SlideShare a Scribd company logo
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
™™™
THÁI THỊ LOAN
BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON
CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
HÀ NỘI - 2013
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
™™™
THÁI THỊ LOAN
BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON
CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 01 14
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐINH VĂN HỌC
HÀ NỘI - 2013
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ
VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 13
1.1 Các khái niệm cơ bản 13
1.2 Thực trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, hệ lụy và nguyên nhân 25
Chương 2 NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, DỰ BÁO TÌNH
TRẠNG BỎ VIỆC, CÁC BIỆN PHÁP CƠ BẢN
NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ
VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
52
2.1 Những yếu tố tác động và dự báo tình trạng bỏ việc của
giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh
52
2.2 Các biện pháp cơ bản ngăn ngừa và khắc phục tình
trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại
Thành phố Hồ Chí Minh 57
2.3 Khảo nghiệm sự cần thiết, tính khả thi của các biện pháp 82
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
PHỤ LỤC 96
1. Lý do chọn đề tài
Phát biểu tại lớp học chính trị của các giáo viên vào ngày 13/9/1958
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “… Chúng ta phải đào tạo ra những công dân
tốt và những cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân dân, Đảng, Chính phủ giao các
nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cô, các chú. Đó là một trách nhiệm
nặng nề, nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người phải cố gắng làm tròn nhiệm
vụ…” [18, tr.168]. Từ những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá
trình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo, Đảng ta luôn đề cao vai trò của đội
ngũ giáo viên. Vì thế Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã khẳng định:
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế giáo dục, phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”. [7, tr.41]
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên có vai trò đặc biệt quan trọng
với nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng đến sáu tuổi,
đặt nền móng cho sự phát triển thể chất, trí tuệ, ngôn ngữ, tình cảm, đạo đức,
là tiền đề cho việc tiếp thu kiến thức và nhất là sự phát triển nhân cách cho trẻ
sau này. Xuất phát từ vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục mầm non, việc
xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non có đủ về số lượng, đáp ứng đủ mọi yêu
cầu về phẩm chất và năng lực là một yêu cầu cấp thiết.
Quán triệt quan điểm, chủ trương và quyết tâm phát triển sự nghiệp
giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước ta, trong những năm qua Thành phố
Hồ Chí Minh đã quan tâm, chăm lo, ưu tiên đầu tư mọi nguồn lực cho phát
triển các trường mầm non công lập, phát triển đội ngũ giáo viên mầm non
công lập và đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, trước sự
phát triển nhanh chóng về kinh tế, chính trị, xã hội tại Thành phố Hồ Chí
3
Minh, do cơ chế thị trường tác động và do nhiều nguyên nhân khác cùng với
sự bùng nổ dân số về mặt cơ học đã làm gia tăng áp lực lên giáo dục mầm
non. Số trường mầm non công lập hiện có đã không đáp ứng được nhu cầu
học tập của lứa tuổi này, đồng thời số giáo viên mầm non đang công tác trong
các trường mầm non công lập cũng không kịp gia tăng mà ngược lại còn có
nguy cơ sụt giảm vì hiện tượng bỏ việc của đội ngũ này ngày càng trở nên
trầm trọng hơn trước sự phát triển và thay đổi của xã hội.
Khi đất nước mở cửa, hội nhập kinh tế sâu rộng với quốc tế như hiện
nay đã tác động mạnh đến lực lượng giáo viên mầm non trẻ tuổi, đồng thời
tạo cho đội ngũ này nhiều cơ hội mới, nhiều lựa chọn mới để thay đổi cuộc
sống còn quá nhiều khó khăn nếu cứ bám trụ trong ngành mầm non. Những
yếu tố đầy thu hút của các ngành nghề khác đã khiến cho một số đông giáo
viên còn non trẻ này nhất quyết dứt áo sư phạm mầm non ra đi để tìm cho bản
n cũng đã có những biện pháp nhằm ngăn ngừa tình trạng bỏ việc của
giáo viên mầm non. Nhưng có lẽ sự vào cuộc của lãnh đạo và của ngành giáo
dục mầm non chưa thực sự quyết liệt, những biện pháp ngăn ngừa tình trạng
bỏ việc của giáo viên mầm non chưa thật hữu hiệu, vì vậy chưa chặn đứng
được tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. Số lượng bỏ việc
của giáo viên mầm non công lập năm sau vẫn cao hơn năm trước. Năm 2012
có đến hơn 500 giáo viên mầm non bỏ việc. Đây thực sự là vấn đề báo động,
một yêu cầu cấp bách đòi hỏi phải được giải quyết để đảm bảo cho giáo dục
mầm non Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng được nhu cầu gửi trẻ của người
dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội của Thành phố.
Đã có một số công trình nghiên cứu về giáo dục mầm non và phát triển
giáo viên mầm non nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu thấu đáo về
tình trạng bỏ việc và ngăn ngừa, khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên
4
mầm non, chỉ có một số bài báo đề cập đến vấn đề này nhưng mới dừng lại ở
chỗ đưa ra số liệu bỏ việc của giáo viên mầm non và những kiến nghị khắc
phục. Vì vậy, cần có sự xem xét, đánh giá đúng tình trạng bỏ việc của giáo
viên mầm non công lập, xác định rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng này cả về
mặt lý luận lẫn thực tiễn, đề xuất các biện pháp khả thi để góp phần chấm dứt
tình trạng này trong những năm về sau. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả
lựa chọn vấn đề “Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của
giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề
tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ sự thụ hưởng các quyền cơ bản
của người dân luôn ở mức cao như trong thời kỳ đổi mới và những thành tựu
của công cuộc đổi mới đã giúp nước ta thoát khỏi sự trì trệ của thời quan liêu
bao cấp mà nền giáo dục quốc dân cũng bị ảnh hưởng không ít. Nhờ định
hướng đúng đắn, sau 10 năm đổi mới, sự nghiệp giáo dục đã phát triển và đạt
kết quả đáng kể. Quy mô giáo dục ở tất cả các bậc học từ giáo dục mầm non,
giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp đến giáo dục đại học không ngừng
được mở rộng.
Trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay của đất nước, giáo dục mầm
non đã nhận được sự quan tâm nhiều của cộng đồng xã hội. Những chuyển
biến trong nhận thức, sự quan tâm và đầu tư của xã hội dù chưa ở mức độ cao
nhưng đã góp phần giúp cho giáo dục mầm non dần đi vào nề nếp với chất
lượng không ngừng được cải tiến và đã huy động được nhiều thành phần,
nhiều lực lượng kinh tế khác nhau trong xã hội tham gia.
Kết quả vấn đề nghiên cứu của tác giả Dương Thị Thanh Huyền về
“Thực trạng xã hội hóa giáo dục mầm non” đã chỉ rõ: Khi Nghị quyết
05/2005/NQ-CP ra đời với chủ trương xã hội hóa giáo dục mầm non. Các
5
trường mầm non tư thục, mầm non quốc tế, nhóm trẻ gia đình lần lượt ra đời
nhất là ở các thành phố lớn, các tỉnh có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất
đã tháo gỡ khó khăn và cung ứng chỗ học mầm non cho một bộ phận không
nhỏ người dân có nhu cầu gửi con để yên tâm lao động, công tác và tránh làm
xáo trộn mọi hoạt động trong xã hội [38, số 11/2000]. Ngoài ra nghiên cứu
còn đề cập đến kế hoạch phát triển giáo viên, tổ chức các phong trào có liên
quan trực tiếp đến giáo dục mầm non trong khi thực hiện xã hội hóa giáo dục.
Tuy nhiên trong bối cảnh xã hội hóa giáo dục mầm non, mức cung không kịp
đáp ứng nhu cầu đã làm phát sinh thêm những nhóm trẻ chui không phép khi
hoạt động, giáo viên không có chuyên môn nuôi dạy trẻ, không có cơ sở vật
chất đáp ứng tối thiểu nhu cầu cần có của một cơ sở nuôi dạy trẻ mầm non và
hậu quả xấu là khó tránh khỏi. Nhất là vào những năm 2007-2011 là thời
điểm mà hiện tượng làm tử vong trẻ, bạo hành trẻ gia tăng từ những cơ sở tư
nhân này; điển hình là chuyện bảo mẫu Quảng Thị Kim Hoa ngược đãi trẻ ở
thành phố Biên Hòa, Đồng Nai từng làm xôn xao dư luận khắp cả nước.
Những mâu thuẫn về phát triển ngành học mầm non nhằm đáp ứng với
nhu cầu phát triển của xã hội với hiện tượng thiếu hụt giáo viên mầm non về
mặt chất lượng và số lượng trong thời hội nhập đã khiến cho những người
quan tâm đến giáo dục mầm non phải giật mình bởi quy trình đào tạo giáo
viên ở bậc học này không kịp đổi mới so với thực tiễn tiến bộ của xã hội Việt
Nam và so với một số nền giáo dục các nước trong khu vực cũng như các
nước tiên tiến trên thế giới. Công trình của tác giả Cao Đức Tiến với vấn đề
“Về đổi mới phương pháp đào tạo bồi dưỡng giáo viên mầm non” [39, số
30/2002] đã làm nổi bật những vấn đề lý luận của việc đổi mới phương pháp
dạy học cho sinh viên sư phạm mầm non trong trường sư phạm và nêu ra
phương hướng đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non.
6
Với nghiên cứu “Vấn đề đổi mới của giáo dục mầm non và yêu cầu với
giáo viên mầm non” tác giả Trần Thị Ngọc Trâm [39, số 182/2008] đã luận
giải những vấn đề như:
Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục trẻ trong các trường
mầm non gồm thiết kế tổ chức thực hiện các nội dung giáo dục, đổi mới tổ
chức môi trường, tạo sự khích lệ tích cực sáng tạo và phát triển của giáo viên
mầm non;
Đổi mới, xây dựng chương trình theo hướng tiếp cận tích cực, lấy trẻ
làm trung tâm, xem trọng việc bảo đảm an toàn, nuôi dưỡng hợp lý, chăm sóc
sức khỏe cả về vật chất lẫn tinh thần;
Đề xuất một số yêu cầu với giáo viên mầm non nhằm thích ứng với bậc
giáo dục mầm non… Đó là những yêu cầu về nắm vững sự phát triển của trẻ,
nắm vững chương trình giáo dục, chủ động lựa chọn những vấn đề phù hợp
với trẻ, biết xây dựng kế hoạch, thiết kế và tổ chức các hoạt động giáo dục,
biết phối hợp nhiều hình thức đánh giá, biết xây dựng môi trường giáo dục,
biết phối hợp giữa nhà trường với gia đình, cộng đồng, biết hợp tác chia sẻ
với đồng nghiệp…
Những nghiên cứu về giáo dục mầm non trong các tạp chí giáo dục của
một số tác giả nêu trên cùng với một số nghiên cứu khác đã cho thấy vai trò
của giáo viên mầm non rất quan trọng trong quá trình phát triển tâm, sinh lý
của trẻ. Nhưng cho đến nay giáo viên mầm non chưa bao giờ đáp ứng đủ cho
nhu cầu nuôi dạy trẻ trong cả nước nói chung và trong các trường mầm non
công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: cho đến nay những chế độ
chính sách cho nền giáo dục quốc dân vẫn còn mang tính chất dàn trải, phân
bổ đều theo ngân sách Nhà nước là chính. Dù đã có những giải pháp đột phá
như cải tổ về mục tiêu, chương trình, phương pháp… để xây dựng nền giáo
7
dục nước nhà cho phù hợp với xu thế và thời đại, hội nhập với nền giáo dục
của một số nước trong khu vực như Singapore, Nhật Bản… và một số nước
có nền giáo dục đã phát triển tốt như Anh, Pháp, Hoa kỳ. Nhưng thực chất với
một nền giáo dục luôn bị chi phối bởi các chỉ tiêu theo từng hạng mục, từng
địa phương thì sự nghiệp giáo dục dù được xác định là quốc sách hàng đầu
vẫn chưa tạo được những thay đổi có tính chất bước ngoặt. Cuộc sống của
những người trong ngành giáo dục nói chung và giáo viên mầm non nói riêng
là lực lượng còn rất nhiều khó khăn. Mọi chính sách về chế độ ưu đãi, lương
tiền cho những người làm công tác giáo dục ở bậc học thấp nhất này vẫn phải
theo đúng lộ trình kết hợp của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ và Bộ Tài
chính ban hành. Chưa có những ưu đãi đặc thù nào nhằm thu hút người tài
vào lĩnh vực giáo dục mầm non công lập ngoài chế độ ưu tiên cho các sinh
viên thi vào ngành sư phạm được miễn học phí toàn phần cho đến khi ra
trường kèm theo yêu cầu phải phục vụ trong ngành một thời gian quy định
như ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong khi ngành giáo dục đang loay hoay với tình trạng thiếu giáo viên
trầm trọng từ bậc trung học phổ thông trở xuống thì những làn gió mát thổi
vào nước ta từ cơ chế đổi mới đã bắt đầu tạo thêm nhiều cơ hội và nhiều sự
lựa chọn công việc mới với mức thu nhập tương xứng ở những ngành nghề
khác trong xã hội. Điều này đã làm lung lay tư tưởng bám trường, bám lớp
của những giáo viên có nhiều khả năng nổi trội khác về kiến thức, trình độ,
bằng cấp. Bản thân lực lượng này yêu nghề có năng lực sư phạm nhưng muốn
thoát nghèo trong thời kinh tế thị trường nên sẵn sàng bỏ việc ở những trường
lớp chính quy công lập để đầu quân cho những trường tư thục, trường quốc tế,
những trung tâm ngoại ngữ hay những cơ quan, đơn vị, những ngành nghề
mang lại lợi ích kinh tế cho bản thân họ. Những sự thật đắng lòng như vừa
nêu trên, tồn tại ở mọi nơi, trong mọi cấp học từ mầm non đến phổ thông, đại
học nhất là đối với lực lượng giáo viên mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh.
8
Tư tưởng nhảy việc, bỏ nghề đã tạo thành những cơn sốt với một tỷ lệ
không nhỏ theo quy luật cung - cầu nhân sự của xã hội trong thời kinh tế thị
trường, nhất là vào những năm 2008 - 2009 và kéo dài cho đến tận thời điểm
hiện nay.
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý giáo
viên mầm non công lập, đề xuất các biện pháp cơ bản ngăn ngừa và khắc
phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ
Chí Minh góp phần phát triển bậc học này trong sự nghiệp phát triển giáo dục
đào tạo của Thành phố.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý giáo viên mầm non công lập.
Đánh giá thực trạng và nguyên nhân tình trạng bỏ việc của giáo viên
mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Đề xuất các biện pháp cơ bản ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ
việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
,
Quản lý giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên
mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các biện pháp cơ bản ngăn
ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại
9
Thành phố Hồ Chí Minh. Với đối tượng là giáo viên khác của các trường bán
công, tư thục, đề tài chỉ có tính chất tham khảo.
Về đối tượng khảo sát: Khảo sát đội ngũ giáo viên mầm non các trường
công lập tại các quận: Quận Tân Phú, Quận 1, Quận 3, Quận 10 ở Thành phố
Hồ Chí Minh.
Về thời gian: Các số liệu điều tra tính từ năm 2008 đến nay.
Ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non
công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc vào nhiều vấn đề, là việc làm
khó khăn, phức tạp không thể giải quyết một sớm một chiều. Nhưng nếu thực
hiện có hiệu quả và đồng bộ các vấn đề như: phát huy sức mạnh tổng hợp của
cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị các cấp và của nhân dân trong ngăn
chặn tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập; nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho giáo viên mầm non công lập; đổi mới
cơ chế quản lý của các cấp từ Thành phố đến quận (huyện), phường (xã);
nâng cao chất lượng tuyển chọn đào tạo và tuyển dụng giáo viên mầm non
công lập; tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên
mầm non công lập; kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời trong việc
nắm bắt tình hình hoạt động của các trường mầm non và của giáo viên mầm
non về mọi mặt thì có thể ngăn ngừa và khắc phục có hiệu quả tình trạng bỏ
việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong tình hình mới
hiện nay.
Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, quán triệt Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
10
Cộng sản Việt Nam về giáo dục và quản lý giáo dục; đồng thời đề tài còn vận
dụng các quan điểm hệ thống – cấu trúc, lô gic – lịch sử và quan điểm thực
tiễn để xem xét, đánh giá, phân tích các vấn đề có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành những công trình nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của khoa học
giáo dục như:
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái
quát hóa các tài liệu chuyên ngành về giáo dục mầm non và quản lý giáo viên
mầm non các trường công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh; các nghị quyết
lãnh đạo; các văn bản có liên quan đến giáo dục mầm non và quản lý giáo dục
mầm non; các tài liệu tổng kết, các báo cáo về giáo dục mầm non và quản lý
giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh…để xây dựng cơ sở
lý luận của các biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo
viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản
lý của đội ngũ cán bộ các cấp, của các tổ chức, các cơ quan ở các quận tại
Thành phố Hồ Chí Minh trong quản lý giáo viên mầm non công lập.
Điều tra xã hội học đối với một số cán bộ quản lý, cán bộ ở một số tổ
chức đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý giáo dục và giáo viên các trường
mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp phỏng vấn: Trao đổi với ban giám hiệu một số trường
mầm non và với cán bộ quản lý giáo viên mầm non công lập ở một số quận
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
11
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để rút ra những kinh
nghiệm trong quản lý giáo viên và trong việc khắc phục tình trạng bỏ việc của
giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu sau khảo sát.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đóng góp những vấn đề lý luận cho việc ngăn ngừa và khắc phục tình
trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập Thành phố Hồ Chí Minh.
Đề xuất các biện pháp cơ bản để ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ
việc của giáo viên mầm non công lập Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho cán bộ, cơ quan
quản lý giáo dục mầm non và giáo viên mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh
trong việc ngăn chặn tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập.
8. Cấu trúc của luận văn
Phần mở đầu, Phần nội dung (2 chương 5 tiết), Phần kết luận, kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGĂN NGỪA VÀ
KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN
MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1 Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm trường mầm non công lập
Theo Điều lệ Trường mầm non được ban hành kèm theo Quyết định số
14/2008/QĐ- BGDĐT ngày 07 tháng 4 năm 2008 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo: Trường mầm non công lập là trường do cơ quan Nhà nước thành lập,
đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên.
Chức năng, nhiệm vụ trường mầm non
Trường mầm non có chức năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ
03 tháng đến 06 tuổi theo quy chuẩn, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
Tổ chức đón, trả trẻ; chăm sóc, giáo dục vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi
trường; quản lý sức khỏe và an toàn cho trẻ.
Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba
tháng tuổi đến sáu tuổi theo chương trình giáo dục mầm non do Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Tổ chức các hoạt động vui chơi, học tập, lao động; hoạt động ăn nghỉ
của trẻ (đối với trường bán trú).
Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên để thực hiện nhiệm vụ nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong độ tuổi mầm non.
Phối hợp với các cơ quan chức năng, tổ chức chính trị xã hội để thực
hiện tuyên truyền kiến thức khoa học về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
cho các bậc cha mẹ và cộng đồng; về huy động các nguồn lực của cộng đồng
chăm lo cho sự nghiệp giáo dục mầm non.
13
Kinh phí hoạt động
Bậc học mầm non trực tiếp được giải ngân từ ngân sách tài chính cấp
quận. Việc duyệt và chi cho các trường mầm non theo dự toán hàng năm của
hiệu trưởng nhà trường gồm các phần sửa chữa cơ sở vật chất, mua sắm trang
thiết bị, tiền lương, phụ cấp, khen thưởng lao động tiên tiến, chiến sĩ thi
đua…có liên quan đến mọi hoạt động và nhân sự của toàn trường.
Cơ sở vật chất giáo dục
Cơ sở vật chất giáo dục của trường mầm non công lập do Nhà nước đầu
tư toàn bộ kinh phí xây dựng và quản lý thông qua giám sát của ngành dọc là
Phòng Giáo dục và Đào tạo các quận, huyện.
sau tùy theo nhu cầu thực tế của nhà trường.
1.1.2. Khái niệm giáo viên mầm non công lập
Giáo viên trường mầm non công lập là viên chức Nhà nước. Luật Viên
chức được ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2010 có quy định chặt chẽ, cụ thể
những vấn đề liên quan đến viên chức, trong đó có cả hệ thống giáo viên
trường công lập như các chính sách: tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, nâng bậc,
chế độ tiền lương của giáo viên, nghỉ hưu, khen thưởng, kỷ luật… Giáo viên
mầm non muốn được tuyển dụng vào các trường công lập để trở thành viên
chức Nhà nước phải được đào tạo từ bậc trung cấp đến cao đẳng và đại học.
Giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức
tuyển dụng chặt chẽ theo ngạch bậc qua các đợt thi viên chức hoặc tuyển dụng
tại Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh. Khi được chính thức
tuyển dụng vào làm việc trong các trường mầm non công lập, giáo viên mầm
non được giao một công việc với nhiệm vụ cụ thể và phải có nghĩa vụ hoàn
thành nhiệm vụ đó trong thời gian làm việc tại trường mầm non. Khi chưa có
14
quyết định rời khỏi trường mầm non thì người giáo viên đó vẫn phải thực hiện
công việc của mình trong thời gian làm việc được pháp luật quy định.
Có thể hiểu: Giáo viên mầm non là những người được đào tạo từ các
hệ trung cấp, cao đẳng và đại học trong các trường sư phạm trên phạm vi cả
nước và chính thức được tuyển dụng vào biên chế, trở thành viên chức Nhà
nước đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ ở các trường mầm
non công lập.
Chuẩn giáo viên mầm non trong các trường được quy định ở mức
trung cấp. Tuy nhiên trước tiến trình hội nhập hiện nay, nhiều giáo viên mầm
non đã tự nâng chuẩn đào tạo của mình lên các bậc cao đẳng, đại học và sau
đại học cho phù hợp với xu thế mới, việc tự nâng chuẩn đào tạo của mình lên
đồng nghĩa với việc bậc lương của giáo viên mầm non sẽ được điều chỉnh lên
theo sự thay đổi của hệ đào tạo. Đó cũng là một trong những hướng phấn đấu
của những giáo viên mầm non yêu nghề, bám trụ với nghề tại Thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh được phân
công cụ thể công tác từ khi chính thức được tuyển dụng theo cấp độ quản lý
nhân sự từ trên xuống dưới gồm: Sở Giáo dục Thành phố, Phòng Giáo dục
(cấp quận/huyện), ban giám hiệu trường mầm non.
Chế độ làm việc của giáo viên mầm non công lập được quy định bởi
Thông tư số 48/2011của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 25 tháng 10
năm 2011. Thông tư quy định thời gian làm việc trong một năm của giáo viên
mầm non công lập là 42 tuần. Thời gian nghỉ hàng năm gồm:
Thời gian nghỉ hè 8 tuần được hưởng nguyên lương và các phụ cấp, trợ
cấp khác (nếu có);
Một số ngày nghỉ khác (lễ, tết,...) được thực hiện theo quy định của Bộ
Luật lao động và các quy định hiện hành.
15
Ngoài ra các quy định về giờ dạy, chế độ giảm giờ dạy và quy đổi một số
hoạt động chuyên môn khác ra giờ dạy cũng được quy định trong Thông tư.
Về chế độ đãi ngộ, giáo viên mầm non công lập là người chấp nhận làm
việc trong các trường mầm non công lập do Nhà nước quản lý theo chế độ
“thuận thì nhận”; tức là khi đã hội đủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo đúng quy
định của pháp luật ban hành và qua đợt thi tuyển hoặc xét tuyển của ngành
dọc (Sở Giáo dục và Đào tạo) nếu giáo viên chấp thuận thì nhận quyết định
về nhiệm sở công tác. Mọi chế độ làm việc và đãi ngộ của giáo viên mầm non
không phải là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động
như trong Luật lao động quy định mà giáo viên mầm non là viên chức hưởng
lương từ ngân sách Nhà nước, đó là chế độ tiền lương do Nhà nước quy định
theo thang bậc và thâm niên công tác.
Nguồn ngân sách Nhà nước chính là tiền thuế của dân đóng góp, đây là
mấu chốt giúp phân biệt lương của giáo viên công lập khác với lương của
giáo viên ngoài công lập, giáo viên trường tư thục, giáo viên trường quốc tế,
giáo viên các trung tâm... Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
hiện nay, tiền lương là thước đo giá trị sức lao động và hiệu quả công việc
theo quy trình cạnh tranh cùng mối quan hệ cung - cầu ở các cơ sở không
thuộc Nhà nước quản lý nói chung và trong các trường mầm non ngoài công
lập nói riêng.
Lương của giáo viên trường công lập được tính bởi 3 nguồn là: lương
tối thiểu theo quy định của Nhà nước, thang bảng lương, các chế độ phụ cấp
khác theo quy định của ngành dọc và tài chính kết hợp. Trong các lĩnh vực do
tư nhân quản lý, tiền lương và thu nhập của người lao động được điều chỉnh
theo nhu cầu về lợi nhuận của đôi bên cung và cầu cùng sự dao động của
nguồn nhân lực. Do đó trong thực tiễn, khi chỉ số giá sinh hoạt của xã hội
biến động theo cơ chế thị trường thì thu nhập của giáo viên trường công lập
16
thường thấp hơn rất nhiều so với thu nhập của giáo viên khu vực giáo dục tư
nhân. Đây chính là một trong những nguyên nhân dịch chuyển nguồn nhân
lực từ khu vực giáo dục công lập sang khu vực giáo dục tư nhân, đặc biệt là
những giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có năng lực thực sự
nhưng chưa được khu vực công đánh giá đúng về giá trị lao động của họ.
Ngoài ra căn cứ vào các quy định của Nhà nước, giáo viên mầm non công
lập còn được đãi ngộ về bảo đảm vĩnh viễn những phúc lợi xã hội tương ứng
như bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền lương hưu, tiền
lương trong những ngày nghỉ phép cố định 2 tháng/năm học (theo Thông tư số
48/2011của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 25 tháng 10 năm 2011).
Tuy nhiên nếu so sánh giữa hai lĩnh vực công - tư thì nguồn giáo viên
trong lĩnh vực giáo dục công lập vẫn được hưởng một số chế độ chăm lo cố
định do Nhà nước quy định, mà trong lĩnh vực tư nhân vẫn chưa được thực
hiện do nhu cầu lợi nhuận của chủ trường hoặc chủ doanh nghiệp như chế độ
nghỉ phép hè 2 tháng có hưởng lương, đó cũng là một đãi ngộ chỉ có trong hệ
thống giáo dục quốc dân và được duy trì trong các trường công lập. Bên cạnh
những đặc điểm về chế độ làm việc, chế độ đãi ngộ vừa nêu, công việc của
giáo viên mầm non công lập còn được điều chỉnh bởi những văn bản pháp
luật liên quan khác như các nghị định, thông tư, quy chế ngành mầm non,
chuẩn giáo viên mầm non,...
Môi trường làm việc của giáo viên mầm non công lập
Môi trường làm việc là mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của
con người từ thấp đến cao là: nhu cầu ăn, mặc, ở của riêng mỗi cá nhân; nhu
cầu an toàn của bản thân; nhu cầu giao tiếp; nhu cầu tôn trọng và được tôn
trọng với những người xung quanh trong khi làm việc; cuối cùng là nhu cầu
tự thể hiện để hoàn thiện bản thân. Trong các nhu cầu vừa nêu thì nhu cầu
cuối cùng là nhu cầu cao nhất của người lao động nhằm tự bộc lộ tài năng
17
phẩm giá, phát huy thế mạnh của cá nhân mình để phát triển nghề nghiệp
hoặc năng lực chuyên môn ở mức độ cao nhất.
Trước kia khi chưa đổi mới và cơ chế bao cấp đóng vai trò chủ lực thì làm
việc trong môi trường Nhà nước là lựa chọn hàng đầu của người lao động vì tính
ổn định và mức độ an toàn cao. Nhưng từ khi nước ta mở cửa cùng với việc phát
triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì cơ hội lựa chọn môi trường
làm việc của người lao động đã có nhiều thay đổi vì sự xuất hiện các khu vực
ngoài Nhà nước với những việc làm hấp dẫn và có thu nhập cao. Giáo dục cũng
không nằm ngoài những thay đổi có tính quy luật đó, tại Thành phố Hồ Chí
Minh, một bộ phận giáo viên mầm non công lập đang diễn ra hiện tượng “bỏ
việc” ở các trường công lập để đầu quân cho những trường ngoài công lập với
khối lượng công việc không còn là gánh nặng hằng ngày và mức thu nhập cao
hơn nhiều so với khi làm việc trong trường công lập do Nhà nước quản lý.
Năng lực của giáo viên mầm non công lập
Năng lực là khả năng làm việc của một người nhằm mang lại hiệu quả
cao nhất về mặt chất lượng công việc, thu được nhiều lợi nhuận sau khi hoàn
thành công việc và được đánh giá cao bởi những người quản lý trực tiếp.
Trong phạm vi giáo dục, ngoài những kiến thức cơ bản về ngành học được
thu thập trong suốt quá trình học tập ở các trường sư phạm, năng lực của giáo
viên sẽ được định hình khi trực tiếp giảng dạy trên lớp. Đó là khả năng bao
quát học sinh khi đứng lớp, kỹ năng truyền thụ kiến thức, biết cách lồng ghép
các kiến thức mang tính lý thuyết trong sách giáo khoa với kinh nghiệm thực
tế cuộc sống để làm học sinh hứng thú khi học tập. Riêng trong bậc học mầm
non năng lực của giáo viên mầm non chính là sự phong phú trong các hoạt
động nuôi dạy trẻ và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giáo viên với nhau để
tạo hứng thú cho trẻ trong các hoạt động (theo hướng đổi mới của giáo dục
mầm non, hiện nay các giờ học, chơi, ăn, ngủ… của trẻ mầm non được gọi là
18
hoạt động chung, hoạt động ngoài trời…). Đây là vấn đề cơ bản quan trọng
nhất để làm cơ sở đánh giá trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người khai
tâm mở trí cho các thế hệ học sinh nhỏ nhất trong các bậc học đồng thời cũng
là nền tảng đánh giá chất lượng của người giáo viên mầm non nói riêng và
nền giáo dục theo xu thế mới hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh nói chung.
Hiện nay những tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá năng lực của giáo viên
mầm non được thể hiện ở một số yêu cầu sau:
Có kiến thức về giáo dục mầm non, có năng lực sư phạm gồm khả năng
bao quát và xử lý tình huống trong khi đứng lớp.
Có kiến thức về tâm sinh lý của trẻ và kiến thức nuôi dạy trẻ.
Biết tổ chức các hoạt động vui chơi của trẻ, biết múa hát, kể chuyện, …
lôi cuốn trẻ.
Có sáng tạo trong các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
Bảng 1.1. Trình độ giáo viên mầm non công lập tại TP HCM
Chức danh
Tổng số Trình độ chuyên môn Trình độ
chính trị
Tổng Nữ
Đạt
chuẩn
Cao
đẳng
Đại
học
Sau
đại
học
Trung
cấp
Cao
cấp
Cán bộ
quản lý
(Ban giám
hiệu)
1.14
4
1.14
0
1.140 162 946 08 27 521
Giáo viên
8.46
6
8.44
4
8.436 3.604 2.784 o 04 343
(Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố HC M, tháng 8/2012)
Phẩm chất đạo đức
Đạo đức là phẩm chất tối cần thiết của bất kỳ người lao động chân
chính nào trong công việc, nhưng riêng đối với những người làm công tác
giáo dục thì yếu tố đạo đức luôn là tiêu chí quan trọng hàng đầu trong việc
19
đánh giá năng lực toàn diện của một nhà giáo. Nhà giáo phải là người có đạo
đức tốt thì mới có đầy đủ vị thế truyền đạt những kiến thức, những kỹ năng,
những kinh nghiệm sống đến học sinh, giúp học sinh hình thành và phát triển
nhân cách. Đặc trưng của giáo dục là nơi truyền đạt những tinh hoa của văn
hóa nhân loại, do đó yếu tố đạo đức phải là chuẩn đầu tiên của bất kỳ ai nếu
muốn đứng trong hàng ngũ những người làm công tác giáo dục, đồng thời
phải luôn duy trì, phát huy, rèn luyện phẩm chất tốt đẹp này để mãi là tấm
gương sáng cho học sinh noi theo.
Giáo dục mầm non cũng là một bậc học đòi hỏi khắc nghiệt phẩm chất
này ở các thầy, cô giáo. Khi chấp nhận vào ngành mầm non, các tố chất cần
thiết nhất cho người công tác ở bậc học này là lòng yêu nghề, yêu người, là sự
kiên trì nhẫn nại, giàu đức hy sinh, sẵn sàng bỏ thời gian, công sức, thậm chí
cả tiền bạc cho sự nghiệp giáo dục trẻ như lời Bác Hồ đã từng nói với lớp đào
tạo cán bộ mẫu giáo năm 1955 “…Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ.
Muốn làm được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải
bền bỉ, chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây
non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau
này các cháu thành người tốt… Điều trước tiên là dạy các cháu về đạo đức.
Anh chị em giáo viên và mẫu giáo cần luôn luôn gương mẫu về đạo đức để
các cháu noi theo” [17, tr.263].
Đạo đức của người giáo viên mầm non được quy định trong “Chuẩn
nghề nghiệp giáo viên mầm non” Ban hành kèm Quyết định số 2/2008/QĐ-
BGDĐT ngày 22 tháng 01 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
và được đánh giá hàng năm sau khi có hiệu lực thi hành để giúp những người
làm công tác giáo dục ở cấp học này luôn phấn đấu vươn lên bằng những tiêu
chí sau:
20
Có đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, trong sáng của nhà giáo;
có ý thức phấn đấu vươn lên trong nghề nghiệp; sống trung thực, lành mạnh,
giản dị, gương mẫu, được đồng nghiệp, người dân tín nhiệm và trẻ yêu quý;
tự học, phấn đấu nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ, khỏe mạnh và thường xuyên rèn luyện sức khỏe; không có biểu
hiện tiêu cực trong cuộc sống, trong chăm sóc, giáo dục trẻ; không vi phạm
các quy định về các hành vi nhà giáo không được làm.
Trung thực trong công tác, đoàn kết trong quan hệ với đồng nghiệp, tận
tình phục vụ nhân dân và trẻ; trung thực trong báo cáo kết quả chăm sóc, giáo
dục trẻ và trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được phân công; đoàn kết với
mọi thành viên trong trường; có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp trong các
hoạt động chuyên môn nghiệp vụ; có thái độ đúng mực và đáp ứng nguyện
vọng chính đáng của cha mẹ trẻ em; chăm sóc giáo dục trẻ bằng tình thương
yêu, sự công bằng và trách nhiệm của một nhà giáo.
Ngoài những yêu cầu cơ bản trên trong quy định của chuẩn giáo viên
mầm non, phẩm chất đạo đức còn được quy định thêm bởi những nội quy,
quy chế riêng của từng địa phương, từng trường học tùy theo điều kiện và tình
hình thực tế ở mỗi nơi.
1.1.3. Khái niệm bỏ việc của giáo viên mầm non công lập
Bỏ việc là hiện tượng xảy ra đối với một cá nhân nào đó khi đang làm
công việc trong lĩnh vực này nhưng không còn quan tâm đến công việc đó
nữa, không giữ lại công việc đó cho bản thân mình, đồng thời không còn
chịu sự chi phối bởi những mối quan hệ về mặt quản lý đối với các cá nhân
khác có liên quan đến những công việc cũ đã làm của mình mà chuyển sang
làm việc ở một ngành, một lĩnh vực khác, với một công việc mới so với
công việc cũ.
Bỏ việc của giáo viên mầm non
21
Trong lĩnh vực giáo dục mầm non, giáo viên là người trực tiếp đứng
lớp, trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục học sinh mầm non.
Có thể hiểu: giáo viên mầm non công lập bỏ việc là hiện tượng những
người đang trực tiếp giảng dạy tại các trường mầm non công lập của Thành
phố nhưng không tiếp tục công việc đó nữa mà chuyển sang làm những công
việc khác.
Như vậy có thể hiểu, giáo viên mầm non bỏ việc xảy ra trong những
trường hợp sau:
Tự ý bỏ việc hoặc xin thôi việc để chuyển sang làm việc ở các ngành
nghề khác.
Tự ý bỏ việc hoặc xin thôi việc để chuyển sang làm việc ở các trường
mầm non ngoài công lập.
Xin thôi đứng lớp, không trực tiếp làm việc nuôi dạy trẻ mà chuyển
sang làm những công việc khác trong ngành giáo dục mầm non nói riêng hoặc
trong ngành giáo dục nói chung.
Bỏ việc của giáo viên mầm non được nghiên cứu như là một hiện
tượng xã hội, có nguyên nhân chính và trực tiếp từ những tác động của xã
hội. Còn những hiện tượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập có
nguyên nhân từ gia đình hoặc nhu cầu, nguyện vọng của cá nhân chỉ được
nghiên cứu để tham khảo.
Do áp lực công việc hoặc do không thích hợp với việc nuôi dạy trẻ, một
số giáo viên mầm non công lập đã lợi dụng các mối quan hệ hoặc chạy chọt
để chuyển sang những vị trí khác như làm cán bộ quản lý giáo dục ở trường, ở
các quận, huyện. Một số giáo viên mầm non công lập cũng xin chuyển sang
các trường mầm non công lập ở những địa phương khác - những nơi có cơ sở
vật chất tốt hơn, có những ưu đãi tốt hơn. Sự dịch chuyển này, tuy số giáo
22
viên đó vẫn công tác trong ngành giáo dục mầm non nhưng vẫn tạo nên hiện
tượng thiếu ảo (nơi cần thì thiếu, nơi tạm đủ thì thừa)
Để dạy trẻ tốt thì phải có một đội ngũ giáo viên mầm non thật đầy đủ
về chất lượng và ổn định về số lượng nhưng trong tình hình thực tế hiện nay,
đội ngũ giáo viên mầm non ngày càng bị giảm về số lượng và từ sự thiếu hụt
đó chất lượng của giáo viên mầm non trong chăm sóc nuôi dạy trẻ cũng bị
ảnh hưởng nhiều. Tìm lời giải cho vấn đề này để đưa vị thế của giáo viên
mầm non trở lại đúng thiên chức của người mẹ thứ hai như Bác Hồ đã răn dạy
là một vấn đề cấp thiết.
1.1.4. Khái niệm biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ
việc của giáo viên mầm non công lập
Theo Từ điển Tiếng Việt thì ngăn ngừa là “phòng trước để cản lại một
việc xấu”[40, tr.589]; khắc phục là “thắng những khó khăn để đạt mục đích
của mình” [40, tr.450]. Như vậy có thể hiểu: ngăn ngừa và khắc phục tình
trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập là tìm ra những cách thức để
giáo viên mầm non công lập yên tâm với nghề nghiệp, công việc nuôi dạy trẻ.
Tạo những điều kiện vật chất và tinh thần tốt hơn cho cuộc sống của họ để họ
không thôi việc chuyển sang những ngành nghề, công việc khác.
Theo Từ điển Tiếng Việt, biện pháp là “cách hành động, lựa chọn sao cho
phù hợp với mục đích” [40, tr.70] còn theo Đại Từ điển Tiếng Việt “biện pháp là
cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể” [24, tr.161].
Từ các khái niệm trên, có thể thấy nghĩa chung nhất của biện pháp là
cách làm để thực hiện một công việc nào đó nhằm đạt mục đích đặt ra.
Theo các cách tiếp cận trên, có thể quan niệm: Biện pháp ngăn ngừa và
khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập là tổng hợp các
cách thức tác động đến giáo viên mầm non một cách có mục đích, có tổ chức
và có kế hoạch nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội
23
của giáo viên mầm non công lập, giúp họ tổ chức tốt cuộc sống cá nhân, rèn
luyện phẩm chất, năng lực sư phạm, yên tâm gắn bó lâu dài với nghề nghiệp
và công việc nuôi dạy trẻ ở các trường mầm non công lập.
Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên
mầm non công lập là tổng hợp các cách thức, thủ pháp, thao tác và cả những
chế độ chính sách, cơ chế quản lý tác động đến giáo viên mầm non và tập thể
giáo viên mầm non.
Mục đích của biện pháp: khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên
mầm non công lập là tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách như: cải
thiện đời sống cho giáo viên trường mầm non công lập, bồi dưỡng cho họ
những phẩm chất, lòng yêu nghề, yêu trẻ và những kỹ năng nuôi dạy trẻ. Trên
cơ sở đó giúp cho người giáo viên mầm non công lập có điều kiện chăm sóc
gia đình và bản thân, đồng thời nâng cao vị thế xã hội của họ để họ sống được
bằng nghề, gắn bó với nghề nuôi dạy trẻ.
Chủ thể của những tác động là: cấp ủy chính quyền các cấp; các đoàn thể
chính trị xã hội; các cơ quan chức năng; các cơ quan quản lý giáo dục các cấp;
cộng đồng xã hội và chính bản thân đội ngũ giáo viên các trường mầm non.
Giáo viên các trường mầm non công lập vừa là đối tượng tác động lại
vừa là chủ thể của những tác động. Bởi vì bỏ việc đối với một cá nhân nói
chung và những người làm công tác giáo dục mầm non nói riêng không đơn
giản là một hành động nhất thời mà là cả một quá trình đấu tranh, giằng co
nội tâm. Đặc biệt đối với giáo viên yêu nghề, yêu trẻ thì bỏ việc nuôi dạy trẻ
là một việc làm hết sức khó khăn đối với họ. Nhưng có thể do họ quá khó
khăn về cuộc sống, bị áp lực của công việc, thậm chí bị cám dỗ bởi danh
vọng, bởi vật chất nên đã bỏ nghề. Bỏ việc của giáo viên mầm non công lập ở
nhiều người không phải vì những động cơ xấu cho nên để ngăn ngừa, khắc
phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập thì chính đội ngũ
24
giáo viên mầm non công lập phải tự vượt lên, tự đấu tranh để khắc phục khó
khăn trong cuộc sống, trong công việc, yên tâm gắn bó với nghề nuôi dạy trẻ.
Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên
mầm non công lập rất phong phú và đa dạng bởi đối tượng của những biện
pháp này là con người hoạt động ở lĩnh vực giáo dục. Mặt khác nguyên nhân
bỏ việc cũng đa dạng, có nhiều vấn đề tế nhị liên quan trực tiếp đến cuộc sống
của bản thân và gia đình họ. Tuy nhiên nếu các biện pháp ngăn ngừa và khắc
phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập phù hợp với đối
tượng, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của họ, giải quyết được những khó
khăn cho họ thì sẽ có tính thiết thực và khả thi cao
1.2. Thực trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay, hệ lụy và nguyên nhân
1.2.1 Thực trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành
phố Hồ Chí Minh
Ngay trong năm đầu tiên thành lập ngành học mẫu giáo 1975-1976,
toàn Thành phố đã có 1920 lớp với 1973 giáo viên nuôi dạy 62.260 trẻ . Sau
đó vào cuối năm 1975 đã có thêm 10 nhà trẻ thu nhận 878 trẻ lứa tuổi nhà trẻ
với 106 cô nuôi dạy trẻ. Cuối năm 1976 số lượng nhà trẻ đã tăng lên 106 cơ
sở với 613 cô chăm sóc nuôi dạy 5.010 trẻ. Trong những năm này, việc tuyển
chọn giáo viên mầm non các trường công lập khá chặt chẽ, đa số là những
người tâm huyết với nghề, yêu trẻ và có kỹ năng nuôi dạy trẻ tốt nên rất ít
người bỏ việc.
Đến năm học 1984-1985 số trẻ học mẫu giáo đã tăng lên 114.780 trẻ
và số trẻ đến nhà trẻ đã tăng gấp 10 lần với 564 nhà trẻ, 4.850 cô nuôi dạy
31.089 cháu.
Trong thời kỳ này, tranh thủ sự viện trợ của các tổ chức quốc tế, Thành
phố đã xây dựng được 5 nhà trẻ có quy mô nuôi dạy từ 100 đến 300 cháu như:
25
- UIPE (Union International de Protection des enfants) giúp xây nhà trẻ
ở số 4 Trần Quốc Thảo, quận 3) thu nhận 300 cháu.
- UNICEF giúp xây 4 nhà trẻ quy mô 100 trẻ mỗi trường gồm: Nhà trẻ
Nguyễn Tất Thành (quận 4), nhà trẻ 19/5 (quận 8), nhà trẻ Hữu Nghị (quận
11), nhà trẻ Bông Hồng (huyện Củ Chi).
- Tổ chức FCD (Fonds Cooperatin de Development) của Bỉ giúp xây
nông trại Tân Thắng (phường 16, quận Tân Bình) để cung cấp thịt, cá, trứng,
rau xanh cho các cháu nhà trẻ. Các cháu có cha mẹ làm việc ở nông trại có
một nhà trẻ riêng.
- Tổ chức PI (Protection International) và một số Việt kiều hảo tâm đã
giúp đỡ tiền, đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị cho các nhà trẻ.
Trong những năm 80, tuy số trường mầm non tăng nhanh nhưng lượng
giáo viên không thiếu nhiều nhưng cũng từ những năm này bắt đầu có hiện
tượng giáo viên trường mầm non công lập bỏ việc và nhảy việc.
Những năm 1990- 1995 là giai đoạn thực hiện đổi mới giáo dục, đây là
thời điểm có rất nhiều thuận lợi cho việc phát triển giáo dục. Thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 6/1991), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ V (tháng 10/1991) Thành phố đã xác lập và
quyết định đầu tư thêm kinh phí để sửa chữa cơ sở vật chất, nâng cao chất
lượng nuôi dạy trẻ, vận động thêm phụ huynh đóng góp vào xây dựng trường.
Cũng trong thời điểm này chủ trương hợp nhất nhà trẻ và trường mẫu giáo
thành trường mầm non theo chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tạo điều
kiện cho hệ thống giáo dục mầm non Thành phố thay da đổi thịt, tạo sức hút
rất nhiều đối với phụ huynh và trẻ mầm non. Khi mô hình nhà trẻ và trường
mẫu giáo không còn hoạt động riêng lẻ nữa mà kết hợp lại thành trường mầm
non thì số trẻ mầm non đã tăng vọt lên 138.041 trẻ. Các trường mầm non
công lập đã không đáp ứng được nhu cầu gửi trẻ của người dân trong thành
26
phố. Giáo viên trường mầm non công lập thiếu nhiều và hiện tượng bỏ việc
của giáo viên mầm non công lập đã xảy ra ở nhiều trường nhưng chưa thành
hiện tượng phổ biến.
Năm học 2004-2005 là giai đoạn hồi sinh của ngành mầm non
Thành phố Hồ Chí Minh. Số trẻ đi học mầm non toàn Thành phố đã tăng
lên 175.558 học sinh gồm 30.391 học sinh nhà trẻ và 145.167 học sinh mẫu
giáo theo học trong 497 trường mầm non gồm 337 trường công lập, 47
trường bán công và 113 trường dân lập tư thục, trong số đó trường công lập
nuôi dạy 62% tổng số học sinh [53, ngày 18/8/2004]. Nhưng cũng bắt đầu
từ giai đoạn này đã xảy ra tình trạng mà kéo dài đến tận ngày nay vẫn chưa
có cách khắc phục đó là Thành phố Hồ Chí Minh liên tục “sốt” nhà giữ trẻ
và trường mầm non nhưng giáo viên mầm non lại liên tục “hạ nhiệt trầm
trọng” theo nghịch lý “nhu cầu gửi trẻ càng tăng thì giáo viên mầm non
càng giảm” nhất là trong hệ thống giáo dục công lập. Đến năm 2008 - 2009
là năm số trẻ trong tuổi mầm non đi học tăng vọt ở tỷ lệ hơn 66% khiến cho
các trường công lập và giáo viên mầm non của Thành phố Hồ Chí Minh bị
rơi vào tình trạng thiếu hụt trầm trọng. Số lượng trẻ từ 03 tháng tới 2 tuổi
đến trường, lớp, nhóm trẻ gia đình tăng bình quân trên 4.000 trẻ/năm. Tính
từ năm 2001-2008 số trẻ trong độ tuổi này từ 20.992 trẻ đã tăng lên 44.511
trẻ (tăng 23.519 trẻ); trẻ từ 3-5 tuổi từ 128.998 trẻ tăng lên 209.358 trẻ
(tăng 80.360 trẻ). Thế nhưng năm học 2008 - 2009 có 431 giáo viên mầm
non nghỉ việc, toàn Thành phố thiếu 1000 giáo viên mầm non công lập. Chỉ
tính riêng năm 2008 có 256 giáo viên mầm non công lập nghỉ việc, một số
giáo viên mầm non trong số đó chuyển qua làm việc ở trường quốc tế [52,
ngày 26/5/2008].
Đến năm 2010-2011 số trường mầm non công lập và ngoài công lập
không tăng lên mà giảm đi chỉ còn còn 759 trường và 988 nhóm, lớp cả công
27
lập và tư thục. Số trường lớp công lập vào thời điểm này chiếm tỷ lệ trên 57%
với 406 trường và chỉ đáp ứng nuôi dạy khoảng 70% trên tổng số 293.000 trẻ
mầm non toàn Thành phố, số trẻ còn lại thì theo học tại các trường tư thục,
nhóm lớp. Với hơn 10.000 giáo viên nhưng phải chăm sóc giáo dục trẻ ở
9.066 lớp học mầm non vì thế trung bình chỉ có 1,19 giáo viên quản lý một
lớp. Mặc dù trong năm 2011 đã có thêm 6 trường mầm non được công nhận
đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia lên 71 trường và
trường chuẩn quốc gia có mặt ở khắp 24/24 quận huyện của Thành phố nhưng
thực trạng làm đau đầu các nhà quản lý giáo dục mầm non tại Thành phố Hồ
Chí Minh là đến năm 2011, chỉ vì thiếu giáo viên mà Thành phố vẫn còn 13
phường chưa có trường mầm non công lập và số phường này tập trung ở các
quận 4, 6, Tân Phú, Bình Tân, Gò Vấp, Thủ Đức. [52, ngày 28/10/2011]
Đến năm 2011 số cán bộ quản lý và giáo viên bậc mầm non nghỉ việc
là 442 người đã tăng lên 538 người vào năm 2012 [54, ngày 21/10/2012].
Theo thống kê cuối năm học 2011-2012 cả nước còn thiếu 22.800 giáo viên
mầm non thì tại Thành phố Hồ Chí Minh còn thiếu 1258 - 2000 giáo viên
trong khi nguồn tuyển giáo viên mầm non đã cạn kiệt. [55, ngày 22/6/2013].
Bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Phó Phòng Giáo dục đào tạo Quận 3 cho biết:
“bậc học mầm non Quận thiếu khoảng 40 giáo viên. Nhiều giáo viên đến nhận
nhiệm sở ngày đầu, hôm sau bỏ đi không một lời từ biệt, lý do chính là công
việc vất vả, nhất là ở trường có nhiều điểm lẻ”.
Áp lực chồng chất áp lực, trẻ tăng nhưng cô không tăng trong năm học
này về sau là tình trạng kéo dài cho hiện tượng bỏ nghề của giáo viên mầm
non tại Thành phố Hồ Chí Minh mà con số giáo viên, cán bộ quản lý mầm
non nghỉ việc hàng năm là minh chứng cụ thể nhất và hiện nay thiếu từ 2.000
đến 3.000 giáo viên mầm non (theo thống kê từ Sở Giáo dục Thành phố Hồ
Chí Minh) cho phổ cập trẻ mầm non 5 tuổi.
28
Một số giáo viên mầm non nghỉ việc và mở trường, mở nhóm trẻ hoặc
mầm non tư thục có yếu tố quốc tế trong giảng dạy nhằm tránh áp lực trong
công việc nhất là về mặt chuyên môn. Khi mở trường hoặc mở nhóm lớp,
những giáo viên này đã nhẹ bớt gánh nặng chăm sóc nuôi dạy các cháu và có
thể vừa dùng kinh nghiệm về ngành mầm non để quản lý cơ sở của mình vừa
trông nom, chăm sóc thêm cho gia đình. Hoặc ở những giáo viên mầm non
gia đình có kinh tế thuộc loại khá giả sau một thời gian ngắn vào nghề đã bỏ
việc để phụ giúp gia đình quản lý công ty thuộc các lĩnh vực kinh tế khác.
Có nhiều giáo viên mầm non có giọng đọc thơ hay, kể chuyện diễn
cảm; sau khi được phát hiện và giới thiệu bởi các biên tập viên của các đài
truyền hình, đài phát thanh tại Thành phố Hồ Chí Minh đã dứt khoát từ bỏ
công việc giảng dạy mầm non, chuyển sang làm thuyết minh phim, lồng tiếng
với mức thu nhập khá cao so với công việc thực tế của giáo viên mầm non.
Giáo viên mầm non sẵn sàng bỏ nghề đi làm tạp vụ trong nhà hàng, khách
sạn, nhân viên văn phòng, bán hàng, thậm chí tiếp thị bia, mở quán ăn đang là
thực trạng đáng buồn đối với ngành giáo dục. [55, ngày 29/10/2011]
Do đặc thù của ngành mầm non khác với những ngành nghề khác khi
có sự điều động, thuyên chuyển nhân sự ở cấp quản lý phải điều động người
có chuyên môn của ngành mầm non; nếu điều động cán bộ quản lý có trình
độ cao ở các bậc học khác mà thiếu chuyên môn của ngành mầm non thì
việc quản lý sẽ gặp nhiều trở ngại cho cả hai phía là người quản lý và những
người được quản lý. Vì vậy một số giáo viên trong ngành mầm non được đề
bạt lên ban giám hiệu làm công tác quản lý thay cho số cán bộ quản lý nghỉ
hưu theo chế độ quy định và chuyển công tác cũng khiến cho số lượng giáo
viên bị hụt đi.
Công việc quá tải, tổng thu nhập của giáo viên mầm non bình quân là
1,8 - 2,4 triệu đồng/người/tháng nhưng trên thực tế thời gian lao động của đội
29
ngũ này tùy theo tình hình công tác thậm chí vào đợt cao điểm có lúc kéo dài
hơn 12 tiếng (từ 6giờ 30 đến 19 giờ).
Từ thực tế quá tải sức lao động của giáo viên nên mới đầu năm học
2011-2012 số cán bộ quản lý và giáo viên bậc mầm non nghỉ việc đã tăng lên
442 người (54, ngày 21/10/2011).
Tại các quận trung tâm Thành phố như quận 1, quận 3, quận 10; mức
độ bỏ việc của giáo viên mầm non từng năm đều tăng lên rất nhiều, tình trạng
giáo viên mầm non bỏ việc ngày càng trầm trọng. Trong năm học 2012 –
2013 do Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh không tuyển đủ số giáo viên
mầm non còn thiếu cho các trường nên phải chấp nhận phương án để các
Quận, các trường tự tuyển số giáo viên mầm non ở các tỉnh, thành trong cả
nước đang tạm trú tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Quận 5 thiếu khoảng 25 GV.
- Quận 3 thiếu khoảng 40 người. Ở những trường có nhiều điểm lẻ
(quận 3 có 3 trường mầm non có 5 điểm lẻ/ trường) khả năng tuyển giáo
viên cũng rất nhiêu khê, có những giáo viên đến nhận nhiệm sở ngày hôm
trước, hôm sau bỏ đi. Trường Mầm non 9 đang xây dựng cũng có nguy cơ
thiếu giáo viên.
- Quận Tân Phú thiếu 60 giáo viên, phỏng vấn 25 hồ sơ và cuối cùng
chỉ nhận được 2 hồ sơ giáo viên thuộc dạng KT3, hoàn toàn không tuyển
được giáo viên có hộ khẩu tại Thành phố Hồ Chí Minh.
30
Bảng 1.2.1: Thống kê số trường và số giáo viên mầm non còn thiếu
Năm học
Trường mầm non Giáo viên mầm non
Hiện có Còn thiếu Nghỉ việc Hiện có Còn thiếu
2007-2008 639 75 256 11.537 854
2008-2009 654 67 431 10.000 834
2009-2010 669 64 543 8.718 799
2010-2011 721 51 442 8.529 800
2011-2012 759 39 538 7.618 1.258–2.000
(Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố HCM, tháng 8/2012)
Thực trạng vừa nêu trên đã phần nào cho thấy mức độ nghiêm trọng
của tình trạng giáo viên mầm non bỏ việc, đó là một quá trình kéo dài từ năm
này đến năm khác như một thách thức lớn dành cho các nhà quản lý giáo dục
của nước ta nói chung và của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Đến nay
việc tuyển dụng giáo viên mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh phải mở rộng
ra những giáo viên thuộc diện hộ khẩu KT3 nhưng nguồn giáo viên này cũng
không đủ để đáp ứng nhu cầu cần có nên lãnh đạo các phòng Giáo dục và Đào
tạo cũng như ban giám hiệu của một số trường mầm non phải hợp đồng với
những giáo viên không có hộ khẩu và giáo viên có hộ khẩu ở các tỉnh thậm
chí buộc phải tuyển cả bảo mẫu để có người trông trẻ.
1.2.2 Hệ lụy của tình trạng giáo viên mầm non công lập bỏ việc tại
Thành phố Hồ Chí Minh
Đối với gia đình trẻ và trẻ
Thời vàng son của ngành mầm non từ năm 2008 đến nay cũng là thời
gian “cô thiếu - cháu thừa” trong hệ thống trường mầm non công lập. Khi các
trường công lập thiếu và quá tải thì các trường mầm non tư thục, các nhóm trẻ
gia đình do tư nhân quản lý phát sinh rất nhiều nhằm thỏa mãn nhu cầu gửi
con của người lao động. Nhưng chất lượng nuôi dạy trẻ ở hệ thống ngoài công
lập rất thấp; các cơ sở mầm non ngoài công lập chỉ nhằm trông giữ trẻ để cha
31
mẹ các cháu đi làm, người giữ trẻ trong các nhóm trẻ gia đình tự phát này
hoàn toàn không có nghiệp vụ sư phạm mầm non, không hiểu biết tâm, sinh
lý trẻ, không đảm bảo quy trình chăm sóc nuôi dạy trẻ như giáo viên trong các
trường công lập nên ở các mô hình tự phát này tình trạng trẻ mầm non bị bạo
hành và tai nạn rất nhiều, gây bức xúc trong dư luận tại Thành phố Hồ Chí
Minh cũng như trên cả nước.
Khi không gửi được trẻ ở trường mầm non nên gia đình phải tự trông
giữ trẻ do vậy công việc và thời gian lao động của phụ huynh học sinh bị ảnh
hưởng rất nhiều vì các cháu ở lứa tuổi mầm non chưa hoàn thiện tâm sinh lý,
chưa đủ khả năng để tự đảm bảo an toàn và tự phục vụ cho bản thân. Mặt
khác, khi thiếu giáo viên mầm non, thiếu lớp, thiếu trường mầm non dẫn đến
tình trạng quá tải của các trường mầm non đang hoạt động. Theo quy chuẩn, 2
giáo viên mầm non trông 1 lớp thì đa số ở các trường mầm non chỉ có trung
bình 1,19 giáo viên. Từ đó dẫn đến việc các cháu không được nuôi dạy một
cách đầy đủ. Nhiều vấn nạn thương tâm xảy ra không phải do giáo viên thiếu
trách nhiệm, không yêu trẻ, không quan tâm đến trẻ mà do không bao quát
được hết lớp vì sĩ số quá đông. Nhiều giờ học, buổi học không thực hiện hết
quy trình, không phát huy được năng lực sáng tạo của trẻ cũng chỉ vì số lượng
trẻ vượt quá quy chuẩn. Các gia đình khi gửi con em đến trường, họ mong
muốn con em của mình được hưởng thụ tính ưu việt của nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa từ phương pháp chăm sóc, dạy dỗ đến tiện nghi dành cho trẻ.
Nhưng do thiếu giáo viên, nguyện vọng thiết thực, xác đáng đó đôi khi không
thực hiện được.
trường thì lại bỏ việc, càng làm thiếu hụt trầm trọng lực
lượng này nhiều hơn nữa.
Đối với nhà trường
32
Sĩ số lớp tại nhiều trường luôn cao hơn so với quy định chỉ có từ 15 đến
35 trẻ/lớp mẫu giáo tùy theo cấp tuổi (mầm: 3 tuổi - chồi: 4 tuổi - lá: 5 tuổi)
thậm chí có nơi không đủ lớp, thiếu giáo viên; ban giám hiệu buộc lòng phải
tăng sĩ số trẻ lên 50-60 trẻ/lớp/2 giáo viên ở khu vực nội thành và ở ngoại
thành là 40-45 trẻ/lớp/2 giáo viên. Quận 8 có 2 trường mầm non mới, nhưng
vẫn chưa tuyển được giáo viên. Thậm chí trong năm học 2011-2012 trước đó
Quận có một trường mầm non vẫn chưa sử dụng hết công suất cũng do thiếu
giáo viên.
Tình trạng thíếu giáo viên sẽ tạo nhiều áp lực lên trách nhiệm của ban
giám hiệu trường mầm non trong việc quản lý, điều phối nhân sự; thậm chí
hiện tượng giáo viên bỏ việc có lúc phá vỡ toàn bộ kế hoạch năm học, kế
hoạch tài chính, mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra hàng năm của nhà trường.
. hiểu biết cơ bản về tâm sinh lý trẻ …). Nhiều vấn đề nảy sinh trong
quá trình nuôi dạy trẻ nhưng do thiếu giáo viên nên tiếp xúc giữa nhà trường
và phụ huynh học sinh không được thường xuyên, đầy đủ. Nhiều thông tin
không đến được với phụ huynh của trẻ, nhiều vướng mắc của phụ huynh cũng
không được giải đáp. Dưới áp lực của công việc, do có quá nhiều vấn đề phải
quan tâm trong cùng một thời điểm nên đôi khi có hiện tượng giáo viên không
giữ được cách giao tiếp nhẹ nhàng với trẻ, tất cả những vấn đề đó dồn nén lại
gây ra bức xúc ở phụ huynh của trẻ, thậm chí nảy sinh những mâu thuẫn giữa
phụ huynh với nhà trường. Nhà trường phải mất nhiều công sức, thời gian
mới có thể hàn gắn những rạn nứt này. Những vấn đề đó đã làm giảm vị thế
xã hội của giáo viên trường mầm non công lập, giảm vị thế của nhà trường
mầm non nói riêng và ngành mầm non nói chung.
Đối với giáo viên
Thành phố Hồ Chí Minh có 3 trường đào tạo giáo viên mầm non là Đại
học Sư phạm, Đại học Sài Gòn và Cao đẳng Sư phạm TW Thành phố Hồ Chí
33
ách tuyển dụng bảo mẫu cho các trường. Mặc dù trình độ và nghiệp vụ của
bảo mẫu không đòi hỏi cao như giáo viên nhưng với 7.253 bảo mẫu còn thiếu
cho tất cả các trường trên toàn Thành phố thì ngành giáo dục mầm non vẫn
phải đau đầu để tìm mọi cách bù đắp số giáo viên, bảo mẫu thiếu quá nhiều
cho bậc học này. Như vậy, bảo mẫu - những người chưa được đào tạo nghiệp
vụ sư phạm, không được trang bị phương pháp nuôi dạy trẻ phải làm giáo
viên một cách “bất đắc dĩ”. Một số bảo mẫu nhanh chóng hòa nhập được với
nhà trường, trưởng thành dần trong quá trình nuôi dạy trẻ, đảm nhiệm tốt
công việc này. Nhưng cũng có những bảo mẫu không thể thực hiện tốt chức
năng của người giáo viên mầm non. Những trường mầm non có những bảo
mẫu như vậy đã làm cho phụ huynh của trẻ không hài lòng với nhà trường với
cách nuôi dạy của những bảo mẫu - giáo viên này.
Thống kê cho thấy, kể từ ngày thành lập ngành mầm non tại Thành phố
Hồ Chí Minh cho đến nay, tình hình trẻ ở bậc học này không ngừng gia tăng
nhưng so với nhu cầu thực tế số lượng trường mầm non công lập tại Thành
phố Hồ Chí Minh còn thiếu quá nhiều, giáo viên mầm non công lập nghỉ việc
lại gia tăng liên tục khiến cho ngành giáo dục bậc học mầm non phải tự bơi
trong quỹ đạo bất cập “giáo viên mới được đào tạo về trường nhận công tác
thay cho giáo viên cũ xin nghỉ việc”. Đó là một quy trình khép kín chưa tìm
được lối thoát của ngành mầm non Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối với địa phương
non công lập vào mỗi đầu năm học của phụ huynh có con ở lứa tuổi
này. Năm học 2011- 2012 toàn Thành phố có 13 phường chưa có trường mầm
non công lập [52, 16/10/2011] hoặc ở những địa phương có trường công lập
nhưng lại thiếu phòng học, thiếu giáo viên nên không thể chiêu sinh theo
nguyện vọng của người dân tại địa phương. Hiện tượng vào đầu năm học các
34
bậc phụ huynh phải chạy đôn, chạy đáo để tìm trường học cho con đã trở nên
phổ biến. Người dân phải chấp nhận đóng góp mức phí cao để trẻ học trái
tuyến, trái lớp đã không còn là cá biệt. Hiện tượng chạy trường, chạy lớp cho
trẻ vào trường mầm non công lập có thể dẫn đến tham nhũng, tiêu cực gây
bức xúc ở địa phương.
Giáo viên mầm non nghỉ việc cộng với tình trạng thiếu giáo viên cố
hữu của ngành mầm non không những làm đảo lộn kế hoạch phát triển hệ
thống trường mầm non mà còn tác động, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương. Nhiều quận, huyện không mở được trường mầm
non nhưng nhu cầu gửi trẻ thì càng ngày càng tăng lên. Chính vì thế các
nhóm, lớp tự phát trông trẻ mầm non phát triển. Các địa phương đã không
thể kiểm soát được các “nhà trẻ, trường mầm non” tự phát. Các cơ sở tư
nhân này thực chất chỉ là nơi giữ trẻ, không phải nơi dạy trẻ, không làm tốt
được chức năng nuôi dạy trẻ và không đảm bảo các chuẩn như quy định
của Điều lệ Trường mầm non. Những vấn đề trên gây nhức nhối cho nhân
dân địa phương, ảnh hưởng đến an ninh trật tự nhưng không thể giải quyết
một sớm một chiều nếu không khắc phục được tình trạng thiếu giáo viên,
thiếu trường mầm non công lập.
Đối với xã hội
quận, huyện ở Thành phố Hồ Chí Minh vì đã không đủ tài lực để giữ
chân đội ngũ này, khiến cho việc giáo viên mầm non công lập tại Thành phố
Hồ Chí Minh không ổn định. Luôn có sự di động giáo viên mầm non từ
trường công lập sang các trường tư thục, các trường mầm non quốc tế hoặc ở
các lĩnh vực khác tại Thành phố Hồ Chí Minh. Vì ngoài một số chế độ đãi
ngộ cao của các ngành nghề khác đã tuyển dụng và giữ chân giáo viên mầm
non công lập thì với mức lương khá hấp dẫn cùng với sự hoàn thiện về cơ sở
vật chất của hệ thống các trường tư thục, trường quốc tế cũng như sức khỏe
35
và tâm lý làm việc không bị áp lực nhiều đã lôi kéo giáo viên mầm non công
lập bỏ việc từ hệ thống giáo dục quốc dân chuyển sang trường tư thục, trường
quốc tế.
Tình trạng giáo viên mầm non công lập bỏ việc dẫn đến sự thiếu hụt
giáo viên triền miên trong bậc học này là một vòng luẩn quẩn chưa có hướng
ra.
1.2.3. Nguyên nhân bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại
Thành phố Hồ Chí Minh
Một là, chế độ chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng
Giáo viên mầm non công lập bỏ việc khởi nguồn từ việc chưa có sự
quan tâm thích đáng của các nhà quản lý Nhà nước về vật chất, tinh thần dành
cho đội ngũ này. Lương của giáo viên mầm non công lập chỉ dao động từ 1,8
đến 2,4 triệu đồng/tháng. Đồng lương thực lĩnh đó chưa tương xứng với công
sức bỏ ra của giáo viên mầm non công lập. Mức lương của giáo viên mầm
non công lập thấp nhất trong hệ thống thang bảng lương so với giáo viên các
cấp học khác trong ngành giáo dục. Ngoài chế độ lương và phụ cấp 35% theo
quy định của ngành ra, không có bất kỳ một chế độ đãi ngộ nào khác dành
cho giáo viên mầm non công lập trong khi thời gian công tác một ngày của
giáo viên mầm non có lúc lên đến hơn 12 tiếng. Công sức bỏ ra của giáo viên
bậc học này luôn vuợt khung quy định làm việc 8 tiếng/ngày của Nhà nước.
Lương ít, thời gian làm việc nhiều, các tiêu chuẩn phúc lợi khác như nhà ở, an
dưỡng định kỳ dành cho các giáo viên có sức khỏe hạn chế khi khá lớn tuổi,
hoặc khi có bệnh hiểm nghèo hoàn toàn nằm ngoài chế độ ưu tiên. Trong khi
làm việc ở các trường mầm non tư thục hoặc quốc tế, lương của giáo viên
mầm non cao hơn, số lượng trẻ cũng đạt chuẩn quy định theo cấp lớp và lứa
tuổi nên áp lực của nghề không nặng nề như trong quá trình công tác tại các
trường công lập.
36
Một số giáo viên mầm non công lập khi sinh con do nhiều hoàn cảnh,
nhất là do lương thấp, không có khả năng nuôi người giúp việc hoặc gửi con ở
nhà trẻ tư nhân nên buộc phải chấp nhận xin nghỉ việc để nuôi con mọn sau
khi chấm dứt chế độ nghỉ hộ sản 4 tháng. Đó là một trong những nguyên nhân
bỏ việc rất đau lòng và không đáng có của đội ngũ này.
Bất cập trong hệ thống giáo dục mầm non vẫn chưa có lời giải và
những bất cập đó luôn làm đắng lòng những người quản lý khi nhắc đến cấp
học nhỏ nhất này. Để tháo gỡ tình trạng thiếu trầm trọng giáo viên mầm non,
lãnh đạo các Phòng giáo dục và Đào tạo tại một số quận trong Thành phố Hồ
Chí Minh đã tuyển thêm bảo mẫu cho các trường nhưng do cơ chế của ngành
không có định biên chức danh bảo mẫu trong hệ thống giáo dục mầm non nên
việc tuyển thêm bảo mẫu chỉ rải rác ở một số trường trong nội thành Thành
phố có nguồn tài chính dự chi hàng năm đáp ứng được nhu cầu hạch toán của
nhà trường nên việc thiếu giáo viên vẫn là chuyện “biết rồi, khổ lắm, nói
mãi”. Tuy nhiên với mức lương thấp, mọi chế độ ưu đãi không có ngoài
lương theo hợp đồng, áp lực công việc nặng, thời gian làm việc nhiều nên
cũng rất khó khăn trong việc tuyển dụng nguồn nhân sự tự do bên ngoài cho
chức danh này của các trường mầm non.
Sau những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từng bước xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đặc biệt với việc gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của nước ta vào năm 2006, nền kinh tế -
xã hội của nước ta nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã có
nhiều thay đổi về cơ cấu xã hội và định hướng phát triển trong tương lai.
Những đổi thay đó đã tác động cả tích cực và tiêu cực đến tư tưởng của giáo
viên mầm non đang công tác trong các trường công lập. Có thể nói trong thời
kinh tế thị trường đã xuất hiện các công việc mới với đa dạng hóa các ngành
nghề trong xu thế mở rộng hoạt động và sự phát triển của các thành phần kinh
37
tế trong thời đổi mới đã tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn việc làm khác trong đội
ngũ giáo viên mầm non trường công lập có tiềm năng về trình độ, kinh tế, sức
khỏe, tuổi đời. Do đó một trong những nguyên nhân bỏ việc của các giáo viên
trường mầm non công lập là do tác động của quy luật kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế. Đây là quy luật mang tính chất vĩ mô về mặt kinh tế nên tạo ra
rất nhiều biến đổi của xã hội, mở ra nhiều cơ hội cạnh tranh chất xám trong
các cơ quan Nhà nước và khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước cũng như
trong lĩnh vực giáo dục mầm non công lập và giáo dục mầm non tư thục.
Sau khi Nhà nước có chủ trương xã hội hóa một số lĩnh vực và ngành
nghề khác cho phù hợp với nhu cầu phát triển của thời đại thì kể từ năm 2005,
ngành mầm non Thành phố Hồ Chí Minh đã có rất nhiều trường mầm non tư
thục và trường mầm non quốc tế được thành lập với quy mô khá lớn về cơ sở
vật chất trường lớp. Có trường lớp chất lượng tốt thì phải có nguồn nhân lực
đáp ứng tương đương với quy mô đã mở. Trong trường hợp này cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế đã đòi hỏi và làm phát sinh thị trường lao động
trong ngành giáo dục mầm non. Nhu cầu nhân sự của lĩnh vực giáo dục mầm
non đã phát sinh, đòi hỏi rất quyết liệt về số lượng, chất lượng và thời gian.
Để đào tạo nguồn nhân lực kịp thời đáp ứng cho nhu cầu cấp bách này các
trường sư phạm chuyên đào tạo giáo viên mầm non dù có đào tạo hết công
suất vẫn không thể nào bổ sung kịp thời cho mức cầu quá lớn của thời hội
nhập trong khi nhiệm vụ hàng đầu của các trường sư phạm này là phải đào tạo
và phân bổ nhân sự cho các trường công lập chính quy trong hệ thống giáo
dục quốc dân. Do đó, các trường trường mầm non tư thục, trường mầm non
quốc tế đã tìm mọi cách để thu hút những giáo viên mầm non có tay nghề cao,
có nhiều kinh nghiệm ở khối trường công lập về đầu quân cho trường mình
bằng những chính sách đãi ngộ khá cao về lương bổng, về điều kiện làm việc
và nhiều chế độ khác khiến cho giáo viên mầm non công lập bấy lâu nay chỉ
quen với sự bao bọc của Nhà nước về các khoản lương bổng, chế độ bỗng
38
bừng tỉnh và có sự so sánh nhằm lựa chọn cho mình một môi trường làm việc
mới tương xứng với công sức bỏ ra hàng ngày.
Những đãi ngộ cao của các trường tư thục, trường mầm non quốc tế
hoặc những ngành nghề khác về mặt kinh tế, thời gian, môi trường làm việc
cũng là một lực hút rất mạnh cho hiện tượng bỏ nghề của Giáo viên mầm non
công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi muốn có một giáo viên mầm
non phải mất ít nhất 2 năm đào tạo ở hệ trung cấp, 3 năm cho hệ cao đẳng.
Còn nếu ở bậc đại học thì tình trạng đầu ra của sinh viên sư phạm mầm non
cũng tương đương với các ngành khác của trường đại học nhưng lương lại
thấp nên sinh viên không mặn mà lắm với ngành học mầm non khi nhìn vào
thực trạng hiện nay của bậc học này. Do tâm lý cùng một thời gian đào tạo
trong trường đại học, nếu học và tốt nghiệp sư phạm mầm non mà sau này lại
không theo nghề thì phải mất tiền bạc và thời gian học lại ngành nghề khác
nên trong vài năm trở lại đây số sinh viên thi vào khoa mầm non của các
trường đại học rất ít. Từ đó phát sinh một nghịch lý là số lượng sinh viên tốt
nghiệp của khoa mầm non bậc đại học đã ít nhưng lại không về trường mầm
non nhận nhiệm sở mà thường chạy vào các vị trí công tác thuộc cấp Sở,
Phòng Giáo dục và đào tạo hoặc các cơ quan, ngành nghề khác.
ra và nhất là được sự nhìn nhận về mặt xã hội khi làm công việc khác
ngoài nghề giáo viên mầm non. Đây là thực trạng đáng buồn cho ngành giáo
dục nói chung và cho bậc học mầm non nói riêng và cần lắm những tháo gỡ
kịp thời, những điều chỉnh mang tính quy mô, đồng bộ để hạn chế ở mức thấp
nhất tình trạng giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh bỏ
việc trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, áp lực về công việc và thời gian
Giáo viên mầm non trường công lập không thể gánh nổi áp lực công
việc ngày càng nặng nhọc - vừa làm giáo viên đồng thời vừa phải làm bảo
39
mẫu cách nhật theo đổi mới của ngành. Áp lực sĩ số luôn quá tải trong một
lớp mà lương bổng không đủ để phục hồi lại sức khỏe bị hao hụt sau một
ngày làm việc nên số giáo viên công lập nghỉ việc để qua trường tư thục làm
việc vì ít bị áp lực về sĩ số trong lớp.
Một trường mầm non công lập được xây mới có thể xóa từ 3 đến 5
nhóm lớp tư thục và đồng nghĩa với việc chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ
cũng được nâng lên rất nhiều so với các trường, lớp, nhóm trẻ ngoài công lập.
Nhưng trường công không được xây thêm hoặc xây mới cho phù hợp với
công tác chăm sóc nuôi dưỡng các cháu mầm non trong khi nhóm lớp tư thục
ngày càng dôi ra, và số trường công lập hiện có cũng không đáp ứng đủ nhu
cầu đến lớp của học sinh. Đây cũng là thực trạng khiến cho giáo viên mầm
non bị tăng áp lực khi chăm sóc, nuôi dạy trẻ và là một trong những nguyên
nhân chính khiến cho đối tượng này bỏ việc dù trong số đó vẫn có những giáo
viên rất yêu nghề, mến trẻ.
Đối với giáo viên mầm non, đã có rất nhiều văn bản quy định cụ thể về
thời gian làm việc, số tiết dạy trên lớp, các chế độ liên quan đến quyền lợi của
đội ngũ này nhưng trên thực tế giáo viên mầm non thường phải làm việc quá
giờ, không được trả lương tương xứng với công sức và thời gian làm việc.
Thực trạng này tồn tại công khai, phổ biến đến mức có thể cho là việc bình
thường, đó chính là hiện tượng “quá tải sức lao động” của giáo viên mầm non.
Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của đất nước ta đã
khiến cho xu thế mở rộng hoạt động của các thành phần kinh tế khác bén rễ,
đồng thời tạo nhiều cơ hội thay đổi việc làm của người dân, nhất là xu hướng
quốc tế hóa trong giáo dục mầm non và trước tình hình mức cung không đủ
nhu cầu cần thiết của bậc học mầm non nên hiện tượng giáo viên mầm non bỏ
việc trong trường công lập để chuyển sang làm việc tại các trường tư thục
hoặc các trường mầm non quốc tế có thu nhập cao hơn và đỡ áp lực công việc
40
hơn. Nhưng ngay ở các trường mầm non tư thục có thu nhập cao hơn ở các
trường công lập, tình trạng giáo viên bỏ việc cũng rất phổ biến. Vì với cùng
đồng lương theo quy định của nhà nước, thời gian lao động của các ngành
nghề khác là 8 tiếng/ngày; còn giáo viên mầm non có lúc phải làm trên 12
tiếng/ngày, tối về nhà phải chuẩn bị học cụ cho buổi dạy hôm sau. Công việc
chuyên môn đòi hỏi quá nhiều công sức và chiếm hầu hết thời gian trong
ngày, không còn sức lực và thời gian cho các nhu cầu khác của bản thân như
chăm sóc gia đình, nghỉ ngơi, giải trí … nên tình trạng giáo viên mầm non bỏ
việc là hệ quả tất yếu bởi những nghịch lý đã tồn tại từ nhiều năm qua cho
đến nay vẫn chưa được giải quyết.
Có những hiện tượng khá phổ biến xảy ra là một số giáo viên mầm non
có tuổi đời còn khá trẻ, chưa có gia đình đang làm việc trong ngành nhưng do
đến với nghề không có yếu tố tâm huyết với trẻ mầm non, cộng với áp lực
trong công việc nhất là phải vệ sinh cho lứa tuổi này luôn quá tải nên những
giáo viên này chán nản bỏ việc cũng là điều dễ hiểu. Một số giáo viên mầm
non khá lớn tuổi dù đã qua đào tạo cơ bản nhưng sự phấn đấu vươn lên của họ
không cao, không theo kịp với sự phát triển của đổi mới ở bậc học mầm non,
không đáp ứng yêu cầu công tác chuyên môn nhất là việc áp dụng công nghệ
thông tin vào giảng dạy của ngành mầm non nên sau một thời gian theo nghề,
số giáo viên mầm non đó đã chán nản bỏ việc. Nói một cách khác, những giáo
viên mầm non này tuy có kinh nghiệm, được đào tạo, yêu nghề nhưng cũng
không trụ lại được với nghề vì không vượt qua được những yêu cầu ngày
càng cao của công việc.
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi thực hiện chế độ làm việc “giáo viên
kiêm bảo mẫu cách nhật” trong các trường mầm non công lập, một số giáo
viên mầm non có trình độ trên chuẩn rất nhiều nên cảm thấy công việc và
trình độ có sự chênh nhau, dẫn đến suy nghĩ tìm việc khác cho phù hợp với
41
trình độ nên sẵn sàng bỏ nghề khi có điều kiện. Trong khi ở các trường tư
thục giáo viên chỉ phụ trách công việc giảng dạy, mọi công việc liên quan tới
chăm sóc, ăn, ngủ và vệ sinh cho trẻ đều do bảo mẫu đảm trách.
Áp lực công việc đối với giáo viên trong các trường mầm non công lập
quá lớn. Ngoài lao động quá vất vả trong công tác công tác chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục trẻ, hàng ngày còn phải ghi chép sổ sách chuyên môn và
kiêm nhiệm khá nhiều việc công (công đoàn, chi đoàn, thanh tra, thủ quỹ…)
khiến cho giáo viên mầm non công lập phải bỏ việc tìm kế sinh nhai khác và
dồn gánh nặng còn lại lên vai những người đang ở lại với nghề.
Ba là, cơ chế quản lý lạc hậu, không phù hợp, chậm đổi mới
Nguyên nhân bỏ việc của giáo viên mầm non còn bắt nguồn từ áp lực
của cơ chế quản lý tại trường công lập nơi họ đang công tác. Trong một đợt
khảo sát mới nhất về môi trường giáo dục ở trường mầm non do Khoa Mầm
non thuộc trường Đại học Sài Gòn thực hiện thì có đến 87% giáo viên mầm
non trả lời áp lực nặng nề nhất là từ cấp quản lý trực tiếp như: thanh tra thiếu
thiện chí; cư xử thiếu công bằng, tùy tiện; giao nhiều công việc thiếu khoa
học, thiếu tổ chức.
Ngoài ra phải kể đến những khó khăn của ban giám hiệu trong việc trực
tiếp quản lý những trường mầm non có nhiều điểm lẻ. Theo chức trách và
nhiệm vụ ban giám hiệu phải thường xuyên di chuyển để điều hành, kiểm tra
công việc ở các điểm lẻ, mất rất nhiều công sức, thời gian, tâm trí nên số cán
bộ quản lý này cũng không vượt qua được áp lực, chán nản và bỏ việc. Như
vậy, có thể thấy cơ chế quản lý các trường có nhiều điểm lẻ chưa thật linh
hoạt, vẫn cứng nhắc, chưa mạnh dạn giao quyền tự chủ cho cấp dưới.
Cơ chế quản lý trực tiếp của ban giám hiệu ở ngành học mầm non
trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay vẫn chưa đổi mới
nhiều, dù Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, giáo dục, văn hóa-xã
42
hội lớn nhất nước. Có những ban giám hiệu trường mầm non vẫn quản lý giáo
viên không theo quy chế dân chủ và đổi mới mà ngược lại vẫn duy trì cách
quản lý theo cơ chế quan liêu như thời bao cấp, sử dụng các phương pháp
quản lý theo hướng tập trung độc quyền, áp đặt mệnh lệnh từ trên xuống dưới,
không tạo môi trường thân thiện trong nội bộ nhà trường để giáo viên phát
huy thế mạnh về chuyên môn và các năng lực tiềm tàng để nâng cao chất
lượng trong chăm sóc nuôi dạy trẻ, từ đó làm ảnh hưởng rất nhiều đến tinh
thần làm việc của giáo viên nhất là ở những giáo viên có nhiều năng lực trong
nghề. Ở các trường mầm non công lập mà cán bộ quản lý hạn chế về tài, tâm
và tầm thì hiện tượng chảy máu chất xám là điều tất yếu phải xảy ra, nhất là ở
các giáo viên trẻ vốn có nhiều năng lực vượt trội. Họ âm thầm tự trang bị cho
bản thân bằng các loại văn bằng ở những lĩnh vực khác để sẵn sàng bỏ việc
khi tiếp cận được với thời cơ mới, nhất là giai đoạn hội nhập quốc tế và có
chủ trương xã hội hóa ở một số lĩnh vực lao động khác như tài chính kế toán,
ngân hàng, du lịch…
Cơ chế quản lý thu chi tài chính vẫn thực hiện theo những quy định cũ,
chưa giao quyền tự chủ cho bên dưới trong khi đó giá cả sinh hoạt tăng hàng
ngày. Chính vì vậy, nếu thực hiện theo đúng cơ chế tài chính thì nhà trường
rất khó khăn trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ và trong việc mua sắm trang
thiết bị cơ sở vật chất, dụng cụ giáo dục và đồ chơi cho các cháu. Điển hình
nhất là mức thu bán trú trong quy định của ngành mầm non để chi cho các
hoạt động và hỗ trợ thêm lương cho giáo viên dưới hình thức công phục vụ
bán trú. Quy định mức thu này tiến hành từ năm 1988 đến nay đã quá lạc hậu
(học phí nhà trẻ: 50.000đ/cháu/tháng - học phí mẫu giáo: 40.000đ/cháu/tháng
- vệ sinh phí: 5.000đ/cháu/tháng) trong khi lương cơ bản đã tăng từ 730.000
đồng (năm 2010) lên 830.000 đồng (năm 2011) và hiện tại là 1.050.000 đồng
(năm 2012). Mức hỗ trợ dưới hình thức công phục vụ bán trú phục thuộc vào
43
mức thu thấp như vậy cũng là một nguyên nhân khiến cho ngành mầm non rất
khó giữ chân giáo viên ở lại với nghề. Năm 2011 ngành Giáo dục và Đào tạo
Thành phố Hồ Chí Minh đã kiến nghị Hội đồng Nhân dân và Ủy Ban Nhân
Dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét để nâng mức thu bán trú tại các trường
lên tối thiểu là 150.000đồng/tháng, tối đa 200.000đồng/tháng; nâng vệ sinh
phí lên từ 15.000 - 20.000 đồng/tháng để giảm bớt những khó khăn trước mắt
cho ngành mầm non, nhất là hiện tượng giáo viên mầm non nghỉ việc vì
lương không đủ sống nhưng kiến nghị này cho đến nay vẫn là điều chưa thể
thực hiện được.
Bốn là, cơ sở vật chất các trường mầm non công lập chưa đáp ứng
được nhu cầu nuôi dạy trẻ
Chỉ trừ một số trường mầm non được sửa chữa, xây mới theo quy mô
chuẩn Quốc gia, số cơ sở vật chất còn lại của các trường mầm non tại Thành
phố Hồ Chí Minh đa phần là những lớp học được tận dụng từ các ngôi nhà
n rất nhiều, ảnh hưởng đến độ bền về sức khỏe của giáo viên mầm non nên dù
có tâm huyết với nghề, những giáo viên này cũng không thể trụ được lâu dài
trong ngành mầm non.
Thiếu sự đầu tư cho ngành học này từ nhiều chục năm qua của các cấp
lãnh đạo khiến cho ngành học này rơi vào tình trạng thoi thóp vì ngành giáo
dục mải mê hết lo phổ cập giáo dục cho bậc tiểu học (bắt đầu từ năm 1991)
đến phổ cập giáo dục trung học cơ sở (từ năm 2004) mà quên bậc học mầm
non. Cho đến năm 2010 Bộ Giáo dục và Đào tạo mới quyết định phổ cập giáo
dục cho trẻ 5 tuổi thì lại vướng tình trạng thiếu trường lớp và thiếu giáo viên
mầm non trầm trọng. Theo nhận định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Phạm Vũ Luận “Một phần do nhận thức, một phần do điều kiện tài chính nên
có giai đoạn đã không coi trọng giáo dục mầm non bằng các cấp học phổ
thông” [55 26/12/2012]. Trong khi nếu đem so sánh với môi trường làm việc ở
44
các trường tư thục hoặc trường mầm non quốc tế thì với cơ sở vật chất tốt, tiện
nghi tối đa; cường độ lao động của giáo viên vẫn nằm trong ngưỡng an toàn,
không quá tải về sức khỏe nên lựa chọn tiên quyết của giáo viên mầm non công
lập là dứt khoát bỏ trường công lập để về các trường tư thục công tác. Bất cập
kéo dài đó luôn là nỗi lo của lãnh đạo ngành giáo dục bậc học này.
Năm là, tác động của môi trường và nhu cầu xã hội của cá nhân giáo
viên mầm non công lập trong nền kinh tế thị trường
Theo thang bậc nhu cầu của Abramh Maslow (xem phụ lục), nhu cầu
của con người luôn có sự thay đổi từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều tùy theo
mỗi giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của mỗi người. Sau khi thỏa mãn
được những nhu cầu tối thiểu của cá nhân ở thang bậc thấp, nhóm người có
nhu cầu cao nhất là những người thật sự có trình độ và năng lực vượt bậc,
luôn có nhu cầu vươn lên, đòi hỏi được tôn trọng và được đặt đúng vị trí về
năng lực lẫn uy tín trong môi trường làm việc. Nhưng cũng đồng thời trong
môi trường làm việc đó, với những người có trình độ và năng lực chỉ ở mức
cơ bản tối thiểu thì việc dùng thước đo kinh tế của bản thân mà chủ yếu là vấn
đề lương tiền để duy trì cuộc sống của họ chính là nhóm người ít có tâm huyết
với nghề nghiệp đang theo đuổi. Nếu mang những nhận định trên vào Thang
bậc nhu cầu cùa Abram Maslow và đặt vào hiện tượng bỏ việc của giáo viên
mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh thì những hiện tượng bỏ việc
đã nêu trên và thuyết Thang bậc nhu cầu của Abram Maslow có sự liên hệ với
nhau khá chặt chẽ.
Những giáo viên mầm non công lập có năng lực thực sự vượt trội so
với nhu cầu phát triển của môi trường làm việc khá đơn điệu này sẽ tìm cách
từ bỏ vị trí công tác hiện tại trong trường mầm non công lập để tìm đến những
cơ quan có nhiều thử thách trình độ và khả năng của đối tượng này để tìm cơ
hội thăng tiến cho bản thân. Ngoài ra những giáo viên thuộc nhóm ít năng lực,
45
hoặc không thể tìm công việc nào khác so với công việc hiện tại thì cũng bỏ
việc vì mức lương của giáo viên mầm non không đủ trang trải cho cuộc sống
của họ trong bối cảnh kinh tế xã hội của cả nước nói chung và của Thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng trong thời hội nhập đang tăng lên khá nhanh.
Trong tiến trình đổi mới giáo dục, bên cạnh những ý chí vươn lên để
nâng cao và hoàn thiện bản thân nhằm tự khẳng định năng lực thực sự của
một số giáo viên mầm non thì vẫn còn những giáo viên mầm non trong môi
trường công lập không có cơ hội bộc lộ năng lực của mình để phục vụ trong
ngành và bị ảnh hưởng từ những đãi ngộ cao của các môi trường làm việc
mầm non tư nhân hoặc các ngành nghề khác về mặt kinh tế - xã hội.
Đời sống văn hóa trong thời hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hầu
như có mặt ở tất cả mọi lĩnh vực đã tác động rất lớn vào đời sống của người
dân ở Thành phố Hồ Chí Minh và những thay đổi của cuộc sống đã tạo thành
một lực hút rất mạnh khiến cho hiện tượng bỏ nghề của giáo viên mầm non
công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một trào lưu mới, một nhu cầu
rất thật và rất người trong thời đại ngày nay.
Hiện nay dư luận xã hội vẫn có luồng ý kiến chưa xem trọng vai trò, vị
trí và sự cần thiết của đội ngũ giáo viên mầm non. Hiện tượng giáo viên mầm
non bị xem thường vì cho rằng đây là bậc học thấp, không mang lại hiệu quả
kinh tế cao cho toàn xã hội, không giúp cho sự phát triển trí tuệ của trẻ nhiều
so với bậc học phổ thông mà gần nhất là cấp tiểu học nên sự đãi ngộ về mặt
tinh thần và vật chất của xã hội dành cho đội ngũ giáo viên mầm non không
cao. Tư tưởng đó đã khiến cho không ít giáo viên mầm non mặc cảm về công
việc của mình trước các đối tượng ở các ngành nghề khác nên có một số giáo
viên mầm non (đa số là giáo viên trẻ tuổi, gia đình có điều kiện kinh tế) chấp
nhận bỏ nghề, đi học lại ở các trường hoặc các ngành nghề khác có yếu tố
kinh tế hoặc có thương hiệu cao trong xã hội.
46
Môi trường lao động ở các trường mầm non với đa số là nữ giới có
những thuận lợi cơ bản là chị em dễ dàng chia sẻ, tâm sự với nhau những
thuận lợi, khó khăn trong công việc cũng như trong cuộc sống và gia đình. Họ
giúp nhau vươn lên hoàn thành tốt việc nuôi dạy trẻ. Nhưng trong môi trường
đa số là nữ (có trường 100% giáo viên mầm non là nữ) thì với những tính
cách đặc trưng của phụ nữ như dễ giận, dễ hờn, khi gặp những khó khăn
thường hay chán nản, cáu gắt và phát sinh những suy nghĩ tiêu cực. Những
vấn đề đó ảnh hưởng nhất định đến bầu không khí tâm lý giao tiếp trong nhà
trường mầm non. Hiện tượng bỏ việc dễ lây lan trong những môi trường như
vậy. Mặt khác trong lúc công tác ở môi trường mầm non, giáo viên phải làm
việc 12 tiếng một ngày, khi về đến gia đình lại còn phải lo chuẩn bị học cụ
cho ngày làm việc tiếp theo. Vì vậy, những người đã có gia đình cũng ít dành
được thời gian, tâm trí cho người thân, cho công việc gia đình. Những giáo
viên trẻ chưa có gia đình lại càng không có điều kiện, thời gian để giao lưu
với bạn bè trang lứa. Họ khó có cơ hội để làm quen với người khác giới. Việc
lập gia đình trở nên khó khăn đối với họ. Nhiều giáo viên mầm non hàng ngày
chỉ tiếp xúc với trẻ nên khi được mai mối vì ít có cơ hội nên nhanh chóng
chấp nhận mối quan hệ này, nhưng sau một thời gian chung sống nhiều vấn
đề phát sinh như người yêu (chồng) không thể chấp nhận người yêu (vợ) từ
sáng sớm đến tối ở trường mầm non với đồng lương ít ỏi, không có khoản thu
nhập nào khác nên đã nhanh chóng chia tay. Những vấn đề trên đã tác động
sâu sắc đến những giáo viên trẻ của các trường mầm non, sinh viên các
trường đại học và cao đẳng mầm non và cả những người có ý định xin vào
công tác trong ngành mầm non. Từ đó dẫn họ đến chỗ bỏ việc và từ chối nhận
nhiệm sở tại trường mầm non để tìm cho mình một gia đình, một hạnh phúc
riêng. Nếu không cải thiện môi trường làm việc thì khó có thể giữ chân giáo
viên mầm non kể cả những người yêu trẻ, tâm huyết với nghề.
47
*
* *
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân
có nhiệm vụ quan trọng là đặt nền móng cho sự hình thành những phẩm chất,
nhân cách đầu tiên của con người. Trong những năm qua các trường mầm non
công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục -
nhiệm vụ chính trị phục vụ cho sự nghiệp giáo dục đào tạo con người góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Giáo viên các trường mầm non công lập là những viên chức Nhà nước,
được tuyển dụng vào công tác trong ngành mầm non, thực hiện nhiệm vụ nuôi
dạy trẻ. Nhận thức được vị trí quan trọng của nhiệm vụ trồng người, các thế
hệ giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh đã không ngừng
phấn đấu vươn lên, yêu nghề, yêu người, tận tâm, tận lực với công việc nuôi
dạy trẻ. Xã hội ghi nhận những công lao của giáo viên mầm non công lập.
Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động mạnh đến đội
ngũ giáo viên mầm non công lập. Những đãi ngộ cao về lương bổng, về chế
độ chính sách đã lôi kéo giáo viên mầm non công lập về các trường mầm non
tư thục, các trường mầm non mang yếu tố nước ngoài và về các ngành nghề
kinh tế khác. Trong khi đó, người giáo viên mầm non công lập phải chịu áp
lực lớn về công việc, các chế độ chính sách đãi ngộ lại chưa thỏa đáng nên
nhiều giáo viên mầm non công lập đã bỏ việc để tìm cho mình một việc làm
có đãi ngộ tương xứng với công sức của họ bỏ ra. Thực trạng đáng buồn đó
của ngành mầm non hiện nay đặt ra vấn đề cấp thiết là tìm ra những biện pháp
khả thi để ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non
công lập.
48
49
Chương 2
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, DỰ BÁO TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC,
CÁC BIỆN PHÁP CƠ BẢN NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
2.1 Những yếu tố tác động và dự báo tình trạng bỏ việc của giáo
viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1 Yếu tố tác động đối với giáo viên mầm non công lập tại Thành
phố Hồ Chí Minh
Một là, tình hình phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm chính trị, kinh tế, giáo dục và văn
hóa - xã hội lớn của đất nước. Chỉ số phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh
nhiều năm đứng đầu cả nước. Sự phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hồ
Chí Minh đã tạo nguồn lực cho phát triển giáo dục đào tạo nói chung và phát
triển trường mầm non nói riêng. Nguồn lực đầu tư cho giáo dục mầm non đã
tăng lên từ 10 đến 15% tổng chi thường xuyên cho giáo dục đào tạo và tăng
hàng năm. Thành phố đã có nhiều chính sách ưu đãi đối với giáo viên mầm
non công lập nhằm cải thiện đời sống, thu hút và giữ chân lực lượng này tại
các trường mầm non công lập để đáp ứng nhu cầu gửi trẻ ngày càng tăng của
người dân Thành phố.
Nhiều năm qua Thành phố đã đầu tư xây dựng các trường mầm non,
tăng kinh phí cho mua sắm trang thiết bị, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật
và đồ chơi dạy học cho các trường mầm non. Sự thay đổi về chính sách, sự
quan tâm của cấp ủy, chính quyền các cấp từ Thành phố đến cơ sở đã tạo
động lực thu hút nhân tài, những người yêu trẻ, có tâm huyết với nghề nuôi
dạy trẻ cho các trường mầm non công lập, góp phần giảm dần số lượng giáo
viên bỏ việc, nhảy việc.
50
Sự phát triển về kinh tế xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh đã nâng cao
mức sống của người dân Thành phố. Các gia đình có điều kiện quan tâm nhiều
hơn đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Do đó, ngành mầm non có
điều kiện thuận lợi cho việc huy động kinh phí đóng góp của phụ huynh, của
cộng đồng và xã hội cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.
Xã hội hóa giáo dục mầm non đã trở thành một phong trào ở Thành phố
Hồ Chí Minh. Nhiều người dân hiến đất, đóng góp tài sản để xây dựng các
trường mầm non công lập. Cùng với sự quan tâm, đầu tư của Thành phố và
nhờ một phần vào hiệu quả của xã hội hóa giáo dục mầm non, bộ mặt của các
trường mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều thay đổi. Trường
lớp khang trang hơn, tiện nghi cơ sở vật chất chăm sóc nuôi dưỡng trẻ được
cải thiện và không ngừng đổi mới. Chính vì vậy đã phần nào giảm tải trọng và
bớt áp lực trong công tác của giáo viên mầm non công lập. Đây cũng là thuận
lợi cho việc giữ chân giáo viên mầm non công lập ở lại trường.
Hai là, sự tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường
Bên cạnh những mặt tích cực thì mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác
động mạnh đến người giáo viên trường mầm non công lập.
Giáo dục mầm non tuy là bậc học thấp nhất trong hệ thống giáo dục
quốc dân nhưng giáo dục mầm non cũng không đứng ngoài quy luật chi phối
của cơ chế thị trường. Xu hướng thương mại hóa giáo dục đã len lỏi vào giáo
dục mầm non. Việc xem trọng đồng tiền và lợi ích vật chất, xem nhẹ giáo dục
và các giá trị tinh thần đã dẫn đến sự đối xử phân biệt giữa trẻ trong một lớp,
trong một trường, giữa lớp này với lớp khác, trường này với trường khác.
Xem trọng giá trị lợi ích vật chất cũng là nguyên nhân thúc đẩy giáo viên
mầm non công lập từ bỏ lý tưởng cuộc sống, từ bỏ lòng yêu nghề, yêu người
của ngành giáo dục mầm non để nhảy sang những công việc khác có những
ưu đãi tốt hơn. Mặt khác, nền kinh tế thị trường đã tạo ra những tiền đề,
51
những cơ hội cho giáo viên mầm non công lập có sự lựa chọn những công
việc, những vị trí xã hội được trọng vọng hơn so với nghề mầm non.
Ba là, sự mở rộng các trường mầm non tư thục và quốc tế
Sự tăng nhanh dân số về mặt cơ học tại Thành phố Hồ Chí Minh do
tình hình nhập cư của những người dân ở trên các tỉnh thành cả nước đổ về,
trong đó đáng kể nhất là đội ngũ những người trẻ đã làm tăng nhanh số lượng
trẻ mầm non. Nhu cầu gửi trẻ tại các khu chế xuất, khu công nghiệp tăng đột
biến, dù Thành phố đã có đầu tư để phát triển trường mầm non, nhưng trong 5
đến 10 năm tới việc xây dựng, mở rộng trường mầm non công lập để đáp ứng
nhu cầu gửi trẻ ngày càng tăng cũng chưa thể đáp ứng được. Do vậy, nhiều
trường mầm non tư thục, trường mầm non có yếu tố nước ngoài đã mở ra với
ưu đãi cao để lôi kéo giáo viên mầm non công lập. Mặt khác, cơ sở vật chất
của các trường mầm non công lập còn yếu và thiếu, chưa đáp ứng cho chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ nên lao động của giáo viên mầm non công lập
luôn quá tải. Trong khi đó, cơ sở vật chất của các trường tư thục lại khá tốt đã
tạo điều kiện so sánh trong đội ngũ giáo viên mầm non công lập, thúc đẩy họ
đi đến lựa chọn làm việc ở trường mầm non tư thục để đỡ bị áp lực công việc
và duy trì cuộc sống tốt hơn.
Bốn là, cơ chế quản lý các trường mầm non công lập hiện nay còn
nhiều hạn chế
Nhiều năm qua Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều đổi mới trong cơ
chế quản lý giáo dục và đào tạo trong đó có giáo dục mầm non. Tuy nhiên sự
đổi mới đó vẫn chưa theo kịp với sự đổi mới của xã hội, của Thành phố và
mong muốn của cán bộ quản lý, giáo viên mầm non và phụ huynh của trẻ. Cơ
chế quản lý hiện nay của trường mầm non vẫn nặng về hành chính quan liêu
nên một số mặt của giáo dục mầm non đạt chất lượng thấp nhưng chưa kịp
thời khắc phục. Sự phân cấp quản lý còn có những bất cập, một mặt có hiện
52
tượng khoán trắng việc quản lý bậc học này cho cấp quận, huyện, xã mà trực
tiếp là cho phòng giáo dục và đào tạo. Mặt khác lại ôm đồm không mạnh dạn
giao quyền tự chủ cho cấp dưới.
Cơ chế quản lý nhiều tầng, nhiều lớp nhưng lại không sâu, không sát
dẫn đến tình trạng không nắm được cụ thể thực trạng đội ngũ giáo viên, thực
trạng quá trình giáo dục đào tạo ở nhà trường. Tình trạng số lượng giáo viên
mầm non thiếu, chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng được nhu cầu
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ, điều kiện vật chất phục vụ nuôi dạy trẻ thiếu đã kéo
dài nhiều năm nhưng không cấp nào, không ai chịu trách nhiệm nên đến nay
vẫn chưa được khắc phục.
Đội ngũ quản lý giáo dục mầm non hiện nay tuy đều đạt chuẩn theo
quy định nhưng trên thực tế trình độ quản lý, khả năng quản lý của đội ngũ
cán bộ quản lý chưa đáp ứng được với nhu cầu. Cách quản lý của một số cán
bộ quản lý vẫn là hành chính, mệnh lệnh, thiếu tính chủ động, sáng tạo
thường rập khuôn theo cơ chế và quy định. Do vậy không phát huy được tiềm
năng, sự sáng tạo và lòng nhiệt huyết của đội ngũ giáo viên mầm non, chưa có
sức hút, chưa làm tốt vai trò trung tâm đoàn kết để cùng đội ngũ giáo viên
vượt khó khăn, vươn lên góp phần cùng ngành giáo dục mầm non ngăn ngừa
và khắc phục tình trạng giáo viên bỏ việc.
Những yếu tố tác động trên đã thách thức giáo viên mầm non công lập và
tạo sự lựa chọn quyết liệt trong đội ngũ này bởi hai ranh giới giữa yêu nghề, sẵn
sàng vượt khó bám trụ với nghề hoặc bỏ việc trong môi trường giáo dục công
lập để tìm một cơ hội làm việc khác, một công việc phù hợp với yếu tố đảm bảo
kinh tế tối thiểu cho chính bản thân mỗi giáo viên mầm non công lập.
2.1.2. Dự báo tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập đến
năm 2022
Trong khoảng 10 năm tới từ năm 2013 đến năm 2022 nhu cầu gửi trẻ của
người dân Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tăng cao. Nhiều khu chế xuất, khu công
53
nghiệp hình thành tạo nên một làn sóng nhập cư của công nhân từ các tỉnh thành
trong cả nước. Số trẻ mầm non ở độ tuổi đến trường tăng cao trong thời kỳ này
là áp lực lớn đối với các trường mầm non công lập trong Thành phố.
Xây dựng mới, phát triển hệ thống trường mầm non, phát triển đội ngũ
giáo viên trong khi tại thời điểm hiện nay còn 13 phường trong các quận ở
Thành phố chưa có trường mầm non công lập, giáo viên mầm non bỏ việc vẫn
đang là hiện tượng phổ biến đồng thời sẽ là một thách thức lớn đối với các
cấp quản lý giáo dục và lãnh đạo Thành phố.
Dự báo tình hình giáo viên mầm non
Dự báo trong 10 năm tới, Thành phố Hồ Chí Minh cần khoảng từ 1335
đến 1500 trường mầm non công lập, tăng gấp 2 lần so với số trường hiện có
với các tiêu chí sau:
- Số lớp/trường: dao động từ 6 - 35 lớp/trường
- Số giáo viên/trường: dao động từ 12 – 45 giáo viên/trường
- Số học sinh/ giáo viên:
Nhà trẻ: bình quân dao động từ 8 - 12 cháu/giáo viên
Mẫu giáo: bình quân dao động từ 18 - 22 cháu/giáo viên
- Trình độ giáo viên mầm non công lập: 100% đạt chuẩn trung cấp sư phạm
- Trên chuẩn: khoảng 50% ở mức độ cao đẳng và đại học.
- 100% giáo viên có bằng A vi tính, có kỹ năng ứng dụng công nghệ
thông tin trong giảng dạy, sử dụng giáo án điện tử, thiết kế đồ dùng, đồ chơi
trong giáo dục trẻ bằng các nguyên vật liệu thải bỏ.
Dự báo nhu cầu cần tuyển dụng giáo viên mầm non trong các năm như sau:
- Năm 2015: 44.311 giáo viên (tăng 28.002 Giáo viên)
- Năm 2020: 53.380 giáo viên (tăng 9.069 Giáo viên)
Dự báo tình trạng bỏ việc
54
Số giáo viên mầm non công lập hiện tại so với nhu cầu thiếu rất nhiều
nhưng tình trạng bỏ việc trong thời gian tới vẫn không giảm và có khả năng
trầm trọng thêm. Dự báo mỗi năm số lượng giáo viên mầm non công lập bỏ
việc sẽ tăng thêm so với tình trạng bỏ việc hiện tại. Chính vì vậy cần có
những giải pháp quyết liệt, đồng bộ và hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng bỏ
việc của giáo viên mầm non công lập trong thời gian tới.
2.2 Các biện pháp cơ bản ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ
việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1 Phát huy sức mạnh tổng hợp của cấp ủy, chính quyền, các tổ
chức chính trị - xã hội các cấp và của cộng đồng trong ngăn chặn tình
trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập
Phát huy sức mạnh tổng hợp của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức
chính trị - xã hội các cấp và của cộng đồng là biện pháp quan trọng. Việc
ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập
chỉ được thực hiện có hiệu quả khi các tổ chức, các lực lượng có sự phối hợp
chặt chẽ để tạo nên một sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống. Vì vậy, cần
phải có sự thông suốt cho mọi hoạt động của các bộ phận, các lực lượng của
toàn hệ thống chính trị và của cộng đồng cùng hướng về mục tiêu chung là
xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non công lập có số lượng cơ cấu hợp lý và
chất lượng tốt.
Thực tiễn đã chứng minh bất cứ ở đâu, khi nào mà cả hệ thống chính trị
và cộng đồng cùng vào cuộc, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trong thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình thì ở đó chất lượng, hiệu quả công việc sẽ tốt
hơn, ngược lại, kết quả sẽ thấp, thậm chí không đạt được mục đích đề ra.
Trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã
hội các cấp của Thành phố Hồ Chí Minh đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và
quan tâm đầu tư cho giáo dục mầm non, cho phát triển đội ngũ giáo viên mầm
55
non công lập. Tuy nhiên trên thực tế có lúc, có nơi chưa phát huy được sức
mạnh tổng hợp của cấp ủy, chính quyền các cấp. Các tổ chức chính trị - xã hội
còn đứng ngoài cuộc. Cộng đồng xã hội cũng chưa thật quyết liệt cùng chính
quyền và các cơ quan chức năng trong việc ngăn chặn tình trạng bỏ việc của
giáo viên mầm non công lập.
Để thực hiện tốt biện pháp này cần phải làm tốt một số nội dung sau:
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền,
các tổ chức chính trị - xã hội các cấp và cộng đồng đối với việc phát triển đội
ngũ giáo viên để ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên
mầm non công lập.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin, nhận thức có vai trò to lớn
trong hoạt động thực tiễn. Nhận thức hướng dẫn hành động, nhận thức đúng
thì hành động đúng, ngược lại nhận thức không đúng, không đầy đủ thì sẽ vấp
phải những sai lầm khuyết điểm thậm chí thất bại. Việc phát triển đội ngũ
giáo viên, ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của họ chỉ có thể đạt
được hiệu quả khi có sự thống nhất về nhận thức và phát huy vai trò trách
nhiệm của các cấp trong toàn hệ thống chính trị. Cấp ủy, chính quyền, các tổ
chức chính trị - xã hội các cấp và cộng đồng cần thống nhất nhận thức đúng
đắn những vấn đề như: vai trò, vị trí quan trọng của bậc học mầm non và đội
ngũ giáo viên mầm non; vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị đối
với việc ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non
công lập.
Việc ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non
công lập không phải là trách nhiệm của riêng ngành mầm non hay của bất kỳ
một tổ chức, một cấp nào mà là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và của
cả cộng đồng. Chính vì vậy, cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị
và cộng đồng phải cùng vào cuộc một cách quyết liệt và kiên trì với những
biện pháp đồng bộ, khả thi.
56
Trên cơ sở của nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của đội ngũ giáo
viên mầm non, cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội không
ngừng phát huy trách nhiệm của mình trong thực thi nhiệm vụ ngăn ngừa,
khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập.
Đối với cấp ủy, chính quyền các cấp
Trên cơ sở các chính sách, chủ trương, quy định của Trung ương và của
Thành phố về phát triển giáo dục mầm non, cấp ủy các cấp ra nghị quyết
chuyên đề về phát triển giáo dục mầm non, phát triển đội ngũ giáo viên mầm
non, ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non. Nghị
quyết chuyên đề phải chỉ ra những thành tựu, ưu điểm đã đạt được, những
thiếu sót, khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân khách quan, chủ quan của thực
trạng giáo viên mầm non công lập bỏ việc. Rút ra những bài học kinh nghiệm
trong việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non công lập và cải
tiến chế độ chính sách để giữ chân giáo viên mầm non công lập. Trên cơ sở
đó tăng cường chỉ đạo và tổ chức triển khai các chủ trương chính sách trong
công tác quản lý giáo dục mầm non và quản lý giáo viên mầm non.
Căn cứ vào nghị quyết của cấp ủy, chính quyền các cấp cụ thể hóa thành
kế hoạch phát triển trường mầm non và phát triển đội ngũ giáo viên mầm non.
Kế hoạch xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non công lập phải có tính khả thi
theo một lộ trình hàng năm, được xây dựng trên cơ sở khoa học, có tính đến
những yếu tố tình hình kinh tế, xã hội, đặc điểm của địa phương, nhu cầu gửi
trẻ, nguyện vọng của đội ngũ giáo viên. Kế hoạch cần phải công khai, dân chủ,
minh bạch và có sự đóng góp ý kiến của giáo viên mầm non công lập.
Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn đổi mới cơ chế quản lý giáo dục mầm
non và quản lý giáo viên mầm non, tạo điều kiện cho các trường mầm non và
giáo viên mầm non phát huy khả năng, yên tâm với nghề.
57
Có những chủ trương, biện pháp cụ thể trong việc xác định và ưu
tiên kinh phí xây dựng trường, kinh phí đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt
động của trường.
Không ngừng quan tâm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho giáo
viên mầm non công lập.
Đối với các cơ quan chức năng
Các cơ quan chức năng của chính quyền, đặc biệt là cơ quan quản lý
giáo dục như Sở Giáo dục Đào tạo của Thành phố, phòng giáo dục đào tạo
của các quận, huyện phải không ngừng nâng cao năng lực tham mưu cho cấp
ủy và chính quyền các cấp. Trên cơ sở của tình hình thực tiễn, nhất là nhu cầu
gửi trẻ của người dân, khả năng đáp ứng của các trường mầm non và năng lực
của đội ngũ giáo viên mầm non công lập, xây dựng phương án, kế hoạch phát
triển trường mầm non, phát triển đội ngũ giáo viên mầm non. Nghiên cứu,
xây dựng phương án dự trữ lực lượng giáo viên mầm non đủ để bổ sung cho
các trường mầm non khi biên chế các trường có biến động do giáo viên mầm
non bỏ việc. Nghiên cứu đề xuất với cấp ủy và chính quyền các cấp về quy
hoạch đội ngũ giáo viên mầm non đảm bảo có cơ cấu ổn định, có chất lượng
cao góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non. Đề xuất với cấp ủy,
chính quyền địa phương trong việc đổi mới chế độ chính sách đãi ngộ cho
giáo viên mầm non và cơ chế quản lý đội ngũ giáo viên mầm non.
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội và cộng đồng
Các tổ chức chính trị xã hội như Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên,
Hội phụ nữ… cũng phải vào cuộc để tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
thức về giáo dục cho trẻ ở lứa tuổi mầm non, tôn vinh nghề nghiệp của giáo
viên mầm non.
Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục mầm non
58
Xã hội hóa giáo dục mầm non chính là đảm bảo cho việc huy động một
cách tối đa các nguồn lực cho sự phát triển các trường mầm non, cho việc xây
dựng đội ngũ giáo viên mầm non. Việc phát triển các trường mầm non và
xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non không chỉ là nhiệm vụ của cấp ủy chính
quyền các cấp trong Thành phố mà là sự nghiệp của các tổ chức chính trị, xã
hội, các tổ chức kinh tế và của cả cộng đồng.
Xã hội hóa giáo dục mầm non không chỉ dừng lại ở những hoạt động
tuyên truyền để cộng đồng xã hội nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của
giáo dục mầm non, vai trò của người giáo viên mầm non trong giáo dục, nuôi
dưỡng trẻ mà còn là quá trình vận động để người dân hiến đất, đóng góp tài
sản, công sức cho sự nghiệp phát triển giáo dục mầm non và xây dựng đội
ngũ giáo viên mầm non.
Như vậy, xã hội hóa giáo dục mầm non chính là quá trình huy động các
nguồn lực từ Nhà nước và từ nhân dân để mở rộng hợp lý quy mô các trường
mầm non, nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ, phát huy hiệu quả tổng hợp của
sự đầu tư cho giáo dục mầm non. Cùng với sự đầu tư của Nhà nước, xã hội
hóa giáo dục mầm non giúp các trường mầm non cải thiện cơ sở vật chất,
trang thiết bị nuôi dạy trẻ. Nhờ đó làm giảm áp lực công việc cho giáo viên
mầm non, đồng thời cải thiện được một phần đời sống vật chất, tinh thần của
họ, người giáo viên mầm non sẽ gắn bó hơn với nghề, với trường, giảm thiểu
tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập.
2.2.2. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho giáo
viên mầm non công lập
Chính sách đãi ngộ cho giáo viên mầm non công lập – những viên chức
Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội của
Đảng và Nhà nước nhằm phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp giáo
dục. Chính sách vừa là công cụ, vừa là đòn bẩy để các cấp lãnh đạo tác động
59
đến con người, điều khiển ý chí và hành vi của họ theo mục tiêu xác định.
Trong phát triển đội ngũ giáo viên mầm non, nếu chính sách đãi ngộ hợp lý,
đúng đắn sẽ khuyến khích được tính tích cực, nâng cao tinh thần trách nhiệm,
thu hút được nhân tài trong ngành mầm non, khuyến khích động viên giáo
viên mầm non yên tâm gắn bó với nghề nuôi dạy trẻ. Ngược lại, nếu chính
sách đãi ngộ sai, bất hợp lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của giáo viên
mầm non, tạo ra tâm trạng chán nản, nảy sinh những tiêu cực, đẩy người giáo
viên mầm non công lập ra làm việc ở các trường mầm non ngoài công lập
hoặc các ngành nghề kinh tế khác, làm hao phí tiền của, tài năng của ngành
giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng.
Để ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non
công lập, phải đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính sách đãi ngộ, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho họ. Chính sách đãi ngộ đối với
đội ngũ giáo viên mầm non phải có tính toàn diện, đồng bộ và khả thi. Tính
toàn diện và đồng bộ của chính sách đãi ngộ thể hiện ở chỗ phải bao gồm cả
những chính sách về vật chất như tiền lương, nhà ở... và chính sách về tinh
thần như giáo dục đào tạo bồi dưỡng sử dụng... Tính khả thi thể hiện ở chỗ
những chính sách đãi ngộ cho giáo viên mầm non công lập phải phù hợp với
khả năng cho phép của nền kinh tế đất nước, điều kiện hoạt động đặc thù của
ngành giáo dục mầm non.
Để thực hiện giải pháp này, cần làm tốt những vấn đề cơ bản sau:
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chế độ chính sách đối với giáo viên mầm
non công lập.
Đặc thù riêng của ngành giáo dục mầm non không như các bậc học
khác trong hệ thống giáo dục quốc dân, lao động của giáo viên mầm non là
một dạng lao động vừa trí óc vừa chân tay, giáo viên mầm non vừa là cô giáo,
vừa là bảo mẫu cách nhật trong công việc hàng ngày. Vì vậy cần nghiên cứu
60
rà soát lại các định chế về định mức lao động, chế độ tiền lương căn bản tối
thiểu cho giáo viên mầm non công lập cho phù hợp.
Nâng bậc lương hàng năm cho giáo viên mầm non thay vì 2 năm/lần
cho giáo viên hệ trung cấp và 3 năm/ lần cho giáo viên hệ cao đẳng và đại học
nhằm đảm bảo cuộc sống cho đội ngũ này ở mức độ tối thiểu. Riêng những
giáo viên có trình độ trên chuẩn thì ngoài nâng bậc lương hàng năm nên có
thêm tỷ lệ % lương vượt trình độ trên chuẩn để khuyến khích đội ngũ này
nâng cao trình độ chuyên môn nhằm phục vụ cho công tác nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục trẻ.
Hiện thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 11.000 giáo viên vẫn chưa
mua, chưa làm được nhà, đang phải thuê nhà hoặc ở nhờ nhà người thân. Với
đồng lương eo hẹp phải trang trải, lo toan cuộc sống nên họ khó có điều kiện
để thuê chỗ ở đàng hoàng. Nơi ăn nghỉ thiếu tiện nghi đã ảnh hưởng rất nhiều
đến sức khỏe, đến tái tạo sức lao động và trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Chính vì vậy Thành phố cần quan tâm
đến nhà ở cho giáo viên mầm non công lập, tạo điều kiện cho họ được thuê
nhà của Nhà nước, được mua nhà xã hội với mức giá phù hợp.
Nhà nước chỉ đạo ngân hàng có chính sách cho giáo viên vay vốn với
lãi suất tượng trưng hoặc không lãi suất trong thời hạn nhất định để giáo viên
cải thiện kinh tế gia đình.
Nên duy trì chế độ an dưỡng cho giáo viên mầm non hàng năm để giúp
giáo viên mầm non tái tạo lại sức lao động cụ thể thiết thực nhất.
Mỗi quận nên có một nhà trẻ ưu tiên cho việc nuôi dạy con của các
giáo viên mầm non công lập hoặc giáo viên các cấp học khác nhằm giúp giáo
viên yên tâm trong công tác và tránh được hiện tượng giáo viên bỏ việc vì lý
do phải nuôi con nhỏ sau thời gian hộ sản và đồng thời giải tỏa được nghịch
lý giáo viên mầm non khi còn son rỗi thì giữ trẻ cho các thành phần khác
61
trong xã hội yên tâm công tác nhưng khi giáo viên mầm non có con thì phải
nghỉ việc để nuôi con nhỏ của chính mình.
Đi đôi với việc cải thiện đời sống vật chất cho giáo viên mầm non công
lập phải đồng thời nâng cao đời sống tinh thần cho họ với những cách thức
phù hợp như tổ chức tốt các hoạt động văn hóa văn nghệ; động viên giáo viên
tham gia các hội diễn văn nghệ quần chúng của các cấp tổ chức; tổ chức cho
giáo viên và gia đình của họ tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, các hoạt
động du lịch về nguồn, tham quan các danh lam thắng cảnh; tổ chức các hội
thi, các trò chơi tạo nên một không khí vui tươi, phấn khởi trong nhà trường.
Xây dựng môi trường làm việc thân thiện, có sự quan tâm lẫn nhau giữa các
thành phần trong nhà trường, với nhân dân và chính quyền địa phương trên
địa bàn.
Nâng cao vị thế xã hội của giáo viên mầm non công lập.
Đã có một thời gian dài ngành giáo dục “bỏ quên” giáo dục mầm
non. Nhà nước chưa quan tâm, chưa đầu tư thích đáng cơ sở vật chất cho
các trường mầm non. Giáo viên mầm non nói chung và mầm non công lập
nói riêng không những bị thiệt thòi về vật chất mà cả về tinh thần. Do chưa
đánh giá đúng tầm quan trọng của giáo dục mầm non nên cả Nhà nước và
xã hội đều chưa có quan tâm, ưu đãi cho giáo viên mầm non. Nhiều giáo
viên mầm non yêu nghề, yêu trẻ, tận tụy với công việc nhưng vẫn có những
mặc cảm về công việc của mình. Việc chăm sóc vệ sinh cho trẻ là công
việc nặng nhọc, thậm chí độc hại, dễ gây cho người giáo viên cảm giác sợ
hãi. Nhiều người không trụ lại với nghề cũng có nguyên nhân ngại và sợ
khi phải chăm sóc cho những trẻ mà chúng chưa biết tự vệ sinh cho bản
thân. Chăm sóc, dạy dỗ trẻ đòi hỏi không chỉ có kiến thức mà phải có lòng
khoan dung, độ lượng, tận tụy, thậm chí phải hi sinh cả những lợi ích cá
nhân. Thế nhưng nhiều người vẫn đánh giá thấp nghề nuôi dạy trẻ và giáo
62
viên nuôi dạy trẻ. Có những người xem giáo viên các trường mầm non chỉ
là những “vú em đời mới” dẫn đến có những thái độ ứng xử không đúng
mực với giáo viên mầm non. Từ đó dẫn đến vị thế xã hội của người giáo
viên mầm non không được đề cao.
Chính vì vậy, một trong những biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình
trạng giáo viên các trường mầm non công lập bỏ việc là phải đề cao vị thế xã
hội của họ, phải làm cho toàn xã hội xem trọng giáo dục mầm non cũng như
giáo viên mầm non. Cần phải có những biện pháp tuyên truyền rộng rãi trên
các phương tiện thông tin đại chúng để làm thay đổi nhận thức của một bộ
phận xã hội về vai trò, vị trí của giáo viên mầm non. Giáo viên các trường
mầm non phải được đánh giá ngang bằng với giáo viên của các bậc học khác,
kể cả bậc đại học.
Nhà nước cần có chính sách khen thưởng, tôn vinh những giáo viên
mầm non công lập có đóng góp quan trọng cho giáo dục mầm non, thể hiện
sự trân trọng của xã hội đối với họ.
Quan tâm tới nhu cầu chính đáng của giáo viên mầm non công lập.
Nhu cầu là nguồn gốc tính tích cực hoạt động của con người. Trong nền
kinh tế thị trường, trong sự phát triển của kinh tế xã hội, sự phát triển chung
của hoàn cảnh, điều kiện sống, nhận thức tình cảm, nhu cầu của giáo viên
mầm non công lập cũng biến đổi và phát triển theo. Giáo viên mầm non công
lập có những đòi hỏi cần được thỏa mãn về vật chất như tiền lương đảm bảo
cho nhu cầu chi tiêu, các phương tiện cần thiết cho cuộc sống, học tập và
công tác. Đồng thời với những nhu cầu về vật chất, người giáo viên mầm non
công lập còn có những nhu cầu về tinh thần như chính trị, đạo đức, thẩm mỹ,
các hoạt động xã hội... Tuy nhiên do đặc thù của giáo dục mầm non, đặc thù
của hoạt động với áp lực lớn về thời gian, công sức nên không thể có điều
kiện thỏa mãn đầy đủ các nhu cầu đó. Tuy nhiên, các cấp lãnh đạo, quản lý
63
giáo dục mầm non cần có sự chú ý đúng lúc tới các nhu cầu chính đáng đó và
thỏa mãn đến mức tối đa trong điều kiện cho phép.
Nhu cầu vật chất tinh thần là nhu cầu tất yếu cơ bản của con người nói
chung và giáo viên mầm non công lập nói riêng. Chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần cho họ chính là quan tâm, giải quyết quyền lợi, nguyện vọng chính
đáng của họ là điều kiện giải quyết tốt các mối quan hệ giúp họ yên tâm với
nhiệm vụ nuôi dạy trẻ, góp phần đẩy lùi và ngăn chặn những hiện tượng tiêu
cực để giữ chân họ trong ngành giáo dục mầm non.
Những năm gần đây, kinh tế xã hội Thành phố Hồ Chí Minh phát triển
mạnh mẽ đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy sự gia tăng nhu
cầu của giáo viên mầm non công lập. Tuy nhiên có những nhu cầu phù hợp
với xã hội nhưng lại chưa phù hợp với giáo dục mầm non, có những nhu cầu
lệch chuẩn với định hướng giáo dục của ngành, có những nhu cầu chính đáng
nhưng do điều kiện của ngành giáo dục mầm non còn có những khó khăn
chưa thể đảm bảo được. Chính vì vậy, các cấp lãnh đạo, quản lý ngành giáo
dục mầm non cần phải đi sâu, đi sát để nắm vững nhu cầu của giáo viên mầm
non công lập. Trên cơ sở đó có biện pháp giáo dục định hướng nhận thức
đúng đắn về nhu cầu giúp họ giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân
với tập thể, giữa nhu cầu với điều kiện thực tiễn của ngành giáo dục mầm
non. Ngăn ngừa tư tưởng đề cao lợi ích vật chất, xem nhẹ lợi ích tinh thần,
giúp họ không chạy theo những đãi ngộ về lương bổng của các trường mầm
non ngoài công lập và các ngành nghề kinh tế khác.
Nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho giáo viên mầm non công lập
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của
Thành phố; chính sách đãi ngộ của Đảng và Nhà nước; sự quan tâm đầu tư
của Thành phố... Việc nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho giáo viên
mầm non công lập là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cấp ủy, chính
quyền, tổ chức chính trị xã hội các cấp và của cả cộng đồng nhưng chính cá
64
nhân người giáo viên mầm non công lập giữ vai trò quyết định. Chính vì vậy
cần phải giáo dục họ phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, khắc phục khó
khăn, sắp xếp cuộc sống riêng từng bước cải thiện đời sống gia đình để yên
tâm ở lại với nghề.
2.2.3. Đổi mới cơ chế quản lý của các cấp từ Thành phố đến quận,
(huyện), phường (xã)
Đổi mới cơ chế quản lý trường mầm non, quản lý đội ngũ giáo viên
mầm non của các cấp từ Thành phố đến quận (huyện), phường (xã) là một nội
dung quan trọng, cấp bách nhằm tạo ra bước đột phá trong việc xây dựng đội
ngũ giáo viên, góp phần ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo
viên mầm non công lập. Việc đổi mới cơ chế quản lý phải dựa trên kinh
nghiệm quản lý truyền thống và tiếp thu những kiến thức quản lý hiện đại
theo hướng linh hoạt, mềm dẻo, tăng quyền tự chủ và phát huy tính tích cực,
sáng tạo của cơ sở.
Đổi mới cơ chế quản lý là nhằm tác động vào đội ngũ giáo viên mầm
non công lập để nâng cao nhận thức, hình thành những phẩm chất đạo đức
nhà giáo và những kỹ năng, kỹ xảo sư phạm cho giáo viên mầm non. Đồng
thời tạo ra những môi trường làm việc thân thiện, giảm áp lực công tác góp
phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, giúp cho họ trụ lại với nghề.
Cơ chế quản lý hiện nay có nhiều tầng, nhiều lớp chồng chéo lẫn nhau
nên không phát huy được sức mạnh, thậm chí còn có những tác động tiêu cực
đến giáo viên mầm non. Vì vậy cần phải hoàn thiện cơ chế này theo các
hướng sau:
Một là, thực hiện phân cấp quản lý một cách hợp lý giữa các cấp.
Hiện nay, Thành phố, quận (huyện) mà trực tiếp là Sở Giáo dục Đào
tạo, phòng giáo dục đào tạo cùng với phường (xã) quản lý Nhà nước trường
mầm non công lập. Mọi hoạt động của nhà trường đều tuân thủ theo nguyên
65
tắc báo cáo xin ý kiến - thực thi - báo cáo kết quả - nhận ý kiến chỉ đạo phản
hồi. Nhiều vấn đề nhà trường không chỉ báo cáo lên cấp trực tiếp quản lý mà
còn phải xin ý kiến báo cáo lên cấp trung gian. Các văn bản chỉ thị hướng dẫn
của cấp trên phải qua nhiều thang bậc mới xuống tới nhà trường, đến được
với giáo viên. Sự phân cấp quản lý không rõ ràng giữa các ban ngành, giữa
trên và dưới đã tạo những kẽ hở, những khoảng trống trong quản lý ngành học
mầm non. Chính cách quản lý như vậy đã dẫn đến sự thiếu sâu sắc. Lãnh đạo
cấp trên không thể nắm hết được những thành tựu cũng như những hạn chế
của cấp dưới. Những nhu cầu chính đáng ở cấp dưới cũng không đến được
với cấp trên...
Ngoài ra, trong quản lý ngành giáo dục mầm non còn có sự giao thoa
của 2 cơ chế: cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo và cơ chế quản lý giáo dục. Chỉ có sự
phân cấp một cách rõ ràng thì mới tạo ra sự thống nhất khoa học thỏa mãn
được yêu cầu vận hành một cách có hiệu quả.
Cần phải đổi mới cơ chế quản lý theo hướng tăng quyền chủ động cho
cơ sở. Tăng quyền chủ động cho cơ sở (cấp phường (xã), nhà trường mầm
non) trong quản lý thực chất là nhấn mạnh tính độc lập tương đối và vai trò,
trách nhiệm của chủ thể quản lý trực tiếp đối với ngành học mầm non. Đồng
thời tăng quyền chủ động cho cơ sở sẽ tạo ra “độ mở” nhất định nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của các chủ thể quản lý trực tiếp, góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý.
Trong khi tăng quyền chủ động cho cấp dưới cần phải có những quy
định cụ thể mang tính pháp lý để tránh sự lạm quyền. Trên thực tế có nơi, có
lúc ban giám hiệu nhà trường đã có những động thái vượt quá quyền hạn cho
phép trong quản lý, lãnh đạo. Có những ban giám hiệu đã kéo dài thời gian
tập sự của giáo viên, tự ý cắt giảm lương thưởng hoặc kỷ luật giáo viên quá
thẩm quyền quy định...
66
Cần phải có sự đổi mới mạnh mẽ trong cơ chế quản lý đội ngũ giáo
viên mầm non, nhất là trong quy hoạch cán bộ quản lý, quy hoạch giáo viên
trường mầm non. Công khai, minh bạch, vô tư, không thiên vị trong việc lựa
chọn những giáo viên mầm non có năng lực chuyên môn, có phẩm chất tốt để
đưa vào đội ngũ kế cận. Tránh hiện tượng xuề xòa hoặc chọn người theo cảm
tình tạo nên những dư luận không tốt và bức xúc của đội ngũ giáo viên.
Hai là, đổi mới cơ chế quản lý theo hướng hợp tác, tăng cường liên kết.
Trong quản lý về giáo dục mầm non hiện nay, có lúc có nơi chưa có sự
phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các lực lượng xã hội để phát triển
sự nghiệp giáo dục mầm non theo đúng thực chất, phát sinh những sai lầm,
tiêu cực từ đó làm đội ngũ giáo viên mầm non trong hệ thống giáo dục quốc
dân không còn tâm huyết trụ lại với nghề, bên cạnh gánh nặng cơm áo cho
bản thân và gia đình đã góp phần đẩy đội ngũ này rời xa vị trí công tác để tìm
hướng đi riêng cho bản thân và tạo nên một lỗ hổng khá lớn về thiếu hụt số
lượng giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì vậy
cần phải có cơ chế quản lý hợp tác liên kết giữa các lực lượng, các tổ chức,
liên kết giữa nhà trường với địa phương.
Cơ chế quản lý hợp tác nói lên tính đa dạng của quản lý giáo dục đào
tạo, tạo ra tiền đề cho việc liên kết trong giáo dục đào tạo, trong xây dựng đội
ngũ giáo viên, trong đề xuất và thực thi các biện pháp ngăn ngừa và khắc
phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập.
Trong giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục mầm non nói riêng,
vấn đề liên kết đã và đang là xu hướng diễn ra ngày một phong phú, đa
dạng. Đặc biệt trong xây dựng đội ngũ giáo viên, trong ngăn ngừa và khắc
phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập thì sự liên kết phối
hợp sẽ tạo ra những cách thức, biện pháp thực thi có hiệu quả. Vấn đề liên
kết giữa các lực lượng, liên kết với địa phương cần phải được cụ thể hóa
67
bằng một cơ chế quản lý có tính nhất quán, tránh xảy ra hiện tượng tự phát,
đùn đẩy trách nhiệm, buông lỏng quản lý. Cơ chế quản lý hợp tác và liên
kết phải được vận hành có hệ thống và nhất quán trong mọi việc, trong mọi
thời gian.
Để đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý cần thực hiện tốt những nội dung
cụ thể sau:
Các cấp có thẩm quyền cần xây dựng và thường xuyên kiện toàn các cơ
quan, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục mầm non. Xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi tổ chức và cá nhân. Xây dựng các thiết chế,
nguyên tắc, hình thức và công cụ quản lý, tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc
thực hiện các quyết định quản lý, các chủ trương, chính sách trong nuôi dạy
trẻ, kịp thời điều chỉnh các sai lệch trong quản lý.
Các cơ quan chức năng tham mưu giúp cấp ủy và chính quyền các cấp
xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp quy, xây dựng các quy chế,
quy định quản lý giáo dục mầm non và đội ngũ giáo viên mầm non. Đây là
vấn đề đặc biệt quan trọng, là căn cứ, công cụ quản lý để thống nhất thực hiện
trong hoạt động quản lý, giúp cho chủ thể quản lý tránh được cách quản lý
chung chung hoặc lúng túng thiếu minh bạch trong tổ chức, điều hành. Trước
tiên cần rà soát văn bản pháp quy đang được áp dụng và thực hiện, xây dựng,
hoàn thiện và bổ sung những văn bản còn thiếu hoặc bãi bỏ, thay đổi nội dung
của những văn bản đã được xây dựng nhưng không phù hợp thực tế, không có
tính khả thi. Việc xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp quy về công tác
quản lý phải dựa vào các văn bản pháp quy của Nhà nước, của Thành phố và
thực tiễn hoạt động của ngành mầm non. Tránh việc tùy tiện ban hành các văn
bản ảnh hưởng đến hoạt động của nhà trường và của đội ngũ giáo viên.
Như vậy có thể thấy, đổi mới cơ chế quản lý của các cấp chính là một
biện pháp phát huy sức mạnh của bộ máy quản lý, của chủ thể quản lý và của
chính đội ngũ giáo viên mầm non trong hoạt động nuôi dạy trẻ.
68
2.2.4. Nâng cao chất lượng tuyển chọn, đào tạo và tuyển dụng giáo
viên mầm non công lập
Đây là biện pháp quan trọng cho toàn bộ quá trình phát triển đội ngũ
giáo viên mầm non công lập. Một khi tuyển chọn chặt chẽ, đào tạo có chất
lượng tốt và tuyển dụng đúng người, đúng việc theo đúng tiêu chí đặt ra thì sẽ
xây dựng được đội ngũ giáo viên mầm non công lập có tâm huyết với nghề,
hạn chế đến mức tối đa giáo viên mầm non công lập bỏ việc.
Để nâng cao chất lượng tuyển chọn, đào tạo và tuyển dụng, trước hết
các cơ quan chuyên môn cần tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền các cấp đề
xuất những chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo để phát triển đội ngũ giáo viên mầm
non công lập theo từng giai đoạn. Chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy,
chính quyền các cấp được thể hiện thông qua các nghị quyết, chỉ thị là những
định hướng lớn chỉ ra phương thức tuyển chọn, đào tạo và tuyển dụng giáo
viên mầm non. Đây là cơ sở pháp lý để ngành mầm non, các trường mầm non
của Thành phố xây dựng các kế hoạch quản lý và phát triển giáo viên mầm
non công lập trong những giai đoạn nhất định. Chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo
của cấp ủy, chính quyền các cấp phải vận dụng sáng tạo các nghị quyết,
đường lối của Đảng, chủ trương, kế hoạch của Nhà nước về giáo dục đào tạo
và giáo dục mầm non. Những chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo phải làm sao đáp
ứng được những mục tiêu, yêu cầu của giáo dục đào tạo mầm non, nhu cầu
gửi trẻ của người dân và phù hợp với tình hình thực tiễn của Thành phố, của
địa phương và nhà trường.
Căn cứ vào chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền
các cấp, cơ quan chuyên môn xây dựng kế hoạch tuyển chọn, đào tạo và
tuyển dụng giáo viên. Xây dựng chương trình, kế hoạch tuyển chọn là một
biện pháp quan trọng trong những biện pháp để quản lý đội ngũ giáo viên
mầm non công lập. Vì vậy, xây dựng chương trình kế hoạch để ngành
69
giáo dục mầm non Thành phố và cụ thể là các nhà trường mầm non có thể
ứng phó có hiệu quả với sự thay đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu của
đội ngũ giáo viên mầm non công lập, đặc biệt là khi xảy ra hiện tượng bỏ
việc của giáo viên.
Trong xây dựng chương trình kế hoạch phải lựa chọn được những
phương án tối ưu, tìm được những nguồn lực để tuyển chọn giáo viên mầm
non công lập.
Thực chất của tuyển chọn, đào tạo và tuyển dụng là quá trình thực hiện
một chu trình khép kín bao gồm các khâu: tuyển chọn; đào tạo, bồi dưỡng và
sử dụng đội ngũ giáo viên mầm non công lập. Mỗi một khâu, một bước trong
chu trình này có vị trí, vai trò khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng,
thực hiện tốt khâu, bước này sẽ làm tiền đề, cơ sở cho việc thực hiện tốt các
khâu, các bước tiếp theo.
Về tuyển chọn giáo viên mầm non công lập: Trong tuyển chọn đội ngũ
giáo viên mầm non công lập trước hết cần phải chọn nguồn cho đào tạo và
tuyển dụng. Nhìn vào thực trạng hiện nay người ta thấy đội ngũ giáo viên
mầm non công lập có nhiều khó khăn trong cuộc sống, lương thấp, áp lực
công việc lớn cho nên ít học sinh, sinh viên theo học ngành mầm non. Thậm
chí một số sinh viên tốt nghiệp khoa, ngành mầm non lại theo học văn bằng
hai để tìm một cơ hội khác có đãi ngộ cao hơn. Chính vì vậy, cấp ủy, chính
quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội cần phải đẩy mạnh tuyên
truyền giáo dục trong cộng đồng đặc biệt là cho thanh niên, học sinh về vị trí,
vai trò của giáo viên mầm non, những chính sách đối với giáo viên mầm non
và vị trí xã hội cao quý của người giáo viên mầm non để lôi kéo thanh niên,
học sinh vào học các ngành mầm non ở các trường trung cấp, cao đẳng và đại
học. Hình thức tuyên truyền, giáo dục phải đa dạng, phong phú trên các
phương tiện thông tin đại chúng, trong các hội thảo, trong các liên hoan, hội
70
trại ... để số đông thanh niên, học sinh các trường phổ thông tiếp cận được với
những thông tin về ngành mầm non và giáo viên mầm non. Đẩy mạnh giáo
dục hướng nghiệp trong học sinh sinh viên, khuyến khích và có những chế độ
ưu đãi để họ theo học ngành mầm non.
Ở những địa phương khó khăn, vùng sâu vùng xa trung tâm Thành phố
có thể thực hiện công tác cử tuyển. Lựa chọn những thanh niên yêu trẻ, có khả
năng làm việc với trẻ để cấp kinh phí cho họ, gửi họ đi học ngành mầm non tại
các trường trung cấp, cao đẳng ở Trung ương, Thành phố và ở các tỉnh bạn.
Trong tuyển chọn phải thực hiện công khai, dân chủ, đúng quy trình.
Cùng với việc nâng cao chất lượng tuyển chọn thì nâng cao chất lượng
đào tạo giáo viên mầm non là một khâu đột phá quan trọng trong xây dựng
đội ngũ giáo viên mầm non.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, các cơ sở đào tạo giáo viên mầm non ở
Trung ương và Thành phố Hồ Chí Minh (có 3 cơ sở), phải quán triệt quan
điểm chiến lược về giáo dục của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình đào tạo
phải không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục
đào tạo. Nội dung giáo dục phải bám sát thực tiễn giáo dục mầm non ở trong
nước và Thành phố, đồng thời kế thừa những kinh nghiệm giáo dục mầm non
tiên tiến trên thế giới. Cùng với việc cung cấp tri thức, nhà trường cần phải
rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nuôi dạy trẻ cho giáo sinh, đặc biệt là những kỹ
năng tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ, kỹ năng làm việc và chơi với trẻ.
Nhà trường đào tạo, giáo dục mầm non phải không ngừng đổi mới
phương pháp, hình thức giáo dục. Tích cực vận dụng các phương pháp dạy
học hiện đại nhằm phát huy tính cực của người học. Vận động và khuyến
khích giảng viên sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để nâng cao chất
lượng bài giảng.
Trong quá trình giáo dục đào tạo, nhà trường phải khuyến khích giáo
sinh tham gia nghiên cứu khoa học. Thông qua các hoạt động nghiên cứu
71
khoa học để trang bị cho giáo sinh phương pháp luận và phương pháp nghiên
cứu khoa học nhằm giúp cho họ khi ra trường có những kỹ năng, kỹ xảo phát
hiện vấn đề, tìm ra những luận cứ khoa học và thực tiễn để giải quyết những
vấn đề cấp thiết của cuộc sống, của giáo dục trẻ.
Nhà trường cần khuyến khích người học tích cực chủ động, sáng tạo tự
nghiên cứu, tự học, đồng thời trang bị cho họ phương pháp tự học, tự nghiên
cứu để có thể học suốt đời.
Đi đôi với việc trang bị kỹ năng và kỹ xảo các cơ sở đào tạo giáo viên
mầm non còn phải tăng cường giáo dục, bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho giáo
sinh. Đặc biệt giáo dục cho họ phẩm chất, đạo đức của nhà giáo, sống trong
sạch, lành mạnh, khiêm tốn, yêu ngành, yêu nghề, yêu trẻ, tận tâm, tận lực với
giáo dục mầm non và trụ lại với nghề dẫu rằng cuộc sống của người giáo viên
mầm non còn nhiều khó khăn.
Nâng cao chất lượng tuyển chọn, đào tạo phải đi đôi với nâng cao chất
lượng tuyển dụng giáo viên mầm non công lập. Trong tuyển dụng, trước hết
các cơ quan chức năng nhất là ngành giáo dục mầm non phải tham mưu giúp
cấp ủy chính quyền các cấp xây dựng được tiêu chí tuyển chọn. Trong tiêu chí
tuyển chọn phải bao gồm những nội dung cơ bản như xu hướng nghề nghiệp,
độ tuổi, trình độ học vấn, trải nghiệm thực tế, trình độ chuyên môn, năng lực
sư phạm và phẩm chất chính trị, tư tưởng đạo đức. Trong năng lực sư phạm
phải chú ý đến kỹ năng tổ chức hoạt động của trẻ, kỹ năng sử dụng phương
tiện, đồ chơi để dạy trẻ. Về phẩm chất đạo đức, phải chú ý đến những phẩm
chất, nhân cách như lòng yêu nghề, tận tâm, tận lực với nuôi dạy trẻ và yêu
trẻ... Phải công khai để các ứng viên dự tuyển biết được tiêu chuẩn, tiêu chí
tuyển dụng.
Trong tuyển chọn để tránh sai sót và cảm tính cá nhân nhằm lựa chọn
những ứng viên tâm huyết với nghề nuôi dạy trẻ, cần phải thực hiện đúng quy
72
trình tuyển dụng bao gồm các khâu: thành lập hội đồng tuyển dụng; thông báo
quy chế, thể lệ tuyển dụng và tiến hành các bước tuyển dụng. Các bước tuyển
dụng bao gồm: thông báo tuyển dụng; người dự tuyển nộp hồ sơ; xem xét hồ
sơ; khám sức khỏe; phỏng vấn sơ bộ; thi tuyển. Trong thi tuyển có thể thi tự
luận hoặc trắc nghiệm với các môn thi về chuyên môn, về năng khiếu sư
phạm. Trong quá trình tuyển dụng có thể tiến hành các bước phỏng vấn ở
vòng 2 sau đó cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tuyển dụng và bổ nhiệm
ứng viên làm giáo viên ở các trường mầm non công lập nếu họ đáp ứng đầy
đủ các tiêu chí. Tuyển dụng phải đảm bảo chọn đúng người có đủ tiêu chuẩn
đáp ứng được nhiệm vụ nuôi dạy trẻ. Tuy nhiên bước tuyển dụng mới chỉ là
bước đầu, để người giáo viên yên tâm với nghề, trụ lại với nghề cần phải tiếp
tục bồi dưỡng, đào tạo họ.
Tăng tính tự chủ cho địa phương trong tuyển dụng, không phân bổ giáo
viên theo tiêu chí thi tuyển công chức hàng năm như hiện tại vì sẽ khó đảm
bảo số lượng giáo viên mầm non cho từng trường do yếu tố địa phương. Bên
cạnh việc tuyển sinh hằng năm của các trường sư phạm tại Thành phố Hồ Chí
Minh, nên giao cho chính quyền quản lý giáo dục trên địa bàn trường mầm
non tọa lạc ở cấp phường, xã kết hợp với ban giám hiệu trường mầm non
tuyển chọn nhân sự tại địa phương đưa đi đào tạo tại các trường sư phạm thì
mới tránh được tình trạng thiếu giáo viên mầm non như hiện nay.
Khi tuyển chọn giáo viên mầm non cần lưu ý yếu tố tâm huyết với nghề
của đội ngũ này, tránh tư tưởng đi làm để có mức lương cơ bản phục vụ cho
cuộc sống tối thiểu mà không yêu nghề, mến trẻ thì sẽ tạo tiền đề cho những
sai sót trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ về sau.
2.2.5. Tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho
giáo viên mầm non công lập
73
Phát triển đội ngũ giáo viên trường mầm non công lập để ứng phó với
việc thiếu giáo viên nhất là khi biến động về số lượng do giáo viên bỏ việc,
bao gồm nhiều khâu, nhiều bước từ quy hoạch nguồn đến tuyển dụng và sử
dụng giáo viên. Trong quá trình sử dụng giáo viên mầm non công lập, một
vấn đề quan trọng đồng thời cũng là quyền của nhà giáo là bồi dưỡng cho họ
về phẩm chất và năng lực sư phạm. Việc bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư
phạm cho đội ngũ giáo viên là nhiệm vụ thường xuyên của ngành giáo dục và
của từng nhà trường.
Thực chất của hoạt động bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm
cho giáo viên là quá trình bổ sung những kiến thức và kỹ năng sư phạm cho
họ, giúp họ rèn luyện trong thực tiễn, phát triển những phẩm chất, nhân cách
tốt đẹp. Mục đích của bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo
viên mầm non công lập là xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên mầm non
công lập cả về số lượng và chất lượng.
Việc tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo
viên mầm non công lập là một yêu cầu khách quan để tránh cho đội ngũ này
không bị rơi vào tình trạng hẫng hụt về kiến thức, trình độ, năng lực và bị lôi
kéo, cám dỗ bởi những lợi ích vật chất mà xa rời nghề nghiệp cao quý của
người giáo viên mầm non.
Yêu cầu chung của bồi dưỡng phải có tính hệ thống, thiết thực, có
trọng tâm và trọng điểm, bảo đảm tính kế thừa và nâng cao. Quá trình bồi
dưỡng phải cập nhật được đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước về giáo dục và giáo dục mầm non. Những thành tựu mới nhất
của khoa học giáo dục, phổ cập những kinh nghiệp giáo dục tiên tiến trên
thế giới và trong nước.
Những nội dung chủ yếu trong quá trình bồi dưỡng:
74
Một là, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, tư tưởng lối sống của giáo viên
mầm non công lập
Về phẩm chất chính trị, tư tưởng: Bồi dưỡng cho người giáo viên mầm
non công lập có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, trung thành với sự
nghiệp giáo dục của Đảng. Quyết tâm thực hiện nhiệm vụ chính trị của giáo
dục là phục vụ Đảng, phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Có động cơ, quan điểm, thái độ và tình cảm đúng đắn đối với giáo dục
mầm non cụ thể là việc nuôi dưỡng trẻ, có ý thức chính trị và trách nhiệm xã
hội cao trong việc nuôi dạy trẻ. Có khát vọng và ý chí phấn đấu để trở thành
người giáo viên mầm non công lập tiêu biểu.
Về phẩm chất đạo đức, lối sống: Thông qua hoạt động nuôi dạy trẻ và
hoạt động thực tiễn để bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp của nhà giáo cho giáo
viên mầm non công lập, để họ có thái độ, hành vi đúng đắn đối với nghề
nghiệp sư phạm. Bồi dưỡng, giáo dục họ tình yêu thương con người mà cụ thể
là trẻ ở lứa tuổi mầm non, yêu nghề nhà giáo, sống trong sạch, lành mạnh,
khiêm tốn, giản dị và trung thực. Bồi dưỡng để mỗi giáo viên là một tấm
gương sáng về đạo đức lối sống cho các cháu noi theo.
Bồi dưỡng để người giáo viên chấp hành kỷ luật, quy chế, quy định
trong quá trình nuôi dạy trẻ. Có tinh thần đấu tranh với những tư tưởng lệch
lạc, những biểu hiện, hành vi thờ ơ với trẻ, bạo hành, trù dập trẻ. Không
ngừng phấn đấu để nêu cao vị thế của người giáo viên và lòng tin đối với phụ
huynh của trẻ.
Hai là, bồi dưỡng về năng lực sư phạm một cách toàn diện, cụ thể
Về kiến thức chuyên môn: Cần bồi dưỡng cho giáo viên mầm non công
lập những kiến thức chuyên môn của nghiệp vụ sư phạm, đó là những kiến
thức về nuôi dạy trẻ, kiến thức tổ chức các hoạt động của trẻ, các tri thức về
phương pháp giảng dạy, phương pháp thiết kế các chương trình hoạt động của
75
trẻ. Cách thức làm và sử dụng đồ chơi, phương tiện kỹ thuật dạy học một cách
có hiệu quả trong nuôi dạy trẻ, đặc biệt là bồi dưỡng cho giáo viên mầm non
công lập những kỹ xảo và kỹ năng nuôi dạy trẻ.
Ngoài những nội dung bồi dưỡng chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm cần tập trung bồi dưỡng các chứng chỉ theo quy định, theo những nội
dung, yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ giáo viên mầm non hiện nay.
Về năng lực làm việc với trẻ: Lĩnh vực giáo dục là lĩnh vực đặc thù.
Người giáo viên mầm non hàng ngày tiếp xúc với trẻ, làm việc với trẻ, thực
hiện nhiệm vụ nuôi dạy trẻ. Chính vì vậy người giáo viên phải biết cách làm
việc với trẻ, chơi với trẻ. Ngoài việc giáo dục cho người giáo viên phẩm chất
yêu thương con người thì phải bồi dưỡng cho họ năng lực làm việc với con
người, nói một cách khác họ phải có kỹ năng, kỹ xảo làm việc với trẻ. Phải
bồi dưỡng cho họ những tri thức về tâm lý học trẻ em để họ biết đánh giá tâm
lý của trẻ, biết xây dựng bầu không khí tâm lý thân thiện trong lớp học. Họ
phải biết khích lệ trẻ, quan tâm, bao dung đối với trẻ, biết đánh giá mặt mạnh
và những hạn chế của trẻ, để giáo dục tinh thần tự giác chủ động sáng tạo của
trẻ, giúp trẻ tiến bộ, ngoan ngoãn, tạo cơ sở hình thành những phẩm chất,
nhân cách tốt đẹp.
Về năng lực tổ chức: Nuôi dạy trẻ là một công việc hết sức khó khăn.
Trẻ rất hiếu động lại chưa phát triển đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần, do đó
đòi hỏi người giáo viên phải có năng lực tổ chức giáo dục. Trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng trẻ, nhà trường cần bồi
dưỡng họ năng lực xây dựng kế hoạch giáo dục trẻ và tổ chức thực hiện. Năng
lực phân tích đánh giá để sắp xếp hợp lý khối lượng công việc nuôi dạy trẻ
trong từng thời gian nhất định. Năng lực xử lý các thông tin trong quá trình
giáo dục nhất là sự phản hồi từ phụ huynh của trẻ để rèn luyện kỹ năng giao
tiếp với phụ huynh của trẻ. Đồng thời bồi dưỡng cho người giáo viên mầm
76
non công lập năng lực giải quyết tốt những mối quan hệ của họ với nhà
trường, với trẻ, với phụ huynh trẻ và các mối quan hệ khác ngoài xã hội.
Về hình thức bồi dưỡng: Phải sử dụng đa dạng các hình thức bồi dưỡng
như bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng định kỳ và bồi dưỡng nâng cao. Cần
nắm vững nội dung, vận dụng linh hoạt các hình thức và phương pháp bồi
dưỡng cho phù hợp với nhiệm vụ của từng giáo viên và từng nhà trường để
công tác bồi dưỡng đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Đặc biệt, bố trí thời gian cho giáo viên tự bồi dưỡng để nâng cao phẩm
chất, năng lực của mình. Việc phát huy tính tích cực của cá nhân giáo viên
mầm non công lập được xem là một biện pháp trọng tâm và có hiệu quả.
Thông qua hình thức giáo viên tự nghiên cứu các tài liệu, thực tế, tham gia
các hoạt động khoa học, rèn luyện trong thực tiễn nuôi dạy trẻ, học hỏi đồng
nghiệp và những người đi trước. Tự bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư
phạm của người giáo viên mầm non công lập phải có kế hoạch cụ thể theo
định hướng của nhà trường. Mỗi giáo viên phải xem đây là nhiệm vụ thường
xuyên, là con đường phát triển nghề của mình. Đồng thời nhà trường và
ngành giáo dục mầm non cần có chế độ chính sách như tạo điều kiện về thời
gian, hỗ trợ về kinh phí... để khuyến khích giáo viên đi học, tự bồi dưỡng
nâng cao phẩm chất và năng lực sư phạm của mình.
2.2.6. Kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời trong việc nắm
bắt tình hình hoạt động của các trường mầm non và của giáo viên mầm
non về mọi mặt
Đây là biện pháp quan trọng của hoạt động quản lý nhằm đánh giá việc
tổ chức thực hiện quản lý giáo dục giáo viên mầm non công lập, góp phần
ngăn ngừa và khắc phục hiện tượng bỏ việc của họ.
Kiểm tra, đánh giá là biện pháp quan trọng của hệ thống quản lý giáo
dục nói chung và quản lý giáo dục mầm non nói riêng, là một trong những
77
chức năng lãnh đạo chủ yếu, là khâu quan trọng của tổ chức thực hiện, đồng
thời là biện pháp để khắc phục bệnh quan liêu.
Mục đích của kiểm tra, đánh giá là nhằm nắm bắt tình hình hoạt động
quản lý, giáo dục bồi dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non công lập, thông qua
đó đánh giá đúng những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, kịp thời chấn
chỉnh, khắc phục, rút kinh nghiệm để việc quản lý, giáo dục đội ngũ giáo viên
mầm non công lập được tốt hơn. Đồng thời thông qua kiểm tra, đánh giá để
nắm những thông tin phản hồi của đội ngũ giáo viên, phát hiện những nhân tố
mới, những giáo viên điển hình, yêu nghề, gắn bó với nghề, sáng tạo trong
nuôi dạy trẻ để nhân rộng, phát triển trong phạm vi toàn ngành mầm non và
nhà trường. Xây dựng họ thành những tấm gương điển hình để mọi giáo viên
noi theo nhằm góp phần ngăn ngừa, khắc phục hiện tượng bỏ việc của những
giáo viên khác.
Kiểm tra, đánh giá thực hiện theo các bước sau
Xây dựng kế hoạch kiểm tra, đánh giá trong đó cần xác định đúng mục
đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức kiểm tra, đánh giá,
Xây dựng tiêu chí kiểm tra, đánh giá,
Tiến hành tổ chức kiểm tra, đánh giá,
Phân tích kết quả kiểm tra, đánh giá,
Nhận xét và kết luận,
Rút kinh nghiệm, phổ biến kinh nghiệm và nhân rộng điển hình.
Nội dung kiểm tra, đánh giá
Kiểm tra, giám sát các hoạt động của nhà trường, đảm bảo trường hoạt
động đúng chức năng, nhiệm vụ, thực hiện có hiệu quả kế hoạch phát triển
nhà trường, phát triển đội ngũ giáo viên;
Kiểm tra, đánh giá việc xây dựng kế hoạch giáo dục, nuôi dưỡng trẻ;
Kiểm tra, đánh giá việc xây dựng kế hoạch giáo dục bồi dưỡng và quản lý quá
trình giáo dục bồi dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non công lập;
78
Kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với giáo viên mầm non công lập;
Kiểm tra việc thực hiện cơ chế hoạt động, đặc biệt khi kiểm tra phải rà
soát các văn bản, quy định của các chủ thể quản lý để phát hiện sai sót của các
văn bản này (nếu có), đồng thời có kiến nghị để bổ sung những văn bản quản
lý còn thiếu cho phù hợp với tình hình, kịp thời ngăn chặn các hiện tượng vi
phạm và những sai sót có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến uy tín của nhà trường
và của giáo viên;
Kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động quản lý của các chủ thể quản lý
như việc ra quyết định quản lý, tổ chức thực hiện các hoạt động quản lý;
Kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục nuôi dưỡng trẻ; giáo dục bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên...
Kiểm tra và giám sát trong việc đánh giá giáo viên, đảm bảo những
nhận xét công bằng, dân chủ đối với giáo viên để phát huy khả năng sẵn có
đồng thời động viên giáo viên mầm non công lập yên tâm bám trụ với nghề.
Ngoài những nội dung kiểm tra trên phải căn cứ vào tình hình thực tiễn
có thể kiểm tra những nội dung khác.
Sau khi kiểm tra, đánh giá, phải rút kinh nghiệm và áp dụng những bài
học tốt để ngăn chặn tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập.
Để thực hiện hiệu quả biện pháp này cần phải làm tốt một số vấn đề sau
Đối với các cơ quan chức năng quản lý giáo dục mầm non và trường
mầm non
Khi kiểm tra, đánh giá phải có kế hoạch, chương trình, nội dung cụ thể,
kết hợp nhiều hình thức, phương pháp, sau khi kiểm tra phải có kết luận rõ
ràng; nếu phát hiện những sai phạm phải có biện pháp xử lý đúng đắn, kịp
thời, hợp tình hợp lý, hướng mọi người đoàn kết, phấn đấu tiến bộ.
79
Những kinh nghiệm rút ra được phải được tổng kết thành những bài
học có ý nghĩa thực tiễn nhanh chóng phổ biến và nhân rộng những bài học và
điển hình tiên tiến.
Những người tham gia kiểm tra, đánh giá phải được lựa chọn kỹ, phải
là những người có trình độ, có phẩm chất và năng lực tốt, có tinh thần trách
nhiệm cao và nắm vững các văn bản pháp quy, các chỉ thị, nghị quyết, lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, các quyết định quản lý của các
chủ thể quản lý.
Kiểm tra, đánh giá phải theo tiêu chí (theo chuẩn), những tiêu chí này
chính là chỉ tiêu tổ chức thực hiện kế hoạch của nhà trường. Việc kiểm tra
theo tiêu chí sẽ khắc phục yếu tố chủ quan trong đánh giá.
Đối với cán bộ quản lý, nhất là cán bộ quản lý trực tiếp đội ngũ giáo viên
Phải nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của hoạt động kiểm tra,
đánh giá kết quả hoạt động quản lý của nhà trường
Nắm vững kế hoạch kiểm tra, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với cơ quan
chức năng và đoàn kiểm tra trong quá trình kiểm tra, đánh giá.
Nắm chắc các văn bản pháp quy, các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy,
chính quyền các cấp để quán triệt và tổ chức thực hiện trong việc nuôi dạy trẻ
và quản lý đội ngũ giáo viên.
Tổ chức tốt các hoạt động thi đua sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt
động quản lý.
Đối với đội ngũ giáo viên
Trước hết, đội ngũ giáo viên cần phải thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ của nhà giáo dục trong nuôi, dạy trẻ. Trong quá trình hoạt động của mình
phải thường xuyên quán triệt nghị quyết, chỉ chị của cấp ủy, chính quyền các
cấp về giáo dục. Hợp tác chặt chẽ với các hoạt động kiểm tra, giám sát của
các cấp và nêu cao tính tích cực chủ động để tự kiểm tra, đánh giá bản thân.
80
Qua kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá mỗi giáo viên cần nghiêm
khắc nhìn lại bản thân mình để tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, trở thành người
giáo viên mầm non mẫu mực.
2.3. Khảo nghiệm sự cần thiết, tính khả thi của các biện pháp
Mục đích khảo nghiệm
Kiểm tra tính cần thiết và khả thi của các biện pháp ngăn ngừa và khắc
phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ
Chí Minh.
Đối tượng khảo nghiệm
Để khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp, tác giả tiến
hành khảo sát bằng phiếu hỏi đối với 35 cán bộ quản lý các cấp và 53 giáo
viên ở các trường mầm non công lập thuộc các quận: Quận Tân Phú, Quận 1,
Quận 3 và Quận 10 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Đánh giá kết quả khảo nghiệm
Kết quả khảo sát thu được như sau:
Bảng 2.1. Kết quả khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi
của các biện pháp
TT
Các biện pháp
ngăn ngừa và khắc phục tình trạng
bỏ việc của giáo viên mầm non tại
TP Hồ Chí Minh
Sự cần thiết Tính khả thi
Cần
thiết
Không
cần
thiết
Khả
thi
Không
khả thi
1
Phát huy sức mạnh tổng hợp của cấp
ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị
các cấp và của nhân dân trong ngăn
chặn tình trạng bỏ việc của
GVMNCL
81/88
92,05%
7/88
7,95%
80/88
90,91%
8/88
9,09%
2
Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
và vị thế xã hội cho GVMNCL
84/88
95,50%
4/88
4,50%
82/88
93,18%
6/88
6,82%
81
3
Đổi mới cơ chế quản lý của các cấp từ
Thành phố đến quận, (huyện), phường
(xã)
83/88
94,32%
5/88
5,68%
85/88
96,59%
3/88
3,41%
4
Nâng cao chất lượng tuyển chọn đào
tạo và tuyển dụng GVMNCL
80/88
90,91%
8/88
9,09%
81/88
92,05%
7/88
7,95%
5
Tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và
năng lực sư phạm cho GVMNCL
84/88
95,50%
4/88
4,50%
86/88
97,73%
2/88
2,27%
6
Kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
kịp thời trong việc nắm bắt tình hình
hoạt động của các trường mầm non và
của GVMN về mọi mặt
82/88
93,18%
6/88
6,82%
83/88
94,32%
5/88
5,68%
Nhận xét chung
Về tính cần thiết
Hầu hết cán bộ giáo viên trường mầm non công lập đều khẳng định các
biện pháp mà tác giả đề xuất trong luận văn là có tính cần thiết. Trên 90% số
người được hỏi ý kiến đều đánh giá các biện pháp có tính cần thiết. Xếp thứ
tự theo tính cần thiết của các biện pháp là: 2, 5, 3, 1, 4, 6.
Qua trao đổi với đội ngũ giáo viên cho thấy sự đánh giá trên là hết sức
khách quan vì đa số cán bộ giáo viên cho rằng biện pháp 2 nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho giáo viên mầm non công lập và biện
pháp 5 tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên
mầm non công lập là những vấn đề có tính cần thiết nhất (96.59% và 95,
50%). Biện pháp 3 đổi mới cơ chế quản lý của các cấp từ Thành phố đến
quận, (huyện), phường (xã) cũng được đánh giá cao (94,32%). Họ thật sự xem
đây là những biện pháp hữu hiệu để tháo gỡ những hạn chế, bất cập trong việc
ngăn ngừa, khắc phục hiện tượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập.
82
Tuy nhiên, các biện pháp như biện pháp 4, nâng cao chất lượng tuyển
chọn đào tạo và tuyển dụng giáo viên mầm non công lập và biện pháp 6 kiểm
tra, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời trong việc nắm bắt tình hình hoạt động
của các trường mầm non và của giáo viên mầm non về mọi mặt, lại chưa
nhận được sự đánh giá cao về tính cần thiết. Cán bộ, giáo viên mầm non công
lập cho rằng đây là những vấn đề có thể thực hiện sau những cải cách mang
tính đột phá, đó là phải nâng cao đời sống của cán bộ giáo viên và đổi mới cơ
chế quản lý họ.
Về tính khả thi
Đánh giá về tính khả thi của các biện pháp, cũng như đánh giá về tính
cấp thiết, đại đa số người được hỏi ý kiến đều đánh giá các biện pháp đề xuất
đều có tính khả thi cao (90% trở lên). Tuy nhiên, ý kiến của một số cán bộ,
giáo viên lại không đồng nhất đánh giá tính khả thi với tính cần thiết. Đánh
giá tính khả thi của các biện pháp được xếp theo thứ tự là 5, 3, 6, 2, 4, 1. Biện
pháp 5 Tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên
mầm non công lập được đánh giá có tính khả thi cao nhất (97,73%). Vì cán
bộ, giáo viên cho rằng đây là việc làm trong tầm tay của nhà trường và của
chính đội ngũ giáo viên. Biện pháp 3 đổi mới cơ chế quản lý của các cấp từ
Thành phố đến quận, (huyện), phường (xã) được 96,95% đánh giá là có tính
khả thi vì họ cho rằng vấn đề đổi mới cơ chế có thể thực hiện được vì hiện
nay Thành phố đã có những cải cách hành chính quan trọng.
Biện pháp 2 nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho
giáo viên mầm non công lập được đánh giá cần thiết nhất thì lại bị đánh giá ít
khả thi (đứng hàng thứ 4 trong 6 biện pháp, chỉ có 93,18% ý kiến đánh giá là
có tính khả thi). Qua trao đổi, một số cán bộ, giáo viên cho rằng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho giáo viên không thể làm trong một sớm một
chiều, mặt khác, nhiều năm qua ngành học mầm non và giáo viên mầm non
83
đã bị “bỏ quên”. Để thay đổi một cách nghĩ, một cách làm cần phải có thời
gian. Biện pháp 4, nâng cao chất lượng tuyển chọn đào tạo và tuyển dụng giáo
viên mầm non công lập cũng không được đánh giá khả thi cao (đúng hàng thứ
5 trong 6 biện pháp, chỉ có 92,05% ý kiến đánh giá có tính khả thi). Vì một số
cán bộ, giáo viên cho rằng trước sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường
và trước những áp lực về công việc, về chế độ đãi ngộ thấp thì khó có thể
tuyển chọn và tuyển dụng được những người có tâm, có tài vào ngành giáo
dục mầm non. Đây thật sự là một thách thức đối với ngành giáo dục mầm non
Tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp ngăn ngừa và khắc
phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập được thể hiện trong
sơ đồ sau:
Biểu đồ 2.2: So sánh tính cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp
Như đã trình bày ở trên, tính cần thiết và tính khả thi không tỉ lệ thuận
với nhau. Trong thực tiễn, các biện pháp có tính cần thiết cao nhưng lại không
có tính khả thi cao (biện pháp 2) hoặc ngược lại, khả thi nhưng không thật sự
cần thiết. Như vậy, phải tìm ra tương quan (thuận, nghịch) giữa tính cần thiết
84
và tính khả thi của các biện pháp để chứng tỏ các biện pháp tác giả nêu lên
vừa cần thiết lại vừa khả thi. Để giải quyết vấn đề này tác giả đã sử dụng công
thức Spearman [23, Tr,32) để xem xét tương quan (tương quan hạng) giữa
tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp:
)1(
6
1 2
2
−
−=
∑
nn
D
R
Trong công thức trên:
R là hệ số tương quan
n là số biện pháp đề xuất
D là hệ số chênh lệch giữa thứ bậc của tính cần thiết và tính khả thi
Qua khảo sát, có thể thấy thứ bậc của tính cần thiết và tính khả thi ở
bảng sau đây:
Bảng 2.3: Thứ hạng tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
Biện
pháp
Tính cần thiết Tính khả thi
D2
(mi-ni)SL %
Thứ
bậc
(mi)
SL %
Thứ
bậc (ni)
Bp1 82/88 93,18% 4 80/88 90,91% 6 4
Bp2 85/88 96,59% 1 82/88 93,18% 4 9
Bp3 83/88 94,32% 3 85/88 96,59% 2 1
Bp4 80/88 90,91% 5 81/88 92,05% 5 0
Bp5 84/88 95,50% 2 86/88 97,73% 1 1
Bp6 81/88 92,05% 6 83/88 94,32% 3 9
Sau khi thay số và tính nếu:
+ R > 0 (R dương): tính cần thiết và tính khả thi có tương quan thuận,
nghĩa là biện pháp vừa cần thiết vừa khả thi.
85
Trường hợp R dương và có giá trị càng lớn (nhưng không bao giờ bằng
1) thì tương quan giữa chúng càng chặt chẽ (nghĩa là các biện pháp không
những cần thiết mà khả thi rất cao)
+ R < 0 (R âm): Tính cần thiết và tính khả thi có tương quan nghịch
nghĩa là các biện pháp có tính cần thiết nhưng không khả thi hoặc ngược lại.
Thay số vào công thức trên có:
)16(6
)910194(6
1 2
−
+++++
−=
∑R
R = 1 - 0,68
R = 0,31
Dựa vào kết quả trên (R = 0,31) có thể kết luận giữa tính cần thiết và
tính khả thi của các biện pháp có tính tương quan thuận và rất chặt chẽ,
nghĩa là các biện pháp vừa cần thiết lại vừa khả thi cao.
Kết quả khảo nghiệm này có thể kết luận rằng các biện pháp đã đề xuất
nếu được áp dụng vào thực tiễn sẽ góp phần thiết thực để ngăn ngừa và khắc
phục hiện tượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ
Chí Minh.
*
* *
Ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non
công lập là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, phức tạp và phải tiến hành lâu
dài với những cách thức hết sức linh hoạt, đa dạng, đòi hỏi sự nỗ lực của cấp
ủy, chính quyền, tổ chức chính trị xã hội các cấp và của cả cộng đồng. Trên
cơ sở lý luận và thực tiễn đã luận giải, tác giả đề xuất những biện pháp và
cho rằng đây chỉ là những gợi ý cho cấp ủy, chính quyền các cấp và các cơ
quan chức năng nghiên cứu áp dụng. Mỗi biện pháp có vị trí, vai trò và hiệu
quả áp dụng khác nhau nhưng đều nằm trong một chỉnh thể thống nhất, có
86
mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong quá trình áp dụng các biện pháp
phải kết hợp hài hòa, phát huy thế mạnh tối đa của từng biện pháp để đạt
được kết quả tốt nhất.
87
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có vai
trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành những phẩm chất, nhân cách
tốt đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, xây dựng đội
ngũ giáo viên mầm non có số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất chính trị,
đạo đức, kỹ năng sư phạm tốt, yêu nghề, yêu trẻ, gắn bó với ngành giáo dục
mầm non luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của cấp ủy, chính
quyền các cấp.
Nhiều năm qua, giáo viên mầm non công lập của Thành phố Hồ Chí
Minh đã nỗ lực cùng ngành mầm non thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng
của Đảng và Nhà nước góp phần nuôi dạy nhiều thế hệ thanh, thiếu niên
Thành phố Hồ Chí Minh trưởng thành. Tuy nhiên, trước những tác động của
mặt trái nền kinh tế thị trường và những nguyên nhân khác, hiện tượng bỏ
việc của giáo viên mầm non công lập diễn ra ngày một trầm trọng. Hiện
tượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập đã làm ảnh hưởng đến kết quả
nuôi dạy trẻ của các trường mầm non, làm ảnh hưởng đến uy tín, vị thế của
giáo dục mầm non nói chung và giáo viên mầm non nói riêng.
Sự phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo những
tiềm lực cho phát triển giáo dục mầm non, cho sự trưởng thành của đội ngũ
giáo viên mầm non, đồng thời cũng tạo ra những cơ hội và thách thức đối với
giáo viên mầm non công lập. Sự đãi ngộ cao của trường mầm non tư thục và
những ngành kinh tế khác đang lôi kéo người giáo viên công lập rời bỏ nhà
trường, rời bỏ nghề giáo dục mầm non. Thực tiễn đòi hỏi cần phải có những
giải pháp quyết liệt để ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo
viên mầm non công lập, giữ họ lại với nghề, gắn bó và tâm huyết với nghề.
Chính vì vậy tác giả đề xuất 6 biện pháp góp phần giải quyết vấn đề cấp bách
88
trên. Đó là những giải pháp: Phát huy sức mạnh tổng hợp của cấp ủy, chính
quyền, các tổ chức chính trị các cấp và của nhân dân trong ngăn chặn tình
trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập; nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần và vị thế xã hội cho giáo viên mầm non công lập; đổi mới cơ chế
quản lý của các cấp từ Thành phố đến quận, (huyện), phường (xã); nâng cao
chất lượng tuyển chọn đào tạo và tuyển dụng giáo viên mầm non công lập;
tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên mầm
non công lập; kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời trong việc nắm bắt
tình hình hoạt động của các trường mầm non và của giáo viên mầm non về
mọi mặt.
Các biện pháp mang tính hệ thống, mỗi biện pháp có vai trò, vị trí riêng
nên khi áp dụng cần sử dụng tổng hợp, linh hoạt không tuyệt đối hóa hoặc
xem nhẹ bất cứ một giải pháp nào. Mặt khác, kết quả của việc ngăn ngừa,
khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập bỏ việc phụ
thuộc vào sự quan tâm, nỗ lực của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính chị
xã hội các cấp và của cả cộng đồng xã hội, đồng thời còn phụ thuộc chính vào
tính tích cực, sự phấn đấu nỗ lực vươn lên, khắc phục khó khăn trong cuộc
sống để tâm huyết với nghề và trụ lại với nghề nuôi dạy trẻ của đội ngũ giáo
viên mầm non công lập.
2. Kiến nghị
Nhà nước cần đặt ra các phần thưởng, các danh hiệu vinh dự cho riêng
ngành giáo dục mầm non để tặng cho những người có đóng góp quan trọng
trong ngành giáo dục mầm non nhằm tôn vinh vị thế xã hội của ngành mầm
non và của người giáo viên mầm non.
Đảng, Nhà nước và Thành phố nên nhất quán về các chính sách đãi ngộ
đối với giáo viên mầm non công lập. Xem giáo viên mầm non công lập là đội
ngũ quan trọng trong hệ thống giáo viên Nhà nước. Cần tăng thêm các khoản
89
phụ cấp về lương tiền và có chính sách cho giáo viên mầm non công lập được
thuê nhà ở của nhà nước hoặc được mua nhà ở xã hội để tạo điều kiện cho
giáo viên mầm non yên tâm công tác đồng thời giúp giáo viên mầm non giảm
bớt khó khăn về mặt kinh tế trong cuộc sống hàng ngày.
Nhà nước xác định những tri thức giáo dục cơ bản cho trẻ mầm non,
tạo nền tảng vững chắc trong giáo dục nhân cách nền cho lứa tuổi này để
chương trình giáo dục mầm non không phải thay đổi thường xuyên khiến giáo
viên mầm non cảm thấy nặng nề và đuối sức trong công tác chuyên môn, từ
đó làm giảm tình yêu nghề của giáo viên mầm non công lập.
Thành phố xem xét bãi bỏ chế độ làm bảo mẫu cách nhật, giảm tải
những phần việc có liên quan đến lao động của giáo viên mầm non như quét
dọn vệ sinh lớp học, hành lang, nhà vệ sinh,… để giáo viên an tâm dành thời
gian cho công tác chuyên môn.
Thành phố đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện xã hội
hóa giáo dục mầm non. Vận động các tổ chức kinh tế - xã hội, tài chính, cộng
đồng dân cư ở địa phương đóng góp để xây dựng trường, lớp mầm non theo
đúng chuẩn quy định nhằm giúp các trường mầm non có cơ sở vật chất,
phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại, tạo môi trường làm việc thuận lợi để
hạn chế ở mức thấp nhất sự quá tải sức lao động của đội ngũ giáo viên mầm
non công lập, giúp họ bám trường, bám lớp, trụ lại với nghề.
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ Giáo dục và Đào tạo (1997), Chiến lược giáo dục mầm non từ nay đến
năm 2020 (lưu hành nội bộ), Hà Nội.
2.Phạm Thị Châu, Trần Thị Sinh (2000), Một số vấn đề giáo dục mầm non.
3.Ngô Thượng Chính (2004), Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục mầm
non và phổ thông.
4.Phạm Khắc Chương (2004), Lý luận quản lý giáo dục đại cương.
5.Vũ Đức Đạm (2005), Một số giải pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên
mầm non trên địa bàn huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
6.Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn Kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 2 (khóa VIII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
7.Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn Kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
8.Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn Kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
9.Nguyễn Tiến Đạt (2006), Kinh nghiệm và thành tựu giáo dục và đào tạo
trên thế giới tập I, II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10.Nguyễn Công Giáp và Đào Vân Vy (2004), Phân cấp quản lý giáo dục cơ
bản ở Việt Nam, quan niệm và thực tiễn, Viện Chiến lược và Chương
trình giáo dục, Save the children.
11.Vũ Thị Minh Hà (2004), Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên
mầm non Hà Nội.
12.Phạm Minh Hạc (1996), Mười năm đổi mới giáo dục, Nxb Giáo dục.
13.Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ
XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14.Phạm Minh Hạc (2008), Vận dụng cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa vào quản lý giáo dục - đào tạo, tiếp tục đường lối không
91
thương mại hóa giáo dục, Bài tham luận tại Hội thảo “Giáo dục trong
cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, những vấn đề lý luận” do Hội
đồng Quốc gia Giáo dục tổ chức tháng 2 năm 2008.
15.Phạm Thị Hậu, Nguyễn Thị Oanh, Trần Thị Sinh, Giáo dục mầm non, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
16.Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959,1980 và 1992), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1995.
17.Hồ Chí Minh, Những lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, tập V, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1960.
18.Hồ Chí Minh, Về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990.
19.Phan Văn Kha (2002), Quản lý nhà nước về giáo dục, Giáo trình dành cho
học viên cao học về quản lý giáo dục, Viện Nghiên cứu phát triển giáo
dục, Hà Nội. .
20.Trần Kiểm (2012), Những vấn đề cơ bản của Khoa học quản lý giáo dục,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
21.Đại từ điển tiếng Việt (1999), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
22.Đặng Bá Lãm (chủ biên) (2005), Quản lý Nhà nước về giáo dục - lý luận
và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23.Nguyễn Thị Lư (2006), Một số giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên
mầm non tỉnh Bắc Giang đến năm 2010.
24.Luật viên chức (2011), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
25.Develay Michel (1999), Một số vấn đề về đào tạo giáo viên, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
26.Rozental MM. (1986), Từ điển Triết học, NXB Tiến bộ Matxcơva và Nxb
Sự thật, Hà Nội.
27.Nghị định số 75/2006/NĐ-CP, ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục.
92
28.Nghị định số 69/2008/NĐ-CP, ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ
về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
29.Nghị định số 115/2010/NĐ-CP, ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính
phủ quy định trách nhiệm quản lý Nhà nước về giáo dục.
30.Hà Thế Ngữ (chủ biên) (1989), Dự báo giáo dục - vấn đề và xu hướng,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
31.Hà Thế Ngữ (2001), Giáo dục học - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
32.Lưu Thị Kim Phương (2009), Biện pháp quản lý Hiệu trưởng nhằm nâng
cao năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non thành phố Thái Nguyên.
33.Bùi Văn Quân (2007), Quản lý giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34.Quyết định số 14/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 07 tháng 4 năm 2008 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Điều lệ trường mầm non, Hà Nội.
35.Quyết định số 36/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 16 tháng 7 năm 2008 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy chế công nhận trường mầm
non đạt chuẩn quốc gia, Hà Nội.
36.Quyết định số 239/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 02 năm 2010 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ
em 5 tuổi giai đoạn 2010 - 2015, Hà Nội.
37.Quyết định số 579/QĐ-TTg, ngày 19 tháng 4 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời
kỳ 2011 - 2020, Hà Nội.
38.Quyết định số 1216/QĐ-TTg, ngày 22 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch Chiến lược phát triển nhân lực Việt
Nam giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội.
93
39.Quyết định số 711/QĐ-TTg, ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Chiến lước phát triển giáo dục Việt Nam giai
đoạn 2011 - 2020, Hà Nội.
40.Trần Quốc Thành, Khoa học quản lý đại cương - Giáo trình dùng cho học
viên Cao học Quản lý giáo dục.
41.Trần Thị Kim Thoa (2006), Các biện pháp tăng cường quản lý đội ngũ
giáo viên của Hiệu trưởng trường mầm non Quận Tân Bình - Thành
phố Hồ Chí Minh.
42.Nguyễn Huy Thông (1999), Giải pháp bồi dưỡng chuẩn hóa giáo viên
mẫu giáo các tỉnh Duyên hải Miền trung.
43.Thông tư số 32/2010/TT-BGDĐT ngày 02 tháng 12 năm 2010 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc ban hành Quy định điều kiện, tiêu chuẩn, quy
trình công nhận phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.
44.Từ điển tiếng Việt (2005), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
45.Đinh Văn Vang (1996), Một số vấn đề về quản lý trường mầm non, Nxb
Đại học Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội.
46.Nguyễn Thị Hồng Vân (2006), Một số biện pháp phát triển đội ngũ giáo
viên mầm non ở các xã đặc biệt khó khăn tỉnh Sơn La.
47.Viện Khoa học giáo dục (1999), Xã hội hóa công tác giáo dục - nhận thức
và hành động, Hà Nội.
Trang website
48.Website hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em (www.mamnon.com).
49.Website www.edu.hochiminhcity.gov.vn Ngành Giáo dục thành phố Hồ
Chí Minh 30 năm xây dựng và phát triển
50.Website www.dantri.com.vn
51. Website www.tin247.com
52. Website www.24h.com.vn
94
PHỤ LỤC
Phụ lục 1 PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
VỀ NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC CỦA
GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(Dành cho Cán bộ quản lý)
Để phục vụ cho nghiên cứu biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng
bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại thành phố Hồ Chí Minh, xin Quý
vị vui lòng cho biết ý kiến về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu x vào ô
tương ứng với ý kiến trả lời.
Thứ
tự NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC
Mức độ của nguyên nhân
1. Thấp
2. Bình thường
3. Tương đối cao
4. Cao nhất
1 2 3 4
1
Lương của giáo viên không đủ trang trải cho
cuộc sống của bản thân so với công chức,
viên chức Nhà nước ở các ngành nghề khác
dù hệ số lương và phụ cấp của giáo viên
mầm non có cao hơn
2
Thời gian làm việc của giáo viên mầm non
luôn quá tải (12 tiếng/ngày) so với quy định
của Thông tư 48: 6 tiếng/ngày nếu dạy lớp 2
buổi, 4 tiếng /ngày nếu dạy lớp 1 buổi
3
Áp lực công việc: Sĩ số trẻ quá đông so với
quy định từng cấp tuổi. Vừa nuôi, vừa dạy,
vừa vệ sinh cho trẻ và vệ sinh môi trường
làm việc nhất là khi có dịch bệnh xảy ra cho
trẻ mầm non.
95
4
Phụ huynh khó chịu, có lời lẽ và ứng xử
không tôn trọng giáo viên vì “bênh” con
không đúng
5
Có nhiều mâu thuẫn, tị hiềm lẫn nhau giữa
các giáo viên trong trường
6
Ban giám hiệu thiên vị, không công bằng
trong quan hệ và đối xử với giáo viên
7
Những giáo viên “đối nghịch” với Ban giám
hiệu trong công tác: xin thuyên chuyển đi
nơi khác hoặc nghỉ việc
8
Chuyển sang trường tư thục, trường quốc tế
vì có mức lương cao hơn và ít bị áp lực về
chuyên môn chăm sóc, nuôi, dạy trẻ
9
Mở trường tư thục hoặc nhóm trẻ tại nhà để
có thời gian chăm sóc, trông nom gia đình
10
Chuyển sang làm việc ở các lĩnh vực, các
ngành nghề khác để có thu nhập cao và có
vị thế trong xã hội
11
Vị thế giáo viên mầm non không được xã
hội xem trọng
12 Môi trường làm việc khó tìm bạn đời
13
Giáo viên mầm non mới ra trường thường bị
“sốc” vì gặp thực tế làm việc quá cực so với
khi thực tập
Xin cảm ơn
96
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
VỀ NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC CỦA
GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(Dành cho giáo viên)
Để phục vụ cho nghiên cứu biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng
bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại thành phố Hồ Chí Minh, xin thầy
(cô) vui lòng cho biết ý kiến về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu x
vào ô tương ứng với ý kiến trả lời của thầy (cô).
Thứ
tự NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC
Mức độ của nguyên nhân
5. Thấp
6. Bình thường
7. Tương đối cao
8. Cao nhất
1 2 3 4
1 Mức lương lãnh trên thực tế không đủ trang
trải cho cuộc sống
2
Thời gian làm việc luôn quá tải
3
Áp lực công việc cao
4 Ban giám hiệu ít quan tâm đến tâm tư nguyện
vọng của giáo viên
5
Môi trường làm việc đôi khi thiếu thân thiện.
6 Ban giám hiệu thiên vị, không công bằng
trong đối xử với giáo viên
7 Được Ban giám hiệu “quan tâm đặc biệt” vì
có những góp ý về công tác quản lý
97
8
Chuyển sang trường tư thục, trường quốc tế
vì có mức lương cao hơn và ít bị áp lực về
chuyên môn lẫn vệ sinh cho trẻ
9 Mở trường tư thục hoặc nhóm trẻ tại nhà để
có thời gian chăm sóc, trông nom gia đình
10
Chuyển sang làm việc ở các lĩnh vực, các
ngành nghề khác để có thu nhập cao và có vị
thế trong xã hội
11 Vị thế giáo viên mầm non không được xã hội
xem trọng
12
Môi trường làm việc khó tìm bạn đời
13
Vì thiếu trải nghiệm thực tế chăm sóc, nuôi,
dạy khi học tại các trường sư phạm mầm non;
giáo viên bị “vỡ mộng” khi gặp thực tế làm
việc cực nhọc (giáo viên mới ra trường)
Xin cảm ơn
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
VỀ THỰC TRẠNG CÔNG VIỆC CỦA
GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(Dành cho Cán bộ Quản lý)
98
Để phục vụ cho nghiên cứu biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng
bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại thành phố Hồ Chí Minh, xin Quý
vị vui lòng cho biết ý kiến về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu x vào ô
tương ứng với ý kiến trả lời của Quý vị.
Thứ
tự THỰC TRẠNG CÔNG VIỆC
Ý KIẾN CÁ NHÂN
Từ câu 1- 6 Từ câu 7-11
Có Không a b c
1
Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về
chuyên môn dạy.
2
Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về
chuyên môn nuôi.
3
Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về cả
chuyên môn dạy và nuôi.
4
Công việc của giáo viên mầm non nhẹ nhàng, vui
tươi như chuyện chơi đùa với con cháu trong gia
đình.
5
Thường xuyên trò chuyện với giáo viên và lắng
nghe trực tiếp tâm tư nguyện vọng của giáo viên.
6
Cần dùng quyền lực của Ban giám hiệu để ra uy
với các giáo viên hay có ý kiến trong công việc
được giao.
7
Ban giám hiệu chỉ cần lắng nghe gián tiếp mọi
thông tin trong công tác quản lý qua các giáo viên
có chức vụ như Tổ trưởng, Chủ tịch Công đoàn, Bí
thư chi đoàn, Trưởng ban Thanh tra Nhân dân mà
không cần đối chứng
a. Thường xuyên
b. Không bao giờ
c. Tùy công việc
8
99
Ban giám hiệu dành thời gian lắng nghe tâm tư
của giáo viên trong trường theo:
a. Lịch ấn định của ngày (tuần, tháng)
b. Không cố định thời gian và lắng nghe khi có
điều kiện ở mọi lúc, mọi nơi
c. Khi có mâu thuẫn giữa các giáo viên trong
trường
9
Ban giám hiệu thường dự giờ các giáo viên trong
trường dưới hình thức:
a. Đột xuất
b. Báo trước từ 15 phút đến 30 phút
c. Báo trước 1 ngày
10
Trạng thái tâm lý của Ban giám hiệu khi được giáo
viên thẳng thắn đóng góp ý kiến mọi vấn đề liên
quan đến nhà trường trước Hội đồng sư phạm:
a. Thoải mái lắng nghe để khắc phục hạn chế
(nếu có)
b. Không thoải mái
c. Không cần quan tâm, cắt ngay phát biểu của
giáo viên đó
11
Khi giáo viên có ý kiến về quản lý của Ban giám
hiệu trước Hội đồng sư phạm, Ban giám hiệu có
thái độ
a. Khó chịu
b. Không khó chịu ra mặt nhưng hạn chế tiếp
xúc với giáo viên đó
c. Tìm hạn chế của giáo viên đó để góp ý lại.
Xin cảm ơn
100
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
VỀ BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(Dành cho giáo viên)
Để phục vụ cho nghiên cứu biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng
bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại thành phố Hồ Chí Minh, xin thầy
(cô) vui lòng cho biết ý kiến về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu x
vào ô tương ứng với ý kiến trả lời của thầy (cô).
Thứ
tự THỰC TRẠNG CÔNG VIỆC
Ý KIẾN CÁ NHÂN
Từ câu 1- 6 Từ câu 7-11
Có Không a b c
1 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về
chuyên môn dạy.
2 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về
chuyên môn nuôi.
3
Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về
cả chuyên môn dạy và nuôi.
4
Công việc của giáo viên mầm non nhẹ nhàng,
vui tươi như chuyện chơi đùa với con cháu
trong gia đình.
5
Ban giám hiệu có thường xuyên trò chuyện và
lắng nghe trực tiếp tâm tư nguyện vọng của
bạn.
6
Ban giám hiệu thường dùng quyền lực của
người quản lý để thị uy với các giáo viên hay có
ý kiến trong công tác.
101
7
Ban giám hiệu chỉ cần lắng nghe gián tiếp mọi
thông tin trong công tác quản lý qua các giáo
viên có chức vụ như Tổ trưởng, Chủ tịch Công
đoàn, Bí thư chi đoàn, Trưởng ban Thanh tra
Nhân dân mà không cần đối chứng
a. Thường xuyên
b. Không bao giờ
c. Tùy công việc
8
Ban giám hiệu dành thời gian lắng nghe tâm tư
của giáo viên trong trường theo:
a. Lịch ấn định của ngày (tuần, tháng)
b. Không cố định thời gian và lắng nghe khi
có điều kiện ở mọi lúc, mọi nơi
c. Khi có xung đột giữa các giáo viên trong
trường
9
Ban giám hiệu thường dự giờ các giáo viên
trong trường dưới hình thức:
a. Đột xuất
b. Báo trước từ 15 phút đến 30 phút
c. Báo trước 1 ngày
10
Cảm nhận của bạn về trạng thái tâm lý của Ban
giám hiệu khi được bạn thẳng thắn đóng góp ý
kiến trước Hội đồng sư phạm nhà trường:
a. Thoải mái
b. Không thoải mái
c. Có biểu hiện không quan tâm
11
Khi bạn có ý kiến về quản lý của Ban giám hiệu
trước Hội đồng sư phạm, sau đó Ban giám hiệu sẽ:
a. Khó chịu với bạn
b. Không khó chịu nhưng hạn chế tiếp xúc
với bạn
c. Vui vẻ nhưng sẽ tìm hạn chế của bạn để
góp ý lại.
Xin cảm ơn
102
Phụ lục 2 TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
VỀ NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC CỦA
GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(Dành cho Cán bộ quản lý)
Thứ
tự NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC
Mức độ của nguyên nhân
1. Thấp
2. Bình thường
3. Tương đối cao
4. Cao nhất
1 2 3 4
1
Lương của giáo viên không đủ trang trải cho
cuộc sống
35
100
2
Thời gian làm việc của giáo viên mầm non
luôn quá tải
35
100
3 Áp lực công việc
35
100
4
Phụ huynh khó chịu, có lời lẽ và ứng xử
không tôn trọng giáo viên vì “bênh” con
không đúng
3
8,57
9
25,71
14
40,00
9
25,71
5 Có nhiều mâu thuẫn, tị hiềm lẫn nhau giữa
các giáo viên trong trường
1
2,87
15
42,87
19
54,26
6
Ban giám hiệu thiên vị, không công bằng
trong quan hệ và đối xử với giáo viên
5
14,30
12
34,27
18
51,43
7
Những giáo viên “đối nghịch” với Ban giám
hiệu trong công tác: xin thuyên chuyển đi
nơi khác hoặc nghỉ việc
35
100
8
Chuyển sang trường tư thục, trường quốc tế
vì có mức lương cao hơn và ít bị áp lực về
chuyên môn chăm sóc, nuôi, dạy trẻ
35
100
103
9
Mở trường tư thục hoặc nhóm trẻ tại nhà để
có thời gian chăm sóc, trông nom gia đình
7
20
18
51,43
10
28,57
10
Chuyển sang làm việc ở các lĩnh vực, các
ngành nghề khác để có thu nhập cao và có
vị thế trong xã hội
6
17,14
9
25,71
20
57,15
11
Vị thế giáo viên mầm non không được xã
hội xem trọng
5
14,29
8
22,86
22
62,86
12 Môi trường làm việc khó tìm bạn đời
8
22,86
12
34,29
15
42,86
13
Giáo viên mầm non mới ra trường thường bị
“sốc” vì gặp thực tế làm việc quá cực so với
khi thực tập
35
100
104
TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
VỀ NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC CỦA
GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(Của giáo viên)
Thứ
tự
NGUYÊN NHÂN BỎ
VIỆC
Mức độ của nguyên nhân
1. Thấp
2. Bình thường
3. Tương đối cao
4. Cao nhất
1 2 3 4
1
Mức lương lãnh trên thực tế không
đủ trang trải cho cuốc sống
2
3,77
5
9,43
16
30,18
30
56,60
2 Thời gian làm việc luôn quá tải
2
3,77
5
9,43
7
13,20
39
73,58
3 Áp lực công việc cao
2
3,77
5
9,43
5
9,43
41
77,36
4
Ban giám hiệu ít quan tâm đến tâm tư
nguyện vọng của giáo viên
5
9,43
7
13,20
11
20,75
30
56,60
5
Môi trường làm việc thiếu thân thiện.
Có nhiều đố kỵ giữa Ban giám hiệu
với giáo viên và giữa các giáo viên
với nhau
7
13,20
11
20,75
23
43,39
12
22,64
6
Ban giám hiệu thiên vị, không công
bằng trong đối xử với giáo viên
5
9,43
14
26,41
5
9,43
29
54,72
7
Được Ban giám hiệu “quan tâm đặc
biệt” vì có những góp ý về công tác
quản lý
2
8,69
10
18,87
18
33,96
23
43,40
105
8
Chuyển sang trường tư thục, trường
quốc tế vì có mức lương cao hơn và
ít bị áp lực về chuyên môn lẫn vệ
sinh cho trẻ
5
9,43
7
13,20
20
37,74
21
39,62
9
Mở trường tư thục hoặc nhóm trẻ tại
nhà để có thời gian chăm sóc, trông
nom gia đình
5
9,43
6
11,32
21
39,62
21
39,62
10
Chuyển sang làm việc ở các lĩnh vực,
các ngành nghề khác để có thu nhập
cao và có vị thế trong xã hội
12
22,64
8
15,09
11
20,75
22
41,51
11
Vị thế giáo viên mầm non không
được xã hội xem trọng
3
5,67
12
22,64
17
32,07
21
39,62
12 Môi trường làm việc khó tìm bạn đời
4
7,55
9
16,98
14
26,41
26
49,06
13
Vì thiếu trải nghiệm thực tế chăm
sóc, nuôi, dạy khi học tại các trường
sư phạm mầm non; giáo viên bị “vỡ
mộng” khi gặp thực tế làm việc quá
cực ngoài sức tưởng tượng của mình
( thường rơi vào các giáo viên mới ra
trường)
4
7,55
8
15,09
16
30,19
25
47,17
106
TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
THỰC TRẠNG CÔNG VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(Dành cho Cán bộ Quản lý)
Thứ
tự
THỰC TRẠNG CÔNG VIỆC
Ý KIẾN CÁ NHÂN
Từ câu 1- 6 Từ câu 7-11
Có Không a b c
1 Công việc của giáo viên mầm non quá
vất vả về chuyên môn dạy.
35
100
2 Công việc của giáo viên mầm non quá
vất vả về chuyên môn nuôi.
35
100
3
Công việc của giáo viên mầm non quá
vất vả về cả chuyên môn dạy và nuôi.
32
91,4
3
8,6
4
Công việc của giáo viên mầm non nhẹ
nhàng, vui tươi như chuyện chơi đùa với
con cháu trong gia đình.
35
100
5
Thường xuyên trò chuyện với giáo viên
và lắng nghe trực tiếp tâm tư nguyện
vọng của giáo viên.
33
94,3
2
5,7
6
Cần dùng quyền lực của Ban giám hiệu
để ra uy với các giáo viên hay có ý kiến
trong công việc được giao.
4
11,4
31
88,6
7
Ban giám hiệu chỉ cần lắng nghe gián
tiếp mọi thông tin trong công tác quản lý
qua các giáo viên có chức vụ như Tổ
trưởng, Chủ tịch Công đoàn, Bí thư chi
đoàn, Trưởng ban Thanh tra Nhân dân
mà không cần đối chứng
a. Thường xuyên
b. Không bao giờ
c. Tùy công việc
28
80
6
17,2
3
2,8
107
8
Ban giám hiệu dành thời gian lắng nghe
tâm tư của giáo viên trong trường theo:
a. Lịch ấn định của ngày (tuần,
tháng)
b. Không cố định thời gian và lắng
nghe khi có điều kiện ở mọi lúc,
mọi nơi
c. Khi có mâu thuẫn giữa các giáo
viên trong trường
28
80
7
20
9
Ban giám hiệu thường dự giờ các giáo
viên trong trường dưới hình thức:
a. Đột xuất
b. Báo trước từ 15 phút đến 30 phút
c. Báo trước 1 ngày
11
31,43
4
11,43
20
57,14
10
Trạng thái tâm lý của Ban giám hiệu khi
được giáo viên thẳng thắn đóng góp ý
kiến mọi vấn đề liên quan đến nhà
trường trước Hội đồng sư phạm:
a. Thoải mái lắng nghe để khắc phục
hạn chế (nếu có)
b. Không thoải mái
c. Không cần quan tâm, cắt ngay
phát biểu của giáo viên đó
18
51,43
11
31,43
6
17,14
11
Khi giáo viên có ý kiến về quản lý của
Ban giám hiệu trước Hội đồng sư phạm,
Ban giám hiệu có thái độ
a. Khó chịu
b. Không khó chịu ra mặt nhưng hạn
chế tiếp xúc với giáo viên đó
c. Tìm hạn chế của giáo viên đó để
góp ý lại.
10
28,57
11
31,43
14
40
108
TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
VỀ BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(Dành cho giáo viên)
Thứ
tự THỰC TRẠNG CÔNG VIỆC
Ý KIẾN CÁ NHÂN
Từ câu 1- 6 Từ câu 7-11
Có Không a b c
1 Công việc của giáo viên mầm non
quá vất vả về chuyên môn dạy.
53
100
0
0%
2 Công việc của giáo viên mầm non
quá vất vả về chuyên môn nuôi.
51
96,22
2
3,78
3
Công việc của giáo viên mầm non
quá vất vả về cả chuyên môn dạy và
nuôi.
53
100
4
Công việc của giáo viên mầm non
nhẹ nhàng, vui tươi như chuyện chơi
đùa với con cháu trong gia đình.
0
0%
53
100
5
Ban giám hiệu có thường xuyên trò
chuyện và lắng nghe trực tiếp tâm tư
nguyện vọng của bạn.
19
35,85
34
64,15
6
Ban giám hiệu thường dùng quyền
lực của người quản lý để thị uy với
các giáo viên hay có ý kiến trong
công tác.
39
73,58
14
26,42
7
Ban giám hiệu chỉ cần lắng nghe
gián tiếp mọi thông tin trong công
tác quản lý qua các
giáo viên có chức vụ như Tổ
trưởng, Chủ tịch Công đoàn, Bí thư
10
18,87
7
13,21
36
67,92
109
chi đoàn, Trưởng ban Thanh tra
Nhân dân mà không cần đối chứng
a. Thường xuyên
b. Không bao giờ
c. Tùy công việc
8
Ban giám hiệu dành thời gian lắng
nghe tâm tư của giáo viên trong
trường theo:
a. Lịch ấn định của ngày (tuần,
tháng)
b. Không cố định thời gian và
lắng nghe khi có điều kiện ở
mọi lúc, mọi nơi
c. Khi có xung đột giữa các giáo
viên trong trường
12
22,64
23
43,40
18
33,96
9
Ban giám hiệu thường dự giờ các
giáo viên trong trường dưới hình
thức:
a. Đột xuất
b. Báo trước từ 15 phút đến 30
phút
c. Báo trước 1 ngày
19
35,84
14
26,42
20
37,74
10
Cảm nhận của bạn về trạng thái tâm
lý của Ban giám hiệu khi được bạn
thẳng thắn đóng góp ý kiến trước
Hội đồng sư phạm nhà trường:
a. Thoải mái
b. Không thoải mái
c. Có biểu hiện không quan tâm
13
24,53
19
35,85
21
39,62
11
Khi bạn có ý kiến về quản lý của
Ban giám hiệu trước Hội đồng sư
phạm, sau đó Ban giám hiệu sẽ
a. Khó chịu với bạn
b. Không khó chịu nhưng hạn
chế tiếp xúc với bạn
c. Vui vẻ nhưng sẽ tìm hạn chế
của bạn để góp ý lại.
9
16,98
18
33,96
26
49,06
110
Phụ lục 3: Trình độ cán bộ quản lý và giáo viên mầm non công lập
tại Thành phố Hồ Chí Minh (Tính đến năm học 2011-2012)
Chức danh
Tổng số Trình độ chuyên môn Trình độ
chính trị
Tổng Nữ
Đạt
chuẩn
Cao
đẳng
Đại
học
Sau
đại
học
Trung
cấp
Cao
cấp
Cán bộ quản
lý (Ban
giám hiệu)
1.14
4
1.14
0
1.140 162 946 08 27 521
Giáo viên
8.46
6
8.44
4
8436 3604 2784 / 04 343
Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8/2012
Phụ lục 4: Bảng thống kê số giáo viên mầm non còn thiếu so với nhu cầu
Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8/2012
Năm học
Giáo viên mầm non
Nghỉ việc Hiện có Còn thiếu so với nhu cầu
2007-2008 256 6.905 1.000
2008-2009 431 10.123 1.000
2009-2010 543 8.718 1.000 - 2.000
2010-2011 422 8.529 1.000 - 2.000
2011-2012 538 7.618 2.000 - 3.000
111
112
Phụ lục 5: Bảng so sánh sự gia tăng số lượng trẻ mầm non
tại Thành phố Hồ Chí Minh
Năm học
Số lượng
và % cháu
đến nhà trẻ
Số lượng
và % cháu
đến mẫu
giáo
% cháu học
bán trú
% cháu
mẫu giáo 5
tuổi đến
lớp
1976-1977 (kết thúc 2 năm
cải tạo và xây dựng)
5.010
77.841
21%
2.000
2,56%
/
1989-1990 (kết thúc quá
trình cải cách giáo dục)
17.126
9,5%
87.859
34,5%
34.282
39%
39.186
48,3%
1994-1995 (Kết thúc quá
trình đổi mới giáo dục)
22517
13,91%
115.524
59,69%
63.058
54,58%
54.397
83,8%
2005-2006 (đánh dấu quá
trình 30 năm xây dựng và
phát triển của ngành)
46.291
37,29%
181.358
87,87%
166.849
85%
71.208
98,38%
2010-2011 (bắt đầu thực hiện
phổ cập mầm non 5 tuổi)
107.954
38%
278.038
97,87%
269.885
95%
83.766
96%
Nguồn: www.edu.hochiminhcity.gov.vn Ngành Giáo dục Mầm non
thành phố Hồ Chí Minh 30 năm xây dựng và phát triển
113
Phụ lục 6: Số giáo viên trong các loại hình trường mầm non
tại Thành phố Hồ Chí Minh
Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8/2012
Loại hình trường
Tổng số
giáo viên
Trình độ giáo viên
Đạt chuẩn
Trên chuẩn
Cao đẳng Đại học
Trường mầm non công lập 8.466 8.436 3.604 2.784
Trường mầm non dân lập tư thục 3.884 3.871 1.756 645
Nhóm lớp mầm non tư thục 2.909 2.802 856 254
Toàn thành phố 15.259 15.109 6.216 3.685
114
Phụ lục 7 : VÍ DỤ ĐIỂN HÌNH
VỀ NGHỈ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON
Trong khi đó khá nhiều giáo viên mầm non ở trường công nghỉ việc
chuyển sang làm việc tại trường tư có thu nhập cao hơn. Nhưng ngay ở các
trường tư thục có thu nhập cao hơn ở các trường công lập, tình trạng giáo viên
bỏ ngang cũng rất phổ biến. Đinh hoàng Vân (sinh năm 1987) tốt nghiệp
ngành mầm non Trường cao đẳng Sư phạm trung ương Thành phố Hồ Chí
Minh cách đây 2 năm. Có năng lực, vốn tiếng Anh tốt, năng động và nhiều tài
lẻ, Vân không chọn trường công mà đầu quân về một trường tư thục lớn ở
Quận 6 với mức lương trên 3 triệu đồng/tháng cùng nhiều đãi ngộ. Sau hai
năm phát hiện mình không thể gắn bó với nghề, chị bỏ ngang và chuyển sang
học văn bằng hai ngành dược với mong muốn đổi nghề. Vân tâm sự: “Cũng
đồng lương đó, người ta làm 8 giờ/ ngày, còn giáo viên mầm non phải làm 12
giờ, tối về còn chuẩn bị học cụ cho buổi dạy hôm sau. Công việc chuyên môn
đòi hỏi quá nhiều, chiếm hầu hết thời gian. Tôi rất tiếc quãng thời gian mấy
năm vừa rồi khi chọn không đúng nghề”.
Nguồn: www.dantri.vn, ngày chủ nhật 26/10/2011
115
Phụ lục 8: THANG BẬC NHU CẦU
Lý thuyết về Thang bậc nhu cầu của nhà bác học nổi tiếng người Anh
Abram Maslow (1908 – 1970). Bậc thang thấp nhất là sự thể hiện nhu cầu tự
nhiên tối cần thiết để tồn tại của mỗi con người trong xã hội, ở bậc thứ hai là
nhu cầu an toàn của con người trong môi trường sống và làm việc. Khi con
người đã đạt mức độ an toàn thì sẽ thiết lập các mối quan hệ khác nhau giữa
bản thân với thế giới bên ngoài như với mọi tổ chức trong cộng đồng xã hội,
với thiên nhiên. Trong khi tạo dựng các mối quan hệ trong xã hội và đã được
chấp nhận trong chừng mực nào đó thì nhu cầu được đánh giá, nhận biết và
tôn trọng đã được hình thành và là nền tảng tiếp theo để phát triển sự tự thể
hiện của mỗi bản thân con người, Một khi đã đạt được mức độ cao nhất trong
các thang nhu cầu thì người lao động đã chứng tỏ sự phát triển của xã hội có
liên quan và luôn chịu sự tác động về nhu cầu của con người, các nhu cầu của
con người được phát triển theo bậc thang hình tam giác từ đáy lên đỉnh theo 5
bậc khác nhau và Thuyết về thang nhu cầu của Abram Maslow cũng minh
chứng cho việc liên quan từ nhu cầu cần phải có của cá nhân mỗi con người
đến sự tác động của môi trường làm việc.
Nguồn: Maslow’s Hierarchy of Needs.Svg, 30/5/2012
116
Nhu cầu về sự tự thể hiện
Nhu cầu được đánh giá, nhận biết và tôn trọng
Nhu cầu về các mối quan hệ trong xã hội
Nhu cầu an toàn trong môi trường sống và làm việc
Nhu cầu cơ bản của bản thân

More Related Content

PPTX
Chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh.pptx
DOCX
Giá trị tư tương Hồ Chí Minh & áp dụng tư tưởng HCM
PDF
250 CÂU TRẮC NGHIỆM ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐCSVN
PPTX
Báo cáo nghiên cứu thị trường sữa tươi
DOCX
Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...
PPT
Ktpt phan1
PDF
Quản trị sản xuất 2
PPSX
Bình đẳng giới
Chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh.pptx
Giá trị tư tương Hồ Chí Minh & áp dụng tư tưởng HCM
250 CÂU TRẮC NGHIỆM ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐCSVN
Báo cáo nghiên cứu thị trường sữa tươi
Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...
Ktpt phan1
Quản trị sản xuất 2
Bình đẳng giới

What's hot (20)

PDF
Luận văn: Pháp luật về thị trường bán buôn điện cạnh tranh, HAY
PDF
Đề tài: Phân tích hành vi mua thực phẩm chức năng hỗ trợ tiêu hóa, 9 ĐIỂM!
DOCX
Swot vinasoy tường
PPT
Max weber
PDF
BIỆN PHÁP NÂNG CAO KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ...
PPT
tư tưởng hồ chí minh về Đảng Cộng Sản
PPTX
Chương 2.pptx
PPTX
Kế hoạch marketing sản phẩm cà phê
PDF
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG
DOC
Nguyên lý hoạt động của mạch điều khiển trong hộp số tự động
PPT
ban chat va chuc nang cua ngon ngu
PDF
Tài liệu hướng dẫn sử dụng thiết kế Logo và Bộ nhận diện thương hiệu Trương P...
PDF
Sổ tay tự kỷ của bác sĩ
PDF
Luận văn: Quan niệm về hạnh phúc của sinh viên tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí...
DOC
BÀI MẪU TIỂU LUẬN VỀ VĂN HÓA TRUNG QUỐC, HAY
DOCX
CHƯƠNG IV- Tư tưởng HCM.docx
PDF
4.1.3. hệ thống phun xăng điện tử efi tccs
PPTX
Slide thuyết trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lenin phần "Dân...
PPT
Bài giảng thống kê (chương ii)
DOC
Đề tài: Thiết kế và tính toán ly hợp xe tải, HAY, 9đ
Luận văn: Pháp luật về thị trường bán buôn điện cạnh tranh, HAY
Đề tài: Phân tích hành vi mua thực phẩm chức năng hỗ trợ tiêu hóa, 9 ĐIỂM!
Swot vinasoy tường
Max weber
BIỆN PHÁP NÂNG CAO KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ...
tư tưởng hồ chí minh về Đảng Cộng Sản
Chương 2.pptx
Kế hoạch marketing sản phẩm cà phê
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG
Nguyên lý hoạt động của mạch điều khiển trong hộp số tự động
ban chat va chuc nang cua ngon ngu
Tài liệu hướng dẫn sử dụng thiết kế Logo và Bộ nhận diện thương hiệu Trương P...
Sổ tay tự kỷ của bác sĩ
Luận văn: Quan niệm về hạnh phúc của sinh viên tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí...
BÀI MẪU TIỂU LUẬN VỀ VĂN HÓA TRUNG QUỐC, HAY
CHƯƠNG IV- Tư tưởng HCM.docx
4.1.3. hệ thống phun xăng điện tử efi tccs
Slide thuyết trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lenin phần "Dân...
Bài giảng thống kê (chương ii)
Đề tài: Thiết kế và tính toán ly hợp xe tải, HAY, 9đ
Ad

Similar to LV: Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non (20)

DOC
Khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập, 9đ
DOC
Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
PDF
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ...
DOC
Luận văn: Hoạt động liên kết đào tạo tại Trường CĐ Cộng đồng
DOC
Đề tài: Phát triển trường mầm non ở Bạc Liêu đến năm 2020, HAY
DOC
Phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020
DOCX
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ ...
DOCX
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ ...
DOCX
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ ...
DOC
LV: Quản lý hoạt động liên kết đào tạo tại trường cao đẳng cộng đồng Sóc Trăng
DOC
Hoạt động liên kết đào tạo tại Trường Cao đẳng ở Sóc Trăng, HAY
DOC
Luận văn: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT ở TPHCM
DOC
Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ ...
DOC
Luận văn: Quản lý hoạt động dạy học ở trường THCS tỉnh Cà Mau
DOCX
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ ...
DOC
Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành ph...
DOC
Đề tài: Tổ chức phối hợp giáo dục trẻ em đường phố ở TPHCM, HOT
DOC
Tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố, HAY
DOC
Luận văn: Quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non, HAY
DOC
Tiểu luận về phòng chống bạo lưc học đường.doc
Khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập, 9đ
Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ...
Luận văn: Hoạt động liên kết đào tạo tại Trường CĐ Cộng đồng
Đề tài: Phát triển trường mầm non ở Bạc Liêu đến năm 2020, HAY
Phát triển các trường mầm non tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ ...
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ ...
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ ...
LV: Quản lý hoạt động liên kết đào tạo tại trường cao đẳng cộng đồng Sóc Trăng
Hoạt động liên kết đào tạo tại Trường Cao đẳng ở Sóc Trăng, HAY
Luận văn: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT ở TPHCM
Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ ...
Luận văn: Quản lý hoạt động dạy học ở trường THCS tỉnh Cà Mau
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ ...
Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành ph...
Đề tài: Tổ chức phối hợp giáo dục trẻ em đường phố ở TPHCM, HOT
Tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố, HAY
Luận văn: Quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên mầm non, HAY
Tiểu luận về phòng chống bạo lưc học đường.doc
Ad

More from Dịch Vụ Viết Luận Văn Thuê ZALO/TELEGRAM 0934573149 (20)

DOCX
Trọn Bộ 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Chính Trị Học, Mới Nhất.
DOCX
Tham Khảo Ngay 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Luật Thương Mại Quốc Tế, 9 Điểm
DOCX
Tham Khảo Kho 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Tài Chính Tiền Tệ Điểm Cao
DOCX
Tham Khảo Hơn 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Marketing Dịch Vụ Đạt 9 Điểm
DOCX
Tham Khảo Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Dược Lý, 9 Điểm
DOCX
Tham Khảo 210 Đề Tài Tiểu Luận Môn Nghiệp Vụ Ngoại Thương, 9 Điểm
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Phương Pháp Giảng Dạy Tiếng Anh
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Mỹ Học Từ Sinh Viên Nhiều Trường
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Marketing Quốc Tế Dễ Làm Nhất
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Lý Thuyết Dịch Từ Nhiều Trường Đại Học
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Lịch Sử Âm Nhạc Việt Nam Mới Nhất
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Khởi Sự Kinh Doanh, Dễ Làm 9 Điểm
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Kinh Tế Chính Trị, Dễ Làm 9 Điểm
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Kế Toán Quản Trị Từ Khóa Trước
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Hệ Hỗ Trợ Ra Quyết Định, 9 Điểm
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Giới Thiệu Ngành Tài Chính Ngân Hàng
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Giới Thiệu Ngành Ngân Hàng. CHỌN LỌC
DOCX
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Giáo Dục Quốc Phòng Và An Ninh
DOCX
Tuyển Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Nhập Môn Báo In Việt Nam, 9 Điểm
Trọn Bộ 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Chính Trị Học, Mới Nhất.
Tham Khảo Ngay 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Luật Thương Mại Quốc Tế, 9 Điểm
Tham Khảo Kho 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Tài Chính Tiền Tệ Điểm Cao
Tham Khảo Hơn 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Marketing Dịch Vụ Đạt 9 Điểm
Tham Khảo Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Dược Lý, 9 Điểm
Tham Khảo 210 Đề Tài Tiểu Luận Môn Nghiệp Vụ Ngoại Thương, 9 Điểm
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Phương Pháp Giảng Dạy Tiếng Anh
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Mỹ Học Từ Sinh Viên Nhiều Trường
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Marketing Quốc Tế Dễ Làm Nhất
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Lý Thuyết Dịch Từ Nhiều Trường Đại Học
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Lịch Sử Âm Nhạc Việt Nam Mới Nhất
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Khởi Sự Kinh Doanh, Dễ Làm 9 Điểm
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Kinh Tế Chính Trị, Dễ Làm 9 Điểm
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Kế Toán Quản Trị Từ Khóa Trước
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Hệ Hỗ Trợ Ra Quyết Định, 9 Điểm
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Giới Thiệu Ngành Tài Chính Ngân Hàng
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Giới Thiệu Ngành Ngân Hàng. CHỌN LỌC
Tham Khảo 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Giáo Dục Quốc Phòng Và An Ninh
Tuyển Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Nhập Môn Báo In Việt Nam, 9 Điểm

Recently uploaded (20)

PDF
BÀI TẬP BỔ TRỢ FRIENDS PLUS 9 - BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM, TỰ LUẬN - CẢ NĂM (BÁM SÁ...
PPTX
Powerpoint cho Ke toan tai chinh KET307_Bai1_SV.pptx
PDF
CHƯƠNG 1-P2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH ...
PDF
12894-44864-1-CE-1037-1038_Văn bản của bài báo.pdf
PPT
BÀi giảng phương pháp luận nghiên cứu khoa học.ppt
PDF
12894-44864-1-CE-1037-1038_Văn bản của bài báo.pdf
DOCX
Bài tập trăc nghiệm vận tốc. tốc độ trong chuyển động thẳng
PDF
Vision - Language - Model-- - Ebook.pdf
DOCX
Báo cáo thực tập công ty Ah-GlobalGroup vị trí Data Analyst
PPTX
Tốc độ và vận tốc trong chuyển động thẳng
PDF
Public economy và vai trò trong phân bổ nguồn lực, cung cấp hàng hóa công, đi...
PPTX
14. thoát vị bẹn nghẹt bệnh học ngoại khoa.pptx
PPTX
Vai trò vô cùng quan trọng để thuyết trình.pptx
PPTX
Chương 1 – Tổng quan về Cơ sở dữ liệu.pptx
PPTX
SLIDE BV CHÍNH THỨC LATSKH - note.pptx
PDF
BÀI TẬP TEST BỔ TRỢ THEO TỪNG UNIT - TIẾNG ANH 10 GLOBAL SUCCESS - CẢ NĂM (30...
PPTX
Direct Marketing- chieu thi truyen thong
PPTX
Bài 9.4 TUYẾN SINH DỤC NAM VÀ NU CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG
PPTX
Bài giảng chương 3 phương pháp luận nghiên cứu khoa học_HQH.pptx
PPT
Bài giảng Power Point 2003, hướng dẫn học tập
BÀI TẬP BỔ TRỢ FRIENDS PLUS 9 - BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM, TỰ LUẬN - CẢ NĂM (BÁM SÁ...
Powerpoint cho Ke toan tai chinh KET307_Bai1_SV.pptx
CHƯƠNG 1-P2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH ...
12894-44864-1-CE-1037-1038_Văn bản của bài báo.pdf
BÀi giảng phương pháp luận nghiên cứu khoa học.ppt
12894-44864-1-CE-1037-1038_Văn bản của bài báo.pdf
Bài tập trăc nghiệm vận tốc. tốc độ trong chuyển động thẳng
Vision - Language - Model-- - Ebook.pdf
Báo cáo thực tập công ty Ah-GlobalGroup vị trí Data Analyst
Tốc độ và vận tốc trong chuyển động thẳng
Public economy và vai trò trong phân bổ nguồn lực, cung cấp hàng hóa công, đi...
14. thoát vị bẹn nghẹt bệnh học ngoại khoa.pptx
Vai trò vô cùng quan trọng để thuyết trình.pptx
Chương 1 – Tổng quan về Cơ sở dữ liệu.pptx
SLIDE BV CHÍNH THỨC LATSKH - note.pptx
BÀI TẬP TEST BỔ TRỢ THEO TỪNG UNIT - TIẾNG ANH 10 GLOBAL SUCCESS - CẢ NĂM (30...
Direct Marketing- chieu thi truyen thong
Bài 9.4 TUYẾN SINH DỤC NAM VÀ NU CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG
Bài giảng chương 3 phương pháp luận nghiên cứu khoa học_HQH.pptx
Bài giảng Power Point 2003, hướng dẫn học tập

LV: Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non

  • 1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ™™™ THÁI THỊ LOAN BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2013
  • 2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ™™™ THÁI THỊ LOAN BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC Mã số: 60 14 01 14 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐINH VĂN HỌC HÀ NỘI - 2013
  • 3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 13 1.1 Các khái niệm cơ bản 13 1.2 Thực trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, hệ lụy và nguyên nhân 25 Chương 2 NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, DỰ BÁO TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC, CÁC BIỆN PHÁP CƠ BẢN NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 52 2.1 Những yếu tố tác động và dự báo tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh 52 2.2 Các biện pháp cơ bản ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh 57 2.3 Khảo nghiệm sự cần thiết, tính khả thi của các biện pháp 82 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 PHỤ LỤC 96
  • 4. 1. Lý do chọn đề tài Phát biểu tại lớp học chính trị của các giáo viên vào ngày 13/9/1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “… Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và những cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân dân, Đảng, Chính phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cô, các chú. Đó là một trách nhiệm nặng nề, nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ…” [18, tr.168]. Từ những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo, Đảng ta luôn đề cao vai trò của đội ngũ giáo viên. Vì thế Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”. [7, tr.41] Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên có vai trò đặc biệt quan trọng với nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng đến sáu tuổi, đặt nền móng cho sự phát triển thể chất, trí tuệ, ngôn ngữ, tình cảm, đạo đức, là tiền đề cho việc tiếp thu kiến thức và nhất là sự phát triển nhân cách cho trẻ sau này. Xuất phát từ vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục mầm non, việc xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non có đủ về số lượng, đáp ứng đủ mọi yêu cầu về phẩm chất và năng lực là một yêu cầu cấp thiết. Quán triệt quan điểm, chủ trương và quyết tâm phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước ta, trong những năm qua Thành phố Hồ Chí Minh đã quan tâm, chăm lo, ưu tiên đầu tư mọi nguồn lực cho phát triển các trường mầm non công lập, phát triển đội ngũ giáo viên mầm non công lập và đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, trước sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, chính trị, xã hội tại Thành phố Hồ Chí 3
  • 5. Minh, do cơ chế thị trường tác động và do nhiều nguyên nhân khác cùng với sự bùng nổ dân số về mặt cơ học đã làm gia tăng áp lực lên giáo dục mầm non. Số trường mầm non công lập hiện có đã không đáp ứng được nhu cầu học tập của lứa tuổi này, đồng thời số giáo viên mầm non đang công tác trong các trường mầm non công lập cũng không kịp gia tăng mà ngược lại còn có nguy cơ sụt giảm vì hiện tượng bỏ việc của đội ngũ này ngày càng trở nên trầm trọng hơn trước sự phát triển và thay đổi của xã hội. Khi đất nước mở cửa, hội nhập kinh tế sâu rộng với quốc tế như hiện nay đã tác động mạnh đến lực lượng giáo viên mầm non trẻ tuổi, đồng thời tạo cho đội ngũ này nhiều cơ hội mới, nhiều lựa chọn mới để thay đổi cuộc sống còn quá nhiều khó khăn nếu cứ bám trụ trong ngành mầm non. Những yếu tố đầy thu hút của các ngành nghề khác đã khiến cho một số đông giáo viên còn non trẻ này nhất quyết dứt áo sư phạm mầm non ra đi để tìm cho bản n cũng đã có những biện pháp nhằm ngăn ngừa tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non. Nhưng có lẽ sự vào cuộc của lãnh đạo và của ngành giáo dục mầm non chưa thực sự quyết liệt, những biện pháp ngăn ngừa tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non chưa thật hữu hiệu, vì vậy chưa chặn đứng được tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. Số lượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập năm sau vẫn cao hơn năm trước. Năm 2012 có đến hơn 500 giáo viên mầm non bỏ việc. Đây thực sự là vấn đề báo động, một yêu cầu cấp bách đòi hỏi phải được giải quyết để đảm bảo cho giáo dục mầm non Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng được nhu cầu gửi trẻ của người dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Đã có một số công trình nghiên cứu về giáo dục mầm non và phát triển giáo viên mầm non nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu thấu đáo về tình trạng bỏ việc và ngăn ngừa, khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên 4
  • 6. mầm non, chỉ có một số bài báo đề cập đến vấn đề này nhưng mới dừng lại ở chỗ đưa ra số liệu bỏ việc của giáo viên mầm non và những kiến nghị khắc phục. Vì vậy, cần có sự xem xét, đánh giá đúng tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập, xác định rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng này cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, đề xuất các biện pháp khả thi để góp phần chấm dứt tình trạng này trong những năm về sau. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ sự thụ hưởng các quyền cơ bản của người dân luôn ở mức cao như trong thời kỳ đổi mới và những thành tựu của công cuộc đổi mới đã giúp nước ta thoát khỏi sự trì trệ của thời quan liêu bao cấp mà nền giáo dục quốc dân cũng bị ảnh hưởng không ít. Nhờ định hướng đúng đắn, sau 10 năm đổi mới, sự nghiệp giáo dục đã phát triển và đạt kết quả đáng kể. Quy mô giáo dục ở tất cả các bậc học từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp đến giáo dục đại học không ngừng được mở rộng. Trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay của đất nước, giáo dục mầm non đã nhận được sự quan tâm nhiều của cộng đồng xã hội. Những chuyển biến trong nhận thức, sự quan tâm và đầu tư của xã hội dù chưa ở mức độ cao nhưng đã góp phần giúp cho giáo dục mầm non dần đi vào nề nếp với chất lượng không ngừng được cải tiến và đã huy động được nhiều thành phần, nhiều lực lượng kinh tế khác nhau trong xã hội tham gia. Kết quả vấn đề nghiên cứu của tác giả Dương Thị Thanh Huyền về “Thực trạng xã hội hóa giáo dục mầm non” đã chỉ rõ: Khi Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ra đời với chủ trương xã hội hóa giáo dục mầm non. Các 5
  • 7. trường mầm non tư thục, mầm non quốc tế, nhóm trẻ gia đình lần lượt ra đời nhất là ở các thành phố lớn, các tỉnh có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất đã tháo gỡ khó khăn và cung ứng chỗ học mầm non cho một bộ phận không nhỏ người dân có nhu cầu gửi con để yên tâm lao động, công tác và tránh làm xáo trộn mọi hoạt động trong xã hội [38, số 11/2000]. Ngoài ra nghiên cứu còn đề cập đến kế hoạch phát triển giáo viên, tổ chức các phong trào có liên quan trực tiếp đến giáo dục mầm non trong khi thực hiện xã hội hóa giáo dục. Tuy nhiên trong bối cảnh xã hội hóa giáo dục mầm non, mức cung không kịp đáp ứng nhu cầu đã làm phát sinh thêm những nhóm trẻ chui không phép khi hoạt động, giáo viên không có chuyên môn nuôi dạy trẻ, không có cơ sở vật chất đáp ứng tối thiểu nhu cầu cần có của một cơ sở nuôi dạy trẻ mầm non và hậu quả xấu là khó tránh khỏi. Nhất là vào những năm 2007-2011 là thời điểm mà hiện tượng làm tử vong trẻ, bạo hành trẻ gia tăng từ những cơ sở tư nhân này; điển hình là chuyện bảo mẫu Quảng Thị Kim Hoa ngược đãi trẻ ở thành phố Biên Hòa, Đồng Nai từng làm xôn xao dư luận khắp cả nước. Những mâu thuẫn về phát triển ngành học mầm non nhằm đáp ứng với nhu cầu phát triển của xã hội với hiện tượng thiếu hụt giáo viên mầm non về mặt chất lượng và số lượng trong thời hội nhập đã khiến cho những người quan tâm đến giáo dục mầm non phải giật mình bởi quy trình đào tạo giáo viên ở bậc học này không kịp đổi mới so với thực tiễn tiến bộ của xã hội Việt Nam và so với một số nền giáo dục các nước trong khu vực cũng như các nước tiên tiến trên thế giới. Công trình của tác giả Cao Đức Tiến với vấn đề “Về đổi mới phương pháp đào tạo bồi dưỡng giáo viên mầm non” [39, số 30/2002] đã làm nổi bật những vấn đề lý luận của việc đổi mới phương pháp dạy học cho sinh viên sư phạm mầm non trong trường sư phạm và nêu ra phương hướng đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non. 6
  • 8. Với nghiên cứu “Vấn đề đổi mới của giáo dục mầm non và yêu cầu với giáo viên mầm non” tác giả Trần Thị Ngọc Trâm [39, số 182/2008] đã luận giải những vấn đề như: Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục trẻ trong các trường mầm non gồm thiết kế tổ chức thực hiện các nội dung giáo dục, đổi mới tổ chức môi trường, tạo sự khích lệ tích cực sáng tạo và phát triển của giáo viên mầm non; Đổi mới, xây dựng chương trình theo hướng tiếp cận tích cực, lấy trẻ làm trung tâm, xem trọng việc bảo đảm an toàn, nuôi dưỡng hợp lý, chăm sóc sức khỏe cả về vật chất lẫn tinh thần; Đề xuất một số yêu cầu với giáo viên mầm non nhằm thích ứng với bậc giáo dục mầm non… Đó là những yêu cầu về nắm vững sự phát triển của trẻ, nắm vững chương trình giáo dục, chủ động lựa chọn những vấn đề phù hợp với trẻ, biết xây dựng kế hoạch, thiết kế và tổ chức các hoạt động giáo dục, biết phối hợp nhiều hình thức đánh giá, biết xây dựng môi trường giáo dục, biết phối hợp giữa nhà trường với gia đình, cộng đồng, biết hợp tác chia sẻ với đồng nghiệp… Những nghiên cứu về giáo dục mầm non trong các tạp chí giáo dục của một số tác giả nêu trên cùng với một số nghiên cứu khác đã cho thấy vai trò của giáo viên mầm non rất quan trọng trong quá trình phát triển tâm, sinh lý của trẻ. Nhưng cho đến nay giáo viên mầm non chưa bao giờ đáp ứng đủ cho nhu cầu nuôi dạy trẻ trong cả nước nói chung và trong các trường mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: cho đến nay những chế độ chính sách cho nền giáo dục quốc dân vẫn còn mang tính chất dàn trải, phân bổ đều theo ngân sách Nhà nước là chính. Dù đã có những giải pháp đột phá như cải tổ về mục tiêu, chương trình, phương pháp… để xây dựng nền giáo 7
  • 9. dục nước nhà cho phù hợp với xu thế và thời đại, hội nhập với nền giáo dục của một số nước trong khu vực như Singapore, Nhật Bản… và một số nước có nền giáo dục đã phát triển tốt như Anh, Pháp, Hoa kỳ. Nhưng thực chất với một nền giáo dục luôn bị chi phối bởi các chỉ tiêu theo từng hạng mục, từng địa phương thì sự nghiệp giáo dục dù được xác định là quốc sách hàng đầu vẫn chưa tạo được những thay đổi có tính chất bước ngoặt. Cuộc sống của những người trong ngành giáo dục nói chung và giáo viên mầm non nói riêng là lực lượng còn rất nhiều khó khăn. Mọi chính sách về chế độ ưu đãi, lương tiền cho những người làm công tác giáo dục ở bậc học thấp nhất này vẫn phải theo đúng lộ trình kết hợp của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính ban hành. Chưa có những ưu đãi đặc thù nào nhằm thu hút người tài vào lĩnh vực giáo dục mầm non công lập ngoài chế độ ưu tiên cho các sinh viên thi vào ngành sư phạm được miễn học phí toàn phần cho đến khi ra trường kèm theo yêu cầu phải phục vụ trong ngành một thời gian quy định như ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi ngành giáo dục đang loay hoay với tình trạng thiếu giáo viên trầm trọng từ bậc trung học phổ thông trở xuống thì những làn gió mát thổi vào nước ta từ cơ chế đổi mới đã bắt đầu tạo thêm nhiều cơ hội và nhiều sự lựa chọn công việc mới với mức thu nhập tương xứng ở những ngành nghề khác trong xã hội. Điều này đã làm lung lay tư tưởng bám trường, bám lớp của những giáo viên có nhiều khả năng nổi trội khác về kiến thức, trình độ, bằng cấp. Bản thân lực lượng này yêu nghề có năng lực sư phạm nhưng muốn thoát nghèo trong thời kinh tế thị trường nên sẵn sàng bỏ việc ở những trường lớp chính quy công lập để đầu quân cho những trường tư thục, trường quốc tế, những trung tâm ngoại ngữ hay những cơ quan, đơn vị, những ngành nghề mang lại lợi ích kinh tế cho bản thân họ. Những sự thật đắng lòng như vừa nêu trên, tồn tại ở mọi nơi, trong mọi cấp học từ mầm non đến phổ thông, đại học nhất là đối với lực lượng giáo viên mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh. 8
  • 10. Tư tưởng nhảy việc, bỏ nghề đã tạo thành những cơn sốt với một tỷ lệ không nhỏ theo quy luật cung - cầu nhân sự của xã hội trong thời kinh tế thị trường, nhất là vào những năm 2008 - 2009 và kéo dài cho đến tận thời điểm hiện nay. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý giáo viên mầm non công lập, đề xuất các biện pháp cơ bản ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh góp phần phát triển bậc học này trong sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo của Thành phố. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý giáo viên mầm non công lập. Đánh giá thực trạng và nguyên nhân tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Đề xuất các biện pháp cơ bản ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. , Quản lý giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các biện pháp cơ bản ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại 9
  • 11. Thành phố Hồ Chí Minh. Với đối tượng là giáo viên khác của các trường bán công, tư thục, đề tài chỉ có tính chất tham khảo. Về đối tượng khảo sát: Khảo sát đội ngũ giáo viên mầm non các trường công lập tại các quận: Quận Tân Phú, Quận 1, Quận 3, Quận 10 ở Thành phố Hồ Chí Minh. Về thời gian: Các số liệu điều tra tính từ năm 2008 đến nay. Ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc vào nhiều vấn đề, là việc làm khó khăn, phức tạp không thể giải quyết một sớm một chiều. Nhưng nếu thực hiện có hiệu quả và đồng bộ các vấn đề như: phát huy sức mạnh tổng hợp của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị các cấp và của nhân dân trong ngăn chặn tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho giáo viên mầm non công lập; đổi mới cơ chế quản lý của các cấp từ Thành phố đến quận (huyện), phường (xã); nâng cao chất lượng tuyển chọn đào tạo và tuyển dụng giáo viên mầm non công lập; tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non công lập; kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời trong việc nắm bắt tình hình hoạt động của các trường mầm non và của giáo viên mầm non về mọi mặt thì có thể ngăn ngừa và khắc phục có hiệu quả tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong tình hình mới hiện nay. Cơ sở phương pháp luận Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, quán triệt Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng 10
  • 12. Cộng sản Việt Nam về giáo dục và quản lý giáo dục; đồng thời đề tài còn vận dụng các quan điểm hệ thống – cấu trúc, lô gic – lịch sử và quan điểm thực tiễn để xem xét, đánh giá, phân tích các vấn đề có liên quan. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành những công trình nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của khoa học giáo dục như: Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu chuyên ngành về giáo dục mầm non và quản lý giáo viên mầm non các trường công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh; các nghị quyết lãnh đạo; các văn bản có liên quan đến giáo dục mầm non và quản lý giáo dục mầm non; các tài liệu tổng kết, các báo cáo về giáo dục mầm non và quản lý giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh…để xây dựng cơ sở lý luận của các biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ các cấp, của các tổ chức, các cơ quan ở các quận tại Thành phố Hồ Chí Minh trong quản lý giáo viên mầm non công lập. Điều tra xã hội học đối với một số cán bộ quản lý, cán bộ ở một số tổ chức đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý giáo dục và giáo viên các trường mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp phỏng vấn: Trao đổi với ban giám hiệu một số trường mầm non và với cán bộ quản lý giáo viên mầm non công lập ở một số quận tại Thành phố Hồ Chí Minh. 11
  • 13. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để rút ra những kinh nghiệm trong quản lý giáo viên và trong việc khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu sau khảo sát. 7. Ý nghĩa của đề tài Đóng góp những vấn đề lý luận cho việc ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập Thành phố Hồ Chí Minh. Đề xuất các biện pháp cơ bản để ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho cán bộ, cơ quan quản lý giáo dục mầm non và giáo viên mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh trong việc ngăn chặn tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. 8. Cấu trúc của luận văn Phần mở đầu, Phần nội dung (2 chương 5 tiết), Phần kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 12
  • 14. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 1.1 Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm trường mầm non công lập Theo Điều lệ Trường mầm non được ban hành kèm theo Quyết định số 14/2008/QĐ- BGDĐT ngày 07 tháng 4 năm 2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Trường mầm non công lập là trường do cơ quan Nhà nước thành lập, đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên. Chức năng, nhiệm vụ trường mầm non Trường mầm non có chức năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 03 tháng đến 06 tuổi theo quy chuẩn, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: Tổ chức đón, trả trẻ; chăm sóc, giáo dục vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường; quản lý sức khỏe và an toàn cho trẻ. Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi theo chương trình giáo dục mầm non do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Tổ chức các hoạt động vui chơi, học tập, lao động; hoạt động ăn nghỉ của trẻ (đối với trường bán trú). Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên để thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong độ tuổi mầm non. Phối hợp với các cơ quan chức năng, tổ chức chính trị xã hội để thực hiện tuyên truyền kiến thức khoa học về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ cho các bậc cha mẹ và cộng đồng; về huy động các nguồn lực của cộng đồng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục mầm non. 13
  • 15. Kinh phí hoạt động Bậc học mầm non trực tiếp được giải ngân từ ngân sách tài chính cấp quận. Việc duyệt và chi cho các trường mầm non theo dự toán hàng năm của hiệu trưởng nhà trường gồm các phần sửa chữa cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, tiền lương, phụ cấp, khen thưởng lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua…có liên quan đến mọi hoạt động và nhân sự của toàn trường. Cơ sở vật chất giáo dục Cơ sở vật chất giáo dục của trường mầm non công lập do Nhà nước đầu tư toàn bộ kinh phí xây dựng và quản lý thông qua giám sát của ngành dọc là Phòng Giáo dục và Đào tạo các quận, huyện. sau tùy theo nhu cầu thực tế của nhà trường. 1.1.2. Khái niệm giáo viên mầm non công lập Giáo viên trường mầm non công lập là viên chức Nhà nước. Luật Viên chức được ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2010 có quy định chặt chẽ, cụ thể những vấn đề liên quan đến viên chức, trong đó có cả hệ thống giáo viên trường công lập như các chính sách: tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, nâng bậc, chế độ tiền lương của giáo viên, nghỉ hưu, khen thưởng, kỷ luật… Giáo viên mầm non muốn được tuyển dụng vào các trường công lập để trở thành viên chức Nhà nước phải được đào tạo từ bậc trung cấp đến cao đẳng và đại học. Giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức tuyển dụng chặt chẽ theo ngạch bậc qua các đợt thi viên chức hoặc tuyển dụng tại Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh. Khi được chính thức tuyển dụng vào làm việc trong các trường mầm non công lập, giáo viên mầm non được giao một công việc với nhiệm vụ cụ thể và phải có nghĩa vụ hoàn thành nhiệm vụ đó trong thời gian làm việc tại trường mầm non. Khi chưa có 14
  • 16. quyết định rời khỏi trường mầm non thì người giáo viên đó vẫn phải thực hiện công việc của mình trong thời gian làm việc được pháp luật quy định. Có thể hiểu: Giáo viên mầm non là những người được đào tạo từ các hệ trung cấp, cao đẳng và đại học trong các trường sư phạm trên phạm vi cả nước và chính thức được tuyển dụng vào biên chế, trở thành viên chức Nhà nước đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ ở các trường mầm non công lập. Chuẩn giáo viên mầm non trong các trường được quy định ở mức trung cấp. Tuy nhiên trước tiến trình hội nhập hiện nay, nhiều giáo viên mầm non đã tự nâng chuẩn đào tạo của mình lên các bậc cao đẳng, đại học và sau đại học cho phù hợp với xu thế mới, việc tự nâng chuẩn đào tạo của mình lên đồng nghĩa với việc bậc lương của giáo viên mầm non sẽ được điều chỉnh lên theo sự thay đổi của hệ đào tạo. Đó cũng là một trong những hướng phấn đấu của những giáo viên mầm non yêu nghề, bám trụ với nghề tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh được phân công cụ thể công tác từ khi chính thức được tuyển dụng theo cấp độ quản lý nhân sự từ trên xuống dưới gồm: Sở Giáo dục Thành phố, Phòng Giáo dục (cấp quận/huyện), ban giám hiệu trường mầm non. Chế độ làm việc của giáo viên mầm non công lập được quy định bởi Thông tư số 48/2011của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 25 tháng 10 năm 2011. Thông tư quy định thời gian làm việc trong một năm của giáo viên mầm non công lập là 42 tuần. Thời gian nghỉ hàng năm gồm: Thời gian nghỉ hè 8 tuần được hưởng nguyên lương và các phụ cấp, trợ cấp khác (nếu có); Một số ngày nghỉ khác (lễ, tết,...) được thực hiện theo quy định của Bộ Luật lao động và các quy định hiện hành. 15
  • 17. Ngoài ra các quy định về giờ dạy, chế độ giảm giờ dạy và quy đổi một số hoạt động chuyên môn khác ra giờ dạy cũng được quy định trong Thông tư. Về chế độ đãi ngộ, giáo viên mầm non công lập là người chấp nhận làm việc trong các trường mầm non công lập do Nhà nước quản lý theo chế độ “thuận thì nhận”; tức là khi đã hội đủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo đúng quy định của pháp luật ban hành và qua đợt thi tuyển hoặc xét tuyển của ngành dọc (Sở Giáo dục và Đào tạo) nếu giáo viên chấp thuận thì nhận quyết định về nhiệm sở công tác. Mọi chế độ làm việc và đãi ngộ của giáo viên mầm non không phải là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động như trong Luật lao động quy định mà giáo viên mầm non là viên chức hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, đó là chế độ tiền lương do Nhà nước quy định theo thang bậc và thâm niên công tác. Nguồn ngân sách Nhà nước chính là tiền thuế của dân đóng góp, đây là mấu chốt giúp phân biệt lương của giáo viên công lập khác với lương của giáo viên ngoài công lập, giáo viên trường tư thục, giáo viên trường quốc tế, giáo viên các trung tâm... Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, tiền lương là thước đo giá trị sức lao động và hiệu quả công việc theo quy trình cạnh tranh cùng mối quan hệ cung - cầu ở các cơ sở không thuộc Nhà nước quản lý nói chung và trong các trường mầm non ngoài công lập nói riêng. Lương của giáo viên trường công lập được tính bởi 3 nguồn là: lương tối thiểu theo quy định của Nhà nước, thang bảng lương, các chế độ phụ cấp khác theo quy định của ngành dọc và tài chính kết hợp. Trong các lĩnh vực do tư nhân quản lý, tiền lương và thu nhập của người lao động được điều chỉnh theo nhu cầu về lợi nhuận của đôi bên cung và cầu cùng sự dao động của nguồn nhân lực. Do đó trong thực tiễn, khi chỉ số giá sinh hoạt của xã hội biến động theo cơ chế thị trường thì thu nhập của giáo viên trường công lập 16
  • 18. thường thấp hơn rất nhiều so với thu nhập của giáo viên khu vực giáo dục tư nhân. Đây chính là một trong những nguyên nhân dịch chuyển nguồn nhân lực từ khu vực giáo dục công lập sang khu vực giáo dục tư nhân, đặc biệt là những giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có năng lực thực sự nhưng chưa được khu vực công đánh giá đúng về giá trị lao động của họ. Ngoài ra căn cứ vào các quy định của Nhà nước, giáo viên mầm non công lập còn được đãi ngộ về bảo đảm vĩnh viễn những phúc lợi xã hội tương ứng như bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền lương hưu, tiền lương trong những ngày nghỉ phép cố định 2 tháng/năm học (theo Thông tư số 48/2011của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 25 tháng 10 năm 2011). Tuy nhiên nếu so sánh giữa hai lĩnh vực công - tư thì nguồn giáo viên trong lĩnh vực giáo dục công lập vẫn được hưởng một số chế độ chăm lo cố định do Nhà nước quy định, mà trong lĩnh vực tư nhân vẫn chưa được thực hiện do nhu cầu lợi nhuận của chủ trường hoặc chủ doanh nghiệp như chế độ nghỉ phép hè 2 tháng có hưởng lương, đó cũng là một đãi ngộ chỉ có trong hệ thống giáo dục quốc dân và được duy trì trong các trường công lập. Bên cạnh những đặc điểm về chế độ làm việc, chế độ đãi ngộ vừa nêu, công việc của giáo viên mầm non công lập còn được điều chỉnh bởi những văn bản pháp luật liên quan khác như các nghị định, thông tư, quy chế ngành mầm non, chuẩn giáo viên mầm non,... Môi trường làm việc của giáo viên mầm non công lập Môi trường làm việc là mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người từ thấp đến cao là: nhu cầu ăn, mặc, ở của riêng mỗi cá nhân; nhu cầu an toàn của bản thân; nhu cầu giao tiếp; nhu cầu tôn trọng và được tôn trọng với những người xung quanh trong khi làm việc; cuối cùng là nhu cầu tự thể hiện để hoàn thiện bản thân. Trong các nhu cầu vừa nêu thì nhu cầu cuối cùng là nhu cầu cao nhất của người lao động nhằm tự bộc lộ tài năng 17
  • 19. phẩm giá, phát huy thế mạnh của cá nhân mình để phát triển nghề nghiệp hoặc năng lực chuyên môn ở mức độ cao nhất. Trước kia khi chưa đổi mới và cơ chế bao cấp đóng vai trò chủ lực thì làm việc trong môi trường Nhà nước là lựa chọn hàng đầu của người lao động vì tính ổn định và mức độ an toàn cao. Nhưng từ khi nước ta mở cửa cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì cơ hội lựa chọn môi trường làm việc của người lao động đã có nhiều thay đổi vì sự xuất hiện các khu vực ngoài Nhà nước với những việc làm hấp dẫn và có thu nhập cao. Giáo dục cũng không nằm ngoài những thay đổi có tính quy luật đó, tại Thành phố Hồ Chí Minh, một bộ phận giáo viên mầm non công lập đang diễn ra hiện tượng “bỏ việc” ở các trường công lập để đầu quân cho những trường ngoài công lập với khối lượng công việc không còn là gánh nặng hằng ngày và mức thu nhập cao hơn nhiều so với khi làm việc trong trường công lập do Nhà nước quản lý. Năng lực của giáo viên mầm non công lập Năng lực là khả năng làm việc của một người nhằm mang lại hiệu quả cao nhất về mặt chất lượng công việc, thu được nhiều lợi nhuận sau khi hoàn thành công việc và được đánh giá cao bởi những người quản lý trực tiếp. Trong phạm vi giáo dục, ngoài những kiến thức cơ bản về ngành học được thu thập trong suốt quá trình học tập ở các trường sư phạm, năng lực của giáo viên sẽ được định hình khi trực tiếp giảng dạy trên lớp. Đó là khả năng bao quát học sinh khi đứng lớp, kỹ năng truyền thụ kiến thức, biết cách lồng ghép các kiến thức mang tính lý thuyết trong sách giáo khoa với kinh nghiệm thực tế cuộc sống để làm học sinh hứng thú khi học tập. Riêng trong bậc học mầm non năng lực của giáo viên mầm non chính là sự phong phú trong các hoạt động nuôi dạy trẻ và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giáo viên với nhau để tạo hứng thú cho trẻ trong các hoạt động (theo hướng đổi mới của giáo dục mầm non, hiện nay các giờ học, chơi, ăn, ngủ… của trẻ mầm non được gọi là 18
  • 20. hoạt động chung, hoạt động ngoài trời…). Đây là vấn đề cơ bản quan trọng nhất để làm cơ sở đánh giá trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người khai tâm mở trí cho các thế hệ học sinh nhỏ nhất trong các bậc học đồng thời cũng là nền tảng đánh giá chất lượng của người giáo viên mầm non nói riêng và nền giáo dục theo xu thế mới hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh nói chung. Hiện nay những tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá năng lực của giáo viên mầm non được thể hiện ở một số yêu cầu sau: Có kiến thức về giáo dục mầm non, có năng lực sư phạm gồm khả năng bao quát và xử lý tình huống trong khi đứng lớp. Có kiến thức về tâm sinh lý của trẻ và kiến thức nuôi dạy trẻ. Biết tổ chức các hoạt động vui chơi của trẻ, biết múa hát, kể chuyện, … lôi cuốn trẻ. Có sáng tạo trong các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Bảng 1.1. Trình độ giáo viên mầm non công lập tại TP HCM Chức danh Tổng số Trình độ chuyên môn Trình độ chính trị Tổng Nữ Đạt chuẩn Cao đẳng Đại học Sau đại học Trung cấp Cao cấp Cán bộ quản lý (Ban giám hiệu) 1.14 4 1.14 0 1.140 162 946 08 27 521 Giáo viên 8.46 6 8.44 4 8.436 3.604 2.784 o 04 343 (Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố HC M, tháng 8/2012) Phẩm chất đạo đức Đạo đức là phẩm chất tối cần thiết của bất kỳ người lao động chân chính nào trong công việc, nhưng riêng đối với những người làm công tác giáo dục thì yếu tố đạo đức luôn là tiêu chí quan trọng hàng đầu trong việc 19
  • 21. đánh giá năng lực toàn diện của một nhà giáo. Nhà giáo phải là người có đạo đức tốt thì mới có đầy đủ vị thế truyền đạt những kiến thức, những kỹ năng, những kinh nghiệm sống đến học sinh, giúp học sinh hình thành và phát triển nhân cách. Đặc trưng của giáo dục là nơi truyền đạt những tinh hoa của văn hóa nhân loại, do đó yếu tố đạo đức phải là chuẩn đầu tiên của bất kỳ ai nếu muốn đứng trong hàng ngũ những người làm công tác giáo dục, đồng thời phải luôn duy trì, phát huy, rèn luyện phẩm chất tốt đẹp này để mãi là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Giáo dục mầm non cũng là một bậc học đòi hỏi khắc nghiệt phẩm chất này ở các thầy, cô giáo. Khi chấp nhận vào ngành mầm non, các tố chất cần thiết nhất cho người công tác ở bậc học này là lòng yêu nghề, yêu người, là sự kiên trì nhẫn nại, giàu đức hy sinh, sẵn sàng bỏ thời gian, công sức, thậm chí cả tiền bạc cho sự nghiệp giáo dục trẻ như lời Bác Hồ đã từng nói với lớp đào tạo cán bộ mẫu giáo năm 1955 “…Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt… Điều trước tiên là dạy các cháu về đạo đức. Anh chị em giáo viên và mẫu giáo cần luôn luôn gương mẫu về đạo đức để các cháu noi theo” [17, tr.263]. Đạo đức của người giáo viên mầm non được quy định trong “Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non” Ban hành kèm Quyết định số 2/2008/QĐ- BGDĐT ngày 22 tháng 01 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và được đánh giá hàng năm sau khi có hiệu lực thi hành để giúp những người làm công tác giáo dục ở cấp học này luôn phấn đấu vươn lên bằng những tiêu chí sau: 20
  • 22. Có đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, trong sáng của nhà giáo; có ý thức phấn đấu vươn lên trong nghề nghiệp; sống trung thực, lành mạnh, giản dị, gương mẫu, được đồng nghiệp, người dân tín nhiệm và trẻ yêu quý; tự học, phấn đấu nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, khỏe mạnh và thường xuyên rèn luyện sức khỏe; không có biểu hiện tiêu cực trong cuộc sống, trong chăm sóc, giáo dục trẻ; không vi phạm các quy định về các hành vi nhà giáo không được làm. Trung thực trong công tác, đoàn kết trong quan hệ với đồng nghiệp, tận tình phục vụ nhân dân và trẻ; trung thực trong báo cáo kết quả chăm sóc, giáo dục trẻ và trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được phân công; đoàn kết với mọi thành viên trong trường; có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp trong các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ; có thái độ đúng mực và đáp ứng nguyện vọng chính đáng của cha mẹ trẻ em; chăm sóc giáo dục trẻ bằng tình thương yêu, sự công bằng và trách nhiệm của một nhà giáo. Ngoài những yêu cầu cơ bản trên trong quy định của chuẩn giáo viên mầm non, phẩm chất đạo đức còn được quy định thêm bởi những nội quy, quy chế riêng của từng địa phương, từng trường học tùy theo điều kiện và tình hình thực tế ở mỗi nơi. 1.1.3. Khái niệm bỏ việc của giáo viên mầm non công lập Bỏ việc là hiện tượng xảy ra đối với một cá nhân nào đó khi đang làm công việc trong lĩnh vực này nhưng không còn quan tâm đến công việc đó nữa, không giữ lại công việc đó cho bản thân mình, đồng thời không còn chịu sự chi phối bởi những mối quan hệ về mặt quản lý đối với các cá nhân khác có liên quan đến những công việc cũ đã làm của mình mà chuyển sang làm việc ở một ngành, một lĩnh vực khác, với một công việc mới so với công việc cũ. Bỏ việc của giáo viên mầm non 21
  • 23. Trong lĩnh vực giáo dục mầm non, giáo viên là người trực tiếp đứng lớp, trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục học sinh mầm non. Có thể hiểu: giáo viên mầm non công lập bỏ việc là hiện tượng những người đang trực tiếp giảng dạy tại các trường mầm non công lập của Thành phố nhưng không tiếp tục công việc đó nữa mà chuyển sang làm những công việc khác. Như vậy có thể hiểu, giáo viên mầm non bỏ việc xảy ra trong những trường hợp sau: Tự ý bỏ việc hoặc xin thôi việc để chuyển sang làm việc ở các ngành nghề khác. Tự ý bỏ việc hoặc xin thôi việc để chuyển sang làm việc ở các trường mầm non ngoài công lập. Xin thôi đứng lớp, không trực tiếp làm việc nuôi dạy trẻ mà chuyển sang làm những công việc khác trong ngành giáo dục mầm non nói riêng hoặc trong ngành giáo dục nói chung. Bỏ việc của giáo viên mầm non được nghiên cứu như là một hiện tượng xã hội, có nguyên nhân chính và trực tiếp từ những tác động của xã hội. Còn những hiện tượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập có nguyên nhân từ gia đình hoặc nhu cầu, nguyện vọng của cá nhân chỉ được nghiên cứu để tham khảo. Do áp lực công việc hoặc do không thích hợp với việc nuôi dạy trẻ, một số giáo viên mầm non công lập đã lợi dụng các mối quan hệ hoặc chạy chọt để chuyển sang những vị trí khác như làm cán bộ quản lý giáo dục ở trường, ở các quận, huyện. Một số giáo viên mầm non công lập cũng xin chuyển sang các trường mầm non công lập ở những địa phương khác - những nơi có cơ sở vật chất tốt hơn, có những ưu đãi tốt hơn. Sự dịch chuyển này, tuy số giáo 22
  • 24. viên đó vẫn công tác trong ngành giáo dục mầm non nhưng vẫn tạo nên hiện tượng thiếu ảo (nơi cần thì thiếu, nơi tạm đủ thì thừa) Để dạy trẻ tốt thì phải có một đội ngũ giáo viên mầm non thật đầy đủ về chất lượng và ổn định về số lượng nhưng trong tình hình thực tế hiện nay, đội ngũ giáo viên mầm non ngày càng bị giảm về số lượng và từ sự thiếu hụt đó chất lượng của giáo viên mầm non trong chăm sóc nuôi dạy trẻ cũng bị ảnh hưởng nhiều. Tìm lời giải cho vấn đề này để đưa vị thế của giáo viên mầm non trở lại đúng thiên chức của người mẹ thứ hai như Bác Hồ đã răn dạy là một vấn đề cấp thiết. 1.1.4. Khái niệm biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập Theo Từ điển Tiếng Việt thì ngăn ngừa là “phòng trước để cản lại một việc xấu”[40, tr.589]; khắc phục là “thắng những khó khăn để đạt mục đích của mình” [40, tr.450]. Như vậy có thể hiểu: ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập là tìm ra những cách thức để giáo viên mầm non công lập yên tâm với nghề nghiệp, công việc nuôi dạy trẻ. Tạo những điều kiện vật chất và tinh thần tốt hơn cho cuộc sống của họ để họ không thôi việc chuyển sang những ngành nghề, công việc khác. Theo Từ điển Tiếng Việt, biện pháp là “cách hành động, lựa chọn sao cho phù hợp với mục đích” [40, tr.70] còn theo Đại Từ điển Tiếng Việt “biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể” [24, tr.161]. Từ các khái niệm trên, có thể thấy nghĩa chung nhất của biện pháp là cách làm để thực hiện một công việc nào đó nhằm đạt mục đích đặt ra. Theo các cách tiếp cận trên, có thể quan niệm: Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập là tổng hợp các cách thức tác động đến giáo viên mầm non một cách có mục đích, có tổ chức và có kế hoạch nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội 23
  • 25. của giáo viên mầm non công lập, giúp họ tổ chức tốt cuộc sống cá nhân, rèn luyện phẩm chất, năng lực sư phạm, yên tâm gắn bó lâu dài với nghề nghiệp và công việc nuôi dạy trẻ ở các trường mầm non công lập. Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập là tổng hợp các cách thức, thủ pháp, thao tác và cả những chế độ chính sách, cơ chế quản lý tác động đến giáo viên mầm non và tập thể giáo viên mầm non. Mục đích của biện pháp: khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập là tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách như: cải thiện đời sống cho giáo viên trường mầm non công lập, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất, lòng yêu nghề, yêu trẻ và những kỹ năng nuôi dạy trẻ. Trên cơ sở đó giúp cho người giáo viên mầm non công lập có điều kiện chăm sóc gia đình và bản thân, đồng thời nâng cao vị thế xã hội của họ để họ sống được bằng nghề, gắn bó với nghề nuôi dạy trẻ. Chủ thể của những tác động là: cấp ủy chính quyền các cấp; các đoàn thể chính trị xã hội; các cơ quan chức năng; các cơ quan quản lý giáo dục các cấp; cộng đồng xã hội và chính bản thân đội ngũ giáo viên các trường mầm non. Giáo viên các trường mầm non công lập vừa là đối tượng tác động lại vừa là chủ thể của những tác động. Bởi vì bỏ việc đối với một cá nhân nói chung và những người làm công tác giáo dục mầm non nói riêng không đơn giản là một hành động nhất thời mà là cả một quá trình đấu tranh, giằng co nội tâm. Đặc biệt đối với giáo viên yêu nghề, yêu trẻ thì bỏ việc nuôi dạy trẻ là một việc làm hết sức khó khăn đối với họ. Nhưng có thể do họ quá khó khăn về cuộc sống, bị áp lực của công việc, thậm chí bị cám dỗ bởi danh vọng, bởi vật chất nên đã bỏ nghề. Bỏ việc của giáo viên mầm non công lập ở nhiều người không phải vì những động cơ xấu cho nên để ngăn ngừa, khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập thì chính đội ngũ 24
  • 26. giáo viên mầm non công lập phải tự vượt lên, tự đấu tranh để khắc phục khó khăn trong cuộc sống, trong công việc, yên tâm gắn bó với nghề nuôi dạy trẻ. Biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập rất phong phú và đa dạng bởi đối tượng của những biện pháp này là con người hoạt động ở lĩnh vực giáo dục. Mặt khác nguyên nhân bỏ việc cũng đa dạng, có nhiều vấn đề tế nhị liên quan trực tiếp đến cuộc sống của bản thân và gia đình họ. Tuy nhiên nếu các biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập phù hợp với đối tượng, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của họ, giải quyết được những khó khăn cho họ thì sẽ có tính thiết thực và khả thi cao 1.2. Thực trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, hệ lụy và nguyên nhân 1.2.1 Thực trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh Ngay trong năm đầu tiên thành lập ngành học mẫu giáo 1975-1976, toàn Thành phố đã có 1920 lớp với 1973 giáo viên nuôi dạy 62.260 trẻ . Sau đó vào cuối năm 1975 đã có thêm 10 nhà trẻ thu nhận 878 trẻ lứa tuổi nhà trẻ với 106 cô nuôi dạy trẻ. Cuối năm 1976 số lượng nhà trẻ đã tăng lên 106 cơ sở với 613 cô chăm sóc nuôi dạy 5.010 trẻ. Trong những năm này, việc tuyển chọn giáo viên mầm non các trường công lập khá chặt chẽ, đa số là những người tâm huyết với nghề, yêu trẻ và có kỹ năng nuôi dạy trẻ tốt nên rất ít người bỏ việc. Đến năm học 1984-1985 số trẻ học mẫu giáo đã tăng lên 114.780 trẻ và số trẻ đến nhà trẻ đã tăng gấp 10 lần với 564 nhà trẻ, 4.850 cô nuôi dạy 31.089 cháu. Trong thời kỳ này, tranh thủ sự viện trợ của các tổ chức quốc tế, Thành phố đã xây dựng được 5 nhà trẻ có quy mô nuôi dạy từ 100 đến 300 cháu như: 25
  • 27. - UIPE (Union International de Protection des enfants) giúp xây nhà trẻ ở số 4 Trần Quốc Thảo, quận 3) thu nhận 300 cháu. - UNICEF giúp xây 4 nhà trẻ quy mô 100 trẻ mỗi trường gồm: Nhà trẻ Nguyễn Tất Thành (quận 4), nhà trẻ 19/5 (quận 8), nhà trẻ Hữu Nghị (quận 11), nhà trẻ Bông Hồng (huyện Củ Chi). - Tổ chức FCD (Fonds Cooperatin de Development) của Bỉ giúp xây nông trại Tân Thắng (phường 16, quận Tân Bình) để cung cấp thịt, cá, trứng, rau xanh cho các cháu nhà trẻ. Các cháu có cha mẹ làm việc ở nông trại có một nhà trẻ riêng. - Tổ chức PI (Protection International) và một số Việt kiều hảo tâm đã giúp đỡ tiền, đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị cho các nhà trẻ. Trong những năm 80, tuy số trường mầm non tăng nhanh nhưng lượng giáo viên không thiếu nhiều nhưng cũng từ những năm này bắt đầu có hiện tượng giáo viên trường mầm non công lập bỏ việc và nhảy việc. Những năm 1990- 1995 là giai đoạn thực hiện đổi mới giáo dục, đây là thời điểm có rất nhiều thuận lợi cho việc phát triển giáo dục. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 6/1991), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ V (tháng 10/1991) Thành phố đã xác lập và quyết định đầu tư thêm kinh phí để sửa chữa cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ, vận động thêm phụ huynh đóng góp vào xây dựng trường. Cũng trong thời điểm này chủ trương hợp nhất nhà trẻ và trường mẫu giáo thành trường mầm non theo chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tạo điều kiện cho hệ thống giáo dục mầm non Thành phố thay da đổi thịt, tạo sức hút rất nhiều đối với phụ huynh và trẻ mầm non. Khi mô hình nhà trẻ và trường mẫu giáo không còn hoạt động riêng lẻ nữa mà kết hợp lại thành trường mầm non thì số trẻ mầm non đã tăng vọt lên 138.041 trẻ. Các trường mầm non công lập đã không đáp ứng được nhu cầu gửi trẻ của người dân trong thành 26
  • 28. phố. Giáo viên trường mầm non công lập thiếu nhiều và hiện tượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập đã xảy ra ở nhiều trường nhưng chưa thành hiện tượng phổ biến. Năm học 2004-2005 là giai đoạn hồi sinh của ngành mầm non Thành phố Hồ Chí Minh. Số trẻ đi học mầm non toàn Thành phố đã tăng lên 175.558 học sinh gồm 30.391 học sinh nhà trẻ và 145.167 học sinh mẫu giáo theo học trong 497 trường mầm non gồm 337 trường công lập, 47 trường bán công và 113 trường dân lập tư thục, trong số đó trường công lập nuôi dạy 62% tổng số học sinh [53, ngày 18/8/2004]. Nhưng cũng bắt đầu từ giai đoạn này đã xảy ra tình trạng mà kéo dài đến tận ngày nay vẫn chưa có cách khắc phục đó là Thành phố Hồ Chí Minh liên tục “sốt” nhà giữ trẻ và trường mầm non nhưng giáo viên mầm non lại liên tục “hạ nhiệt trầm trọng” theo nghịch lý “nhu cầu gửi trẻ càng tăng thì giáo viên mầm non càng giảm” nhất là trong hệ thống giáo dục công lập. Đến năm 2008 - 2009 là năm số trẻ trong tuổi mầm non đi học tăng vọt ở tỷ lệ hơn 66% khiến cho các trường công lập và giáo viên mầm non của Thành phố Hồ Chí Minh bị rơi vào tình trạng thiếu hụt trầm trọng. Số lượng trẻ từ 03 tháng tới 2 tuổi đến trường, lớp, nhóm trẻ gia đình tăng bình quân trên 4.000 trẻ/năm. Tính từ năm 2001-2008 số trẻ trong độ tuổi này từ 20.992 trẻ đã tăng lên 44.511 trẻ (tăng 23.519 trẻ); trẻ từ 3-5 tuổi từ 128.998 trẻ tăng lên 209.358 trẻ (tăng 80.360 trẻ). Thế nhưng năm học 2008 - 2009 có 431 giáo viên mầm non nghỉ việc, toàn Thành phố thiếu 1000 giáo viên mầm non công lập. Chỉ tính riêng năm 2008 có 256 giáo viên mầm non công lập nghỉ việc, một số giáo viên mầm non trong số đó chuyển qua làm việc ở trường quốc tế [52, ngày 26/5/2008]. Đến năm 2010-2011 số trường mầm non công lập và ngoài công lập không tăng lên mà giảm đi chỉ còn còn 759 trường và 988 nhóm, lớp cả công 27
  • 29. lập và tư thục. Số trường lớp công lập vào thời điểm này chiếm tỷ lệ trên 57% với 406 trường và chỉ đáp ứng nuôi dạy khoảng 70% trên tổng số 293.000 trẻ mầm non toàn Thành phố, số trẻ còn lại thì theo học tại các trường tư thục, nhóm lớp. Với hơn 10.000 giáo viên nhưng phải chăm sóc giáo dục trẻ ở 9.066 lớp học mầm non vì thế trung bình chỉ có 1,19 giáo viên quản lý một lớp. Mặc dù trong năm 2011 đã có thêm 6 trường mầm non được công nhận đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia lên 71 trường và trường chuẩn quốc gia có mặt ở khắp 24/24 quận huyện của Thành phố nhưng thực trạng làm đau đầu các nhà quản lý giáo dục mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh là đến năm 2011, chỉ vì thiếu giáo viên mà Thành phố vẫn còn 13 phường chưa có trường mầm non công lập và số phường này tập trung ở các quận 4, 6, Tân Phú, Bình Tân, Gò Vấp, Thủ Đức. [52, ngày 28/10/2011] Đến năm 2011 số cán bộ quản lý và giáo viên bậc mầm non nghỉ việc là 442 người đã tăng lên 538 người vào năm 2012 [54, ngày 21/10/2012]. Theo thống kê cuối năm học 2011-2012 cả nước còn thiếu 22.800 giáo viên mầm non thì tại Thành phố Hồ Chí Minh còn thiếu 1258 - 2000 giáo viên trong khi nguồn tuyển giáo viên mầm non đã cạn kiệt. [55, ngày 22/6/2013]. Bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Phó Phòng Giáo dục đào tạo Quận 3 cho biết: “bậc học mầm non Quận thiếu khoảng 40 giáo viên. Nhiều giáo viên đến nhận nhiệm sở ngày đầu, hôm sau bỏ đi không một lời từ biệt, lý do chính là công việc vất vả, nhất là ở trường có nhiều điểm lẻ”. Áp lực chồng chất áp lực, trẻ tăng nhưng cô không tăng trong năm học này về sau là tình trạng kéo dài cho hiện tượng bỏ nghề của giáo viên mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh mà con số giáo viên, cán bộ quản lý mầm non nghỉ việc hàng năm là minh chứng cụ thể nhất và hiện nay thiếu từ 2.000 đến 3.000 giáo viên mầm non (theo thống kê từ Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh) cho phổ cập trẻ mầm non 5 tuổi. 28
  • 30. Một số giáo viên mầm non nghỉ việc và mở trường, mở nhóm trẻ hoặc mầm non tư thục có yếu tố quốc tế trong giảng dạy nhằm tránh áp lực trong công việc nhất là về mặt chuyên môn. Khi mở trường hoặc mở nhóm lớp, những giáo viên này đã nhẹ bớt gánh nặng chăm sóc nuôi dạy các cháu và có thể vừa dùng kinh nghiệm về ngành mầm non để quản lý cơ sở của mình vừa trông nom, chăm sóc thêm cho gia đình. Hoặc ở những giáo viên mầm non gia đình có kinh tế thuộc loại khá giả sau một thời gian ngắn vào nghề đã bỏ việc để phụ giúp gia đình quản lý công ty thuộc các lĩnh vực kinh tế khác. Có nhiều giáo viên mầm non có giọng đọc thơ hay, kể chuyện diễn cảm; sau khi được phát hiện và giới thiệu bởi các biên tập viên của các đài truyền hình, đài phát thanh tại Thành phố Hồ Chí Minh đã dứt khoát từ bỏ công việc giảng dạy mầm non, chuyển sang làm thuyết minh phim, lồng tiếng với mức thu nhập khá cao so với công việc thực tế của giáo viên mầm non. Giáo viên mầm non sẵn sàng bỏ nghề đi làm tạp vụ trong nhà hàng, khách sạn, nhân viên văn phòng, bán hàng, thậm chí tiếp thị bia, mở quán ăn đang là thực trạng đáng buồn đối với ngành giáo dục. [55, ngày 29/10/2011] Do đặc thù của ngành mầm non khác với những ngành nghề khác khi có sự điều động, thuyên chuyển nhân sự ở cấp quản lý phải điều động người có chuyên môn của ngành mầm non; nếu điều động cán bộ quản lý có trình độ cao ở các bậc học khác mà thiếu chuyên môn của ngành mầm non thì việc quản lý sẽ gặp nhiều trở ngại cho cả hai phía là người quản lý và những người được quản lý. Vì vậy một số giáo viên trong ngành mầm non được đề bạt lên ban giám hiệu làm công tác quản lý thay cho số cán bộ quản lý nghỉ hưu theo chế độ quy định và chuyển công tác cũng khiến cho số lượng giáo viên bị hụt đi. Công việc quá tải, tổng thu nhập của giáo viên mầm non bình quân là 1,8 - 2,4 triệu đồng/người/tháng nhưng trên thực tế thời gian lao động của đội 29
  • 31. ngũ này tùy theo tình hình công tác thậm chí vào đợt cao điểm có lúc kéo dài hơn 12 tiếng (từ 6giờ 30 đến 19 giờ). Từ thực tế quá tải sức lao động của giáo viên nên mới đầu năm học 2011-2012 số cán bộ quản lý và giáo viên bậc mầm non nghỉ việc đã tăng lên 442 người (54, ngày 21/10/2011). Tại các quận trung tâm Thành phố như quận 1, quận 3, quận 10; mức độ bỏ việc của giáo viên mầm non từng năm đều tăng lên rất nhiều, tình trạng giáo viên mầm non bỏ việc ngày càng trầm trọng. Trong năm học 2012 – 2013 do Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh không tuyển đủ số giáo viên mầm non còn thiếu cho các trường nên phải chấp nhận phương án để các Quận, các trường tự tuyển số giáo viên mầm non ở các tỉnh, thành trong cả nước đang tạm trú tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Quận 5 thiếu khoảng 25 GV. - Quận 3 thiếu khoảng 40 người. Ở những trường có nhiều điểm lẻ (quận 3 có 3 trường mầm non có 5 điểm lẻ/ trường) khả năng tuyển giáo viên cũng rất nhiêu khê, có những giáo viên đến nhận nhiệm sở ngày hôm trước, hôm sau bỏ đi. Trường Mầm non 9 đang xây dựng cũng có nguy cơ thiếu giáo viên. - Quận Tân Phú thiếu 60 giáo viên, phỏng vấn 25 hồ sơ và cuối cùng chỉ nhận được 2 hồ sơ giáo viên thuộc dạng KT3, hoàn toàn không tuyển được giáo viên có hộ khẩu tại Thành phố Hồ Chí Minh. 30
  • 32. Bảng 1.2.1: Thống kê số trường và số giáo viên mầm non còn thiếu Năm học Trường mầm non Giáo viên mầm non Hiện có Còn thiếu Nghỉ việc Hiện có Còn thiếu 2007-2008 639 75 256 11.537 854 2008-2009 654 67 431 10.000 834 2009-2010 669 64 543 8.718 799 2010-2011 721 51 442 8.529 800 2011-2012 759 39 538 7.618 1.258–2.000 (Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố HCM, tháng 8/2012) Thực trạng vừa nêu trên đã phần nào cho thấy mức độ nghiêm trọng của tình trạng giáo viên mầm non bỏ việc, đó là một quá trình kéo dài từ năm này đến năm khác như một thách thức lớn dành cho các nhà quản lý giáo dục của nước ta nói chung và của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Đến nay việc tuyển dụng giáo viên mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh phải mở rộng ra những giáo viên thuộc diện hộ khẩu KT3 nhưng nguồn giáo viên này cũng không đủ để đáp ứng nhu cầu cần có nên lãnh đạo các phòng Giáo dục và Đào tạo cũng như ban giám hiệu của một số trường mầm non phải hợp đồng với những giáo viên không có hộ khẩu và giáo viên có hộ khẩu ở các tỉnh thậm chí buộc phải tuyển cả bảo mẫu để có người trông trẻ. 1.2.2 Hệ lụy của tình trạng giáo viên mầm non công lập bỏ việc tại Thành phố Hồ Chí Minh Đối với gia đình trẻ và trẻ Thời vàng son của ngành mầm non từ năm 2008 đến nay cũng là thời gian “cô thiếu - cháu thừa” trong hệ thống trường mầm non công lập. Khi các trường công lập thiếu và quá tải thì các trường mầm non tư thục, các nhóm trẻ gia đình do tư nhân quản lý phát sinh rất nhiều nhằm thỏa mãn nhu cầu gửi con của người lao động. Nhưng chất lượng nuôi dạy trẻ ở hệ thống ngoài công lập rất thấp; các cơ sở mầm non ngoài công lập chỉ nhằm trông giữ trẻ để cha 31
  • 33. mẹ các cháu đi làm, người giữ trẻ trong các nhóm trẻ gia đình tự phát này hoàn toàn không có nghiệp vụ sư phạm mầm non, không hiểu biết tâm, sinh lý trẻ, không đảm bảo quy trình chăm sóc nuôi dạy trẻ như giáo viên trong các trường công lập nên ở các mô hình tự phát này tình trạng trẻ mầm non bị bạo hành và tai nạn rất nhiều, gây bức xúc trong dư luận tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng như trên cả nước. Khi không gửi được trẻ ở trường mầm non nên gia đình phải tự trông giữ trẻ do vậy công việc và thời gian lao động của phụ huynh học sinh bị ảnh hưởng rất nhiều vì các cháu ở lứa tuổi mầm non chưa hoàn thiện tâm sinh lý, chưa đủ khả năng để tự đảm bảo an toàn và tự phục vụ cho bản thân. Mặt khác, khi thiếu giáo viên mầm non, thiếu lớp, thiếu trường mầm non dẫn đến tình trạng quá tải của các trường mầm non đang hoạt động. Theo quy chuẩn, 2 giáo viên mầm non trông 1 lớp thì đa số ở các trường mầm non chỉ có trung bình 1,19 giáo viên. Từ đó dẫn đến việc các cháu không được nuôi dạy một cách đầy đủ. Nhiều vấn nạn thương tâm xảy ra không phải do giáo viên thiếu trách nhiệm, không yêu trẻ, không quan tâm đến trẻ mà do không bao quát được hết lớp vì sĩ số quá đông. Nhiều giờ học, buổi học không thực hiện hết quy trình, không phát huy được năng lực sáng tạo của trẻ cũng chỉ vì số lượng trẻ vượt quá quy chuẩn. Các gia đình khi gửi con em đến trường, họ mong muốn con em của mình được hưởng thụ tính ưu việt của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa từ phương pháp chăm sóc, dạy dỗ đến tiện nghi dành cho trẻ. Nhưng do thiếu giáo viên, nguyện vọng thiết thực, xác đáng đó đôi khi không thực hiện được. trường thì lại bỏ việc, càng làm thiếu hụt trầm trọng lực lượng này nhiều hơn nữa. Đối với nhà trường 32
  • 34. Sĩ số lớp tại nhiều trường luôn cao hơn so với quy định chỉ có từ 15 đến 35 trẻ/lớp mẫu giáo tùy theo cấp tuổi (mầm: 3 tuổi - chồi: 4 tuổi - lá: 5 tuổi) thậm chí có nơi không đủ lớp, thiếu giáo viên; ban giám hiệu buộc lòng phải tăng sĩ số trẻ lên 50-60 trẻ/lớp/2 giáo viên ở khu vực nội thành và ở ngoại thành là 40-45 trẻ/lớp/2 giáo viên. Quận 8 có 2 trường mầm non mới, nhưng vẫn chưa tuyển được giáo viên. Thậm chí trong năm học 2011-2012 trước đó Quận có một trường mầm non vẫn chưa sử dụng hết công suất cũng do thiếu giáo viên. Tình trạng thíếu giáo viên sẽ tạo nhiều áp lực lên trách nhiệm của ban giám hiệu trường mầm non trong việc quản lý, điều phối nhân sự; thậm chí hiện tượng giáo viên bỏ việc có lúc phá vỡ toàn bộ kế hoạch năm học, kế hoạch tài chính, mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra hàng năm của nhà trường. . hiểu biết cơ bản về tâm sinh lý trẻ …). Nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình nuôi dạy trẻ nhưng do thiếu giáo viên nên tiếp xúc giữa nhà trường và phụ huynh học sinh không được thường xuyên, đầy đủ. Nhiều thông tin không đến được với phụ huynh của trẻ, nhiều vướng mắc của phụ huynh cũng không được giải đáp. Dưới áp lực của công việc, do có quá nhiều vấn đề phải quan tâm trong cùng một thời điểm nên đôi khi có hiện tượng giáo viên không giữ được cách giao tiếp nhẹ nhàng với trẻ, tất cả những vấn đề đó dồn nén lại gây ra bức xúc ở phụ huynh của trẻ, thậm chí nảy sinh những mâu thuẫn giữa phụ huynh với nhà trường. Nhà trường phải mất nhiều công sức, thời gian mới có thể hàn gắn những rạn nứt này. Những vấn đề đó đã làm giảm vị thế xã hội của giáo viên trường mầm non công lập, giảm vị thế của nhà trường mầm non nói riêng và ngành mầm non nói chung. Đối với giáo viên Thành phố Hồ Chí Minh có 3 trường đào tạo giáo viên mầm non là Đại học Sư phạm, Đại học Sài Gòn và Cao đẳng Sư phạm TW Thành phố Hồ Chí 33
  • 35. ách tuyển dụng bảo mẫu cho các trường. Mặc dù trình độ và nghiệp vụ của bảo mẫu không đòi hỏi cao như giáo viên nhưng với 7.253 bảo mẫu còn thiếu cho tất cả các trường trên toàn Thành phố thì ngành giáo dục mầm non vẫn phải đau đầu để tìm mọi cách bù đắp số giáo viên, bảo mẫu thiếu quá nhiều cho bậc học này. Như vậy, bảo mẫu - những người chưa được đào tạo nghiệp vụ sư phạm, không được trang bị phương pháp nuôi dạy trẻ phải làm giáo viên một cách “bất đắc dĩ”. Một số bảo mẫu nhanh chóng hòa nhập được với nhà trường, trưởng thành dần trong quá trình nuôi dạy trẻ, đảm nhiệm tốt công việc này. Nhưng cũng có những bảo mẫu không thể thực hiện tốt chức năng của người giáo viên mầm non. Những trường mầm non có những bảo mẫu như vậy đã làm cho phụ huynh của trẻ không hài lòng với nhà trường với cách nuôi dạy của những bảo mẫu - giáo viên này. Thống kê cho thấy, kể từ ngày thành lập ngành mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh cho đến nay, tình hình trẻ ở bậc học này không ngừng gia tăng nhưng so với nhu cầu thực tế số lượng trường mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh còn thiếu quá nhiều, giáo viên mầm non công lập nghỉ việc lại gia tăng liên tục khiến cho ngành giáo dục bậc học mầm non phải tự bơi trong quỹ đạo bất cập “giáo viên mới được đào tạo về trường nhận công tác thay cho giáo viên cũ xin nghỉ việc”. Đó là một quy trình khép kín chưa tìm được lối thoát của ngành mầm non Thành phố Hồ Chí Minh. Đối với địa phương non công lập vào mỗi đầu năm học của phụ huynh có con ở lứa tuổi này. Năm học 2011- 2012 toàn Thành phố có 13 phường chưa có trường mầm non công lập [52, 16/10/2011] hoặc ở những địa phương có trường công lập nhưng lại thiếu phòng học, thiếu giáo viên nên không thể chiêu sinh theo nguyện vọng của người dân tại địa phương. Hiện tượng vào đầu năm học các 34
  • 36. bậc phụ huynh phải chạy đôn, chạy đáo để tìm trường học cho con đã trở nên phổ biến. Người dân phải chấp nhận đóng góp mức phí cao để trẻ học trái tuyến, trái lớp đã không còn là cá biệt. Hiện tượng chạy trường, chạy lớp cho trẻ vào trường mầm non công lập có thể dẫn đến tham nhũng, tiêu cực gây bức xúc ở địa phương. Giáo viên mầm non nghỉ việc cộng với tình trạng thiếu giáo viên cố hữu của ngành mầm non không những làm đảo lộn kế hoạch phát triển hệ thống trường mầm non mà còn tác động, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nhiều quận, huyện không mở được trường mầm non nhưng nhu cầu gửi trẻ thì càng ngày càng tăng lên. Chính vì thế các nhóm, lớp tự phát trông trẻ mầm non phát triển. Các địa phương đã không thể kiểm soát được các “nhà trẻ, trường mầm non” tự phát. Các cơ sở tư nhân này thực chất chỉ là nơi giữ trẻ, không phải nơi dạy trẻ, không làm tốt được chức năng nuôi dạy trẻ và không đảm bảo các chuẩn như quy định của Điều lệ Trường mầm non. Những vấn đề trên gây nhức nhối cho nhân dân địa phương, ảnh hưởng đến an ninh trật tự nhưng không thể giải quyết một sớm một chiều nếu không khắc phục được tình trạng thiếu giáo viên, thiếu trường mầm non công lập. Đối với xã hội quận, huyện ở Thành phố Hồ Chí Minh vì đã không đủ tài lực để giữ chân đội ngũ này, khiến cho việc giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh không ổn định. Luôn có sự di động giáo viên mầm non từ trường công lập sang các trường tư thục, các trường mầm non quốc tế hoặc ở các lĩnh vực khác tại Thành phố Hồ Chí Minh. Vì ngoài một số chế độ đãi ngộ cao của các ngành nghề khác đã tuyển dụng và giữ chân giáo viên mầm non công lập thì với mức lương khá hấp dẫn cùng với sự hoàn thiện về cơ sở vật chất của hệ thống các trường tư thục, trường quốc tế cũng như sức khỏe 35
  • 37. và tâm lý làm việc không bị áp lực nhiều đã lôi kéo giáo viên mầm non công lập bỏ việc từ hệ thống giáo dục quốc dân chuyển sang trường tư thục, trường quốc tế. Tình trạng giáo viên mầm non công lập bỏ việc dẫn đến sự thiếu hụt giáo viên triền miên trong bậc học này là một vòng luẩn quẩn chưa có hướng ra. 1.2.3. Nguyên nhân bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh Một là, chế độ chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng Giáo viên mầm non công lập bỏ việc khởi nguồn từ việc chưa có sự quan tâm thích đáng của các nhà quản lý Nhà nước về vật chất, tinh thần dành cho đội ngũ này. Lương của giáo viên mầm non công lập chỉ dao động từ 1,8 đến 2,4 triệu đồng/tháng. Đồng lương thực lĩnh đó chưa tương xứng với công sức bỏ ra của giáo viên mầm non công lập. Mức lương của giáo viên mầm non công lập thấp nhất trong hệ thống thang bảng lương so với giáo viên các cấp học khác trong ngành giáo dục. Ngoài chế độ lương và phụ cấp 35% theo quy định của ngành ra, không có bất kỳ một chế độ đãi ngộ nào khác dành cho giáo viên mầm non công lập trong khi thời gian công tác một ngày của giáo viên mầm non có lúc lên đến hơn 12 tiếng. Công sức bỏ ra của giáo viên bậc học này luôn vuợt khung quy định làm việc 8 tiếng/ngày của Nhà nước. Lương ít, thời gian làm việc nhiều, các tiêu chuẩn phúc lợi khác như nhà ở, an dưỡng định kỳ dành cho các giáo viên có sức khỏe hạn chế khi khá lớn tuổi, hoặc khi có bệnh hiểm nghèo hoàn toàn nằm ngoài chế độ ưu tiên. Trong khi làm việc ở các trường mầm non tư thục hoặc quốc tế, lương của giáo viên mầm non cao hơn, số lượng trẻ cũng đạt chuẩn quy định theo cấp lớp và lứa tuổi nên áp lực của nghề không nặng nề như trong quá trình công tác tại các trường công lập. 36
  • 38. Một số giáo viên mầm non công lập khi sinh con do nhiều hoàn cảnh, nhất là do lương thấp, không có khả năng nuôi người giúp việc hoặc gửi con ở nhà trẻ tư nhân nên buộc phải chấp nhận xin nghỉ việc để nuôi con mọn sau khi chấm dứt chế độ nghỉ hộ sản 4 tháng. Đó là một trong những nguyên nhân bỏ việc rất đau lòng và không đáng có của đội ngũ này. Bất cập trong hệ thống giáo dục mầm non vẫn chưa có lời giải và những bất cập đó luôn làm đắng lòng những người quản lý khi nhắc đến cấp học nhỏ nhất này. Để tháo gỡ tình trạng thiếu trầm trọng giáo viên mầm non, lãnh đạo các Phòng giáo dục và Đào tạo tại một số quận trong Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyển thêm bảo mẫu cho các trường nhưng do cơ chế của ngành không có định biên chức danh bảo mẫu trong hệ thống giáo dục mầm non nên việc tuyển thêm bảo mẫu chỉ rải rác ở một số trường trong nội thành Thành phố có nguồn tài chính dự chi hàng năm đáp ứng được nhu cầu hạch toán của nhà trường nên việc thiếu giáo viên vẫn là chuyện “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Tuy nhiên với mức lương thấp, mọi chế độ ưu đãi không có ngoài lương theo hợp đồng, áp lực công việc nặng, thời gian làm việc nhiều nên cũng rất khó khăn trong việc tuyển dụng nguồn nhân sự tự do bên ngoài cho chức danh này của các trường mầm non. Sau những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đặc biệt với việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của nước ta vào năm 2006, nền kinh tế - xã hội của nước ta nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã có nhiều thay đổi về cơ cấu xã hội và định hướng phát triển trong tương lai. Những đổi thay đó đã tác động cả tích cực và tiêu cực đến tư tưởng của giáo viên mầm non đang công tác trong các trường công lập. Có thể nói trong thời kinh tế thị trường đã xuất hiện các công việc mới với đa dạng hóa các ngành nghề trong xu thế mở rộng hoạt động và sự phát triển của các thành phần kinh 37
  • 39. tế trong thời đổi mới đã tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn việc làm khác trong đội ngũ giáo viên mầm non trường công lập có tiềm năng về trình độ, kinh tế, sức khỏe, tuổi đời. Do đó một trong những nguyên nhân bỏ việc của các giáo viên trường mầm non công lập là do tác động của quy luật kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đây là quy luật mang tính chất vĩ mô về mặt kinh tế nên tạo ra rất nhiều biến đổi của xã hội, mở ra nhiều cơ hội cạnh tranh chất xám trong các cơ quan Nhà nước và khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước cũng như trong lĩnh vực giáo dục mầm non công lập và giáo dục mầm non tư thục. Sau khi Nhà nước có chủ trương xã hội hóa một số lĩnh vực và ngành nghề khác cho phù hợp với nhu cầu phát triển của thời đại thì kể từ năm 2005, ngành mầm non Thành phố Hồ Chí Minh đã có rất nhiều trường mầm non tư thục và trường mầm non quốc tế được thành lập với quy mô khá lớn về cơ sở vật chất trường lớp. Có trường lớp chất lượng tốt thì phải có nguồn nhân lực đáp ứng tương đương với quy mô đã mở. Trong trường hợp này cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã đòi hỏi và làm phát sinh thị trường lao động trong ngành giáo dục mầm non. Nhu cầu nhân sự của lĩnh vực giáo dục mầm non đã phát sinh, đòi hỏi rất quyết liệt về số lượng, chất lượng và thời gian. Để đào tạo nguồn nhân lực kịp thời đáp ứng cho nhu cầu cấp bách này các trường sư phạm chuyên đào tạo giáo viên mầm non dù có đào tạo hết công suất vẫn không thể nào bổ sung kịp thời cho mức cầu quá lớn của thời hội nhập trong khi nhiệm vụ hàng đầu của các trường sư phạm này là phải đào tạo và phân bổ nhân sự cho các trường công lập chính quy trong hệ thống giáo dục quốc dân. Do đó, các trường trường mầm non tư thục, trường mầm non quốc tế đã tìm mọi cách để thu hút những giáo viên mầm non có tay nghề cao, có nhiều kinh nghiệm ở khối trường công lập về đầu quân cho trường mình bằng những chính sách đãi ngộ khá cao về lương bổng, về điều kiện làm việc và nhiều chế độ khác khiến cho giáo viên mầm non công lập bấy lâu nay chỉ quen với sự bao bọc của Nhà nước về các khoản lương bổng, chế độ bỗng 38
  • 40. bừng tỉnh và có sự so sánh nhằm lựa chọn cho mình một môi trường làm việc mới tương xứng với công sức bỏ ra hàng ngày. Những đãi ngộ cao của các trường tư thục, trường mầm non quốc tế hoặc những ngành nghề khác về mặt kinh tế, thời gian, môi trường làm việc cũng là một lực hút rất mạnh cho hiện tượng bỏ nghề của Giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi muốn có một giáo viên mầm non phải mất ít nhất 2 năm đào tạo ở hệ trung cấp, 3 năm cho hệ cao đẳng. Còn nếu ở bậc đại học thì tình trạng đầu ra của sinh viên sư phạm mầm non cũng tương đương với các ngành khác của trường đại học nhưng lương lại thấp nên sinh viên không mặn mà lắm với ngành học mầm non khi nhìn vào thực trạng hiện nay của bậc học này. Do tâm lý cùng một thời gian đào tạo trong trường đại học, nếu học và tốt nghiệp sư phạm mầm non mà sau này lại không theo nghề thì phải mất tiền bạc và thời gian học lại ngành nghề khác nên trong vài năm trở lại đây số sinh viên thi vào khoa mầm non của các trường đại học rất ít. Từ đó phát sinh một nghịch lý là số lượng sinh viên tốt nghiệp của khoa mầm non bậc đại học đã ít nhưng lại không về trường mầm non nhận nhiệm sở mà thường chạy vào các vị trí công tác thuộc cấp Sở, Phòng Giáo dục và đào tạo hoặc các cơ quan, ngành nghề khác. ra và nhất là được sự nhìn nhận về mặt xã hội khi làm công việc khác ngoài nghề giáo viên mầm non. Đây là thực trạng đáng buồn cho ngành giáo dục nói chung và cho bậc học mầm non nói riêng và cần lắm những tháo gỡ kịp thời, những điều chỉnh mang tính quy mô, đồng bộ để hạn chế ở mức thấp nhất tình trạng giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh bỏ việc trong giai đoạn hiện nay. Hai là, áp lực về công việc và thời gian Giáo viên mầm non trường công lập không thể gánh nổi áp lực công việc ngày càng nặng nhọc - vừa làm giáo viên đồng thời vừa phải làm bảo 39
  • 41. mẫu cách nhật theo đổi mới của ngành. Áp lực sĩ số luôn quá tải trong một lớp mà lương bổng không đủ để phục hồi lại sức khỏe bị hao hụt sau một ngày làm việc nên số giáo viên công lập nghỉ việc để qua trường tư thục làm việc vì ít bị áp lực về sĩ số trong lớp. Một trường mầm non công lập được xây mới có thể xóa từ 3 đến 5 nhóm lớp tư thục và đồng nghĩa với việc chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ cũng được nâng lên rất nhiều so với các trường, lớp, nhóm trẻ ngoài công lập. Nhưng trường công không được xây thêm hoặc xây mới cho phù hợp với công tác chăm sóc nuôi dưỡng các cháu mầm non trong khi nhóm lớp tư thục ngày càng dôi ra, và số trường công lập hiện có cũng không đáp ứng đủ nhu cầu đến lớp của học sinh. Đây cũng là thực trạng khiến cho giáo viên mầm non bị tăng áp lực khi chăm sóc, nuôi dạy trẻ và là một trong những nguyên nhân chính khiến cho đối tượng này bỏ việc dù trong số đó vẫn có những giáo viên rất yêu nghề, mến trẻ. Đối với giáo viên mầm non, đã có rất nhiều văn bản quy định cụ thể về thời gian làm việc, số tiết dạy trên lớp, các chế độ liên quan đến quyền lợi của đội ngũ này nhưng trên thực tế giáo viên mầm non thường phải làm việc quá giờ, không được trả lương tương xứng với công sức và thời gian làm việc. Thực trạng này tồn tại công khai, phổ biến đến mức có thể cho là việc bình thường, đó chính là hiện tượng “quá tải sức lao động” của giáo viên mầm non. Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của đất nước ta đã khiến cho xu thế mở rộng hoạt động của các thành phần kinh tế khác bén rễ, đồng thời tạo nhiều cơ hội thay đổi việc làm của người dân, nhất là xu hướng quốc tế hóa trong giáo dục mầm non và trước tình hình mức cung không đủ nhu cầu cần thiết của bậc học mầm non nên hiện tượng giáo viên mầm non bỏ việc trong trường công lập để chuyển sang làm việc tại các trường tư thục hoặc các trường mầm non quốc tế có thu nhập cao hơn và đỡ áp lực công việc 40
  • 42. hơn. Nhưng ngay ở các trường mầm non tư thục có thu nhập cao hơn ở các trường công lập, tình trạng giáo viên bỏ việc cũng rất phổ biến. Vì với cùng đồng lương theo quy định của nhà nước, thời gian lao động của các ngành nghề khác là 8 tiếng/ngày; còn giáo viên mầm non có lúc phải làm trên 12 tiếng/ngày, tối về nhà phải chuẩn bị học cụ cho buổi dạy hôm sau. Công việc chuyên môn đòi hỏi quá nhiều công sức và chiếm hầu hết thời gian trong ngày, không còn sức lực và thời gian cho các nhu cầu khác của bản thân như chăm sóc gia đình, nghỉ ngơi, giải trí … nên tình trạng giáo viên mầm non bỏ việc là hệ quả tất yếu bởi những nghịch lý đã tồn tại từ nhiều năm qua cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Có những hiện tượng khá phổ biến xảy ra là một số giáo viên mầm non có tuổi đời còn khá trẻ, chưa có gia đình đang làm việc trong ngành nhưng do đến với nghề không có yếu tố tâm huyết với trẻ mầm non, cộng với áp lực trong công việc nhất là phải vệ sinh cho lứa tuổi này luôn quá tải nên những giáo viên này chán nản bỏ việc cũng là điều dễ hiểu. Một số giáo viên mầm non khá lớn tuổi dù đã qua đào tạo cơ bản nhưng sự phấn đấu vươn lên của họ không cao, không theo kịp với sự phát triển của đổi mới ở bậc học mầm non, không đáp ứng yêu cầu công tác chuyên môn nhất là việc áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy của ngành mầm non nên sau một thời gian theo nghề, số giáo viên mầm non đó đã chán nản bỏ việc. Nói một cách khác, những giáo viên mầm non này tuy có kinh nghiệm, được đào tạo, yêu nghề nhưng cũng không trụ lại được với nghề vì không vượt qua được những yêu cầu ngày càng cao của công việc. Thành phố Hồ Chí Minh là nơi thực hiện chế độ làm việc “giáo viên kiêm bảo mẫu cách nhật” trong các trường mầm non công lập, một số giáo viên mầm non có trình độ trên chuẩn rất nhiều nên cảm thấy công việc và trình độ có sự chênh nhau, dẫn đến suy nghĩ tìm việc khác cho phù hợp với 41
  • 43. trình độ nên sẵn sàng bỏ nghề khi có điều kiện. Trong khi ở các trường tư thục giáo viên chỉ phụ trách công việc giảng dạy, mọi công việc liên quan tới chăm sóc, ăn, ngủ và vệ sinh cho trẻ đều do bảo mẫu đảm trách. Áp lực công việc đối với giáo viên trong các trường mầm non công lập quá lớn. Ngoài lao động quá vất vả trong công tác công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ, hàng ngày còn phải ghi chép sổ sách chuyên môn và kiêm nhiệm khá nhiều việc công (công đoàn, chi đoàn, thanh tra, thủ quỹ…) khiến cho giáo viên mầm non công lập phải bỏ việc tìm kế sinh nhai khác và dồn gánh nặng còn lại lên vai những người đang ở lại với nghề. Ba là, cơ chế quản lý lạc hậu, không phù hợp, chậm đổi mới Nguyên nhân bỏ việc của giáo viên mầm non còn bắt nguồn từ áp lực của cơ chế quản lý tại trường công lập nơi họ đang công tác. Trong một đợt khảo sát mới nhất về môi trường giáo dục ở trường mầm non do Khoa Mầm non thuộc trường Đại học Sài Gòn thực hiện thì có đến 87% giáo viên mầm non trả lời áp lực nặng nề nhất là từ cấp quản lý trực tiếp như: thanh tra thiếu thiện chí; cư xử thiếu công bằng, tùy tiện; giao nhiều công việc thiếu khoa học, thiếu tổ chức. Ngoài ra phải kể đến những khó khăn của ban giám hiệu trong việc trực tiếp quản lý những trường mầm non có nhiều điểm lẻ. Theo chức trách và nhiệm vụ ban giám hiệu phải thường xuyên di chuyển để điều hành, kiểm tra công việc ở các điểm lẻ, mất rất nhiều công sức, thời gian, tâm trí nên số cán bộ quản lý này cũng không vượt qua được áp lực, chán nản và bỏ việc. Như vậy, có thể thấy cơ chế quản lý các trường có nhiều điểm lẻ chưa thật linh hoạt, vẫn cứng nhắc, chưa mạnh dạn giao quyền tự chủ cho cấp dưới. Cơ chế quản lý trực tiếp của ban giám hiệu ở ngành học mầm non trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay vẫn chưa đổi mới nhiều, dù Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, giáo dục, văn hóa-xã 42
  • 44. hội lớn nhất nước. Có những ban giám hiệu trường mầm non vẫn quản lý giáo viên không theo quy chế dân chủ và đổi mới mà ngược lại vẫn duy trì cách quản lý theo cơ chế quan liêu như thời bao cấp, sử dụng các phương pháp quản lý theo hướng tập trung độc quyền, áp đặt mệnh lệnh từ trên xuống dưới, không tạo môi trường thân thiện trong nội bộ nhà trường để giáo viên phát huy thế mạnh về chuyên môn và các năng lực tiềm tàng để nâng cao chất lượng trong chăm sóc nuôi dạy trẻ, từ đó làm ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần làm việc của giáo viên nhất là ở những giáo viên có nhiều năng lực trong nghề. Ở các trường mầm non công lập mà cán bộ quản lý hạn chế về tài, tâm và tầm thì hiện tượng chảy máu chất xám là điều tất yếu phải xảy ra, nhất là ở các giáo viên trẻ vốn có nhiều năng lực vượt trội. Họ âm thầm tự trang bị cho bản thân bằng các loại văn bằng ở những lĩnh vực khác để sẵn sàng bỏ việc khi tiếp cận được với thời cơ mới, nhất là giai đoạn hội nhập quốc tế và có chủ trương xã hội hóa ở một số lĩnh vực lao động khác như tài chính kế toán, ngân hàng, du lịch… Cơ chế quản lý thu chi tài chính vẫn thực hiện theo những quy định cũ, chưa giao quyền tự chủ cho bên dưới trong khi đó giá cả sinh hoạt tăng hàng ngày. Chính vì vậy, nếu thực hiện theo đúng cơ chế tài chính thì nhà trường rất khó khăn trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ và trong việc mua sắm trang thiết bị cơ sở vật chất, dụng cụ giáo dục và đồ chơi cho các cháu. Điển hình nhất là mức thu bán trú trong quy định của ngành mầm non để chi cho các hoạt động và hỗ trợ thêm lương cho giáo viên dưới hình thức công phục vụ bán trú. Quy định mức thu này tiến hành từ năm 1988 đến nay đã quá lạc hậu (học phí nhà trẻ: 50.000đ/cháu/tháng - học phí mẫu giáo: 40.000đ/cháu/tháng - vệ sinh phí: 5.000đ/cháu/tháng) trong khi lương cơ bản đã tăng từ 730.000 đồng (năm 2010) lên 830.000 đồng (năm 2011) và hiện tại là 1.050.000 đồng (năm 2012). Mức hỗ trợ dưới hình thức công phục vụ bán trú phục thuộc vào 43
  • 45. mức thu thấp như vậy cũng là một nguyên nhân khiến cho ngành mầm non rất khó giữ chân giáo viên ở lại với nghề. Năm 2011 ngành Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh đã kiến nghị Hội đồng Nhân dân và Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét để nâng mức thu bán trú tại các trường lên tối thiểu là 150.000đồng/tháng, tối đa 200.000đồng/tháng; nâng vệ sinh phí lên từ 15.000 - 20.000 đồng/tháng để giảm bớt những khó khăn trước mắt cho ngành mầm non, nhất là hiện tượng giáo viên mầm non nghỉ việc vì lương không đủ sống nhưng kiến nghị này cho đến nay vẫn là điều chưa thể thực hiện được. Bốn là, cơ sở vật chất các trường mầm non công lập chưa đáp ứng được nhu cầu nuôi dạy trẻ Chỉ trừ một số trường mầm non được sửa chữa, xây mới theo quy mô chuẩn Quốc gia, số cơ sở vật chất còn lại của các trường mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh đa phần là những lớp học được tận dụng từ các ngôi nhà n rất nhiều, ảnh hưởng đến độ bền về sức khỏe của giáo viên mầm non nên dù có tâm huyết với nghề, những giáo viên này cũng không thể trụ được lâu dài trong ngành mầm non. Thiếu sự đầu tư cho ngành học này từ nhiều chục năm qua của các cấp lãnh đạo khiến cho ngành học này rơi vào tình trạng thoi thóp vì ngành giáo dục mải mê hết lo phổ cập giáo dục cho bậc tiểu học (bắt đầu từ năm 1991) đến phổ cập giáo dục trung học cơ sở (từ năm 2004) mà quên bậc học mầm non. Cho đến năm 2010 Bộ Giáo dục và Đào tạo mới quyết định phổ cập giáo dục cho trẻ 5 tuổi thì lại vướng tình trạng thiếu trường lớp và thiếu giáo viên mầm non trầm trọng. Theo nhận định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận “Một phần do nhận thức, một phần do điều kiện tài chính nên có giai đoạn đã không coi trọng giáo dục mầm non bằng các cấp học phổ thông” [55 26/12/2012]. Trong khi nếu đem so sánh với môi trường làm việc ở 44
  • 46. các trường tư thục hoặc trường mầm non quốc tế thì với cơ sở vật chất tốt, tiện nghi tối đa; cường độ lao động của giáo viên vẫn nằm trong ngưỡng an toàn, không quá tải về sức khỏe nên lựa chọn tiên quyết của giáo viên mầm non công lập là dứt khoát bỏ trường công lập để về các trường tư thục công tác. Bất cập kéo dài đó luôn là nỗi lo của lãnh đạo ngành giáo dục bậc học này. Năm là, tác động của môi trường và nhu cầu xã hội của cá nhân giáo viên mầm non công lập trong nền kinh tế thị trường Theo thang bậc nhu cầu của Abramh Maslow (xem phụ lục), nhu cầu của con người luôn có sự thay đổi từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều tùy theo mỗi giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của mỗi người. Sau khi thỏa mãn được những nhu cầu tối thiểu của cá nhân ở thang bậc thấp, nhóm người có nhu cầu cao nhất là những người thật sự có trình độ và năng lực vượt bậc, luôn có nhu cầu vươn lên, đòi hỏi được tôn trọng và được đặt đúng vị trí về năng lực lẫn uy tín trong môi trường làm việc. Nhưng cũng đồng thời trong môi trường làm việc đó, với những người có trình độ và năng lực chỉ ở mức cơ bản tối thiểu thì việc dùng thước đo kinh tế của bản thân mà chủ yếu là vấn đề lương tiền để duy trì cuộc sống của họ chính là nhóm người ít có tâm huyết với nghề nghiệp đang theo đuổi. Nếu mang những nhận định trên vào Thang bậc nhu cầu cùa Abram Maslow và đặt vào hiện tượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh thì những hiện tượng bỏ việc đã nêu trên và thuyết Thang bậc nhu cầu của Abram Maslow có sự liên hệ với nhau khá chặt chẽ. Những giáo viên mầm non công lập có năng lực thực sự vượt trội so với nhu cầu phát triển của môi trường làm việc khá đơn điệu này sẽ tìm cách từ bỏ vị trí công tác hiện tại trong trường mầm non công lập để tìm đến những cơ quan có nhiều thử thách trình độ và khả năng của đối tượng này để tìm cơ hội thăng tiến cho bản thân. Ngoài ra những giáo viên thuộc nhóm ít năng lực, 45
  • 47. hoặc không thể tìm công việc nào khác so với công việc hiện tại thì cũng bỏ việc vì mức lương của giáo viên mầm non không đủ trang trải cho cuộc sống của họ trong bối cảnh kinh tế xã hội của cả nước nói chung và của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng trong thời hội nhập đang tăng lên khá nhanh. Trong tiến trình đổi mới giáo dục, bên cạnh những ý chí vươn lên để nâng cao và hoàn thiện bản thân nhằm tự khẳng định năng lực thực sự của một số giáo viên mầm non thì vẫn còn những giáo viên mầm non trong môi trường công lập không có cơ hội bộc lộ năng lực của mình để phục vụ trong ngành và bị ảnh hưởng từ những đãi ngộ cao của các môi trường làm việc mầm non tư nhân hoặc các ngành nghề khác về mặt kinh tế - xã hội. Đời sống văn hóa trong thời hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hầu như có mặt ở tất cả mọi lĩnh vực đã tác động rất lớn vào đời sống của người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh và những thay đổi của cuộc sống đã tạo thành một lực hút rất mạnh khiến cho hiện tượng bỏ nghề của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một trào lưu mới, một nhu cầu rất thật và rất người trong thời đại ngày nay. Hiện nay dư luận xã hội vẫn có luồng ý kiến chưa xem trọng vai trò, vị trí và sự cần thiết của đội ngũ giáo viên mầm non. Hiện tượng giáo viên mầm non bị xem thường vì cho rằng đây là bậc học thấp, không mang lại hiệu quả kinh tế cao cho toàn xã hội, không giúp cho sự phát triển trí tuệ của trẻ nhiều so với bậc học phổ thông mà gần nhất là cấp tiểu học nên sự đãi ngộ về mặt tinh thần và vật chất của xã hội dành cho đội ngũ giáo viên mầm non không cao. Tư tưởng đó đã khiến cho không ít giáo viên mầm non mặc cảm về công việc của mình trước các đối tượng ở các ngành nghề khác nên có một số giáo viên mầm non (đa số là giáo viên trẻ tuổi, gia đình có điều kiện kinh tế) chấp nhận bỏ nghề, đi học lại ở các trường hoặc các ngành nghề khác có yếu tố kinh tế hoặc có thương hiệu cao trong xã hội. 46
  • 48. Môi trường lao động ở các trường mầm non với đa số là nữ giới có những thuận lợi cơ bản là chị em dễ dàng chia sẻ, tâm sự với nhau những thuận lợi, khó khăn trong công việc cũng như trong cuộc sống và gia đình. Họ giúp nhau vươn lên hoàn thành tốt việc nuôi dạy trẻ. Nhưng trong môi trường đa số là nữ (có trường 100% giáo viên mầm non là nữ) thì với những tính cách đặc trưng của phụ nữ như dễ giận, dễ hờn, khi gặp những khó khăn thường hay chán nản, cáu gắt và phát sinh những suy nghĩ tiêu cực. Những vấn đề đó ảnh hưởng nhất định đến bầu không khí tâm lý giao tiếp trong nhà trường mầm non. Hiện tượng bỏ việc dễ lây lan trong những môi trường như vậy. Mặt khác trong lúc công tác ở môi trường mầm non, giáo viên phải làm việc 12 tiếng một ngày, khi về đến gia đình lại còn phải lo chuẩn bị học cụ cho ngày làm việc tiếp theo. Vì vậy, những người đã có gia đình cũng ít dành được thời gian, tâm trí cho người thân, cho công việc gia đình. Những giáo viên trẻ chưa có gia đình lại càng không có điều kiện, thời gian để giao lưu với bạn bè trang lứa. Họ khó có cơ hội để làm quen với người khác giới. Việc lập gia đình trở nên khó khăn đối với họ. Nhiều giáo viên mầm non hàng ngày chỉ tiếp xúc với trẻ nên khi được mai mối vì ít có cơ hội nên nhanh chóng chấp nhận mối quan hệ này, nhưng sau một thời gian chung sống nhiều vấn đề phát sinh như người yêu (chồng) không thể chấp nhận người yêu (vợ) từ sáng sớm đến tối ở trường mầm non với đồng lương ít ỏi, không có khoản thu nhập nào khác nên đã nhanh chóng chia tay. Những vấn đề trên đã tác động sâu sắc đến những giáo viên trẻ của các trường mầm non, sinh viên các trường đại học và cao đẳng mầm non và cả những người có ý định xin vào công tác trong ngành mầm non. Từ đó dẫn họ đến chỗ bỏ việc và từ chối nhận nhiệm sở tại trường mầm non để tìm cho mình một gia đình, một hạnh phúc riêng. Nếu không cải thiện môi trường làm việc thì khó có thể giữ chân giáo viên mầm non kể cả những người yêu trẻ, tâm huyết với nghề. 47
  • 49. * * * Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân có nhiệm vụ quan trọng là đặt nền móng cho sự hình thành những phẩm chất, nhân cách đầu tiên của con người. Trong những năm qua các trường mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục - nhiệm vụ chính trị phục vụ cho sự nghiệp giáo dục đào tạo con người góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giáo viên các trường mầm non công lập là những viên chức Nhà nước, được tuyển dụng vào công tác trong ngành mầm non, thực hiện nhiệm vụ nuôi dạy trẻ. Nhận thức được vị trí quan trọng của nhiệm vụ trồng người, các thế hệ giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh đã không ngừng phấn đấu vươn lên, yêu nghề, yêu người, tận tâm, tận lực với công việc nuôi dạy trẻ. Xã hội ghi nhận những công lao của giáo viên mầm non công lập. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động mạnh đến đội ngũ giáo viên mầm non công lập. Những đãi ngộ cao về lương bổng, về chế độ chính sách đã lôi kéo giáo viên mầm non công lập về các trường mầm non tư thục, các trường mầm non mang yếu tố nước ngoài và về các ngành nghề kinh tế khác. Trong khi đó, người giáo viên mầm non công lập phải chịu áp lực lớn về công việc, các chế độ chính sách đãi ngộ lại chưa thỏa đáng nên nhiều giáo viên mầm non công lập đã bỏ việc để tìm cho mình một việc làm có đãi ngộ tương xứng với công sức của họ bỏ ra. Thực trạng đáng buồn đó của ngành mầm non hiện nay đặt ra vấn đề cấp thiết là tìm ra những biện pháp khả thi để ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. 48
  • 50. 49
  • 51. Chương 2 NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, DỰ BÁO TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC, CÁC BIỆN PHÁP CƠ BẢN NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 2.1 Những yếu tố tác động và dự báo tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh 2.1.1 Yếu tố tác động đối với giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh Một là, tình hình phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm chính trị, kinh tế, giáo dục và văn hóa - xã hội lớn của đất nước. Chỉ số phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh nhiều năm đứng đầu cả nước. Sự phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo nguồn lực cho phát triển giáo dục đào tạo nói chung và phát triển trường mầm non nói riêng. Nguồn lực đầu tư cho giáo dục mầm non đã tăng lên từ 10 đến 15% tổng chi thường xuyên cho giáo dục đào tạo và tăng hàng năm. Thành phố đã có nhiều chính sách ưu đãi đối với giáo viên mầm non công lập nhằm cải thiện đời sống, thu hút và giữ chân lực lượng này tại các trường mầm non công lập để đáp ứng nhu cầu gửi trẻ ngày càng tăng của người dân Thành phố. Nhiều năm qua Thành phố đã đầu tư xây dựng các trường mầm non, tăng kinh phí cho mua sắm trang thiết bị, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và đồ chơi dạy học cho các trường mầm non. Sự thay đổi về chính sách, sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền các cấp từ Thành phố đến cơ sở đã tạo động lực thu hút nhân tài, những người yêu trẻ, có tâm huyết với nghề nuôi dạy trẻ cho các trường mầm non công lập, góp phần giảm dần số lượng giáo viên bỏ việc, nhảy việc. 50
  • 52. Sự phát triển về kinh tế xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh đã nâng cao mức sống của người dân Thành phố. Các gia đình có điều kiện quan tâm nhiều hơn đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Do đó, ngành mầm non có điều kiện thuận lợi cho việc huy động kinh phí đóng góp của phụ huynh, của cộng đồng và xã hội cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Xã hội hóa giáo dục mầm non đã trở thành một phong trào ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều người dân hiến đất, đóng góp tài sản để xây dựng các trường mầm non công lập. Cùng với sự quan tâm, đầu tư của Thành phố và nhờ một phần vào hiệu quả của xã hội hóa giáo dục mầm non, bộ mặt của các trường mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều thay đổi. Trường lớp khang trang hơn, tiện nghi cơ sở vật chất chăm sóc nuôi dưỡng trẻ được cải thiện và không ngừng đổi mới. Chính vì vậy đã phần nào giảm tải trọng và bớt áp lực trong công tác của giáo viên mầm non công lập. Đây cũng là thuận lợi cho việc giữ chân giáo viên mầm non công lập ở lại trường. Hai là, sự tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường Bên cạnh những mặt tích cực thì mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động mạnh đến người giáo viên trường mầm non công lập. Giáo dục mầm non tuy là bậc học thấp nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân nhưng giáo dục mầm non cũng không đứng ngoài quy luật chi phối của cơ chế thị trường. Xu hướng thương mại hóa giáo dục đã len lỏi vào giáo dục mầm non. Việc xem trọng đồng tiền và lợi ích vật chất, xem nhẹ giáo dục và các giá trị tinh thần đã dẫn đến sự đối xử phân biệt giữa trẻ trong một lớp, trong một trường, giữa lớp này với lớp khác, trường này với trường khác. Xem trọng giá trị lợi ích vật chất cũng là nguyên nhân thúc đẩy giáo viên mầm non công lập từ bỏ lý tưởng cuộc sống, từ bỏ lòng yêu nghề, yêu người của ngành giáo dục mầm non để nhảy sang những công việc khác có những ưu đãi tốt hơn. Mặt khác, nền kinh tế thị trường đã tạo ra những tiền đề, 51
  • 53. những cơ hội cho giáo viên mầm non công lập có sự lựa chọn những công việc, những vị trí xã hội được trọng vọng hơn so với nghề mầm non. Ba là, sự mở rộng các trường mầm non tư thục và quốc tế Sự tăng nhanh dân số về mặt cơ học tại Thành phố Hồ Chí Minh do tình hình nhập cư của những người dân ở trên các tỉnh thành cả nước đổ về, trong đó đáng kể nhất là đội ngũ những người trẻ đã làm tăng nhanh số lượng trẻ mầm non. Nhu cầu gửi trẻ tại các khu chế xuất, khu công nghiệp tăng đột biến, dù Thành phố đã có đầu tư để phát triển trường mầm non, nhưng trong 5 đến 10 năm tới việc xây dựng, mở rộng trường mầm non công lập để đáp ứng nhu cầu gửi trẻ ngày càng tăng cũng chưa thể đáp ứng được. Do vậy, nhiều trường mầm non tư thục, trường mầm non có yếu tố nước ngoài đã mở ra với ưu đãi cao để lôi kéo giáo viên mầm non công lập. Mặt khác, cơ sở vật chất của các trường mầm non công lập còn yếu và thiếu, chưa đáp ứng cho chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ nên lao động của giáo viên mầm non công lập luôn quá tải. Trong khi đó, cơ sở vật chất của các trường tư thục lại khá tốt đã tạo điều kiện so sánh trong đội ngũ giáo viên mầm non công lập, thúc đẩy họ đi đến lựa chọn làm việc ở trường mầm non tư thục để đỡ bị áp lực công việc và duy trì cuộc sống tốt hơn. Bốn là, cơ chế quản lý các trường mầm non công lập hiện nay còn nhiều hạn chế Nhiều năm qua Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều đổi mới trong cơ chế quản lý giáo dục và đào tạo trong đó có giáo dục mầm non. Tuy nhiên sự đổi mới đó vẫn chưa theo kịp với sự đổi mới của xã hội, của Thành phố và mong muốn của cán bộ quản lý, giáo viên mầm non và phụ huynh của trẻ. Cơ chế quản lý hiện nay của trường mầm non vẫn nặng về hành chính quan liêu nên một số mặt của giáo dục mầm non đạt chất lượng thấp nhưng chưa kịp thời khắc phục. Sự phân cấp quản lý còn có những bất cập, một mặt có hiện 52
  • 54. tượng khoán trắng việc quản lý bậc học này cho cấp quận, huyện, xã mà trực tiếp là cho phòng giáo dục và đào tạo. Mặt khác lại ôm đồm không mạnh dạn giao quyền tự chủ cho cấp dưới. Cơ chế quản lý nhiều tầng, nhiều lớp nhưng lại không sâu, không sát dẫn đến tình trạng không nắm được cụ thể thực trạng đội ngũ giáo viên, thực trạng quá trình giáo dục đào tạo ở nhà trường. Tình trạng số lượng giáo viên mầm non thiếu, chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ, điều kiện vật chất phục vụ nuôi dạy trẻ thiếu đã kéo dài nhiều năm nhưng không cấp nào, không ai chịu trách nhiệm nên đến nay vẫn chưa được khắc phục. Đội ngũ quản lý giáo dục mầm non hiện nay tuy đều đạt chuẩn theo quy định nhưng trên thực tế trình độ quản lý, khả năng quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý chưa đáp ứng được với nhu cầu. Cách quản lý của một số cán bộ quản lý vẫn là hành chính, mệnh lệnh, thiếu tính chủ động, sáng tạo thường rập khuôn theo cơ chế và quy định. Do vậy không phát huy được tiềm năng, sự sáng tạo và lòng nhiệt huyết của đội ngũ giáo viên mầm non, chưa có sức hút, chưa làm tốt vai trò trung tâm đoàn kết để cùng đội ngũ giáo viên vượt khó khăn, vươn lên góp phần cùng ngành giáo dục mầm non ngăn ngừa và khắc phục tình trạng giáo viên bỏ việc. Những yếu tố tác động trên đã thách thức giáo viên mầm non công lập và tạo sự lựa chọn quyết liệt trong đội ngũ này bởi hai ranh giới giữa yêu nghề, sẵn sàng vượt khó bám trụ với nghề hoặc bỏ việc trong môi trường giáo dục công lập để tìm một cơ hội làm việc khác, một công việc phù hợp với yếu tố đảm bảo kinh tế tối thiểu cho chính bản thân mỗi giáo viên mầm non công lập. 2.1.2. Dự báo tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập đến năm 2022 Trong khoảng 10 năm tới từ năm 2013 đến năm 2022 nhu cầu gửi trẻ của người dân Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tăng cao. Nhiều khu chế xuất, khu công 53
  • 55. nghiệp hình thành tạo nên một làn sóng nhập cư của công nhân từ các tỉnh thành trong cả nước. Số trẻ mầm non ở độ tuổi đến trường tăng cao trong thời kỳ này là áp lực lớn đối với các trường mầm non công lập trong Thành phố. Xây dựng mới, phát triển hệ thống trường mầm non, phát triển đội ngũ giáo viên trong khi tại thời điểm hiện nay còn 13 phường trong các quận ở Thành phố chưa có trường mầm non công lập, giáo viên mầm non bỏ việc vẫn đang là hiện tượng phổ biến đồng thời sẽ là một thách thức lớn đối với các cấp quản lý giáo dục và lãnh đạo Thành phố. Dự báo tình hình giáo viên mầm non Dự báo trong 10 năm tới, Thành phố Hồ Chí Minh cần khoảng từ 1335 đến 1500 trường mầm non công lập, tăng gấp 2 lần so với số trường hiện có với các tiêu chí sau: - Số lớp/trường: dao động từ 6 - 35 lớp/trường - Số giáo viên/trường: dao động từ 12 – 45 giáo viên/trường - Số học sinh/ giáo viên: Nhà trẻ: bình quân dao động từ 8 - 12 cháu/giáo viên Mẫu giáo: bình quân dao động từ 18 - 22 cháu/giáo viên - Trình độ giáo viên mầm non công lập: 100% đạt chuẩn trung cấp sư phạm - Trên chuẩn: khoảng 50% ở mức độ cao đẳng và đại học. - 100% giáo viên có bằng A vi tính, có kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, sử dụng giáo án điện tử, thiết kế đồ dùng, đồ chơi trong giáo dục trẻ bằng các nguyên vật liệu thải bỏ. Dự báo nhu cầu cần tuyển dụng giáo viên mầm non trong các năm như sau: - Năm 2015: 44.311 giáo viên (tăng 28.002 Giáo viên) - Năm 2020: 53.380 giáo viên (tăng 9.069 Giáo viên) Dự báo tình trạng bỏ việc 54
  • 56. Số giáo viên mầm non công lập hiện tại so với nhu cầu thiếu rất nhiều nhưng tình trạng bỏ việc trong thời gian tới vẫn không giảm và có khả năng trầm trọng thêm. Dự báo mỗi năm số lượng giáo viên mầm non công lập bỏ việc sẽ tăng thêm so với tình trạng bỏ việc hiện tại. Chính vì vậy cần có những giải pháp quyết liệt, đồng bộ và hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập trong thời gian tới. 2.2 Các biện pháp cơ bản ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh 2.2.1 Phát huy sức mạnh tổng hợp của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp và của cộng đồng trong ngăn chặn tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập Phát huy sức mạnh tổng hợp của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp và của cộng đồng là biện pháp quan trọng. Việc ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập chỉ được thực hiện có hiệu quả khi các tổ chức, các lực lượng có sự phối hợp chặt chẽ để tạo nên một sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống. Vì vậy, cần phải có sự thông suốt cho mọi hoạt động của các bộ phận, các lực lượng của toàn hệ thống chính trị và của cộng đồng cùng hướng về mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non công lập có số lượng cơ cấu hợp lý và chất lượng tốt. Thực tiễn đã chứng minh bất cứ ở đâu, khi nào mà cả hệ thống chính trị và cộng đồng cùng vào cuộc, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thì ở đó chất lượng, hiệu quả công việc sẽ tốt hơn, ngược lại, kết quả sẽ thấp, thậm chí không đạt được mục đích đề ra. Trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp của Thành phố Hồ Chí Minh đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và quan tâm đầu tư cho giáo dục mầm non, cho phát triển đội ngũ giáo viên mầm 55
  • 57. non công lập. Tuy nhiên trên thực tế có lúc, có nơi chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cấp ủy, chính quyền các cấp. Các tổ chức chính trị - xã hội còn đứng ngoài cuộc. Cộng đồng xã hội cũng chưa thật quyết liệt cùng chính quyền và các cơ quan chức năng trong việc ngăn chặn tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. Để thực hiện tốt biện pháp này cần phải làm tốt một số nội dung sau: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp và cộng đồng đối với việc phát triển đội ngũ giáo viên để ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin, nhận thức có vai trò to lớn trong hoạt động thực tiễn. Nhận thức hướng dẫn hành động, nhận thức đúng thì hành động đúng, ngược lại nhận thức không đúng, không đầy đủ thì sẽ vấp phải những sai lầm khuyết điểm thậm chí thất bại. Việc phát triển đội ngũ giáo viên, ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của họ chỉ có thể đạt được hiệu quả khi có sự thống nhất về nhận thức và phát huy vai trò trách nhiệm của các cấp trong toàn hệ thống chính trị. Cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp và cộng đồng cần thống nhất nhận thức đúng đắn những vấn đề như: vai trò, vị trí quan trọng của bậc học mầm non và đội ngũ giáo viên mầm non; vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị đối với việc ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. Việc ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập không phải là trách nhiệm của riêng ngành mầm non hay của bất kỳ một tổ chức, một cấp nào mà là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và của cả cộng đồng. Chính vì vậy, cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị và cộng đồng phải cùng vào cuộc một cách quyết liệt và kiên trì với những biện pháp đồng bộ, khả thi. 56
  • 58. Trên cơ sở của nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của đội ngũ giáo viên mầm non, cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội không ngừng phát huy trách nhiệm của mình trong thực thi nhiệm vụ ngăn ngừa, khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. Đối với cấp ủy, chính quyền các cấp Trên cơ sở các chính sách, chủ trương, quy định của Trung ương và của Thành phố về phát triển giáo dục mầm non, cấp ủy các cấp ra nghị quyết chuyên đề về phát triển giáo dục mầm non, phát triển đội ngũ giáo viên mầm non, ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non. Nghị quyết chuyên đề phải chỉ ra những thành tựu, ưu điểm đã đạt được, những thiếu sót, khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân khách quan, chủ quan của thực trạng giáo viên mầm non công lập bỏ việc. Rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non công lập và cải tiến chế độ chính sách để giữ chân giáo viên mầm non công lập. Trên cơ sở đó tăng cường chỉ đạo và tổ chức triển khai các chủ trương chính sách trong công tác quản lý giáo dục mầm non và quản lý giáo viên mầm non. Căn cứ vào nghị quyết của cấp ủy, chính quyền các cấp cụ thể hóa thành kế hoạch phát triển trường mầm non và phát triển đội ngũ giáo viên mầm non. Kế hoạch xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non công lập phải có tính khả thi theo một lộ trình hàng năm, được xây dựng trên cơ sở khoa học, có tính đến những yếu tố tình hình kinh tế, xã hội, đặc điểm của địa phương, nhu cầu gửi trẻ, nguyện vọng của đội ngũ giáo viên. Kế hoạch cần phải công khai, dân chủ, minh bạch và có sự đóng góp ý kiến của giáo viên mầm non công lập. Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn đổi mới cơ chế quản lý giáo dục mầm non và quản lý giáo viên mầm non, tạo điều kiện cho các trường mầm non và giáo viên mầm non phát huy khả năng, yên tâm với nghề. 57
  • 59. Có những chủ trương, biện pháp cụ thể trong việc xác định và ưu tiên kinh phí xây dựng trường, kinh phí đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động của trường. Không ngừng quan tâm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho giáo viên mầm non công lập. Đối với các cơ quan chức năng Các cơ quan chức năng của chính quyền, đặc biệt là cơ quan quản lý giáo dục như Sở Giáo dục Đào tạo của Thành phố, phòng giáo dục đào tạo của các quận, huyện phải không ngừng nâng cao năng lực tham mưu cho cấp ủy và chính quyền các cấp. Trên cơ sở của tình hình thực tiễn, nhất là nhu cầu gửi trẻ của người dân, khả năng đáp ứng của các trường mầm non và năng lực của đội ngũ giáo viên mầm non công lập, xây dựng phương án, kế hoạch phát triển trường mầm non, phát triển đội ngũ giáo viên mầm non. Nghiên cứu, xây dựng phương án dự trữ lực lượng giáo viên mầm non đủ để bổ sung cho các trường mầm non khi biên chế các trường có biến động do giáo viên mầm non bỏ việc. Nghiên cứu đề xuất với cấp ủy và chính quyền các cấp về quy hoạch đội ngũ giáo viên mầm non đảm bảo có cơ cấu ổn định, có chất lượng cao góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non. Đề xuất với cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc đổi mới chế độ chính sách đãi ngộ cho giáo viên mầm non và cơ chế quản lý đội ngũ giáo viên mầm non. Đối với các tổ chức chính trị - xã hội và cộng đồng Các tổ chức chính trị xã hội như Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ… cũng phải vào cuộc để tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giáo dục cho trẻ ở lứa tuổi mầm non, tôn vinh nghề nghiệp của giáo viên mầm non. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục mầm non 58
  • 60. Xã hội hóa giáo dục mầm non chính là đảm bảo cho việc huy động một cách tối đa các nguồn lực cho sự phát triển các trường mầm non, cho việc xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non. Việc phát triển các trường mầm non và xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non không chỉ là nhiệm vụ của cấp ủy chính quyền các cấp trong Thành phố mà là sự nghiệp của các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức kinh tế và của cả cộng đồng. Xã hội hóa giáo dục mầm non không chỉ dừng lại ở những hoạt động tuyên truyền để cộng đồng xã hội nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của giáo dục mầm non, vai trò của người giáo viên mầm non trong giáo dục, nuôi dưỡng trẻ mà còn là quá trình vận động để người dân hiến đất, đóng góp tài sản, công sức cho sự nghiệp phát triển giáo dục mầm non và xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non. Như vậy, xã hội hóa giáo dục mầm non chính là quá trình huy động các nguồn lực từ Nhà nước và từ nhân dân để mở rộng hợp lý quy mô các trường mầm non, nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ, phát huy hiệu quả tổng hợp của sự đầu tư cho giáo dục mầm non. Cùng với sự đầu tư của Nhà nước, xã hội hóa giáo dục mầm non giúp các trường mầm non cải thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị nuôi dạy trẻ. Nhờ đó làm giảm áp lực công việc cho giáo viên mầm non, đồng thời cải thiện được một phần đời sống vật chất, tinh thần của họ, người giáo viên mầm non sẽ gắn bó hơn với nghề, với trường, giảm thiểu tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. 2.2.2. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho giáo viên mầm non công lập Chính sách đãi ngộ cho giáo viên mầm non công lập – những viên chức Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp giáo dục. Chính sách vừa là công cụ, vừa là đòn bẩy để các cấp lãnh đạo tác động 59
  • 61. đến con người, điều khiển ý chí và hành vi của họ theo mục tiêu xác định. Trong phát triển đội ngũ giáo viên mầm non, nếu chính sách đãi ngộ hợp lý, đúng đắn sẽ khuyến khích được tính tích cực, nâng cao tinh thần trách nhiệm, thu hút được nhân tài trong ngành mầm non, khuyến khích động viên giáo viên mầm non yên tâm gắn bó với nghề nuôi dạy trẻ. Ngược lại, nếu chính sách đãi ngộ sai, bất hợp lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của giáo viên mầm non, tạo ra tâm trạng chán nản, nảy sinh những tiêu cực, đẩy người giáo viên mầm non công lập ra làm việc ở các trường mầm non ngoài công lập hoặc các ngành nghề kinh tế khác, làm hao phí tiền của, tài năng của ngành giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng. Để ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập, phải đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính sách đãi ngộ, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho họ. Chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ giáo viên mầm non phải có tính toàn diện, đồng bộ và khả thi. Tính toàn diện và đồng bộ của chính sách đãi ngộ thể hiện ở chỗ phải bao gồm cả những chính sách về vật chất như tiền lương, nhà ở... và chính sách về tinh thần như giáo dục đào tạo bồi dưỡng sử dụng... Tính khả thi thể hiện ở chỗ những chính sách đãi ngộ cho giáo viên mầm non công lập phải phù hợp với khả năng cho phép của nền kinh tế đất nước, điều kiện hoạt động đặc thù của ngành giáo dục mầm non. Để thực hiện giải pháp này, cần làm tốt những vấn đề cơ bản sau: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chế độ chính sách đối với giáo viên mầm non công lập. Đặc thù riêng của ngành giáo dục mầm non không như các bậc học khác trong hệ thống giáo dục quốc dân, lao động của giáo viên mầm non là một dạng lao động vừa trí óc vừa chân tay, giáo viên mầm non vừa là cô giáo, vừa là bảo mẫu cách nhật trong công việc hàng ngày. Vì vậy cần nghiên cứu 60
  • 62. rà soát lại các định chế về định mức lao động, chế độ tiền lương căn bản tối thiểu cho giáo viên mầm non công lập cho phù hợp. Nâng bậc lương hàng năm cho giáo viên mầm non thay vì 2 năm/lần cho giáo viên hệ trung cấp và 3 năm/ lần cho giáo viên hệ cao đẳng và đại học nhằm đảm bảo cuộc sống cho đội ngũ này ở mức độ tối thiểu. Riêng những giáo viên có trình độ trên chuẩn thì ngoài nâng bậc lương hàng năm nên có thêm tỷ lệ % lương vượt trình độ trên chuẩn để khuyến khích đội ngũ này nâng cao trình độ chuyên môn nhằm phục vụ cho công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Hiện thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 11.000 giáo viên vẫn chưa mua, chưa làm được nhà, đang phải thuê nhà hoặc ở nhờ nhà người thân. Với đồng lương eo hẹp phải trang trải, lo toan cuộc sống nên họ khó có điều kiện để thuê chỗ ở đàng hoàng. Nơi ăn nghỉ thiếu tiện nghi đã ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe, đến tái tạo sức lao động và trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Chính vì vậy Thành phố cần quan tâm đến nhà ở cho giáo viên mầm non công lập, tạo điều kiện cho họ được thuê nhà của Nhà nước, được mua nhà xã hội với mức giá phù hợp. Nhà nước chỉ đạo ngân hàng có chính sách cho giáo viên vay vốn với lãi suất tượng trưng hoặc không lãi suất trong thời hạn nhất định để giáo viên cải thiện kinh tế gia đình. Nên duy trì chế độ an dưỡng cho giáo viên mầm non hàng năm để giúp giáo viên mầm non tái tạo lại sức lao động cụ thể thiết thực nhất. Mỗi quận nên có một nhà trẻ ưu tiên cho việc nuôi dạy con của các giáo viên mầm non công lập hoặc giáo viên các cấp học khác nhằm giúp giáo viên yên tâm trong công tác và tránh được hiện tượng giáo viên bỏ việc vì lý do phải nuôi con nhỏ sau thời gian hộ sản và đồng thời giải tỏa được nghịch lý giáo viên mầm non khi còn son rỗi thì giữ trẻ cho các thành phần khác 61
  • 63. trong xã hội yên tâm công tác nhưng khi giáo viên mầm non có con thì phải nghỉ việc để nuôi con nhỏ của chính mình. Đi đôi với việc cải thiện đời sống vật chất cho giáo viên mầm non công lập phải đồng thời nâng cao đời sống tinh thần cho họ với những cách thức phù hợp như tổ chức tốt các hoạt động văn hóa văn nghệ; động viên giáo viên tham gia các hội diễn văn nghệ quần chúng của các cấp tổ chức; tổ chức cho giáo viên và gia đình của họ tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, các hoạt động du lịch về nguồn, tham quan các danh lam thắng cảnh; tổ chức các hội thi, các trò chơi tạo nên một không khí vui tươi, phấn khởi trong nhà trường. Xây dựng môi trường làm việc thân thiện, có sự quan tâm lẫn nhau giữa các thành phần trong nhà trường, với nhân dân và chính quyền địa phương trên địa bàn. Nâng cao vị thế xã hội của giáo viên mầm non công lập. Đã có một thời gian dài ngành giáo dục “bỏ quên” giáo dục mầm non. Nhà nước chưa quan tâm, chưa đầu tư thích đáng cơ sở vật chất cho các trường mầm non. Giáo viên mầm non nói chung và mầm non công lập nói riêng không những bị thiệt thòi về vật chất mà cả về tinh thần. Do chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của giáo dục mầm non nên cả Nhà nước và xã hội đều chưa có quan tâm, ưu đãi cho giáo viên mầm non. Nhiều giáo viên mầm non yêu nghề, yêu trẻ, tận tụy với công việc nhưng vẫn có những mặc cảm về công việc của mình. Việc chăm sóc vệ sinh cho trẻ là công việc nặng nhọc, thậm chí độc hại, dễ gây cho người giáo viên cảm giác sợ hãi. Nhiều người không trụ lại với nghề cũng có nguyên nhân ngại và sợ khi phải chăm sóc cho những trẻ mà chúng chưa biết tự vệ sinh cho bản thân. Chăm sóc, dạy dỗ trẻ đòi hỏi không chỉ có kiến thức mà phải có lòng khoan dung, độ lượng, tận tụy, thậm chí phải hi sinh cả những lợi ích cá nhân. Thế nhưng nhiều người vẫn đánh giá thấp nghề nuôi dạy trẻ và giáo 62
  • 64. viên nuôi dạy trẻ. Có những người xem giáo viên các trường mầm non chỉ là những “vú em đời mới” dẫn đến có những thái độ ứng xử không đúng mực với giáo viên mầm non. Từ đó dẫn đến vị thế xã hội của người giáo viên mầm non không được đề cao. Chính vì vậy, một trong những biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng giáo viên các trường mầm non công lập bỏ việc là phải đề cao vị thế xã hội của họ, phải làm cho toàn xã hội xem trọng giáo dục mầm non cũng như giáo viên mầm non. Cần phải có những biện pháp tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để làm thay đổi nhận thức của một bộ phận xã hội về vai trò, vị trí của giáo viên mầm non. Giáo viên các trường mầm non phải được đánh giá ngang bằng với giáo viên của các bậc học khác, kể cả bậc đại học. Nhà nước cần có chính sách khen thưởng, tôn vinh những giáo viên mầm non công lập có đóng góp quan trọng cho giáo dục mầm non, thể hiện sự trân trọng của xã hội đối với họ. Quan tâm tới nhu cầu chính đáng của giáo viên mầm non công lập. Nhu cầu là nguồn gốc tính tích cực hoạt động của con người. Trong nền kinh tế thị trường, trong sự phát triển của kinh tế xã hội, sự phát triển chung của hoàn cảnh, điều kiện sống, nhận thức tình cảm, nhu cầu của giáo viên mầm non công lập cũng biến đổi và phát triển theo. Giáo viên mầm non công lập có những đòi hỏi cần được thỏa mãn về vật chất như tiền lương đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu, các phương tiện cần thiết cho cuộc sống, học tập và công tác. Đồng thời với những nhu cầu về vật chất, người giáo viên mầm non công lập còn có những nhu cầu về tinh thần như chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, các hoạt động xã hội... Tuy nhiên do đặc thù của giáo dục mầm non, đặc thù của hoạt động với áp lực lớn về thời gian, công sức nên không thể có điều kiện thỏa mãn đầy đủ các nhu cầu đó. Tuy nhiên, các cấp lãnh đạo, quản lý 63
  • 65. giáo dục mầm non cần có sự chú ý đúng lúc tới các nhu cầu chính đáng đó và thỏa mãn đến mức tối đa trong điều kiện cho phép. Nhu cầu vật chất tinh thần là nhu cầu tất yếu cơ bản của con người nói chung và giáo viên mầm non công lập nói riêng. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho họ chính là quan tâm, giải quyết quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của họ là điều kiện giải quyết tốt các mối quan hệ giúp họ yên tâm với nhiệm vụ nuôi dạy trẻ, góp phần đẩy lùi và ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực để giữ chân họ trong ngành giáo dục mầm non. Những năm gần đây, kinh tế xã hội Thành phố Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy sự gia tăng nhu cầu của giáo viên mầm non công lập. Tuy nhiên có những nhu cầu phù hợp với xã hội nhưng lại chưa phù hợp với giáo dục mầm non, có những nhu cầu lệch chuẩn với định hướng giáo dục của ngành, có những nhu cầu chính đáng nhưng do điều kiện của ngành giáo dục mầm non còn có những khó khăn chưa thể đảm bảo được. Chính vì vậy, các cấp lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục mầm non cần phải đi sâu, đi sát để nắm vững nhu cầu của giáo viên mầm non công lập. Trên cơ sở đó có biện pháp giáo dục định hướng nhận thức đúng đắn về nhu cầu giúp họ giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với tập thể, giữa nhu cầu với điều kiện thực tiễn của ngành giáo dục mầm non. Ngăn ngừa tư tưởng đề cao lợi ích vật chất, xem nhẹ lợi ích tinh thần, giúp họ không chạy theo những đãi ngộ về lương bổng của các trường mầm non ngoài công lập và các ngành nghề kinh tế khác. Nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho giáo viên mầm non công lập phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của Thành phố; chính sách đãi ngộ của Đảng và Nhà nước; sự quan tâm đầu tư của Thành phố... Việc nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho giáo viên mầm non công lập là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cấp ủy, chính quyền, tổ chức chính trị xã hội các cấp và của cả cộng đồng nhưng chính cá 64
  • 66. nhân người giáo viên mầm non công lập giữ vai trò quyết định. Chính vì vậy cần phải giáo dục họ phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, sắp xếp cuộc sống riêng từng bước cải thiện đời sống gia đình để yên tâm ở lại với nghề. 2.2.3. Đổi mới cơ chế quản lý của các cấp từ Thành phố đến quận, (huyện), phường (xã) Đổi mới cơ chế quản lý trường mầm non, quản lý đội ngũ giáo viên mầm non của các cấp từ Thành phố đến quận (huyện), phường (xã) là một nội dung quan trọng, cấp bách nhằm tạo ra bước đột phá trong việc xây dựng đội ngũ giáo viên, góp phần ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. Việc đổi mới cơ chế quản lý phải dựa trên kinh nghiệm quản lý truyền thống và tiếp thu những kiến thức quản lý hiện đại theo hướng linh hoạt, mềm dẻo, tăng quyền tự chủ và phát huy tính tích cực, sáng tạo của cơ sở. Đổi mới cơ chế quản lý là nhằm tác động vào đội ngũ giáo viên mầm non công lập để nâng cao nhận thức, hình thành những phẩm chất đạo đức nhà giáo và những kỹ năng, kỹ xảo sư phạm cho giáo viên mầm non. Đồng thời tạo ra những môi trường làm việc thân thiện, giảm áp lực công tác góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, giúp cho họ trụ lại với nghề. Cơ chế quản lý hiện nay có nhiều tầng, nhiều lớp chồng chéo lẫn nhau nên không phát huy được sức mạnh, thậm chí còn có những tác động tiêu cực đến giáo viên mầm non. Vì vậy cần phải hoàn thiện cơ chế này theo các hướng sau: Một là, thực hiện phân cấp quản lý một cách hợp lý giữa các cấp. Hiện nay, Thành phố, quận (huyện) mà trực tiếp là Sở Giáo dục Đào tạo, phòng giáo dục đào tạo cùng với phường (xã) quản lý Nhà nước trường mầm non công lập. Mọi hoạt động của nhà trường đều tuân thủ theo nguyên 65
  • 67. tắc báo cáo xin ý kiến - thực thi - báo cáo kết quả - nhận ý kiến chỉ đạo phản hồi. Nhiều vấn đề nhà trường không chỉ báo cáo lên cấp trực tiếp quản lý mà còn phải xin ý kiến báo cáo lên cấp trung gian. Các văn bản chỉ thị hướng dẫn của cấp trên phải qua nhiều thang bậc mới xuống tới nhà trường, đến được với giáo viên. Sự phân cấp quản lý không rõ ràng giữa các ban ngành, giữa trên và dưới đã tạo những kẽ hở, những khoảng trống trong quản lý ngành học mầm non. Chính cách quản lý như vậy đã dẫn đến sự thiếu sâu sắc. Lãnh đạo cấp trên không thể nắm hết được những thành tựu cũng như những hạn chế của cấp dưới. Những nhu cầu chính đáng ở cấp dưới cũng không đến được với cấp trên... Ngoài ra, trong quản lý ngành giáo dục mầm non còn có sự giao thoa của 2 cơ chế: cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo và cơ chế quản lý giáo dục. Chỉ có sự phân cấp một cách rõ ràng thì mới tạo ra sự thống nhất khoa học thỏa mãn được yêu cầu vận hành một cách có hiệu quả. Cần phải đổi mới cơ chế quản lý theo hướng tăng quyền chủ động cho cơ sở. Tăng quyền chủ động cho cơ sở (cấp phường (xã), nhà trường mầm non) trong quản lý thực chất là nhấn mạnh tính độc lập tương đối và vai trò, trách nhiệm của chủ thể quản lý trực tiếp đối với ngành học mầm non. Đồng thời tăng quyền chủ động cho cơ sở sẽ tạo ra “độ mở” nhất định nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của các chủ thể quản lý trực tiếp, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý. Trong khi tăng quyền chủ động cho cấp dưới cần phải có những quy định cụ thể mang tính pháp lý để tránh sự lạm quyền. Trên thực tế có nơi, có lúc ban giám hiệu nhà trường đã có những động thái vượt quá quyền hạn cho phép trong quản lý, lãnh đạo. Có những ban giám hiệu đã kéo dài thời gian tập sự của giáo viên, tự ý cắt giảm lương thưởng hoặc kỷ luật giáo viên quá thẩm quyền quy định... 66
  • 68. Cần phải có sự đổi mới mạnh mẽ trong cơ chế quản lý đội ngũ giáo viên mầm non, nhất là trong quy hoạch cán bộ quản lý, quy hoạch giáo viên trường mầm non. Công khai, minh bạch, vô tư, không thiên vị trong việc lựa chọn những giáo viên mầm non có năng lực chuyên môn, có phẩm chất tốt để đưa vào đội ngũ kế cận. Tránh hiện tượng xuề xòa hoặc chọn người theo cảm tình tạo nên những dư luận không tốt và bức xúc của đội ngũ giáo viên. Hai là, đổi mới cơ chế quản lý theo hướng hợp tác, tăng cường liên kết. Trong quản lý về giáo dục mầm non hiện nay, có lúc có nơi chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các lực lượng xã hội để phát triển sự nghiệp giáo dục mầm non theo đúng thực chất, phát sinh những sai lầm, tiêu cực từ đó làm đội ngũ giáo viên mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân không còn tâm huyết trụ lại với nghề, bên cạnh gánh nặng cơm áo cho bản thân và gia đình đã góp phần đẩy đội ngũ này rời xa vị trí công tác để tìm hướng đi riêng cho bản thân và tạo nên một lỗ hổng khá lớn về thiếu hụt số lượng giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì vậy cần phải có cơ chế quản lý hợp tác liên kết giữa các lực lượng, các tổ chức, liên kết giữa nhà trường với địa phương. Cơ chế quản lý hợp tác nói lên tính đa dạng của quản lý giáo dục đào tạo, tạo ra tiền đề cho việc liên kết trong giáo dục đào tạo, trong xây dựng đội ngũ giáo viên, trong đề xuất và thực thi các biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. Trong giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục mầm non nói riêng, vấn đề liên kết đã và đang là xu hướng diễn ra ngày một phong phú, đa dạng. Đặc biệt trong xây dựng đội ngũ giáo viên, trong ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập thì sự liên kết phối hợp sẽ tạo ra những cách thức, biện pháp thực thi có hiệu quả. Vấn đề liên kết giữa các lực lượng, liên kết với địa phương cần phải được cụ thể hóa 67
  • 69. bằng một cơ chế quản lý có tính nhất quán, tránh xảy ra hiện tượng tự phát, đùn đẩy trách nhiệm, buông lỏng quản lý. Cơ chế quản lý hợp tác và liên kết phải được vận hành có hệ thống và nhất quán trong mọi việc, trong mọi thời gian. Để đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý cần thực hiện tốt những nội dung cụ thể sau: Các cấp có thẩm quyền cần xây dựng và thường xuyên kiện toàn các cơ quan, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục mầm non. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi tổ chức và cá nhân. Xây dựng các thiết chế, nguyên tắc, hình thức và công cụ quản lý, tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các quyết định quản lý, các chủ trương, chính sách trong nuôi dạy trẻ, kịp thời điều chỉnh các sai lệch trong quản lý. Các cơ quan chức năng tham mưu giúp cấp ủy và chính quyền các cấp xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp quy, xây dựng các quy chế, quy định quản lý giáo dục mầm non và đội ngũ giáo viên mầm non. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng, là căn cứ, công cụ quản lý để thống nhất thực hiện trong hoạt động quản lý, giúp cho chủ thể quản lý tránh được cách quản lý chung chung hoặc lúng túng thiếu minh bạch trong tổ chức, điều hành. Trước tiên cần rà soát văn bản pháp quy đang được áp dụng và thực hiện, xây dựng, hoàn thiện và bổ sung những văn bản còn thiếu hoặc bãi bỏ, thay đổi nội dung của những văn bản đã được xây dựng nhưng không phù hợp thực tế, không có tính khả thi. Việc xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp quy về công tác quản lý phải dựa vào các văn bản pháp quy của Nhà nước, của Thành phố và thực tiễn hoạt động của ngành mầm non. Tránh việc tùy tiện ban hành các văn bản ảnh hưởng đến hoạt động của nhà trường và của đội ngũ giáo viên. Như vậy có thể thấy, đổi mới cơ chế quản lý của các cấp chính là một biện pháp phát huy sức mạnh của bộ máy quản lý, của chủ thể quản lý và của chính đội ngũ giáo viên mầm non trong hoạt động nuôi dạy trẻ. 68
  • 70. 2.2.4. Nâng cao chất lượng tuyển chọn, đào tạo và tuyển dụng giáo viên mầm non công lập Đây là biện pháp quan trọng cho toàn bộ quá trình phát triển đội ngũ giáo viên mầm non công lập. Một khi tuyển chọn chặt chẽ, đào tạo có chất lượng tốt và tuyển dụng đúng người, đúng việc theo đúng tiêu chí đặt ra thì sẽ xây dựng được đội ngũ giáo viên mầm non công lập có tâm huyết với nghề, hạn chế đến mức tối đa giáo viên mầm non công lập bỏ việc. Để nâng cao chất lượng tuyển chọn, đào tạo và tuyển dụng, trước hết các cơ quan chuyên môn cần tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền các cấp đề xuất những chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo để phát triển đội ngũ giáo viên mầm non công lập theo từng giai đoạn. Chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp được thể hiện thông qua các nghị quyết, chỉ thị là những định hướng lớn chỉ ra phương thức tuyển chọn, đào tạo và tuyển dụng giáo viên mầm non. Đây là cơ sở pháp lý để ngành mầm non, các trường mầm non của Thành phố xây dựng các kế hoạch quản lý và phát triển giáo viên mầm non công lập trong những giai đoạn nhất định. Chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp phải vận dụng sáng tạo các nghị quyết, đường lối của Đảng, chủ trương, kế hoạch của Nhà nước về giáo dục đào tạo và giáo dục mầm non. Những chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo phải làm sao đáp ứng được những mục tiêu, yêu cầu của giáo dục đào tạo mầm non, nhu cầu gửi trẻ của người dân và phù hợp với tình hình thực tiễn của Thành phố, của địa phương và nhà trường. Căn cứ vào chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, cơ quan chuyên môn xây dựng kế hoạch tuyển chọn, đào tạo và tuyển dụng giáo viên. Xây dựng chương trình, kế hoạch tuyển chọn là một biện pháp quan trọng trong những biện pháp để quản lý đội ngũ giáo viên mầm non công lập. Vì vậy, xây dựng chương trình kế hoạch để ngành 69
  • 71. giáo dục mầm non Thành phố và cụ thể là các nhà trường mầm non có thể ứng phó có hiệu quả với sự thay đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu của đội ngũ giáo viên mầm non công lập, đặc biệt là khi xảy ra hiện tượng bỏ việc của giáo viên. Trong xây dựng chương trình kế hoạch phải lựa chọn được những phương án tối ưu, tìm được những nguồn lực để tuyển chọn giáo viên mầm non công lập. Thực chất của tuyển chọn, đào tạo và tuyển dụng là quá trình thực hiện một chu trình khép kín bao gồm các khâu: tuyển chọn; đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ giáo viên mầm non công lập. Mỗi một khâu, một bước trong chu trình này có vị trí, vai trò khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng, thực hiện tốt khâu, bước này sẽ làm tiền đề, cơ sở cho việc thực hiện tốt các khâu, các bước tiếp theo. Về tuyển chọn giáo viên mầm non công lập: Trong tuyển chọn đội ngũ giáo viên mầm non công lập trước hết cần phải chọn nguồn cho đào tạo và tuyển dụng. Nhìn vào thực trạng hiện nay người ta thấy đội ngũ giáo viên mầm non công lập có nhiều khó khăn trong cuộc sống, lương thấp, áp lực công việc lớn cho nên ít học sinh, sinh viên theo học ngành mầm non. Thậm chí một số sinh viên tốt nghiệp khoa, ngành mầm non lại theo học văn bằng hai để tìm một cơ hội khác có đãi ngộ cao hơn. Chính vì vậy, cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội cần phải đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục trong cộng đồng đặc biệt là cho thanh niên, học sinh về vị trí, vai trò của giáo viên mầm non, những chính sách đối với giáo viên mầm non và vị trí xã hội cao quý của người giáo viên mầm non để lôi kéo thanh niên, học sinh vào học các ngành mầm non ở các trường trung cấp, cao đẳng và đại học. Hình thức tuyên truyền, giáo dục phải đa dạng, phong phú trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các hội thảo, trong các liên hoan, hội 70
  • 72. trại ... để số đông thanh niên, học sinh các trường phổ thông tiếp cận được với những thông tin về ngành mầm non và giáo viên mầm non. Đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp trong học sinh sinh viên, khuyến khích và có những chế độ ưu đãi để họ theo học ngành mầm non. Ở những địa phương khó khăn, vùng sâu vùng xa trung tâm Thành phố có thể thực hiện công tác cử tuyển. Lựa chọn những thanh niên yêu trẻ, có khả năng làm việc với trẻ để cấp kinh phí cho họ, gửi họ đi học ngành mầm non tại các trường trung cấp, cao đẳng ở Trung ương, Thành phố và ở các tỉnh bạn. Trong tuyển chọn phải thực hiện công khai, dân chủ, đúng quy trình. Cùng với việc nâng cao chất lượng tuyển chọn thì nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên mầm non là một khâu đột phá quan trọng trong xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non. Để nâng cao chất lượng đào tạo, các cơ sở đào tạo giáo viên mầm non ở Trung ương và Thành phố Hồ Chí Minh (có 3 cơ sở), phải quán triệt quan điểm chiến lược về giáo dục của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình đào tạo phải không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục đào tạo. Nội dung giáo dục phải bám sát thực tiễn giáo dục mầm non ở trong nước và Thành phố, đồng thời kế thừa những kinh nghiệm giáo dục mầm non tiên tiến trên thế giới. Cùng với việc cung cấp tri thức, nhà trường cần phải rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nuôi dạy trẻ cho giáo sinh, đặc biệt là những kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ, kỹ năng làm việc và chơi với trẻ. Nhà trường đào tạo, giáo dục mầm non phải không ngừng đổi mới phương pháp, hình thức giáo dục. Tích cực vận dụng các phương pháp dạy học hiện đại nhằm phát huy tính cực của người học. Vận động và khuyến khích giảng viên sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để nâng cao chất lượng bài giảng. Trong quá trình giáo dục đào tạo, nhà trường phải khuyến khích giáo sinh tham gia nghiên cứu khoa học. Thông qua các hoạt động nghiên cứu 71
  • 73. khoa học để trang bị cho giáo sinh phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học nhằm giúp cho họ khi ra trường có những kỹ năng, kỹ xảo phát hiện vấn đề, tìm ra những luận cứ khoa học và thực tiễn để giải quyết những vấn đề cấp thiết của cuộc sống, của giáo dục trẻ. Nhà trường cần khuyến khích người học tích cực chủ động, sáng tạo tự nghiên cứu, tự học, đồng thời trang bị cho họ phương pháp tự học, tự nghiên cứu để có thể học suốt đời. Đi đôi với việc trang bị kỹ năng và kỹ xảo các cơ sở đào tạo giáo viên mầm non còn phải tăng cường giáo dục, bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho giáo sinh. Đặc biệt giáo dục cho họ phẩm chất, đạo đức của nhà giáo, sống trong sạch, lành mạnh, khiêm tốn, yêu ngành, yêu nghề, yêu trẻ, tận tâm, tận lực với giáo dục mầm non và trụ lại với nghề dẫu rằng cuộc sống của người giáo viên mầm non còn nhiều khó khăn. Nâng cao chất lượng tuyển chọn, đào tạo phải đi đôi với nâng cao chất lượng tuyển dụng giáo viên mầm non công lập. Trong tuyển dụng, trước hết các cơ quan chức năng nhất là ngành giáo dục mầm non phải tham mưu giúp cấp ủy chính quyền các cấp xây dựng được tiêu chí tuyển chọn. Trong tiêu chí tuyển chọn phải bao gồm những nội dung cơ bản như xu hướng nghề nghiệp, độ tuổi, trình độ học vấn, trải nghiệm thực tế, trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm và phẩm chất chính trị, tư tưởng đạo đức. Trong năng lực sư phạm phải chú ý đến kỹ năng tổ chức hoạt động của trẻ, kỹ năng sử dụng phương tiện, đồ chơi để dạy trẻ. Về phẩm chất đạo đức, phải chú ý đến những phẩm chất, nhân cách như lòng yêu nghề, tận tâm, tận lực với nuôi dạy trẻ và yêu trẻ... Phải công khai để các ứng viên dự tuyển biết được tiêu chuẩn, tiêu chí tuyển dụng. Trong tuyển chọn để tránh sai sót và cảm tính cá nhân nhằm lựa chọn những ứng viên tâm huyết với nghề nuôi dạy trẻ, cần phải thực hiện đúng quy 72
  • 74. trình tuyển dụng bao gồm các khâu: thành lập hội đồng tuyển dụng; thông báo quy chế, thể lệ tuyển dụng và tiến hành các bước tuyển dụng. Các bước tuyển dụng bao gồm: thông báo tuyển dụng; người dự tuyển nộp hồ sơ; xem xét hồ sơ; khám sức khỏe; phỏng vấn sơ bộ; thi tuyển. Trong thi tuyển có thể thi tự luận hoặc trắc nghiệm với các môn thi về chuyên môn, về năng khiếu sư phạm. Trong quá trình tuyển dụng có thể tiến hành các bước phỏng vấn ở vòng 2 sau đó cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tuyển dụng và bổ nhiệm ứng viên làm giáo viên ở các trường mầm non công lập nếu họ đáp ứng đầy đủ các tiêu chí. Tuyển dụng phải đảm bảo chọn đúng người có đủ tiêu chuẩn đáp ứng được nhiệm vụ nuôi dạy trẻ. Tuy nhiên bước tuyển dụng mới chỉ là bước đầu, để người giáo viên yên tâm với nghề, trụ lại với nghề cần phải tiếp tục bồi dưỡng, đào tạo họ. Tăng tính tự chủ cho địa phương trong tuyển dụng, không phân bổ giáo viên theo tiêu chí thi tuyển công chức hàng năm như hiện tại vì sẽ khó đảm bảo số lượng giáo viên mầm non cho từng trường do yếu tố địa phương. Bên cạnh việc tuyển sinh hằng năm của các trường sư phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh, nên giao cho chính quyền quản lý giáo dục trên địa bàn trường mầm non tọa lạc ở cấp phường, xã kết hợp với ban giám hiệu trường mầm non tuyển chọn nhân sự tại địa phương đưa đi đào tạo tại các trường sư phạm thì mới tránh được tình trạng thiếu giáo viên mầm non như hiện nay. Khi tuyển chọn giáo viên mầm non cần lưu ý yếu tố tâm huyết với nghề của đội ngũ này, tránh tư tưởng đi làm để có mức lương cơ bản phục vụ cho cuộc sống tối thiểu mà không yêu nghề, mến trẻ thì sẽ tạo tiền đề cho những sai sót trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ về sau. 2.2.5. Tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non công lập 73
  • 75. Phát triển đội ngũ giáo viên trường mầm non công lập để ứng phó với việc thiếu giáo viên nhất là khi biến động về số lượng do giáo viên bỏ việc, bao gồm nhiều khâu, nhiều bước từ quy hoạch nguồn đến tuyển dụng và sử dụng giáo viên. Trong quá trình sử dụng giáo viên mầm non công lập, một vấn đề quan trọng đồng thời cũng là quyền của nhà giáo là bồi dưỡng cho họ về phẩm chất và năng lực sư phạm. Việc bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho đội ngũ giáo viên là nhiệm vụ thường xuyên của ngành giáo dục và của từng nhà trường. Thực chất của hoạt động bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên là quá trình bổ sung những kiến thức và kỹ năng sư phạm cho họ, giúp họ rèn luyện trong thực tiễn, phát triển những phẩm chất, nhân cách tốt đẹp. Mục đích của bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non công lập là xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên mầm non công lập cả về số lượng và chất lượng. Việc tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non công lập là một yêu cầu khách quan để tránh cho đội ngũ này không bị rơi vào tình trạng hẫng hụt về kiến thức, trình độ, năng lực và bị lôi kéo, cám dỗ bởi những lợi ích vật chất mà xa rời nghề nghiệp cao quý của người giáo viên mầm non. Yêu cầu chung của bồi dưỡng phải có tính hệ thống, thiết thực, có trọng tâm và trọng điểm, bảo đảm tính kế thừa và nâng cao. Quá trình bồi dưỡng phải cập nhật được đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục và giáo dục mầm non. Những thành tựu mới nhất của khoa học giáo dục, phổ cập những kinh nghiệp giáo dục tiên tiến trên thế giới và trong nước. Những nội dung chủ yếu trong quá trình bồi dưỡng: 74
  • 76. Một là, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, tư tưởng lối sống của giáo viên mầm non công lập Về phẩm chất chính trị, tư tưởng: Bồi dưỡng cho người giáo viên mầm non công lập có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, trung thành với sự nghiệp giáo dục của Đảng. Quyết tâm thực hiện nhiệm vụ chính trị của giáo dục là phục vụ Đảng, phục vụ sự nghiệp cách mạng. Có động cơ, quan điểm, thái độ và tình cảm đúng đắn đối với giáo dục mầm non cụ thể là việc nuôi dưỡng trẻ, có ý thức chính trị và trách nhiệm xã hội cao trong việc nuôi dạy trẻ. Có khát vọng và ý chí phấn đấu để trở thành người giáo viên mầm non công lập tiêu biểu. Về phẩm chất đạo đức, lối sống: Thông qua hoạt động nuôi dạy trẻ và hoạt động thực tiễn để bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp của nhà giáo cho giáo viên mầm non công lập, để họ có thái độ, hành vi đúng đắn đối với nghề nghiệp sư phạm. Bồi dưỡng, giáo dục họ tình yêu thương con người mà cụ thể là trẻ ở lứa tuổi mầm non, yêu nghề nhà giáo, sống trong sạch, lành mạnh, khiêm tốn, giản dị và trung thực. Bồi dưỡng để mỗi giáo viên là một tấm gương sáng về đạo đức lối sống cho các cháu noi theo. Bồi dưỡng để người giáo viên chấp hành kỷ luật, quy chế, quy định trong quá trình nuôi dạy trẻ. Có tinh thần đấu tranh với những tư tưởng lệch lạc, những biểu hiện, hành vi thờ ơ với trẻ, bạo hành, trù dập trẻ. Không ngừng phấn đấu để nêu cao vị thế của người giáo viên và lòng tin đối với phụ huynh của trẻ. Hai là, bồi dưỡng về năng lực sư phạm một cách toàn diện, cụ thể Về kiến thức chuyên môn: Cần bồi dưỡng cho giáo viên mầm non công lập những kiến thức chuyên môn của nghiệp vụ sư phạm, đó là những kiến thức về nuôi dạy trẻ, kiến thức tổ chức các hoạt động của trẻ, các tri thức về phương pháp giảng dạy, phương pháp thiết kế các chương trình hoạt động của 75
  • 77. trẻ. Cách thức làm và sử dụng đồ chơi, phương tiện kỹ thuật dạy học một cách có hiệu quả trong nuôi dạy trẻ, đặc biệt là bồi dưỡng cho giáo viên mầm non công lập những kỹ xảo và kỹ năng nuôi dạy trẻ. Ngoài những nội dung bồi dưỡng chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cần tập trung bồi dưỡng các chứng chỉ theo quy định, theo những nội dung, yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ giáo viên mầm non hiện nay. Về năng lực làm việc với trẻ: Lĩnh vực giáo dục là lĩnh vực đặc thù. Người giáo viên mầm non hàng ngày tiếp xúc với trẻ, làm việc với trẻ, thực hiện nhiệm vụ nuôi dạy trẻ. Chính vì vậy người giáo viên phải biết cách làm việc với trẻ, chơi với trẻ. Ngoài việc giáo dục cho người giáo viên phẩm chất yêu thương con người thì phải bồi dưỡng cho họ năng lực làm việc với con người, nói một cách khác họ phải có kỹ năng, kỹ xảo làm việc với trẻ. Phải bồi dưỡng cho họ những tri thức về tâm lý học trẻ em để họ biết đánh giá tâm lý của trẻ, biết xây dựng bầu không khí tâm lý thân thiện trong lớp học. Họ phải biết khích lệ trẻ, quan tâm, bao dung đối với trẻ, biết đánh giá mặt mạnh và những hạn chế của trẻ, để giáo dục tinh thần tự giác chủ động sáng tạo của trẻ, giúp trẻ tiến bộ, ngoan ngoãn, tạo cơ sở hình thành những phẩm chất, nhân cách tốt đẹp. Về năng lực tổ chức: Nuôi dạy trẻ là một công việc hết sức khó khăn. Trẻ rất hiếu động lại chưa phát triển đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần, do đó đòi hỏi người giáo viên phải có năng lực tổ chức giáo dục. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng trẻ, nhà trường cần bồi dưỡng họ năng lực xây dựng kế hoạch giáo dục trẻ và tổ chức thực hiện. Năng lực phân tích đánh giá để sắp xếp hợp lý khối lượng công việc nuôi dạy trẻ trong từng thời gian nhất định. Năng lực xử lý các thông tin trong quá trình giáo dục nhất là sự phản hồi từ phụ huynh của trẻ để rèn luyện kỹ năng giao tiếp với phụ huynh của trẻ. Đồng thời bồi dưỡng cho người giáo viên mầm 76
  • 78. non công lập năng lực giải quyết tốt những mối quan hệ của họ với nhà trường, với trẻ, với phụ huynh trẻ và các mối quan hệ khác ngoài xã hội. Về hình thức bồi dưỡng: Phải sử dụng đa dạng các hình thức bồi dưỡng như bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng định kỳ và bồi dưỡng nâng cao. Cần nắm vững nội dung, vận dụng linh hoạt các hình thức và phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp với nhiệm vụ của từng giáo viên và từng nhà trường để công tác bồi dưỡng đạt chất lượng và hiệu quả cao. Đặc biệt, bố trí thời gian cho giáo viên tự bồi dưỡng để nâng cao phẩm chất, năng lực của mình. Việc phát huy tính tích cực của cá nhân giáo viên mầm non công lập được xem là một biện pháp trọng tâm và có hiệu quả. Thông qua hình thức giáo viên tự nghiên cứu các tài liệu, thực tế, tham gia các hoạt động khoa học, rèn luyện trong thực tiễn nuôi dạy trẻ, học hỏi đồng nghiệp và những người đi trước. Tự bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm của người giáo viên mầm non công lập phải có kế hoạch cụ thể theo định hướng của nhà trường. Mỗi giáo viên phải xem đây là nhiệm vụ thường xuyên, là con đường phát triển nghề của mình. Đồng thời nhà trường và ngành giáo dục mầm non cần có chế độ chính sách như tạo điều kiện về thời gian, hỗ trợ về kinh phí... để khuyến khích giáo viên đi học, tự bồi dưỡng nâng cao phẩm chất và năng lực sư phạm của mình. 2.2.6. Kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời trong việc nắm bắt tình hình hoạt động của các trường mầm non và của giáo viên mầm non về mọi mặt Đây là biện pháp quan trọng của hoạt động quản lý nhằm đánh giá việc tổ chức thực hiện quản lý giáo dục giáo viên mầm non công lập, góp phần ngăn ngừa và khắc phục hiện tượng bỏ việc của họ. Kiểm tra, đánh giá là biện pháp quan trọng của hệ thống quản lý giáo dục nói chung và quản lý giáo dục mầm non nói riêng, là một trong những 77
  • 79. chức năng lãnh đạo chủ yếu, là khâu quan trọng của tổ chức thực hiện, đồng thời là biện pháp để khắc phục bệnh quan liêu. Mục đích của kiểm tra, đánh giá là nhằm nắm bắt tình hình hoạt động quản lý, giáo dục bồi dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non công lập, thông qua đó đánh giá đúng những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, kịp thời chấn chỉnh, khắc phục, rút kinh nghiệm để việc quản lý, giáo dục đội ngũ giáo viên mầm non công lập được tốt hơn. Đồng thời thông qua kiểm tra, đánh giá để nắm những thông tin phản hồi của đội ngũ giáo viên, phát hiện những nhân tố mới, những giáo viên điển hình, yêu nghề, gắn bó với nghề, sáng tạo trong nuôi dạy trẻ để nhân rộng, phát triển trong phạm vi toàn ngành mầm non và nhà trường. Xây dựng họ thành những tấm gương điển hình để mọi giáo viên noi theo nhằm góp phần ngăn ngừa, khắc phục hiện tượng bỏ việc của những giáo viên khác. Kiểm tra, đánh giá thực hiện theo các bước sau Xây dựng kế hoạch kiểm tra, đánh giá trong đó cần xác định đúng mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức kiểm tra, đánh giá, Xây dựng tiêu chí kiểm tra, đánh giá, Tiến hành tổ chức kiểm tra, đánh giá, Phân tích kết quả kiểm tra, đánh giá, Nhận xét và kết luận, Rút kinh nghiệm, phổ biến kinh nghiệm và nhân rộng điển hình. Nội dung kiểm tra, đánh giá Kiểm tra, giám sát các hoạt động của nhà trường, đảm bảo trường hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, thực hiện có hiệu quả kế hoạch phát triển nhà trường, phát triển đội ngũ giáo viên; Kiểm tra, đánh giá việc xây dựng kế hoạch giáo dục, nuôi dưỡng trẻ; Kiểm tra, đánh giá việc xây dựng kế hoạch giáo dục bồi dưỡng và quản lý quá trình giáo dục bồi dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non công lập; 78
  • 80. Kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với giáo viên mầm non công lập; Kiểm tra việc thực hiện cơ chế hoạt động, đặc biệt khi kiểm tra phải rà soát các văn bản, quy định của các chủ thể quản lý để phát hiện sai sót của các văn bản này (nếu có), đồng thời có kiến nghị để bổ sung những văn bản quản lý còn thiếu cho phù hợp với tình hình, kịp thời ngăn chặn các hiện tượng vi phạm và những sai sót có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến uy tín của nhà trường và của giáo viên; Kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động quản lý của các chủ thể quản lý như việc ra quyết định quản lý, tổ chức thực hiện các hoạt động quản lý; Kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục nuôi dưỡng trẻ; giáo dục bồi dưỡng đội ngũ giáo viên... Kiểm tra và giám sát trong việc đánh giá giáo viên, đảm bảo những nhận xét công bằng, dân chủ đối với giáo viên để phát huy khả năng sẵn có đồng thời động viên giáo viên mầm non công lập yên tâm bám trụ với nghề. Ngoài những nội dung kiểm tra trên phải căn cứ vào tình hình thực tiễn có thể kiểm tra những nội dung khác. Sau khi kiểm tra, đánh giá, phải rút kinh nghiệm và áp dụng những bài học tốt để ngăn chặn tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. Để thực hiện hiệu quả biện pháp này cần phải làm tốt một số vấn đề sau Đối với các cơ quan chức năng quản lý giáo dục mầm non và trường mầm non Khi kiểm tra, đánh giá phải có kế hoạch, chương trình, nội dung cụ thể, kết hợp nhiều hình thức, phương pháp, sau khi kiểm tra phải có kết luận rõ ràng; nếu phát hiện những sai phạm phải có biện pháp xử lý đúng đắn, kịp thời, hợp tình hợp lý, hướng mọi người đoàn kết, phấn đấu tiến bộ. 79
  • 81. Những kinh nghiệm rút ra được phải được tổng kết thành những bài học có ý nghĩa thực tiễn nhanh chóng phổ biến và nhân rộng những bài học và điển hình tiên tiến. Những người tham gia kiểm tra, đánh giá phải được lựa chọn kỹ, phải là những người có trình độ, có phẩm chất và năng lực tốt, có tinh thần trách nhiệm cao và nắm vững các văn bản pháp quy, các chỉ thị, nghị quyết, lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, các quyết định quản lý của các chủ thể quản lý. Kiểm tra, đánh giá phải theo tiêu chí (theo chuẩn), những tiêu chí này chính là chỉ tiêu tổ chức thực hiện kế hoạch của nhà trường. Việc kiểm tra theo tiêu chí sẽ khắc phục yếu tố chủ quan trong đánh giá. Đối với cán bộ quản lý, nhất là cán bộ quản lý trực tiếp đội ngũ giáo viên Phải nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động quản lý của nhà trường Nắm vững kế hoạch kiểm tra, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với cơ quan chức năng và đoàn kiểm tra trong quá trình kiểm tra, đánh giá. Nắm chắc các văn bản pháp quy, các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy, chính quyền các cấp để quán triệt và tổ chức thực hiện trong việc nuôi dạy trẻ và quản lý đội ngũ giáo viên. Tổ chức tốt các hoạt động thi đua sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động quản lý. Đối với đội ngũ giáo viên Trước hết, đội ngũ giáo viên cần phải thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của nhà giáo dục trong nuôi, dạy trẻ. Trong quá trình hoạt động của mình phải thường xuyên quán triệt nghị quyết, chỉ chị của cấp ủy, chính quyền các cấp về giáo dục. Hợp tác chặt chẽ với các hoạt động kiểm tra, giám sát của các cấp và nêu cao tính tích cực chủ động để tự kiểm tra, đánh giá bản thân. 80
  • 82. Qua kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá mỗi giáo viên cần nghiêm khắc nhìn lại bản thân mình để tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, trở thành người giáo viên mầm non mẫu mực. 2.3. Khảo nghiệm sự cần thiết, tính khả thi của các biện pháp Mục đích khảo nghiệm Kiểm tra tính cần thiết và khả thi của các biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng khảo nghiệm Để khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp, tác giả tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi đối với 35 cán bộ quản lý các cấp và 53 giáo viên ở các trường mầm non công lập thuộc các quận: Quận Tân Phú, Quận 1, Quận 3 và Quận 10 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Đánh giá kết quả khảo nghiệm Kết quả khảo sát thu được như sau: Bảng 2.1. Kết quả khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp TT Các biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non tại TP Hồ Chí Minh Sự cần thiết Tính khả thi Cần thiết Không cần thiết Khả thi Không khả thi 1 Phát huy sức mạnh tổng hợp của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị các cấp và của nhân dân trong ngăn chặn tình trạng bỏ việc của GVMNCL 81/88 92,05% 7/88 7,95% 80/88 90,91% 8/88 9,09% 2 Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho GVMNCL 84/88 95,50% 4/88 4,50% 82/88 93,18% 6/88 6,82% 81
  • 83. 3 Đổi mới cơ chế quản lý của các cấp từ Thành phố đến quận, (huyện), phường (xã) 83/88 94,32% 5/88 5,68% 85/88 96,59% 3/88 3,41% 4 Nâng cao chất lượng tuyển chọn đào tạo và tuyển dụng GVMNCL 80/88 90,91% 8/88 9,09% 81/88 92,05% 7/88 7,95% 5 Tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho GVMNCL 84/88 95,50% 4/88 4,50% 86/88 97,73% 2/88 2,27% 6 Kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời trong việc nắm bắt tình hình hoạt động của các trường mầm non và của GVMN về mọi mặt 82/88 93,18% 6/88 6,82% 83/88 94,32% 5/88 5,68% Nhận xét chung Về tính cần thiết Hầu hết cán bộ giáo viên trường mầm non công lập đều khẳng định các biện pháp mà tác giả đề xuất trong luận văn là có tính cần thiết. Trên 90% số người được hỏi ý kiến đều đánh giá các biện pháp có tính cần thiết. Xếp thứ tự theo tính cần thiết của các biện pháp là: 2, 5, 3, 1, 4, 6. Qua trao đổi với đội ngũ giáo viên cho thấy sự đánh giá trên là hết sức khách quan vì đa số cán bộ giáo viên cho rằng biện pháp 2 nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho giáo viên mầm non công lập và biện pháp 5 tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non công lập là những vấn đề có tính cần thiết nhất (96.59% và 95, 50%). Biện pháp 3 đổi mới cơ chế quản lý của các cấp từ Thành phố đến quận, (huyện), phường (xã) cũng được đánh giá cao (94,32%). Họ thật sự xem đây là những biện pháp hữu hiệu để tháo gỡ những hạn chế, bất cập trong việc ngăn ngừa, khắc phục hiện tượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập. 82
  • 84. Tuy nhiên, các biện pháp như biện pháp 4, nâng cao chất lượng tuyển chọn đào tạo và tuyển dụng giáo viên mầm non công lập và biện pháp 6 kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời trong việc nắm bắt tình hình hoạt động của các trường mầm non và của giáo viên mầm non về mọi mặt, lại chưa nhận được sự đánh giá cao về tính cần thiết. Cán bộ, giáo viên mầm non công lập cho rằng đây là những vấn đề có thể thực hiện sau những cải cách mang tính đột phá, đó là phải nâng cao đời sống của cán bộ giáo viên và đổi mới cơ chế quản lý họ. Về tính khả thi Đánh giá về tính khả thi của các biện pháp, cũng như đánh giá về tính cấp thiết, đại đa số người được hỏi ý kiến đều đánh giá các biện pháp đề xuất đều có tính khả thi cao (90% trở lên). Tuy nhiên, ý kiến của một số cán bộ, giáo viên lại không đồng nhất đánh giá tính khả thi với tính cần thiết. Đánh giá tính khả thi của các biện pháp được xếp theo thứ tự là 5, 3, 6, 2, 4, 1. Biện pháp 5 Tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non công lập được đánh giá có tính khả thi cao nhất (97,73%). Vì cán bộ, giáo viên cho rằng đây là việc làm trong tầm tay của nhà trường và của chính đội ngũ giáo viên. Biện pháp 3 đổi mới cơ chế quản lý của các cấp từ Thành phố đến quận, (huyện), phường (xã) được 96,95% đánh giá là có tính khả thi vì họ cho rằng vấn đề đổi mới cơ chế có thể thực hiện được vì hiện nay Thành phố đã có những cải cách hành chính quan trọng. Biện pháp 2 nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho giáo viên mầm non công lập được đánh giá cần thiết nhất thì lại bị đánh giá ít khả thi (đứng hàng thứ 4 trong 6 biện pháp, chỉ có 93,18% ý kiến đánh giá là có tính khả thi). Qua trao đổi, một số cán bộ, giáo viên cho rằng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho giáo viên không thể làm trong một sớm một chiều, mặt khác, nhiều năm qua ngành học mầm non và giáo viên mầm non 83
  • 85. đã bị “bỏ quên”. Để thay đổi một cách nghĩ, một cách làm cần phải có thời gian. Biện pháp 4, nâng cao chất lượng tuyển chọn đào tạo và tuyển dụng giáo viên mầm non công lập cũng không được đánh giá khả thi cao (đúng hàng thứ 5 trong 6 biện pháp, chỉ có 92,05% ý kiến đánh giá có tính khả thi). Vì một số cán bộ, giáo viên cho rằng trước sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường và trước những áp lực về công việc, về chế độ đãi ngộ thấp thì khó có thể tuyển chọn và tuyển dụng được những người có tâm, có tài vào ngành giáo dục mầm non. Đây thật sự là một thách thức đối với ngành giáo dục mầm non Tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập được thể hiện trong sơ đồ sau: Biểu đồ 2.2: So sánh tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp Như đã trình bày ở trên, tính cần thiết và tính khả thi không tỉ lệ thuận với nhau. Trong thực tiễn, các biện pháp có tính cần thiết cao nhưng lại không có tính khả thi cao (biện pháp 2) hoặc ngược lại, khả thi nhưng không thật sự cần thiết. Như vậy, phải tìm ra tương quan (thuận, nghịch) giữa tính cần thiết 84
  • 86. và tính khả thi của các biện pháp để chứng tỏ các biện pháp tác giả nêu lên vừa cần thiết lại vừa khả thi. Để giải quyết vấn đề này tác giả đã sử dụng công thức Spearman [23, Tr,32) để xem xét tương quan (tương quan hạng) giữa tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp: )1( 6 1 2 2 − −= ∑ nn D R Trong công thức trên: R là hệ số tương quan n là số biện pháp đề xuất D là hệ số chênh lệch giữa thứ bậc của tính cần thiết và tính khả thi Qua khảo sát, có thể thấy thứ bậc của tính cần thiết và tính khả thi ở bảng sau đây: Bảng 2.3: Thứ hạng tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp Biện pháp Tính cần thiết Tính khả thi D2 (mi-ni)SL % Thứ bậc (mi) SL % Thứ bậc (ni) Bp1 82/88 93,18% 4 80/88 90,91% 6 4 Bp2 85/88 96,59% 1 82/88 93,18% 4 9 Bp3 83/88 94,32% 3 85/88 96,59% 2 1 Bp4 80/88 90,91% 5 81/88 92,05% 5 0 Bp5 84/88 95,50% 2 86/88 97,73% 1 1 Bp6 81/88 92,05% 6 83/88 94,32% 3 9 Sau khi thay số và tính nếu: + R > 0 (R dương): tính cần thiết và tính khả thi có tương quan thuận, nghĩa là biện pháp vừa cần thiết vừa khả thi. 85
  • 87. Trường hợp R dương và có giá trị càng lớn (nhưng không bao giờ bằng 1) thì tương quan giữa chúng càng chặt chẽ (nghĩa là các biện pháp không những cần thiết mà khả thi rất cao) + R < 0 (R âm): Tính cần thiết và tính khả thi có tương quan nghịch nghĩa là các biện pháp có tính cần thiết nhưng không khả thi hoặc ngược lại. Thay số vào công thức trên có: )16(6 )910194(6 1 2 − +++++ −= ∑R R = 1 - 0,68 R = 0,31 Dựa vào kết quả trên (R = 0,31) có thể kết luận giữa tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp có tính tương quan thuận và rất chặt chẽ, nghĩa là các biện pháp vừa cần thiết lại vừa khả thi cao. Kết quả khảo nghiệm này có thể kết luận rằng các biện pháp đã đề xuất nếu được áp dụng vào thực tiễn sẽ góp phần thiết thực để ngăn ngừa và khắc phục hiện tượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. * * * Ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, phức tạp và phải tiến hành lâu dài với những cách thức hết sức linh hoạt, đa dạng, đòi hỏi sự nỗ lực của cấp ủy, chính quyền, tổ chức chính trị xã hội các cấp và của cả cộng đồng. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã luận giải, tác giả đề xuất những biện pháp và cho rằng đây chỉ là những gợi ý cho cấp ủy, chính quyền các cấp và các cơ quan chức năng nghiên cứu áp dụng. Mỗi biện pháp có vị trí, vai trò và hiệu quả áp dụng khác nhau nhưng đều nằm trong một chỉnh thể thống nhất, có 86
  • 88. mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong quá trình áp dụng các biện pháp phải kết hợp hài hòa, phát huy thế mạnh tối đa của từng biện pháp để đạt được kết quả tốt nhất. 87
  • 89. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành những phẩm chất, nhân cách tốt đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non có số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất chính trị, đạo đức, kỹ năng sư phạm tốt, yêu nghề, yêu trẻ, gắn bó với ngành giáo dục mầm non luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của cấp ủy, chính quyền các cấp. Nhiều năm qua, giáo viên mầm non công lập của Thành phố Hồ Chí Minh đã nỗ lực cùng ngành mầm non thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng và Nhà nước góp phần nuôi dạy nhiều thế hệ thanh, thiếu niên Thành phố Hồ Chí Minh trưởng thành. Tuy nhiên, trước những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và những nguyên nhân khác, hiện tượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập diễn ra ngày một trầm trọng. Hiện tượng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập đã làm ảnh hưởng đến kết quả nuôi dạy trẻ của các trường mầm non, làm ảnh hưởng đến uy tín, vị thế của giáo dục mầm non nói chung và giáo viên mầm non nói riêng. Sự phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo những tiềm lực cho phát triển giáo dục mầm non, cho sự trưởng thành của đội ngũ giáo viên mầm non, đồng thời cũng tạo ra những cơ hội và thách thức đối với giáo viên mầm non công lập. Sự đãi ngộ cao của trường mầm non tư thục và những ngành kinh tế khác đang lôi kéo người giáo viên công lập rời bỏ nhà trường, rời bỏ nghề giáo dục mầm non. Thực tiễn đòi hỏi cần phải có những giải pháp quyết liệt để ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập, giữ họ lại với nghề, gắn bó và tâm huyết với nghề. Chính vì vậy tác giả đề xuất 6 biện pháp góp phần giải quyết vấn đề cấp bách 88
  • 90. trên. Đó là những giải pháp: Phát huy sức mạnh tổng hợp của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị các cấp và của nhân dân trong ngăn chặn tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế xã hội cho giáo viên mầm non công lập; đổi mới cơ chế quản lý của các cấp từ Thành phố đến quận, (huyện), phường (xã); nâng cao chất lượng tuyển chọn đào tạo và tuyển dụng giáo viên mầm non công lập; tăng cường bồi dưỡng phẩm chất và năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non công lập; kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời trong việc nắm bắt tình hình hoạt động của các trường mầm non và của giáo viên mầm non về mọi mặt. Các biện pháp mang tính hệ thống, mỗi biện pháp có vai trò, vị trí riêng nên khi áp dụng cần sử dụng tổng hợp, linh hoạt không tuyệt đối hóa hoặc xem nhẹ bất cứ một giải pháp nào. Mặt khác, kết quả của việc ngăn ngừa, khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập bỏ việc phụ thuộc vào sự quan tâm, nỗ lực của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính chị xã hội các cấp và của cả cộng đồng xã hội, đồng thời còn phụ thuộc chính vào tính tích cực, sự phấn đấu nỗ lực vươn lên, khắc phục khó khăn trong cuộc sống để tâm huyết với nghề và trụ lại với nghề nuôi dạy trẻ của đội ngũ giáo viên mầm non công lập. 2. Kiến nghị Nhà nước cần đặt ra các phần thưởng, các danh hiệu vinh dự cho riêng ngành giáo dục mầm non để tặng cho những người có đóng góp quan trọng trong ngành giáo dục mầm non nhằm tôn vinh vị thế xã hội của ngành mầm non và của người giáo viên mầm non. Đảng, Nhà nước và Thành phố nên nhất quán về các chính sách đãi ngộ đối với giáo viên mầm non công lập. Xem giáo viên mầm non công lập là đội ngũ quan trọng trong hệ thống giáo viên Nhà nước. Cần tăng thêm các khoản 89
  • 91. phụ cấp về lương tiền và có chính sách cho giáo viên mầm non công lập được thuê nhà ở của nhà nước hoặc được mua nhà ở xã hội để tạo điều kiện cho giáo viên mầm non yên tâm công tác đồng thời giúp giáo viên mầm non giảm bớt khó khăn về mặt kinh tế trong cuộc sống hàng ngày. Nhà nước xác định những tri thức giáo dục cơ bản cho trẻ mầm non, tạo nền tảng vững chắc trong giáo dục nhân cách nền cho lứa tuổi này để chương trình giáo dục mầm non không phải thay đổi thường xuyên khiến giáo viên mầm non cảm thấy nặng nề và đuối sức trong công tác chuyên môn, từ đó làm giảm tình yêu nghề của giáo viên mầm non công lập. Thành phố xem xét bãi bỏ chế độ làm bảo mẫu cách nhật, giảm tải những phần việc có liên quan đến lao động của giáo viên mầm non như quét dọn vệ sinh lớp học, hành lang, nhà vệ sinh,… để giáo viên an tâm dành thời gian cho công tác chuyên môn. Thành phố đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện xã hội hóa giáo dục mầm non. Vận động các tổ chức kinh tế - xã hội, tài chính, cộng đồng dân cư ở địa phương đóng góp để xây dựng trường, lớp mầm non theo đúng chuẩn quy định nhằm giúp các trường mầm non có cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại, tạo môi trường làm việc thuận lợi để hạn chế ở mức thấp nhất sự quá tải sức lao động của đội ngũ giáo viên mầm non công lập, giúp họ bám trường, bám lớp, trụ lại với nghề. 90
  • 92. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Bộ Giáo dục và Đào tạo (1997), Chiến lược giáo dục mầm non từ nay đến năm 2020 (lưu hành nội bộ), Hà Nội. 2.Phạm Thị Châu, Trần Thị Sinh (2000), Một số vấn đề giáo dục mầm non. 3.Ngô Thượng Chính (2004), Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục mầm non và phổ thông. 4.Phạm Khắc Chương (2004), Lý luận quản lý giáo dục đại cương. 5.Vũ Đức Đạm (2005), Một số giải pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non trên địa bàn huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. 6.Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn Kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 (khóa VIII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội. 7.Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn Kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội. 8.Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn Kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội. 9.Nguyễn Tiến Đạt (2006), Kinh nghiệm và thành tựu giáo dục và đào tạo trên thế giới tập I, II, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 10.Nguyễn Công Giáp và Đào Vân Vy (2004), Phân cấp quản lý giáo dục cơ bản ở Việt Nam, quan niệm và thực tiễn, Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục, Save the children. 11.Vũ Thị Minh Hà (2004), Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên mầm non Hà Nội. 12.Phạm Minh Hạc (1996), Mười năm đổi mới giáo dục, Nxb Giáo dục. 13.Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 14.Phạm Minh Hạc (2008), Vận dụng cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vào quản lý giáo dục - đào tạo, tiếp tục đường lối không 91
  • 93. thương mại hóa giáo dục, Bài tham luận tại Hội thảo “Giáo dục trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, những vấn đề lý luận” do Hội đồng Quốc gia Giáo dục tổ chức tháng 2 năm 2008. 15.Phạm Thị Hậu, Nguyễn Thị Oanh, Trần Thị Sinh, Giáo dục mầm non, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 16.Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959,1980 và 1992), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. 17.Hồ Chí Minh, Những lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, tập V, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960. 18.Hồ Chí Minh, Về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990. 19.Phan Văn Kha (2002), Quản lý nhà nước về giáo dục, Giáo trình dành cho học viên cao học về quản lý giáo dục, Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Hà Nội. . 20.Trần Kiểm (2012), Những vấn đề cơ bản của Khoa học quản lý giáo dục, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 21.Đại từ điển tiếng Việt (1999), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 22.Đặng Bá Lãm (chủ biên) (2005), Quản lý Nhà nước về giáo dục - lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 23.Nguyễn Thị Lư (2006), Một số giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên mầm non tỉnh Bắc Giang đến năm 2010. 24.Luật viên chức (2011), Nxb Tư pháp, Hà Nội. 25.Develay Michel (1999), Một số vấn đề về đào tạo giáo viên, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 26.Rozental MM. (1986), Từ điển Triết học, NXB Tiến bộ Matxcơva và Nxb Sự thật, Hà Nội. 27.Nghị định số 75/2006/NĐ-CP, ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục. 92
  • 94. 28.Nghị định số 69/2008/NĐ-CP, ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường. 29.Nghị định số 115/2010/NĐ-CP, ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý Nhà nước về giáo dục. 30.Hà Thế Ngữ (chủ biên) (1989), Dự báo giáo dục - vấn đề và xu hướng, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 31.Hà Thế Ngữ (2001), Giáo dục học - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 32.Lưu Thị Kim Phương (2009), Biện pháp quản lý Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực sư phạm cho giáo viên mầm non thành phố Thái Nguyên. 33.Bùi Văn Quân (2007), Quản lý giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 34.Quyết định số 14/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 07 tháng 4 năm 2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Điều lệ trường mầm non, Hà Nội. 35.Quyết định số 36/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 16 tháng 7 năm 2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy chế công nhận trường mầm non đạt chuẩn quốc gia, Hà Nội. 36.Quyết định số 239/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 02 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi giai đoạn 2010 - 2015, Hà Nội. 37.Quyết định số 579/QĐ-TTg, ngày 19 tháng 4 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020, Hà Nội. 38.Quyết định số 1216/QĐ-TTg, ngày 22 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội. 93
  • 95. 39.Quyết định số 711/QĐ-TTg, ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lước phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội. 40.Trần Quốc Thành, Khoa học quản lý đại cương - Giáo trình dùng cho học viên Cao học Quản lý giáo dục. 41.Trần Thị Kim Thoa (2006), Các biện pháp tăng cường quản lý đội ngũ giáo viên của Hiệu trưởng trường mầm non Quận Tân Bình - Thành phố Hồ Chí Minh. 42.Nguyễn Huy Thông (1999), Giải pháp bồi dưỡng chuẩn hóa giáo viên mẫu giáo các tỉnh Duyên hải Miền trung. 43.Thông tư số 32/2010/TT-BGDĐT ngày 02 tháng 12 năm 2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy định điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình công nhận phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. 44.Từ điển tiếng Việt (2005), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội. 45.Đinh Văn Vang (1996), Một số vấn đề về quản lý trường mầm non, Nxb Đại học Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội. 46.Nguyễn Thị Hồng Vân (2006), Một số biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên mầm non ở các xã đặc biệt khó khăn tỉnh Sơn La. 47.Viện Khoa học giáo dục (1999), Xã hội hóa công tác giáo dục - nhận thức và hành động, Hà Nội. Trang website 48.Website hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em (www.mamnon.com). 49.Website www.edu.hochiminhcity.gov.vn Ngành Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh 30 năm xây dựng và phát triển 50.Website www.dantri.com.vn 51. Website www.tin247.com 52. Website www.24h.com.vn 94
  • 96. PHỤ LỤC Phụ lục 1 PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN VỀ NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Dành cho Cán bộ quản lý) Để phục vụ cho nghiên cứu biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại thành phố Hồ Chí Minh, xin Quý vị vui lòng cho biết ý kiến về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu x vào ô tương ứng với ý kiến trả lời. Thứ tự NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC Mức độ của nguyên nhân 1. Thấp 2. Bình thường 3. Tương đối cao 4. Cao nhất 1 2 3 4 1 Lương của giáo viên không đủ trang trải cho cuộc sống của bản thân so với công chức, viên chức Nhà nước ở các ngành nghề khác dù hệ số lương và phụ cấp của giáo viên mầm non có cao hơn 2 Thời gian làm việc của giáo viên mầm non luôn quá tải (12 tiếng/ngày) so với quy định của Thông tư 48: 6 tiếng/ngày nếu dạy lớp 2 buổi, 4 tiếng /ngày nếu dạy lớp 1 buổi 3 Áp lực công việc: Sĩ số trẻ quá đông so với quy định từng cấp tuổi. Vừa nuôi, vừa dạy, vừa vệ sinh cho trẻ và vệ sinh môi trường làm việc nhất là khi có dịch bệnh xảy ra cho trẻ mầm non. 95
  • 97. 4 Phụ huynh khó chịu, có lời lẽ và ứng xử không tôn trọng giáo viên vì “bênh” con không đúng 5 Có nhiều mâu thuẫn, tị hiềm lẫn nhau giữa các giáo viên trong trường 6 Ban giám hiệu thiên vị, không công bằng trong quan hệ và đối xử với giáo viên 7 Những giáo viên “đối nghịch” với Ban giám hiệu trong công tác: xin thuyên chuyển đi nơi khác hoặc nghỉ việc 8 Chuyển sang trường tư thục, trường quốc tế vì có mức lương cao hơn và ít bị áp lực về chuyên môn chăm sóc, nuôi, dạy trẻ 9 Mở trường tư thục hoặc nhóm trẻ tại nhà để có thời gian chăm sóc, trông nom gia đình 10 Chuyển sang làm việc ở các lĩnh vực, các ngành nghề khác để có thu nhập cao và có vị thế trong xã hội 11 Vị thế giáo viên mầm non không được xã hội xem trọng 12 Môi trường làm việc khó tìm bạn đời 13 Giáo viên mầm non mới ra trường thường bị “sốc” vì gặp thực tế làm việc quá cực so với khi thực tập Xin cảm ơn 96
  • 98. PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN VỀ NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Dành cho giáo viên) Để phục vụ cho nghiên cứu biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại thành phố Hồ Chí Minh, xin thầy (cô) vui lòng cho biết ý kiến về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu x vào ô tương ứng với ý kiến trả lời của thầy (cô). Thứ tự NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC Mức độ của nguyên nhân 5. Thấp 6. Bình thường 7. Tương đối cao 8. Cao nhất 1 2 3 4 1 Mức lương lãnh trên thực tế không đủ trang trải cho cuộc sống 2 Thời gian làm việc luôn quá tải 3 Áp lực công việc cao 4 Ban giám hiệu ít quan tâm đến tâm tư nguyện vọng của giáo viên 5 Môi trường làm việc đôi khi thiếu thân thiện. 6 Ban giám hiệu thiên vị, không công bằng trong đối xử với giáo viên 7 Được Ban giám hiệu “quan tâm đặc biệt” vì có những góp ý về công tác quản lý 97
  • 99. 8 Chuyển sang trường tư thục, trường quốc tế vì có mức lương cao hơn và ít bị áp lực về chuyên môn lẫn vệ sinh cho trẻ 9 Mở trường tư thục hoặc nhóm trẻ tại nhà để có thời gian chăm sóc, trông nom gia đình 10 Chuyển sang làm việc ở các lĩnh vực, các ngành nghề khác để có thu nhập cao và có vị thế trong xã hội 11 Vị thế giáo viên mầm non không được xã hội xem trọng 12 Môi trường làm việc khó tìm bạn đời 13 Vì thiếu trải nghiệm thực tế chăm sóc, nuôi, dạy khi học tại các trường sư phạm mầm non; giáo viên bị “vỡ mộng” khi gặp thực tế làm việc cực nhọc (giáo viên mới ra trường) Xin cảm ơn PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN VỀ THỰC TRẠNG CÔNG VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Dành cho Cán bộ Quản lý) 98
  • 100. Để phục vụ cho nghiên cứu biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại thành phố Hồ Chí Minh, xin Quý vị vui lòng cho biết ý kiến về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu x vào ô tương ứng với ý kiến trả lời của Quý vị. Thứ tự THỰC TRẠNG CÔNG VIỆC Ý KIẾN CÁ NHÂN Từ câu 1- 6 Từ câu 7-11 Có Không a b c 1 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về chuyên môn dạy. 2 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về chuyên môn nuôi. 3 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về cả chuyên môn dạy và nuôi. 4 Công việc của giáo viên mầm non nhẹ nhàng, vui tươi như chuyện chơi đùa với con cháu trong gia đình. 5 Thường xuyên trò chuyện với giáo viên và lắng nghe trực tiếp tâm tư nguyện vọng của giáo viên. 6 Cần dùng quyền lực của Ban giám hiệu để ra uy với các giáo viên hay có ý kiến trong công việc được giao. 7 Ban giám hiệu chỉ cần lắng nghe gián tiếp mọi thông tin trong công tác quản lý qua các giáo viên có chức vụ như Tổ trưởng, Chủ tịch Công đoàn, Bí thư chi đoàn, Trưởng ban Thanh tra Nhân dân mà không cần đối chứng a. Thường xuyên b. Không bao giờ c. Tùy công việc 8 99
  • 101. Ban giám hiệu dành thời gian lắng nghe tâm tư của giáo viên trong trường theo: a. Lịch ấn định của ngày (tuần, tháng) b. Không cố định thời gian và lắng nghe khi có điều kiện ở mọi lúc, mọi nơi c. Khi có mâu thuẫn giữa các giáo viên trong trường 9 Ban giám hiệu thường dự giờ các giáo viên trong trường dưới hình thức: a. Đột xuất b. Báo trước từ 15 phút đến 30 phút c. Báo trước 1 ngày 10 Trạng thái tâm lý của Ban giám hiệu khi được giáo viên thẳng thắn đóng góp ý kiến mọi vấn đề liên quan đến nhà trường trước Hội đồng sư phạm: a. Thoải mái lắng nghe để khắc phục hạn chế (nếu có) b. Không thoải mái c. Không cần quan tâm, cắt ngay phát biểu của giáo viên đó 11 Khi giáo viên có ý kiến về quản lý của Ban giám hiệu trước Hội đồng sư phạm, Ban giám hiệu có thái độ a. Khó chịu b. Không khó chịu ra mặt nhưng hạn chế tiếp xúc với giáo viên đó c. Tìm hạn chế của giáo viên đó để góp ý lại. Xin cảm ơn 100
  • 102. PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Dành cho giáo viên) Để phục vụ cho nghiên cứu biện pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng bỏ việc của giáo viên mầm non công lập tại thành phố Hồ Chí Minh, xin thầy (cô) vui lòng cho biết ý kiến về các vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu x vào ô tương ứng với ý kiến trả lời của thầy (cô). Thứ tự THỰC TRẠNG CÔNG VIỆC Ý KIẾN CÁ NHÂN Từ câu 1- 6 Từ câu 7-11 Có Không a b c 1 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về chuyên môn dạy. 2 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về chuyên môn nuôi. 3 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về cả chuyên môn dạy và nuôi. 4 Công việc của giáo viên mầm non nhẹ nhàng, vui tươi như chuyện chơi đùa với con cháu trong gia đình. 5 Ban giám hiệu có thường xuyên trò chuyện và lắng nghe trực tiếp tâm tư nguyện vọng của bạn. 6 Ban giám hiệu thường dùng quyền lực của người quản lý để thị uy với các giáo viên hay có ý kiến trong công tác. 101
  • 103. 7 Ban giám hiệu chỉ cần lắng nghe gián tiếp mọi thông tin trong công tác quản lý qua các giáo viên có chức vụ như Tổ trưởng, Chủ tịch Công đoàn, Bí thư chi đoàn, Trưởng ban Thanh tra Nhân dân mà không cần đối chứng a. Thường xuyên b. Không bao giờ c. Tùy công việc 8 Ban giám hiệu dành thời gian lắng nghe tâm tư của giáo viên trong trường theo: a. Lịch ấn định của ngày (tuần, tháng) b. Không cố định thời gian và lắng nghe khi có điều kiện ở mọi lúc, mọi nơi c. Khi có xung đột giữa các giáo viên trong trường 9 Ban giám hiệu thường dự giờ các giáo viên trong trường dưới hình thức: a. Đột xuất b. Báo trước từ 15 phút đến 30 phút c. Báo trước 1 ngày 10 Cảm nhận của bạn về trạng thái tâm lý của Ban giám hiệu khi được bạn thẳng thắn đóng góp ý kiến trước Hội đồng sư phạm nhà trường: a. Thoải mái b. Không thoải mái c. Có biểu hiện không quan tâm 11 Khi bạn có ý kiến về quản lý của Ban giám hiệu trước Hội đồng sư phạm, sau đó Ban giám hiệu sẽ: a. Khó chịu với bạn b. Không khó chịu nhưng hạn chế tiếp xúc với bạn c. Vui vẻ nhưng sẽ tìm hạn chế của bạn để góp ý lại. Xin cảm ơn 102
  • 104. Phụ lục 2 TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Dành cho Cán bộ quản lý) Thứ tự NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC Mức độ của nguyên nhân 1. Thấp 2. Bình thường 3. Tương đối cao 4. Cao nhất 1 2 3 4 1 Lương của giáo viên không đủ trang trải cho cuộc sống 35 100 2 Thời gian làm việc của giáo viên mầm non luôn quá tải 35 100 3 Áp lực công việc 35 100 4 Phụ huynh khó chịu, có lời lẽ và ứng xử không tôn trọng giáo viên vì “bênh” con không đúng 3 8,57 9 25,71 14 40,00 9 25,71 5 Có nhiều mâu thuẫn, tị hiềm lẫn nhau giữa các giáo viên trong trường 1 2,87 15 42,87 19 54,26 6 Ban giám hiệu thiên vị, không công bằng trong quan hệ và đối xử với giáo viên 5 14,30 12 34,27 18 51,43 7 Những giáo viên “đối nghịch” với Ban giám hiệu trong công tác: xin thuyên chuyển đi nơi khác hoặc nghỉ việc 35 100 8 Chuyển sang trường tư thục, trường quốc tế vì có mức lương cao hơn và ít bị áp lực về chuyên môn chăm sóc, nuôi, dạy trẻ 35 100 103
  • 105. 9 Mở trường tư thục hoặc nhóm trẻ tại nhà để có thời gian chăm sóc, trông nom gia đình 7 20 18 51,43 10 28,57 10 Chuyển sang làm việc ở các lĩnh vực, các ngành nghề khác để có thu nhập cao và có vị thế trong xã hội 6 17,14 9 25,71 20 57,15 11 Vị thế giáo viên mầm non không được xã hội xem trọng 5 14,29 8 22,86 22 62,86 12 Môi trường làm việc khó tìm bạn đời 8 22,86 12 34,29 15 42,86 13 Giáo viên mầm non mới ra trường thường bị “sốc” vì gặp thực tế làm việc quá cực so với khi thực tập 35 100 104
  • 106. TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Của giáo viên) Thứ tự NGUYÊN NHÂN BỎ VIỆC Mức độ của nguyên nhân 1. Thấp 2. Bình thường 3. Tương đối cao 4. Cao nhất 1 2 3 4 1 Mức lương lãnh trên thực tế không đủ trang trải cho cuốc sống 2 3,77 5 9,43 16 30,18 30 56,60 2 Thời gian làm việc luôn quá tải 2 3,77 5 9,43 7 13,20 39 73,58 3 Áp lực công việc cao 2 3,77 5 9,43 5 9,43 41 77,36 4 Ban giám hiệu ít quan tâm đến tâm tư nguyện vọng của giáo viên 5 9,43 7 13,20 11 20,75 30 56,60 5 Môi trường làm việc thiếu thân thiện. Có nhiều đố kỵ giữa Ban giám hiệu với giáo viên và giữa các giáo viên với nhau 7 13,20 11 20,75 23 43,39 12 22,64 6 Ban giám hiệu thiên vị, không công bằng trong đối xử với giáo viên 5 9,43 14 26,41 5 9,43 29 54,72 7 Được Ban giám hiệu “quan tâm đặc biệt” vì có những góp ý về công tác quản lý 2 8,69 10 18,87 18 33,96 23 43,40 105
  • 107. 8 Chuyển sang trường tư thục, trường quốc tế vì có mức lương cao hơn và ít bị áp lực về chuyên môn lẫn vệ sinh cho trẻ 5 9,43 7 13,20 20 37,74 21 39,62 9 Mở trường tư thục hoặc nhóm trẻ tại nhà để có thời gian chăm sóc, trông nom gia đình 5 9,43 6 11,32 21 39,62 21 39,62 10 Chuyển sang làm việc ở các lĩnh vực, các ngành nghề khác để có thu nhập cao và có vị thế trong xã hội 12 22,64 8 15,09 11 20,75 22 41,51 11 Vị thế giáo viên mầm non không được xã hội xem trọng 3 5,67 12 22,64 17 32,07 21 39,62 12 Môi trường làm việc khó tìm bạn đời 4 7,55 9 16,98 14 26,41 26 49,06 13 Vì thiếu trải nghiệm thực tế chăm sóc, nuôi, dạy khi học tại các trường sư phạm mầm non; giáo viên bị “vỡ mộng” khi gặp thực tế làm việc quá cực ngoài sức tưởng tượng của mình ( thường rơi vào các giáo viên mới ra trường) 4 7,55 8 15,09 16 30,19 25 47,17 106
  • 108. TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG CÔNG VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Dành cho Cán bộ Quản lý) Thứ tự THỰC TRẠNG CÔNG VIỆC Ý KIẾN CÁ NHÂN Từ câu 1- 6 Từ câu 7-11 Có Không a b c 1 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về chuyên môn dạy. 35 100 2 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về chuyên môn nuôi. 35 100 3 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về cả chuyên môn dạy và nuôi. 32 91,4 3 8,6 4 Công việc của giáo viên mầm non nhẹ nhàng, vui tươi như chuyện chơi đùa với con cháu trong gia đình. 35 100 5 Thường xuyên trò chuyện với giáo viên và lắng nghe trực tiếp tâm tư nguyện vọng của giáo viên. 33 94,3 2 5,7 6 Cần dùng quyền lực của Ban giám hiệu để ra uy với các giáo viên hay có ý kiến trong công việc được giao. 4 11,4 31 88,6 7 Ban giám hiệu chỉ cần lắng nghe gián tiếp mọi thông tin trong công tác quản lý qua các giáo viên có chức vụ như Tổ trưởng, Chủ tịch Công đoàn, Bí thư chi đoàn, Trưởng ban Thanh tra Nhân dân mà không cần đối chứng a. Thường xuyên b. Không bao giờ c. Tùy công việc 28 80 6 17,2 3 2,8 107
  • 109. 8 Ban giám hiệu dành thời gian lắng nghe tâm tư của giáo viên trong trường theo: a. Lịch ấn định của ngày (tuần, tháng) b. Không cố định thời gian và lắng nghe khi có điều kiện ở mọi lúc, mọi nơi c. Khi có mâu thuẫn giữa các giáo viên trong trường 28 80 7 20 9 Ban giám hiệu thường dự giờ các giáo viên trong trường dưới hình thức: a. Đột xuất b. Báo trước từ 15 phút đến 30 phút c. Báo trước 1 ngày 11 31,43 4 11,43 20 57,14 10 Trạng thái tâm lý của Ban giám hiệu khi được giáo viên thẳng thắn đóng góp ý kiến mọi vấn đề liên quan đến nhà trường trước Hội đồng sư phạm: a. Thoải mái lắng nghe để khắc phục hạn chế (nếu có) b. Không thoải mái c. Không cần quan tâm, cắt ngay phát biểu của giáo viên đó 18 51,43 11 31,43 6 17,14 11 Khi giáo viên có ý kiến về quản lý của Ban giám hiệu trước Hội đồng sư phạm, Ban giám hiệu có thái độ a. Khó chịu b. Không khó chịu ra mặt nhưng hạn chế tiếp xúc với giáo viên đó c. Tìm hạn chế của giáo viên đó để góp ý lại. 10 28,57 11 31,43 14 40 108
  • 110. TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Dành cho giáo viên) Thứ tự THỰC TRẠNG CÔNG VIỆC Ý KIẾN CÁ NHÂN Từ câu 1- 6 Từ câu 7-11 Có Không a b c 1 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về chuyên môn dạy. 53 100 0 0% 2 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về chuyên môn nuôi. 51 96,22 2 3,78 3 Công việc của giáo viên mầm non quá vất vả về cả chuyên môn dạy và nuôi. 53 100 4 Công việc của giáo viên mầm non nhẹ nhàng, vui tươi như chuyện chơi đùa với con cháu trong gia đình. 0 0% 53 100 5 Ban giám hiệu có thường xuyên trò chuyện và lắng nghe trực tiếp tâm tư nguyện vọng của bạn. 19 35,85 34 64,15 6 Ban giám hiệu thường dùng quyền lực của người quản lý để thị uy với các giáo viên hay có ý kiến trong công tác. 39 73,58 14 26,42 7 Ban giám hiệu chỉ cần lắng nghe gián tiếp mọi thông tin trong công tác quản lý qua các giáo viên có chức vụ như Tổ trưởng, Chủ tịch Công đoàn, Bí thư 10 18,87 7 13,21 36 67,92 109
  • 111. chi đoàn, Trưởng ban Thanh tra Nhân dân mà không cần đối chứng a. Thường xuyên b. Không bao giờ c. Tùy công việc 8 Ban giám hiệu dành thời gian lắng nghe tâm tư của giáo viên trong trường theo: a. Lịch ấn định của ngày (tuần, tháng) b. Không cố định thời gian và lắng nghe khi có điều kiện ở mọi lúc, mọi nơi c. Khi có xung đột giữa các giáo viên trong trường 12 22,64 23 43,40 18 33,96 9 Ban giám hiệu thường dự giờ các giáo viên trong trường dưới hình thức: a. Đột xuất b. Báo trước từ 15 phút đến 30 phút c. Báo trước 1 ngày 19 35,84 14 26,42 20 37,74 10 Cảm nhận của bạn về trạng thái tâm lý của Ban giám hiệu khi được bạn thẳng thắn đóng góp ý kiến trước Hội đồng sư phạm nhà trường: a. Thoải mái b. Không thoải mái c. Có biểu hiện không quan tâm 13 24,53 19 35,85 21 39,62 11 Khi bạn có ý kiến về quản lý của Ban giám hiệu trước Hội đồng sư phạm, sau đó Ban giám hiệu sẽ a. Khó chịu với bạn b. Không khó chịu nhưng hạn chế tiếp xúc với bạn c. Vui vẻ nhưng sẽ tìm hạn chế của bạn để góp ý lại. 9 16,98 18 33,96 26 49,06 110
  • 112. Phụ lục 3: Trình độ cán bộ quản lý và giáo viên mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh (Tính đến năm học 2011-2012) Chức danh Tổng số Trình độ chuyên môn Trình độ chính trị Tổng Nữ Đạt chuẩn Cao đẳng Đại học Sau đại học Trung cấp Cao cấp Cán bộ quản lý (Ban giám hiệu) 1.14 4 1.14 0 1.140 162 946 08 27 521 Giáo viên 8.46 6 8.44 4 8436 3604 2784 / 04 343 Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8/2012 Phụ lục 4: Bảng thống kê số giáo viên mầm non còn thiếu so với nhu cầu Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8/2012 Năm học Giáo viên mầm non Nghỉ việc Hiện có Còn thiếu so với nhu cầu 2007-2008 256 6.905 1.000 2008-2009 431 10.123 1.000 2009-2010 543 8.718 1.000 - 2.000 2010-2011 422 8.529 1.000 - 2.000 2011-2012 538 7.618 2.000 - 3.000 111
  • 113. 112
  • 114. Phụ lục 5: Bảng so sánh sự gia tăng số lượng trẻ mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh Năm học Số lượng và % cháu đến nhà trẻ Số lượng và % cháu đến mẫu giáo % cháu học bán trú % cháu mẫu giáo 5 tuổi đến lớp 1976-1977 (kết thúc 2 năm cải tạo và xây dựng) 5.010 77.841 21% 2.000 2,56% / 1989-1990 (kết thúc quá trình cải cách giáo dục) 17.126 9,5% 87.859 34,5% 34.282 39% 39.186 48,3% 1994-1995 (Kết thúc quá trình đổi mới giáo dục) 22517 13,91% 115.524 59,69% 63.058 54,58% 54.397 83,8% 2005-2006 (đánh dấu quá trình 30 năm xây dựng và phát triển của ngành) 46.291 37,29% 181.358 87,87% 166.849 85% 71.208 98,38% 2010-2011 (bắt đầu thực hiện phổ cập mầm non 5 tuổi) 107.954 38% 278.038 97,87% 269.885 95% 83.766 96% Nguồn: www.edu.hochiminhcity.gov.vn Ngành Giáo dục Mầm non thành phố Hồ Chí Minh 30 năm xây dựng và phát triển 113
  • 115. Phụ lục 6: Số giáo viên trong các loại hình trường mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8/2012 Loại hình trường Tổng số giáo viên Trình độ giáo viên Đạt chuẩn Trên chuẩn Cao đẳng Đại học Trường mầm non công lập 8.466 8.436 3.604 2.784 Trường mầm non dân lập tư thục 3.884 3.871 1.756 645 Nhóm lớp mầm non tư thục 2.909 2.802 856 254 Toàn thành phố 15.259 15.109 6.216 3.685 114
  • 116. Phụ lục 7 : VÍ DỤ ĐIỂN HÌNH VỀ NGHỈ VIỆC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON Trong khi đó khá nhiều giáo viên mầm non ở trường công nghỉ việc chuyển sang làm việc tại trường tư có thu nhập cao hơn. Nhưng ngay ở các trường tư thục có thu nhập cao hơn ở các trường công lập, tình trạng giáo viên bỏ ngang cũng rất phổ biến. Đinh hoàng Vân (sinh năm 1987) tốt nghiệp ngành mầm non Trường cao đẳng Sư phạm trung ương Thành phố Hồ Chí Minh cách đây 2 năm. Có năng lực, vốn tiếng Anh tốt, năng động và nhiều tài lẻ, Vân không chọn trường công mà đầu quân về một trường tư thục lớn ở Quận 6 với mức lương trên 3 triệu đồng/tháng cùng nhiều đãi ngộ. Sau hai năm phát hiện mình không thể gắn bó với nghề, chị bỏ ngang và chuyển sang học văn bằng hai ngành dược với mong muốn đổi nghề. Vân tâm sự: “Cũng đồng lương đó, người ta làm 8 giờ/ ngày, còn giáo viên mầm non phải làm 12 giờ, tối về còn chuẩn bị học cụ cho buổi dạy hôm sau. Công việc chuyên môn đòi hỏi quá nhiều, chiếm hầu hết thời gian. Tôi rất tiếc quãng thời gian mấy năm vừa rồi khi chọn không đúng nghề”. Nguồn: www.dantri.vn, ngày chủ nhật 26/10/2011 115
  • 117. Phụ lục 8: THANG BẬC NHU CẦU Lý thuyết về Thang bậc nhu cầu của nhà bác học nổi tiếng người Anh Abram Maslow (1908 – 1970). Bậc thang thấp nhất là sự thể hiện nhu cầu tự nhiên tối cần thiết để tồn tại của mỗi con người trong xã hội, ở bậc thứ hai là nhu cầu an toàn của con người trong môi trường sống và làm việc. Khi con người đã đạt mức độ an toàn thì sẽ thiết lập các mối quan hệ khác nhau giữa bản thân với thế giới bên ngoài như với mọi tổ chức trong cộng đồng xã hội, với thiên nhiên. Trong khi tạo dựng các mối quan hệ trong xã hội và đã được chấp nhận trong chừng mực nào đó thì nhu cầu được đánh giá, nhận biết và tôn trọng đã được hình thành và là nền tảng tiếp theo để phát triển sự tự thể hiện của mỗi bản thân con người, Một khi đã đạt được mức độ cao nhất trong các thang nhu cầu thì người lao động đã chứng tỏ sự phát triển của xã hội có liên quan và luôn chịu sự tác động về nhu cầu của con người, các nhu cầu của con người được phát triển theo bậc thang hình tam giác từ đáy lên đỉnh theo 5 bậc khác nhau và Thuyết về thang nhu cầu của Abram Maslow cũng minh chứng cho việc liên quan từ nhu cầu cần phải có của cá nhân mỗi con người đến sự tác động của môi trường làm việc. Nguồn: Maslow’s Hierarchy of Needs.Svg, 30/5/2012 116 Nhu cầu về sự tự thể hiện Nhu cầu được đánh giá, nhận biết và tôn trọng Nhu cầu về các mối quan hệ trong xã hội Nhu cầu an toàn trong môi trường sống và làm việc Nhu cầu cơ bản của bản thân