VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU HÀ
ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ DẦU KHÍ ANH – VIỆT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU HÀ
ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ DẦU KHÍ ANH – VIỆT
Ngành: Ngôn ngữ học so sánh, đối chiếu
Mã số: 9222024
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHẠM HÙNG VIỆT
HÀ NỘI - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu được sử dụng trong luận án
là trung thực. Những kết luận nêu trong luận án chưa
được công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
NGUYỄN THỊ THU HÀ
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận án được nghiên cứu sinh (NCS) thực hiện tại Khoa Ngôn ngữ học,
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Phạm Hùng Việt.
NCS xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Phạm Hùng Việt
đã tận tình chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm trong quá trình hướng dẫn NCS
hoàn thành nội dung luận án này.
NCS xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy cô giáo Khoa Ngôn
ngữ học của Học viện Khoa học xã hội đã giúp đỡ và tạo điều kiện để NCS
hoàn thành luận án.
NCS xin chân thành cảm ơn các Nhà khoa học trong và ngoài Học viện
đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp NCS kịp thời bổ sung, hoàn thiện nội
dung luận án.
NCS xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiệt tình từ các cá nhân,
tổ chức đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu phục
vụ cho mục đích nghiên cứu.
NCS xin chân thành cảm ơn gia đình và đồng nghiệp là những người
luôn ở bên cạnh, hỗ trợ về mặt tinh thần và chia sẻ những lúc khó khăn trong
quá trình học tập, nghiên cứu.
Một lần nữa, nghiên cứu sinh xin trân trọng cảm ơn!
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.......................7
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới và ở Việt Nam7
1.1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới ..........................................7
1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam ...........................................8
1.2. Tình hình nghiên cứu của thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt .11
1.2.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh......................11
1.2.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ dầu khí trong tiếng Việt......................18
1.3. Tiểu kết......................................................................................................19
Chương 2: CƠ SỞ LÍ LUẬN.........................................................................20
2.1. Cơ sở lí luận về thuật ngữ và thuật ngữ dầu khí .......................................20
2.1.1. Khái niệm về thuật ngữ và thuật ngữ dầu khí........................................20
2.1.2. Đặc điểm của thuật ngữ..........................................................................33
2.1.3. Phương thức đặt thuật ngữ.....................................................................42
2.1.4. Đơn vị cấu tạo nên thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt ..........44
2.1.5. Thuật ngữ với lí thuyết định danh..........................................................46
2.1.6. Phân biệt thuật ngữ và một số khái niệm liên quan ...............................50
2.2. Cơ sở lí luận về ngôn ngữ học đối chiếu...................................................51
2.2.1. Những nguyên tắc chung trong đối chiếu ngôn ngữ..............................52
2.3. Tiểu kết......................................................................................................55
Chương 3: ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC VÀ ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO
CỦA THUẬT NGỮ DẦU KHÍ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT57
3.1. Dẫn nhập ...................................................................................................57
3.2. Phương thức cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Anh và tiếng Việt..............57
3.2.1. Phương thức cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Anh.................................57
3.2.2. Phương thức cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Việt.................................64
3.3. Đối chiếu số lượng các thành tố cấu tạo TNDK tiếng Anh và tiếng Việt68
iv
3.3.1. thuật ngữ dầu khí tiếng Anh và tiếng Việt xét theo số lượng thành tố..68
3.3.2. Đánh giá điểm tương đồng và khác biệt của thuật ngữ dầu khí tiếng Anh
và tiếng Việt xét trên số lượng thành tố cấu tạo ..............................................70
3.4. Đối chiếu đặc điểm về cấu tạo và từ loại của thuật ngữ dầu khí Tiếng Anh
và Tiếng Việt....................................................................................................72
3.4.1. thuật ngữ dầu khí gồm một thành tố cấu tạo..........................................72
3.4.2. Thuật ngữ dầu khí gồm hai thành tố cấu tạo..........................................75
3.4.3. Thuật ngữ dầu khí gồm ba thành tố cấu tạo...........................................80
3.4.4. Thuật ngữ dầu khí gồm bốn thành tố cấu tạo.........................................82
3.4.5. TNDK gồm năm thành tố cấu tạo..........................................................83
3.4.6. TNDK gồm sáu và bảy thành tố cấu tạo................................................84
3.4.7. Thuật ngữ là từ viết tắt...........................................................................85
3.4.8. Những điểm tương đồng và khác biệt về đặc điểm cấu tạo và từ loại của
thuật ngữ dầu khí tiếng Anh và tiếng Việt........................................................85
3.5. Đối chiếu mô hình cấu tạo của thuật ngữ dầu khí Tiếng Anh và Tiếng Việt88
3.5.1. Các mô hình cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Anh.................................88
3.5.2. Các mô hình cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Việt :...............................93
3.5.3. Những điểm tương đồng khác biệt về mô hình cấu tạo của thuật ngữ dầu
khí tiếng Anh và tiếng Việt ............................................................................103
3.6. Tiểu kết....................................................................................................103
Chương 4: ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC TẠO LẬP VÀ ĐẶC ĐIỂM
ĐỊNH DANH CỦA THUẬT NGỮ DẦU KHÍ TRONG TIẾNG ANH VÀ
TIẾNG VIỆT ................................................................................................106
4.1. Những phương thức tạo lập Thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng
Việt.................................................................................................................106
4.1.1. Phương thức thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường................................108
4.1.2. Phương thức vay mượn từ Thuật ngữ dầu khí nước ngoài ..................109
4.2. Đặc điểm định danh Thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt........115
v
4.2.1. Đặc điểm định danh thuật ngữ dầu khí xét theo kiểu ngữ nghĩa...............116
4.3. Mô hình định danh thuật ngữ dầu khí.....................................................118
4.3.1. Thuật ngữ sử dụng trong tìm kiếm, thăm dò dầu khí...........................118
4.3.2. Thuật ngữ sử dụng trong khai thác dầu khí .........................................122
4.3.3. Thuật ngữ sử dụng trong chế biến dầu khí...........................................129
4.3.4. Thuật ngữ sử dụng trong kỹ thuật phụ trợ dầu khí ..............................132
4.4. Một số vấn đề chuẩn hóa thuật ngữ dầu khí trong tiếng Việt.................138
4.4.1. Khái niệm chuẩn hóa và chuẩn hóa thuật ngữ .....................................138
4.4.2. Thực trạng thuật ngữ dầu khí trong tiếng Việt.....................................141
4.4.3. Đề xuất về việc chuẩn hóa thuật ngữ dầu khí trong tiếng Việt............142
4.5. Tiểu kết....................................................................................................145
KẾT LUẬN...................................................................................................147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................152
NGỮ LIỆU KHẢO SÁT..............................................................................161
vi
DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐHQG Đại học Quốc gia
KHXH Khoa học xã hội
Nxb Nhà xuất bản
T
THCN
Thành tố
Trung học Chuyên nghiệp
TN Thuật ngữ
TNDK Thuật ngữ dầu khí
vii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. TNDK tiếng Anh và tiếng Việt xét theo số lượng thành tố................. 69
Bảng 3.2: TNDK tiếng Anh gồm 1 thành tố cấu tạo ........................................... 72
Bảng 3.3: TNDK tiếng Việt gồm 1 thành tố cấu tạo............................................ 74
Bảng 3.4: Thuật ngữ dầu khí tiếng Anh 2 thành tố.............................................. 77
Bảng 3.5: Thuật ngữ dầu khí tiếng Việt 2 thành tố.............................................. 79
Bảng 3.6: TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 3 thành tố .......................................... 81
Bảng 3.7: TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 4 thành tố .......................................... 82
Bảng 3.8: TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 5 thành tố .......................................... 84
Bảng 3.9. TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 6 và 7 thành tố................................... 85
Bảng 3.10. Tổng hợp từ loại TNDK tiếng Anh và tiếng Việt.............................. 87
Bảng 3.11. Bảng tổng hợp số lượng mô hình câu tạo thuật ngữ Anh-Việt ....... 102
Bảng 4.1. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ chủ thể tìm kiếm thăm dò dầu khí
trong tiếng Anh và tiếng Việt................................................................ 121
Bảng 4.2. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ chủ thể khai thác dầu khí trong tiếng
Anh và tiếng Việt................................................................................... 127
Bảng 4.3. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ chủ thể chế biến dầu khí trong tiếng
Anh và tiếng Việt................................................................................... 131
Bảng 4.4. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ chủ thể kỹ thuật phụ trợ dầu khí trong
tiếng Anh và tiếng Việt.......................................................................... 133
Bảng 4.5. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ chủ thể kinh tế dầu khí trong tiếng
Anh và tiếng Việt................................................................................... 135
viii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. TNDK tiếng Anh và tiếng Việt xét theo số lượng thành tố............. 69
Biểu đồ 3.2: TNDK tiếng Anh gồm 1 thành tố cấu tạo ....................................... 73
Biểu đồ 3.3: TNDK tiếng Việt gồm 1 thành tố cấu tạo ....................................... 74
Biểu đồ 3.4: TNDK tiếng Anh 2 thành tố............................................................ 78
Biểu đồ 3.5: Thuật ngữ dầu khí tiếng Việt 2 thành tố.......................................... 80
Biểu đồ 3.6: TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 3 thành tố ...................................... 81
Biểu đồ 3.7: TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 4 thành tố ...................................... 83
Biểu đồ 3.8: TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 5 thành tố ...................................... 84
Biểu đồ 3.9. Tổng hợp từ loại TNDK tiếng Anh và tiếng Việt ........................... 87
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trong quá trình hội nhập toàn cầu và phát triển, tiếng Anh đã
trở thành ngôn ngữ quốc tế. Chính vì vậy, yêu cầu sử dụng tiếng Anh hiệu quả
trong học tập, giao tiếp và các ngành khoa học khác là rất quan trọng. Nằm
trong bối cảnh chung đó, tiếng Anh cũng được xem như là điều kiện tiên
quyết cho những người làm trong ngành dầu khí, đặc biệt là giới sinh viên
ngày nay. Các hoạt động của ngành dầu khí không chỉ sử dụng những từ ngữ
thông thường mà còn phải sử dụng một bộ phận từ ngữ chỉ đích danh những
khái niệm, biểu tượng, phạm trù, các sự vật, hiện tượng …, đó chính là hệ
thuật ngữ. Các nhà ngôn ngữ học xác định thuật ngữ là những từ chuyên môn
có nghĩa đặc biệt; những từ cố gắng chỉ có một nghĩa với tính cách biểu hiện
chính xác các khái niệm và tên gọi các sự vật [37]. Thuật ngữ khác từ thông
thường ở chỗ nó có ý nghĩa biểu vật trùng hoàn toàn với sự vật, hiện tượng …
có thực trong thực tế đối tượng của ngành kỹ thuật và ngành khoa học tương
ứng, và có ý nghĩa biểu niệm là khái niệm về các sự vật hiện tượng này đúng
như chúng tồn tại trong tư duy [4].
Trong xu hướng toàn cầu hóa như vậy, nhiệm vụ đặt ra là cần phải hệ
thống hóa và chuẩn hóa các thuật ngữ khoa học được sử dụng trong ngành
Dầu khí làm sao để nó vừa có giá trị khoa học, vừa mang tính thời sự rõ rệt.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay, hầu hết các thuật ngữ dùng để biểu đạt các
khái niệm, biểu tượng, phạm trù thường được chuyển dịch hoặc vay mượn
từ tiếng nước ngoài như tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung và bây giờ là
tiếng Anh. Cho nên, còn thiếu những định nghĩa thống nhất cho nội dung
thuật ngữ bằng tiếng Việt, đặc biệt là cấu tạo, ngữ nghĩa và cách định danh
chưa được chuẩn hóa.
Thuật ngữ thường gắn liền với những từ ngữ chuyên môn có tính đặc
thù. Những từ ngữ chuyên môn đó mô tả một thực thể hay một khái niệm một
cách cụ thể, rõ ràng trong khi từ thông thường lại ít chính xác và thường đa
2
nghĩa. Ví dụ như thuật ngữ bus trong tiếng Anh được phiên chuyển sang tiếng
Việt với từ ngữ thông thường có nghĩa là xe buýt (một loại phương tiện giao
thông công cộng). Song với tư cách là một thuật ngữ Dầu khí thì bus lại có
nghĩa là thanh dẫn (những thanh dẫn điện được xếp cùng với nhau để tập hợp
và phân phối dòng điện từ nhiều nguồn). Đó là lý do các thuật ngữ cần phải
được đối chiếu với một ngôn ngữ phổ biến và thông dụng trên thế giới để đi
tới một cách hiểu thống nhất trong ngành. Đồng thời việc xây dựng hệ thuật
ngữ cho ngôn ngữ khoa học của ngành Dầu khí cũng là một trong những việc
cần được quan tâm.
Khảo sát ban đầu cho thấy, nhiều TNDK tiếng Việt chưa biểu đạt được
tính chính xác khái niệm. Không ít những thuật ngữ vay mượn nước ngoài
được sử dụng với nhiều biến thể khác nhau mà chưa được chuẩn hóa, hoặc có
những TNDK tiếng Anh có mà tiếng Việt chưa có … Việc chưa thống nhất và
vay mượn đặt ra một yêu cầu là nên phân tích, đối chiếu sự giống và khác
nhau giữa các thuật ngữ để đảm bảo những thuật ngữ đó biểu đạt được một
cách chính xác những khái niệm, biểu tượng, phạm trù, các sự vật, hiện tượng
tương ứng với ngôn ngữ gốc. Từ đó đặt ra việc nghiên cứu đối chiếu thuật
ngữ, mà trong trường hợp cụ thể này là TNDK. Yêu cầu hoàn thiện và từng
bước phát triển hệ thống thuật ngữ khoa học tiếng Việt sao cho phù hợp với
những chuẩn mực chung của thế giới trong ngành Dầu khí nhằm đáp ứng tình
hình hoạt động cũng như thúc đẩy quá trình hội nhập với thế giới là một tất yếu.
Là giảng viên dạy tiếng Anh tại một Trường đại học, là người góp phần
đào tạo những thế hệ tương lai, chúng tôi nhận thấy sự cần thiết của việc xây
dựng một chương trình ngoại ngữ chuyên ngành chuẩn mà trọng tâm là ngôn
ngữ, văn phong khoa học với sự trợ giúp đắc lực của hệ thuật ngữ tiếng Anh
chuyên ngành chính xác. Chính vì vậy, việc đi sâu vào nghiên cứu cấu tạo,
ngữ nghĩa các thuật ngữ chuyên ngành dầu khí là thiết thực và có tính thời sự.
Việc chỉ ra được nguồn gốc, phương thức cấu tạo, nội dung ngữ nghĩa và cách
sử dụng thuật ngữ chuyên ngành là góp phần không nhỏ trong việc hoàn thiện
3
hệ thống thuật ngữ chuyên ngành trong ngành dầu khí. Thuật ngữ chuyên
ngành dầu khí là hệ thuật ngữ nằm trong tiếng Việt nói chung và trong hệ
thống ngôn ngữ khoa học ở Việt Nam nói riêng, nhưng hệ thuật ngữ này chưa
được quan tâm tới và thực tế từ trước đến nay chưa có một công trình khoa
học nào nghiên cứu chuyên sâu về thuật ngữ chuyên ngành dầu khí. Ý thức
được tầm quan trọng và sự cần thiết của hệ thuật ngữ chuyên ngành dầu khí
trong toàn bộ hệ thống thuật ngữ khoa học ở Việt Nam, chúng tôi bước đầu
tiến hành nghiên cứu đặc điểm của hệ thuật ngữ này về nguồn gốc, cấu tạo,
ngữ nghĩa và cách sử dụng với mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ
bé vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thuật ngữ chuyên ngành dầu khí cho
ngành và làm giàu thêm cho hệ thống thuật ngữ khoa học Việt Nam.
Từ thực tế nêu trên chúng tôi chọn nghiên cứu “Đối chiếu thuật ngữ
Dầu khí Anh-Việt” làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nhằm làm sáng tỏ đặc trưng về cấu tạo và ngữ nghĩa của hệ
thống thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt. Từ đó, luận án xác
định những điểm tương đồng và khác biệt giữa hệ thống thuật ngữ dầu khí ở
hai ngôn ngữ, tìm ra được những điểm cần lưu ý khi xây dựng thuật ngữ dầu
khí tiếng Việt. Nghiên cứu của luận án cũng là cơ sở để chúng tôi đề xuất
hướng chuẩn hóa thuật ngữ dầu khí tiếng Việt.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Trình bày các quan điểm lý thuyết về thuật ngữ, về ngôn ngữ học đối
chiếu để từ đó xác lập cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu;
- Xác định các loại mô hình kết hợp các thành tố để tạo thành TNDK ở
cả hai ngôn ngữ là tiếng Anh và tiếng Việt.
- Đối chiếu đặc điểm cấu tạo của TNDK trong tiếng Anh với tiếng Việt;
- Đối chiếu đặc điểm định danh của TNDK trong tiếng Anh với tiếng Việt;
4
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất phương hướng, biện
pháp cụ thể để xây dựng và chuẩn hóa TNDK tiếng Việt góp phần nâng cao
hiệu quả giảng dạy và hoạt động của ngành dầu khí tại Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ TNDK trong tiếng Anh và
tiếng Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là đối chiếu đặc điểm cấu tạo, đặc
điểm định danh của hệ TNDK trong tiếng Anh và tiếng Việt và vấn đề chuẩn
hóa TNDK tiếng Việt.
Ngữ liệu nghiên cứu:
Tài liệu nghiên cứu là các thuật ngữ dầu khí rút ra từ các quyển từ điển
chuyên ngành dầu khí được thu thập từ:
 Từ điển Dầu khí Anh – Việt do nhóm tác giả của Viện Dầu khí Việt Nam
biên soạn , được phát hành năm 1996, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật.
 Từ điển Dầu khí Anh – Nga - Việt do nhóm tác giả của Tổng hội Địa chất
Việt Nam biên soạn , được phát hành năm 2004, Nhà xuất bản Lao động xã hội.
 Các thông tin từ website: Terminology from Wikipedia, the free
encyclopedia
Ngoài ra, các thuật ngữ còn được thu thập từ những cuốn từ điển
TNDK tiếng Anh, giáo trình chuyên ngành, các tài liệu, tạp chí, bài báo
chuyên đề ngành dầu khí bằng tiếng Anh và tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng một số phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được sử dụng để miêu tả đặc điểm cấu tạo, đặc điểm định
danh cũng như các vấn đề liên quan đến TNDK trong tiếng Anh và tiếng Việt.
5
4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng chính và xuyên suốt
trong luận án để so sánh đối chiếu hệ thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành dầu
khí với hệ thuật ngữ tiếng Việt chuyên ngành dầu khí về cấu tạo và định danh;
từ đó tìm ra các điểm tương đồng và khác biệt giữa hai hệ thuật ngữ, làm cơ
sở đề xuất các định hướng chuẩn hóa thuật ngữ phù hợp. Khi sử dụng phương
pháp này, tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ mẫu, còn tiếng Việt là ngôn
ngữ đối chiếu.
4.3. Phương pháp phân tích thành tố
Phương pháp phân tích thành tố dùng để phân tích đặc điểm cấu tạo của
một thuật ngữ xét theo thành tố trực tiếp nhằm xác định mô hình cấu trúc của
các thuật ngữ này
4.4. Thủ pháp thống kê, phân loại
Thủ pháp thống kê định lượng giúp luận án tính toán tần số xuất hiện
và tần số sử dụng của các thuật ngữ, từ đó có được các số liệu cụ thể làm cơ
sở xác thực cho những kết luận trong quá trình nghiên cứu. Kết quả thống kê
được tổng hợp thành các bảng biểu, các con số thông qua các mô hình hay tỷ
lệ phần trăm. Những kết quả thu được giúp chúng ta hình dung dễ dàng các
đặc trưng cơ bản về cấu trúc hình thức và cấu trúc ngữ nghĩa của thuật ngữ
tiếng Anh, tiếng Việt chuyên ngành. Thủ pháp này được sử dụng để hệ thống
số liệu TNDK: thống kê từ loại, thống kê yếu tố từ loại, ... Kết quả số liệu
thống kê được sử dụng làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đối chiếu TNDK.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Có thể nói đây là công trình luận án đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu
đối chiếu một cách hệ thống và toàn diện những đặc điểm cơ bản của hệ
TNDK tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện cấu tạo và định danh.
Dựa vào kết quả nghiện cứu, luận án đã đề xuất các phương hướng, biện
pháp cụ thể, khả thi nhằm xây dựng và chuẩn hóa các TNDK trong tiếng Việt.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận
Luận án sẽ làm rõ những điểm giống và khác nhau về phương thức cấu
tạo TNDK trong hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt. Luận án cũng chỉ ra
tính có lý do của TNDK cùng với việc các nhà khoa học lựa chọn những đặc
trưng nào của khái niệm, đối tượng để làm cơ sở định danh khi tạo ra TNDK.
Kết quả của luận án sẽ góp phần vào việc làm rõ lý thuyết về thuật ngữ và
lí luận về chuẩn hóa ngôn ngữ nói chung, chuẩn hóa về thuật ngữ nói riêng.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ:
Góp phần phục vụ quá trình giảng dạy và biên soạn các tài liệu cho
chuyên ngành dầu khí;
Góp phần cho việc chỉnh lí để chuẩn hóa hệ thống TNDK hiện có trong
tiếng Việt;
Là cơ sở để đề xuất các biện pháp, phương hướng cấu tạo các TNDK
mà trong tiếng Việt hiện chưa có;
Là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu thuật ngữ học,
các cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động trong lĩnh vực dầu khí.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận án có 04 chương, được bố cục như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lí luận.
Chương 3: Đối chiếu phương thức và đặc điểm cấu tạo của TNDK
trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Chương 4: Đối chiếu phương thức tạo lập và đặc điểm định danh của
TNDK trong tiếng Anh và tiếng Việt.
7
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới và ở
Việt Nam
1.1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới
Tuy không phải là một lĩnh vực hoàn toàn mới trong ngành nghiên cứu,
nhưng phải đến nửa sau thế kỉ XX, thuật ngữ mới thực sự được khẳng định
như một ngành khoa học. Việc nghiên cứu thuật ngữ xuất phát thông qua quá
trình quan sát, hình thành lí thuyết nhằm đáp ứng sự ra đời của một bộ phận
từ ngữ đặc biệt trong ngôn ngữ chuyên môn. Bên cạnh đó trong quá trình giao
tiếp, dựa trên thực tế, nhóm từ ngữ đặc biệt này được coi như những từ ngữ có
ứng dụng độc lập. Trên thực tế, thuật ngữ ra đời và được sử dụng trước khi
người ta tìm cách định nghĩa chúng. Bên cạnh cái chung, mỗi ngành khoa học
đều tạo dựng cho mình các cơ sở xây dựng nên những hệ thống thuật ngữ
chuyên ngành khác nhau, vì thế chúng có những đặc thù riêng. Để hình dung
một cách rõ hơn về nội dung của khái niệm “thuật ngữ khoa học”, trước hết
chúng ta hãy đến với quan niệm của các nhà khoa học Âu - Mĩ, nơi có nền
khoa học - kĩ thuật - công nghệ phát triển sớm, nhanh và mạnh nhất trên toàn
thế giới.
Bàn về thuật ngữ, chúng ta không thể không nhắc tới các nhà thuật
ngữ học nổi tiếng Eugen WUSTER – một nhà ngôn ngữ người Áo, ông được
xem như cha đẻ của ngành thuật ngữ, những nghiên cứu của ông là cơ sở cho
sự phát triển thuật ngữ hiện đại sau này. Trong luận án tiến sĩ của mình, năm
1930, ông đã trình bày luận cứ cho hệ thống hóa phương pháp làm việc theo
thuật ngữ, thành lập một số nguyên tắc làm việc với các điều khoản và vạch ra
những điểm chính của phương pháp tạo ra hệ thuật ngữ.
Theo WUSTER (trích trong Cabré, 1995: 5), bốn học giả có thể được
xác định là những người cha trí tuệ về lý thuyết thuật ngữ trên quy mô quốc
8
tế: Alfred Schlomann – học giả người Đức - người đầu tiên xem xét tính chất
hệ thống các điều khoản đặc biệt của thuật ngữ; tiếp theo là nhà ngôn ngữ học
người Thụy Sĩ – Ferrdinand de Saussure, người luôn quan tâm tới hệ thống tự
nhiên của ngôn ngữ, rồi đến E. Dresen, một người Nga, người tiên phong
trong việc nhấn mạnh tầm quan trọng của tiêu chuẩn hóa; và JE Holmstrom,
học giả người Anh từ UNESCO. Ngoài ra, còn có một số học giả khác như:
R.W. Brown (Mĩ), J.C. Boulanger (Anh), W.E. Flood (Mĩ), J.C. Segen (Mĩ).
Mục đích hoạt động của họ luôn hướng vào thực tiễn và có nhiều đóng góp
quan trọng không chỉ trong việc soạn thảo các văn bản chỉ dẫn biên soạn các
cuốn từ điển thuật ngữ mà còn kết hợp để đưa ra các văn bản xây dựng, chỉnh
lý hệ thống thuật ngữ sau này trên toàn thế giới.
Bên cạnh những tên tuổi của các nhà thuật ngữ học Âu – Mĩ, các nhà
thuật ngữ học nổi tiếng của Xô viết như: A.S. gerd, B.N.Golovin, S.V.Grinev,
A.D.Hajutin, T.L.Kandenlaki, R.Ju.Kobrin, Z.I.Komarova, O.N.Trbachev,
N.V.Vasilieva, M.N.Volodina, D.S. Lotte, N.P. Kuz'kin, A.I. Moiseev, A.A.
Reformatskij, V.P. Đanilenko, V.M. Leichik… cũng dành rất nhiều công sức
để đi sâu vào phân tích bản chất, chức năng, khái niệm của thuật ngữ để từ đó
họ xây dựng nên những định nghĩa về thuật ngữ khoa học. Một trong số đó
phải kể đến nghiên cứu của tác giả G.O. Vinokur [93] về một số hiện tượng
cấu tạo từ trong hệ thuật ngữ kĩ thuật Nga (1939), nghiên cứu của ông đã trở
thành nghiên cứu kinh điển thời kỳ đó và làm nền tảng cho nhiều nghiên cứu
về sau.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ khoa học tiếng Việt xuất hiện khá muộn so với
các nước phương Tây và phải đến đầu thế kỷ XX, vấn đề nghiên cứu và xây
dựng thuật ngữ mới được chú ý. Từ những năm 1919, Dương Quảng Hàm,
người tiên phong trong lĩnh vực thuật ngữ ở Việt Nam đã có bài “Bàn về tiếng
An – Nam’trên tạp chí Nam Phong (1919) đề cập đến việc biên soạn từ điển
và đặt tên danh từ khoa học. Tiếp đó là một số bài như “Về sự dịch tiếng hóa
9
học” của Nguyễn Ứng hay “Danh từ hóa học” của Nguyễn Triệu Luật cũng
đều đề cập đến việc xây dựng thuật ngữ nhưng chủ yếu là dựa trên cơ chế vay
mượn từ tiếng Pháp hoặc tiếng Hán.
Thời kỳ sau này, khi nhà nước có chủ trương “tranh đấu vì tiếng nói,
chữ viết” của dân tộc mình thì bắt đầu xuất hiện những thuật ngữ khoa học
bằng tiếng Việt. Đầu tiên phải kể đến tác phẩm “Danh từ khoa học” của
Hoàng Xuân Hãn (1948), một nhà Toán học - Sử học - Ngữ văn, và cũng là
người đặt nền móng cho những nghiên cứu lý thuyết thuật ngữ ở Việt Nam.
Đóng góp của công trình không chỉ tập hợp, mô tả các thuật ngữ mới mà còn
đưa ra phương pháp, cách thức sáng tạo thuật ngữ tiếng Việt hiện đại. Sau
Hoàng Xuân Hãn, những công trình tiếp nối nghiên cứu về thuật ngữ và ngôn
ngữ khoa học có thể kể đến là: “Về vấn đề xây dựng thuật ngữ của các ngành
khoa học và kỹ thuật” của Võ Xuân Trang (1973), “Mấy vấn đề thay thế thuật
ngữ vay mượn tiếng nước ngoài bằng thuật ngữ thuần Việt” của Võ Xuân
Trang (1977), “Về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học” của Lưu Vân Lăng
(1977), “Từ thường và từ chuyên môn” của Nguyễn Đức Dân (1977), hay
“Nghiên cứu ngôn ngữ khoa học - kỹ thuật tiếng Việt (về ngữ pháp)” của
Hoàng Trọng Phiến (1985). Nhìn chung, các nhà nghiên cứu về thuật ngữ ở
Việt Nam thời kỳ này chủ yếu tập trung để đưa ra các định nghĩa thuật ngữ, vị
trí, đặc điểm, con đường hình thành của thuật ngữ, và vấn đề chuẩn hóa thuật
ngữ tiếng Việt… Cho dù mỗi tác giả có cái nhìn, đánh giá khác nhau về thuật
ngữ, nhưng họ vẫn chịu ảnh hưởng của những trường phái thuật ngữ lớn trên
thế giới: trường phái Praha, hoặc là trường phái Áo, và đặc biệt là trường phái
Xô Viết.
Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, bên cạnh việc xây dựng một thứ tiếng
nói riêng hoàn thiện và luôn phát triển của dân tộc, các nhà khoa học Việt
Nam, trước khi muốn hội nhập vào thế giới khoa học bằng vốn ngoại ngữ
riêng của mình, phải nghĩ ngay đến việc chuẩn hóa, xây dựng sáng tạo hệ
thuật ngữ khoa học của ngành mình. Vì vậy, các thuật ngữ chuyên ngành đã
10
ra đời ồ ạt. Trong dòng chảy lịch sử, kể từ khi cuốn từ điển đầu tiên liên quan
đến tiếng Việt được xuất bản năm 1651 cho đến năm 2005, theo thống kê của
Vũ Quang Hào thì số lượng từ điển về tiếng Việt, liên quan đến tiếng Việt,
được dịch ra tiếng Việt, được biên soạn bằng tiếng Việt có khoảng 1000 cuốn.
Trong số đó, từ điển về thuật ngữ có số lượng lớn nhất bao gồm các loại từ
điển giải thích thuật ngữ (từ điển chuyên ngành), từ điển đối chiếu thuật ngữ,
từ điển vừa giải thích vừa đối chiếu thuật ngữ, các từ điển bách khoa chuyên
ngành, với tổng số là 330 cuốn.
Bên cạnh những thành tựu đáng kể, công tác nghiên cứu và xây dựng
thuật ngữ ở nước ta vẫn còn những điểm cần hoàn thiện và thống nhất thêm.
Tạp chí ngôn ngữ là một tạp chí uy tín và là diễn đàn để các nhà khoa học
chia sẻ những lý luận, quan điểm khác nhau về vấn đề này. Các ý kiến tập
trung chủ yếu vào những vấn đề sau:
a) Những yêu cầu của thuật ngữ;
b) Về phương thức đặt thuật ngữ;
c) Vấn đề vay mượn thuật ngữ nước ngoài;
d) Có nên chấp nhận một số yếu tố mới hay không để cho thuật ngữ phiên
dịch gần với diện mạo quốc tế mà không quá xa lạ với tiếng Việt.
Như vậy, có thể thấy, các vấn đề thuật ngữ học được nghiên cứu ở Việt
Nam chủ yếu là từ những đòi hỏi của thực tiễn: xây dựng các hệ thuật ngữ
khoa học kỹ thuật. Cùng với những công trình lý luận thuật ngữ của Nguyễn
Đức Tồn và Hà Quang Năng bàn về vấn đề xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ
tiếng Việt, còn những luận án Tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề xây dựng và
chuẩn hóa thuật ngữ trong một số lĩnh vực chuyên ngành cụ thể như: Luận án
tiến sĩ “ Hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt-Đặc điểm và cấu tạo thuật ngữ” của
Vũ Quang Hào, bảo vệ năm 1991; luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Bích Hà
“So sánh cấu tạo thuật ngữ kinh tế thương mại trong tiếng Nhật và tiếng Việt
hiện đại” bảo vệ năm 2000; luận án “Khảo sát hệ thuật ngữ tin học viễn thông
11
tiếng Việt” của Nguyễn Thị Kim Thanh, bảo vệ năm 2005, luận án tiến sĩ “ So
sánh đặc điểm cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ tài chính-kế
toán-ngân hàng tiếng Anh và tiếng Việt” của Nguyễn Thị Tuyết, bảo vệ năm
2011; Luận án “ Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa thuật ngữ sở hữu trí tuệ tiếng
Việt” của Mai Thị Loan, bảo vệ năm 2012 hay “ Thuật ngữ khoa học kỹ thuật
xây dựng trong tiếng Việt”-Luận án tiến sĩ của Vũ Thị Thu Huyền bảo vệ
năm 2012, và gần đây là luận án tiến sĩ của Lê Thanh Hà“Đối chiếu thuật ngữ
du lịch Việt – Anh” bảo vệ năm 2014, luận án tiến sĩ của Quách Thị
Gấm“Nghiên cứu thuật ngữ báo chí tiếng Việt”, bảo vệ năm 2015; Luận án
của Nguyễn Thanh Dung về “Đối chiếu thuật ngữ âm nhạc Việt –Anh” năm
2017 và, luận án “Đối chiếu thuật ngữ phụ sản trong tiếng Anh và tiếng Việt”
của Phí Thị Hà năm 2017, …
Nói tóm lại, ở Việt Nam, các vấn đề về nghiên cứu thuật ngữ chủ yếu bàn
đến: các tiêu chuẩn của thuật ngữ, phương thức đặt thuật ngữ, vấn đề vay mượn
thuật ngữ, vấn đề phiên âm các thuật ngữ nước ngoài, vấn đề thống nhất thuật
ngữ, một số các nghiên cứu gần đây tập trung về đối chiếu thuật ngữ.
1.2. Tình hình nghiên cứu của thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và
tiếng Việt
1.2.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh
Nghiên cứu từ vựng thuật ngữ là một trong những hướng triển vọng của
ngôn ngữ học đương đại và thuật ngữ học. Các loại ngôn ngữ chuyên ngành là
phần cấu thành từ điển ngôn ngữ phát triển năng động nhất, thực hiện vai trò
cực kỳ to lớn trong xã hội hiện đại. Đây được xem là đặc điểm “thông tin”,
ngày càng dựa vào các nghiên cứu khoa học và các kiến thức nhận được, được
chuyên môn hóa trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, sản xuất và các dạng hoạt
động khác. Mỗi một lĩnh vực kiến thức hoặc hoạt động chuyên ngành tạo ra
công cụ ngôn ngữ của mình, nhằm phục vụ các mục tiêu nêu ra các quan điểm
và khái niệm, xác định nghĩa của chúng và truyền đạt trong quá trình giao tiếp.
12
Các ngôn ngữ hiện đại cho các mục đích chuyên ngành đóng vai trò
như là phương tiện giao tiếp, hoạt động tích cực và phát triển không ngừng.
Theo ý kiến của K.JA. Averbukh, có thể chia ra năm khuynh hướng phát triển
ngôn ngữ cho mục đích chuyên ngành: hội nhập, khu biệt, quốc tế hóa, nhất
thể hóa và tiết kiệm hóa (luật tiết kiệm) [89, tr.6].
Bởi vì các ngôn ngữ cho các mục đích chuyên ngành tác động qua lại
thường xuyên với ngôn ngữ toàn dân, nên ranh giới giữa từ vựng chuyên
ngành và không chuyên ngành là rất linh động. Một mặt, các từ chuyên ngành
có thể chuyển thành ngôn ngữ toàn dân, đồng thời chịu mất đi một số đặc tính
của mình, mặt khác các đơn vị từ vựng của ngôn ngữ toàn dân có thể được thuật
ngữ hóa.
Khác biệt căn bản của các ngôn ngữ chuyên ngành với ngôn ngữ toàn
dân là sự hiện diện trong ngôn ngữ chuyên ngành các tiểu hệ thống từ vựng
đặc biệt, trước hết là thuật ngữ, và một phần hệ thống cú pháp bị giảm đi hoặc
biến dạng. Các ngôn ngữ chuyên ngành nhìn chung không có các cấu trúc ngữ
pháp đặc biệt gặp ở ngoài phạm vi của chúng; đặc điểm của các ngôn ngữ
chuyên ngành là sự phân bố thống kê các cấu trúc ngữ pháp khác với ngôn
ngữ toàn dân.
Ngôn ngữ cho các mục đích chuyên ngành phát triển trên cơ sở các ngôn
ngữ tự nhiên, xây dựng trên chúng, có một số đặc tính đặc thù mới trong từ
vựng, cấu tạo từ, cú pháp, phong cách học, cho phép chúng phục vụ các nhu
cầu giao tiếp ngôn ngữ xã hội học trong các lĩnh vực xã hội” [104, tr.122].
Từ vựng thuật ngữ như là một phần cấu thành từ điển có hàng loạt các
đặc tính. “Từ vựng thuật ngữ khoa học cần không chỉ đơn giản là tổng thể các
từ, mà là hệ thống các từ hoặc cụm từ được tổ chức lại với nhau theo một
phương thức nhất định” [107, tr.67]. Khi so sánh các thuật ngữ chuyên ngành
cụ thể phát hiện ra các nét tiêu biểu của chúng bắt nguồn từ sự khác biệt theo
thời gian xuất hiện, nguồn gốc hình thành và số lượng các hình vị cấu tạo từ.
13
Ngoài ra cần phải bổ sung thêm các đặc điểm cấu trúc, nguồn gốc, ngữ nghĩa,
chức năng và các đặc điểm khác của các thuật ngữ thành phần [106, tr. 143].
Xuất phát từ quan điểm như vậy, TNDK tiếng Anh cũng có các đặc
điểm và giai đoạn phát triển chính của mình.
Dầu và các sản phẩm dầu – hiện tượng mà việc đảm bảo cuộc sống của
con người hiện đại phụ thuộc nhiều vào nó. Dầu chiếm vị trí chủ đạo trong
nền kinh tế nhiên liệu-năng lượng thế giới. Thậm chí không phụ thuộc vào
các ưu thế về lợi ích của dầu khí được phân bố rải rác hiện nay, TNDK vẫn
được chú trọng từ quan điểm ngôn ngữ học.
TNDK tiếng Anh xây dựng trên mô hình không đồng nhất, là kết quả
của sự tác động qua lại giữa một số lĩnh vực kiến thức của con người. Trong
đó bao gồm các thuật ngữ địa chất, địa vật lý, địa hóa học, và cả các thuật ngữ
liên quan tới khoan, xả nước, gia cố và đổ xi măng các giếng dầu khí, nghiên
cứu các mỏ dầu khí, thủy lực ngầm, khai thác dầu khí, các phương pháp chế
biến, khu vực giếng khoan, các thuật ngữ thiết bị khoan và khai thác, thuật
ngữ đường ống, thuật ngữ khoan biển, thuật ngữ kinh tế.
Sự xuất hiện của các thuật ngữ đầu tiên diễn ra vào giữa thế kỷ XIX, và
mỗi giai đoạn tiếp theo đều có các đặc tính là nguồn gốc gia tăng hệ TNDK
của mình để phản ánh sự phát triển của chính chuyên ngành. Đó là nguồn dự
trữ của tiếng Anh và vay mượn của các tiếng khác (tất nhiên ở mức độ không
đồng đều). Trong số các phương thức cấu tạo từ có cả các phương thức ngữ pháp
và cả ngữ nghĩa. Hệ thuật ngữ này có nhiều điểm độc đáo: ở đây có cả sự bảo
thủ được thể hiện qua việc không muốn loại bỏ đi các thuật ngữ cũ đã trải qua
công nghệ và kỹ thuật mà chúng biểu thị, và cả việc tích cực tạo ra từ mới.
Thông qua những khảo sát bước đầu về TNDK trong tiếng Anh, chúng
tôi nhận thấy với tầm quan trọng hàng đầu trong ngành công nghiệp đối với
một số quốc gia trên thế giới hiện nay, TNDK đã thu hút được sự chú ý của
đông đảo giới học thuật cả trong và ngoài ngành. TNDK xuất hiện nhiều trên
14
các tạp chí chuyên ngành, trong các bài viết của các trang mạng chuyên về
ngành công nghiệp dầu khí, và được chú trọng nghiên cứu, giảng dạy trong
các chương trình học tập tại cơ sở đào tạo về chuyên ngành dầu khí. Khi khảo
sát các trang mạng của sinh viên đang theo học ngành dầu khí cũng như của
những người hoạt động ở lĩnh vực dầu khí, chúng tôi thường xuyên bắt gặp
những băn khoăn về nghĩa của thuật ngữ này hay thuật ngữ kia là như thế nào.
Điều đó chứng tỏ rằng TNDK hiện nay là vấn đề có tính thời sự cao.
Đã có một số công trình nghiên cứu về một số bình diện của thuật ngữ
dầu khí, tiếng Anh dưới góc độ lí thuyết, trong đó phải kể đến bài viết về
Kiến trúc hệ thống thuật ngữ công nghiệp dầu khí tiếng Anh của tác giả
Dmitrievna T.S. đăng trên tạp chí Khoa học Ngữ văn. Những vấn đề lý thuyết
và thực hành, số 10 (40) 2014, phần 3-199. [96]. Bài báo xem xét rất cụ thể
những vấn đề thực hành của thuật ngữ khoa học - kỹ thuật trong tiếng Anh.
Dựa trên tài liệu của các nguồn từ vựng học nêu ra các bộ phận chủ yếu của
kiến trúc thuật ngữ công nghiệp dầu khí tiếng Anh và thiết lập các mối quan
hệ tương hỗ của chúng; tiến hành phân cấp thuật ngữ dầu khí tiếng Anh, và
mô tả những đặc điểm tiêu biểu của các phân cấp được nêu ra trong quá trình
phân tích hệ thuật ngữ dầu khí.
Liên quan đến TNDK tiếng Anh, tác gả Samigullina L.Z. đã đề cập các
bình diện chuẩn mực của TNDK trong bối cảnh của quá trình toàn cầu hóa
nền kinh tế thế giới hiện nay và sự phát triển như vũ bão các quá trình công
nghệ lĩnh vực dầu khí và sự tiếp tục tăng số lượng các đơn vị thuật ngữ có
tính tới mức độ chuẩn mực của chúng trong bài viết Các bình diện chuẩn mực
của thuật ngữ dầu khí tiếng Anh đăng trên tạp chí khoa học điện tử “Dầu khí”
số 5 , 2012 [109].
Với cách đặt vấn đề: yêu cầu cơ bản đối với thuật ngữ thường được
nhắc tới là không có đồng nghĩa trong phạm vi một hệ thống thuật ngữ nhất
định, coi đồng nghĩa như là một hiện tượng không mong muốn, xa lạ với từ
15
vựng thuật ngữ, nhưng hiện nay, các nhà khoa học đã công nhận rằng thuật
ngữ có thuộc tính của những hiện tượng ngôn ngữ học mà bất kỳ từ thường
dùng nào có, vì vậy, có cả hiện tượng đồng nghĩa. Bài báo là công trình
nghiên cứu của tác giả I.B.Tikhonova: Đồng nghĩa trong thuật ngữ chế biến
dầu tiếng Anh đăng trên tạp chí của Trường Đại học Bashkir. Cộng hòa liên
bang Nga, 2009. Tập 14, số 3 – 583 [115].
Việc nghiên cứu đồng nghĩa trong thuật ngữ chế biến dầu tiếng Anh đã
phần nào làm sáng tỏ khái niệm đồng nghĩa trong từ vựng thuật ngữ, mô tả
các phương pháp tiếp cận của các học giả đối với vấn đề đồng nghĩa thuật
ngữ, tiến hành phân loại từ đồng nghĩa, nêu rõ các nguyên nhân xuất hiện từ
đồng nghĩa trong thuật ngữ chế biến dầu tiếng Anh.
Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học của Tikhonova Irina Borisovna (2010,
Ufa, Liên bang Nga): Mô hình hóa tri nhận hệ thống thuật ngữ nghề nghiệp
(trên ngữ liệu thuật ngữ chế biến dầu tiếng Anh) [116]. Luận án đã tiến hành
nghiên cứu và xem xét hệ thống thuật ngữ nghề nghiệp chế biến dầu như là
kết quả của nhận thức khoa học. Việc áp dụng công cụ tri nhận cho phép xem
xét thuật ngữ như là các ý niệm (concept) cùng một cấp độ, tạo thành bức
tranh thế giới nghề nghiệp của lĩnh vực kiến thức nghiên cứu. Trong luận án
sử dụng phương pháp xây dựng các sơ đồ khung (frame) để nêu rõ tổ chức
cấu trúc và các liên hệ hệ thống giữa các đơn vị của hệ thuật ngữ.
Ngoài ra, luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học của Smagulova Aigerim Soviet
khanovna (Cộng hòa Kazakhstan, Almaty, 2010): Đặc thù trường thuật ngữ
trong lĩnh vực dầu và khí (trên ngữ liệu tiếng Anh và tiếng Kazakh) [110].
Luận án đã triển khai bốn nội dung: i) xem xét lịch sử ra đời, hình thành và
phát triển trường thuật ngữ “dầu và khí” trong tiếng Anh và tiếng Kazakh; ii)
nêu ra vốn (corpus) thuật ngữ trong các ngôn ngữ đang xem xét trên cơ sở
nghiên cứu các từ điển bách khoa toàn thư và các từ điển tường giải tiếng Anh
và tiếng Kazakh nhằm mục đích nghiên cứu các bình diện lý thuyết và
16
phương pháp luận, các đặc điểm cấu trúc và chức năng của chúng; iii) tiến
hành mô tả các đặc điểm cấu trúc, định danh – phái sinh và chức năng của
thuật ngữ trong trường thuật ngữ “dầu và khí” tiếng Anh và Kazakh; iv)
nghiên cứu các phương thức cấu tạo thuật ngữ lĩnh vực dầu khí trong hai ngôn
ngữ đang xem xét. Giá trị lý thuyết của luận án là ghi nhận và tái hiện các
định đề khoa học đang nghiên cứu, nêu ra các đặc điểm ngữ nghĩa – khái
niệm, cấu trúc - chức năng là kết quả ảnh hưởng của các yếu tố phi ngôn ngữ
và ngôn ngữ, khẳng định xu hướng hội nhập quốc tế của hệ thống thuật ngữ
và hình thành do mở rộng vốn thuật ngữ chung trên ngữ liệu các phạm vi
thuật ngữ đang xem xét, giải quyết vấn đề thuật ngữ hóa tiếng Anh và tiếng
Kazakh trong phạm vi khai thác và chế biến dầu, chế biến khí thiên nhiên và
đồng hành, thăm dò và khoan các mỏ dầu và khí.
Bên cạnh một số công trình nghiên cứu về lí thuyết nói trên, còn có
hàng loạt các cuốn từ điển chuyên ngành dầu khí tiếng Anh, song ngữ hoặc đa
ngữ phục vụ cho nhu cầu tra cứu học tập, nghiên cứu hàng ngày. Trước đây
những từ điển này xuất hiện dưới dạng duy nhất là các xuất bản phẩm in ấn.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, với sự phát triển của khoa học công nghệ,
nhiều cuốn từ điển này đã được số hóa và trở thành trực tuyến hoặc các phần
mềm được cài đặt theo điện thoại hoặc máy tính, nâng cao tiện ích cho người
dùng.
Trước hết chúng tôi muốn đề cập đến những sản phẩm từ điển giải
thích - những từ điển đơn ngữ Anh – Anh về các lĩnh vực dầu khí. Thống kê
cho đến tháng 4 năm 2018 của chúng tôi thu được kết quả là hiện có 26 cuốn
từ điển (bản in) đơn ngữ Anh –Anh về lĩnh vực dầu khí [Ngữ liệu khảo sát,
tr. 165].
Trong số 26 cuốn từ điển thuật ngữ dầu khí nói trên có 06 cuốn về kỹ
thuật khoan, khai thác và thăm dò dầu khí, 02 cuốn về lịch sử, nguồn gốc của
ngành công nghiệp dầu khí, 02 cuốn về công nghiệp chế biến dầu và khí, 01
17
cuốn về sản phẩm dầu và khí, 01 cuốn về khoa học và công nghệ dầu khí, 13
cuốn từ điển giải thích thuật ngữ dầu khí, 01 cuốn từ điển dùng trong hoạt
động marketing dầu khí, 02 cuốn tổng hợp thuật ngữ dầu khí. Như vậy, có
thể thấy rằng số lượng từ điển giải thích Anh – Anh về thuật ngữ dầu khí là
rất đa dạng, phong phú.
Có thể thấy rằng các nghiên cứu về TNDK trong tiếng Anh đã phủ khắp
các lĩnh vực chủ yếu của phạm trù này. Thực tế đó phản ánh sự quan tâm sâu
sắc của các nước nói tiếng Anh với lĩnh vực dầu khí. Điều này cho thấy trình độ
phát triển cao của các ngành khoa học về dầu khí cũng như sự phát triển cao của
ngành ngôn ngữ học ở khối các nước có tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất. Thành
tựu đó cũng có thể được giải thích bởi một số yếu tố mang tính lôgic khi tiếng
Anh là ngôn ngữ của những quốc gia có nền khoa học tự nhiên, khoa học xã hội
cực kỳ phát triển, là ngôn ngữ của những nền kinh tế hàng đầu thế giới như
Anh, Mỹ, Australia,... Ngoài ra nó cũng có thể được giải thích bằng một nguyên
nhân nữa là mang yếu tố địa – chính trị: phải chăng bởi vì vùng hoạt động của
tiếng Anh là quá lớn, dân cư không thuần nhất nảy sinh tình trạng ngôn ngữ này
có nhiều biến thể dẫn đến có nhiều vấn đề cần được thống nhất, tránh sự hiểu
lầm – chúng tôi cho rằng đó cũng là một lý do cần được nêu lên để giải thích
cho vấn đề số lượng các công trình nghiên cứu về thuật ngữ dầu khí rất lớn
trong tiếng Anh.
Ngoài các từ điển là các sản phẩm dưới hình thức bản in đã đề cập,
chúng tôi cũng thống kê được khá nhiều các sản phẩm từ điển on-line, các
phần mềm từ điển, các chuyên trang về dầu khí có từ điển thuật ngữ dầu khí
Anh – Anh. Trong số đó có thể kể đến: alphaDictionary, Oil dictionary
(Lexicool), Oilfield Dictionary, A dictionary for the Oil and Gas Industry ...
Bức tranh sinh động về các loại từ điển lĩnh vực này trong tiếng Anh
cho thấy sự phát triển của khoa học dầu khí ở các nước nói tiếng Anh cũng
như sự quan tâm của các quốc gia này đối với ngành công nghiệp dầu khí.
18
Bên cạnh các cuốn từ điển giải thích đơn ngữ Anh – Anh, còn có một
lượng khổng lồ các loại từ điển song ngữ đủ các lĩnh vực của ngành dầu khí
giữa tiếng Anh và một ngôn ngữ khác như từ điển dầu khí Anh - Nga, Anh -
Pháp ,... Bởi tiếng Anh là phương tiện giao tiếp quốc tế và là ngôn ngữ của
những quốc gia có nền khoa học công nghệ nói chung, khoa học công nghệ dầu
khí nói riêng hết sức phát triển.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ dầu khí trong tiếng Việt
Qua khảo sát của chúng tôi, trong tiếng Việt, tính đến thời điểm hiện tại,
chưa có công trình nào nghiên cứu về thuật ngữ dầu khí từ góc độ lý thuyết.
Những thành tựu chủ yếu ở Việt Nam về lĩnh vực dầu khí mới chỉ là các sản
phẩm từ điển.
Dưới đây là 03 cuốn từ điển dầu khí của Việt Nam .
1. Từ điển dầu khí Anh- Nga-Việt của Tổng hội địa chất Việt Nam.
Nxb. Lao động Xã hội, 2004.
2. Từ điển dầu khí Anh-Việt của Viện Dầu khí. Nxb. Khoa học Kỹ
thuật, 1996.
3. Từ điển Dầu khí Anh –Việt. Nxb Khoa học & Kỹ thuật, Hà Nội, 2008.
Cùng với một số phần mềm từ điển địa chất, GIS, Dầu khí, Trắc địa,
môi trường: EST GeoDict hoặc từ điển trực tuyến chuyên ngành dầu khí như
https://goo.gl/asOiqe
Mặc dù đã có một số từ điển thuật ngữ chuyên ngành dầu khí như trên,
nhưng những cuốn từ điển này chỉ đối chiếu các thuật ngữ tương ứng trong tiếng
Anh, tiếng Nga với tiếng Việt; chưa có một cuốn từ điển thuật ngữ giải thích nào
cho ngành dầu khí được biên soạn với bảng từ xuất phát từ tiếng Việt.
So với số lượng các công trình nghiên cứu dầu khí và các lĩnh vực liên
quan đến ngành dầu khí giữa Việt Nam và các nước nói tiếng Anh thì có sự
chênh lệch rõ ràng. Tại sao lại có khoảng cách lớn như vậy ở ngay một đất
nước mà tiềm năng về dầu khí là rất mạnh? Thật khó để đưa ra lý do chính
xác nhưng nguyên nhân có thể là do sự quan tâm của chúng ta đến lĩnh vực
19
thuật ngữ còn nhiều bất cập. Thực tế cho thấy sự tác động của các quy định
mang tính pháp luật đối với sự phát triển của thuật ngữ nói chung, TNDK nói
riêng là không đáng kể. Ví dụ điển hình cho tình trạng này là quy định về việc
phiên chuyển một từ nước ngoài vào tiếng Việt thực hiện như thế nào cho đến giờ
trong thực tế vẫn là vấn đề chưa được giải quyết dù chúng ta đã có một số quy
định (Quyết định số 240/QĐ của Bộ Giáo dục ngày 5-3-1984 “Quy định về chính
tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt”). Những gì thuật ngữ dầu khí đã có được là
sự phát triển có tính chất tự phát và chủ yếu do nhu cầu của những người làm
trong ngành dầu khí. Với một đất nước đang phát triển có quá nhiều công việc cấp
thiết cần làm, sự quan tâm đầu tư cho một ngành khoa học như thuật ngữ ở Việt
Nam còn nhiều hạn chế. Từ đó có thể cho thấy tại sao số lượng công trình nghiên
cứu về thuật ngữ dầu khí ở Việt Nam lại rất thiếu vắng khi so sánh với các nước
nói tiếng Anh. Đặc biệt chưa có công trình nào mang tính chất lý thuyết, những
nghiên cứu theo hướng xây dựng mô hình chuẩn hóa thuật ngữ dầu khí. Đây là
khoảng trống rất lớn cần được khắc phục để hệ thuật ngữ chuyên ngành dầu khí
phát triển, góp phần phục vụ tốt hơn cho ngành công nghiệp dầu khí.
Trong tình hình như vậy, có thể nói, luận án của chúng tôi là công trình
lý luận đầu tiên ở Việt Nam khảo cứu một cách tương đối toàn diện TNDK từ
góc độ đối chiếu chuyển dịch giữa hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt.
1.3. Tiểu kết
Trên cơ sở phân tích quan điểm của các nhà nghiên cứu trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng, luận án đã trình bày khái quát tình hình và phát
triển của thuật ngữ dầu khí, quan điểm về thuật ngữ của các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước. Qua khảo sát tình hình nghiên cứu của thuật ngữ trong lĩnh
vực dầu khí chúng tôi thấy, việc nghiên cứu mới chỉ tập trung vào việc biên soạn
từ điển, biên soạn tổng hợp từ điển theo từng chuyên môn, chưa có công trình
nào thực hiện nghiên cứu một cách quy mô, có hệ thống về đặc điểm của thuật
ngữ thuộc chuyên ngành dầu khí, đặc biệt là trong khía cạnh ngôn ngữ học so
sánh đối chiếu.
20
Chương 2
CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1. Cơ sở lí luận về thuật ngữ và thuật ngữ dầu khí
2.1.1. Khái niệm về thuật ngữ và thuật ngữ dầu khí
2.1.1.1. Khái niệm thuật ngữ
Trong mọi hoạt động của con người, trong đó có các hoạt động trong
lĩnh vực dầu khí, đều cần phải sử dụng những từ ngữ để có thể biểu đạt các
khái niệm, ngành nghề thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Trong số
các từ ngữ như vậy, có một số lượng từ được gọi là thuật ngữ. Vậy thế nào là
“thuật ngữ”?
Mặc dù một số lượng lớn các công trình nền tảng, cả trong và ngoài
nước, đã dành cho nghiên cứu các đặc điểm căn bản của thuật ngữ, tuy nhiên
cho đến nay, trong các tài liệu ngôn ngữ học vẫn chưa có một định nghĩa
thống nhất về thuật ngữ. Sở dĩ có nhiều cách định nghĩa khác nhau là do cách
nhìn của mỗi tác giả khác nhau, chẳng hạn Erhart Oeser và Gerhart Budin cho
rằng thuật ngữ xác định khái niệm, nhưng cũng có tác giả cho rằng thuật ngữ
không chỉ xác định khái niệm mà còn biểu hiện khái niệm như Vinokur. Và
khi nhắc đến khái niệm thuật ngữ, chúng ta không thể không nhắc đến các nhà
ngôn ngữ học Xô Viết. Nói về bản chất của thuật ngữ, D.S. Lotte cho rằng
thuật ngữ là từ đặc biệt [23], trong khi người đồng nghiệp của ông G.O.
Vinokur lại nhấn mạnh thuật ngữ không phải từ đặc biệt, mà chỉ là từ với
chức năng đặc biệt, và tuyên bố rằng, bất cứ từ nào cũng được cấu tạo để có
vai trò là một thuật ngữ [93, tr. 3-54].
Đại bách khoa toàn thư Xô Viết, 1976 đã đưa ra định nghĩa về thuật
ngữ “là một từ hoặc là một cụm từ chỉ ra một cách chính xác khái niệm và
quan hệ của nó với những khái niệm khác trong giới hạn của phạm vi chuyên
ngành. Thuật ngữ là cái biểu thị vốn đã chuyên biệt hóa, hạn định hóa về sự
vật, hiện tượng, thuộc tính và quan hệ của chúng trong phạm vi chuyên môn
21
đó” [91, tr.473-474]. Đồng quan điểm về khái niệm thuật ngữ, tác giả
V.M.Leichic đưa ra định nghĩa: “Thuật ngữ là đơn vị từ vựng của một thứ
ngôn ngữ nhất định dùng cho những mục đích chuyên môn, nó biểu thị một
khái niệm lý thuyết chung - cụ thể hay trừu tượng của một lĩnh vực tri thức
hay hoạt động chuyên môn nhất định” [105, tr 31-32].
Các công trình trước đây về lĩnh vực thuật ngữ vốn có quan điểm đơn
giản hóa và đơn nghĩa về thuật ngữ như là một từ đặc biệt, không gắn bó với
từ vựng của ngôn ngữ toàn dân, mà nội dung bên trong của nó chỉ thay đổi do
sự phát triển của các hình dung và quan điểm khoa học mới, hoặc do phân
nhóm lại các khái niệm trong khoa học. Khái niệm “thuật ngữ” trong ngôn
ngữ học chủ yếu mới được hình thành vào đầu thế kỷ XX. Năm 2007, công
trình “Thuật ngữ học đại cương - những vấn đề lý thuyết” của ba tác giả là
Speranskaja, Podolskaja và Vasileva được tái bản lần thứ tư; theo các tác giả
này, “thuật ngữ là từ hay cụm từ chuyên môn, được thừa nhận trong hoạt
động chuyên ngành và được sử dụng trong những điều kiện đặc biệt. Thuật
ngữ là sự biểu đạt bằng từ ngữ một khái niệm của một hệ thống các khái
niệm thuộc một lĩnh vực tri thức chuyên ngành nhất định. Thuật ngữ là yếu
tố khái niệm cơ sở của thứ ngôn ngữ dùng cho các mục đích chuyên môn”
[111, tr 14].
Thuật ngữ trong các nghiên cứu đương đại xuất hiện như một từ hoặc
cụm từ chỉ khái niệm lĩnh vực kiến thức hoặc hoạt động chuyên ngành [17].
Tatarinov sau khi tổng kết quá trình phát triển của thuật ngữ học trong giai
đoạn đương đại, định nghĩa thuật ngữ là một ký hiệu ngôn ngữ (từ/cụm từ), có
quan hệ với khái niệm, hiện tượng hoặc sự vật chuyên ngành [113]. Định
nghĩa như vậy chứng tỏ cách tiếp cận chuẩn mực nghiên cứu thuật ngữ, trong
đó thuật ngữ – một đơn vị từ vựng nhất định có cấu trúc ngữ pháp và ngữ
nghĩa đặc biệt làm cho nó khác các từ của ngôn ngữ toàn dân.
22
Theo Danilenko - người đại diện cho cách tiếp cận mô tả quan niệm
thuật ngữ là “đơn vị gọi tên độc lập, riêng biệt và đơn nhất” [94, tr.7-16].
Theo tác giả, thuật ngữ có tính chất của ký hiệu ngôn ngữ đặc biệt và bất kể
ký hiệu này là từ hay cụm từ, đều là một ký hiệu tương đương với một khái
niệm. Cách tiếp cận mô tả giải thích thuật ngữ như là từ có chức năng đặc biệt
và coi trọng sự hoạt động của các đơn vị thuật ngữ.
D.S. Lotte nhận thấy trong thuật ngữ có sự thống nhất của ký hiệu âm
thanh với khái niệm tương quan với nó trong hệ thống các khái niệm của lĩnh
vực khoa học và kỹ thuật này [23]. Khi cho rằng các đặc tính và tín hiệu cơ
bản của thuật ngữ cần được phản ánh trong định nghĩa, thì định nghĩa cần
phải có dung lượng lớn và cô đọng, theo quan điểm như vậy, Akhmanova đưa
ra một trong những định nghĩa thuật ngữ đạt nhất khi bà cho rằng thuật ngữ –
từ hoặc cụm từ đặc biệt của lĩnh vực sử dụng chuyên ngành nhằm thể hiện
đúng các khái niệm chuyên ngành và dựa trên định nghĩa [90].
Xét thuật ngữ trong mối quan hệ gắn liền với khái niệm, các nhà ngôn
ngữ học Âu Mỹ như Schlomann và Segen cho rằng thuật ngữ “là một tập hợp
các khái niệm, trong mỗi lĩnh vực chuyên ngành đều có các mô hình cấu trúc
đại diện cho tập hợp các khái niệm. Kiến thức khoa học được sắp xếp thành
các cấu trúc khái niệm, các phương tiện biểu đạt ngôn ngữ và kí hiệu tương
ứng được sử dụng trong văn phong khoa học để thông tin với người khác về
kết quả khoa học và bình luận các ngôn bản khác” [76, tr.12]. Bên cạnh đó,
thuật ngữ còn là một tập hợp các đặc điểm mà bản thân chúng là các khái
niệm [78, tr.17].
Cùng quan điểm thuật ngữ là kí hiệu ngôn ngữ cho một khái niệm,
Erhard và Gerhard nhận định “thuật ngữ là một tập hợp các khái niệm và biểu
đạt của nó, bao gồm các ký tự, các thuật ngữ và đơn vị cụm từ trong một lĩnh
vực chuyên ngành đặc biệt” [66, tr.15]. Ngoài ra, các ký hiệu ngôn ngữ này
23
không nhất thiết phải là từ đơn, nó cũng có thể là một nhóm từ, một cụm từ cố
định được sử dụng để mô tả một khái niệm chuyên môn [97, tr.8].
I.S. Kvitko cũng cho rằng “thuật ngữ là từ hoặc tổ hợp từ tham gia vào
quan hệ hệ thống với các từ và tổ hợp từ khác và cùng nhau tạo ra một hệ
thống khép kín nhờ có các dấu hiệu đặc biệt – tính thông tin, tính đơn nghĩa,
tính chính xác và trung tính biểu cảm” [103, tr.125]. Trong khi S.V.Grinev lại
nhấn mạnh tính chuyên môn hóa của thuật ngữ, coi thuật ngữ là đơn vị từ vựng
chuyên ngành, của ngôn ngữ chuyên ngành, áp dụng để gọi tên chính xác các
khái niệm chuyên ngành [101].
B.N.Golovin đặt lên vị trí hàng đầu trong thuật ngữ ý nghĩa nghề
nghiệp được hình thành trong quá trình nắm vững phạm vi các khái niệm,
khách thể và quan hệ giữa chúng dưới góc độ nghề nghiệp nhất định [100].
Nhiều học giả khác coi thuật ngữ là sự biểu hiện khái niệm kỹ thuật [dẫn
theo 33].
Cách tiếp cận nghiên cứu thuật ngữ nằm ở phạm vi khái niệm “nền tảng
ngôn ngữ”, khẳng định rằng giữa thuật ngữ và từ thường dùng (từ toàn dân)
có mối liên hệ tương hỗ chặt chẽ, bởi vì hệ thuật ngữ được coi là một bộ phận
cấu thành quan trọng của từ vựng của các ngôn ngữ văn học hiện đại. Tuy
nhiên các định nghĩa như vậy không lột tả được đầy đủ khối lượng và nội
dung khái niệm “thuật ngữ”, bởi vì thuật ngữ – là những từ có quan hệ không
những với các khái niệm kỹ thuật, mà còn với khái niệm của các lĩnh vực kiến
thức khác (nghệ thuật, khoa học v.v…).
Nhắc đến thuật ngữ, các nhà nghiên cứu đều có chung một quan điểm
khi cho rằng nét đặc thù quan trọng nhất của thuật ngữ là mối liên hệ chặt chẽ
với khái niệm mà nó biểu thị. Ý nghĩa của thuật ngữ gắn với khái niệm
nghiêm ngặt, nó thể hiện khái niệm và tham gia hình thành các khái niệm [4].
Trong số các định nghĩa đương đại, định nghĩa của Gerd có dung lượng lớn
và được xem là chính xác nhất: “Thuật ngữ – đó là đơn vị của ngôn ngữ nhân
24
tạo hay tự nhiên cụ thể nào đó (thường là từ hoặc cụm từ), đã từng tồn tại
trước đây hoặc được chuyên biệt tạo ra và có ý nghĩa thuật ngữ chuyên ngành,
được thể hiện dưới dạng từ, hoặc dưới hình thức này hay hình thức khác và
phản ánh khá chính xác và đầy đủ những dấu hiệu khái niệm khoa học chủ
yếu, quan trọng tương ứng với trình độ phát triển của khoa học” [dẫn theo 99,
tr.12-18].
Khi định nghĩa thuật ngữ, cần phải tính tới các yêu cầu ngữ nghĩa, hình
thức và dụng học (chức năng) đối với thuật ngữ như là đơn vị ngôn ngữ đặc
biệt. Các đặc điểm ngữ nghĩa bao gồm: không có tính mâu thuẫn ngữ nghĩa,
tức là nói đến sự phù hợp thuật ngữ với khái niệm; một nghĩa tức là loại trừ
tính đa nghĩa phạm trù; đủ nghĩa được hiểu là sự phản ánh trong nghĩa của
thuật ngữ số lượng tối thiểu các dấu hiệu đủ để nhận dạng khái niệm mà thuật
ngữ biểu hiện; không có đồng nghĩa.
Các yêu cầu hình thức là sự phù hợp với các chuẩn mực ngôn ngữ, cụ
thể là loại bỏ và thay thế những sai lệch đối với chuẩn ngữ âm và ngữ pháp,
loại bỏ các từ lóng nghề nghiệp; tính ngắn gọn hình thức và từ vựng, nghĩa là
ưu tiên tính không lặp lại từ và hình thức ngắn gọn; có khả năng tái tạo; tính
bất biến hình thức; tính có lý do; tính hệ thống (khả năng phản ánh trong cấu
trúc thuật ngữ mối liên hệ của khái niệm nêu ra với các khái niệm khác trong
cùng hệ thống khái niệm và vị trí của khái niệm này trong cùng hệ thống khái
niệm). Các yêu cầu dụng học hoặc chức năng đòi hỏi áp dụng vào giao tiếp
nghề nghiệp, điều này chỉ ra tính chấp nhận chung và sử dụng trong lĩnh vực
nhất định; bao gồm cả tính quốc tế hóa – hướng tới tính giống nhau hoặc gần
nhau về hình thức, trùng nội dung của các thuật ngữ được sử dụng trong một
số ngôn ngữ; tính hiện đại (thay các thuật ngữ cũ bằng các thuật ngữ tương
đương hiện đại); bí truyền (chủ ý không thông dụng đối với những người
không phải là chuyên gia); và cuối cùng là sự hài hòa âm, phát âm thuận tiện
và không có âm bất hòa liên tưởng) [dẫn theo 23, tr.335].
25
Sự độc đáo của các đơn vị thuật ngữ, trước hết là ở cấu trúc ngữ nghĩa
bên trong của chúng. Thuật ngữ là một ký hiệu mà về mặt lý tưởng chỉ có một
khái niệm tương ứng, khi tương quan của cái biểu hiện và cái được biểu hiện
đều có cùng một nghĩa. Thành tố tối thiểu có nghĩa của thuật ngữ – yếu tố
thuật ngữ [23] trùng với đơn vị cấu trúc tối thiểu có thể được biểu thị bằng
các phụ tố cấu tạo từ và bằng từ trong thành phần cụm thuật ngữ - điều này
không thấy ở từ thường dùng. Ngoài ra, thuật ngữ biểu thị những khái niệm
chuyên môn mà chúng có quan hệ, và trong cấu trúc ý nghĩa thuật ngữ những
khái niệm này có ý nghĩa đặc biệt, chủ đạo.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu thuật ngữ bắt đầu từ những năm đầu thế
kỷ XX. Rất nhiều nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã đi vào nghiên cứu và đưa ra
những định nghĩa thuật ngữ, làm cho khái niệm “thuật ngữ” ngày một đầy đủ
và chính xác.Trong số các tác giả đó không thể không kể đến Nguyễn Văn
Tu, Đỗ Hữu Châu, Lê Khả Kế, Lưu Vân Lăng, Hoàng Văn Hành, Nguyễn
Thiện Giáp, …
Theo Nguyễn Văn Tu trong cuốn Khái luận ngôn ngữ học được xuất
bản năm 1960, “Thuật ngữ là từ hoặc nhóm từ dùng trong các ngành khoa
chính trị, ngoại giao, nghệ thuật, v.v. và có một ý nghĩa đặc biệt, biểu thị
chính xác các khái niệm và tên các sự vật thuộc ngành nói trên" [52 tr.176].
Sau này, ông lại đưa ra một khái niệm khác về thuật ngữ: “Thuật ngữ là
những từ và những cụm từ chỉ những khái niệm của một ngành khoa học,
ngành sản xuất hay ngành văn hóa nào đó v.v... Ví dụ: đồng âm, phụ âm,
nguyên âm thuộc về ngành ngôn ngữ học; giáo án, lên lớp,... thuộc về ngành
giáo dục học; ôxi hidrô, benzen thuộc về ngành hóa học; quang phổ, quang
học, điện pin... thuộc về ngành lí v.v... Đặc điểm của thuật ngữ là một từ chỉ
có một nghĩa, không có từ đồng nghĩa, không có sắc thái tình cảm, có thể có
tính chất quốc tế (tùy từng ngành)” [53, tr.202] trong cuốn Từ và vốn từ tiếng
26
Việt hiện đại. Trong các định nghĩa của mình, tác giả đã nhấn mạnh đến khái
niệm mà các thuật ngữ biểu thị.
Đỗ Hữu Châu không chỉ nhấn mạnh đến mặt biểu thị khái niệm khoa
học mà còn chỉ tên một sự vật, hiện tượng khoa học, “thuật ngữ là từ chuyên
môn được sử dụng trong phạm vi một ngành khoa học, một nghề nghiệp hoặc
một ngành kỹ thuật nào đó. Có thuật ngữ của ngành vật lý, ngành hóa học,
toán học, thương mại, ngoại giao.v.v... Đặc tính của những từ này là phải cố
gắng chỉ có một nghĩa, biểu thị một khái niệm hay chỉ tên một sự vật, một
hiện tượng khoa học, kỹ thuật nhất định”. [7, tr.167]. Đến năm 1981, khi cho
ra đời cuốn Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, ông đưa ra định nghĩa khái quát
hơn về thuật ngữ khoa học, kĩ thuật; đó là: “Thuật ngữ khoa học, kĩ thuật bao
gồm các đơn vị từ vựng được dùng để biểu thị những sự vật, hiện tượng, hoạt
động, đặc điểm… trong những ngành kĩ thuật công nghiệp và trong những
ngành khoa học tự nhiên hay xã hội. Khác với từ thông thường, thuật ngữ có
ý nghĩa biểu vật trùng hoàn toàn với sự vật, hiện tượng… có thực trong thực
tế, đối tượng của ngành kỹ thuật và ngành khoa học tương ứng. ý nghĩa biểu
niệm của chúng cũng là những khái niệm về các sự vật hiện tượng này đúng
như chúng tồn tại trong tư duy. Về mặt nội dung, ở các thuật ngữ không sảy
ra sự chia cắt thực tế khách quan theo cách riêng của ngôn ngữ. Mỗi thuật ngữ
như là một cái “nhãn” dán vào đối tượng này (cùng với khái niệm về chúng)
tạo nên chính nội dung của nó” [4, tr.221-222].
Thuật ngữ nằm trong hệ thống từ vựng chung của ngôn ngữ, nhưng chỉ
tồn tại trong một hệ thống thuật ngữ cụ thể, nghĩa là nó chỉ được dùng trong
ngôn ngữ chuyên môn. Toàn bộ thuật ngữ của một lĩnh vực sản xuất, hoạt
động, tri thức tạo nên một lớp từ đặc biệt tạo thành một hệ thống thuật ngữ là
quan điểm về thuật ngữ của một nhóm tác giả gồm Đái Xuân Ninh, Nguyễn
Đức Dân, Nguyễn Quang và Vương Toàn [34, tr 64].
27
Nguyễn Thiện Giáp thì cho rằng: "Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt
của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định, là tên gọi chính xác
của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của
con người" [9, tr.308-309].
Lưu Vân Lăng và Như Ý quan niệm: "Thuật ngữ là bộ phận ngôn ngữ
(từ vựng) biểu đạt các khái niệm khoa học, là thuộc tính của khoa học, kĩ
thuật, chính trị, tức là những lĩnh vực của hiện thực xã hội đã được tổ chức
một cách có trí tuệ. Thuật ngữ có tính chất hệ thống hoàn toàn dựa trên sự đối
lập giữa các kí hiệu. Sự đối lập này về hình thức thể hiện ở chỗ khác nhau về
âm thanh hoặc về trật tự sắp xếp các yếu tố" [27, tr. 44].
Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ là quan điểm về thuật ngữ của một nhóm
tác giả gồm Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang và Vương
Toàn, Hoàng Văn Hành, Nguyễn Thiện Giáp, Lưu Vân Lăng và Như Ý,
Nguyễn Hữu Quỳnh và gần đây là Vũ Quang Hào, trong luận án tiến sĩ về
“Đặc điểm và cấu tạo của thuật ngữ quân sự tiếng Việt” của mình, tác giả đã
trích dẫn lại và bổ sung định nghĩa thuật ngữ của Hoàng Văn Hành một cách
khá đầy đủ như sau: “Thuật ngữ là từ ngữ dùng để biểu thị một khái niệm xác
định thuộc hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định” [15,
tr 15-16].
Nhìn chung các tác giả đều thống nhất với quan điểm, thuật ngữ về bản
chất là từ hoặc cụm từ, tuy nhiên từ thì có thể đa nghĩa, nhưng thuật ngữ thì
đơn nghĩa và mô tả khái niệm hay một khách thể. Để có cơ sở khoa học cho
quá trình khảo sát đối tượng của luận án, chúng tôi đồng quan điểm với
Nguyễn Thiện Giáp và lấy đó làm cơ sở để xây dựng lý luận cơ bản phục vụ
cho việc thực hiện các mục tiêu nghiên cứu: Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc
biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định, là tên gọi chính
xác của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn
của con người [9].
28
Như vậy, tổng hợp những điểm quan trọng nhất trong các định nghĩa
trên, có thể quan niệm thuật ngữ là: đơn vị ngôn ngữ chuyên ngành (từ hoặc
cụm từ), có quan hệ hệ thống với các đơn vị ngôn ngữ khác của ngôn ngữ
chuyên ngành tương ứng có trạng thái giống nó, dùng để gọi tên chính xác và
thể hiện đối tượng chuyên ngành, khái niệm, hiện tượng hoặc dạng hoạt động,
Là đơn vị của ngôn ngữ toàn dân, thuật ngữ đồng thời thuộc về một tiểu
hệ thống ngôn ngữ chuyên ngành thực hiện chức năng đặc biệt gọi tên khái
niệm nghề nghiệp và chuyên môn hóa và cho phép phân biệt thuật ngữ với
các đơn vị ngôn ngữ khác trong hệ thống ngôn ngữ.
2.1.1.2. Khái niệm TNDK và tiêu chí nhận diện TNDK
a). Quá trình hình thành và phát triển TNDK ở Việt Nam
Để có được thành quả như ngày hôm nay, Tổng công ty dầu khí Việt
Nam đã trải qua rất nhiều giai đoạn, và TNDK cũng không nằm ngoài quy
luật đó.
Sau năm 1975, trong điều kiện đất nước đang khôi phục nền kinh tế,
cộng với sự non trẻ trong ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam đã nhận được
rất nhiều sự hỗ trợ từ các nước bạn nhất là Liên Xô cũ trong vấn đề giáo dục,
cụ thể là các chương trình, giáo trình và các tư liệu phục vụ việc giảng dạy tại
các trường kinh tế, thương mại và kỹ thuật, và vì thế giai đoạn đó hầu hết các
tư liệu liên quan đến ngành dầu khí được dịch từ tiếng Nga, điều này đã góp
phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển hệ thống thuật ngữ dầu khí
ở Việt Nam. Cuối những năm 1990 là thời kỳ tan rã của Liên bang Xô Viết và
chính từ đó, thay vì đào tạo và sử dụng tiếng Nga thì tiếng Anh trở thành một
ngoại ngữ chiếm vị trí quan trọng, nhiều giảng viên của trường, cán bộ chủ
chốt trong các cơ quan nhà máy được cử đi đào tạo tại các nước phương Tây
mà ngoại ngữ sử dụng là tiếng Anh, vì thế việc du nhập các TNDK tiếng Anh
là điều hiển nhiên.
29
Ngoài ra, TNDK tiếng Anh cũng được du nhập vào Việt Nam một cách
mạnh mẽ khi mà ngành công nghiệp dầu khí trở thành một ngành công
nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế và ngày càng nhiều các công ty nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam và rất cần một đội ngũ cán bộ, nhân viên sử
dụng được tiếng Anh.
Sau gần 40 năm xây dựng và trải qua một chặng đường đầy khó khăn,
ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể,
trở thành “đầu tàu kinh tế” quốc dân và đi đầu trong kinh tế biển của đất
nước. Do vậy, nhu cầu tìm hiểu và tiếp thu những tri thức mới về lĩnh vực
này ngày càng cao và cấp bách, đòi hỏi hàng loạt các thuật ngữ ra đời nhằm
đáp ứng một phần nhu cầu thiết thực đó. Phần lớn những TNDK tiếng Việt là
các thuật ngữ vay mượn của nước ngoài mà điển hình là tiếng Nga, tiếng
Pháp và tiếng Anh.
b). Khái niệm về thuật ngữ dầu khí
Là một loại tài nguyên khoáng sản quý mà thiên nhiên ban tặng cho
con người. So với các khoáng sản khác như: than đá, đồng, chì, nhôm,
sắt…thì dầu khí được con người biết đến và sử dụng tương đối muộn hơn.
Dầu chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế nhiên liệu-năng lượng thế
giới. Thậm chí không phụ thuộc vào các ưu thế về lợi ích của dầu khí được
phân bố rải rác hiện nay, thuật ngữ dầu khí vẫn được chú trọng từ quan điểm
ngôn ngữ học.
Theo Luật dầu khí thì "Dầu khí là dầu thô, khí thiên nhiên và
hydrocarbon ở thể khí, lỏng, rắn hoặc nửa rắn trong trạng thái tự nhiên, kể cả
sulphur và các chất tương tự khác kèm theo hydrocarbon nhưng không kể
than, đá phiến sét, bitum hoặc các khoáng sản khác có thể chiết xuất được
dầu” [24, tr.3-7].
Như vậy Dầu khí bao gồm dầu mỏ và khí đốt là các hợp chất hữu cơ
được khai thác từ dưới lòng đất ở thể lỏng và thể khí. Ở thể khí, chúng bao
30
gồm khí thiên nhiên và khí đồng hành. Khí thiên nhiên là toàn bộ
hydrocacbon ở thể khí khai thác từ giếng khoan bao gồm cả khí ẩm và khí
thô. Khí đồng hành là khí tự nhiên nằm trong các vỉ dầu dưới dạng mũ khí
hoặc khí hoà tan và được khai thác đồng thời với dầu thô [117].
Dầu thô hay còn gọi là dầu mỏ, là một chất lỏng đặc sánh màu nâu
hoặc ngà lục, là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ thể lỏng đậm đặc, phần lớn là
hỗn hợp hydrocacbon có số phân tử Cacbon từ C5 đến C20 ở điều kiện thường
là chất lỏng.
Có nhiều lý thuyết giải thích việc hình thành dầu mỏ. Theo lý thuyết
tổng hợp sinh học được nhiều nhà khoa học đồng ý, “dầu mỏ phát sinh từ
những xác chết của các sinh vật ở đáy biển, hay từ các thực vật bị chôn trong
đất. Khi thiếu khí ôxy, bị đè nén dưới áp suất và ở nhiệt độ cao các chất hữu
cơ trong các sinh vật này được chuyển hoá thành các hợp chất tạo nên dầu.
Dầu tích tụ trong các lớp đá xốp, do nhẹ hơn nước nên dầu đã chuyển dần lên
trên cho đến khi gặp phải các lớp đá không thẩm thấu thì tích tụ lại ở đấy và
tạo thành mỏ dầu” [95, tr. 64-69].
Giống như nhiều loại tài nguyên khoáng sản khác, dầu mỏ được hình
thành do kết quả quá trình vận động phức tạp lâu dài hàng triệu năm về vật lý,
hoá học, địa chất, sinh học…trong vỏ trái đất. Thông thường dầu mỏ sau khi
khai thác có thể xử lý, tích trữ và xuất khẩu ngay
Khí đốt là toàn bộ hydrocacbon ở thể khí, khai thác từ giếng khoan, bao
gồm cả khí ẩm, khí khô, khí dầu giếng khoan và khí còn lại sau khi chiết xuất
hydrocacbon lỏng từ khí ẩm. Theo nguồn gốc hình thành khí đốt có thể chia
làm 3 loại: Khí tự nhiên, khí đồng hành và khí ngưng tụ.
Khí tự nhiên: là các khí chứa trong các mỏ riêng biệt. Trong khí, thành
phần chủ yếu là mêtan (từ 93% - 99%), còn lại là các khí khác như êtan,
propan và một ít butan và các chất khác (N2, S…).
31
Khí đồng hành: là khí nằm lẫn trong dầu mỏ được hình thành cùng với
dầu, thành phần chủ yếu là các khí nặng hơn như propan, butan, pentan.
Khí ngưng tụ: thực chất là dạng trung gian giữa dầu mỏ và khí, bao
gồm các hydrocacbonk khác như pentan, hexan.
Như đã trình bày trong phần khái niệm về thuật ngữ, thuật ngữ là bộ
phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ, bao gồm những từ cố định là tên gọi chính
xác của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn
của con người [53, tr.270].
Chung quan điểm về khái niệm thuật ngữ, nên khi nghiên cứu TNDK,
ngoài việc là tên gọi chính xác của các khái niệm liên quan đến dầu khí,
Vassillious cho rằng “thuật ngữ dầu khí còn mô tả hoạt động của con người, bao
gồm các lĩnh vực khai thác dầu khí khác nhau, cụ thể là: khoan, xói rửa, gia cố
và đổ xi măng các giếng, thủy lực lòng đất, vật lý tầng, chính việc khai thác dầu,
các phương pháp xử lý vùng đáy giếng khoan, xây dựng và thiết bị vận hành,
vận hành các giếng dầu khí, các phương pháp nâng cao việc khai thác và cả các
quá trình công nghệ khác nhau, trong số đó quan trọng là: lắp ráp, vận chuyển và
bảo quản dầu khí, xây dựng và vận hành đường ống, các trạm nén và các công
trình khác, khoan biển v.v…” [88, tr.34].
Đương nhiên, tất cả các công đoạn hoạt động của con người nêu trên
nhằm khai thác dầu và khí, được thể hiện bằng ngôn ngữ của mình trong hệ
thống ngôn ngữ. Từ ngữ thể hiện sự hoạt động tích cực có mục đích của
con người bằng các thuật ngữ chuyên ngành cấu thành cơ sở hệ thống thuật
ngữ của lĩnh vực nhất định, trong trường hợp này là lĩnh vực công nghiệp
dầu khí. [96, tr.199].
Trên cơ sở phân tích như đã trình bày, chúng tôi quan niệm thuật ngữ
dầu khí là từ và cụm từ dùng để gọi tên chính xác các khái niệm và các đối
tượng thuộc lĩnh vực dầu khí gồm các hoạt động tìm kiếm thăm dò, khai thác,
chế biến, kỹ thuật phụ trợ và kinh doanh dầu khí.
c). Các tiêu chí để nhận diện TNDK
32
Để lựa chọn được những TNDK phục vụ cho mục đích nghiên cứu của
luận án, ngoài việc dựa vào định nghĩa về thuật ngữ dầu khí chúng tôi đã dựa
vào những nguyên tắc tham khảo trong các tài liệu [56, 58 và 59] có điều
chỉnh cho phù hợp với đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án để xác
lập những tiêu chí nhận diện những thuật ngữ nào là TNDK. Như vậy, những
thuật ngữ là TNDK tiếng Anh và tiếng Việt phải đảm bảo phù hợp các tiêu
chí sau:
Về mặt cấu tạo, các thành tố cấu tạo nên TNDK phải có mối quan hệ
liên kết với nhau, trong đó mỗi thành tố có một chức năng nhiệm vụ riêng để
tạo nên thuật ngữ.
Về mặt ý nghĩa, các thành tố tạo nên TNDK phải mang một đặc trưng
của khái niệm do thuật ngữ biểu hiện.
Về chức năng, thuật ngữ là đơn vị định danh vì vậy TNDK phải dạng
một từ hoặc một ngữ.
Về phạm vi sử dụng, thuật ngữ là TNDK tiếng Anh và tiếng việt phải là
một bộ phận từ ngữ được sử dụng để biểu thị khái niệm hoặc đối tượng trong
lĩnh vực dầu khí.
d). Hệ thống thuật ngữ dầu khí
Dựa vào tiêu chí và chiến lược kinh doanh phát triển của ngành dầu
khí, các hoạt động trong lĩnh vực dầu khí bao gồm 05 lĩnh vực chính và được
phân chia thành 05 hệ thống tương ứng sau:
1) Các thuật ngữ biểu thị chủ thể và đối tượng tham gia các hoạt động
tìm kiếm, thăm dò dầu khí;
2) Các thuật ngữ biểu thị chủ thể và đối tượng tham gia các hoạt động
khai thác dầu khí;
3) Các thuật ngữ biểu thị chủ thể và đối tượng tham gia các hoạt động
chế biến dầu khí;
33
4) Các thuật ngữ biểu thị chủ thể và đối tượng tham gia các hoạt động
kỹ thuật phụ trợ dầu khí;
5) Các thuật ngữ biểu thị chủ thể và đối tượng tham gia các hoạt động
kinh tế dầu khí;
Từ các hệ thống trên có thể phân ra thành các tiểu hệ thống nhỏ hơn, ví
dụ trong hệ thống thứ nhất có thể tiếp tục phân ra thành các hệ thống: thuật
ngữ chỉ tài liệu, công cụ, hình thức tìm kiếm, địa hình, …và tiếp tục được
phân nhỏ hơn nữa thành tiểu hệ thống các thuật ngữ chỉ bản đồ, biểu đồ, thử
nghiệm, khảo sát, … Hệ thống thứ hai có thể được phân thành hệ thống các
thuật ngữ chỉ trang thiết bị, hình thức thực hiện, nhân công, thủ tục hành
chính …. và tiếp tục được phân nhỏ hơn nữa thành các tiểu hệ thống thuật
ngữ chỉ mũi khoan, các loại sàn, các loại nút, các loại khoan, bơm, ….
2.1.2. Đặc điểm của thuật ngữ
Việc phân tích một số định nghĩa khái niệm “thuật ngữ” của Danilenko
và Skvortsov (1981), Golovin (1998), Akhmanova (1966), Grinev (1993) ,
Gerd (1971)… cho phép phát hiện nhiều đặc tính của thuật ngữ, mà thuật ngữ,
theo ý kiến của các tác giả các công trình đã công bố, có và cần có. Tuy nhiên
trong thành phần định nghĩa và trong số các đặc tính của thuật ngữ còn có cả
những đặc tính mà không làm cho thuật ngữ khác với từ thường dùng. Đồng
thời nó còn có một số đặc tính khác. Thứ nhất, thuật ngữ không là yếu tố khu
biệt hay không căn bản. Những dấu hiệu không căn bản, “nghĩa dư thừa” có
thể là các dấu hiệu nêu đặc điểm thuật ngữ như là đơn vị “được định hình có
trọng âm”, “của ngôn ngữ cụ thể hay nhân tạo” [102, tr. 62-64].
Thuật ngữ không chỉ là một đơn vị ngôn ngữ, mà còn là từ hoặc cụm
từ, nó cần có trọng âm, nghĩa là đơn vị được định hình có trọng âm. Một trong
những đặc tính nổi bật của nhóm này có thể khẳng định rằng trong thuật ngữ
34
có “sự thống nhất của ký hiệu ngôn ngữ và khái niệm tương ứng quan liên
quan với nó”, rằng thuật ngữ có tính chất ký hiệu.
Tuy nhiên những từ không phải là thuật ngữ cũng có tính chất ký hiệu
riêng, và vì vậy, có sự thống nhất của ký hiệu ngôn ngữ và khái niệm mà nó
liên quan. Hình dung tới ý kiến cho rằng thuật ngữ – “tổng thể tất cả các bất
biến (trong đó có cả biến đổi từ) của một từ hoặc cụm từ nhất định” – có thể
là thừa để hiểu thực chất của thuật ngữ [94, tr. 7-16]. Hai là, các thuộc tính đã
nêu trong các định nghĩa khái niệm “thuật ngữ” là căn bản và quan trọng,
nhưng đồng thời vẫn là không thích hợp, không khu biệt khái niệm này, trước
hết, với khái niệm của từ (nói chung) hoặc là từ của ngôn ngữ thường dùng.
Những đặc tính căn bản, nhưng không trung tâm của thuật ngữ là thuộc tính
có khả năng trở thành đối tượng của định nghĩa lô gic. Điều này nghĩa là có
thể định nghĩa thuật ngữ nhờ các quy tắc định nghĩa do lô gíc hình thức tạo ra,
trước hết là thông qua chủng loại gần nhất và các khác biệt nhánh. Đương
nhiên, đây là đặc tính quan trọng của thuật ngữ, nhưng đặc tính này cũng là
đặc tính của những từ thường dùng.
Đặc tính tiếp theo rất quan trọng của thuật ngữ là tính tương quan của
nó với các thuật ngữ khác trong lĩnh vực này và cùng với chúng tạo ra hệ
thống [22]. Đặc tính này của thuật ngữ thể hiện hai cách: một mặt, đây là tính
hệ thống khái niệm, lô gíc bắt nguồn từ tính hệ thống các khái niệm của chính
khoa học, mặt khác, đây là tính hệ thống ngôn ngữ học, tính hệ thống của các
đơn vị ngôn ngữ thể hiện các khái niệm này. Thuật ngữ có tính hệ thống, bởi
vì nó tham gia vào hệ thuật ngữ là hệ thống các khái niệm của một lĩnh vực
kiến thức nhất định, và chính trong hệ thống từ có đặc điểm của thuật ngữ.
Trong hệ thống thuật ngữ một thuật ngữ dường như ủng hộ thuật ngữ khác
đứng bên cạnh. Vị thế của thuật ngữ trong hàng ngũ các thuật ngữ khác có ý
nghĩa đặc biệt [22].
35
Các đặc tính tiêu biểu của đơn vị thuật ngữ gồm tính quy ước
(conventionality) và đặc thù ý nghĩa từ vựng của thuật ngữ bắt nguồn từ đó.
Tính quy ước – đó là sự thỏa thuận, ít nhất là, của một số chuyên gia chấp
nhận hình thức biểu hiện của thuật ngữ mới do họ đề xuất và sử dụng hình
thức này đối với nội dung do người sáng lập thuật ngữ định ra. Theo nghĩa
rộng, tập tục ngụ ý nói tới sự sáng tạo thuật ngữ mới có ý thức, nghĩa là lựa
chọn từ ngôn ngữ toàn dân thực thể ngôn ngữ của các thuật ngữ và tạo ra
chúng phù hợp với các yêu cầu chấp nhận được. Khả năng tạo ra thuật ngữ có
ý thức và thông qua trên cơ sở thỏa thuận của các nhà nghiên cứu thuật ngữ
này hay thuật ngữ khác – các đặc tính phương pháp luận rất quan trọng của từ
vựng nghề nghiệp, bởi vì các đặc tính này cho phép tiến hành công việc có
mục đích cải thiện và chỉnh lý thuật ngữ, đề ra các yêu cầu, tạo ra các hệ
thống thuật ngữ. Các đặc tính sau đây của thuật ngữ bắt nguồn từ tính tập tục:
tính một nghĩa, tính chính xác nội dung, tính rành mạch ý nghĩa. Tuy nhiên
hiện nay điều này không thường xuyên được tuân thủ, các nhà nghiên cứu
công nhận rằng “sự thay đổi ranh giới ngữ nghĩa của thuật ngữ và sự nẩy sinh
các ý nghĩa mới là hiện tượng có tính quy luật trong hệ thuật ngữ đang phát
triển” [94, tr.7-16].
Thêm vào đó, các chuyên gia cho rằng tính đa nghĩa là trở ngại trong
giao tiếp khoa học và tạo ra các khó khăn trong việc hiểu thông tin. Ví dụ,
Golovin đã gắn tính đa nghĩa với tính không rành mạch của thuật ngữ, với
tính phức tạp cấu trúc ngữ nghĩa-ngữ pháp của nó, điều này dẫn tới tình
huống thuật ngữ không thuận lợi [100].
Các học giả khác lại khẳng định rằng tính đa nghĩa của thuật ngữ mất đi
trong văn cảnh nhờ kinh nghiệm cuộc sống và nghề nghiệp, vì vậy tính đa
nghĩa không thể cản trở việc hiểu chính xác. Khi nghiên cứu cấu trúc ngữ
nghĩa của thuật ngữ tác giả cũng nêu ra “tính đa nghĩa bên ngoài” (của các
36
thuật ngữ bắt nguồn từ ngôn ngữ toàn dân) và “tính đa nghĩa bên trong” (của
các thuật ngữ không có tương đương trong ngôn ngữ toàn dân) [101].
Danilenko và Skvortsov nhận xét đúng rằng hệ thuật ngữ là một phần của
ngôn ngữ toàn dân có đặc tính không đối xứng thể hiện bằng nhiều phương án
(đồng nghĩa), bằng tính đa nghĩa thông thường và dị thường [94, tr. 7-16].
Vinokur coi tính định nghĩa là một trong những dấu hiệu bắt buộc của
thuật ngữ: “có định nghĩa – thuật ngữ, không có định nghĩa – không phải thuật
ngữ”. Nếu từ là ‘phương tiện của định nghĩa lô gíc, khi đó từ – thuật ngữ khoa
học” [93, tr. 3-54].
Bên cạnh đó, hài hòa hóa, theo định nghĩa của V.A.Tatarinov, là một
kiểu đặc điểm – một kiểu hoạt động của thuật ngữ nhằm thống nhất thuật ngữ
ở các cấp độ quốc gia và quốc tế [113, tr.38]. Thực chất đây là quá trình làm
giảm đi sự khác biệt nhằm xây dựng những thuật ngữ mẫu, điển hình từ đó
khuyến khích các quốc gia tiếp nhận và sử dụng.
Theo các luận điểm cơ bản của phương pháp tiêu chuẩn hóa thuật ngữ
khoa học-kỹ thuật do Ủy ban thuật ngữ khoa học xã hội Việt Nam dự thảo, thì
mục đích tiêu chuẩn hóa nhằm đánh giá nghiêm ngặt, phân tích và tạo lập các
thuật ngữ một nghĩa tương ứng với trình độ hiện đại của khoa học và kỹ thuật,
lập luận có cơ sở khoa học và hệ thống hóa thuật ngữ, tạo cho ngôn ngữ khoa
học tính cân đối lô gíc và rõ ràng [57].
Song song với các nghiên cứu chức năng vào những năm 70 và 80 Liên
Xô đã tiến hành công tác chỉnh lý và tiêu chuẩn hóa thuật ngữ khoa học-kỹ
thuật. Cách tiếp cận thường được gọi là “chuẩn trung tâm” đã cho phép đưa ra
các thuộc tính “lý tưởng” của thuật ngữ bao gồm: (1) Tính chính xác; (2) Tính
một nghĩa trong phạm vi một hệ thống thuật ngữ; không có đồng nghĩa chữ
viết tượng hình; (3) Không có tính biểu cảm (điều này làm nó khác từ nghề
nghiệp); (4) Tính có lý do được xác định là do các thuật ngữ là tên gọi thứ phát
(có sau); (5) Tính định danh – chức năng biểu thị khái niệm chuyên ngành, thể
37
hiện không phụ thuộc vào văn cảnh; (6) Tính dứt khoát (definitive)– ý nghĩa
của thuật ngữ hình thành dưới dạng định nghĩa lô gic; (7) Tính hệ thống–
thuộc tính của thuật ngữ chiếm vị trí nhất định trong hệ thống thuật ngữ, vị trí
này, đến lượt mình lại do vị trí nhất định của khái niệm chuyên ngành mà
thuật ngữ biểu thị trong hệ thống các khái niệm chuyên ngành quy định; (8)
Có hệ thống– thuộc tính thể hiện tính hệ thống ở các cấp độ hình thái học, cấu
tạo từ và phạm trù [112, tr. 29-30].
Nhà ngôn ngữ học Nga A.S.Gerd coi nhiệm vụ chủ yếu của công việc
trong lĩnh vực thuật ngữ học là nêu ra các đặc điểm cơ bản và quy luật phát
triển lịch sử các hệ thuật ngữ riêng, phân tích các văn bản chuyên ngành các
thời kỳ đồng đại khác nhau, mô tả cẩn thận đặc điểm hệ thuật ngữ hiện đại
trong các từ điển tóm lược và sau đó – nêu ra các yếu tố chủ yếu, các cách,
các nguồn và các tài nguyên cụ thể để tiếp tục chỉnh lý và nhất thể hóa các hệ
thống thuật ngữ, tạo ra các từ điển và sách tra cứu chuẩn mực [98, tr. 22].
Mark D. Childress trong công trình của mình “Liệu các phí tổn để
nghiên cứu thuật ngữ có hoàn vốn không” viết: “Cách tiếp cận coi công việc
thuật ngữ chỉ là nhiệm vụ thứ yếu là không thể chấp nhận được đối với bất kỳ
công ty nào. Hệ thống thuật ngữ được hình thành ở mức cần thiết và có quản
lý – hòn đá tảng trong công tác của các cộng tác viên công ty thông tin. Hệ
thống hóa thuật ngữ cũng cho phép nâng cao trình độ kiến thức và hội nhập
chúng, giảm nhẹ việc tác động qua lại của các cộng tác viên với nhau và với
các đại diện của các tổ chức khác. Như vậy, tiêu chuẩn hóa thuật ngữ giúp xử
lý sự tăng trưởng như thác lũ lượng thông tin và những sự thay đổi thường
xuyên của nó, và có thể sử dụng như là nguồn then chốt trong chiến lược
chung quản lý thông tin”, và cũng nói lên rằng điều kiện bắt buộc đạt được
hiệu quả tích cực này là đưa công tác thuật ngữ vào số các tham số kiểm tra
chất lượng [28].
38
Trong điều kiện hiện đại tăng cường hợp tác quốc tế, thì một trong
những bình diện quan trọng nhất của hoạt động thuật ngữ là hài hòa thuật ngữ.
Ngoài ra cũng có quan điểm trái ngược, cho rằng tính tương đối và quy
ước của khái niệm là cơ sở của thuật ngữ, có tư cách như các trung gian “giữa
hiện thực khách quan và quá trình nhận thức hiện thực khách quan”, vì vậy
“định nghĩa không có một nghĩa, không duy nhất, không thể định nghĩa
nghiêm ngặt được” và cho phép “nhiều cách giải thích” [22].
Tính không biểu cảm và độc lập với văn cảnh là những dấu hiệu tuyệt
đối của thuật ngữ. Thuật ngữ không thích hợp để xây dựng các phát ngôn thể
hiện cái thường gọi là “ý nghĩa hình ảnh”, bởi vì các thành tố của phạm vi
biểu cảm-lý trí của nhận thức trong ý nghĩa chung của thuật ngữ bị xóa hết và
thiếu vắng hoàn toàn [99, tr.13]. Tuy nhiên trong hàng loạt các công trình
đương đại lại nêu ra sự hiện diện của tính xúc cảm, tính hình ảnh và biểu cảm
trong ý nghĩa của thuật ngữ.
Theo chúng tôi, điều quan trọng là lý do làm cơ sở để gọi tên thuật ngữ
đúng đến đâu và liệu nó có gợi ra các liên tưởng giống nhau ở những người sử
dụng thuật ngữ không. Tính hình ảnh của thuật ngữ cấu tạo từ những từ của từ
vựng toàn dân, chỉ xuất hiện ở giai đoạn hình thành đầu tiên, và thúc đẩy việc
tiếp nhận các khái niệm khoa học tốt nhất. Sau đó tính hình ảnh mất dần, và
thuật ngữ hướng tới tính trung lập. Hình dung là các từ nghề nghiệp, sau khi
rời bỏ lĩnh vực “chuyên ngành”, lại làm giàu ý nghĩa của mình bằng các sắc
thái mới, có thể là các sắc thái ẩn dụ, so sánh, thành ngữ hay các sắc thái
khác. Vấn đề là ở chỗ tính xúc cảm và ẩn dụ gắn liền với việc mở rộng phạm
vi hoạt động của thuật ngữ.
Cần nhận xét rằng các thuật ngữ – đây là các đơn vị thông tin của ngôn
ngữ, còn đặc điểm quan trọng nhất của thông tin thuật ngữ là tính tích lũy gắn
liến với tính liên tục của kiến thức và tính chất quốc tế phát triển khoa học kỹ
thuật. Lượng thông tin có trong các thuật ngữ về kinh nghiệm tập thể đã tích
39
lũy là cơ sở hạ tầng mà kiến thức khoa học hiện đại xây dựng trên đó. Thuộc
tính của thông tin thuật ngữ còn là sự phân tán gắn liền với việc sử dụng một
thuật ngữ trong nhiều hệ thuật ngữ khác nhau. Thông tin thuật ngữ là thông
tin trí tuệ năng động, nhằm thúc đẩy ý nghĩ sáng tạo và hoạt động cải tạo của
con người phát triển hơn nữa.
Thuật ngữ có thuộc tính nhờ cấu trúc và ngữ nghĩa thông báo về những
mặt nào của hiện thực khách quan hình thành trong thuật ngữ. Đồng thời hình
thức bên trong của thuật ngữ đóng vai trò rất quan trọng, vì nó thường chứa
các dữ liệu kỹ thuật. Thường là các đơn vị kiến thức ngôn ngữ chung, đồng
thời là đơn vị kiến thức khoa học-nghề nghiệp, những thuật ngữ như vậy tích
lũy thông tin ngôn ngữ và chuyên ngành, thêm vào đó kiến thức ngôn ngữ
thúc đẩy việc thực hiện kiến thức chuyên ngành. Các đặc điểm hình thái học
của thuật ngữ chủ yếu liên quan tới sự thay đổi thành phần từ loại của thuật
ngữ sau khi nó trở thành ngôn ngữ toàn dân, điều này kéo theo sự thay đổi giá
trị của đơn vị nghề nghiệp trong bối cảnh tình huống mới.
Sự thay đổi trạng thái của các từ vị chuyên ngành trong lĩnh vực từ loại
khi không bị chuyên ngành hóa dẫn tới việc mở rộng cơ sở thuật ngữ hoạt
động trong ngôn ngữ toàn dân. Biểu vật chính đồng thời vẫn không thay đổi.
Tại hội nghị bàn về vấn đề xây dựng thuật ngữ của Ủy ban xây dựng
nhà nước năm 1975, đại đa số các nhà nghiên cứu đều tán thành với các tiêu
chuẩn của thuật ngữ, đó là, “thuật ngữ phải có: Tính khoa học, cụ thể phải
chính xác, có hệ thống và ngắn gọn; Tính dân tộc, tức là thuật ngữ phải có
màu sắc dân tộc, phù hợp với dặc điểm tiếng Việt.; và tính đại chúng, nghĩa là
thuật ngữ phải là những từ đễ hiểu, dễ nhớ, dễ nói, dễ viết và dễ đọc” [56,
tr.16-17].
Thuật ngữ khoa học trước hết phải chính xác, nghĩa là thuật ngữ phải
biểu hiện đúng khái niệm khoa học mà không gây nhầm lẫn. Bàn về tính
chính xác của thuật ngữ, Nguyễn Đức Tồn cho rằng thuật ngữ phải biểu hiện
40
đúng khái niệm khoa học (hoặc đối tượng) mà không gây lầm lẫn [50]. Thuật
ngữ được gọi là lý tưởng khi nó phản ánh được đặc trưng cơ bản, nội dung,
bản chất của khái niệm, tuy nhiên không thể đòi hỏi thuật ngữ phản ánh đầy
đủ mọi phương diện, mọi khía cạnh của khái niệm. Thậm chí cá biệt có những
thuật ngữ phản ánh mọi nội dung không cơ bản, nhưng là đặc trưng để phân
biệt thuật ngữ này với thuật ngữ khác. Đôi khi, tính chính xác còn thể hiện ở
hình thức cấu tạo thuật ngữ. Vì vậy mà thuật ngữ thường ngắn gọn, chặt chẽ.
Thuật ngữ khoa học ngoài tính chính xác thì phải nằm trong hệ thống
nhất định và hệ thống đó phải hết sức chặt chẽ. Chính vì vậy, tính hệ thống là
thuộc tính quan trọng bậc nhất của thuật ngữ. Nghĩa là nó thể hiện ở kiểu cấu
tạo từ và trong sự ý thức hóa tuyệt đối để vận động cấu tạo từ. Mặt khác,
không thể tách rời từng khái niệm ra để đặt thuật ngữ, mà phải hình dung, xác
định vị trí của nó trong toàn bộ hệ thống khái niệm. Bên cạnh đó, tính hệ
thống của thuật ngữ thường được xét dựa trên hai góc độ đó là hệ thống khái
niệm (xét về nội dung) và hệ thống ký hiệu (xét về hình thức) cũng là vấn đề
gây nhiều tranh cãi cho các nhà ngôn ngữ học. Và rõ ràng khi nói đến tính hệ
thống của thuật ngữ cần phải chú ý đến cả hai mặt: hệ thống khái niệm (tức là
xét về nội dung) và hệ thống cách biểu thị (xét về hình thức)” [50, tr.19-26].
Lưu Vân Lăng và Vũ Quang Hào đưa ra ý kiến của mình khi xây dựng
hệ thống thuật ngữ, trước khi đặt hệ thống kí hiệu (về hình thức) cần phải xác
định cho được hệ thống khái niệm (về nội dung của nó). Không thể tách rời
từng khái niệm ra để đặt thuật ngữ, mà phải hình dung, xác định vị trí của nó
trong toàn bộ hệ thống khái niệm và tính hệ thống về nội dung của thuật ngữ
kéo theo tính hệ thống về hình thức của nó. Nếu tách một thuật ngữ ra khỏi hệ
thống thì nội dung thuật ngữ của nó không còn nữa [26, 15]. Chúng tôi chia sẻ
và tán thành với các cách nhận định trên: nói đến tính hệ thống của thuật ngữ
là nói đến cả hai mặt nội dung (hệ thống khái niệm) và hình thức (hệ thống kí
hiệu) của nó.
41
Đã là ngành khoa học thì hệ thuật ngữ của ngành khoa học đó cho dù ở
nước nào đi nữa cũng cần phải quốc tế hóa thì mới đáp ứng được xu thế hội
nhập và toàn cầu hóa. Quốc tế hóa thuật ngữ khoa học là xu hướng phát triển
tất yếu của ngôn ngữ, có vai trò hoàn thiện hệ thuật ngữ chung trên toàn thế
giới, khắc phục phần nào rào cản ngôn ngữ trong hợp tác quốc tế, nhất là
trong lĩnh vực khoa học. Vì vậy, hệ thuật ngữ ở bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có
xu hướng vay mượn từ các nước có nền khoa học phát triển hơn.
“Thuật ngữ, dù thuộc lĩnh vực khoa học nào, chuyên môn nào, cũng
nhất thiết phải là một bộ phận của từ ngữ dân tộc. Do đó thuật ngữ phải có
tính chất dân tộc và phải mang màu sắc ngôn ngữ dân tộc” [25, tr.58]. Đây là
quan điểm của Lưu Vân Lăng đối với tính dân tộc - một trong những đặc
trưng cơ bản của thuật ngữ. Điều này có nghĩa là mỗi dân tộc phải tận dụng
vốn từ ngôn ngữ của mình để diễn đạt các khái niệm khoa học sao cho phù
hợp với màu sắc ngôn ngữ dân tộc và đặc điểm mỗi dân tộc. Trong quá trình
xây dựng thuật ngữ khoa học, mỗi dân tộc đều cố gắng tận dụng tối đa vốn từ
của dân tộc mình để diễn đạt các khái niệm khoa học. Việc làm này không
những giúp cho thuật ngữ đến được với nhân dân mà còn nhằm giữ gìn và
phát triển sự trong sáng của tiếng Việt.
Ngoài những đặc tính cơ bản trên, thuật ngữ cần phải có tính ngắn gọn
và tính đại chúng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc xác định thuật ngữ phải có
tính chính xác và tính hệ thống đã bao hàm cả tính ngắn gọn (xét về mặt hình
thức), còn về tính đại chúng thì ngay từ buổi đầu tiên của nền khoa học, các
nhà ngôn ngữ đã xác định xây dựng hệ thống thuật ngữ phải ngắn gọn, dễ
nhớ, dễ hiểu đối với quảng đại quần chúng.
Bằng việc phân tích các quan niệm của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước, chúng tôi quan niệm rằng để hình thành TNDK cần đảm bảo ba
tiêu chuẩn, bao gồm tính khoa học, tính quốc tế và tính dân tộc.
42
2.1.3. Phương thức đặt thuật ngữ
Theo tổng kết của Hoàng Văn Hành (1983), thuật ngữ trong tiếng Việt
hình thành từ ba con đường cơ bản là: 1) thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường;
2) cấu tạo những thuật ngữ tương ứng với thuật ngữ nước ngoài bằng phương
thức mô phỏng và 3) mượn nguyên những thuật ngữ nước ngoài (thường là
những thuật ngữ có tính quốc tế). Từ ba con đường này đã tạo nên ba lớp
thuật ngữ với những đặc trưng khác nhau cả về hình thái và ngữ nghĩa bao
gồm lớp thuật ngữ thuần Việt, lớp thuật ngữ sao phỏng và lớp thuật ngữ phiên
âm [11, tr.27-34]. Trên cơ sở đồng quan điểm với Hoàng Văn Hành, Lê Khả
Kế [19, tr.35] cũng cho rằng thuật ngữ được hình thành theo ba con đường
chính, tuy nhiên con đường thứ hai và thứ ba có thể được xem là một. Vì vậy,
theo Lê Khả Kế, có hai phương thức cơ bản để đặt thuật ngữ, đó là:
a) Thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường trên cơ sở tiếng Việt
Thực chất là con đường dùng phép chuyển di ngữ nghĩa của từ để tạo
thuật ngữ. “Phép chuyển di này có thể không dẫn đến chuyển nghĩa hoặc
chuyển nghĩa, từ thông thường được tu hẹp về phạm vi hoạt động hay được
chuyển di phạm vi ứng dụng từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác với những
cách nhìn từ những góc độ khác nhau” [13, tr.26-28]. Theo Hà Quang Năng,
thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường là “mặt biểu hiện (vỏ ngữ âm) của từ và
cái biểu vật giữ nguyên không thay đổi, còn ý nghĩa thì thay đổi” [32, tr.38-
45]. Điều này cho thấy trong quá trình biến đổi, phát triển nghĩa của từ nhiều
nghĩa, ý nghĩa thuật ngữ vẫn còn nằm lại trong hệ thống ý nghĩa của từ xuất
phát của ngôn ngữ chung, ý nghĩa thuật ngữ này vẫn còn gắn liền với một ý
nghĩa nào đó của từ ngữ thông thường. Quá trình phát triển các ý nghĩa của từ
nhiều nghĩa theo hướng từ nghĩa thông thường đến nghĩa thuật ngữ chính là
quá trình biến đổi nghĩa từ vựng của từ thông thường theo hướng từ nghĩa
biểu thị thuộc tầng nghĩa thực tiễn chuyển thành nghĩa biểu niệm khái niệm
khoa học thuộc tầng nghĩa trí tuệ [46, tr.1-9].
43
Trong quá trình thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường, nghĩa của thuật
ngữ được biến đổi theo hướng chuyên biệt hóa để chỉ một khái niệm thuộc
một chuyên ngành nào đó mà vẫn đảm bảo giữ nguyên hình thức biểu hiện.
Ví dụ: cabbage có nghĩa thông thường chỉ một loại rau – một loại thực phẩm
dùng để ăn [55], nhưng khi được thuật ngữ hóa và trở thành thuật ngữ dầu khí
thì nó được sử dụng để chỉ một loại ổ trục ren thanh truyền của một thiết bị
[54], elephant có nghĩa thông thường chỉ tên một loài động vật, nhưng khi
được thuật ngữ hóa và trở thành thuật ngữ dầu khí thì nó được dùng để chỉ
một loại mỏ (dầu/ khí) khổng lồ, fish có nghĩa thông thường là cá – một loại
thực phẩm dùng để ăn [54], nhưng khi được thuật ngữ hóa và trở thành thuật
ngữ dầu khí thì nó được dùng để chỉ một loại dụng cụ có thể là ống, dây cáp,
hay các bộ phận khác bị rơi xuống đáy giếng.
Trong tiếng Việt, quả táo có nghĩa là một loại hoa quả dùng để ăn,
trong thuật ngữ dầu khí nó chỉ một loại vật nhỏ rơi trên sàn khoan trong quá
trình thực hiện các thao tác khoan; nữ trang có nghĩa là phụ kiện như vòng,
lắc tay, hoa tai dành cho phụ nữ nhưng trong thuật ngữ dầu khí nó là phụ tùng
ống chống. Như vậy, bằng con đường thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường, đã
có rất nhiều các từ ngữ trong đời sống hàng ngày tham gia cấu tạo nên các
thuật ngữ khoa học dễ dùng, dễ nhớ và đảm bảo tính dân tộc, đồng thời góp
phần làm giàu thêm vốn từ vựng tiếng Việt.
b) Tiếp nhận từ thuật ngữ nước ngoài.
Theo cách hiểu thông thường thì vay mượn là hình thức chuyển thuật
ngữ nước ngoài vào tiếng Việt [dẫn theo 10, tr.39]. Trong quá trình phát triển
và làm phong phú thêm vốn thuật ngữ tiếng Việt, việc vay mượn từ thuật ngữ
nước ngoài là không thể tránh khỏi. Các thuật ngữ này, có ưu điểm là đảm
bảo tính quốc tế về mặt hình thái và ngữ nghĩa. Thực tế, thuật ngữ nước ngoài
được tiếp nhận vào tiếng Việt dựa trên ba hình thức là sao phỏng, phiên âm và
giữ nguyên dạng. Có nhiều luồng quan điểm khác nhau liên quan đến vấn đề
44
này, một số nhà nghiên cứu thì cho rằng khi tiếp nhận các thuật ngữ nước
ngoài vào tiếng Việt thì không nên giữ nguyên dạng mà cần Việt hóa bằng
hình thức sao phỏng hoặc phiên âm. Một số khác thì cho rằng việc đảm bảo
tính quốc tế của thuật ngữ là cần thiết đồng thời cũng tránh những rắc rối về
hiện tượng đồng nghĩa, vì vậy việc tiếp nhận các thuật ngữ từ bên ngoài nên
được giữ nguyên dạng.
2.1.4. Đơn vị cấu tạo nên thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt
Cho đến nay, quan điểm của các nhà nghiên cứu về các đơn vị trong
cấu tạo của mỗi thuật ngữ và vấn đề gọi tên đơn vị cấu tạo thuật ngữ vẫn chưa
được thống nhất. Theo Hà Quang Năng, “Đơn vị cơ sở để cấu tạo thuật ngữ
trong tiếng Việt là ngữ tố. Đó là đơn vị giới hạn cuối cùng khi phân tích thành
tố trực tiếp trong tiếng Việt. (...) về mặt hình thức cấu tạo, có thể phân ra
thành thuật ngữ có hình thức cấu tạo là từ (chỉ gồm một ngữ tố) và thuật ngữ
có hình thức cấu tạo là ngữ định danh (là cụm từ được từ vựng hóa gồm từ hai
ngữ tố trở lên)” [33, tr 140].
Nguyễn Đức Tồn cho rằng thuật tố chính là thành tố cấu tạo trực tiếp
cuối cùng của một thuật ngữ. Mỗi thuật tố biểu hiện một khái niệm/đối tượng
hoàn chỉnh hoặc có thể biểu hiện khái niệm bộ phận hay đặc trưng của khái
niệm/đối tượng được thuật ngữ được định danh trong một lĩnh vực khoa học
hay chuyên môn [51, tr 120]. Như vậy, mỗi đơn vị cấu tạo nên thuật ngữ phải
có nghĩa và không phải bất kỳ một đơn vị ngôn ngữ nào cũng đều được coi là
một yếu tố cấu tạo thuật ngữ. Một đơn vị cấu tạo nên thuật ngữ chỉ được coi
là một yếu tố khi nó có nghĩa từ vựng và tham gia cấu tạo các thuật ngữ khác
nhau trong một lĩnh vực khoa học hay chuyên môn.
Một luồng ý kiến khác xuất phát từ các tác giả Hoàng Văn Hành, Lê Khả
kế, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Tu hay Vũ Quang Hào, ... cho rằng đơn
vị cấu tạo nên thuật ngữ là tiếng. Nếu quan niệm như vậy, mỗi tiếng cấu tạo
nên thuật ngữ sẽ tương ứng với một chữ hay một âm tiết.
45
Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Xô Viết (điển hình là D.S. Lotte,
người đã xác định đơn vị cấu tạo thuật ngữ là yếu tố thuật ngữ, sau đó được
V.P. Danilenko và T.L. Kandeljaki hoàn thiện) quan niệm : “Thuật ngữ có thể
là hình vị trong từ đơn, là từ (thậm chí kết hợp từ) khi thuật ngữ là từ ghép
hay là từ tổ, thuật ngữ có thể gồm một hay hơn một yếu tố thuật ngữ. Mỗi yếu
tố thuật ngữ tương ứng với khái niệm hay tiêu chí của khái niệm trong lĩnh
vực chuyên môn nào đó.” [dẫn theo 33, tr.20-21].
Trong tiếng Anh, đơn vị cấu tạo nên từ là hình vị. Hình vị được chia
làm hai loại là hình vị tự do và hình vị phụ thuộc. Hình vị tự do là những từ
đơn, có thể đứng một mình và có chức năng ngữ pháp trong khi hình vị phụ
thuộc là những hình vị không thể đứng một mình, nghĩa của chúng chỉ rõ ràng
khi được kết hợp với các hình vị tự do. Như vậy, các thành tố cấu tạo nên
thuật ngữ trong tiếng Anh có thể là hình vị độc lập trong từ đơn, là từ ghép
hoặc có thể là cụm từ. Mỗi yếu tố biểu thị một khái niệm hoặc một đối tượng
hoàn chỉnh hay bộ phận đặc trưng của khái niệm thuộc một lĩnh vực chuyên
môn nhất định.
Ví dụ khi xét thuật ngữ bộ lọc, cần khoan, dầu tách có cấu tạo là từ,
yếu tố cấu tạo là thuật ngữ là các hình vị bộ, lọc, cần, khoan, dầu, tách. Thuật
ngữ dung lượng khí thực tế, dịch vụ công cụ khách hàng, dịch vụ cung cấp khí
có cấu tạo là cụm từ và yếu tố cậu tạo thuật ngữ là từ dung lượng, khí, thực tế,
dịch vụ, công cụ, khách hàng, dịch vụ, cung cấp, khí. Thuật ngữ driller (thợ
khoan), booster (máy tăng áp), bonding (sự kiên kết) có cấu tạo là từ phái sinh
và được tạo thành từ hai hình vị drill/er, boost/er, bond/ing nhưng vẫn được
xem là thuật ngữ có cấu tạo một yếu tố, vì các hình vị “er”, “ing” không thể
đứng độc lập một mình và mang ý nghĩa từ vựng hoàn chỉnh. Thuật ngữ
fairsafe (bộ an toàn tự động), fairway (đường dẫn), fold-back (cáp gập) có cấu
tạo là từ ghép, gồm hai hình vị là fair/safe, fair/way, fold/back, những hình vị
này có thể đứng độc lập và mang ý nghĩa từ vựng. Thuật ngữ main shaft (trục
46
truyền chính), maximum production rate (mức khai thác cực đại), oil
prospecting licience (giấy phép thăm dò dầu) là những thuật ngữ có cấu tạo là
các cụm từ và các yếu tố cấu tạo là từ bao gồm main/ shaft, maximum/
production/ rate, oil/prospecting/licience.
Dựa vào những đặc điểm của thuật ngữ có cấu tạo không đồng nhất, có
thể là từ hoặc là cụm từ cùng với những phân tích trên, trong luận án này,
chúng tôi đồng quan điểm với các nhà ngôn ngữ học Xô Viết gọi đơn vị cấu
tạo nên thuật ngữ dầu khí là thành tố thuật ngữ (gọi tắt là thành tố) và nhất trí
với quan điểm cho rằng thành tố thuật ngữ dầu khí là hình vị trong thuật ngữ
có hình thức cấu tạo là từ; là từ hoặc cụm từ trong thuật ngữ có hình thức cấu
tạo là cụm từ (ngữ). Thành tố thuật ngữ dầu khí là đơn vị cấu tạo trực tiếp
cuối cùng của thuật ngữ dầu khí, có chức năng biểu thị một khái niệm hay
tiêu chí của khái niệm trong lĩnh vực dầu khí. Với chức năng như vậy, mỗi
thành tố tham gia cấu tạo nên TNDK phải có ý nghĩa từ vựng tức là có thể
biểu hiện khái niệm loại, khái niệm bộ phận hoặc đặc trưng của khái niệm.
Các hư từ và các quan hệ từ như giới từ và liên từ không được coi là thành
tố thuật ngữ, vì không có nghĩa từ vựng, không biểu hiện khái niệm hoặc
thuộc tính của khái niệm.
2.1.5. Thuật ngữ với lí thuyết định danh
2.1.5.1. Khái niệm về định danh
Trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào của con người thường có những
tên gọi. Tên gọi có ở khắp mọi nơi xung quanh con người. Quá trình gọi tên
phổ biến rộng rãi trong lĩnh vực hoạt động khoa học của con người. Phát minh
mới, khoa học hay lĩnh vực kiến thức mới được tạo ra đòi hỏi tên gọi và đặt
tên mới. Quá trình đặt tên hoặc quá trình định danh là một phần tự nhiên và
không thể tách rời quá trình nhận thức: sau khi khám phá bất kỳ một cái gì
mới, con người luôn luôn phải nghĩ ra một tên gọi thích hợp.
47
Trong lĩnh vực khoa học-kỹ thuật đơn vị từ vựng cơ bản là thuật ngữ.
Về bản chất, thuật ngữ cũng là tên gọi. Thuật ngữ gọi tên một sự vật hay một
hiện tượng nhất định trong lĩnh vực nào đó của kiến thức khoa học. Thuật ngữ
là một đơn vị từ vựng đặc biệt, khác với các đơn vị khác ở chỗ nó có khả năng
biểu thị khái niệm nghề nghiệp-chuyên ngành, khoa học hay kỹ thuật. Chính
sự tương quan của thuật ngữ với một lĩnh vực kiến thức nhất định cho phép
coi thuật ngữ là đơn vị từ vựng đặc biệt dùng biểu thị những sự vật và hiện
tượng đồng nhất, trong các ngôn ngữ khác nhau lại có các hình thức biểu thị
hoàn toàn khác nhau. Điều này có thể là do nhiều nguyên nhân, ví dụ do các
phương thức tiếp nhận hiện thực xung quanh bởi những người của các nền
văn hoá khác nhau. Điều đó có nghĩa là trong các ngôn ngữ khác nhau cùng
một sự vật hiện tượng có thể có các tên gọi khác nhau, được chọn lựa trên cơ
sở những dấu hiệu định danh thuật ngữ không đồng nhất.
Theo L. Phoi-ơ-bắc thì định danh là cách đặt tên gọi cho sư vật, hiện
tượng giúp cho quá trình giao tiếp, phân biệt vật này với vật khác của chúng
ta thực hiện được dễ dàng.
Định danh (nomination), theo G.V. Kolshansky, là gắn cho một ký hiệu
ngôn ngữ một khái niệm - biểu hiện phản ánh đặc trưng nhất định của một
biểu vật – các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ của các đối tượng và quá
trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ tạo
thành những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn ngữ [Dẫn theo 46, tr.1-9].
Rõ ràng khi định danh một sự vật, hiện tượng chúng ta phải tìm ra
những đặc trưng tiêu biểu, những đặc trưng đó phải có tính chất khu biệt
nhằm phân biệt giữa vật này với vật khác, hiện tượng này với hiện tượng khác
hay quá trình này với quá trình khác… Đây cũng chính là chức năng quan
trọng của định danh, tức là định danh thực hiện chức năng làm ký hiệu cho sự
vật, hiện tượng được gọi tên.
48
Chung quan điểm về định danh, Nguyễn Đức Tồn cho rằng “cần thiết
phải tiến hành quy loại khái niệm và chọn ra đặc trưng khu biệt” [46, tr.1-9].
Tác giả cũng chỉ ra việc lựa chọn những đặc trưng làm cơ sở định danh phải
gắn liền với hai loại đối tượng là đối tượng cần định danh thuộc phạm vi đời
sống hàng ngày và đối tượng cần định danh thuộc một phạm vi khoa học hay
một ngành, một chuyên môn nhất định. Xét theo tiêu chuẩn thuật ngữ, đối
tượng thứ hai được áp dụng cho việc định danh thuật ngữ khoa học và đây
cũng là quan điểm được đông đảo các nhà khoa học tán thành [46].
2.1.5.2. Quá trình định danh và đơn vị định danh
“Trong ngôn ngữ tự nhiên, quá trình gọi tên tất yếu gắn với quá trình
phân loại. Nếu như cần phải biểu thị một đối tượng nào đó mà trong ngôn ngữ
chưa có tên gọi thì trên cơ sở các đặc trưng đã được tách ra từ đối tượng này,
nó được quy vào khái niệm A hoặc B mà trong ngôn ngữ đã có cách biểu thị
riêng cho chúng và nhận tên gọi tương ứng. Nhưng đồng thời cũng diễn ra sự
lắp ráp bản thân các từ vào hiện thực: khi thì người ta bỏ đi cái gì đó khỏi
sự hiểu biết ban đầu, khi thì, ngược lại, bổ sung thêm cái gì đó vào sự hiểu
biết đầu tiên ấy” [dẫn theo 46, tr.1-9] Đây chính là hành vi phân loại, theo
như V.G. Gak, một đặc trưng cơ bản và quan trọng nhất trong quá trình
định danh [97].
Chẳng hạn, để gọi tên một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng, sánh
đặc màu nâu hoặc ngà lục, nhẹ, dễ cháy và không tan trong nước, dựa vào các
đặc điểm đó người ta quy vào khái niệm đã có tên gọi trong ngôn ngữ là
“Dầu”. Trong quá trình khai thác, người ta đã phát hiện ra rất nhiều mỏ dầu
khác nhau, chúng phân bổ ở những nơi rất khác nhau về đặc điểm địa lý tự
nhiên. Bởi vậy, mỗi loại dầu thô ở mỗi mỏ đều có sự khác biệt nhất định. Dựa
vào các đặc điểm đó, cùng với những tiêu chí khác, thông thường là tỷ trọng
và độ nhớt để phân chia các loại dầu và gọi tên chính xác các loại dầu đó: dầu
49
than (coal oil), dầu sạch (clean oil), dầu hiệu chỉnh (corrected oil), dầu khô
(dry oil), dầu nổ (blasting oil), dầu đen (black oil), dầu xấu (bad oil) …
Việc quy loại và lựa chọn đặc trưng có ý nghĩa khu biệt có vai trò hết
sức quan trọng trong quá trình định danh sự vật hiện tượng để tìm ra tên gọi
đúng với bản chất của sự việc, hiện tượng đó. Liên quan đến tên gọi, Nguyễn
Đức Tồn cho rằng, căn cứ vào chủ thể định danh và đối tượng định danh – hai
tham tố trực tiếp tham gia vào quá trình định danh – có lý do chủ quan và có
lý do khách quan. Trong đó lí do chủ quan phụ thuộc vào chủ thể định danh, lí
do khách quan phụ thuộc vào đối tượng định danh. Lí do khách quan được
hiểu là một đặc trưng nào đó của sự vật có ý nghĩa khu biệt với sự vật khác.
Loại lí do này khoa nhận biết hơn vì chỉ có chủ định danh mới giải thích cặn
kẽ được nguyên do vì sao sự vật, hiện tượng hay quá trình này lại được gọi
tên như vậy [46].
Theo Lê Quang Thiêm, xét trên bình diện ngôn ngữ học, định danh
được chia thành đơn vị đinh danh gốc và đơn vị định danh phái sinh, trong
đó định danh gốc được tạo ra bởi những đơn vị tối giản về mặt hình thái
cấu trúc, mang nghĩa đen được dùng làm cơ sở để tạo ra các đơn vị định
danh khác [41]
Nhóm thuật ngữ gồm đơn vị định danh gốc có một số thành tố cấu tạo
với chức năng gọi tên các sự vật, hiện tượng, quá trình và mang tính chất cơ
bản của một chuyên ngành cụ thể. Ví dụ: dầu (oil), khoan (drill), khí (air),
giếng dầu (well), bình thép (bomb )…là những đơn vị định danh gốc trong hệ
thống TNDK tiếng Anh. Định danh phái sinh là những đơn vị định danh có
cấu trúc hình thái phức tạp với hai thành tố cấu tạo trở lên, trong đó có thành
tố chính và thành tố phụ với chức năng gọi tên hiện tượng, sự vật, quá trình
hay tính chất cụ thể của một chuyên ngành cụ thể. Ví dụ: ball valve (van cầu),
observation well (giếng quan sát), oild field (mỏ dầu), oil window (cửa sổ
dầu), oil zone (đới dầu) …
50
2.1.6. Phân biệt thuật ngữ và một số khái niệm liên quan
2.1.6.1. Thuật ngữ và danh pháp
Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những
từ cố định là tên gọi chính xác của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc
các lĩnh vực chuyên môn của con người [53, tr.270].
G.O. Vinokur - nhà nghiên cứu về ngôn ngữ đầu tiên đã chỉ ra chỉ khác
biệt giữa thuật ngữ và danh pháp, tác giả cho rằng “danh pháp chỉ là một hệ
thống các phù hiệu hoàn toàn trừu tượng và ước lệ, mà mục đích duy nhất là ở
chỗ cấp cho ta cái phương tiện thuận lợi nhất về mặt thực tiễn để gọi tên các
đồ vật, các đối tượng không quan hệ trực tiếp với những đòi hỏi của tư duy lí
luận hoạt động với những sự vật này” [93, tr.8].
Tiếp thu quan điểm của G.O. Vinokur, A.A. Reformatsky cũng đưa ra
quan điểm của mình khi cho rằng “Hệ thuật ngữ trước hết phải gắn với một hệ
thống khái niệm của một khoa học cụ thể, còn danh pháp chỉ “dán nhãn” cho
đối tượng của nó và danh pháp không có quan hệ trực tiếp với khái niệm khoa
học” [Dẫn theo 93, tr.51].
Như vậy, danh pháp, theo chúng tôi, chỉ là cách gọi tên các sự vật cá
thể riêng biệt trong một loạt sự vật thuộc một ngành khoa học hay chuyên
môn mà thôi. Chẳng hạn, trong lĩnh vực dầu khí, các từ như Dầu, giếng là
những thuật ngữ chỉ một loại sự vật, còn tên gọi của những loại dầu hay giếng
cụ thể như: Dầu Bạch Hổ (Dầu ở mỏ Bạch Hổ), giếng 1, giếng 2, giếng 3 (tên
những giếng cụ thể trong vùng khai thác) …là danh pháp.
2.1.6.2. Thuật ngữ và từ nghề nghiệp
Bên cạnh việc phân biệt thuật ngữ và danh pháp, chúng tôi thấy cần
thiết có sự phân biệt giữa thuật ngữ với các từ phi thuật ngữ, mà cụ thể là các
từ chỉ nghề nghiệp. Trong khi thuật ngữ được hiểu là nội dung của khái niệm
khoa học, hình thức ngôn ngữ là tên gọi của một khái niệm khoa học, toàn bộ
khái niệm trong một lĩnh vực khoa học và là toàn bộ tên gọi của một khoa
51
học, chẳng hạn như: giỏ trám xi măng, bơm trám xi măng, nút trám xi măng,
đầu trám xi măng đều thuộc về ngành khoan. Từ nghề nghiệp là những đơn vị
từ vựng có nội dung chuyên môn thông thường, có nhiệm vụ xác định tên
những nguyên vật liệu, những công cụ sản xuất, những quy trình, công đoạn
làm việc hay những sản phẩm nghề nghiệp, ví dụ như: nhài, nan, bìa, …
(trong nghề làm quạt), xương, da … (trong nghề gốm).
Thuật ngữ được xem là những từ có tính đơn nghĩa, không có từ đồng
nghĩa và đặc biệt không có sắc thái tình cảm. Không giống như vậy, từ nghề
nghiệp đôi khi dùng để trao đổi miệng về chuyên môn, có tính gợi cảm, gợi
hình và vui đùa, ví dụ như: phó nháy thay cho thợ ảnh, hay sếp thay cho giám
đốc, trưởng phòng (những người có vị trí tại nơi làm việc).
Một mặt nào đó, từ chỉ nghề nghiệp là những từ có phạm vi sử dụng
trong khu vực chuyên môn của một nhóm, nhất là với những ngành nghề phổ
biến thì việc sử dụng nó càng trở nên rộng rãi và ngược lại. Về điểm này,
thuật ngữ khác hoàn toàn vì thuật ngữ có tính đại chúng và không thể tách rời
người sử dụng. Khoa học kỹ thuật phải thực sư xâm nhập vào đời sống xã hội,
muốn vậy thuật ngữ không thể là lớp từ xa lạ với quần chúng.
2.2. Cơ sở lí luận về ngôn ngữ học đối chiếu
Ngôn ngữ học đối chiếu hay còn gọi là phân tích đối chiếu, miêu tả, so
sánh đối chiếu từng phạm trù tương ứng giữa hai ngôn ngữ thông thường là
tiếng mẹ đẻ (còn gọi là tiếng gốc) và ngoại ngữ (còn gọi là ngôn ngữ đích)
nhằm mục đích sư phạm hoặc dịch thuật [42].
Theo từ điển tiếng Việt (1994) do Hoàng Phê chủ biên thì thuật ngữ đối
chiếu được định nghĩa là so sánh cái này với cái kia (thường với cái dùng làm
chuẩn) để từ những chỗ giống nhau và khác nhau mà biết được rõ hơn [35].
Là một phân ngành của ngôn ngữ học, ngôn ngữ học đối chiếu theo
như Bùi Mạnh Hùng còn có tên gọi khác là phân tích đối chiếu hay nghiên
52
cứu đối chiếu, nghiên cứu xuyên ngôn ngữ, nghiên cứu tương phản, hay ngôn
ngữ học so sánh miêu tả [17]. Tuy nhiên, trên thế giới cũng như ở Việt Nam
thì tên gọi Ngôn ngữ học đối chiếu vẫn phổ biến hơn cả, được dùng để nghiên
cứu so sánh hai hoặc nhiều hơn hai ngôn ngữ bất kì để xác định những điểm
giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ đó, không tính đến vấn đề các ngôn
ngữ có quan hệ nguồn gốc hay thuộc cùng một loại hình hay không.
Dù mỗi nhà nghiên cứu ngôn ngữ đều có quan điểm của riêng mình
nhưng tất cả đều có một điểm chung đó là ”ngôn ngữ học đối chiếu sử dụng
để xác lập những điểm giống và khác nhau hay những tương đồng và loại biệt
của phạm vi đối tượng được khảo sát” [41, tr.40-41]. Dựa trên quan điểm này,
tác giả nhấn mạnh, nghiên cứu đối chiếu không nhằm giải quyết các quan hệ
ngữ hệ mà chủ yếu hướng vào những tương đồng và dị biệt cấu trúc và hoạt
động của ngôn ngữ. Để thực hiện đối chiếu ngôn ngữ một cách hiệu quả, cần
phải dựa trên một số những nguyên tắc nhất định.
2.2.1. Những nguyên tắc chung trong đối chiếu ngôn ngữ
Lê Quang Thiêm cho rằng nghiên cứu đối chiếu có quan hệ chặt chẽ về
phương pháp nghiên cứu so sánh. Nghiên cứu đối chiếu chỉ là một bộ phận,
một thủ pháp trong so sánh nói chung và trình bày thực tế tác giả cũng cho
rằng” chúng ta có cơ sở để phân biệt phương pháp so sánh – lịch sử như là
một phương pháp cơ bản và đối chiếu là một loại cơ bản khác [41, tr. 41].
Mặc dù có kế thừa và sử dụng nhiều yếu tố, thủ pháp của nghiên cứu
miêu tả và so sánh lịch sử, phương pháp ngôn ngữ học đối chiếu có một hệ
thống nguyên tắc, thủ pháp riêng – đây chính là lợi thế và triển vọng của ngôn
ngữ học đối chiếu [42].
Dựa trên cơ sở các nghiên cứu trước đó và thực tiễn, Bùi Mạnh Hùng
đã đưa ra 05 quy tắc cần thiết phải tuân thủ trong đối chiếu ngôn ngữ [17, tr.
131-146].
53
Nguyên tắc 1: Bảo đảm các phương tiện trong hai ngôn ngữ đối chiếu
phải được miêu tả một cách đầy đủ, chính xác và sâu sắc trước khi tiến hành
đối chiếu để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng.
Miêu tả trước rồi mới đến đối chiếu là một trong những nguyên tắc có
tính chất phương pháp luận của việc phân tích đối chiếu theo quan điểm
truyền thống. Đây được xem như một bước chuẩn bị nhưng rất quan trọng của
quá trình đối chiếu vì nó cung cấp đầu vào cho sự đối chiếu và kết quả nghiên
cứu đối chiếu phụ thuộc vào đầu vào này.
“Những cái gì thuộc về khái niệm hay chất liệu âm thanh trong dấu
hiệu không quan trọng bằng những cái gì tồn tại xung quanh nó, trong các dấu
hiệu khác”; “Trong bản chất của nó, cái biểu hiện không hề có tính chất âm
thanh, nó vốn là phi thể chất; nó được cấu tạo không phải do chất liệu vật chất
của nó, mà hoàn toàn là do những sự phân biệt giữa hình ảnh âm thanh của nó
với tất cả những hình ảnh âm thanh khác”; “Trong ngôn ngữ chỉ có sự phân
biệt mà thôi” là những cơ sở có tính hệ thống chặt chẽ trong giáo trình ngôn
ngữ học đại cương của F. de Saussure dựa trên nguyên tắc nghiên cứu đối
chiếu không thể chỉ chú ý đến các phương tiện ngôn ngữ một cách tách biệt
mà phải đặt trong hệ thống, đây chính là nguyên tắc thứ 2 trong số 5 nguyên
tắc của đối chiếu [38, tr.155].
Nguyên tắc 3: Khi nghiên cứu so sánh đối chiếu, phải xem xét các
phương tiện đối chiếu trong hệ thống ngôn ngữ và trong hoạt động giao tiếp.
Nguyên tắc này gắn với việc giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa
ngôn ngữ và lời nói trong nghiên cứu ngôn ngữ học nói chung. Sự tuyệt đối
hoá ranh giới giữa hai phạm trù này xuất phát từ F. de Saussure khi ông cho
rằng “đối tượng duy nhất và chân thực của ngôn ngữ học là ngôn ngữ, xét
trong bản thân nó và vì nó” [38]. Theo Bùi Mạnh Hùng thì nguyên tắc thứ 3
đã trở thành kim chỉ nam và là một trong những nguyên lí cơ bản chi phối
ngôn ngữ học cấu trúc trong gần suốt thế kỉ XX [17].
54
Nguyên tắc 4: Đây là nguyên tắc đòi hỏi phải đảm bảo tính nhất quán
trong việc vận dụng các khái niệm và mô hình lí thuyết để miêu tả các ngôn
ngữ được đối chiếu.
Để thực hiện nghiên cứu đối chiếu, bắt buộc phải theo một trình tự bởi
vì không có một sự đối chiếu nào có thể thực hiện mà trước đó không miêu tả
các ngôn ngữ được đối chiếu (nguyên tắc 1). Thành công của việc đối chiếu
không chỉ tùy thuộc vào các khái niệm và lí thuyết mà chúng ta lựa chọn để
miêu tả mà còn được quyết định bởi tính nhất quán của việc vận dụng các
khái niệm và lí thuyết đó. “Bất kì sự khác biệt nào giữa các kết quả miêu tả
đều sẽ không phải do những khác biệt trong các phương pháp được sử dụng,
mà là do những khác biệt trong cách các dữ liệu ngôn ngữ đáp ứng những
phương pháp xử lí đồng nhất” [73, tr. 259-270]. Vì lẽ đó, nguyên tắc này đòi
hỏi các nhà nghiên cứu không chỉ sử dụng những khái niệm phù hợp với cả
hai ngôn ngữ được đối chiếu mà còn phải sử dụng chung một mô hình để
miêu tả các phương tiện của hai ngôn ngữ.
Cách tiếp cận cấu trúc xuất phát từ những nguyên lí nền tảng của phân
bố luận, coi mỗi ngôn ngữ được phân tích và miêu tả trong phạm vi những
phạm trù riêng của chính nó. Những nguyên lí này do L. Bloomfield [64] xây
dựng sau đó được Z. Harris phát triển [73]. Những công trình nghiên cứu đối
chiếu ở Mĩ giai đoạn đầu, khoảng thời gian sau khi cuốn sách của R. Lado
được công bố, chủ yếu áp dụng mô hình lí thuyết này.
Nguyên tắc 5: Khi đối chiếu hai ngôn ngữ với nhau, phải chú ý đến đặc
trưng loại hình giữa các ngôn ngữ cần đối chiếu để có cách tiếp cận phù hợp.
Rõ ràng khi nghiên cứu đối chiếu, các loại hình ngôn ngữ này có gần gũi
không và có thể lựa chọn được cách tiếp cận thích hợp không là những yếu tố
cần thiết phải tính đến. Bên cạnh đó, còn các yếu tố khác tác động như bối
cảnh lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ
55
đó. Lường trước được như vậy, người nghiên cứu mới có thể giải thích một
cách sâu sắc những tương đồng và khác biệt của các ngôn ngữ được đối chiếu.
Ngôn ngữ học là một ngành khoa học thực nghiệm. Sức mạnh của một
lí thuyết ngôn ngữ học được đo bằng hiệu quả giải thích cứ liệu ngôn ngữ
thực tiễn. Sự lựa chọn một lí thuyết ngôn ngữ học có khả năng miêu tả thích
hợp cả hai ngôn ngữ là một yêu cầu khó khăn hơn rất nhiều so với khi miêu tả
một ngôn ngữ riêng lẻ.
Như vậy, đối với việc nghiên cứu đối chiếu, sau khi đã xác định được
các nguyên tắc và phạm vi đối chiếu thì công tác đối chiếu phải được thực
hiện từng bước một cách cụ thể.
Dựa trên những nguyên tắc đối chiếu và có điều chỉnh cho phù hợp với
mục đích của luận án, chúng tôi thực hiện ba bước trong đối chiếu đó là miêu
tả, xác định những đối tượng có thể đối chiếu và đối chiếu. Thứ tự các bước
có thể được thay đổi theo bình diện nội dung cần đối chiếu.
2.3. Tiểu kết
Để có cơ sở lí thuyết vững chắc phục vụ cho mục đích nghiên cứu về
đặc điểm cấu tạo cũng như định danh của thuật ngữ dầu khí, luận án đã tập
trung trình bày về khái niệm thuật ngữ, làm rõ sự khác biệt giữa thuật ngữ và
danh pháp. Trong khi thuật ngữ là những từ ngữ biểu hiện khái niệm hoặc đối
tượng thì danh pháp là tên gọi cụ thể cho các đối tượng, được sử dụng cho
một lĩnh vực khoa học hoặc chuyên môn. Nhắc đến thuật ngữ không thể
không nhắc đến những đặc điểm của nó, ngoài những đặc tính rất phổ biến mà
các nhà nghiên cứu thường nhắc đến như tính dân tộc, tính quốc tế, tính chính
xác và tính ngắn gọn. Thuật ngữ còn được biết đến không phải là một yếu tố
không khu biệt hay không căn bản mà gồm các từ, cụm từ có trọng âm và
có tính tương quan cao với các từ ngữ trong lĩnh vực để cùng tạo ra hệ
thống, tập tục quy ước. Thêm vào đó thuật ngữ còn có tính hài hòa hóa và
cuối cùng là tính không biểu cảm và độc lập với văn cảnh. Với đặc thù
56
riêng, thuật ngữ dầu khí, theo xác định của luận án, có ba tiêu chuẩn cần và
đủ bao gồm: Tiêu chuẩn về tính khoa học, tiêu chuẩn về tính quốc tế và
tiêu chuẩn về tính dân tộc.
Bên cạnh đó, luận án cũng đưa ra khái niệm định danh, quá trình và
đơn vị định danh. Ngoài ra, một số cơ sở lý thuyết về các nguyên tắc đối
chiếu của ngôn ngữ học đối chiếu sẽ áp dụng trong luận án để đối chiếu, so
sánh, nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt của thuật ngữ giữa hai
ngôn ngữ cũng được trình bày khá cụ thể.
57
Chương 3
ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC VÀ ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO
CỦA THUẬT NGỮ DẦU KHÍ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
3.1. Dẫn nhập
Thuật ngữ nói chung được cấu tạo là một từ, từ đó có thể là từ đơn hoặc
từ ghép, cũng có thể được cấu tạo là một cụm từ. Để có được phương thức
cấu tạo thuật ngữ mới hoặc chuẩn hóa thuật ngữ thì việc khảo sát mô hình cấu
tạo các thuật ngữ, đặc biệt đối với các thuật ngữ có cấu tạo cụm từ là hết sức
cần thiết. Việc làm này sẽ giúp chúng ta tìm được những mô hình phổ biến, có
sức sản sinh cao để mô phỏng hay dựa trên đó để xây dựng những thuật ngữ
mới và cũng là cơ sở để chuẩn hóa thuật ngữ. Vì vậy, trong chương này,
chúng tôi tiến hành phân tích, khảo sát các yếu tố tạo nên thuật ngữ, đặc điểm
của những yếu tố đó, sự kết hợp của các yếu tố như thế nào, theo mô hình nào
để tạo nên thuật ngữ nói chung và TNDK nói riêng. Để tiến hành phân tích
đặc điểm các yếu tố cấu tạo nên thuật ngữ, luận án trình bày khái quát lý
thuyết về cấu tạo từ trong tiếng Anh và tiếng Việt, là cơ sở cho việc phân tích
và giải thích các đặc điểm cấu tạo của hệ TNDK tiếng Anh và tiếng Việt.
3.2. Phương thức cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Anh và tiếng Việt
3.2.1. Phương thức cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Anh
3.2.1.1. Đơn vị cấu tạo từ trong tiếng Anh
a. Hình vị
Khái niệm về hình vị
Trong ngôn ngữ tiếng Anh, hình vị được xem là đơn vị nhỏ nhất có
nghĩa của ngôn ngữ, có chức năng ngữ pháp và tham gia vào cấu tạo từ, ví dụ
của Plag trong cuốn word- information in English [82, tr.10].
58
(1) (2) (3)
employee apartment building chair
inventor greenhouse book
decolonization team manager girl
meaningless truck driver brow
suddenness black board great
unhappy son-in-law miss
Trong bảng ví dụ trên, dễ dàng nhận thấy các từ ở cột (1) và cột (2)
được cấu tạo bằng cách kết hợp với các thành tố nhỏ hơn để tạo thành những
từ lớn hơn và mang nghĩa rộng hơn. Chẳng hạn, từ employee được cấu tạo
bằng cách kết hợp giữa động từ employ và phần đuôi –ee, hay từ unhappy
được cấu tạo bằng cách kết hợp giữa tính từ happy với yếu tố un-, và từ
decolonization được cấu tạo bằng sự kết hợp của những thành phần nhỏ nhất
như de-, colony, -ize, và đuôi –ation. Từ những từ có cấu tạo phức tạp như
thế có thể tách ra thành những đơn vị nhỏ nhất, các đơn vị này được gọi là
hình vị.
Không giống như cột (1) và (2), các từ trong cột (3) không thể chia
thành những đơn vị có nghĩa nhỏ hơn bởi các từ này chỉ gồm một hình vị và
chúng được gọi là hình vị độc lập.
b. Phân loại hình vị
Tiếng Anh có hai loại hình vị là hình vị tự do (free morpheme) hay còn
gọi là hình vị không phụ thuộc (independent morpheme) và hình vị phụ thuộc
(bound /dependent morpheme) [82, tr.10].
Hình vị tự do (free morpheme): có khả năng hoạt động độc lập với tư
cách là một đơn vị từ vựng hay kết hợp với nhiều hình vị khác (nhưng nghĩa
từ vựng không thay đổi) có nghĩa và mang chức năng ngữ pháp [85, tr.10].
59
TNDK có thể được cấu tạo từ một hình vị tự do như vậy, tức là nó là thuật
ngữ gồm một yếu tố cấu tạo, ví dụ: oil (dầu), air (khí), price (giá), …
Tuy nhiên, trong TNDK tiếng Anh thì thuật ngữ được cấu tạo từ một
yếu tố là không nhiều, chủ yếu là các thuật ngữ phức, tức là thuật ngữ được
cấu tạo từ hai yếu tố trở lên, ví dụ: clean oil (dầu sạch), coal oil (dầu than),
break oil (dầu tách), air drilling (khoan khí nén), air hoist (tời khí nén), air
injection (bơm phun không khí), base price (giá gốc), beach price (giá dầu xử
lý ở biển), …
Hình vị tự do được chia làm hai loại là hình vị ngữ pháp và hình vị từ
vựng. Hình vị ngữ pháp: là những hình vị có chức năng thể hiện mối quan hệ
ngữ pháp trong câu, thường là các giới từ, liên từ, quán từ …. Hình vị từ vựng
là những hình vị mang ý nghĩa nội dung, chỉ sự vật, trạng thái, hành động, và
thường là danh từ, tính từ, động từ…
Hình vị phụ thuộc (bound morpheme): Là những hình vị không thể
đứng một mình, nghĩa của chúng chỉ rõ ràng khi được kết hợp với các hình vị
tự do. Trong tiếng Anh, hình vị phụ thuộc gồm hai loại: Hình vị phụ thuộc là
phụ tố và hình vị phụ thuộc là biến tố.
Phụ tố: Bao gồm tiền tố (preffix) như: re-, de-, anti-,… Ví dụ:
resolution (độ phân giải), rework (gia công lại), resurvey (đo đạc lại),
desalting (khử muối), desand (khử cát), antiform (dạng đối lập), … Và hậu tố
(suffix) như: -or, -er: driller (người khoan), absorber (bộ hấp thụ), blender
(thiết bị trộn), compressor (máy nén), assignor (bên chuyển nhượng), …
Biến tố: là những yếu tố dùng trong hệ thống giống, số …. và mang
chức ngữ pháp, chẳng hạn như: -ed, -ing, … Ví dụ: corrected oil (dầu hiệu
chỉnh), balanced drilling (khoan cân bằng), exhausted well (giếng khoan
kiệt), blasting oil (dầu nổ), aliasing (tạo hình giả), earning well (giếng có
lãi), engineering technican (nhân viên kỹ thuật), …
60
Hình vị biến tố ở đây khác với hình vị phụ tố ở trên, trong khi hình vị
phụ tố kết hợp với một hình vị tự do để tạo ra từ mới, còn gọi là từ phái sinh
và đôi khi làm cho từ chuyển loại, ví dụ: danh từ absorber được tạo ra bởi sự
kết hợp của động từ absorb – là một hình vị tự do và một hình vị phụ tố -or
thì hình vị biến tố với sự biến đổi về hình thái của từ để diễn đạt các quan hệ
ngữ pháp, ý nghĩa trong câu và thường đứng cuối từ, ví dụ: cùng âm tiết cuối
là –er, nhưng trong từ blender thì –er với vai trò là một hình vị phụ tố, còn
trong từ colder thì –er lại là hình vị biến tố.
Với vai trò như vậy, nên từ có hình vị biến tố không được xét với tư
cách là từ riêng biệt và cũng không được liệt kê trong từ điển. Sự khác biệt
này là điều này rất quan trọng với chúng tôi khi nghiên cứu về cấu tạo thuật
ngữ dầu khí tiếng Anh.
3.2.1.2. Phương thức cấu tạo TNDK tiếng Anh
Là một ngôn ngữ biến hình, ngoài các từ vựng trong hệ TNDK tiếng
Anh được cấu tạo là những từ đơn hay còn gọi là từ gốc, các thuật ngữ còn
được tạo ra bằng nhiều phương thức khác nhau, đó là: phương thức tạo từ
phái sinh bao gồm phương thức thêm phụ tố (affixation) và phương thức tạo
từ phái sinh không dùng phụ tố (derivation without affixation), và phương
thức ghép (compound), ... [84].
a. TNDK tiếng Anh có cấu tạo là từ đơn
TNDK tiếng Anh là từ đơn hay còn gọi là từ gốc (root words) được tạo
thành từ hình vị độc lập (free morpheme), và có thể hoạt động một cách độc
lập trong lời nói. Về mặt nhữ âm TNDK tiếng Anh có cấu tạo là từ được chia
làm hai loại: từ đơn tiết như oil (dầu), drill (khoan), axis (trục), v.v…; từ đa
tiết như liquid (chất lỏng), petrol (xăng), derrick (tháp khoan), v.v…
b. TNDK tiếng Anh có cấu tạo là từ phái sinh
- Từ phái sinh thêm phụ tố
http://bit.ly/KhoTaiLieuAZ

More Related Content

PDF
Action research
PDF
Giáo trình đánh giá kiểm tra trong dạy học.pdf
PPTX
Basic principles of hemodialysis final
PPT
Bai giang ngon ngu hoc doi chieu
PDF
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
PDF
Kính ngữ tiếng Hàn và các phương tiện biểu hiện tương đương, HOT
PPT
Time Management Training Ppt
PPTX
SLIDE THUYẾT MINH ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI. MẪU ĐTCĐT.pptx
Action research
Giáo trình đánh giá kiểm tra trong dạy học.pdf
Basic principles of hemodialysis final
Bai giang ngon ngu hoc doi chieu
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
Kính ngữ tiếng Hàn và các phương tiện biểu hiện tương đương, HOT
Time Management Training Ppt
SLIDE THUYẾT MINH ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI. MẪU ĐTCĐT.pptx

What's hot (20)

PDF
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ xã hội học Anh- Việt, HAY
PDF
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ thời trang Anh Việt, HAY
PDF
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ cơ khí trong tiếng Anh và tiếng Việt
PDF
Luận văn: Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ Hàn – việt có yếu tố chỉ tên gọi độn...
DOCX
Tổng hợp 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Ngôn Ngữ Học Đối Chiếu Dễ Làm Nhất
PDF
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ báo chí Anh - Việt và chuyển dịch thuật ngữ
PDF
Luận án: Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục, HAY
PDF
Luận án: Thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán, HAY
PDF
Đối chiếu thành ngữ và tục ngữ liên quan đến nước giữa tiếng Hán và tiếng Việ...
PDF
Luận văn: Nghiên cứu thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, HAY
PDF
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE...
PDF
Luận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật
PDF
Luận án: Đối chiếu nhóm động từ chuyển động đa hướng Anh - Việt
PDF
Luận văn: Ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị, HOT
PDF
ĐỐI CHIẾU TỪ NGỮ CHỈ HOA TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT - TẢI FREE ZALO: 093 4...
PDF
Từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong tục ngữ tiếng Hán và tiếng Việt
DOCX
FREE Dẫn luận ngôn ngữ. Các phương thức ngữ pháp có trong tiếng Anh,...
PDF
Luận án: Hành vi cảm ơn và hồi đáp trong tiếng Anh và tiếng Việt
PDF
Luận án: Đặc điểm ngôn ngữ của từ ngữ xưng hô trong Phật giáo
PDF
Luận văn: Câu phủ định tiếng Nga trong sự đối chiếu với tiếng Việt
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ xã hội học Anh- Việt, HAY
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ thời trang Anh Việt, HAY
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ cơ khí trong tiếng Anh và tiếng Việt
Luận văn: Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ Hàn – việt có yếu tố chỉ tên gọi độn...
Tổng hợp 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Ngôn Ngữ Học Đối Chiếu Dễ Làm Nhất
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ báo chí Anh - Việt và chuyển dịch thuật ngữ
Luận án: Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục, HAY
Luận án: Thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán, HAY
Đối chiếu thành ngữ và tục ngữ liên quan đến nước giữa tiếng Hán và tiếng Việ...
Luận văn: Nghiên cứu thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, HAY
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE...
Luận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật
Luận án: Đối chiếu nhóm động từ chuyển động đa hướng Anh - Việt
Luận văn: Ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị, HOT
ĐỐI CHIẾU TỪ NGỮ CHỈ HOA TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT - TẢI FREE ZALO: 093 4...
Từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong tục ngữ tiếng Hán và tiếng Việt
FREE Dẫn luận ngôn ngữ. Các phương thức ngữ pháp có trong tiếng Anh,...
Luận án: Hành vi cảm ơn và hồi đáp trong tiếng Anh và tiếng Việt
Luận án: Đặc điểm ngôn ngữ của từ ngữ xưng hô trong Phật giáo
Luận văn: Câu phủ định tiếng Nga trong sự đối chiếu với tiếng Việt
Ad

Similar to LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ DẦU KHÍ ANH – VIỆT_10241612052019 (20)

DOC
Ngôn ngữ học đối chiếu
PDF
Luận văn: Nâng cao năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh phổ thông qua dạy ...
PDF
Đặc điểm tiếng anh chuyên ngành dược học đối chiếu với tiếng việt
PDF
Tich hop noi_dung_giao_duc_moi_truong_trong_cac_bai_giang_hoa_hoc_o_truong_tr...
PDF
Luận văn: Rèn luyện kỹ năng hệ thống hóa kiến thức sinh học 11
PDF
Luận án tiến sĩ toán học nghiên cứu, phát triển các kỹ thuật tự động tóm tắt ...
PDF
Luận án: Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng...
PDF
Phân tích câu về cú pháp dựa vào thuộc tính kết trị của từ, HAY
PDF
Hệ thống bài tập Tiếng Việt theo hướng phát triển tư duy cho học sinh
PDF
Luận án: Đối chiếu các đơn vị từ vựng thuộc trường thị giác, HAY - Gửi miễn p...
PDF
Luận văn: Đánh giá tài nguyên đất đai phục vụ cho việc phát triển cây công ng...
PDF
Đánh giá tài nguyên đất đai phục vụ phát triển cây công nghiệp lâu năm
PDF
Ý niệm về thị trường chứng khoán trong tiếng anh và tiếng việt
PDF
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
PDF
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPT
PDF
Luận văn: Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian
PDF
Luận văn: Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian ở Trung ...
DOCX
Khóa Luận Hoàn Thiện Bộ Máy Nhân Sự Tại Công Ty Bảo Hiểm Bảo Việt Nhân Thọ.docx
DOCX
Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Nộp Thuế .docx
DOC
ƯỚC TÍNH XÁC SUẤT ĐỊNH GIÁ SAI CỔ PHIẾU TẠI VIỆT NAM: TRƯỜNG HỢP CÔNG TY CỔ P...
Ngôn ngữ học đối chiếu
Luận văn: Nâng cao năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh phổ thông qua dạy ...
Đặc điểm tiếng anh chuyên ngành dược học đối chiếu với tiếng việt
Tich hop noi_dung_giao_duc_moi_truong_trong_cac_bai_giang_hoa_hoc_o_truong_tr...
Luận văn: Rèn luyện kỹ năng hệ thống hóa kiến thức sinh học 11
Luận án tiến sĩ toán học nghiên cứu, phát triển các kỹ thuật tự động tóm tắt ...
Luận án: Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng...
Phân tích câu về cú pháp dựa vào thuộc tính kết trị của từ, HAY
Hệ thống bài tập Tiếng Việt theo hướng phát triển tư duy cho học sinh
Luận án: Đối chiếu các đơn vị từ vựng thuộc trường thị giác, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Đánh giá tài nguyên đất đai phục vụ cho việc phát triển cây công ng...
Đánh giá tài nguyên đất đai phục vụ phát triển cây công nghiệp lâu năm
Ý niệm về thị trường chứng khoán trong tiếng anh và tiếng việt
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPT
Luận văn: Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian
Luận văn: Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian ở Trung ...
Khóa Luận Hoàn Thiện Bộ Máy Nhân Sự Tại Công Ty Bảo Hiểm Bảo Việt Nhân Thọ.docx
Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Nộp Thuế .docx
ƯỚC TÍNH XÁC SUẤT ĐỊNH GIÁ SAI CỔ PHIẾU TẠI VIỆT NAM: TRƯỜNG HỢP CÔNG TY CỔ P...
Ad

More from PinkHandmade (20)

PDF
BỘ CÔNG CỤ HỖ TRỢ TRẺ MẦM NON LÀM QUEN VỚI ĐỌC VIẾT VÀ TOÁN_10530412092019
PDF
BƢỚC ĐẦU ỨNG DỤNG KỸ THUẬT KHÍ CANH TRONG VIỆC TRỒNG MỘT SỐ LOẠI RAU XANH_105...
PDF
BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA QUAN HỌ BẮC NINH TRONG THỜI KÌ HIỆN NAY_10524912092019
PDF
BIẾN ĐỔI CỦA DIỄN XƯỚNG NGHI LỄ LÊN ĐỒNG (QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TỈNH NAM ...
PDF
Bẫy thu nhập trung bình nguy cơ và thách thức đối với các nền kinh tế thu nhậ...
PDF
BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LÀNG NGHỀ CHẾ TÁC ĐÁ MỸ NGHỆ NINH VÂN, HUYỆN HOA L...
PDF
Bộ quy chế An toàn hàng không dân dụng lĩnh vực tàu bay và khai thác tàu bay ...
PDF
Bảo trợ xã hội_10523212092019
PDF
Bảo quản vốn tài liệu tại Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Quốc gia Hà ...
PDF
BẢO QUẢN TÀI LIỆU TẠI CÁC THƯ VIỆN TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG_10521712092019
PDF
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM 2008_10520612092019
PDF
BÁO CÁO VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2012_1052...
PDF
Báo cáo thường niên CÔNG TY CỔ PHẦN VẬN TẢI VÀ THUÊ TÀU BIỂN VIỆT NAM_1052041...
PDF
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN THỰC PHẨM QUỐC TẾ_10520212092019
PDF
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA VÀ MÔI TRƯỜNG XANH AN PHÁT_105158120...
PDF
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA BAO BÌ VINH_10515612092019
PDF
Báo cáo thường niên CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG LẮP MÁY IDICO_10515312092019
PDF
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN DU LỊCH - DỊCH VỤ HỘI AN_10515112092019
PDF
BÁO CÁO THỰC HIỆN QUY CHẾ CÔNG KHAI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG NĂM HỌC 2014 ...
PDF
BÁO CÁO THUYẾT MINH TỔNG HỢP KẾ HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT NĂM 2018 HUYỆN THẠNH PHÚ – ...
BỘ CÔNG CỤ HỖ TRỢ TRẺ MẦM NON LÀM QUEN VỚI ĐỌC VIẾT VÀ TOÁN_10530412092019
BƢỚC ĐẦU ỨNG DỤNG KỸ THUẬT KHÍ CANH TRONG VIỆC TRỒNG MỘT SỐ LOẠI RAU XANH_105...
BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA QUAN HỌ BẮC NINH TRONG THỜI KÌ HIỆN NAY_10524912092019
BIẾN ĐỔI CỦA DIỄN XƯỚNG NGHI LỄ LÊN ĐỒNG (QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TỈNH NAM ...
Bẫy thu nhập trung bình nguy cơ và thách thức đối với các nền kinh tế thu nhậ...
BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LÀNG NGHỀ CHẾ TÁC ĐÁ MỸ NGHỆ NINH VÂN, HUYỆN HOA L...
Bộ quy chế An toàn hàng không dân dụng lĩnh vực tàu bay và khai thác tàu bay ...
Bảo trợ xã hội_10523212092019
Bảo quản vốn tài liệu tại Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Quốc gia Hà ...
BẢO QUẢN TÀI LIỆU TẠI CÁC THƯ VIỆN TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG_10521712092019
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM 2008_10520612092019
BÁO CÁO VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2012_1052...
Báo cáo thường niên CÔNG TY CỔ PHẦN VẬN TẢI VÀ THUÊ TÀU BIỂN VIỆT NAM_1052041...
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN THỰC PHẨM QUỐC TẾ_10520212092019
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA VÀ MÔI TRƯỜNG XANH AN PHÁT_105158120...
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA BAO BÌ VINH_10515612092019
Báo cáo thường niên CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG LẮP MÁY IDICO_10515312092019
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN DU LỊCH - DỊCH VỤ HỘI AN_10515112092019
BÁO CÁO THỰC HIỆN QUY CHẾ CÔNG KHAI CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG NĂM HỌC 2014 ...
BÁO CÁO THUYẾT MINH TỔNG HỢP KẾ HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT NĂM 2018 HUYỆN THẠNH PHÚ – ...

Recently uploaded (20)

PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
PDF
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC TẬP MÔN HÓA HỌC CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY ...
PDF
GIÁO TRÌNH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ TH...
PPTX
Chương3,Buổi7,8,9,10(Buổi10 kiểmtraL2).pptx
PPTX
THUÊ 2025 - CHƯƠNG 1 TỔNG QUANưqeqweqw.pptx
PPTX
[123doc] - bai-giang-hoc-phan-hanh-vi-nguoi-tieu-dung-trong-du-lich-consumer-...
PDF
Sách không hôi fyjj ịuk gtyi yu> ướt jiii iiij
PDF
CĐHA GAN 1, Benh GAN KHU TRU, 04.2025.pdf
PDF
1001 câu đàm thoại thông dụng nhất.pdf
PDF
dfmnghjkdh hỳh fhtrydr. ỷey rỷtu dfyy ỳy rt y y ytyr t rty rt
DOCX
Sổ chỉ tiêu thực tập rhm hoàn chỉnh.docx
DOC
De Cuong Chi Tiet Mon Hoc - Kien Truc He Thong.doc
PDF
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 THEO FORM THI MỚI BGD - TẬP 2 - NĂM HỌC 2025-202...
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 10 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 BÓNG ĐÁ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
PDF
Bài giảng Xã hội học đại cương chuyên ngành
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 CẦU LÔNG - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO C...
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
DOCX
2021_CTDT_CNTT_150TC HCMUTE ngành Công Nghệ Thông Tin
PPTX
KINH TẾ CHÍNH TRỊ - HÀNG HÓA THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ...
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC TẬP MÔN HÓA HỌC CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY ...
GIÁO TRÌNH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ TH...
Chương3,Buổi7,8,9,10(Buổi10 kiểmtraL2).pptx
THUÊ 2025 - CHƯƠNG 1 TỔNG QUANưqeqweqw.pptx
[123doc] - bai-giang-hoc-phan-hanh-vi-nguoi-tieu-dung-trong-du-lich-consumer-...
Sách không hôi fyjj ịuk gtyi yu> ướt jiii iiij
CĐHA GAN 1, Benh GAN KHU TRU, 04.2025.pdf
1001 câu đàm thoại thông dụng nhất.pdf
dfmnghjkdh hỳh fhtrydr. ỷey rỷtu dfyy ỳy rt y y ytyr t rty rt
Sổ chỉ tiêu thực tập rhm hoàn chỉnh.docx
De Cuong Chi Tiet Mon Hoc - Kien Truc He Thong.doc
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 THEO FORM THI MỚI BGD - TẬP 2 - NĂM HỌC 2025-202...
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 10 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 BÓNG ĐÁ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
Bài giảng Xã hội học đại cương chuyên ngành
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 CẦU LÔNG - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO C...
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
2021_CTDT_CNTT_150TC HCMUTE ngành Công Nghệ Thông Tin
KINH TẾ CHÍNH TRỊ - HÀNG HÓA THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ...

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ DẦU KHÍ ANH – VIỆT_10241612052019

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THU HÀ ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ DẦU KHÍ ANH – VIỆT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI - 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THU HÀ ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ DẦU KHÍ ANH – VIỆT Ngành: Ngôn ngữ học so sánh, đối chiếu Mã số: 9222024 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. PHẠM HÙNG VIỆT HÀ NỘI - 2019
  • 3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được sử dụng trong luận án là trung thực. Những kết luận nêu trong luận án chưa được công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào. TÁC GIẢ LUẬN ÁN NGUYỄN THỊ THU HÀ
  • 4. ii LỜI CẢM ƠN Luận án được nghiên cứu sinh (NCS) thực hiện tại Khoa Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Phạm Hùng Việt. NCS xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Phạm Hùng Việt đã tận tình chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm trong quá trình hướng dẫn NCS hoàn thành nội dung luận án này. NCS xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy cô giáo Khoa Ngôn ngữ học của Học viện Khoa học xã hội đã giúp đỡ và tạo điều kiện để NCS hoàn thành luận án. NCS xin chân thành cảm ơn các Nhà khoa học trong và ngoài Học viện đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp NCS kịp thời bổ sung, hoàn thiện nội dung luận án. NCS xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiệt tình từ các cá nhân, tổ chức đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu phục vụ cho mục đích nghiên cứu. NCS xin chân thành cảm ơn gia đình và đồng nghiệp là những người luôn ở bên cạnh, hỗ trợ về mặt tinh thần và chia sẻ những lúc khó khăn trong quá trình học tập, nghiên cứu. Một lần nữa, nghiên cứu sinh xin trân trọng cảm ơn!
  • 5. iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.......................7 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới và ở Việt Nam7 1.1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới ..........................................7 1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam ...........................................8 1.2. Tình hình nghiên cứu của thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt .11 1.2.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh......................11 1.2.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ dầu khí trong tiếng Việt......................18 1.3. Tiểu kết......................................................................................................19 Chương 2: CƠ SỞ LÍ LUẬN.........................................................................20 2.1. Cơ sở lí luận về thuật ngữ và thuật ngữ dầu khí .......................................20 2.1.1. Khái niệm về thuật ngữ và thuật ngữ dầu khí........................................20 2.1.2. Đặc điểm của thuật ngữ..........................................................................33 2.1.3. Phương thức đặt thuật ngữ.....................................................................42 2.1.4. Đơn vị cấu tạo nên thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt ..........44 2.1.5. Thuật ngữ với lí thuyết định danh..........................................................46 2.1.6. Phân biệt thuật ngữ và một số khái niệm liên quan ...............................50 2.2. Cơ sở lí luận về ngôn ngữ học đối chiếu...................................................51 2.2.1. Những nguyên tắc chung trong đối chiếu ngôn ngữ..............................52 2.3. Tiểu kết......................................................................................................55 Chương 3: ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC VÀ ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THUẬT NGỮ DẦU KHÍ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT57 3.1. Dẫn nhập ...................................................................................................57 3.2. Phương thức cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Anh và tiếng Việt..............57 3.2.1. Phương thức cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Anh.................................57 3.2.2. Phương thức cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Việt.................................64 3.3. Đối chiếu số lượng các thành tố cấu tạo TNDK tiếng Anh và tiếng Việt68
  • 6. iv 3.3.1. thuật ngữ dầu khí tiếng Anh và tiếng Việt xét theo số lượng thành tố..68 3.3.2. Đánh giá điểm tương đồng và khác biệt của thuật ngữ dầu khí tiếng Anh và tiếng Việt xét trên số lượng thành tố cấu tạo ..............................................70 3.4. Đối chiếu đặc điểm về cấu tạo và từ loại của thuật ngữ dầu khí Tiếng Anh và Tiếng Việt....................................................................................................72 3.4.1. thuật ngữ dầu khí gồm một thành tố cấu tạo..........................................72 3.4.2. Thuật ngữ dầu khí gồm hai thành tố cấu tạo..........................................75 3.4.3. Thuật ngữ dầu khí gồm ba thành tố cấu tạo...........................................80 3.4.4. Thuật ngữ dầu khí gồm bốn thành tố cấu tạo.........................................82 3.4.5. TNDK gồm năm thành tố cấu tạo..........................................................83 3.4.6. TNDK gồm sáu và bảy thành tố cấu tạo................................................84 3.4.7. Thuật ngữ là từ viết tắt...........................................................................85 3.4.8. Những điểm tương đồng và khác biệt về đặc điểm cấu tạo và từ loại của thuật ngữ dầu khí tiếng Anh và tiếng Việt........................................................85 3.5. Đối chiếu mô hình cấu tạo của thuật ngữ dầu khí Tiếng Anh và Tiếng Việt88 3.5.1. Các mô hình cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Anh.................................88 3.5.2. Các mô hình cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Việt :...............................93 3.5.3. Những điểm tương đồng khác biệt về mô hình cấu tạo của thuật ngữ dầu khí tiếng Anh và tiếng Việt ............................................................................103 3.6. Tiểu kết....................................................................................................103 Chương 4: ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC TẠO LẬP VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH CỦA THUẬT NGỮ DẦU KHÍ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT ................................................................................................106 4.1. Những phương thức tạo lập Thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt.................................................................................................................106 4.1.1. Phương thức thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường................................108 4.1.2. Phương thức vay mượn từ Thuật ngữ dầu khí nước ngoài ..................109 4.2. Đặc điểm định danh Thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt........115
  • 7. v 4.2.1. Đặc điểm định danh thuật ngữ dầu khí xét theo kiểu ngữ nghĩa...............116 4.3. Mô hình định danh thuật ngữ dầu khí.....................................................118 4.3.1. Thuật ngữ sử dụng trong tìm kiếm, thăm dò dầu khí...........................118 4.3.2. Thuật ngữ sử dụng trong khai thác dầu khí .........................................122 4.3.3. Thuật ngữ sử dụng trong chế biến dầu khí...........................................129 4.3.4. Thuật ngữ sử dụng trong kỹ thuật phụ trợ dầu khí ..............................132 4.4. Một số vấn đề chuẩn hóa thuật ngữ dầu khí trong tiếng Việt.................138 4.4.1. Khái niệm chuẩn hóa và chuẩn hóa thuật ngữ .....................................138 4.4.2. Thực trạng thuật ngữ dầu khí trong tiếng Việt.....................................141 4.4.3. Đề xuất về việc chuẩn hóa thuật ngữ dầu khí trong tiếng Việt............142 4.5. Tiểu kết....................................................................................................145 KẾT LUẬN...................................................................................................147 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.................................................151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................152 NGỮ LIỆU KHẢO SÁT..............................................................................161
  • 8. vi DANH MỤC VIẾT TẮT ĐHQG Đại học Quốc gia KHXH Khoa học xã hội Nxb Nhà xuất bản T THCN Thành tố Trung học Chuyên nghiệp TN Thuật ngữ TNDK Thuật ngữ dầu khí
  • 9. vii DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1. TNDK tiếng Anh và tiếng Việt xét theo số lượng thành tố................. 69 Bảng 3.2: TNDK tiếng Anh gồm 1 thành tố cấu tạo ........................................... 72 Bảng 3.3: TNDK tiếng Việt gồm 1 thành tố cấu tạo............................................ 74 Bảng 3.4: Thuật ngữ dầu khí tiếng Anh 2 thành tố.............................................. 77 Bảng 3.5: Thuật ngữ dầu khí tiếng Việt 2 thành tố.............................................. 79 Bảng 3.6: TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 3 thành tố .......................................... 81 Bảng 3.7: TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 4 thành tố .......................................... 82 Bảng 3.8: TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 5 thành tố .......................................... 84 Bảng 3.9. TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 6 và 7 thành tố................................... 85 Bảng 3.10. Tổng hợp từ loại TNDK tiếng Anh và tiếng Việt.............................. 87 Bảng 3.11. Bảng tổng hợp số lượng mô hình câu tạo thuật ngữ Anh-Việt ....... 102 Bảng 4.1. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ chủ thể tìm kiếm thăm dò dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt................................................................ 121 Bảng 4.2. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ chủ thể khai thác dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt................................................................................... 127 Bảng 4.3. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ chủ thể chế biến dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt................................................................................... 131 Bảng 4.4. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ chủ thể kỹ thuật phụ trợ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt.......................................................................... 133 Bảng 4.5. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ chủ thể kinh tế dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt................................................................................... 135
  • 10. viii DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1. TNDK tiếng Anh và tiếng Việt xét theo số lượng thành tố............. 69 Biểu đồ 3.2: TNDK tiếng Anh gồm 1 thành tố cấu tạo ....................................... 73 Biểu đồ 3.3: TNDK tiếng Việt gồm 1 thành tố cấu tạo ....................................... 74 Biểu đồ 3.4: TNDK tiếng Anh 2 thành tố............................................................ 78 Biểu đồ 3.5: Thuật ngữ dầu khí tiếng Việt 2 thành tố.......................................... 80 Biểu đồ 3.6: TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 3 thành tố ...................................... 81 Biểu đồ 3.7: TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 4 thành tố ...................................... 83 Biểu đồ 3.8: TNDK tiếng Anh và tiếng Việt 5 thành tố ...................................... 84 Biểu đồ 3.9. Tổng hợp từ loại TNDK tiếng Anh và tiếng Việt ........................... 87
  • 11. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, trong quá trình hội nhập toàn cầu và phát triển, tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ quốc tế. Chính vì vậy, yêu cầu sử dụng tiếng Anh hiệu quả trong học tập, giao tiếp và các ngành khoa học khác là rất quan trọng. Nằm trong bối cảnh chung đó, tiếng Anh cũng được xem như là điều kiện tiên quyết cho những người làm trong ngành dầu khí, đặc biệt là giới sinh viên ngày nay. Các hoạt động của ngành dầu khí không chỉ sử dụng những từ ngữ thông thường mà còn phải sử dụng một bộ phận từ ngữ chỉ đích danh những khái niệm, biểu tượng, phạm trù, các sự vật, hiện tượng …, đó chính là hệ thuật ngữ. Các nhà ngôn ngữ học xác định thuật ngữ là những từ chuyên môn có nghĩa đặc biệt; những từ cố gắng chỉ có một nghĩa với tính cách biểu hiện chính xác các khái niệm và tên gọi các sự vật [37]. Thuật ngữ khác từ thông thường ở chỗ nó có ý nghĩa biểu vật trùng hoàn toàn với sự vật, hiện tượng … có thực trong thực tế đối tượng của ngành kỹ thuật và ngành khoa học tương ứng, và có ý nghĩa biểu niệm là khái niệm về các sự vật hiện tượng này đúng như chúng tồn tại trong tư duy [4]. Trong xu hướng toàn cầu hóa như vậy, nhiệm vụ đặt ra là cần phải hệ thống hóa và chuẩn hóa các thuật ngữ khoa học được sử dụng trong ngành Dầu khí làm sao để nó vừa có giá trị khoa học, vừa mang tính thời sự rõ rệt. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, hầu hết các thuật ngữ dùng để biểu đạt các khái niệm, biểu tượng, phạm trù thường được chuyển dịch hoặc vay mượn từ tiếng nước ngoài như tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung và bây giờ là tiếng Anh. Cho nên, còn thiếu những định nghĩa thống nhất cho nội dung thuật ngữ bằng tiếng Việt, đặc biệt là cấu tạo, ngữ nghĩa và cách định danh chưa được chuẩn hóa. Thuật ngữ thường gắn liền với những từ ngữ chuyên môn có tính đặc thù. Những từ ngữ chuyên môn đó mô tả một thực thể hay một khái niệm một cách cụ thể, rõ ràng trong khi từ thông thường lại ít chính xác và thường đa
  • 12. 2 nghĩa. Ví dụ như thuật ngữ bus trong tiếng Anh được phiên chuyển sang tiếng Việt với từ ngữ thông thường có nghĩa là xe buýt (một loại phương tiện giao thông công cộng). Song với tư cách là một thuật ngữ Dầu khí thì bus lại có nghĩa là thanh dẫn (những thanh dẫn điện được xếp cùng với nhau để tập hợp và phân phối dòng điện từ nhiều nguồn). Đó là lý do các thuật ngữ cần phải được đối chiếu với một ngôn ngữ phổ biến và thông dụng trên thế giới để đi tới một cách hiểu thống nhất trong ngành. Đồng thời việc xây dựng hệ thuật ngữ cho ngôn ngữ khoa học của ngành Dầu khí cũng là một trong những việc cần được quan tâm. Khảo sát ban đầu cho thấy, nhiều TNDK tiếng Việt chưa biểu đạt được tính chính xác khái niệm. Không ít những thuật ngữ vay mượn nước ngoài được sử dụng với nhiều biến thể khác nhau mà chưa được chuẩn hóa, hoặc có những TNDK tiếng Anh có mà tiếng Việt chưa có … Việc chưa thống nhất và vay mượn đặt ra một yêu cầu là nên phân tích, đối chiếu sự giống và khác nhau giữa các thuật ngữ để đảm bảo những thuật ngữ đó biểu đạt được một cách chính xác những khái niệm, biểu tượng, phạm trù, các sự vật, hiện tượng tương ứng với ngôn ngữ gốc. Từ đó đặt ra việc nghiên cứu đối chiếu thuật ngữ, mà trong trường hợp cụ thể này là TNDK. Yêu cầu hoàn thiện và từng bước phát triển hệ thống thuật ngữ khoa học tiếng Việt sao cho phù hợp với những chuẩn mực chung của thế giới trong ngành Dầu khí nhằm đáp ứng tình hình hoạt động cũng như thúc đẩy quá trình hội nhập với thế giới là một tất yếu. Là giảng viên dạy tiếng Anh tại một Trường đại học, là người góp phần đào tạo những thế hệ tương lai, chúng tôi nhận thấy sự cần thiết của việc xây dựng một chương trình ngoại ngữ chuyên ngành chuẩn mà trọng tâm là ngôn ngữ, văn phong khoa học với sự trợ giúp đắc lực của hệ thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành chính xác. Chính vì vậy, việc đi sâu vào nghiên cứu cấu tạo, ngữ nghĩa các thuật ngữ chuyên ngành dầu khí là thiết thực và có tính thời sự. Việc chỉ ra được nguồn gốc, phương thức cấu tạo, nội dung ngữ nghĩa và cách sử dụng thuật ngữ chuyên ngành là góp phần không nhỏ trong việc hoàn thiện
  • 13. 3 hệ thống thuật ngữ chuyên ngành trong ngành dầu khí. Thuật ngữ chuyên ngành dầu khí là hệ thuật ngữ nằm trong tiếng Việt nói chung và trong hệ thống ngôn ngữ khoa học ở Việt Nam nói riêng, nhưng hệ thuật ngữ này chưa được quan tâm tới và thực tế từ trước đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về thuật ngữ chuyên ngành dầu khí. Ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của hệ thuật ngữ chuyên ngành dầu khí trong toàn bộ hệ thống thuật ngữ khoa học ở Việt Nam, chúng tôi bước đầu tiến hành nghiên cứu đặc điểm của hệ thuật ngữ này về nguồn gốc, cấu tạo, ngữ nghĩa và cách sử dụng với mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thuật ngữ chuyên ngành dầu khí cho ngành và làm giàu thêm cho hệ thống thuật ngữ khoa học Việt Nam. Từ thực tế nêu trên chúng tôi chọn nghiên cứu “Đối chiếu thuật ngữ Dầu khí Anh-Việt” làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án nhằm làm sáng tỏ đặc trưng về cấu tạo và ngữ nghĩa của hệ thống thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt. Từ đó, luận án xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa hệ thống thuật ngữ dầu khí ở hai ngôn ngữ, tìm ra được những điểm cần lưu ý khi xây dựng thuật ngữ dầu khí tiếng Việt. Nghiên cứu của luận án cũng là cơ sở để chúng tôi đề xuất hướng chuẩn hóa thuật ngữ dầu khí tiếng Việt. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau: - Trình bày các quan điểm lý thuyết về thuật ngữ, về ngôn ngữ học đối chiếu để từ đó xác lập cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu; - Xác định các loại mô hình kết hợp các thành tố để tạo thành TNDK ở cả hai ngôn ngữ là tiếng Anh và tiếng Việt. - Đối chiếu đặc điểm cấu tạo của TNDK trong tiếng Anh với tiếng Việt; - Đối chiếu đặc điểm định danh của TNDK trong tiếng Anh với tiếng Việt;
  • 14. 4 - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất phương hướng, biện pháp cụ thể để xây dựng và chuẩn hóa TNDK tiếng Việt góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy và hoạt động của ngành dầu khí tại Việt Nam. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ TNDK trong tiếng Anh và tiếng Việt. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án là đối chiếu đặc điểm cấu tạo, đặc điểm định danh của hệ TNDK trong tiếng Anh và tiếng Việt và vấn đề chuẩn hóa TNDK tiếng Việt. Ngữ liệu nghiên cứu: Tài liệu nghiên cứu là các thuật ngữ dầu khí rút ra từ các quyển từ điển chuyên ngành dầu khí được thu thập từ:  Từ điển Dầu khí Anh – Việt do nhóm tác giả của Viện Dầu khí Việt Nam biên soạn , được phát hành năm 1996, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật.  Từ điển Dầu khí Anh – Nga - Việt do nhóm tác giả của Tổng hội Địa chất Việt Nam biên soạn , được phát hành năm 2004, Nhà xuất bản Lao động xã hội.  Các thông tin từ website: Terminology from Wikipedia, the free encyclopedia Ngoài ra, các thuật ngữ còn được thu thập từ những cuốn từ điển TNDK tiếng Anh, giáo trình chuyên ngành, các tài liệu, tạp chí, bài báo chuyên đề ngành dầu khí bằng tiếng Anh và tiếng Việt. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng một số phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau: 4.1. Phương pháp miêu tả Phương pháp này được sử dụng để miêu tả đặc điểm cấu tạo, đặc điểm định danh cũng như các vấn đề liên quan đến TNDK trong tiếng Anh và tiếng Việt.
  • 15. 5 4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng chính và xuyên suốt trong luận án để so sánh đối chiếu hệ thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành dầu khí với hệ thuật ngữ tiếng Việt chuyên ngành dầu khí về cấu tạo và định danh; từ đó tìm ra các điểm tương đồng và khác biệt giữa hai hệ thuật ngữ, làm cơ sở đề xuất các định hướng chuẩn hóa thuật ngữ phù hợp. Khi sử dụng phương pháp này, tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ mẫu, còn tiếng Việt là ngôn ngữ đối chiếu. 4.3. Phương pháp phân tích thành tố Phương pháp phân tích thành tố dùng để phân tích đặc điểm cấu tạo của một thuật ngữ xét theo thành tố trực tiếp nhằm xác định mô hình cấu trúc của các thuật ngữ này 4.4. Thủ pháp thống kê, phân loại Thủ pháp thống kê định lượng giúp luận án tính toán tần số xuất hiện và tần số sử dụng của các thuật ngữ, từ đó có được các số liệu cụ thể làm cơ sở xác thực cho những kết luận trong quá trình nghiên cứu. Kết quả thống kê được tổng hợp thành các bảng biểu, các con số thông qua các mô hình hay tỷ lệ phần trăm. Những kết quả thu được giúp chúng ta hình dung dễ dàng các đặc trưng cơ bản về cấu trúc hình thức và cấu trúc ngữ nghĩa của thuật ngữ tiếng Anh, tiếng Việt chuyên ngành. Thủ pháp này được sử dụng để hệ thống số liệu TNDK: thống kê từ loại, thống kê yếu tố từ loại, ... Kết quả số liệu thống kê được sử dụng làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đối chiếu TNDK. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Có thể nói đây là công trình luận án đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu đối chiếu một cách hệ thống và toàn diện những đặc điểm cơ bản của hệ TNDK tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện cấu tạo và định danh. Dựa vào kết quả nghiện cứu, luận án đã đề xuất các phương hướng, biện pháp cụ thể, khả thi nhằm xây dựng và chuẩn hóa các TNDK trong tiếng Việt.
  • 16. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Về mặt lý luận Luận án sẽ làm rõ những điểm giống và khác nhau về phương thức cấu tạo TNDK trong hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt. Luận án cũng chỉ ra tính có lý do của TNDK cùng với việc các nhà khoa học lựa chọn những đặc trưng nào của khái niệm, đối tượng để làm cơ sở định danh khi tạo ra TNDK. Kết quả của luận án sẽ góp phần vào việc làm rõ lý thuyết về thuật ngữ và lí luận về chuẩn hóa ngôn ngữ nói chung, chuẩn hóa về thuật ngữ nói riêng. 6.2. Về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ: Góp phần phục vụ quá trình giảng dạy và biên soạn các tài liệu cho chuyên ngành dầu khí; Góp phần cho việc chỉnh lí để chuẩn hóa hệ thống TNDK hiện có trong tiếng Việt; Là cơ sở để đề xuất các biện pháp, phương hướng cấu tạo các TNDK mà trong tiếng Việt hiện chưa có; Là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu thuật ngữ học, các cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động trong lĩnh vực dầu khí. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận án có 04 chương, được bố cục như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Cơ sở lí luận. Chương 3: Đối chiếu phương thức và đặc điểm cấu tạo của TNDK trong tiếng Anh và tiếng Việt. Chương 4: Đối chiếu phương thức tạo lập và đặc điểm định danh của TNDK trong tiếng Anh và tiếng Việt.
  • 17. 7 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới và ở Việt Nam 1.1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới Tuy không phải là một lĩnh vực hoàn toàn mới trong ngành nghiên cứu, nhưng phải đến nửa sau thế kỉ XX, thuật ngữ mới thực sự được khẳng định như một ngành khoa học. Việc nghiên cứu thuật ngữ xuất phát thông qua quá trình quan sát, hình thành lí thuyết nhằm đáp ứng sự ra đời của một bộ phận từ ngữ đặc biệt trong ngôn ngữ chuyên môn. Bên cạnh đó trong quá trình giao tiếp, dựa trên thực tế, nhóm từ ngữ đặc biệt này được coi như những từ ngữ có ứng dụng độc lập. Trên thực tế, thuật ngữ ra đời và được sử dụng trước khi người ta tìm cách định nghĩa chúng. Bên cạnh cái chung, mỗi ngành khoa học đều tạo dựng cho mình các cơ sở xây dựng nên những hệ thống thuật ngữ chuyên ngành khác nhau, vì thế chúng có những đặc thù riêng. Để hình dung một cách rõ hơn về nội dung của khái niệm “thuật ngữ khoa học”, trước hết chúng ta hãy đến với quan niệm của các nhà khoa học Âu - Mĩ, nơi có nền khoa học - kĩ thuật - công nghệ phát triển sớm, nhanh và mạnh nhất trên toàn thế giới. Bàn về thuật ngữ, chúng ta không thể không nhắc tới các nhà thuật ngữ học nổi tiếng Eugen WUSTER – một nhà ngôn ngữ người Áo, ông được xem như cha đẻ của ngành thuật ngữ, những nghiên cứu của ông là cơ sở cho sự phát triển thuật ngữ hiện đại sau này. Trong luận án tiến sĩ của mình, năm 1930, ông đã trình bày luận cứ cho hệ thống hóa phương pháp làm việc theo thuật ngữ, thành lập một số nguyên tắc làm việc với các điều khoản và vạch ra những điểm chính của phương pháp tạo ra hệ thuật ngữ. Theo WUSTER (trích trong Cabré, 1995: 5), bốn học giả có thể được xác định là những người cha trí tuệ về lý thuyết thuật ngữ trên quy mô quốc
  • 18. 8 tế: Alfred Schlomann – học giả người Đức - người đầu tiên xem xét tính chất hệ thống các điều khoản đặc biệt của thuật ngữ; tiếp theo là nhà ngôn ngữ học người Thụy Sĩ – Ferrdinand de Saussure, người luôn quan tâm tới hệ thống tự nhiên của ngôn ngữ, rồi đến E. Dresen, một người Nga, người tiên phong trong việc nhấn mạnh tầm quan trọng của tiêu chuẩn hóa; và JE Holmstrom, học giả người Anh từ UNESCO. Ngoài ra, còn có một số học giả khác như: R.W. Brown (Mĩ), J.C. Boulanger (Anh), W.E. Flood (Mĩ), J.C. Segen (Mĩ). Mục đích hoạt động của họ luôn hướng vào thực tiễn và có nhiều đóng góp quan trọng không chỉ trong việc soạn thảo các văn bản chỉ dẫn biên soạn các cuốn từ điển thuật ngữ mà còn kết hợp để đưa ra các văn bản xây dựng, chỉnh lý hệ thống thuật ngữ sau này trên toàn thế giới. Bên cạnh những tên tuổi của các nhà thuật ngữ học Âu – Mĩ, các nhà thuật ngữ học nổi tiếng của Xô viết như: A.S. gerd, B.N.Golovin, S.V.Grinev, A.D.Hajutin, T.L.Kandenlaki, R.Ju.Kobrin, Z.I.Komarova, O.N.Trbachev, N.V.Vasilieva, M.N.Volodina, D.S. Lotte, N.P. Kuz'kin, A.I. Moiseev, A.A. Reformatskij, V.P. Đanilenko, V.M. Leichik… cũng dành rất nhiều công sức để đi sâu vào phân tích bản chất, chức năng, khái niệm của thuật ngữ để từ đó họ xây dựng nên những định nghĩa về thuật ngữ khoa học. Một trong số đó phải kể đến nghiên cứu của tác giả G.O. Vinokur [93] về một số hiện tượng cấu tạo từ trong hệ thuật ngữ kĩ thuật Nga (1939), nghiên cứu của ông đã trở thành nghiên cứu kinh điển thời kỳ đó và làm nền tảng cho nhiều nghiên cứu về sau. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam Ở Việt Nam, thuật ngữ khoa học tiếng Việt xuất hiện khá muộn so với các nước phương Tây và phải đến đầu thế kỷ XX, vấn đề nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ mới được chú ý. Từ những năm 1919, Dương Quảng Hàm, người tiên phong trong lĩnh vực thuật ngữ ở Việt Nam đã có bài “Bàn về tiếng An – Nam’trên tạp chí Nam Phong (1919) đề cập đến việc biên soạn từ điển và đặt tên danh từ khoa học. Tiếp đó là một số bài như “Về sự dịch tiếng hóa
  • 19. 9 học” của Nguyễn Ứng hay “Danh từ hóa học” của Nguyễn Triệu Luật cũng đều đề cập đến việc xây dựng thuật ngữ nhưng chủ yếu là dựa trên cơ chế vay mượn từ tiếng Pháp hoặc tiếng Hán. Thời kỳ sau này, khi nhà nước có chủ trương “tranh đấu vì tiếng nói, chữ viết” của dân tộc mình thì bắt đầu xuất hiện những thuật ngữ khoa học bằng tiếng Việt. Đầu tiên phải kể đến tác phẩm “Danh từ khoa học” của Hoàng Xuân Hãn (1948), một nhà Toán học - Sử học - Ngữ văn, và cũng là người đặt nền móng cho những nghiên cứu lý thuyết thuật ngữ ở Việt Nam. Đóng góp của công trình không chỉ tập hợp, mô tả các thuật ngữ mới mà còn đưa ra phương pháp, cách thức sáng tạo thuật ngữ tiếng Việt hiện đại. Sau Hoàng Xuân Hãn, những công trình tiếp nối nghiên cứu về thuật ngữ và ngôn ngữ khoa học có thể kể đến là: “Về vấn đề xây dựng thuật ngữ của các ngành khoa học và kỹ thuật” của Võ Xuân Trang (1973), “Mấy vấn đề thay thế thuật ngữ vay mượn tiếng nước ngoài bằng thuật ngữ thuần Việt” của Võ Xuân Trang (1977), “Về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học” của Lưu Vân Lăng (1977), “Từ thường và từ chuyên môn” của Nguyễn Đức Dân (1977), hay “Nghiên cứu ngôn ngữ khoa học - kỹ thuật tiếng Việt (về ngữ pháp)” của Hoàng Trọng Phiến (1985). Nhìn chung, các nhà nghiên cứu về thuật ngữ ở Việt Nam thời kỳ này chủ yếu tập trung để đưa ra các định nghĩa thuật ngữ, vị trí, đặc điểm, con đường hình thành của thuật ngữ, và vấn đề chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt… Cho dù mỗi tác giả có cái nhìn, đánh giá khác nhau về thuật ngữ, nhưng họ vẫn chịu ảnh hưởng của những trường phái thuật ngữ lớn trên thế giới: trường phái Praha, hoặc là trường phái Áo, và đặc biệt là trường phái Xô Viết. Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, bên cạnh việc xây dựng một thứ tiếng nói riêng hoàn thiện và luôn phát triển của dân tộc, các nhà khoa học Việt Nam, trước khi muốn hội nhập vào thế giới khoa học bằng vốn ngoại ngữ riêng của mình, phải nghĩ ngay đến việc chuẩn hóa, xây dựng sáng tạo hệ thuật ngữ khoa học của ngành mình. Vì vậy, các thuật ngữ chuyên ngành đã
  • 20. 10 ra đời ồ ạt. Trong dòng chảy lịch sử, kể từ khi cuốn từ điển đầu tiên liên quan đến tiếng Việt được xuất bản năm 1651 cho đến năm 2005, theo thống kê của Vũ Quang Hào thì số lượng từ điển về tiếng Việt, liên quan đến tiếng Việt, được dịch ra tiếng Việt, được biên soạn bằng tiếng Việt có khoảng 1000 cuốn. Trong số đó, từ điển về thuật ngữ có số lượng lớn nhất bao gồm các loại từ điển giải thích thuật ngữ (từ điển chuyên ngành), từ điển đối chiếu thuật ngữ, từ điển vừa giải thích vừa đối chiếu thuật ngữ, các từ điển bách khoa chuyên ngành, với tổng số là 330 cuốn. Bên cạnh những thành tựu đáng kể, công tác nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ ở nước ta vẫn còn những điểm cần hoàn thiện và thống nhất thêm. Tạp chí ngôn ngữ là một tạp chí uy tín và là diễn đàn để các nhà khoa học chia sẻ những lý luận, quan điểm khác nhau về vấn đề này. Các ý kiến tập trung chủ yếu vào những vấn đề sau: a) Những yêu cầu của thuật ngữ; b) Về phương thức đặt thuật ngữ; c) Vấn đề vay mượn thuật ngữ nước ngoài; d) Có nên chấp nhận một số yếu tố mới hay không để cho thuật ngữ phiên dịch gần với diện mạo quốc tế mà không quá xa lạ với tiếng Việt. Như vậy, có thể thấy, các vấn đề thuật ngữ học được nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu là từ những đòi hỏi của thực tiễn: xây dựng các hệ thuật ngữ khoa học kỹ thuật. Cùng với những công trình lý luận thuật ngữ của Nguyễn Đức Tồn và Hà Quang Năng bàn về vấn đề xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt, còn những luận án Tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ trong một số lĩnh vực chuyên ngành cụ thể như: Luận án tiến sĩ “ Hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt-Đặc điểm và cấu tạo thuật ngữ” của Vũ Quang Hào, bảo vệ năm 1991; luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Bích Hà “So sánh cấu tạo thuật ngữ kinh tế thương mại trong tiếng Nhật và tiếng Việt hiện đại” bảo vệ năm 2000; luận án “Khảo sát hệ thuật ngữ tin học viễn thông
  • 21. 11 tiếng Việt” của Nguyễn Thị Kim Thanh, bảo vệ năm 2005, luận án tiến sĩ “ So sánh đặc điểm cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ tài chính-kế toán-ngân hàng tiếng Anh và tiếng Việt” của Nguyễn Thị Tuyết, bảo vệ năm 2011; Luận án “ Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa thuật ngữ sở hữu trí tuệ tiếng Việt” của Mai Thị Loan, bảo vệ năm 2012 hay “ Thuật ngữ khoa học kỹ thuật xây dựng trong tiếng Việt”-Luận án tiến sĩ của Vũ Thị Thu Huyền bảo vệ năm 2012, và gần đây là luận án tiến sĩ của Lê Thanh Hà“Đối chiếu thuật ngữ du lịch Việt – Anh” bảo vệ năm 2014, luận án tiến sĩ của Quách Thị Gấm“Nghiên cứu thuật ngữ báo chí tiếng Việt”, bảo vệ năm 2015; Luận án của Nguyễn Thanh Dung về “Đối chiếu thuật ngữ âm nhạc Việt –Anh” năm 2017 và, luận án “Đối chiếu thuật ngữ phụ sản trong tiếng Anh và tiếng Việt” của Phí Thị Hà năm 2017, … Nói tóm lại, ở Việt Nam, các vấn đề về nghiên cứu thuật ngữ chủ yếu bàn đến: các tiêu chuẩn của thuật ngữ, phương thức đặt thuật ngữ, vấn đề vay mượn thuật ngữ, vấn đề phiên âm các thuật ngữ nước ngoài, vấn đề thống nhất thuật ngữ, một số các nghiên cứu gần đây tập trung về đối chiếu thuật ngữ. 1.2. Tình hình nghiên cứu của thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt 1.2.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh Nghiên cứu từ vựng thuật ngữ là một trong những hướng triển vọng của ngôn ngữ học đương đại và thuật ngữ học. Các loại ngôn ngữ chuyên ngành là phần cấu thành từ điển ngôn ngữ phát triển năng động nhất, thực hiện vai trò cực kỳ to lớn trong xã hội hiện đại. Đây được xem là đặc điểm “thông tin”, ngày càng dựa vào các nghiên cứu khoa học và các kiến thức nhận được, được chuyên môn hóa trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, sản xuất và các dạng hoạt động khác. Mỗi một lĩnh vực kiến thức hoặc hoạt động chuyên ngành tạo ra công cụ ngôn ngữ của mình, nhằm phục vụ các mục tiêu nêu ra các quan điểm và khái niệm, xác định nghĩa của chúng và truyền đạt trong quá trình giao tiếp.
  • 22. 12 Các ngôn ngữ hiện đại cho các mục đích chuyên ngành đóng vai trò như là phương tiện giao tiếp, hoạt động tích cực và phát triển không ngừng. Theo ý kiến của K.JA. Averbukh, có thể chia ra năm khuynh hướng phát triển ngôn ngữ cho mục đích chuyên ngành: hội nhập, khu biệt, quốc tế hóa, nhất thể hóa và tiết kiệm hóa (luật tiết kiệm) [89, tr.6]. Bởi vì các ngôn ngữ cho các mục đích chuyên ngành tác động qua lại thường xuyên với ngôn ngữ toàn dân, nên ranh giới giữa từ vựng chuyên ngành và không chuyên ngành là rất linh động. Một mặt, các từ chuyên ngành có thể chuyển thành ngôn ngữ toàn dân, đồng thời chịu mất đi một số đặc tính của mình, mặt khác các đơn vị từ vựng của ngôn ngữ toàn dân có thể được thuật ngữ hóa. Khác biệt căn bản của các ngôn ngữ chuyên ngành với ngôn ngữ toàn dân là sự hiện diện trong ngôn ngữ chuyên ngành các tiểu hệ thống từ vựng đặc biệt, trước hết là thuật ngữ, và một phần hệ thống cú pháp bị giảm đi hoặc biến dạng. Các ngôn ngữ chuyên ngành nhìn chung không có các cấu trúc ngữ pháp đặc biệt gặp ở ngoài phạm vi của chúng; đặc điểm của các ngôn ngữ chuyên ngành là sự phân bố thống kê các cấu trúc ngữ pháp khác với ngôn ngữ toàn dân. Ngôn ngữ cho các mục đích chuyên ngành phát triển trên cơ sở các ngôn ngữ tự nhiên, xây dựng trên chúng, có một số đặc tính đặc thù mới trong từ vựng, cấu tạo từ, cú pháp, phong cách học, cho phép chúng phục vụ các nhu cầu giao tiếp ngôn ngữ xã hội học trong các lĩnh vực xã hội” [104, tr.122]. Từ vựng thuật ngữ như là một phần cấu thành từ điển có hàng loạt các đặc tính. “Từ vựng thuật ngữ khoa học cần không chỉ đơn giản là tổng thể các từ, mà là hệ thống các từ hoặc cụm từ được tổ chức lại với nhau theo một phương thức nhất định” [107, tr.67]. Khi so sánh các thuật ngữ chuyên ngành cụ thể phát hiện ra các nét tiêu biểu của chúng bắt nguồn từ sự khác biệt theo thời gian xuất hiện, nguồn gốc hình thành và số lượng các hình vị cấu tạo từ.
  • 23. 13 Ngoài ra cần phải bổ sung thêm các đặc điểm cấu trúc, nguồn gốc, ngữ nghĩa, chức năng và các đặc điểm khác của các thuật ngữ thành phần [106, tr. 143]. Xuất phát từ quan điểm như vậy, TNDK tiếng Anh cũng có các đặc điểm và giai đoạn phát triển chính của mình. Dầu và các sản phẩm dầu – hiện tượng mà việc đảm bảo cuộc sống của con người hiện đại phụ thuộc nhiều vào nó. Dầu chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế nhiên liệu-năng lượng thế giới. Thậm chí không phụ thuộc vào các ưu thế về lợi ích của dầu khí được phân bố rải rác hiện nay, TNDK vẫn được chú trọng từ quan điểm ngôn ngữ học. TNDK tiếng Anh xây dựng trên mô hình không đồng nhất, là kết quả của sự tác động qua lại giữa một số lĩnh vực kiến thức của con người. Trong đó bao gồm các thuật ngữ địa chất, địa vật lý, địa hóa học, và cả các thuật ngữ liên quan tới khoan, xả nước, gia cố và đổ xi măng các giếng dầu khí, nghiên cứu các mỏ dầu khí, thủy lực ngầm, khai thác dầu khí, các phương pháp chế biến, khu vực giếng khoan, các thuật ngữ thiết bị khoan và khai thác, thuật ngữ đường ống, thuật ngữ khoan biển, thuật ngữ kinh tế. Sự xuất hiện của các thuật ngữ đầu tiên diễn ra vào giữa thế kỷ XIX, và mỗi giai đoạn tiếp theo đều có các đặc tính là nguồn gốc gia tăng hệ TNDK của mình để phản ánh sự phát triển của chính chuyên ngành. Đó là nguồn dự trữ của tiếng Anh và vay mượn của các tiếng khác (tất nhiên ở mức độ không đồng đều). Trong số các phương thức cấu tạo từ có cả các phương thức ngữ pháp và cả ngữ nghĩa. Hệ thuật ngữ này có nhiều điểm độc đáo: ở đây có cả sự bảo thủ được thể hiện qua việc không muốn loại bỏ đi các thuật ngữ cũ đã trải qua công nghệ và kỹ thuật mà chúng biểu thị, và cả việc tích cực tạo ra từ mới. Thông qua những khảo sát bước đầu về TNDK trong tiếng Anh, chúng tôi nhận thấy với tầm quan trọng hàng đầu trong ngành công nghiệp đối với một số quốc gia trên thế giới hiện nay, TNDK đã thu hút được sự chú ý của đông đảo giới học thuật cả trong và ngoài ngành. TNDK xuất hiện nhiều trên
  • 24. 14 các tạp chí chuyên ngành, trong các bài viết của các trang mạng chuyên về ngành công nghiệp dầu khí, và được chú trọng nghiên cứu, giảng dạy trong các chương trình học tập tại cơ sở đào tạo về chuyên ngành dầu khí. Khi khảo sát các trang mạng của sinh viên đang theo học ngành dầu khí cũng như của những người hoạt động ở lĩnh vực dầu khí, chúng tôi thường xuyên bắt gặp những băn khoăn về nghĩa của thuật ngữ này hay thuật ngữ kia là như thế nào. Điều đó chứng tỏ rằng TNDK hiện nay là vấn đề có tính thời sự cao. Đã có một số công trình nghiên cứu về một số bình diện của thuật ngữ dầu khí, tiếng Anh dưới góc độ lí thuyết, trong đó phải kể đến bài viết về Kiến trúc hệ thống thuật ngữ công nghiệp dầu khí tiếng Anh của tác giả Dmitrievna T.S. đăng trên tạp chí Khoa học Ngữ văn. Những vấn đề lý thuyết và thực hành, số 10 (40) 2014, phần 3-199. [96]. Bài báo xem xét rất cụ thể những vấn đề thực hành của thuật ngữ khoa học - kỹ thuật trong tiếng Anh. Dựa trên tài liệu của các nguồn từ vựng học nêu ra các bộ phận chủ yếu của kiến trúc thuật ngữ công nghiệp dầu khí tiếng Anh và thiết lập các mối quan hệ tương hỗ của chúng; tiến hành phân cấp thuật ngữ dầu khí tiếng Anh, và mô tả những đặc điểm tiêu biểu của các phân cấp được nêu ra trong quá trình phân tích hệ thuật ngữ dầu khí. Liên quan đến TNDK tiếng Anh, tác gả Samigullina L.Z. đã đề cập các bình diện chuẩn mực của TNDK trong bối cảnh của quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện nay và sự phát triển như vũ bão các quá trình công nghệ lĩnh vực dầu khí và sự tiếp tục tăng số lượng các đơn vị thuật ngữ có tính tới mức độ chuẩn mực của chúng trong bài viết Các bình diện chuẩn mực của thuật ngữ dầu khí tiếng Anh đăng trên tạp chí khoa học điện tử “Dầu khí” số 5 , 2012 [109]. Với cách đặt vấn đề: yêu cầu cơ bản đối với thuật ngữ thường được nhắc tới là không có đồng nghĩa trong phạm vi một hệ thống thuật ngữ nhất định, coi đồng nghĩa như là một hiện tượng không mong muốn, xa lạ với từ
  • 25. 15 vựng thuật ngữ, nhưng hiện nay, các nhà khoa học đã công nhận rằng thuật ngữ có thuộc tính của những hiện tượng ngôn ngữ học mà bất kỳ từ thường dùng nào có, vì vậy, có cả hiện tượng đồng nghĩa. Bài báo là công trình nghiên cứu của tác giả I.B.Tikhonova: Đồng nghĩa trong thuật ngữ chế biến dầu tiếng Anh đăng trên tạp chí của Trường Đại học Bashkir. Cộng hòa liên bang Nga, 2009. Tập 14, số 3 – 583 [115]. Việc nghiên cứu đồng nghĩa trong thuật ngữ chế biến dầu tiếng Anh đã phần nào làm sáng tỏ khái niệm đồng nghĩa trong từ vựng thuật ngữ, mô tả các phương pháp tiếp cận của các học giả đối với vấn đề đồng nghĩa thuật ngữ, tiến hành phân loại từ đồng nghĩa, nêu rõ các nguyên nhân xuất hiện từ đồng nghĩa trong thuật ngữ chế biến dầu tiếng Anh. Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học của Tikhonova Irina Borisovna (2010, Ufa, Liên bang Nga): Mô hình hóa tri nhận hệ thống thuật ngữ nghề nghiệp (trên ngữ liệu thuật ngữ chế biến dầu tiếng Anh) [116]. Luận án đã tiến hành nghiên cứu và xem xét hệ thống thuật ngữ nghề nghiệp chế biến dầu như là kết quả của nhận thức khoa học. Việc áp dụng công cụ tri nhận cho phép xem xét thuật ngữ như là các ý niệm (concept) cùng một cấp độ, tạo thành bức tranh thế giới nghề nghiệp của lĩnh vực kiến thức nghiên cứu. Trong luận án sử dụng phương pháp xây dựng các sơ đồ khung (frame) để nêu rõ tổ chức cấu trúc và các liên hệ hệ thống giữa các đơn vị của hệ thuật ngữ. Ngoài ra, luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học của Smagulova Aigerim Soviet khanovna (Cộng hòa Kazakhstan, Almaty, 2010): Đặc thù trường thuật ngữ trong lĩnh vực dầu và khí (trên ngữ liệu tiếng Anh và tiếng Kazakh) [110]. Luận án đã triển khai bốn nội dung: i) xem xét lịch sử ra đời, hình thành và phát triển trường thuật ngữ “dầu và khí” trong tiếng Anh và tiếng Kazakh; ii) nêu ra vốn (corpus) thuật ngữ trong các ngôn ngữ đang xem xét trên cơ sở nghiên cứu các từ điển bách khoa toàn thư và các từ điển tường giải tiếng Anh và tiếng Kazakh nhằm mục đích nghiên cứu các bình diện lý thuyết và
  • 26. 16 phương pháp luận, các đặc điểm cấu trúc và chức năng của chúng; iii) tiến hành mô tả các đặc điểm cấu trúc, định danh – phái sinh và chức năng của thuật ngữ trong trường thuật ngữ “dầu và khí” tiếng Anh và Kazakh; iv) nghiên cứu các phương thức cấu tạo thuật ngữ lĩnh vực dầu khí trong hai ngôn ngữ đang xem xét. Giá trị lý thuyết của luận án là ghi nhận và tái hiện các định đề khoa học đang nghiên cứu, nêu ra các đặc điểm ngữ nghĩa – khái niệm, cấu trúc - chức năng là kết quả ảnh hưởng của các yếu tố phi ngôn ngữ và ngôn ngữ, khẳng định xu hướng hội nhập quốc tế của hệ thống thuật ngữ và hình thành do mở rộng vốn thuật ngữ chung trên ngữ liệu các phạm vi thuật ngữ đang xem xét, giải quyết vấn đề thuật ngữ hóa tiếng Anh và tiếng Kazakh trong phạm vi khai thác và chế biến dầu, chế biến khí thiên nhiên và đồng hành, thăm dò và khoan các mỏ dầu và khí. Bên cạnh một số công trình nghiên cứu về lí thuyết nói trên, còn có hàng loạt các cuốn từ điển chuyên ngành dầu khí tiếng Anh, song ngữ hoặc đa ngữ phục vụ cho nhu cầu tra cứu học tập, nghiên cứu hàng ngày. Trước đây những từ điển này xuất hiện dưới dạng duy nhất là các xuất bản phẩm in ấn. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, với sự phát triển của khoa học công nghệ, nhiều cuốn từ điển này đã được số hóa và trở thành trực tuyến hoặc các phần mềm được cài đặt theo điện thoại hoặc máy tính, nâng cao tiện ích cho người dùng. Trước hết chúng tôi muốn đề cập đến những sản phẩm từ điển giải thích - những từ điển đơn ngữ Anh – Anh về các lĩnh vực dầu khí. Thống kê cho đến tháng 4 năm 2018 của chúng tôi thu được kết quả là hiện có 26 cuốn từ điển (bản in) đơn ngữ Anh –Anh về lĩnh vực dầu khí [Ngữ liệu khảo sát, tr. 165]. Trong số 26 cuốn từ điển thuật ngữ dầu khí nói trên có 06 cuốn về kỹ thuật khoan, khai thác và thăm dò dầu khí, 02 cuốn về lịch sử, nguồn gốc của ngành công nghiệp dầu khí, 02 cuốn về công nghiệp chế biến dầu và khí, 01
  • 27. 17 cuốn về sản phẩm dầu và khí, 01 cuốn về khoa học và công nghệ dầu khí, 13 cuốn từ điển giải thích thuật ngữ dầu khí, 01 cuốn từ điển dùng trong hoạt động marketing dầu khí, 02 cuốn tổng hợp thuật ngữ dầu khí. Như vậy, có thể thấy rằng số lượng từ điển giải thích Anh – Anh về thuật ngữ dầu khí là rất đa dạng, phong phú. Có thể thấy rằng các nghiên cứu về TNDK trong tiếng Anh đã phủ khắp các lĩnh vực chủ yếu của phạm trù này. Thực tế đó phản ánh sự quan tâm sâu sắc của các nước nói tiếng Anh với lĩnh vực dầu khí. Điều này cho thấy trình độ phát triển cao của các ngành khoa học về dầu khí cũng như sự phát triển cao của ngành ngôn ngữ học ở khối các nước có tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất. Thành tựu đó cũng có thể được giải thích bởi một số yếu tố mang tính lôgic khi tiếng Anh là ngôn ngữ của những quốc gia có nền khoa học tự nhiên, khoa học xã hội cực kỳ phát triển, là ngôn ngữ của những nền kinh tế hàng đầu thế giới như Anh, Mỹ, Australia,... Ngoài ra nó cũng có thể được giải thích bằng một nguyên nhân nữa là mang yếu tố địa – chính trị: phải chăng bởi vì vùng hoạt động của tiếng Anh là quá lớn, dân cư không thuần nhất nảy sinh tình trạng ngôn ngữ này có nhiều biến thể dẫn đến có nhiều vấn đề cần được thống nhất, tránh sự hiểu lầm – chúng tôi cho rằng đó cũng là một lý do cần được nêu lên để giải thích cho vấn đề số lượng các công trình nghiên cứu về thuật ngữ dầu khí rất lớn trong tiếng Anh. Ngoài các từ điển là các sản phẩm dưới hình thức bản in đã đề cập, chúng tôi cũng thống kê được khá nhiều các sản phẩm từ điển on-line, các phần mềm từ điển, các chuyên trang về dầu khí có từ điển thuật ngữ dầu khí Anh – Anh. Trong số đó có thể kể đến: alphaDictionary, Oil dictionary (Lexicool), Oilfield Dictionary, A dictionary for the Oil and Gas Industry ... Bức tranh sinh động về các loại từ điển lĩnh vực này trong tiếng Anh cho thấy sự phát triển của khoa học dầu khí ở các nước nói tiếng Anh cũng như sự quan tâm của các quốc gia này đối với ngành công nghiệp dầu khí.
  • 28. 18 Bên cạnh các cuốn từ điển giải thích đơn ngữ Anh – Anh, còn có một lượng khổng lồ các loại từ điển song ngữ đủ các lĩnh vực của ngành dầu khí giữa tiếng Anh và một ngôn ngữ khác như từ điển dầu khí Anh - Nga, Anh - Pháp ,... Bởi tiếng Anh là phương tiện giao tiếp quốc tế và là ngôn ngữ của những quốc gia có nền khoa học công nghệ nói chung, khoa học công nghệ dầu khí nói riêng hết sức phát triển. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ dầu khí trong tiếng Việt Qua khảo sát của chúng tôi, trong tiếng Việt, tính đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nào nghiên cứu về thuật ngữ dầu khí từ góc độ lý thuyết. Những thành tựu chủ yếu ở Việt Nam về lĩnh vực dầu khí mới chỉ là các sản phẩm từ điển. Dưới đây là 03 cuốn từ điển dầu khí của Việt Nam . 1. Từ điển dầu khí Anh- Nga-Việt của Tổng hội địa chất Việt Nam. Nxb. Lao động Xã hội, 2004. 2. Từ điển dầu khí Anh-Việt của Viện Dầu khí. Nxb. Khoa học Kỹ thuật, 1996. 3. Từ điển Dầu khí Anh –Việt. Nxb Khoa học & Kỹ thuật, Hà Nội, 2008. Cùng với một số phần mềm từ điển địa chất, GIS, Dầu khí, Trắc địa, môi trường: EST GeoDict hoặc từ điển trực tuyến chuyên ngành dầu khí như https://goo.gl/asOiqe Mặc dù đã có một số từ điển thuật ngữ chuyên ngành dầu khí như trên, nhưng những cuốn từ điển này chỉ đối chiếu các thuật ngữ tương ứng trong tiếng Anh, tiếng Nga với tiếng Việt; chưa có một cuốn từ điển thuật ngữ giải thích nào cho ngành dầu khí được biên soạn với bảng từ xuất phát từ tiếng Việt. So với số lượng các công trình nghiên cứu dầu khí và các lĩnh vực liên quan đến ngành dầu khí giữa Việt Nam và các nước nói tiếng Anh thì có sự chênh lệch rõ ràng. Tại sao lại có khoảng cách lớn như vậy ở ngay một đất nước mà tiềm năng về dầu khí là rất mạnh? Thật khó để đưa ra lý do chính xác nhưng nguyên nhân có thể là do sự quan tâm của chúng ta đến lĩnh vực
  • 29. 19 thuật ngữ còn nhiều bất cập. Thực tế cho thấy sự tác động của các quy định mang tính pháp luật đối với sự phát triển của thuật ngữ nói chung, TNDK nói riêng là không đáng kể. Ví dụ điển hình cho tình trạng này là quy định về việc phiên chuyển một từ nước ngoài vào tiếng Việt thực hiện như thế nào cho đến giờ trong thực tế vẫn là vấn đề chưa được giải quyết dù chúng ta đã có một số quy định (Quyết định số 240/QĐ của Bộ Giáo dục ngày 5-3-1984 “Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt”). Những gì thuật ngữ dầu khí đã có được là sự phát triển có tính chất tự phát và chủ yếu do nhu cầu của những người làm trong ngành dầu khí. Với một đất nước đang phát triển có quá nhiều công việc cấp thiết cần làm, sự quan tâm đầu tư cho một ngành khoa học như thuật ngữ ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Từ đó có thể cho thấy tại sao số lượng công trình nghiên cứu về thuật ngữ dầu khí ở Việt Nam lại rất thiếu vắng khi so sánh với các nước nói tiếng Anh. Đặc biệt chưa có công trình nào mang tính chất lý thuyết, những nghiên cứu theo hướng xây dựng mô hình chuẩn hóa thuật ngữ dầu khí. Đây là khoảng trống rất lớn cần được khắc phục để hệ thuật ngữ chuyên ngành dầu khí phát triển, góp phần phục vụ tốt hơn cho ngành công nghiệp dầu khí. Trong tình hình như vậy, có thể nói, luận án của chúng tôi là công trình lý luận đầu tiên ở Việt Nam khảo cứu một cách tương đối toàn diện TNDK từ góc độ đối chiếu chuyển dịch giữa hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt. 1.3. Tiểu kết Trên cơ sở phân tích quan điểm của các nhà nghiên cứu trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, luận án đã trình bày khái quát tình hình và phát triển của thuật ngữ dầu khí, quan điểm về thuật ngữ của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Qua khảo sát tình hình nghiên cứu của thuật ngữ trong lĩnh vực dầu khí chúng tôi thấy, việc nghiên cứu mới chỉ tập trung vào việc biên soạn từ điển, biên soạn tổng hợp từ điển theo từng chuyên môn, chưa có công trình nào thực hiện nghiên cứu một cách quy mô, có hệ thống về đặc điểm của thuật ngữ thuộc chuyên ngành dầu khí, đặc biệt là trong khía cạnh ngôn ngữ học so sánh đối chiếu.
  • 30. 20 Chương 2 CƠ SỞ LÍ LUẬN 2.1. Cơ sở lí luận về thuật ngữ và thuật ngữ dầu khí 2.1.1. Khái niệm về thuật ngữ và thuật ngữ dầu khí 2.1.1.1. Khái niệm thuật ngữ Trong mọi hoạt động của con người, trong đó có các hoạt động trong lĩnh vực dầu khí, đều cần phải sử dụng những từ ngữ để có thể biểu đạt các khái niệm, ngành nghề thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Trong số các từ ngữ như vậy, có một số lượng từ được gọi là thuật ngữ. Vậy thế nào là “thuật ngữ”? Mặc dù một số lượng lớn các công trình nền tảng, cả trong và ngoài nước, đã dành cho nghiên cứu các đặc điểm căn bản của thuật ngữ, tuy nhiên cho đến nay, trong các tài liệu ngôn ngữ học vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về thuật ngữ. Sở dĩ có nhiều cách định nghĩa khác nhau là do cách nhìn của mỗi tác giả khác nhau, chẳng hạn Erhart Oeser và Gerhart Budin cho rằng thuật ngữ xác định khái niệm, nhưng cũng có tác giả cho rằng thuật ngữ không chỉ xác định khái niệm mà còn biểu hiện khái niệm như Vinokur. Và khi nhắc đến khái niệm thuật ngữ, chúng ta không thể không nhắc đến các nhà ngôn ngữ học Xô Viết. Nói về bản chất của thuật ngữ, D.S. Lotte cho rằng thuật ngữ là từ đặc biệt [23], trong khi người đồng nghiệp của ông G.O. Vinokur lại nhấn mạnh thuật ngữ không phải từ đặc biệt, mà chỉ là từ với chức năng đặc biệt, và tuyên bố rằng, bất cứ từ nào cũng được cấu tạo để có vai trò là một thuật ngữ [93, tr. 3-54]. Đại bách khoa toàn thư Xô Viết, 1976 đã đưa ra định nghĩa về thuật ngữ “là một từ hoặc là một cụm từ chỉ ra một cách chính xác khái niệm và quan hệ của nó với những khái niệm khác trong giới hạn của phạm vi chuyên ngành. Thuật ngữ là cái biểu thị vốn đã chuyên biệt hóa, hạn định hóa về sự vật, hiện tượng, thuộc tính và quan hệ của chúng trong phạm vi chuyên môn
  • 31. 21 đó” [91, tr.473-474]. Đồng quan điểm về khái niệm thuật ngữ, tác giả V.M.Leichic đưa ra định nghĩa: “Thuật ngữ là đơn vị từ vựng của một thứ ngôn ngữ nhất định dùng cho những mục đích chuyên môn, nó biểu thị một khái niệm lý thuyết chung - cụ thể hay trừu tượng của một lĩnh vực tri thức hay hoạt động chuyên môn nhất định” [105, tr 31-32]. Các công trình trước đây về lĩnh vực thuật ngữ vốn có quan điểm đơn giản hóa và đơn nghĩa về thuật ngữ như là một từ đặc biệt, không gắn bó với từ vựng của ngôn ngữ toàn dân, mà nội dung bên trong của nó chỉ thay đổi do sự phát triển của các hình dung và quan điểm khoa học mới, hoặc do phân nhóm lại các khái niệm trong khoa học. Khái niệm “thuật ngữ” trong ngôn ngữ học chủ yếu mới được hình thành vào đầu thế kỷ XX. Năm 2007, công trình “Thuật ngữ học đại cương - những vấn đề lý thuyết” của ba tác giả là Speranskaja, Podolskaja và Vasileva được tái bản lần thứ tư; theo các tác giả này, “thuật ngữ là từ hay cụm từ chuyên môn, được thừa nhận trong hoạt động chuyên ngành và được sử dụng trong những điều kiện đặc biệt. Thuật ngữ là sự biểu đạt bằng từ ngữ một khái niệm của một hệ thống các khái niệm thuộc một lĩnh vực tri thức chuyên ngành nhất định. Thuật ngữ là yếu tố khái niệm cơ sở của thứ ngôn ngữ dùng cho các mục đích chuyên môn” [111, tr 14]. Thuật ngữ trong các nghiên cứu đương đại xuất hiện như một từ hoặc cụm từ chỉ khái niệm lĩnh vực kiến thức hoặc hoạt động chuyên ngành [17]. Tatarinov sau khi tổng kết quá trình phát triển của thuật ngữ học trong giai đoạn đương đại, định nghĩa thuật ngữ là một ký hiệu ngôn ngữ (từ/cụm từ), có quan hệ với khái niệm, hiện tượng hoặc sự vật chuyên ngành [113]. Định nghĩa như vậy chứng tỏ cách tiếp cận chuẩn mực nghiên cứu thuật ngữ, trong đó thuật ngữ – một đơn vị từ vựng nhất định có cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa đặc biệt làm cho nó khác các từ của ngôn ngữ toàn dân.
  • 32. 22 Theo Danilenko - người đại diện cho cách tiếp cận mô tả quan niệm thuật ngữ là “đơn vị gọi tên độc lập, riêng biệt và đơn nhất” [94, tr.7-16]. Theo tác giả, thuật ngữ có tính chất của ký hiệu ngôn ngữ đặc biệt và bất kể ký hiệu này là từ hay cụm từ, đều là một ký hiệu tương đương với một khái niệm. Cách tiếp cận mô tả giải thích thuật ngữ như là từ có chức năng đặc biệt và coi trọng sự hoạt động của các đơn vị thuật ngữ. D.S. Lotte nhận thấy trong thuật ngữ có sự thống nhất của ký hiệu âm thanh với khái niệm tương quan với nó trong hệ thống các khái niệm của lĩnh vực khoa học và kỹ thuật này [23]. Khi cho rằng các đặc tính và tín hiệu cơ bản của thuật ngữ cần được phản ánh trong định nghĩa, thì định nghĩa cần phải có dung lượng lớn và cô đọng, theo quan điểm như vậy, Akhmanova đưa ra một trong những định nghĩa thuật ngữ đạt nhất khi bà cho rằng thuật ngữ – từ hoặc cụm từ đặc biệt của lĩnh vực sử dụng chuyên ngành nhằm thể hiện đúng các khái niệm chuyên ngành và dựa trên định nghĩa [90]. Xét thuật ngữ trong mối quan hệ gắn liền với khái niệm, các nhà ngôn ngữ học Âu Mỹ như Schlomann và Segen cho rằng thuật ngữ “là một tập hợp các khái niệm, trong mỗi lĩnh vực chuyên ngành đều có các mô hình cấu trúc đại diện cho tập hợp các khái niệm. Kiến thức khoa học được sắp xếp thành các cấu trúc khái niệm, các phương tiện biểu đạt ngôn ngữ và kí hiệu tương ứng được sử dụng trong văn phong khoa học để thông tin với người khác về kết quả khoa học và bình luận các ngôn bản khác” [76, tr.12]. Bên cạnh đó, thuật ngữ còn là một tập hợp các đặc điểm mà bản thân chúng là các khái niệm [78, tr.17]. Cùng quan điểm thuật ngữ là kí hiệu ngôn ngữ cho một khái niệm, Erhard và Gerhard nhận định “thuật ngữ là một tập hợp các khái niệm và biểu đạt của nó, bao gồm các ký tự, các thuật ngữ và đơn vị cụm từ trong một lĩnh vực chuyên ngành đặc biệt” [66, tr.15]. Ngoài ra, các ký hiệu ngôn ngữ này
  • 33. 23 không nhất thiết phải là từ đơn, nó cũng có thể là một nhóm từ, một cụm từ cố định được sử dụng để mô tả một khái niệm chuyên môn [97, tr.8]. I.S. Kvitko cũng cho rằng “thuật ngữ là từ hoặc tổ hợp từ tham gia vào quan hệ hệ thống với các từ và tổ hợp từ khác và cùng nhau tạo ra một hệ thống khép kín nhờ có các dấu hiệu đặc biệt – tính thông tin, tính đơn nghĩa, tính chính xác và trung tính biểu cảm” [103, tr.125]. Trong khi S.V.Grinev lại nhấn mạnh tính chuyên môn hóa của thuật ngữ, coi thuật ngữ là đơn vị từ vựng chuyên ngành, của ngôn ngữ chuyên ngành, áp dụng để gọi tên chính xác các khái niệm chuyên ngành [101]. B.N.Golovin đặt lên vị trí hàng đầu trong thuật ngữ ý nghĩa nghề nghiệp được hình thành trong quá trình nắm vững phạm vi các khái niệm, khách thể và quan hệ giữa chúng dưới góc độ nghề nghiệp nhất định [100]. Nhiều học giả khác coi thuật ngữ là sự biểu hiện khái niệm kỹ thuật [dẫn theo 33]. Cách tiếp cận nghiên cứu thuật ngữ nằm ở phạm vi khái niệm “nền tảng ngôn ngữ”, khẳng định rằng giữa thuật ngữ và từ thường dùng (từ toàn dân) có mối liên hệ tương hỗ chặt chẽ, bởi vì hệ thuật ngữ được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng của từ vựng của các ngôn ngữ văn học hiện đại. Tuy nhiên các định nghĩa như vậy không lột tả được đầy đủ khối lượng và nội dung khái niệm “thuật ngữ”, bởi vì thuật ngữ – là những từ có quan hệ không những với các khái niệm kỹ thuật, mà còn với khái niệm của các lĩnh vực kiến thức khác (nghệ thuật, khoa học v.v…). Nhắc đến thuật ngữ, các nhà nghiên cứu đều có chung một quan điểm khi cho rằng nét đặc thù quan trọng nhất của thuật ngữ là mối liên hệ chặt chẽ với khái niệm mà nó biểu thị. Ý nghĩa của thuật ngữ gắn với khái niệm nghiêm ngặt, nó thể hiện khái niệm và tham gia hình thành các khái niệm [4]. Trong số các định nghĩa đương đại, định nghĩa của Gerd có dung lượng lớn và được xem là chính xác nhất: “Thuật ngữ – đó là đơn vị của ngôn ngữ nhân
  • 34. 24 tạo hay tự nhiên cụ thể nào đó (thường là từ hoặc cụm từ), đã từng tồn tại trước đây hoặc được chuyên biệt tạo ra và có ý nghĩa thuật ngữ chuyên ngành, được thể hiện dưới dạng từ, hoặc dưới hình thức này hay hình thức khác và phản ánh khá chính xác và đầy đủ những dấu hiệu khái niệm khoa học chủ yếu, quan trọng tương ứng với trình độ phát triển của khoa học” [dẫn theo 99, tr.12-18]. Khi định nghĩa thuật ngữ, cần phải tính tới các yêu cầu ngữ nghĩa, hình thức và dụng học (chức năng) đối với thuật ngữ như là đơn vị ngôn ngữ đặc biệt. Các đặc điểm ngữ nghĩa bao gồm: không có tính mâu thuẫn ngữ nghĩa, tức là nói đến sự phù hợp thuật ngữ với khái niệm; một nghĩa tức là loại trừ tính đa nghĩa phạm trù; đủ nghĩa được hiểu là sự phản ánh trong nghĩa của thuật ngữ số lượng tối thiểu các dấu hiệu đủ để nhận dạng khái niệm mà thuật ngữ biểu hiện; không có đồng nghĩa. Các yêu cầu hình thức là sự phù hợp với các chuẩn mực ngôn ngữ, cụ thể là loại bỏ và thay thế những sai lệch đối với chuẩn ngữ âm và ngữ pháp, loại bỏ các từ lóng nghề nghiệp; tính ngắn gọn hình thức và từ vựng, nghĩa là ưu tiên tính không lặp lại từ và hình thức ngắn gọn; có khả năng tái tạo; tính bất biến hình thức; tính có lý do; tính hệ thống (khả năng phản ánh trong cấu trúc thuật ngữ mối liên hệ của khái niệm nêu ra với các khái niệm khác trong cùng hệ thống khái niệm và vị trí của khái niệm này trong cùng hệ thống khái niệm). Các yêu cầu dụng học hoặc chức năng đòi hỏi áp dụng vào giao tiếp nghề nghiệp, điều này chỉ ra tính chấp nhận chung và sử dụng trong lĩnh vực nhất định; bao gồm cả tính quốc tế hóa – hướng tới tính giống nhau hoặc gần nhau về hình thức, trùng nội dung của các thuật ngữ được sử dụng trong một số ngôn ngữ; tính hiện đại (thay các thuật ngữ cũ bằng các thuật ngữ tương đương hiện đại); bí truyền (chủ ý không thông dụng đối với những người không phải là chuyên gia); và cuối cùng là sự hài hòa âm, phát âm thuận tiện và không có âm bất hòa liên tưởng) [dẫn theo 23, tr.335].
  • 35. 25 Sự độc đáo của các đơn vị thuật ngữ, trước hết là ở cấu trúc ngữ nghĩa bên trong của chúng. Thuật ngữ là một ký hiệu mà về mặt lý tưởng chỉ có một khái niệm tương ứng, khi tương quan của cái biểu hiện và cái được biểu hiện đều có cùng một nghĩa. Thành tố tối thiểu có nghĩa của thuật ngữ – yếu tố thuật ngữ [23] trùng với đơn vị cấu trúc tối thiểu có thể được biểu thị bằng các phụ tố cấu tạo từ và bằng từ trong thành phần cụm thuật ngữ - điều này không thấy ở từ thường dùng. Ngoài ra, thuật ngữ biểu thị những khái niệm chuyên môn mà chúng có quan hệ, và trong cấu trúc ý nghĩa thuật ngữ những khái niệm này có ý nghĩa đặc biệt, chủ đạo. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu thuật ngữ bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ XX. Rất nhiều nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã đi vào nghiên cứu và đưa ra những định nghĩa thuật ngữ, làm cho khái niệm “thuật ngữ” ngày một đầy đủ và chính xác.Trong số các tác giả đó không thể không kể đến Nguyễn Văn Tu, Đỗ Hữu Châu, Lê Khả Kế, Lưu Vân Lăng, Hoàng Văn Hành, Nguyễn Thiện Giáp, … Theo Nguyễn Văn Tu trong cuốn Khái luận ngôn ngữ học được xuất bản năm 1960, “Thuật ngữ là từ hoặc nhóm từ dùng trong các ngành khoa chính trị, ngoại giao, nghệ thuật, v.v. và có một ý nghĩa đặc biệt, biểu thị chính xác các khái niệm và tên các sự vật thuộc ngành nói trên" [52 tr.176]. Sau này, ông lại đưa ra một khái niệm khác về thuật ngữ: “Thuật ngữ là những từ và những cụm từ chỉ những khái niệm của một ngành khoa học, ngành sản xuất hay ngành văn hóa nào đó v.v... Ví dụ: đồng âm, phụ âm, nguyên âm thuộc về ngành ngôn ngữ học; giáo án, lên lớp,... thuộc về ngành giáo dục học; ôxi hidrô, benzen thuộc về ngành hóa học; quang phổ, quang học, điện pin... thuộc về ngành lí v.v... Đặc điểm của thuật ngữ là một từ chỉ có một nghĩa, không có từ đồng nghĩa, không có sắc thái tình cảm, có thể có tính chất quốc tế (tùy từng ngành)” [53, tr.202] trong cuốn Từ và vốn từ tiếng
  • 36. 26 Việt hiện đại. Trong các định nghĩa của mình, tác giả đã nhấn mạnh đến khái niệm mà các thuật ngữ biểu thị. Đỗ Hữu Châu không chỉ nhấn mạnh đến mặt biểu thị khái niệm khoa học mà còn chỉ tên một sự vật, hiện tượng khoa học, “thuật ngữ là từ chuyên môn được sử dụng trong phạm vi một ngành khoa học, một nghề nghiệp hoặc một ngành kỹ thuật nào đó. Có thuật ngữ của ngành vật lý, ngành hóa học, toán học, thương mại, ngoại giao.v.v... Đặc tính của những từ này là phải cố gắng chỉ có một nghĩa, biểu thị một khái niệm hay chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa học, kỹ thuật nhất định”. [7, tr.167]. Đến năm 1981, khi cho ra đời cuốn Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, ông đưa ra định nghĩa khái quát hơn về thuật ngữ khoa học, kĩ thuật; đó là: “Thuật ngữ khoa học, kĩ thuật bao gồm các đơn vị từ vựng được dùng để biểu thị những sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm… trong những ngành kĩ thuật công nghiệp và trong những ngành khoa học tự nhiên hay xã hội. Khác với từ thông thường, thuật ngữ có ý nghĩa biểu vật trùng hoàn toàn với sự vật, hiện tượng… có thực trong thực tế, đối tượng của ngành kỹ thuật và ngành khoa học tương ứng. ý nghĩa biểu niệm của chúng cũng là những khái niệm về các sự vật hiện tượng này đúng như chúng tồn tại trong tư duy. Về mặt nội dung, ở các thuật ngữ không sảy ra sự chia cắt thực tế khách quan theo cách riêng của ngôn ngữ. Mỗi thuật ngữ như là một cái “nhãn” dán vào đối tượng này (cùng với khái niệm về chúng) tạo nên chính nội dung của nó” [4, tr.221-222]. Thuật ngữ nằm trong hệ thống từ vựng chung của ngôn ngữ, nhưng chỉ tồn tại trong một hệ thống thuật ngữ cụ thể, nghĩa là nó chỉ được dùng trong ngôn ngữ chuyên môn. Toàn bộ thuật ngữ của một lĩnh vực sản xuất, hoạt động, tri thức tạo nên một lớp từ đặc biệt tạo thành một hệ thống thuật ngữ là quan điểm về thuật ngữ của một nhóm tác giả gồm Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang và Vương Toàn [34, tr 64].
  • 37. 27 Nguyễn Thiện Giáp thì cho rằng: "Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định, là tên gọi chính xác của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của con người" [9, tr.308-309]. Lưu Vân Lăng và Như Ý quan niệm: "Thuật ngữ là bộ phận ngôn ngữ (từ vựng) biểu đạt các khái niệm khoa học, là thuộc tính của khoa học, kĩ thuật, chính trị, tức là những lĩnh vực của hiện thực xã hội đã được tổ chức một cách có trí tuệ. Thuật ngữ có tính chất hệ thống hoàn toàn dựa trên sự đối lập giữa các kí hiệu. Sự đối lập này về hình thức thể hiện ở chỗ khác nhau về âm thanh hoặc về trật tự sắp xếp các yếu tố" [27, tr. 44]. Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ là quan điểm về thuật ngữ của một nhóm tác giả gồm Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang và Vương Toàn, Hoàng Văn Hành, Nguyễn Thiện Giáp, Lưu Vân Lăng và Như Ý, Nguyễn Hữu Quỳnh và gần đây là Vũ Quang Hào, trong luận án tiến sĩ về “Đặc điểm và cấu tạo của thuật ngữ quân sự tiếng Việt” của mình, tác giả đã trích dẫn lại và bổ sung định nghĩa thuật ngữ của Hoàng Văn Hành một cách khá đầy đủ như sau: “Thuật ngữ là từ ngữ dùng để biểu thị một khái niệm xác định thuộc hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định” [15, tr 15-16]. Nhìn chung các tác giả đều thống nhất với quan điểm, thuật ngữ về bản chất là từ hoặc cụm từ, tuy nhiên từ thì có thể đa nghĩa, nhưng thuật ngữ thì đơn nghĩa và mô tả khái niệm hay một khách thể. Để có cơ sở khoa học cho quá trình khảo sát đối tượng của luận án, chúng tôi đồng quan điểm với Nguyễn Thiện Giáp và lấy đó làm cơ sở để xây dựng lý luận cơ bản phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu nghiên cứu: Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định, là tên gọi chính xác của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của con người [9].
  • 38. 28 Như vậy, tổng hợp những điểm quan trọng nhất trong các định nghĩa trên, có thể quan niệm thuật ngữ là: đơn vị ngôn ngữ chuyên ngành (từ hoặc cụm từ), có quan hệ hệ thống với các đơn vị ngôn ngữ khác của ngôn ngữ chuyên ngành tương ứng có trạng thái giống nó, dùng để gọi tên chính xác và thể hiện đối tượng chuyên ngành, khái niệm, hiện tượng hoặc dạng hoạt động, Là đơn vị của ngôn ngữ toàn dân, thuật ngữ đồng thời thuộc về một tiểu hệ thống ngôn ngữ chuyên ngành thực hiện chức năng đặc biệt gọi tên khái niệm nghề nghiệp và chuyên môn hóa và cho phép phân biệt thuật ngữ với các đơn vị ngôn ngữ khác trong hệ thống ngôn ngữ. 2.1.1.2. Khái niệm TNDK và tiêu chí nhận diện TNDK a). Quá trình hình thành và phát triển TNDK ở Việt Nam Để có được thành quả như ngày hôm nay, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã trải qua rất nhiều giai đoạn, và TNDK cũng không nằm ngoài quy luật đó. Sau năm 1975, trong điều kiện đất nước đang khôi phục nền kinh tế, cộng với sự non trẻ trong ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ từ các nước bạn nhất là Liên Xô cũ trong vấn đề giáo dục, cụ thể là các chương trình, giáo trình và các tư liệu phục vụ việc giảng dạy tại các trường kinh tế, thương mại và kỹ thuật, và vì thế giai đoạn đó hầu hết các tư liệu liên quan đến ngành dầu khí được dịch từ tiếng Nga, điều này đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển hệ thống thuật ngữ dầu khí ở Việt Nam. Cuối những năm 1990 là thời kỳ tan rã của Liên bang Xô Viết và chính từ đó, thay vì đào tạo và sử dụng tiếng Nga thì tiếng Anh trở thành một ngoại ngữ chiếm vị trí quan trọng, nhiều giảng viên của trường, cán bộ chủ chốt trong các cơ quan nhà máy được cử đi đào tạo tại các nước phương Tây mà ngoại ngữ sử dụng là tiếng Anh, vì thế việc du nhập các TNDK tiếng Anh là điều hiển nhiên.
  • 39. 29 Ngoài ra, TNDK tiếng Anh cũng được du nhập vào Việt Nam một cách mạnh mẽ khi mà ngành công nghiệp dầu khí trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế và ngày càng nhiều các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và rất cần một đội ngũ cán bộ, nhân viên sử dụng được tiếng Anh. Sau gần 40 năm xây dựng và trải qua một chặng đường đầy khó khăn, ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, trở thành “đầu tàu kinh tế” quốc dân và đi đầu trong kinh tế biển của đất nước. Do vậy, nhu cầu tìm hiểu và tiếp thu những tri thức mới về lĩnh vực này ngày càng cao và cấp bách, đòi hỏi hàng loạt các thuật ngữ ra đời nhằm đáp ứng một phần nhu cầu thiết thực đó. Phần lớn những TNDK tiếng Việt là các thuật ngữ vay mượn của nước ngoài mà điển hình là tiếng Nga, tiếng Pháp và tiếng Anh. b). Khái niệm về thuật ngữ dầu khí Là một loại tài nguyên khoáng sản quý mà thiên nhiên ban tặng cho con người. So với các khoáng sản khác như: than đá, đồng, chì, nhôm, sắt…thì dầu khí được con người biết đến và sử dụng tương đối muộn hơn. Dầu chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế nhiên liệu-năng lượng thế giới. Thậm chí không phụ thuộc vào các ưu thế về lợi ích của dầu khí được phân bố rải rác hiện nay, thuật ngữ dầu khí vẫn được chú trọng từ quan điểm ngôn ngữ học. Theo Luật dầu khí thì "Dầu khí là dầu thô, khí thiên nhiên và hydrocarbon ở thể khí, lỏng, rắn hoặc nửa rắn trong trạng thái tự nhiên, kể cả sulphur và các chất tương tự khác kèm theo hydrocarbon nhưng không kể than, đá phiến sét, bitum hoặc các khoáng sản khác có thể chiết xuất được dầu” [24, tr.3-7]. Như vậy Dầu khí bao gồm dầu mỏ và khí đốt là các hợp chất hữu cơ được khai thác từ dưới lòng đất ở thể lỏng và thể khí. Ở thể khí, chúng bao
  • 40. 30 gồm khí thiên nhiên và khí đồng hành. Khí thiên nhiên là toàn bộ hydrocacbon ở thể khí khai thác từ giếng khoan bao gồm cả khí ẩm và khí thô. Khí đồng hành là khí tự nhiên nằm trong các vỉ dầu dưới dạng mũ khí hoặc khí hoà tan và được khai thác đồng thời với dầu thô [117]. Dầu thô hay còn gọi là dầu mỏ, là một chất lỏng đặc sánh màu nâu hoặc ngà lục, là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ thể lỏng đậm đặc, phần lớn là hỗn hợp hydrocacbon có số phân tử Cacbon từ C5 đến C20 ở điều kiện thường là chất lỏng. Có nhiều lý thuyết giải thích việc hình thành dầu mỏ. Theo lý thuyết tổng hợp sinh học được nhiều nhà khoa học đồng ý, “dầu mỏ phát sinh từ những xác chết của các sinh vật ở đáy biển, hay từ các thực vật bị chôn trong đất. Khi thiếu khí ôxy, bị đè nén dưới áp suất và ở nhiệt độ cao các chất hữu cơ trong các sinh vật này được chuyển hoá thành các hợp chất tạo nên dầu. Dầu tích tụ trong các lớp đá xốp, do nhẹ hơn nước nên dầu đã chuyển dần lên trên cho đến khi gặp phải các lớp đá không thẩm thấu thì tích tụ lại ở đấy và tạo thành mỏ dầu” [95, tr. 64-69]. Giống như nhiều loại tài nguyên khoáng sản khác, dầu mỏ được hình thành do kết quả quá trình vận động phức tạp lâu dài hàng triệu năm về vật lý, hoá học, địa chất, sinh học…trong vỏ trái đất. Thông thường dầu mỏ sau khi khai thác có thể xử lý, tích trữ và xuất khẩu ngay Khí đốt là toàn bộ hydrocacbon ở thể khí, khai thác từ giếng khoan, bao gồm cả khí ẩm, khí khô, khí dầu giếng khoan và khí còn lại sau khi chiết xuất hydrocacbon lỏng từ khí ẩm. Theo nguồn gốc hình thành khí đốt có thể chia làm 3 loại: Khí tự nhiên, khí đồng hành và khí ngưng tụ. Khí tự nhiên: là các khí chứa trong các mỏ riêng biệt. Trong khí, thành phần chủ yếu là mêtan (từ 93% - 99%), còn lại là các khí khác như êtan, propan và một ít butan và các chất khác (N2, S…).
  • 41. 31 Khí đồng hành: là khí nằm lẫn trong dầu mỏ được hình thành cùng với dầu, thành phần chủ yếu là các khí nặng hơn như propan, butan, pentan. Khí ngưng tụ: thực chất là dạng trung gian giữa dầu mỏ và khí, bao gồm các hydrocacbonk khác như pentan, hexan. Như đã trình bày trong phần khái niệm về thuật ngữ, thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ, bao gồm những từ cố định là tên gọi chính xác của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của con người [53, tr.270]. Chung quan điểm về khái niệm thuật ngữ, nên khi nghiên cứu TNDK, ngoài việc là tên gọi chính xác của các khái niệm liên quan đến dầu khí, Vassillious cho rằng “thuật ngữ dầu khí còn mô tả hoạt động của con người, bao gồm các lĩnh vực khai thác dầu khí khác nhau, cụ thể là: khoan, xói rửa, gia cố và đổ xi măng các giếng, thủy lực lòng đất, vật lý tầng, chính việc khai thác dầu, các phương pháp xử lý vùng đáy giếng khoan, xây dựng và thiết bị vận hành, vận hành các giếng dầu khí, các phương pháp nâng cao việc khai thác và cả các quá trình công nghệ khác nhau, trong số đó quan trọng là: lắp ráp, vận chuyển và bảo quản dầu khí, xây dựng và vận hành đường ống, các trạm nén và các công trình khác, khoan biển v.v…” [88, tr.34]. Đương nhiên, tất cả các công đoạn hoạt động của con người nêu trên nhằm khai thác dầu và khí, được thể hiện bằng ngôn ngữ của mình trong hệ thống ngôn ngữ. Từ ngữ thể hiện sự hoạt động tích cực có mục đích của con người bằng các thuật ngữ chuyên ngành cấu thành cơ sở hệ thống thuật ngữ của lĩnh vực nhất định, trong trường hợp này là lĩnh vực công nghiệp dầu khí. [96, tr.199]. Trên cơ sở phân tích như đã trình bày, chúng tôi quan niệm thuật ngữ dầu khí là từ và cụm từ dùng để gọi tên chính xác các khái niệm và các đối tượng thuộc lĩnh vực dầu khí gồm các hoạt động tìm kiếm thăm dò, khai thác, chế biến, kỹ thuật phụ trợ và kinh doanh dầu khí. c). Các tiêu chí để nhận diện TNDK
  • 42. 32 Để lựa chọn được những TNDK phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận án, ngoài việc dựa vào định nghĩa về thuật ngữ dầu khí chúng tôi đã dựa vào những nguyên tắc tham khảo trong các tài liệu [56, 58 và 59] có điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án để xác lập những tiêu chí nhận diện những thuật ngữ nào là TNDK. Như vậy, những thuật ngữ là TNDK tiếng Anh và tiếng Việt phải đảm bảo phù hợp các tiêu chí sau: Về mặt cấu tạo, các thành tố cấu tạo nên TNDK phải có mối quan hệ liên kết với nhau, trong đó mỗi thành tố có một chức năng nhiệm vụ riêng để tạo nên thuật ngữ. Về mặt ý nghĩa, các thành tố tạo nên TNDK phải mang một đặc trưng của khái niệm do thuật ngữ biểu hiện. Về chức năng, thuật ngữ là đơn vị định danh vì vậy TNDK phải dạng một từ hoặc một ngữ. Về phạm vi sử dụng, thuật ngữ là TNDK tiếng Anh và tiếng việt phải là một bộ phận từ ngữ được sử dụng để biểu thị khái niệm hoặc đối tượng trong lĩnh vực dầu khí. d). Hệ thống thuật ngữ dầu khí Dựa vào tiêu chí và chiến lược kinh doanh phát triển của ngành dầu khí, các hoạt động trong lĩnh vực dầu khí bao gồm 05 lĩnh vực chính và được phân chia thành 05 hệ thống tương ứng sau: 1) Các thuật ngữ biểu thị chủ thể và đối tượng tham gia các hoạt động tìm kiếm, thăm dò dầu khí; 2) Các thuật ngữ biểu thị chủ thể và đối tượng tham gia các hoạt động khai thác dầu khí; 3) Các thuật ngữ biểu thị chủ thể và đối tượng tham gia các hoạt động chế biến dầu khí;
  • 43. 33 4) Các thuật ngữ biểu thị chủ thể và đối tượng tham gia các hoạt động kỹ thuật phụ trợ dầu khí; 5) Các thuật ngữ biểu thị chủ thể và đối tượng tham gia các hoạt động kinh tế dầu khí; Từ các hệ thống trên có thể phân ra thành các tiểu hệ thống nhỏ hơn, ví dụ trong hệ thống thứ nhất có thể tiếp tục phân ra thành các hệ thống: thuật ngữ chỉ tài liệu, công cụ, hình thức tìm kiếm, địa hình, …và tiếp tục được phân nhỏ hơn nữa thành tiểu hệ thống các thuật ngữ chỉ bản đồ, biểu đồ, thử nghiệm, khảo sát, … Hệ thống thứ hai có thể được phân thành hệ thống các thuật ngữ chỉ trang thiết bị, hình thức thực hiện, nhân công, thủ tục hành chính …. và tiếp tục được phân nhỏ hơn nữa thành các tiểu hệ thống thuật ngữ chỉ mũi khoan, các loại sàn, các loại nút, các loại khoan, bơm, …. 2.1.2. Đặc điểm của thuật ngữ Việc phân tích một số định nghĩa khái niệm “thuật ngữ” của Danilenko và Skvortsov (1981), Golovin (1998), Akhmanova (1966), Grinev (1993) , Gerd (1971)… cho phép phát hiện nhiều đặc tính của thuật ngữ, mà thuật ngữ, theo ý kiến của các tác giả các công trình đã công bố, có và cần có. Tuy nhiên trong thành phần định nghĩa và trong số các đặc tính của thuật ngữ còn có cả những đặc tính mà không làm cho thuật ngữ khác với từ thường dùng. Đồng thời nó còn có một số đặc tính khác. Thứ nhất, thuật ngữ không là yếu tố khu biệt hay không căn bản. Những dấu hiệu không căn bản, “nghĩa dư thừa” có thể là các dấu hiệu nêu đặc điểm thuật ngữ như là đơn vị “được định hình có trọng âm”, “của ngôn ngữ cụ thể hay nhân tạo” [102, tr. 62-64]. Thuật ngữ không chỉ là một đơn vị ngôn ngữ, mà còn là từ hoặc cụm từ, nó cần có trọng âm, nghĩa là đơn vị được định hình có trọng âm. Một trong những đặc tính nổi bật của nhóm này có thể khẳng định rằng trong thuật ngữ
  • 44. 34 có “sự thống nhất của ký hiệu ngôn ngữ và khái niệm tương ứng quan liên quan với nó”, rằng thuật ngữ có tính chất ký hiệu. Tuy nhiên những từ không phải là thuật ngữ cũng có tính chất ký hiệu riêng, và vì vậy, có sự thống nhất của ký hiệu ngôn ngữ và khái niệm mà nó liên quan. Hình dung tới ý kiến cho rằng thuật ngữ – “tổng thể tất cả các bất biến (trong đó có cả biến đổi từ) của một từ hoặc cụm từ nhất định” – có thể là thừa để hiểu thực chất của thuật ngữ [94, tr. 7-16]. Hai là, các thuộc tính đã nêu trong các định nghĩa khái niệm “thuật ngữ” là căn bản và quan trọng, nhưng đồng thời vẫn là không thích hợp, không khu biệt khái niệm này, trước hết, với khái niệm của từ (nói chung) hoặc là từ của ngôn ngữ thường dùng. Những đặc tính căn bản, nhưng không trung tâm của thuật ngữ là thuộc tính có khả năng trở thành đối tượng của định nghĩa lô gic. Điều này nghĩa là có thể định nghĩa thuật ngữ nhờ các quy tắc định nghĩa do lô gíc hình thức tạo ra, trước hết là thông qua chủng loại gần nhất và các khác biệt nhánh. Đương nhiên, đây là đặc tính quan trọng của thuật ngữ, nhưng đặc tính này cũng là đặc tính của những từ thường dùng. Đặc tính tiếp theo rất quan trọng của thuật ngữ là tính tương quan của nó với các thuật ngữ khác trong lĩnh vực này và cùng với chúng tạo ra hệ thống [22]. Đặc tính này của thuật ngữ thể hiện hai cách: một mặt, đây là tính hệ thống khái niệm, lô gíc bắt nguồn từ tính hệ thống các khái niệm của chính khoa học, mặt khác, đây là tính hệ thống ngôn ngữ học, tính hệ thống của các đơn vị ngôn ngữ thể hiện các khái niệm này. Thuật ngữ có tính hệ thống, bởi vì nó tham gia vào hệ thuật ngữ là hệ thống các khái niệm của một lĩnh vực kiến thức nhất định, và chính trong hệ thống từ có đặc điểm của thuật ngữ. Trong hệ thống thuật ngữ một thuật ngữ dường như ủng hộ thuật ngữ khác đứng bên cạnh. Vị thế của thuật ngữ trong hàng ngũ các thuật ngữ khác có ý nghĩa đặc biệt [22].
  • 45. 35 Các đặc tính tiêu biểu của đơn vị thuật ngữ gồm tính quy ước (conventionality) và đặc thù ý nghĩa từ vựng của thuật ngữ bắt nguồn từ đó. Tính quy ước – đó là sự thỏa thuận, ít nhất là, của một số chuyên gia chấp nhận hình thức biểu hiện của thuật ngữ mới do họ đề xuất và sử dụng hình thức này đối với nội dung do người sáng lập thuật ngữ định ra. Theo nghĩa rộng, tập tục ngụ ý nói tới sự sáng tạo thuật ngữ mới có ý thức, nghĩa là lựa chọn từ ngôn ngữ toàn dân thực thể ngôn ngữ của các thuật ngữ và tạo ra chúng phù hợp với các yêu cầu chấp nhận được. Khả năng tạo ra thuật ngữ có ý thức và thông qua trên cơ sở thỏa thuận của các nhà nghiên cứu thuật ngữ này hay thuật ngữ khác – các đặc tính phương pháp luận rất quan trọng của từ vựng nghề nghiệp, bởi vì các đặc tính này cho phép tiến hành công việc có mục đích cải thiện và chỉnh lý thuật ngữ, đề ra các yêu cầu, tạo ra các hệ thống thuật ngữ. Các đặc tính sau đây của thuật ngữ bắt nguồn từ tính tập tục: tính một nghĩa, tính chính xác nội dung, tính rành mạch ý nghĩa. Tuy nhiên hiện nay điều này không thường xuyên được tuân thủ, các nhà nghiên cứu công nhận rằng “sự thay đổi ranh giới ngữ nghĩa của thuật ngữ và sự nẩy sinh các ý nghĩa mới là hiện tượng có tính quy luật trong hệ thuật ngữ đang phát triển” [94, tr.7-16]. Thêm vào đó, các chuyên gia cho rằng tính đa nghĩa là trở ngại trong giao tiếp khoa học và tạo ra các khó khăn trong việc hiểu thông tin. Ví dụ, Golovin đã gắn tính đa nghĩa với tính không rành mạch của thuật ngữ, với tính phức tạp cấu trúc ngữ nghĩa-ngữ pháp của nó, điều này dẫn tới tình huống thuật ngữ không thuận lợi [100]. Các học giả khác lại khẳng định rằng tính đa nghĩa của thuật ngữ mất đi trong văn cảnh nhờ kinh nghiệm cuộc sống và nghề nghiệp, vì vậy tính đa nghĩa không thể cản trở việc hiểu chính xác. Khi nghiên cứu cấu trúc ngữ nghĩa của thuật ngữ tác giả cũng nêu ra “tính đa nghĩa bên ngoài” (của các
  • 46. 36 thuật ngữ bắt nguồn từ ngôn ngữ toàn dân) và “tính đa nghĩa bên trong” (của các thuật ngữ không có tương đương trong ngôn ngữ toàn dân) [101]. Danilenko và Skvortsov nhận xét đúng rằng hệ thuật ngữ là một phần của ngôn ngữ toàn dân có đặc tính không đối xứng thể hiện bằng nhiều phương án (đồng nghĩa), bằng tính đa nghĩa thông thường và dị thường [94, tr. 7-16]. Vinokur coi tính định nghĩa là một trong những dấu hiệu bắt buộc của thuật ngữ: “có định nghĩa – thuật ngữ, không có định nghĩa – không phải thuật ngữ”. Nếu từ là ‘phương tiện của định nghĩa lô gíc, khi đó từ – thuật ngữ khoa học” [93, tr. 3-54]. Bên cạnh đó, hài hòa hóa, theo định nghĩa của V.A.Tatarinov, là một kiểu đặc điểm – một kiểu hoạt động của thuật ngữ nhằm thống nhất thuật ngữ ở các cấp độ quốc gia và quốc tế [113, tr.38]. Thực chất đây là quá trình làm giảm đi sự khác biệt nhằm xây dựng những thuật ngữ mẫu, điển hình từ đó khuyến khích các quốc gia tiếp nhận và sử dụng. Theo các luận điểm cơ bản của phương pháp tiêu chuẩn hóa thuật ngữ khoa học-kỹ thuật do Ủy ban thuật ngữ khoa học xã hội Việt Nam dự thảo, thì mục đích tiêu chuẩn hóa nhằm đánh giá nghiêm ngặt, phân tích và tạo lập các thuật ngữ một nghĩa tương ứng với trình độ hiện đại của khoa học và kỹ thuật, lập luận có cơ sở khoa học và hệ thống hóa thuật ngữ, tạo cho ngôn ngữ khoa học tính cân đối lô gíc và rõ ràng [57]. Song song với các nghiên cứu chức năng vào những năm 70 và 80 Liên Xô đã tiến hành công tác chỉnh lý và tiêu chuẩn hóa thuật ngữ khoa học-kỹ thuật. Cách tiếp cận thường được gọi là “chuẩn trung tâm” đã cho phép đưa ra các thuộc tính “lý tưởng” của thuật ngữ bao gồm: (1) Tính chính xác; (2) Tính một nghĩa trong phạm vi một hệ thống thuật ngữ; không có đồng nghĩa chữ viết tượng hình; (3) Không có tính biểu cảm (điều này làm nó khác từ nghề nghiệp); (4) Tính có lý do được xác định là do các thuật ngữ là tên gọi thứ phát (có sau); (5) Tính định danh – chức năng biểu thị khái niệm chuyên ngành, thể
  • 47. 37 hiện không phụ thuộc vào văn cảnh; (6) Tính dứt khoát (definitive)– ý nghĩa của thuật ngữ hình thành dưới dạng định nghĩa lô gic; (7) Tính hệ thống– thuộc tính của thuật ngữ chiếm vị trí nhất định trong hệ thống thuật ngữ, vị trí này, đến lượt mình lại do vị trí nhất định của khái niệm chuyên ngành mà thuật ngữ biểu thị trong hệ thống các khái niệm chuyên ngành quy định; (8) Có hệ thống– thuộc tính thể hiện tính hệ thống ở các cấp độ hình thái học, cấu tạo từ và phạm trù [112, tr. 29-30]. Nhà ngôn ngữ học Nga A.S.Gerd coi nhiệm vụ chủ yếu của công việc trong lĩnh vực thuật ngữ học là nêu ra các đặc điểm cơ bản và quy luật phát triển lịch sử các hệ thuật ngữ riêng, phân tích các văn bản chuyên ngành các thời kỳ đồng đại khác nhau, mô tả cẩn thận đặc điểm hệ thuật ngữ hiện đại trong các từ điển tóm lược và sau đó – nêu ra các yếu tố chủ yếu, các cách, các nguồn và các tài nguyên cụ thể để tiếp tục chỉnh lý và nhất thể hóa các hệ thống thuật ngữ, tạo ra các từ điển và sách tra cứu chuẩn mực [98, tr. 22]. Mark D. Childress trong công trình của mình “Liệu các phí tổn để nghiên cứu thuật ngữ có hoàn vốn không” viết: “Cách tiếp cận coi công việc thuật ngữ chỉ là nhiệm vụ thứ yếu là không thể chấp nhận được đối với bất kỳ công ty nào. Hệ thống thuật ngữ được hình thành ở mức cần thiết và có quản lý – hòn đá tảng trong công tác của các cộng tác viên công ty thông tin. Hệ thống hóa thuật ngữ cũng cho phép nâng cao trình độ kiến thức và hội nhập chúng, giảm nhẹ việc tác động qua lại của các cộng tác viên với nhau và với các đại diện của các tổ chức khác. Như vậy, tiêu chuẩn hóa thuật ngữ giúp xử lý sự tăng trưởng như thác lũ lượng thông tin và những sự thay đổi thường xuyên của nó, và có thể sử dụng như là nguồn then chốt trong chiến lược chung quản lý thông tin”, và cũng nói lên rằng điều kiện bắt buộc đạt được hiệu quả tích cực này là đưa công tác thuật ngữ vào số các tham số kiểm tra chất lượng [28].
  • 48. 38 Trong điều kiện hiện đại tăng cường hợp tác quốc tế, thì một trong những bình diện quan trọng nhất của hoạt động thuật ngữ là hài hòa thuật ngữ. Ngoài ra cũng có quan điểm trái ngược, cho rằng tính tương đối và quy ước của khái niệm là cơ sở của thuật ngữ, có tư cách như các trung gian “giữa hiện thực khách quan và quá trình nhận thức hiện thực khách quan”, vì vậy “định nghĩa không có một nghĩa, không duy nhất, không thể định nghĩa nghiêm ngặt được” và cho phép “nhiều cách giải thích” [22]. Tính không biểu cảm và độc lập với văn cảnh là những dấu hiệu tuyệt đối của thuật ngữ. Thuật ngữ không thích hợp để xây dựng các phát ngôn thể hiện cái thường gọi là “ý nghĩa hình ảnh”, bởi vì các thành tố của phạm vi biểu cảm-lý trí của nhận thức trong ý nghĩa chung của thuật ngữ bị xóa hết và thiếu vắng hoàn toàn [99, tr.13]. Tuy nhiên trong hàng loạt các công trình đương đại lại nêu ra sự hiện diện của tính xúc cảm, tính hình ảnh và biểu cảm trong ý nghĩa của thuật ngữ. Theo chúng tôi, điều quan trọng là lý do làm cơ sở để gọi tên thuật ngữ đúng đến đâu và liệu nó có gợi ra các liên tưởng giống nhau ở những người sử dụng thuật ngữ không. Tính hình ảnh của thuật ngữ cấu tạo từ những từ của từ vựng toàn dân, chỉ xuất hiện ở giai đoạn hình thành đầu tiên, và thúc đẩy việc tiếp nhận các khái niệm khoa học tốt nhất. Sau đó tính hình ảnh mất dần, và thuật ngữ hướng tới tính trung lập. Hình dung là các từ nghề nghiệp, sau khi rời bỏ lĩnh vực “chuyên ngành”, lại làm giàu ý nghĩa của mình bằng các sắc thái mới, có thể là các sắc thái ẩn dụ, so sánh, thành ngữ hay các sắc thái khác. Vấn đề là ở chỗ tính xúc cảm và ẩn dụ gắn liền với việc mở rộng phạm vi hoạt động của thuật ngữ. Cần nhận xét rằng các thuật ngữ – đây là các đơn vị thông tin của ngôn ngữ, còn đặc điểm quan trọng nhất của thông tin thuật ngữ là tính tích lũy gắn liến với tính liên tục của kiến thức và tính chất quốc tế phát triển khoa học kỹ thuật. Lượng thông tin có trong các thuật ngữ về kinh nghiệm tập thể đã tích
  • 49. 39 lũy là cơ sở hạ tầng mà kiến thức khoa học hiện đại xây dựng trên đó. Thuộc tính của thông tin thuật ngữ còn là sự phân tán gắn liền với việc sử dụng một thuật ngữ trong nhiều hệ thuật ngữ khác nhau. Thông tin thuật ngữ là thông tin trí tuệ năng động, nhằm thúc đẩy ý nghĩ sáng tạo và hoạt động cải tạo của con người phát triển hơn nữa. Thuật ngữ có thuộc tính nhờ cấu trúc và ngữ nghĩa thông báo về những mặt nào của hiện thực khách quan hình thành trong thuật ngữ. Đồng thời hình thức bên trong của thuật ngữ đóng vai trò rất quan trọng, vì nó thường chứa các dữ liệu kỹ thuật. Thường là các đơn vị kiến thức ngôn ngữ chung, đồng thời là đơn vị kiến thức khoa học-nghề nghiệp, những thuật ngữ như vậy tích lũy thông tin ngôn ngữ và chuyên ngành, thêm vào đó kiến thức ngôn ngữ thúc đẩy việc thực hiện kiến thức chuyên ngành. Các đặc điểm hình thái học của thuật ngữ chủ yếu liên quan tới sự thay đổi thành phần từ loại của thuật ngữ sau khi nó trở thành ngôn ngữ toàn dân, điều này kéo theo sự thay đổi giá trị của đơn vị nghề nghiệp trong bối cảnh tình huống mới. Sự thay đổi trạng thái của các từ vị chuyên ngành trong lĩnh vực từ loại khi không bị chuyên ngành hóa dẫn tới việc mở rộng cơ sở thuật ngữ hoạt động trong ngôn ngữ toàn dân. Biểu vật chính đồng thời vẫn không thay đổi. Tại hội nghị bàn về vấn đề xây dựng thuật ngữ của Ủy ban xây dựng nhà nước năm 1975, đại đa số các nhà nghiên cứu đều tán thành với các tiêu chuẩn của thuật ngữ, đó là, “thuật ngữ phải có: Tính khoa học, cụ thể phải chính xác, có hệ thống và ngắn gọn; Tính dân tộc, tức là thuật ngữ phải có màu sắc dân tộc, phù hợp với dặc điểm tiếng Việt.; và tính đại chúng, nghĩa là thuật ngữ phải là những từ đễ hiểu, dễ nhớ, dễ nói, dễ viết và dễ đọc” [56, tr.16-17]. Thuật ngữ khoa học trước hết phải chính xác, nghĩa là thuật ngữ phải biểu hiện đúng khái niệm khoa học mà không gây nhầm lẫn. Bàn về tính chính xác của thuật ngữ, Nguyễn Đức Tồn cho rằng thuật ngữ phải biểu hiện
  • 50. 40 đúng khái niệm khoa học (hoặc đối tượng) mà không gây lầm lẫn [50]. Thuật ngữ được gọi là lý tưởng khi nó phản ánh được đặc trưng cơ bản, nội dung, bản chất của khái niệm, tuy nhiên không thể đòi hỏi thuật ngữ phản ánh đầy đủ mọi phương diện, mọi khía cạnh của khái niệm. Thậm chí cá biệt có những thuật ngữ phản ánh mọi nội dung không cơ bản, nhưng là đặc trưng để phân biệt thuật ngữ này với thuật ngữ khác. Đôi khi, tính chính xác còn thể hiện ở hình thức cấu tạo thuật ngữ. Vì vậy mà thuật ngữ thường ngắn gọn, chặt chẽ. Thuật ngữ khoa học ngoài tính chính xác thì phải nằm trong hệ thống nhất định và hệ thống đó phải hết sức chặt chẽ. Chính vì vậy, tính hệ thống là thuộc tính quan trọng bậc nhất của thuật ngữ. Nghĩa là nó thể hiện ở kiểu cấu tạo từ và trong sự ý thức hóa tuyệt đối để vận động cấu tạo từ. Mặt khác, không thể tách rời từng khái niệm ra để đặt thuật ngữ, mà phải hình dung, xác định vị trí của nó trong toàn bộ hệ thống khái niệm. Bên cạnh đó, tính hệ thống của thuật ngữ thường được xét dựa trên hai góc độ đó là hệ thống khái niệm (xét về nội dung) và hệ thống ký hiệu (xét về hình thức) cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi cho các nhà ngôn ngữ học. Và rõ ràng khi nói đến tính hệ thống của thuật ngữ cần phải chú ý đến cả hai mặt: hệ thống khái niệm (tức là xét về nội dung) và hệ thống cách biểu thị (xét về hình thức)” [50, tr.19-26]. Lưu Vân Lăng và Vũ Quang Hào đưa ra ý kiến của mình khi xây dựng hệ thống thuật ngữ, trước khi đặt hệ thống kí hiệu (về hình thức) cần phải xác định cho được hệ thống khái niệm (về nội dung của nó). Không thể tách rời từng khái niệm ra để đặt thuật ngữ, mà phải hình dung, xác định vị trí của nó trong toàn bộ hệ thống khái niệm và tính hệ thống về nội dung của thuật ngữ kéo theo tính hệ thống về hình thức của nó. Nếu tách một thuật ngữ ra khỏi hệ thống thì nội dung thuật ngữ của nó không còn nữa [26, 15]. Chúng tôi chia sẻ và tán thành với các cách nhận định trên: nói đến tính hệ thống của thuật ngữ là nói đến cả hai mặt nội dung (hệ thống khái niệm) và hình thức (hệ thống kí hiệu) của nó.
  • 51. 41 Đã là ngành khoa học thì hệ thuật ngữ của ngành khoa học đó cho dù ở nước nào đi nữa cũng cần phải quốc tế hóa thì mới đáp ứng được xu thế hội nhập và toàn cầu hóa. Quốc tế hóa thuật ngữ khoa học là xu hướng phát triển tất yếu của ngôn ngữ, có vai trò hoàn thiện hệ thuật ngữ chung trên toàn thế giới, khắc phục phần nào rào cản ngôn ngữ trong hợp tác quốc tế, nhất là trong lĩnh vực khoa học. Vì vậy, hệ thuật ngữ ở bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có xu hướng vay mượn từ các nước có nền khoa học phát triển hơn. “Thuật ngữ, dù thuộc lĩnh vực khoa học nào, chuyên môn nào, cũng nhất thiết phải là một bộ phận của từ ngữ dân tộc. Do đó thuật ngữ phải có tính chất dân tộc và phải mang màu sắc ngôn ngữ dân tộc” [25, tr.58]. Đây là quan điểm của Lưu Vân Lăng đối với tính dân tộc - một trong những đặc trưng cơ bản của thuật ngữ. Điều này có nghĩa là mỗi dân tộc phải tận dụng vốn từ ngôn ngữ của mình để diễn đạt các khái niệm khoa học sao cho phù hợp với màu sắc ngôn ngữ dân tộc và đặc điểm mỗi dân tộc. Trong quá trình xây dựng thuật ngữ khoa học, mỗi dân tộc đều cố gắng tận dụng tối đa vốn từ của dân tộc mình để diễn đạt các khái niệm khoa học. Việc làm này không những giúp cho thuật ngữ đến được với nhân dân mà còn nhằm giữ gìn và phát triển sự trong sáng của tiếng Việt. Ngoài những đặc tính cơ bản trên, thuật ngữ cần phải có tính ngắn gọn và tính đại chúng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc xác định thuật ngữ phải có tính chính xác và tính hệ thống đã bao hàm cả tính ngắn gọn (xét về mặt hình thức), còn về tính đại chúng thì ngay từ buổi đầu tiên của nền khoa học, các nhà ngôn ngữ đã xác định xây dựng hệ thống thuật ngữ phải ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu đối với quảng đại quần chúng. Bằng việc phân tích các quan niệm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, chúng tôi quan niệm rằng để hình thành TNDK cần đảm bảo ba tiêu chuẩn, bao gồm tính khoa học, tính quốc tế và tính dân tộc.
  • 52. 42 2.1.3. Phương thức đặt thuật ngữ Theo tổng kết của Hoàng Văn Hành (1983), thuật ngữ trong tiếng Việt hình thành từ ba con đường cơ bản là: 1) thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường; 2) cấu tạo những thuật ngữ tương ứng với thuật ngữ nước ngoài bằng phương thức mô phỏng và 3) mượn nguyên những thuật ngữ nước ngoài (thường là những thuật ngữ có tính quốc tế). Từ ba con đường này đã tạo nên ba lớp thuật ngữ với những đặc trưng khác nhau cả về hình thái và ngữ nghĩa bao gồm lớp thuật ngữ thuần Việt, lớp thuật ngữ sao phỏng và lớp thuật ngữ phiên âm [11, tr.27-34]. Trên cơ sở đồng quan điểm với Hoàng Văn Hành, Lê Khả Kế [19, tr.35] cũng cho rằng thuật ngữ được hình thành theo ba con đường chính, tuy nhiên con đường thứ hai và thứ ba có thể được xem là một. Vì vậy, theo Lê Khả Kế, có hai phương thức cơ bản để đặt thuật ngữ, đó là: a) Thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường trên cơ sở tiếng Việt Thực chất là con đường dùng phép chuyển di ngữ nghĩa của từ để tạo thuật ngữ. “Phép chuyển di này có thể không dẫn đến chuyển nghĩa hoặc chuyển nghĩa, từ thông thường được tu hẹp về phạm vi hoạt động hay được chuyển di phạm vi ứng dụng từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác với những cách nhìn từ những góc độ khác nhau” [13, tr.26-28]. Theo Hà Quang Năng, thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường là “mặt biểu hiện (vỏ ngữ âm) của từ và cái biểu vật giữ nguyên không thay đổi, còn ý nghĩa thì thay đổi” [32, tr.38- 45]. Điều này cho thấy trong quá trình biến đổi, phát triển nghĩa của từ nhiều nghĩa, ý nghĩa thuật ngữ vẫn còn nằm lại trong hệ thống ý nghĩa của từ xuất phát của ngôn ngữ chung, ý nghĩa thuật ngữ này vẫn còn gắn liền với một ý nghĩa nào đó của từ ngữ thông thường. Quá trình phát triển các ý nghĩa của từ nhiều nghĩa theo hướng từ nghĩa thông thường đến nghĩa thuật ngữ chính là quá trình biến đổi nghĩa từ vựng của từ thông thường theo hướng từ nghĩa biểu thị thuộc tầng nghĩa thực tiễn chuyển thành nghĩa biểu niệm khái niệm khoa học thuộc tầng nghĩa trí tuệ [46, tr.1-9].
  • 53. 43 Trong quá trình thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường, nghĩa của thuật ngữ được biến đổi theo hướng chuyên biệt hóa để chỉ một khái niệm thuộc một chuyên ngành nào đó mà vẫn đảm bảo giữ nguyên hình thức biểu hiện. Ví dụ: cabbage có nghĩa thông thường chỉ một loại rau – một loại thực phẩm dùng để ăn [55], nhưng khi được thuật ngữ hóa và trở thành thuật ngữ dầu khí thì nó được sử dụng để chỉ một loại ổ trục ren thanh truyền của một thiết bị [54], elephant có nghĩa thông thường chỉ tên một loài động vật, nhưng khi được thuật ngữ hóa và trở thành thuật ngữ dầu khí thì nó được dùng để chỉ một loại mỏ (dầu/ khí) khổng lồ, fish có nghĩa thông thường là cá – một loại thực phẩm dùng để ăn [54], nhưng khi được thuật ngữ hóa và trở thành thuật ngữ dầu khí thì nó được dùng để chỉ một loại dụng cụ có thể là ống, dây cáp, hay các bộ phận khác bị rơi xuống đáy giếng. Trong tiếng Việt, quả táo có nghĩa là một loại hoa quả dùng để ăn, trong thuật ngữ dầu khí nó chỉ một loại vật nhỏ rơi trên sàn khoan trong quá trình thực hiện các thao tác khoan; nữ trang có nghĩa là phụ kiện như vòng, lắc tay, hoa tai dành cho phụ nữ nhưng trong thuật ngữ dầu khí nó là phụ tùng ống chống. Như vậy, bằng con đường thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường, đã có rất nhiều các từ ngữ trong đời sống hàng ngày tham gia cấu tạo nên các thuật ngữ khoa học dễ dùng, dễ nhớ và đảm bảo tính dân tộc, đồng thời góp phần làm giàu thêm vốn từ vựng tiếng Việt. b) Tiếp nhận từ thuật ngữ nước ngoài. Theo cách hiểu thông thường thì vay mượn là hình thức chuyển thuật ngữ nước ngoài vào tiếng Việt [dẫn theo 10, tr.39]. Trong quá trình phát triển và làm phong phú thêm vốn thuật ngữ tiếng Việt, việc vay mượn từ thuật ngữ nước ngoài là không thể tránh khỏi. Các thuật ngữ này, có ưu điểm là đảm bảo tính quốc tế về mặt hình thái và ngữ nghĩa. Thực tế, thuật ngữ nước ngoài được tiếp nhận vào tiếng Việt dựa trên ba hình thức là sao phỏng, phiên âm và giữ nguyên dạng. Có nhiều luồng quan điểm khác nhau liên quan đến vấn đề
  • 54. 44 này, một số nhà nghiên cứu thì cho rằng khi tiếp nhận các thuật ngữ nước ngoài vào tiếng Việt thì không nên giữ nguyên dạng mà cần Việt hóa bằng hình thức sao phỏng hoặc phiên âm. Một số khác thì cho rằng việc đảm bảo tính quốc tế của thuật ngữ là cần thiết đồng thời cũng tránh những rắc rối về hiện tượng đồng nghĩa, vì vậy việc tiếp nhận các thuật ngữ từ bên ngoài nên được giữ nguyên dạng. 2.1.4. Đơn vị cấu tạo nên thuật ngữ dầu khí trong tiếng Anh và tiếng Việt Cho đến nay, quan điểm của các nhà nghiên cứu về các đơn vị trong cấu tạo của mỗi thuật ngữ và vấn đề gọi tên đơn vị cấu tạo thuật ngữ vẫn chưa được thống nhất. Theo Hà Quang Năng, “Đơn vị cơ sở để cấu tạo thuật ngữ trong tiếng Việt là ngữ tố. Đó là đơn vị giới hạn cuối cùng khi phân tích thành tố trực tiếp trong tiếng Việt. (...) về mặt hình thức cấu tạo, có thể phân ra thành thuật ngữ có hình thức cấu tạo là từ (chỉ gồm một ngữ tố) và thuật ngữ có hình thức cấu tạo là ngữ định danh (là cụm từ được từ vựng hóa gồm từ hai ngữ tố trở lên)” [33, tr 140]. Nguyễn Đức Tồn cho rằng thuật tố chính là thành tố cấu tạo trực tiếp cuối cùng của một thuật ngữ. Mỗi thuật tố biểu hiện một khái niệm/đối tượng hoàn chỉnh hoặc có thể biểu hiện khái niệm bộ phận hay đặc trưng của khái niệm/đối tượng được thuật ngữ được định danh trong một lĩnh vực khoa học hay chuyên môn [51, tr 120]. Như vậy, mỗi đơn vị cấu tạo nên thuật ngữ phải có nghĩa và không phải bất kỳ một đơn vị ngôn ngữ nào cũng đều được coi là một yếu tố cấu tạo thuật ngữ. Một đơn vị cấu tạo nên thuật ngữ chỉ được coi là một yếu tố khi nó có nghĩa từ vựng và tham gia cấu tạo các thuật ngữ khác nhau trong một lĩnh vực khoa học hay chuyên môn. Một luồng ý kiến khác xuất phát từ các tác giả Hoàng Văn Hành, Lê Khả kế, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Tu hay Vũ Quang Hào, ... cho rằng đơn vị cấu tạo nên thuật ngữ là tiếng. Nếu quan niệm như vậy, mỗi tiếng cấu tạo nên thuật ngữ sẽ tương ứng với một chữ hay một âm tiết.
  • 55. 45 Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Xô Viết (điển hình là D.S. Lotte, người đã xác định đơn vị cấu tạo thuật ngữ là yếu tố thuật ngữ, sau đó được V.P. Danilenko và T.L. Kandeljaki hoàn thiện) quan niệm : “Thuật ngữ có thể là hình vị trong từ đơn, là từ (thậm chí kết hợp từ) khi thuật ngữ là từ ghép hay là từ tổ, thuật ngữ có thể gồm một hay hơn một yếu tố thuật ngữ. Mỗi yếu tố thuật ngữ tương ứng với khái niệm hay tiêu chí của khái niệm trong lĩnh vực chuyên môn nào đó.” [dẫn theo 33, tr.20-21]. Trong tiếng Anh, đơn vị cấu tạo nên từ là hình vị. Hình vị được chia làm hai loại là hình vị tự do và hình vị phụ thuộc. Hình vị tự do là những từ đơn, có thể đứng một mình và có chức năng ngữ pháp trong khi hình vị phụ thuộc là những hình vị không thể đứng một mình, nghĩa của chúng chỉ rõ ràng khi được kết hợp với các hình vị tự do. Như vậy, các thành tố cấu tạo nên thuật ngữ trong tiếng Anh có thể là hình vị độc lập trong từ đơn, là từ ghép hoặc có thể là cụm từ. Mỗi yếu tố biểu thị một khái niệm hoặc một đối tượng hoàn chỉnh hay bộ phận đặc trưng của khái niệm thuộc một lĩnh vực chuyên môn nhất định. Ví dụ khi xét thuật ngữ bộ lọc, cần khoan, dầu tách có cấu tạo là từ, yếu tố cấu tạo là thuật ngữ là các hình vị bộ, lọc, cần, khoan, dầu, tách. Thuật ngữ dung lượng khí thực tế, dịch vụ công cụ khách hàng, dịch vụ cung cấp khí có cấu tạo là cụm từ và yếu tố cậu tạo thuật ngữ là từ dung lượng, khí, thực tế, dịch vụ, công cụ, khách hàng, dịch vụ, cung cấp, khí. Thuật ngữ driller (thợ khoan), booster (máy tăng áp), bonding (sự kiên kết) có cấu tạo là từ phái sinh và được tạo thành từ hai hình vị drill/er, boost/er, bond/ing nhưng vẫn được xem là thuật ngữ có cấu tạo một yếu tố, vì các hình vị “er”, “ing” không thể đứng độc lập một mình và mang ý nghĩa từ vựng hoàn chỉnh. Thuật ngữ fairsafe (bộ an toàn tự động), fairway (đường dẫn), fold-back (cáp gập) có cấu tạo là từ ghép, gồm hai hình vị là fair/safe, fair/way, fold/back, những hình vị này có thể đứng độc lập và mang ý nghĩa từ vựng. Thuật ngữ main shaft (trục
  • 56. 46 truyền chính), maximum production rate (mức khai thác cực đại), oil prospecting licience (giấy phép thăm dò dầu) là những thuật ngữ có cấu tạo là các cụm từ và các yếu tố cấu tạo là từ bao gồm main/ shaft, maximum/ production/ rate, oil/prospecting/licience. Dựa vào những đặc điểm của thuật ngữ có cấu tạo không đồng nhất, có thể là từ hoặc là cụm từ cùng với những phân tích trên, trong luận án này, chúng tôi đồng quan điểm với các nhà ngôn ngữ học Xô Viết gọi đơn vị cấu tạo nên thuật ngữ dầu khí là thành tố thuật ngữ (gọi tắt là thành tố) và nhất trí với quan điểm cho rằng thành tố thuật ngữ dầu khí là hình vị trong thuật ngữ có hình thức cấu tạo là từ; là từ hoặc cụm từ trong thuật ngữ có hình thức cấu tạo là cụm từ (ngữ). Thành tố thuật ngữ dầu khí là đơn vị cấu tạo trực tiếp cuối cùng của thuật ngữ dầu khí, có chức năng biểu thị một khái niệm hay tiêu chí của khái niệm trong lĩnh vực dầu khí. Với chức năng như vậy, mỗi thành tố tham gia cấu tạo nên TNDK phải có ý nghĩa từ vựng tức là có thể biểu hiện khái niệm loại, khái niệm bộ phận hoặc đặc trưng của khái niệm. Các hư từ và các quan hệ từ như giới từ và liên từ không được coi là thành tố thuật ngữ, vì không có nghĩa từ vựng, không biểu hiện khái niệm hoặc thuộc tính của khái niệm. 2.1.5. Thuật ngữ với lí thuyết định danh 2.1.5.1. Khái niệm về định danh Trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào của con người thường có những tên gọi. Tên gọi có ở khắp mọi nơi xung quanh con người. Quá trình gọi tên phổ biến rộng rãi trong lĩnh vực hoạt động khoa học của con người. Phát minh mới, khoa học hay lĩnh vực kiến thức mới được tạo ra đòi hỏi tên gọi và đặt tên mới. Quá trình đặt tên hoặc quá trình định danh là một phần tự nhiên và không thể tách rời quá trình nhận thức: sau khi khám phá bất kỳ một cái gì mới, con người luôn luôn phải nghĩ ra một tên gọi thích hợp.
  • 57. 47 Trong lĩnh vực khoa học-kỹ thuật đơn vị từ vựng cơ bản là thuật ngữ. Về bản chất, thuật ngữ cũng là tên gọi. Thuật ngữ gọi tên một sự vật hay một hiện tượng nhất định trong lĩnh vực nào đó của kiến thức khoa học. Thuật ngữ là một đơn vị từ vựng đặc biệt, khác với các đơn vị khác ở chỗ nó có khả năng biểu thị khái niệm nghề nghiệp-chuyên ngành, khoa học hay kỹ thuật. Chính sự tương quan của thuật ngữ với một lĩnh vực kiến thức nhất định cho phép coi thuật ngữ là đơn vị từ vựng đặc biệt dùng biểu thị những sự vật và hiện tượng đồng nhất, trong các ngôn ngữ khác nhau lại có các hình thức biểu thị hoàn toàn khác nhau. Điều này có thể là do nhiều nguyên nhân, ví dụ do các phương thức tiếp nhận hiện thực xung quanh bởi những người của các nền văn hoá khác nhau. Điều đó có nghĩa là trong các ngôn ngữ khác nhau cùng một sự vật hiện tượng có thể có các tên gọi khác nhau, được chọn lựa trên cơ sở những dấu hiệu định danh thuật ngữ không đồng nhất. Theo L. Phoi-ơ-bắc thì định danh là cách đặt tên gọi cho sư vật, hiện tượng giúp cho quá trình giao tiếp, phân biệt vật này với vật khác của chúng ta thực hiện được dễ dàng. Định danh (nomination), theo G.V. Kolshansky, là gắn cho một ký hiệu ngôn ngữ một khái niệm - biểu hiện phản ánh đặc trưng nhất định của một biểu vật – các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ của các đối tượng và quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn ngữ [Dẫn theo 46, tr.1-9]. Rõ ràng khi định danh một sự vật, hiện tượng chúng ta phải tìm ra những đặc trưng tiêu biểu, những đặc trưng đó phải có tính chất khu biệt nhằm phân biệt giữa vật này với vật khác, hiện tượng này với hiện tượng khác hay quá trình này với quá trình khác… Đây cũng chính là chức năng quan trọng của định danh, tức là định danh thực hiện chức năng làm ký hiệu cho sự vật, hiện tượng được gọi tên.
  • 58. 48 Chung quan điểm về định danh, Nguyễn Đức Tồn cho rằng “cần thiết phải tiến hành quy loại khái niệm và chọn ra đặc trưng khu biệt” [46, tr.1-9]. Tác giả cũng chỉ ra việc lựa chọn những đặc trưng làm cơ sở định danh phải gắn liền với hai loại đối tượng là đối tượng cần định danh thuộc phạm vi đời sống hàng ngày và đối tượng cần định danh thuộc một phạm vi khoa học hay một ngành, một chuyên môn nhất định. Xét theo tiêu chuẩn thuật ngữ, đối tượng thứ hai được áp dụng cho việc định danh thuật ngữ khoa học và đây cũng là quan điểm được đông đảo các nhà khoa học tán thành [46]. 2.1.5.2. Quá trình định danh và đơn vị định danh “Trong ngôn ngữ tự nhiên, quá trình gọi tên tất yếu gắn với quá trình phân loại. Nếu như cần phải biểu thị một đối tượng nào đó mà trong ngôn ngữ chưa có tên gọi thì trên cơ sở các đặc trưng đã được tách ra từ đối tượng này, nó được quy vào khái niệm A hoặc B mà trong ngôn ngữ đã có cách biểu thị riêng cho chúng và nhận tên gọi tương ứng. Nhưng đồng thời cũng diễn ra sự lắp ráp bản thân các từ vào hiện thực: khi thì người ta bỏ đi cái gì đó khỏi sự hiểu biết ban đầu, khi thì, ngược lại, bổ sung thêm cái gì đó vào sự hiểu biết đầu tiên ấy” [dẫn theo 46, tr.1-9] Đây chính là hành vi phân loại, theo như V.G. Gak, một đặc trưng cơ bản và quan trọng nhất trong quá trình định danh [97]. Chẳng hạn, để gọi tên một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng, sánh đặc màu nâu hoặc ngà lục, nhẹ, dễ cháy và không tan trong nước, dựa vào các đặc điểm đó người ta quy vào khái niệm đã có tên gọi trong ngôn ngữ là “Dầu”. Trong quá trình khai thác, người ta đã phát hiện ra rất nhiều mỏ dầu khác nhau, chúng phân bổ ở những nơi rất khác nhau về đặc điểm địa lý tự nhiên. Bởi vậy, mỗi loại dầu thô ở mỗi mỏ đều có sự khác biệt nhất định. Dựa vào các đặc điểm đó, cùng với những tiêu chí khác, thông thường là tỷ trọng và độ nhớt để phân chia các loại dầu và gọi tên chính xác các loại dầu đó: dầu
  • 59. 49 than (coal oil), dầu sạch (clean oil), dầu hiệu chỉnh (corrected oil), dầu khô (dry oil), dầu nổ (blasting oil), dầu đen (black oil), dầu xấu (bad oil) … Việc quy loại và lựa chọn đặc trưng có ý nghĩa khu biệt có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình định danh sự vật hiện tượng để tìm ra tên gọi đúng với bản chất của sự việc, hiện tượng đó. Liên quan đến tên gọi, Nguyễn Đức Tồn cho rằng, căn cứ vào chủ thể định danh và đối tượng định danh – hai tham tố trực tiếp tham gia vào quá trình định danh – có lý do chủ quan và có lý do khách quan. Trong đó lí do chủ quan phụ thuộc vào chủ thể định danh, lí do khách quan phụ thuộc vào đối tượng định danh. Lí do khách quan được hiểu là một đặc trưng nào đó của sự vật có ý nghĩa khu biệt với sự vật khác. Loại lí do này khoa nhận biết hơn vì chỉ có chủ định danh mới giải thích cặn kẽ được nguyên do vì sao sự vật, hiện tượng hay quá trình này lại được gọi tên như vậy [46]. Theo Lê Quang Thiêm, xét trên bình diện ngôn ngữ học, định danh được chia thành đơn vị đinh danh gốc và đơn vị định danh phái sinh, trong đó định danh gốc được tạo ra bởi những đơn vị tối giản về mặt hình thái cấu trúc, mang nghĩa đen được dùng làm cơ sở để tạo ra các đơn vị định danh khác [41] Nhóm thuật ngữ gồm đơn vị định danh gốc có một số thành tố cấu tạo với chức năng gọi tên các sự vật, hiện tượng, quá trình và mang tính chất cơ bản của một chuyên ngành cụ thể. Ví dụ: dầu (oil), khoan (drill), khí (air), giếng dầu (well), bình thép (bomb )…là những đơn vị định danh gốc trong hệ thống TNDK tiếng Anh. Định danh phái sinh là những đơn vị định danh có cấu trúc hình thái phức tạp với hai thành tố cấu tạo trở lên, trong đó có thành tố chính và thành tố phụ với chức năng gọi tên hiện tượng, sự vật, quá trình hay tính chất cụ thể của một chuyên ngành cụ thể. Ví dụ: ball valve (van cầu), observation well (giếng quan sát), oild field (mỏ dầu), oil window (cửa sổ dầu), oil zone (đới dầu) …
  • 60. 50 2.1.6. Phân biệt thuật ngữ và một số khái niệm liên quan 2.1.6.1. Thuật ngữ và danh pháp Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ cố định là tên gọi chính xác của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của con người [53, tr.270]. G.O. Vinokur - nhà nghiên cứu về ngôn ngữ đầu tiên đã chỉ ra chỉ khác biệt giữa thuật ngữ và danh pháp, tác giả cho rằng “danh pháp chỉ là một hệ thống các phù hiệu hoàn toàn trừu tượng và ước lệ, mà mục đích duy nhất là ở chỗ cấp cho ta cái phương tiện thuận lợi nhất về mặt thực tiễn để gọi tên các đồ vật, các đối tượng không quan hệ trực tiếp với những đòi hỏi của tư duy lí luận hoạt động với những sự vật này” [93, tr.8]. Tiếp thu quan điểm của G.O. Vinokur, A.A. Reformatsky cũng đưa ra quan điểm của mình khi cho rằng “Hệ thuật ngữ trước hết phải gắn với một hệ thống khái niệm của một khoa học cụ thể, còn danh pháp chỉ “dán nhãn” cho đối tượng của nó và danh pháp không có quan hệ trực tiếp với khái niệm khoa học” [Dẫn theo 93, tr.51]. Như vậy, danh pháp, theo chúng tôi, chỉ là cách gọi tên các sự vật cá thể riêng biệt trong một loạt sự vật thuộc một ngành khoa học hay chuyên môn mà thôi. Chẳng hạn, trong lĩnh vực dầu khí, các từ như Dầu, giếng là những thuật ngữ chỉ một loại sự vật, còn tên gọi của những loại dầu hay giếng cụ thể như: Dầu Bạch Hổ (Dầu ở mỏ Bạch Hổ), giếng 1, giếng 2, giếng 3 (tên những giếng cụ thể trong vùng khai thác) …là danh pháp. 2.1.6.2. Thuật ngữ và từ nghề nghiệp Bên cạnh việc phân biệt thuật ngữ và danh pháp, chúng tôi thấy cần thiết có sự phân biệt giữa thuật ngữ với các từ phi thuật ngữ, mà cụ thể là các từ chỉ nghề nghiệp. Trong khi thuật ngữ được hiểu là nội dung của khái niệm khoa học, hình thức ngôn ngữ là tên gọi của một khái niệm khoa học, toàn bộ khái niệm trong một lĩnh vực khoa học và là toàn bộ tên gọi của một khoa
  • 61. 51 học, chẳng hạn như: giỏ trám xi măng, bơm trám xi măng, nút trám xi măng, đầu trám xi măng đều thuộc về ngành khoan. Từ nghề nghiệp là những đơn vị từ vựng có nội dung chuyên môn thông thường, có nhiệm vụ xác định tên những nguyên vật liệu, những công cụ sản xuất, những quy trình, công đoạn làm việc hay những sản phẩm nghề nghiệp, ví dụ như: nhài, nan, bìa, … (trong nghề làm quạt), xương, da … (trong nghề gốm). Thuật ngữ được xem là những từ có tính đơn nghĩa, không có từ đồng nghĩa và đặc biệt không có sắc thái tình cảm. Không giống như vậy, từ nghề nghiệp đôi khi dùng để trao đổi miệng về chuyên môn, có tính gợi cảm, gợi hình và vui đùa, ví dụ như: phó nháy thay cho thợ ảnh, hay sếp thay cho giám đốc, trưởng phòng (những người có vị trí tại nơi làm việc). Một mặt nào đó, từ chỉ nghề nghiệp là những từ có phạm vi sử dụng trong khu vực chuyên môn của một nhóm, nhất là với những ngành nghề phổ biến thì việc sử dụng nó càng trở nên rộng rãi và ngược lại. Về điểm này, thuật ngữ khác hoàn toàn vì thuật ngữ có tính đại chúng và không thể tách rời người sử dụng. Khoa học kỹ thuật phải thực sư xâm nhập vào đời sống xã hội, muốn vậy thuật ngữ không thể là lớp từ xa lạ với quần chúng. 2.2. Cơ sở lí luận về ngôn ngữ học đối chiếu Ngôn ngữ học đối chiếu hay còn gọi là phân tích đối chiếu, miêu tả, so sánh đối chiếu từng phạm trù tương ứng giữa hai ngôn ngữ thông thường là tiếng mẹ đẻ (còn gọi là tiếng gốc) và ngoại ngữ (còn gọi là ngôn ngữ đích) nhằm mục đích sư phạm hoặc dịch thuật [42]. Theo từ điển tiếng Việt (1994) do Hoàng Phê chủ biên thì thuật ngữ đối chiếu được định nghĩa là so sánh cái này với cái kia (thường với cái dùng làm chuẩn) để từ những chỗ giống nhau và khác nhau mà biết được rõ hơn [35]. Là một phân ngành của ngôn ngữ học, ngôn ngữ học đối chiếu theo như Bùi Mạnh Hùng còn có tên gọi khác là phân tích đối chiếu hay nghiên
  • 62. 52 cứu đối chiếu, nghiên cứu xuyên ngôn ngữ, nghiên cứu tương phản, hay ngôn ngữ học so sánh miêu tả [17]. Tuy nhiên, trên thế giới cũng như ở Việt Nam thì tên gọi Ngôn ngữ học đối chiếu vẫn phổ biến hơn cả, được dùng để nghiên cứu so sánh hai hoặc nhiều hơn hai ngôn ngữ bất kì để xác định những điểm giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ đó, không tính đến vấn đề các ngôn ngữ có quan hệ nguồn gốc hay thuộc cùng một loại hình hay không. Dù mỗi nhà nghiên cứu ngôn ngữ đều có quan điểm của riêng mình nhưng tất cả đều có một điểm chung đó là ”ngôn ngữ học đối chiếu sử dụng để xác lập những điểm giống và khác nhau hay những tương đồng và loại biệt của phạm vi đối tượng được khảo sát” [41, tr.40-41]. Dựa trên quan điểm này, tác giả nhấn mạnh, nghiên cứu đối chiếu không nhằm giải quyết các quan hệ ngữ hệ mà chủ yếu hướng vào những tương đồng và dị biệt cấu trúc và hoạt động của ngôn ngữ. Để thực hiện đối chiếu ngôn ngữ một cách hiệu quả, cần phải dựa trên một số những nguyên tắc nhất định. 2.2.1. Những nguyên tắc chung trong đối chiếu ngôn ngữ Lê Quang Thiêm cho rằng nghiên cứu đối chiếu có quan hệ chặt chẽ về phương pháp nghiên cứu so sánh. Nghiên cứu đối chiếu chỉ là một bộ phận, một thủ pháp trong so sánh nói chung và trình bày thực tế tác giả cũng cho rằng” chúng ta có cơ sở để phân biệt phương pháp so sánh – lịch sử như là một phương pháp cơ bản và đối chiếu là một loại cơ bản khác [41, tr. 41]. Mặc dù có kế thừa và sử dụng nhiều yếu tố, thủ pháp của nghiên cứu miêu tả và so sánh lịch sử, phương pháp ngôn ngữ học đối chiếu có một hệ thống nguyên tắc, thủ pháp riêng – đây chính là lợi thế và triển vọng của ngôn ngữ học đối chiếu [42]. Dựa trên cơ sở các nghiên cứu trước đó và thực tiễn, Bùi Mạnh Hùng đã đưa ra 05 quy tắc cần thiết phải tuân thủ trong đối chiếu ngôn ngữ [17, tr. 131-146].
  • 63. 53 Nguyên tắc 1: Bảo đảm các phương tiện trong hai ngôn ngữ đối chiếu phải được miêu tả một cách đầy đủ, chính xác và sâu sắc trước khi tiến hành đối chiếu để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng. Miêu tả trước rồi mới đến đối chiếu là một trong những nguyên tắc có tính chất phương pháp luận của việc phân tích đối chiếu theo quan điểm truyền thống. Đây được xem như một bước chuẩn bị nhưng rất quan trọng của quá trình đối chiếu vì nó cung cấp đầu vào cho sự đối chiếu và kết quả nghiên cứu đối chiếu phụ thuộc vào đầu vào này. “Những cái gì thuộc về khái niệm hay chất liệu âm thanh trong dấu hiệu không quan trọng bằng những cái gì tồn tại xung quanh nó, trong các dấu hiệu khác”; “Trong bản chất của nó, cái biểu hiện không hề có tính chất âm thanh, nó vốn là phi thể chất; nó được cấu tạo không phải do chất liệu vật chất của nó, mà hoàn toàn là do những sự phân biệt giữa hình ảnh âm thanh của nó với tất cả những hình ảnh âm thanh khác”; “Trong ngôn ngữ chỉ có sự phân biệt mà thôi” là những cơ sở có tính hệ thống chặt chẽ trong giáo trình ngôn ngữ học đại cương của F. de Saussure dựa trên nguyên tắc nghiên cứu đối chiếu không thể chỉ chú ý đến các phương tiện ngôn ngữ một cách tách biệt mà phải đặt trong hệ thống, đây chính là nguyên tắc thứ 2 trong số 5 nguyên tắc của đối chiếu [38, tr.155]. Nguyên tắc 3: Khi nghiên cứu so sánh đối chiếu, phải xem xét các phương tiện đối chiếu trong hệ thống ngôn ngữ và trong hoạt động giao tiếp. Nguyên tắc này gắn với việc giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói trong nghiên cứu ngôn ngữ học nói chung. Sự tuyệt đối hoá ranh giới giữa hai phạm trù này xuất phát từ F. de Saussure khi ông cho rằng “đối tượng duy nhất và chân thực của ngôn ngữ học là ngôn ngữ, xét trong bản thân nó và vì nó” [38]. Theo Bùi Mạnh Hùng thì nguyên tắc thứ 3 đã trở thành kim chỉ nam và là một trong những nguyên lí cơ bản chi phối ngôn ngữ học cấu trúc trong gần suốt thế kỉ XX [17].
  • 64. 54 Nguyên tắc 4: Đây là nguyên tắc đòi hỏi phải đảm bảo tính nhất quán trong việc vận dụng các khái niệm và mô hình lí thuyết để miêu tả các ngôn ngữ được đối chiếu. Để thực hiện nghiên cứu đối chiếu, bắt buộc phải theo một trình tự bởi vì không có một sự đối chiếu nào có thể thực hiện mà trước đó không miêu tả các ngôn ngữ được đối chiếu (nguyên tắc 1). Thành công của việc đối chiếu không chỉ tùy thuộc vào các khái niệm và lí thuyết mà chúng ta lựa chọn để miêu tả mà còn được quyết định bởi tính nhất quán của việc vận dụng các khái niệm và lí thuyết đó. “Bất kì sự khác biệt nào giữa các kết quả miêu tả đều sẽ không phải do những khác biệt trong các phương pháp được sử dụng, mà là do những khác biệt trong cách các dữ liệu ngôn ngữ đáp ứng những phương pháp xử lí đồng nhất” [73, tr. 259-270]. Vì lẽ đó, nguyên tắc này đòi hỏi các nhà nghiên cứu không chỉ sử dụng những khái niệm phù hợp với cả hai ngôn ngữ được đối chiếu mà còn phải sử dụng chung một mô hình để miêu tả các phương tiện của hai ngôn ngữ. Cách tiếp cận cấu trúc xuất phát từ những nguyên lí nền tảng của phân bố luận, coi mỗi ngôn ngữ được phân tích và miêu tả trong phạm vi những phạm trù riêng của chính nó. Những nguyên lí này do L. Bloomfield [64] xây dựng sau đó được Z. Harris phát triển [73]. Những công trình nghiên cứu đối chiếu ở Mĩ giai đoạn đầu, khoảng thời gian sau khi cuốn sách của R. Lado được công bố, chủ yếu áp dụng mô hình lí thuyết này. Nguyên tắc 5: Khi đối chiếu hai ngôn ngữ với nhau, phải chú ý đến đặc trưng loại hình giữa các ngôn ngữ cần đối chiếu để có cách tiếp cận phù hợp. Rõ ràng khi nghiên cứu đối chiếu, các loại hình ngôn ngữ này có gần gũi không và có thể lựa chọn được cách tiếp cận thích hợp không là những yếu tố cần thiết phải tính đến. Bên cạnh đó, còn các yếu tố khác tác động như bối cảnh lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ
  • 65. 55 đó. Lường trước được như vậy, người nghiên cứu mới có thể giải thích một cách sâu sắc những tương đồng và khác biệt của các ngôn ngữ được đối chiếu. Ngôn ngữ học là một ngành khoa học thực nghiệm. Sức mạnh của một lí thuyết ngôn ngữ học được đo bằng hiệu quả giải thích cứ liệu ngôn ngữ thực tiễn. Sự lựa chọn một lí thuyết ngôn ngữ học có khả năng miêu tả thích hợp cả hai ngôn ngữ là một yêu cầu khó khăn hơn rất nhiều so với khi miêu tả một ngôn ngữ riêng lẻ. Như vậy, đối với việc nghiên cứu đối chiếu, sau khi đã xác định được các nguyên tắc và phạm vi đối chiếu thì công tác đối chiếu phải được thực hiện từng bước một cách cụ thể. Dựa trên những nguyên tắc đối chiếu và có điều chỉnh cho phù hợp với mục đích của luận án, chúng tôi thực hiện ba bước trong đối chiếu đó là miêu tả, xác định những đối tượng có thể đối chiếu và đối chiếu. Thứ tự các bước có thể được thay đổi theo bình diện nội dung cần đối chiếu. 2.3. Tiểu kết Để có cơ sở lí thuyết vững chắc phục vụ cho mục đích nghiên cứu về đặc điểm cấu tạo cũng như định danh của thuật ngữ dầu khí, luận án đã tập trung trình bày về khái niệm thuật ngữ, làm rõ sự khác biệt giữa thuật ngữ và danh pháp. Trong khi thuật ngữ là những từ ngữ biểu hiện khái niệm hoặc đối tượng thì danh pháp là tên gọi cụ thể cho các đối tượng, được sử dụng cho một lĩnh vực khoa học hoặc chuyên môn. Nhắc đến thuật ngữ không thể không nhắc đến những đặc điểm của nó, ngoài những đặc tính rất phổ biến mà các nhà nghiên cứu thường nhắc đến như tính dân tộc, tính quốc tế, tính chính xác và tính ngắn gọn. Thuật ngữ còn được biết đến không phải là một yếu tố không khu biệt hay không căn bản mà gồm các từ, cụm từ có trọng âm và có tính tương quan cao với các từ ngữ trong lĩnh vực để cùng tạo ra hệ thống, tập tục quy ước. Thêm vào đó thuật ngữ còn có tính hài hòa hóa và cuối cùng là tính không biểu cảm và độc lập với văn cảnh. Với đặc thù
  • 66. 56 riêng, thuật ngữ dầu khí, theo xác định của luận án, có ba tiêu chuẩn cần và đủ bao gồm: Tiêu chuẩn về tính khoa học, tiêu chuẩn về tính quốc tế và tiêu chuẩn về tính dân tộc. Bên cạnh đó, luận án cũng đưa ra khái niệm định danh, quá trình và đơn vị định danh. Ngoài ra, một số cơ sở lý thuyết về các nguyên tắc đối chiếu của ngôn ngữ học đối chiếu sẽ áp dụng trong luận án để đối chiếu, so sánh, nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt của thuật ngữ giữa hai ngôn ngữ cũng được trình bày khá cụ thể.
  • 67. 57 Chương 3 ĐỐI CHIẾU PHƯƠNG THỨC VÀ ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THUẬT NGỮ DẦU KHÍ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT 3.1. Dẫn nhập Thuật ngữ nói chung được cấu tạo là một từ, từ đó có thể là từ đơn hoặc từ ghép, cũng có thể được cấu tạo là một cụm từ. Để có được phương thức cấu tạo thuật ngữ mới hoặc chuẩn hóa thuật ngữ thì việc khảo sát mô hình cấu tạo các thuật ngữ, đặc biệt đối với các thuật ngữ có cấu tạo cụm từ là hết sức cần thiết. Việc làm này sẽ giúp chúng ta tìm được những mô hình phổ biến, có sức sản sinh cao để mô phỏng hay dựa trên đó để xây dựng những thuật ngữ mới và cũng là cơ sở để chuẩn hóa thuật ngữ. Vì vậy, trong chương này, chúng tôi tiến hành phân tích, khảo sát các yếu tố tạo nên thuật ngữ, đặc điểm của những yếu tố đó, sự kết hợp của các yếu tố như thế nào, theo mô hình nào để tạo nên thuật ngữ nói chung và TNDK nói riêng. Để tiến hành phân tích đặc điểm các yếu tố cấu tạo nên thuật ngữ, luận án trình bày khái quát lý thuyết về cấu tạo từ trong tiếng Anh và tiếng Việt, là cơ sở cho việc phân tích và giải thích các đặc điểm cấu tạo của hệ TNDK tiếng Anh và tiếng Việt. 3.2. Phương thức cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Anh và tiếng Việt 3.2.1. Phương thức cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Anh 3.2.1.1. Đơn vị cấu tạo từ trong tiếng Anh a. Hình vị Khái niệm về hình vị Trong ngôn ngữ tiếng Anh, hình vị được xem là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ, có chức năng ngữ pháp và tham gia vào cấu tạo từ, ví dụ của Plag trong cuốn word- information in English [82, tr.10].
  • 68. 58 (1) (2) (3) employee apartment building chair inventor greenhouse book decolonization team manager girl meaningless truck driver brow suddenness black board great unhappy son-in-law miss Trong bảng ví dụ trên, dễ dàng nhận thấy các từ ở cột (1) và cột (2) được cấu tạo bằng cách kết hợp với các thành tố nhỏ hơn để tạo thành những từ lớn hơn và mang nghĩa rộng hơn. Chẳng hạn, từ employee được cấu tạo bằng cách kết hợp giữa động từ employ và phần đuôi –ee, hay từ unhappy được cấu tạo bằng cách kết hợp giữa tính từ happy với yếu tố un-, và từ decolonization được cấu tạo bằng sự kết hợp của những thành phần nhỏ nhất như de-, colony, -ize, và đuôi –ation. Từ những từ có cấu tạo phức tạp như thế có thể tách ra thành những đơn vị nhỏ nhất, các đơn vị này được gọi là hình vị. Không giống như cột (1) và (2), các từ trong cột (3) không thể chia thành những đơn vị có nghĩa nhỏ hơn bởi các từ này chỉ gồm một hình vị và chúng được gọi là hình vị độc lập. b. Phân loại hình vị Tiếng Anh có hai loại hình vị là hình vị tự do (free morpheme) hay còn gọi là hình vị không phụ thuộc (independent morpheme) và hình vị phụ thuộc (bound /dependent morpheme) [82, tr.10]. Hình vị tự do (free morpheme): có khả năng hoạt động độc lập với tư cách là một đơn vị từ vựng hay kết hợp với nhiều hình vị khác (nhưng nghĩa từ vựng không thay đổi) có nghĩa và mang chức năng ngữ pháp [85, tr.10].
  • 69. 59 TNDK có thể được cấu tạo từ một hình vị tự do như vậy, tức là nó là thuật ngữ gồm một yếu tố cấu tạo, ví dụ: oil (dầu), air (khí), price (giá), … Tuy nhiên, trong TNDK tiếng Anh thì thuật ngữ được cấu tạo từ một yếu tố là không nhiều, chủ yếu là các thuật ngữ phức, tức là thuật ngữ được cấu tạo từ hai yếu tố trở lên, ví dụ: clean oil (dầu sạch), coal oil (dầu than), break oil (dầu tách), air drilling (khoan khí nén), air hoist (tời khí nén), air injection (bơm phun không khí), base price (giá gốc), beach price (giá dầu xử lý ở biển), … Hình vị tự do được chia làm hai loại là hình vị ngữ pháp và hình vị từ vựng. Hình vị ngữ pháp: là những hình vị có chức năng thể hiện mối quan hệ ngữ pháp trong câu, thường là các giới từ, liên từ, quán từ …. Hình vị từ vựng là những hình vị mang ý nghĩa nội dung, chỉ sự vật, trạng thái, hành động, và thường là danh từ, tính từ, động từ… Hình vị phụ thuộc (bound morpheme): Là những hình vị không thể đứng một mình, nghĩa của chúng chỉ rõ ràng khi được kết hợp với các hình vị tự do. Trong tiếng Anh, hình vị phụ thuộc gồm hai loại: Hình vị phụ thuộc là phụ tố và hình vị phụ thuộc là biến tố. Phụ tố: Bao gồm tiền tố (preffix) như: re-, de-, anti-,… Ví dụ: resolution (độ phân giải), rework (gia công lại), resurvey (đo đạc lại), desalting (khử muối), desand (khử cát), antiform (dạng đối lập), … Và hậu tố (suffix) như: -or, -er: driller (người khoan), absorber (bộ hấp thụ), blender (thiết bị trộn), compressor (máy nén), assignor (bên chuyển nhượng), … Biến tố: là những yếu tố dùng trong hệ thống giống, số …. và mang chức ngữ pháp, chẳng hạn như: -ed, -ing, … Ví dụ: corrected oil (dầu hiệu chỉnh), balanced drilling (khoan cân bằng), exhausted well (giếng khoan kiệt), blasting oil (dầu nổ), aliasing (tạo hình giả), earning well (giếng có lãi), engineering technican (nhân viên kỹ thuật), …
  • 70. 60 Hình vị biến tố ở đây khác với hình vị phụ tố ở trên, trong khi hình vị phụ tố kết hợp với một hình vị tự do để tạo ra từ mới, còn gọi là từ phái sinh và đôi khi làm cho từ chuyển loại, ví dụ: danh từ absorber được tạo ra bởi sự kết hợp của động từ absorb – là một hình vị tự do và một hình vị phụ tố -or thì hình vị biến tố với sự biến đổi về hình thái của từ để diễn đạt các quan hệ ngữ pháp, ý nghĩa trong câu và thường đứng cuối từ, ví dụ: cùng âm tiết cuối là –er, nhưng trong từ blender thì –er với vai trò là một hình vị phụ tố, còn trong từ colder thì –er lại là hình vị biến tố. Với vai trò như vậy, nên từ có hình vị biến tố không được xét với tư cách là từ riêng biệt và cũng không được liệt kê trong từ điển. Sự khác biệt này là điều này rất quan trọng với chúng tôi khi nghiên cứu về cấu tạo thuật ngữ dầu khí tiếng Anh. 3.2.1.2. Phương thức cấu tạo TNDK tiếng Anh Là một ngôn ngữ biến hình, ngoài các từ vựng trong hệ TNDK tiếng Anh được cấu tạo là những từ đơn hay còn gọi là từ gốc, các thuật ngữ còn được tạo ra bằng nhiều phương thức khác nhau, đó là: phương thức tạo từ phái sinh bao gồm phương thức thêm phụ tố (affixation) và phương thức tạo từ phái sinh không dùng phụ tố (derivation without affixation), và phương thức ghép (compound), ... [84]. a. TNDK tiếng Anh có cấu tạo là từ đơn TNDK tiếng Anh là từ đơn hay còn gọi là từ gốc (root words) được tạo thành từ hình vị độc lập (free morpheme), và có thể hoạt động một cách độc lập trong lời nói. Về mặt nhữ âm TNDK tiếng Anh có cấu tạo là từ được chia làm hai loại: từ đơn tiết như oil (dầu), drill (khoan), axis (trục), v.v…; từ đa tiết như liquid (chất lỏng), petrol (xăng), derrick (tháp khoan), v.v… b. TNDK tiếng Anh có cấu tạo là từ phái sinh - Từ phái sinh thêm phụ tố