mạnh đại dung Lí Bạch x
57 Tây Nhạc Vân Đài ca tống Đơn Cân tử Lí Bạch x
164

58 Đào nguyên nhị thủ Lí Bạch x


59 Luyện đan tỉnh Lí Bạch x
60 Ngọc Chân tiên nhân từ Lí Bạch x
61 Thiên Thai hiểu vọng Lí Bạch x
62 Nghĩ cổ 12 bài (bài 4) Lí Bạch x
63 Tặng Tùng sơn Tiêu Luyện Sư Lí Bạch x
64 Tùng sơn thái xương bồ giả Lí Bạch
65 Lương phụ ngâm Lí Bạch x
66 Nguyên Đơn Cân ca Lí Bạch x
67 Đăng Nga Mi sơn Lí Bạch x
68 Cổ phong 15 bài (bài 2, 3) Lí Bạch x
69 Hạ đồ quy thạch môn cựu cư Lí Bạch x
70 Xuân nhật hành Lí Bạch x
72 Lai nhật đại nan Lí Bạch x
73 Tiêu sơn diểu vọng Liêu sơn Lí Bạch x
74 Trù thôi ngũ lang trung Lí Bạch x
75 Bộ hư từ (nhị thủ) Lưu Vũ Tích x
76 Mộng hảo lí hoa ca Vương Kiến x
77 Hành lộ nan tam thủ (kì tam) Cố Huống x
78 Bi ca (bài 6) Cố Huống x
79 Bộ hư từ Cố Huống x
80 Triều thượng thanh ca Cố Huống x
81 Ngọc nữ ca Vi Ứng vật x
82 Học tiên nhị thủ Vi Ứng vật x
83 Ngạc Lục Hoa ca Vi Ứng Vật x
84 Nhĩ hoàng tinh Vi Ứng vật x
85 Vương Mẫu ca Vi Ứng vật x
86 Hán Vũ Đế tạp ca nhị thủ Vi Ứng vật x
87 Mã Minh Sinh ngộ thần nữ ca Vi Ứng vật x
88 Cầu tiên khúc Mạnh Giao x
89 Liệt tiên văn Mạnh Giao x
90 Học tiên Trương Tịch x
165

91 Cầu tiên hành Trương Tịch x


92 Tầm tiên Trương Tịch x
93 Ngọc chân quan Trương Tịch x
94 Kí doanh bồ Trương Tịch x
95 Thái Bạch lão nhân Trương Tịch x
96 Nguyệt thực thi Lư Đồng x
97 Ức kim nga sơn thẩm sơn nhân nhị thủ Lư Đồng x
98 Tẩu bút tạ Mạnh Gián Nghị kí tân trà Lư Đồng x
99 Mộng tiên Bạch Cư Dị x
100 Hải man man Bạch Cư Dị x
101 Tiên nga phong hạ tác Bạch Cư Dị x
102 Du tiên du sơn Bạch Cư Dị x
103 Tầm Vương đạo sĩ dược đường nhân Bạch Cư Dị x
hữu đề tặng
104 Tặng Mao tiên ông Bạch Cư Dị x
105 Tặng tiên tử Bạch Cư Dị x
106 Thanh dạ ức tiên cung tử Bạch Cư Dị x
107 Tặng Trương Sở Sĩ sơn nhân Bạch Cư Dị x
108 Tầm Quách đạo sĩ bất ngộ Bạch Cư Dị x
109 Tặng Vi Luyện Sư Bạch Cư Dị x
110 Thù tặng Lí Luyện Sư kiến chiêu Bạch Cư Dị x
111 Tây Hồ vãn quy Bạch Cư Dị x
112 Kí Vương sơn nhân Bạch Cư Dị x
113 Tạ Tự Nhiên thi Hàn Dũ x
114 Kí mộng Hàn Dũ x
115 Hoa sơn nữ Hàn Dũ x
116 Đào nguyên đồ Hàn Dũ x
117 Lí phu nhân ca Bào Dung x
118 Hội tiên ca Bào Dung x
119 Tiêu Sử đồ ca Bào Dung x
120 Lộng Ngọc từ nhị thủ Bào Dung x
121 Hoài tiên nhị thủ Bào Dung x
166

122 Mộng du xuân tam thập vận Nguyên Chẩn x


123 Mộng thượng thiên Nguyên Chẩn x
124 Lưu Nguyễn thê nhị thủ Nguyên Chẩn x
125 Hội chân thi tam thập vận Nguyên Chẩn x
126 Đế tử ca Lí Hạ x
127 Lan Hương thần nữ miếu Lí Hạ x
128 Bối cung phu nhân Lí Hạ x
129 Dao hoa lạc Lí Hạ x
130 Tiên nhân Lí Hạ x
131 Mộng thiên Lí Hạ x
132 Thiên thượng dao Lí Hạ x
133 Khổ trú đoản Lí Hạ x
134 Quan nhai cổ Lí Hạ x
135 Hạo ca Lí Hạ x
136 Kim đồng tiên nhân từ Hán ca Lí Hạ x
137 Mã thi (bài 23) Lí Hạ x
138 Thần tiên khúc Lí Hạ x
139 Tần Vương ẩm tửu Lí Hạ x
140 Thượng vân lạc Lí Hạ x
141 Xương Cốc thi Lí Hạ x
142 Tặng nữ đạo sĩ Trịnh Ngọc Hoa nhị thủ Thi Kiên Ngô x
143 Tiên nữ từ Thi Kiên Ngô x
144 Thanh dạ ức tiên cung tử Thi Kiên Ngô x
145 Tặng tiên tử Thi Kiên Ngô x
146 Cập đệ hậu dạ phỏng nguyệt tiên tử Thi Kiên Ngô x
147 Tạ Tự Nhiên thăng thiên Thi Kiên Ngô x
148 Tu tiên từ Thi Kiên Ngô x
149 Tiên ông từ Thi Kiên Ngô x
150 Học tiên nan Vũ Nguyên Hành x
151 Đề nữ đạo sĩ cư Mã Đái x
152 Ngọc Hoa tiên tử ca Lí Khang Thành x
153 Tặng thành luyện sư tứ thủ Lưu Ngôn Sử x
167

154 Du tiên Giả Đảo x


155 Du tiên Trương Kết x
156 Mộng Lí Bạch Trương Kết x
157 Tiên nữ từ Dương Hành x
158 Hoa sơn đề Vương Mẫu từ Lí Thương Ẩn x
159 Nguyệt tịch Lí Thương Ẩn x
160 Đông hoàn Lí Thương Ẩn x
161 Hải thượng dao Lí Thương Ẩn x
162 Thất nguyệt nhị thập bát nhật dạ dữ Lí Thương Ẩn x
Vương Trịnh nhị tú tài thính vũ hậu
mộng tác
163 Dao trì Lí Thương Ẩn x
164 Đồng học Bành đạo sĩ tham liêu Lí Thương Ẩn x
165 Trùng quá Thánh nữ từ Lí Thương Ẩn x
166 Thất tịch Lí Thương Ẩn x
167 Thường Nga Lí Thương Ẩn x
168 Nguyệt dạ trọng kí Tống Hoa Dương tỉ Lí Thương Ẩn x
muội
169 Ngọc sơn Lí Thương Ẩn x
170 Hải thượng Lí Thương Ẩn x
171 Hoa nhạc hạ đề Tây Vương Mẫu miếu Lí Thương Ẩn x
172 Tân Mùi thất tịch Lí Thương Ẩn x
173 Hải khách Lí Thương Ẩn x
174 Kí Vĩnh đạo sĩ Lí Thương Ẩn x
175 Quá Cảnh Lăng Lí Thương Ẩn x
176 Sương nguyệt Lí Thương Ẩn x
177 Chức Nữ từ Lí Thương Ẩn x
178 Bích thành (bài 1) Lí Thương Ẩn x
179 Thánh nữ từ Lí Thương Ẩn x
180 Kí mộng Hứa Hồn x
181 Học tiên (nhị thủ) Hứa Hồn x
182 Phi long dẫn Trần Đào x
168

183 Vu sơn cao Trần Đào x


184 Trích tiên từ Trần Đào x
185 Hoài tiên ngâm Trần Đào x
186 Mộng trung Tư Không Đồ x
187 Du tiên (nhị thủ) Tư Không Đồ x
188 Mộng tiên Hạng Tư x
189 Mộng du tiên Hạng Tư x
190 Vãn tiên dao Ôn Đình quân x
191 Đào nguyên Lí Quần Ngọc x
192 Mục thiên tử Lí Quần Ngọc x
193 Cảm hứng tứ thủ (kì nhị) Lí Quần Ngọc x
194 Thăng tiên thao Lí Quần Ngọc x
195 Đồng Bách quán Chu Phác x
196 Tầm ẩn giả bất ngộ Cao Biền x
197 Bộ hư từ Cao Biền x
198 Đáp nhân Thái Thượng ẩn x
giả
199 Túc Đào Lệnh ẩn cư Tô Quảng Văn x
200 Hán Vũ Tiết Phùng x
201 Nhạc tiên quán Nhược Hư x
202 Lưu Nguyễn du Thiên Thai Tào Đường x
203 Lưu Nguyễn động trung ngộ tiên tử Tào Đường x
204 Tiên tử tống Lưu Nguyễn xuất động Tào Đường x
205 Tiên tử động trung hữu hoài Lưu Tào Đường x
Nguyễn
206 Lưu Nguyễn tái đáo Thiên Thai bất Tào Đường x
phục kiến chư tiên tử
207 Chức Nữ hoài Khiên Ngưu Tào Đường x
208 Hán Vũ Đế tương hầu Tây Vương Mẫu Tào Đường x
hạ giáng
209 Hán Vũ Đế vu cung trung yến Tây Tào Đường x
Vương Mẫu
169

210 Hán Vũ Đế thực tiên đào lưu hạt tương Tào Đường x
nhân gian
211 Hán Vũ Đế thỉnh Tây Vương Mẫu bất Tào Đường x
giáng
212 Vương viễn yến Ma Cô thái kinh trạch Tào Đường x
213 Ngạc Lục Hoa tương qui Cửu Nghi lưu Tào Đường x
biệt Hứa Chân Nhân
214 Mục Vương yến Vương Mẫu vu Cửu Tào Đường x
quang lưu hà quán
215 Tử hà Trương Hưu Chân Tào Đường x
216 Trương Thạc trọng kí Đỗ Lan Hương Tào Đường x
217 Ngọc Nữ Đỗ Lan Hương hạ giáng vu Tào Đường x
Trương Thạc
218 Tiêu Sử huề Lộng Ngọc thượng thăng Tào Đường x
219 Hoàng Sơ Bình tương nhập Kim Hoa Tào Đường x
sơn
220 Hán Vũ Đế tư Lí phu nhân Tào Đường x
221 Tiểu du tiên thi (98 bài) Tào Đường x
222 Tảo phát Thiên Thai Trung Nham tự, Hứa Hồn x
độ Quan Lĩnh, thứ Thiên Mụ sầm
223 Đề Tiên Du quán Hàn Hoằng x

You might also like