SlideShare a Scribd company logo
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------
ĐỖ THỊ PHƢỢNG
CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƢỜNG XUYÊN
QUA KHẢO SÁT TẠI XÃ ĐÔNG LĨNH,
HUYỆN ĐÔNG HƢNG, TỈNH THÁI BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC
Hà Nội - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------
ĐỖ THỊ PHƢỢNG
CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƢỜNG XUYÊN
QUA KHẢO SÁT TẠI XÃ ĐÔNG LĨNH,
HUYỆN ĐÔNG HƢNG, TỈNH THÁI BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC
MÃ SỐ: 60 31 03 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trịnh Văn Tùng
Hà Nội - 2014
1
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian làm việc tích cực và nghiêm túc, luận văn “Chính
sách trợ giúp xã hội thường xuyên qua khảo sát tại xã Đông Lĩnh, huyện
Đông Hưng, tỉnh Thái Bình” đã được hoàn thành. Trước tiên tôi xin gửi lời
cảm ơn chân thành và sâu sắc tới PGS,TS.Trịnh Văn Tùng, người đã tận tình
chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Xã hội học đã dạy dỗ
và truyền đạt những tri thức quý báu trong suốt những năm qua, để tôi có thể
hoàn thành tốt khóa học của mình.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng vì thời gian có hạn, trình độ năng lực
của bản thân còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được những góp ý của các thầy cô giáo khoa Xã hội học để tôi
được rút kinh nghiệm trong những nghiên cứu sau đạt kết quả tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Học viên
Đỗ Thị Phƣợng
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................... 2
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ..............................11
3.1. Ý nghĩa khoa học .............................................................................11
3.2. Ý nghĩa thực tiễn..............................................................................11
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu...................................12
4.1. Mục đích nghiên cứu........................................................................12
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................12
5. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu.....................................12
5.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................12
5.2. Khách thể nghiên cứu.......................................................................12
5.3. Phạm vi nghiên cứu..........................................................................12
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu....................................13
6.1. Câu hỏi nghiên cứu ..........................................................................13
6.2. Giả thuyết nghiên cứu......................................................................13
7. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................13
7.1. Phân tích tài liệu...............................................................................13
7.2. Phỏng vấn sâu ..................................................................................14
7.3. Phương pháp trưng cầu ý kiến .........................................................15
8. Khung lý thuyết.....................................................................................17
NỘI DUNG.....................................................................................................18
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN......................18
1.1 Cơ sở lý luận ........................................................................................18
1.1.1 Những khái niệm công cụ ..............................................................18
1.1.2. Một số lý thuyết áp dụng trong đề tài ...........................................22
1.2 Cơ sở thực tiễn của nghiên cứu..........................................................26
1.2.1 Đặc thù của địa bàn nghiên cứu.....................................................27
1.2.2 Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên đang áp dụng hiện nay ....28
1.2.3. Đặc điểm kinh tế -xã hội của hộ gia đình có người được hưởng trợ
giúp xã hội thường xuyên........................................................................30
3
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG CỦA ĐỐI TƢỢNG
HƢỞNG CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƢỜNG XUYÊN
TẠI XÃ ĐÔNG LĨNH HIỆN NAY..............................................................42
2.1 Tình hình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội thƣờng xuyên tại
Đông Lĩnh hiện nay...................................................................................42
2.1.1 Nhận thức của các đối tượng hưởng TGXHTX về nhóm đối tượng
được hưởng chính sách TGXHTX..........................................................42
2.1.2 Tình trạng tuyên truyền phổ biển chính sách trợ giúp xã hội thường
xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay.................................................................44
2.1.3 Quy trình xét duyệt, công nhận và triển khai chính sách trợ giúp xã
hội thường xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay ..............................................45
2.2 Thực trạng đời sống của nhóm ngƣời cao tuổi.................................48
2.2.1 Đặc điểm nhân khẩu học của nhóm Người Cao tuổi.....................48
2.2.2. Thực trạng đời sống của đối tượng Người cao tuổi thông qua trợ
giúp thường xuyên bằng tiền mặt hàng tháng.........................................52
2.2.3. Thực trạng đời sống của đối tượng Người cao tuổi thông qua trợ
giúp chăm sóc sức khỏe. .........................................................................53
2.3 Thực trạng đời sống của nhóm Ngƣời khuyết tật............................56
2.3.1 Đặc điểm nhân khẩu học của Nhóm Người Khuyết tật.................57
2.3.2 Thực trạng đời sống của người khuyết tật thông qua trợ giúp về
tiền mặt hàng tháng.................................................................................61
2.3.3 Thực trạng đời sống của người khuyết tật thông qua trợ giúp về
dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe..............................................................62
2.3.4 Thực trạng đời sống của người khuyết tật thông qua trợ giúp về
giáo dục – đào tạo – việc làm cho người khuyết tật ...............................66
Tiểu kết.......................................................................................................69
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ NHU CẦU CỦA
ĐỐI TƢỢNG ĐƢỢC HƢỞNG TRỢ GIÚP THƢỜNG XUYÊN TẠI
ĐÔNG LĨNH HIỆN NAY.............................................................................71
3.1 Một số yếu tố tác động đến đời sống của các đối tƣợng hƣởng chính
sách trợ giúp thƣờng xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay.............................71
3.1.1. Nhóm yếu tố mang tính chủ quan.................................................71
4
3.1.2 Nhóm yếu tố mang tính khách quan .............................................74
3.2. Nhu cầu của đối tƣợng đƣợc hƣởng trợ giúp xã hội thƣờng xuyên..77
3.2.1. Nhu cầu của người cao tuổi ..........................................................77
3.2.2 Nhu cầu của nhóm người khuyết tật ............................................80
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ...............................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................86
PHỤ LỤC
5
DANH MỤC VIẾT TẮT
1 ASXH An sinh xã hội
2 Bộ LĐTB&XH Bộ Lao động Thương binh và xã hội
3 BHXH Bảo hiểm xã hội
4 BTXH Bảo trợ xã hội
5 NCT Người cao tuổi
6 NKT Người khuyết tật
7 PV Phỏng vấn
8 TCXH Trợ cấp xã hội
9 TGXH Trợ giúp xã hội
10 TGXHTX Trợ giúp xã hội thường xuyên
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Cơ cấu mẫu........................................................................................16
Bảng 1.1: Quy mô hộ gia đình của người hưởng TGXHTX ..........................31
Bảng 1.2: Thu nhập hộ gia đình có người được hưởng TGXHTX.................32
Bảng 1.3: Tương quan giữa quy mô hộ gia đình và thu nhập trung bình
của hộ gia đình/tháng ...................................................................33
Bảng 1.4: Chi tiêu bình quân hộ gia đình trên 1 tháng ...................................34
Bảng 1.5: Kiểu nhà của các hộ gia đình có đối tượng hưởng TGXHTX .......36
Bảng 1.6: Tài sản của hộ gia đình có đối tượng hưởng TGXHTX.................36
Bảng 1.7: Tuổi của chủ hộ có người hưởng TGTX........................................37
Bảng 1.8: Tương quan giữa trình độ học vấn của chủ hộ và thu nhập
chung của hộ gia đình có người hưởng TGXHTX ......................40
Bảng 1.9: Đánh giá của chính đối tượng về sức khỏe bản thân......................41
Bảng 2.1: Nhận thức của đối tượng về chính sách .........................................43
Bảng 2.2: Hình thức tiếp cận thông tin tuyên truyền về chính sách
TGXHTX......................................................................................44
Bảng 2.3: Thủ tục cần thiết để xét duyệt đối tượng thuộc chính sách............46
Bảng 2.4: Đánh giá của đối tượng hưởng chính sách TGXHTX về sự
quan tâm của các cơ quan, đoàn thể tại xã trong việc hỗ trợ
làm thủ tục hồ sơ ..........................................................................47
Bảng 2.5: Học vấn của người cao tuổi............................................................49
Bảng 2.6: Sức khỏe Người cao tuổi................................................................51
Bảng 2.7: Thu nhập bình quân của người dân Thái Bình (Tính theo
nguồn thu từ sản xuất nông, lâm, thủy sản) .................................52
Bảng 2.8: Nguồn chi phí khám chữa bệnh......................................................55
Bảng 2.9: Hệ số trợ cấp đối với các đối tượng thuộc nhóm NKT ..................61
7
Bảng 2.10: Mức trợ cấp hàng tháng của nhóm người khuyết tật....................62
Bảng 2.11: Hình thức khám chữa bệnh của NKT...........................................64
Bảng 2.12: Nguồn chi phí khám chữa bệnh của đối tượng NKT ...................65
Bảng 3.1: Mong muốn nhận TGXH................................................................79
Bảng 3.2: Nhu cầu nhận trợ cấp xã hội thường xuyên của NCT....................79
Bảng 3.3: Nhu cầu nhận TGXHTX của nhóm đối tượng NKT......................80
8
DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu 1.1: Giới tính chủ hộ...............................................................................38
Biểu 1.2: Trình độ học vấn của chủ hộ ...........................................................39
Biểu 2.1: Hình thức khám chữa bệnh..............................................................54
Biểu 2.2: Cơ cấu độ tuổi của Người khuyết tật...............................................59
Biểu 2.3: Trình độ học vấn của người khuyết tật............................................60
Biểu 2.4: Số người khuyết tật được dạy nghề giai đoạn 2006-2010 ..............67
Biểu 3.1: Nguồn sống người cao tuổi .............................................................78
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã bước vào
nhóm những nước đang phát triển có thu nhập trung bình và đang tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức. Trong văn kiện đại hội Đảng khóa XI đã nêu rõ: phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, đồng thời “ thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”.
Bởi vậy, an sinh xã hội đã trở thành vấn đề trung tâm trong các chiến lược
phát triển của đất nước. Điều này cũng rất phù hợp với mục tiêu phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, đất nước “của dân, do dân, vì dân”.
Cuộc cách mạng công nghiệp ở thế kỷ thứ 19 đã khiến cuộc sống
người lao động gắn chặt với thu nhập do bán sức lao động đem lại. Chính vì
vậy mà những rủi ro trong cuộc sống như ốm đau bệnh tật, tuổi già sức yếu,
tại nạn mất khả năng lao động…đã trở thành mối lo ngại đối với những người
lao động. Thế nhưng con người chúng ta muốn tồn tại và phát triển được thì
phải đảm bảo những nhu cầu cần thiết của cuộc sống. Vậy những người mất
khả năng lao động thì họ khó có thể tự lo cho cuộc sống của mình nếu họ
không nhận được những trợ giúp từ phía xã hội và nhà nước. Xã hội muốn
phát triển thì tất cả các tầng lớp, các nhóm người đều cần phải có sự phát triển
một cách đồng bộ.
Trong hơn gần 30 năm qua, chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu cơ
bản về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.Tuy nhiên bên cạnh những
thành tựu đã đạt được hiện nay chúng ta vẫn còn đứng trước một loạt các vấn
đề cần giải quyết. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải giải quyết ngày càng tốt mối
quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội.
Những chuyển biến mang tính cách mạng đó đã đưa lại sự tăng trưởng
chưa từng có của nền kinh tế trong nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân mỗi năm từ 1986 đến 2000 đạt 6,3%. Trong đó tốc độ tăng GDP trong
những năm 1986-1991 có sự dao động rất lớn. Từ 1992-1997 tốc độ tăng
trưởng GDP đều ở mức cao và khá ổn định (1992 đạt 8,6%; 1993:8,1%; 1994:
8,8%; 1995: 9,5%; 1996: 9,3%; 1997: 8,2%). Do tác động của khủng hoảng
tài chính – tiền tệ ở khu vực từ năm 1997-1999 tốc độ tăng GDP nước ta cũng
2
suy giảm theo. Tuy vậy, tốc độ tăng trưởng GDP từ 2000 đến 2003 được khôi
phục và đạt mức tăng bình quân 6,97%/năm. Đến năm 2005 tốc độ tăng
trưởng này đạt 8,4%/năm. Với tốc độ tăng trưởng đó, nước ra đứng vào hàng
các nước có mức tăng trưởng khá cao so với trong khu vực. Những thành tựu
đã đạt được trong tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở vật chất để chúng ta thực hiện
công bằng xã hội [16].
Bên cạnh bức tranh kinh tế với màu sắc tăng trưởng khá tươi mới thì
chúng ta cũng thấy những màu sắc ảm đạm đối với những nhóm người gặp
nhiều rủi ro trong cuộc sống nhất là những nhóm chịu ảnh hưởng của chiến
tranh, nhóm người bị khuyết tật. Bản thân của sự tăng trưởng đó cũng đã để
lại những tác động không mong muốn đó là tạo ra những sự chênh lệch trong
xã hội trong đó phải kể đến những nhóm bị loại trừ xã hội. Đó là những nhóm
không đủ năng lực để thích nghi, để vươn lên trong cuộc sống và đương nhiên
họ sẽ trở thành những người bị động, không làm chủ được việc làm, thu nhập
và tiếp cận giáo dục đào tạo. Chính vì thế, rất cần có những chính sách điều
chỉnh phù hợp để tạo nên công bằng xã hội, giảm thiểu những rủi ro không
đáng có đối với những nhóm người “thiệt thòi”. Trong hệ thống chính sách
mà Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng phải kể tới hệ thống an sinh xã hội. Một
trong những trụ cột của hệ thống an sinh xã hội đó chính là chính sách trợ
giúp xã hội thường xuyên.
Trong lĩnh vực nghiên cứu đã có rất nhiều nghiên cứu diễn ra trên
nhiều cấp độ cả vi mô và vĩ mô với nhiều góc nhìn khác nhau nhằm đưa ra
cái nhìn đa chiều về chính sách, đánh giá độ hiểu quả khi chính sách triển
khai đến người dân. Nhưng hiện tại chưa có một nghiên cứu cụ thể nào được
thực hiện ở Thái Bình về chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên. Dưới góc
độ xã hội học, người dân đánh giá như thế nào về chính sách trợ giúp xã hội
thường xuyên? Dưới tác động của chính sách thì đời sống của đối tượng
đang diễn ra như thế nào? So với những mong muốn thì mức độ hài lòng đối
với chính sách hiện nay như thế nào? Để giải quyết tất cả những vấn đề cấp
bách đó chúng tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu vấn đề “Chính sách trợ
giúp xã hội thường xuyên qua khảo sát tại xã Đông Lĩnh, huyện Đông Hưng,
tỉnh Thái Bình”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
3
An sinh xã hội là một nội dung nghiên cứu rộng lớn và được rất nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm ở Việt Nam hiện nay. Những năm gần đây, nhiều
công trình nghiên cứu về an sinh xã hội đã xuất hiện với nhiều chiều hướng
nghiên cứu và cách tiếp cận khác nhau.
Trong những năm 1980, các nghiên cứu về chính sách xã hội và phúc
lợi xã hội được tiến hành nghiên cứu với hai đề tài chính “Chính sách xã hội
và quản lý xã hội ở cấp cơ sở nông thôn và đô thị” (1983 - 1985) và đề tài
“Chính sách xã hội ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa” (1987 - 1989).
Đề tài sau nằm trong khuôn khổ hoạt động hợp tác quốc tế của 8 nước xã hội
chủ nghĩa. Có thể nói, đây là những nghiên cứu đầu tiên về chính sách xã hội
ở Việt Nam. Tuy chưa có được những cơ sở lý luận thật sự vững chắc về lĩnh
vực chính sách xã hội và phúc lợi xã hội, nhưng những thành quả chính vẫn
khá nổi bật. Các bài viết về chính sách xã hội như “Quản lý xã hội ở cấp
phường thành phố Hà Nội” (Viện Xã hội học, 1985), “Chính sách xã hội Việt
Nam” (Viện Hàn lâm Khoa học Đức, 1989), “Một phân tích tổng quan về
chính sách xã hội ở Việt Nam” (1989) đã mang lại những thông tin hết sức kịp
thời cho khoảng thời gian đầu tiên thiếu hụt thông tin về chính sách xã hội và
phúc lợi xã hội thời kỳ đầu ở Việt Nam.
Từ năm 1992 trở đi, các nghiên cứu đã dần cố gắng chứng minh tầm
quan trọng của học thuyết chính sách xã hội Việt Nam sang kinh tế thị trường
tất yếu đòi hỏi phải khẩn trương xây dựng lại học thuyết chính sách xã hội
cho đất nước. Một số nghiên cứu quốc tế đã khái quát hóa từ thực tiễn chính
sách xã hội thế giới thành ba mô hình chính sách xã hội. Các nghiên cứu đã
gợi ý mô hình chính sách xã hội của Việt Nam phải xuất phát từ thực tế lịch
sử chính sách xã hội để đưa ra một kết hợp cụ thể thích ứng với bản thân.
Trong thời điểm những năm 1990, các công trình nghiên cứu hoàn
thiện lý luận về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội được chú trọng. “Một số vấn
đề về chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay” (1993) thuộc đề tài
“Luận cứ khoa học cho việc đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo đảm xã hội
trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, một đề tài nhánh thuộc đề tài Khoa học công nghệ
cấp Nhà nước “Những luận cứ khoa học cho việc đổi mới các chính sách xã
hội và việc quản lý thực hiện chính sách xã hội” (KX.04.05). Tác phẩm này là
4
sự tổng hợp các bài viết, tham luận của các nhà khoa học, các nhà hoạch định
chính sách ở nhiều cơ quan khác nhau về vấn đề xung quanh lĩnh vực bảo
đảm xã hội như Bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội.
Không những vậy, các nghiên cứu đã nỗ lực đi sâu nhận diện những
đặc trưng của hệ thống phúc lợi xã hội quốc gia: “Một phân tích về phúc lợi
xã hội quốc gia, nêu lên 10 đặc điểm vấn đề cơ bản” (1999), nghiên cứu này
đã tổng kết được 10 đặc điểm và vấn đề cơ bản của phúc lợi xã hội ở Việt
Nam. Bên cạnh đó, những nghiên cứu về chính sách phúc lợi cho người cao
tuổi bước đầu được tiến hành như “Một phân tích hệ thống đầu tiên đối với
dân số học về sự già hóa và chính sách người cao tuổi Việt Nam” (1999);
Cũng trong những nghiên cứu mang tính lý luận về hệ thống an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội, Lê Đăng Doanh và Nguyễn Minh Tú (1999) đã đưa ra
“Khung chính sách xã hội trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường
- Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn của Việt Nam”. Kết quả nghiên cứu này
được dựa trên xem xét, nghiên cứu một số mô hình và kinh nghiệm quốc tế có
lựa chọn, thực tiễn chính sách xã hội ở Việt Nam, nhằm định hướng lâu dài
cho khung chính sách xã hội ở Việt Nam, tạo ra nền tảng cho sự phát triển;
đồng thời đề ra một số kiến nghị cụ thể, một số mô hình cải cách đối với bốn
lĩnh vực tồn tại nhiều vấn đề ở thời điểm đó: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bồi thường tai nạn lao động và bảo hiểm thất nghiệp.
Đến đầu những năm 2003, các nghiên cứu tiến hành xây dựng mô hình
phân tích không gian phúc lợi con người và xã hội như“Một phân tích tổng
quan về phúc lợi quốc gia, nêu lên 8 khuyến nghị chính (Phúc lợi xã hội ở Việt
Nam: Hiện trạng, vẩn đề và điều chỉnh, Báo cáo Đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học
xã hội Việt Nam)” (2003) đã cho thấy sự chuyển biến về định hướng trong
nghiên cứu chính sách xã hội và phúc lợi xã hội. Những công trình trong giai
đoạn này dần tiến đến việc hoàn thiện các khái niệm về lý thuyết cũng như bộ
khung nghiên cứu chuẩn về phúc lợi xã hội và chính sách xã hội tại Việt Nam.
Hơn nữa, cũng trong năm này, Viện Xã hội học đã hoàn thành chương trình
phân tích dữ liệu định lượng quốc gia để tìm hiểu mối tương quan giữa phúc lợi
xã hội và biến đổi kết cấu giai tầng xã hội qua thời gian 1993 - 2002. Chương
trình “Một phân tích tổng quan về chính sách xã hội quốc gia ” nêu lên 7
khuyến nghị chính kết thúc đã đưa ra kết quả nhận diện năm trục phát triển cơ
5
bản của hệ thống phúc lợi xã hội, đó là: xây dựng ba khu vực chính của hệ
thống phúc lợi xã hội (ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, cứu trợ
xã hội); hình thành các quan hệ lao động; phúc lợi xã hội cho các nhóm xã hội
yếu thế (trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người tàn tật, người nghèo, người có
hoàn cảnh khó khăn...); xóa đói giảm nghèo; khuôn khổ hoạt động của các chủ
thể trong lĩnh vực phúc lợi xã hội (nhà nước, đoàn thể xã hội, tổ chức phi chính
phủ, doanh nghiệp, nhóm hoạt động...)
Ngoài các đề tài lớn, các đề tài thiên về nghiên cứu lý luận, các nghiên
cứu về phúc lợi xã hội và chính sách xã hội cũng xuất hiện khá nhiều những
công trình thực nghiệm liên quan đến các bộ phận hợp thành của hệ thống
phúc lợi và chính sách xã hội của quốc gia. Có thể liệt kê tổng thể các nghiên
cứu này như sau: về mặt khu vực, các chương trình nghiên cứu cũng đã tìm
hiểu về các lĩnh vực ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, cứu trợ xã
hội (từ những năm 1991); về nhóm đối tượng, có những khảo sát về người cao
tuổi (từ những năm 1991), trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (từ những năm
1993), người khuyết tật (từ những năm 1999), sức khỏe, y tế và giáo dục ở
người dân tộc thiểu số (từ năm 1992)... tất cả các nghiên cứu này tập trung
làm sáng tỏ hoàn cảnh sống và chính sách xã hội của Nhà nước đối với các
nhóm đối tượng hưởng lợi hoặc chịu ảnh hưởng từ các chính sách xã hội và
phúc lợi xã hội. Không những vậy, các nghiên cứu cũng chú trọng đến việc
các chủ thể trong lĩnh vực phúc lợi xã hội như doanh nghiệp, tổ chức xã hội,
các tác nhân nỗ lực tập thể và phong trào xã hội, cụ thể “Khởi đầu nghiên cứu
về tổ chức xã hội như là một tác nhân của biến đổi xã hội và khu vực xã hội
dân sự” (2001), “Đề xuất hướng nghiên cứu các chủ thể phúc lợi xã hội phi
nhà nước” (2005), những nghiên cứu này đã mở ra nhiều mục tiêu mới về lĩnh
vực phúc lợi xã hội và chính sách xã hội ở Việt Nam cần phải làm sáng tỏ.
Tác giả Mạc Văn Tiến (2005) lại nghiên cứu hệ thống an sinh xã hội
theo hướng “An sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực”. Đây là tuyển tập
các công trình nghiên cứu và bài báo khoa học giai đoạn 1993-2004. Với hơn
100 bài viết, tác phẩm này đã đề cập đến nhiều nội dung và khía cạnh khác
nhau của an sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, nhiều vấn đề
thể hiện tính dự báo chính xác trong thực tiễn về hình thành quỹ bảo hiểm xã
hội, vấn đề hình thành hệ thống hoạt động sự nghiệp bảo hiểm xã hội,... cũng
6
có những vấn đề đang được hoàn thiện như bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã
hội tự nguyện,..
Tác giả Nguyễn Hải Hữu (2007) đã khái quát những lý luận chung về
an sinh xã hội trong “Giáo trình nhập môn an sinh xã hội” với các khái niệm,
mô hình, trường phái, khung lý thuyết tổng thể về an sinh xã hội với mục
đích, chức năng, cấu trúc, vai trò, các thể chế và mối quan hệ của nó, qua đó,
phân tích các thể chế chính sách, thể chế tài chính và thể chế tổ chức, cán bộ
của hệ thống an sinh xã hội Việt Nam. Cũng nhằm hoàn thiện lý luận chung
về an sinh xã hội trong bối cảnh mới, nhóm tác giả do Nguyễn Văn Định chủ
biên (2008) thông qua “Giáo trình an sinh xã hội” đã tổng kết những vấn đề
lý luận cơ bản về an sinh xã hội và mỗi vấn đề lý luận được liên hệ với thực tế
Việt Nam và các nước trên thế giới.
Rõ ràng, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đang là vấn đề nghiên cứu
được các nhà khoa học xã hội quan tâm nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu đã
được các học giả uy tín trong nước công bố trong những năm gần đây với nội
dung phong phú, đa dạng, từ khía cạnh lý luận cho tới thực tiễn. Trước hết,
mặt lý luận đang được nhiều học giả hoàn thiện qua những tranh luận sâu sắc
về khái niệm liên quan tới an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo đảm xã hội,...
Nhóm các tác giả Phạm Văn Sáng, Ngô Quang Minh, Bùi Văn Huyền,
Nguyễn Anh Dũng (2009) đã công bố công trình nghiên cứu về “Lý thuyết và
mô hình an sinh xã hội - Phân tích thực tiễn ở Đồng Nai”. Đây là một công
trình nghiên cứu bổ sung lý luận về hệ thống an sinh xã hội tại Việt Nam dựa
trên đánh giá, phân tích thực tiễn địa phương. Cụ thể, ngoài việc trình bày
những bất cập, xu hướng vận động và kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và
phát triển hệ thống an sinh xã hội nhìn từ đối tượng thụ hưởng và những trụ
cột chính của hệ thống an sinh xã hội ở Đồng Nai như: bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, trợ cấp xã hội, và xóa đói giảm nghèo. Tuy những lý luận trên được
khái quát từ tình hình thực tiễn ở Đồng Nai nhưng nó có tính bao quát và giá
trị tham khảo cao khi đối chiếu với đánh giá, phân tích hệ thống an sinh xã
hội của cả nước.
Đặc biệt, các vấn đề an sinh xã hội mới được đặt ra trong bối cảnh nước
ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tác giả Đàm
Hữu Đắc cùng nhóm biên soạn (2010) đã đưa ra kết quả về “Chính sách phúc
7
lợi xã hội và phát triển dịch vụ xã hội - Chăm sóc người cao tuổi trong nền
kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập” dựa trên đề tài
khoa học độc lập cấp Nhà nước “Nghiên cứu chính sách phúc lợi xã hội và
phát triển dịch vụ xã hội chăm sóc người cao tuổi trong kinh tế thị trường
định hưởng xã hội chủ nghĩa và hội nhập”. Nghiên cứu đã chỉ ra khoảng cách
giữa thể chế chính sách, thể chế tài chính, thể chế về tổ chức, nhân lực và
nhận thức so với yêu cầu hoàn thiện và phát triển hệ thống phúc lợi xã hội
dành cho người cao tuổi. Thông qua nghiên cứu, dựa trên khái quát kinh
nghiệm quốc tế, nghiên cứu đưa ra những định hướng phát triển hệ thống
chính sách phúc lợi xã hội và dịch vụ xã hội cơ bản chăm sóc người cao tuổi
hiện đại phù hợp với bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa qua từng giai đoạn.
Đặc biệt, trong năm qua, ban biên tập Chiến lược An sinh xã hội Việt
Nam thời kì 2011 - 2020 của Bộ Lao động thương binh và Xã hội đưa ra khái
niệm an sinh xã hội: “An sinh xã hội là một hệ thống các chính sách và
chương trình do Nhà nước, các đối tác xã hội thực hiện nhằm bảo đảm mức
tối thiểu về thu nhập, sức khỏe, và các phúc lợi xã hội, nâng cao năng lực của
cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong quản lý và kiểm soát các rủi ro về
mất việc làm, tuổi già, ốm đau, rủi ro, thiên tai, chuyển đổi cơ cấu, khủng
hoảng kinh tế, dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập và giảm khả năng tiếp cận
đến các dịch vụ xã hội cơ bản”. Khái niệm này được sự đồng thuận cao của
các cấp và người dân.
Các nghiên cứu trong nước cũng chỉ ra rằng, hạn chế rủi ro cần thực
hiện qua hệ thống chính sách an sinh xã hội sao cho đáp ứng được 3 nội dung
cơ bản:
1. Phòng ngừa rủi ro
2. Giảm thiểu rủi ro
3. Khắc phục rủi ro
Chính vì vậy mà các nghiên cứu về an sinh xã hội đã cấu trúc nên 3
tầng lưới tương ứng với 3 nhóm chính sách có khả năng hỗ trợ lẫn nhau
hướng tới mục tiêu đảm bảo mức sống tối thiểu cho người dân:
Nhóm 1: nhóm chính sách hỗ trợ đối tượng dễ bị tổn thương có việc
8
làm, tăng thu nhập và tham gia vào thị trường lao động để chủ động phòng
ngừa rủi ro.
Nhóm 2: nhóm chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo
hiểm y tế và các bảo hiểm có liên quan khác nhằm giảm thiểu rủi ro do các
biến cố trong đời sống, sức khỏe và lao động sản xuất.
Nhóm 3: nhóm chính sách trợ giúp xã hội, xóa đói giảm nghèo, tăng
cường cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản nhằm hỗ trợ người dân khắc
phục rủi ro, giảm nghèo, giảm bất bình đẳng và thực hiện công bằng xã hội
Cụ thể hơn, với nhóm chính sách “thị trường lao động”, có 3 nội dung
chính được đề cập: hỗ trợ tiếp cận hệ thống giáo dục, đào tạo, dạy nghề;
khuyến nông, khuyến lâm nhằm tạo cơ hội tự tạo việc làm; hỗ trợ tiếp cận
thông tin thị trường lao động, việc làm; và hỗ trợ vay tín dụng tự tạo việc làm
và mở rộng sản xuất, chuyển đổi sang các việc làm có năng suất cao hơn, bên
vững hơn. Đây được coi là tầng phòng phòng ngừa trong hệ thông chính sách
an sinh xã hội.
Nhóm chính sách “bảo hiểm xã hội” được coi là biện pháp giảm thiểu
rủi ro cho người dân hiệu quả và tại Việt Nam, nó được coi là xương sống của
chương trình an sinh xã hội nhờ tính lâu dài và ổn định vốn hình thành do dựa
vào nguồn thu của đối tượng tham gia bảo hiểm (người dân, doanh nghiệp, hỗ
trợ một phần từ nhà nước). Tuy nhiên, các chính sách này cũng cần tiếp tục
hoàn thiện.
Với nhóm chính sách “trợ giúp xã hội” được xác định là giải pháp khắc
phục rủi ro, hỗ trợ người dân để họ không bị rơi vào cảnh bần cùng. Đối tượng
thụ hưởng chính là những nhóm dễ bị tổn thương, người nghèo đó đó trách
nhiệm chính thuộc về Nhà nước. Trợ giúp xã hội vốn được chia thành 2 nhánh
là trợ giúp thường xuyên và trợ giúp đột xuất. Các nghiên cứu về trợ giúp xã
hội ở Việt Nam đã khẳng định vai trò quan trọng của các chính sách này trong
hỗ trợ đảm bảo mức sống tối thiểu cho các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương,
thể hiện qua: diện đối tượng ngày càng được mở rộng, mức hỗ trợ được từng
bước điều chỉnh nâng lên phù hợp với điều kiện phát triển kinh té, hình thức
trợ giúp đa dạng, nhiều mô hình trợ giúp xã hội hiệu quả được nhân rộng, các
dịch vụ xã hội ngày càng sẵn có và đáp ứng tốt hơn nhu cầu đối tượng khiến
cho tỉ lệ nghèo giảm nhanh. Tuy vậy, những điểm hạn ché còn tồn tại khá
9
nhiều cần được nghiên cứu để khắc phục.
Bên cạnh những nghiên cứu về lý luận liên quan tới an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội, nhiều học giả khác cũng đã tìm hiểu và đưa ra khái quát bức
tranh hệ thống này tại Việt Nam hiện nay thông qua những khía cạnh cụ thể.
Bế Quỳnh Nga (2012) đã đưa ra một bức tranh tổng thể về bảo hiểm y tế Việt
Nam thông qua tham luận “Bảo hiểm y tế Việt Nam giai đoạn 2000- 2011:
Thực trạng và vấn đề”. Tác giả Nguyễn Đức Chiện lại tìm hiểu „Trợ giúp xã
hội ở Việt Nam hơn một thập kỷ qua: Từ góc nhìn xã hội học” để thấy được
toàn cảnh hoạt động trợ giúp xã hội trong nước thông qua trợ giúp xã hội
thường xuyên và trợ giúp xã hội đột xuất, để từ đó chỉ ra những hạn chế của
hệ thống này. Tác giả Bùi Thị Thanh Hà (2012) lại tập trung đánh giá “Thực
hiện an sinh xã hội đổi với lao động nữ trong các doanh nghiệp”. Nghiên cứu
này tập trung phần lớn vào đánh giá việc thực hiện các chính sách an sinh xã
hội theo góc nhìn Giới. Cũng trong đánh giá thực trạng thực hiện an sinh xã
hội cho các đối tượng đặc thù, đặc biệt là các đối tượng dễ bị tổn thương,
Dương Chí Thiện (2012) lại tập trung vào “ An sinh xã hội và lao động di cư
từ nông thôn ra đô thị”. Nghiên cứu này phân tích những yếu tố chủ yếu liên
quan đến an sinh xã hội của lao động di cư từ nông thôn ra đô thị, qua đó đề
xuất một số giải pháp về an sinh xã hội đối với lao động di cư từ nông thôn ra
đô thị. Một nghiên cứu có những điểm chung về khách thể nghiên cứu với 2
nghiên cứu trên là nghiên cứu của tác giả Hoàng Bá Thịnh (2011) về “Lao
động nữ di cư làm việc ở khu vực phi chỉnh thức và mức độ tiếp cận an sinh
xã hội”. Nghiên cứu này đã chỉ ra một cách hệ thống các khó khăn, hạn chế
của lao động nữ di cư trong bối cảnh thị trường và môi trường lao động hiện
nay, tiếp đó là đánh giá mức độ tiếp cận an sinh xã hội của nhóm này tại các
khía cạnh khu biệt: chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; dịch vụ giáo
dục và y tế,...
Không chỉ những nghiên cứu về mặt lý luận và thực nghiệm mới được
quan tâm mà hiện nay, các nghiên cứu về các phương thức thay đổi các chính
sách xã hội và phúc lợi xã hội đang rất được chú trọng. Trần Hoàng Hải, Lê
Thị Thúy Hương (2011) nghiên cứu “Pháp luật an sinh xã hội - Kinh nghiệm
của một số nước đối với Việt Nam” cụ thể thông qua nghiên cứu, phân tích hệ
thống pháp luật an sinh xã hội ở một số nước tiêu biểu như Đức, Mỹ, Nga,
10
đồng thời trình bày những nội dung cơ bản của pháp luật an sinh tại Việt
Nam. Trên cơ sở sử dụng những phương pháp nghiên cứu, so sánh luật, tác
giả nhận định, đánh giá chung về những ưu điểm, bất cập trong pháp luật hiện
hành, qua đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
trong lĩnh yực này. Matthias Meißner (2012) trong nghiên cứu về thực tế hệ
thống an sinh xã hội tại Việt Nam đã đưa ra những ý tưởng định hướng về
“Tăng cường Bảo trợ xã hội cho lao động khu vực phi chính thức - Những bài
học từ nghiên cứu đang tiến hành”. Trước hết nghiên cứu đóng góp về mặt lý
luận thông qua các việc thống nhất các định nghĩa liên quan tới bảo trợ xã hội,
lao động phi chính thức,... sau đó, đánh giá thực trạng với những phân tích số
liệu đa dạng từ nhiều nguồn tin cậy khác nhau. Từ đó, những bài học kinh
nghiệm và triển vọng được đưa ra một cách rõ ràng, khách quan.
Một đề tài khác là “Đánh giá phúc lợi xã hội: Các mô hình phân phối
lại Scandinavian và Đông Á trong bối cảnh toàn cầu” (Hội đồng nghiên cứu
Thụy Điển phối hợp với Khoa Xã hội học, trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn) tập trung vào so sánh nghiên cứu chính sách xã hội và phúc lợi
xã hội qua phát triển các nghiên cứu so sánh về hệ thống phúc lợi xã hội trong
những bối cảnh phát triển khác nhau, nhất là tìm hiểu đặc điểm và kết quả của
chính sách xã hội trong các lĩnh vực chính sách xã hội khác nhau; so sánh các
nghiên cứu đã có về phúc lợi xã hội và chính sách xã hội ở Thụy Điển và
những nghiên cứu được thực hiện ở các nước Đông Á; đóng góp vào nghiên
cứu liên ngành về toàn cầu hóa và sự phát triển phúc lợi xã hội.
Tất cả những nghiên cứu trên giúp chúng tôi rút ra được những điểm
sau đây cho đề tài:
- Chính sách an sinh xã hội hay phúc lợi xã hội là khung phân tích rất
rộng, cho dù tên gọi là an sinh xã hội hay phúc lợi xã hội thì đều chứa đựng
những nội ding của chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên
- Từ những nghiên cứu đã nêu ta có thể thấy rõ được rằng chủ yếu các
nghiên cứu này tập trung theo 2 hướng:
Nhóm 1: Nghiên cứu mang tính vĩ mô, lý luận, phạm vi rộng trên toàn
quốc trong chính sách đổi mới tổng thể.
Nhóm 2: Những nghiên cứu sẽ được tiến hành theo lát cắt nông thôn
hay đô thị vùng miền.
11
Nhưng nghiên cứu dưới dạng vi mô, một khu vực cụ thể trong một tỉnh
thì chưa có.
Những nghiên cứu trên giúp cho chúng tôi có được cái nhìn khái quát
từ lý luận đến những nghiên cứu vi mô cho đến nghiên cứu vĩ mô về chính
sách an sinh này. Nhưng để thấy được sự tác động, biến đổi ở một xã cụ thể
thì vẫn chưa có. Đề tài sẽ giúp bổ sung mạnh mẽ hơn nữa những lập luận về
chính sách an sinh đang thực hiện hiện nay để chúng ta thấy được cái nhìn
đa chiều từ vĩ mô cấp toàn quốc cho đến những nghiên cứu vi mô cụ thể cấp
địa phương.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Cùng với việc làm rõ mục đích của để tài nghiên cứu, một số khái
niệm, lý thuyết và phương pháp nghiên cứu xã hội học được vận dụng một
cách khoa học góp phần xây dựng lý luận về trợ giúp xã hội thường xuyên
đồng thời đưa những nhận thức khoa học vào ứng dụng trong thực tiễn.
Đề tài đã ứng dụng các lý thuyết xã hội học để phân tích và hiểu được
mối quan hệ giữa một bên là lý luận về chích sách và một bên là đời sống
thực tế của đối tượng hưởng lợi từ chính sách.
Qua đó thấy được những khoảng cách từ lý luận đến thực tiễn và đưa ra
được những kiến nghị cần cải thiện chính sách đó.
Đề tài cũng góp phần làm phong phú thêm mảng nghiên cứu về hiệu
quả của những chính sách xã hội của Đảng và nhà nước đối với những nhóm
đối tượng thiệt thòi trong xã hội.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua việc mô tả thực trạng vấn đề, chúng tôi muốn rà soát lại lý luận
hiện nay về lĩnh vực trợ giúp xã hội thường xuyên, góp phần điều chỉnh, xây
dựng một số luận đề mới trong bối cảnh nền kinh tế đang có nhiều thay đổi.
Qua việc chỉ ra hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội tại địa phương,
những thông tin thu được trong đề tài sẽ cho chúng ta biết được những điểm
đã làm được và những điểm còn hạn chế cần khắc phục.
Thông qua đề tài này, chúng ta cũng đề xuất một số những giải pháp cụ
thể giúp cải thiện chính sách về an sinh xã hội ngày một sâu rộng hơn nhằm
đem lại cuộc sống bớt cơ cực hơn cho những đối tượng gặp khó khăn.
12
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng đến tìm hiểu thực trạng đới sống của nhóm đối tượng
hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên hiện nay đang diễn ra như thế
nào. Thông qua đó tìm hiểu những nguyện vọng, mong muốn, nhu của đối
tượng được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng khung phân tích để tìm hiểu đời sống của đối tượng được
hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên.
Tìm hiểu mức độ kỳ vọng của người dân và sự phù hợp của chính sách
tại địa phương.
Mô tả thực trạng đời sống của những đối tượng được hưởng trợ giúp xã
hội thường xuyên tại địa phương hiện nay.
Đề xuất những giải pháp cụ thể phối hợp giữa chính sách của địa
phương và chính sách vĩ mô.
5. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng đời sống của đối tượng được hưởng trợ giúp xã hội thường
xuyên tại xã Đông Lĩnh, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình hiện nay.
5.2. Khách thể nghiên cứu
- Tất cả các cá nhân được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên
- Đối tượng quản lý và thực hiện TGXH thường xuyên tại địa phương.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Tính từ khi nghị định số 67/2007 NĐ-CP của
Chính phủ về chính sách trợ giúp xã hội của các đối tượng bảo trợ xã hội kí
ngày 13 tháng 4 năm 2007 có hiệu lực.
- Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ tháng 7/2013 đến tháng 9/2014
- Phạm vi không gian: nghiên cứu tại xã Đông Lĩnh, huyện Đông
Hưng, tỉnh Thái Bình.
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Chính sách trợ giúp xã hội thường
xuyên là một nội dung nghiên cứu rộng và có nhiều khía cạnh khác nhau.
Nhưng dưới góc nhìn xã hôi học, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu đời sống
của những đối tượng được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên với
13
những ba hình thức cơ bản thông qua việc trợ giúp tiền mặt hàng tháng, thông
qua các chế độ về chăm sóc sức khỏe, thông qua những hỗ trợ về đào tạo,
giáo dục, việc làm (đây cũng chính là 3 nội dung cơ bản nhất trong chính sách
về trợ giúp xã hội thường xuyên hiện nay).
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội thường
xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay như thế nào?
Câu hỏi 2: Đời sống của những đối tượng hưởng chính sách tại xã
Đông Lĩnh hiện nay đang diễn ra như thế nào?
Câu hỏi 3: Mong muốn và nhu cầu của đối tượng hưởng chính sách
hiện nay là như thế nào?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên hiện nay đã
được thực hiện đúng và đầy đủ tại xã Đông Lĩnh huyện Đông Hưng tỉnh Thái
Bình. Tuy nhiên, hầu hết các đối tượng hưởng lợi của chính sách cho rằng
mức trợ cấp chưa phù hợp, chưa đáp ứng được như cầu cấp thiết của họ.
Giả thuyết 2: Đến nay, đời sống của đối tượng hướng chính sách trợ
cấp xã hội thường xuyên phần nhiều còn phụ thuộc vào điều kiện sống của hộ
gia đình, tức là chính sách trợ cấp xã hội thường xuyên chưa có nhiều tác
động thực sự tích cực đến đối tượng hưởng lợi.
Giả thuyết 3: Phần lớn các đối tượng hưởng chính sách trợ cấp xã hội
mong muốn nhận được nhiều hơn nữa các hỗ trợ về dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phân tích tài liệu
Phân tích tài liệu là khâu đầu tiên để tác giả có thể có được những nhận
định ban đầu về vấn đề nghiên cứu. Các tài liệu được sử dụng là các bài báo,
tạp chí, các trang tin điện tử, các công trình nghiên cứu, các tài liệu có liên
quan đến nghiên cứu. Việc sử dụng phương pháp phân tích tài liệu giúp tác giả
có thể nắm bắt được các hướng nghiên cứu trước đó cũng về mảng đề tài này.
Qua đó tìm ra những điểm mới mẻ và sáng tạo trong nghiên cứu của mình.
Các dạng tài liệu được sử dụng phân tích nghiên cứu trong đề tài:
14
- Các báo cáo nghiên cứu: Đề tài sử dụng những báo cáo dạng vi mô
hay vĩ mô như: Báo cáo về mức sống dân cư các năm 2010, 2012…, báo cáo
tại các cuộc nghiên cứu …
- Các báo cáo đặc điểm kinh tế xã hội các cấp từ Nhà nước đến cấp địa
phương cụ thể
- Các kết quả nghiên cứu từ những cuộc điều tra có liên quan đến các
vấn đề an sinh xã hội, vấn đề bảo trợ xã hội, phúc lợi xã hội, người cao tuổi,
người khuyết tật…
Các tài liệu sẽ giúp:
- Đánh giá chung về sự phát triển của địa bàn nghiên cứu để thấy
được sự tương đồng giữa địa bàn nghiên cứu và khu vực khác thuộc tỉnh
hoặc cả nước.
- Qua những tài liệu đó chúng tôi thấy được các biến số đang được sử
dụng trong nghiên cứu về chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên để vận
dụng vào thao tác trong nghiên cứu.
- Các kết quả nghiên cứu được từ những cuộc điều tra trước đó sẽ giúp
chúng tôi tìm ra được những điểm tương đồng hay những điểm mới của đề tài
nghiên cứu. Thấy được vấn đề nghiên cứu đang tiến triển ở mức độ nào….
7.2. Phỏng vấn sâu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi quyết định phỏng vấn 12 đối tượng
hưởng chính sách trong đó có 8 đối tượng là người cao tuổi, 4 đối tượng thuộc
nhóm người khuyết tật. Trong đó có 2 đối tượng người cao tuổi và 3 đối
tượng thuộc nhóm người khuyết tật do không đủ năng lực trả lời phỏng vấn
thì chúng tôi cần nhờ đến sự trọ giúp từ phía đại diện gia đình.
Trong đề tài chúng tôi lựa chọn phỏng vấn sâu 2 đối tượng quản lý:
- Cán bộ chính sách xã hội tại xã, đây là đối tượng trực tiếp quản lý tất
cả những đối tượng được hưởng chính sách cũng là đối tượng nắm rõ nhất các
chính sách của Đảng và Nhà nước về các đối tượng bảo trợ xã hội.
- Cán bộ quản lý cấp thôn: Đây là đối tượng sống gần với đối tượng
hướng chính sách nhất và cùng là đối tượng giải quyết các vấn đề thủ tục cấp
thôn để trình lên xã, huyện…
Trên cơ sở phỏng vấn chúng tôi ngoài kết quả mà chúng tôi thu được
để đưa vào bảng hỏi nghiên cứu chúng tôi còn có thể có những minh chứng cụ
15
thể cho việc đánh giá đời sống của các đối tượng được hưởng chính sách hiện
nay là những thế nào.
7.3. Phương pháp trưng cầu ý kiến
Trưng cầu ý kiến là một phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng
rộng rãi. Phương pháp này cho phép tác giả thu thập các thông tin định lượng
phục vụ cho nghiên cứu. Sử dụng phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng
hỏi đem lại những ưu điểm riêng như: được tiến hành nhanh, mang tính đại
diện cao và thông tin được cập nhật.
Chúng tôi tiến hành trưng cầu ý kiến đối với 268 cá nhân thuộc diện trợ
giúp thường xuyên trên địa bàn xã, tức là tất cả các đối tượng đang được
hưởng chế độ trợ giúp thường xuyên trên địa bàn xã Đông Lĩnh, huyện Đông
Hưng, tỉnh Thái Bình.
Do lựa chọn nghiên cứu tất cả đối tượng trên địa bàn nghiên cứu, nên
chúng tôi đã nhờ đến sự giúp đỡ của các cán bộ quản lý cấp thôn hoặc là cán
bộ phụ nữ tại các thôn rải phiếu điều tra. Sau một tuần phát bảng hỏi thì số
phiếu phát ra là 268 phiếu và số phiếu thu về là 241 phiếu chỉ đạt 90% số
phiếu phát ra. Chúng tôi tiếp tục hẹn sau 1 tuần để thu nốt 10% số phiếu còn
lại. Kết quả cuối cùng chúng tôi thu về đầy đủ 100% số phiếu phát ra.
Nội dung chính của bảng hỏi chủ yếu xoay quanh các nhóm thông tin:
Nhóm 1: Thông tin nhân khẩu học
Nhóm 2: Thực trạng của quá trình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội
thường xuyên tại địa phương.
Nhóm 3: Tập hợp những nhu cầu của nhóm đối tượng đang được
hưởng chính sách.
16
Bảng 1: Cơ cấu mẫu
Phân loại các đối tƣợng hƣởng trợ cấp xã hội thƣờng xuyên
TT Đối tƣợng hƣởng Số lƣợng Tỷ lệ
01 Trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng,
bị nhiễm HIV/AIDS
0 0%
02 Người cao tuổi cô đơn thuộc gia đình nghèo 0 0%
03 Người từ 80 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc
không có trợ cấp bảo hiểm xã hội
190 70.8%
04 Người khuyết tật nặng, hộ gia đình có NKT không
có khả năng lao động
41 15.2%
05 Người mắc chứng bệnh tâm thần 37 14%
06 Người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao
động, thuộc hộ gia đình nghèo
0 0%
07 Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi,
trẻ em bị bỏ rơi.
0 0%
08 Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo, đang nuôi
con nhỏ dưới 16 tuổi
0 0%
(Nguồn điều tra)
Nhìn vào cơ cấu mẫu và căn cứ tính chất pháp lý của việc quy định
chính sách hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên
Theo căn cứ theo điều 3 của luật người khuyết tật có quy định về dạng
tật và mức độ khuyết tật đã chỉ rõ 6 dạng khuyết tật (khuyết tật vận động,
khuyết tật nghe nói, khuyết tật nhìn, khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật
trí tuệ và khuyết tật khác) như vậy thì người tâm thần được xem là một trong
6 đối tượng của người khuyết tật. Thêm vào đó, nhóm hộ gia đình có 2 người
khuyết tật nặng trở lên sẽ được tìm hiểu nhưng đặc điểm chung của hộ gia
đình có người hưởng chính sách TGXHTX chính vì vậy trong nghiên cứu này
nhóm người khuyết tật và nhóm người mắc các chứng bệnh tâm thần nói
chung và nhóm hộ gia đình có từ 2 người khuyết tật nặng không có khả năng
lao động được tính là 1 nhóm người khuyết tật.
Theo như cơ cấu mẫu từ cuộc điều tra với 268 đối tượng là toàn thể
những người đang được hưởng trợ cấp thường xuyên tại xã Đông Lĩnh thì đối
tượng chủ yếu là những người cao tuổi với số lượng là 190 người chiếm tỷ lệ
17
70.8%, tiếp đến là đối tượng mắc các chứng bệnh về tâm thần thuộc loại tâm
thần phân liệt, rối loại tâm thần với số lượng là 37 đối tượng chiếm tỷ lệ là
14%, còn lại là đối tượng người khuyết tật không có khả năng lao động chiếm
tỷ lệ là 15.2% với số lượng là 41 người. Các đối tượng khác theo quy định.
8. Khung lý thuyết
Điều kiện kinh tế - xã hội – văn hóa của địa phương
Một số yếu tố hộ
gia đình
• Thu nhập
• Chi tiêu
• Số thành viên
• Kiểu nhà
• Tài sản hộ
• TC Giải trí
Đặc điểm nhân
khẩu học
• Tuổi
• Giới tính
• Sức khỏe
• Trình độ học vấn
• Nghề nghiệp
• Thu nhập
Thông qua
Trợ giúp
về tiền
hàng tháng
Thông qua
trợ giúp về
dịch vụ y
tế, chăm
sóc sức
khỏe
Thông
qua trợ
giúp về
giáo dục
đào tạo
việc làm
Thực
trạng đời
sống của
đối tƣợng
hƣởng
trợ giúp
xã hội
thƣờng
xuyên tại
Đông
Lĩnh hiện
nay
Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên hiện nay
18
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Những khái niệm công cụ
 Khái niệm chính sách xã hội
Chính sách xã hội là sự cụ thể hóa bằng pháp luật những chủ chương
đường lối của Đảng và Nhà nước, của các tổ chức chính trị xã hội khác nhau
dựa trên những quan điểm tư tưởng của chủ thể của chính sách xã hội, phù hợp
với bản chất chế độ chính trị xã hội nhất định, phản ánh lợi ích và trách nhiệm
của cộng đồng nói chung và từng nhóm xã hội nói riêng nhằm thỏa mãn nhu
cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân Việt
Nam. Đó là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
Từ góc độ xã hội học có thể định nghĩa: Chính sách xã hội là tổng thể
các quan điểm, các chủ trương của Đảng và Nhà nước, của giai cấp, của nhóm
xã hội được thể hiện bằng các quy định luật để tác động vào các quan hệ xã
hội, nhằm giải quyết những vấn đề xã hội, góp phần thực hiện công bằng, tiến
bộ và phát triển con người.
 Khái niệm đời sống
Khái niệm đời sống là khái niệm khá rộng, chủ nghĩa duy vật lịch sử
nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa đời sống tinh thần xã hội và đời
sống vật chất xã hội. Đời sống tinh thần xã hội phản ánh đời sống vật chất xã
hội, chịu sự quy định, chi phối của đời sống vật chất xã hội. Khi đời sống vật
chất thay đổi thì cũng kéo theo sự thay đổi của đời sống tinh thần. Nói một
cách cụ thể hơn - như C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết trong "Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản" khi sản xuất vật chất thay đổi thì nó sẽ kéo theo sự thay đổi
của sản xuất tinh thần. Nhu cầu và lợi ích tinh thần, xét cho cùng, thường
xuyên chịu sự chi phối của nhu cầu và lợi ích vật chất. Xét theo mặt bằng xã
hội, con người thường có "mức sống" tinh thần tương ứng với mức sống kinh
tế. Mặt khác, chủ nghĩa duy vật lịch sử còn vạch ra sự thống nhất giữa đời
sống vật chất và đời sống tinh thần. Sự thống nhất đó thể hiện ở chỗ, đời sống
tinh thần tồn tại thông qua đời sống vật chất. Đời sống vật chất là phương
tiện, phương thức thể hiện của đời sống tinh thần. Nói cách khác, đời sống vật
19
chất là phương tiện thể hiện mặt bản thể luận của đời sống tinh thần. Chẳng
hạn, những giá trị tinh thần bao giờ cũng phải được tồn tại, phát triển thông
qua một số cơ sở, phương tiện vật chất như nhà in, đài phát thanh, đài truyền
hình, thư viện, viện bảo tàng… và được vật chất hoá dưới nhiều hình thức
như sách báo, tranh ảnh, băng hình, băng nhạc, tượng đài, đình chùa…
Như vậy, khái niệm đời sống trong nghiên cứu này được nhìn nhận dưới
góc độ là đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Chúng tôi cũng chọn cách
hiểu như trên nhưng được cụ thể như sau: Đời sống vật chất chính là tìm hiểu
những điều kiện kinh tế hộ gia đình, thu nhập trong đó kể tới khoản thu nhập
có được từ chính sách trợ giúp thường xuyên thông qua trợ cấp tiền mặt hàng
tháng, chi tiêu của hộ…Đời sống tinh thần được đánh giá dưới tác động của
chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên thông qua các hình thức trợ giúp về y
tế, chăm sóc sức khỏe của đối tượng và những trợ giúp về giáo dục, đào tạo
việc làm và sự tham gia của các đối tượng đến các hoạt động của cộng đồng.
 Khái niệm an sinh xã hội
Theo tiếng Anh, An sinh xã hội thường được gọi là Social Security và
khi dịch ra tiếng Việt, ngoài An sinh xã hội thì thuật ngữ này còn được dịch là
bảo đảm xã hội, bảo trợ xã hội, an ninh xã hội, an toàn xã hội… với những ý
nghĩa không hoàn toàn tương đồng nhau. Theo nghĩa chung nhất, Social
Security là sự đảm bảo thực hiện các quyền của con người được sống trong
hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong
khuôn khổ luật pháp; được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập,
được có việc làm, có nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những nhu
cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già…Theo nghĩa này thì tầm
“bao” của Social Security rất lớn và vì vậy khi dịch sang tiếng Việt có nhiều
nghĩa như trên cũng là điều dễ hiểu. Theo nghĩa hẹp, Social Security được
hiểu là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho
người lao động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc
mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cả, cô đơn,
trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người nghèo đói và những người bị thiên
tai, dịch hoạ…
20
Theo H. Beveridge, nhà kinh tế học và xã hội học người Anh (1879-
1963), ASXH là sự bảo đảm về việc làm khi người ta còn sức làm việc và bảo
đảm một lợi tức khi người ta không còn sức làm việc nữa.
Trong Đạo luật về An sinh xã hội của Mỹ thì An sinh xã hội được hiểu
khái quát hơn, đó là sự bảo đảm của xã hội, nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá
trị của cá nhân, đồng thời tạo lập cho con người một đời sống sung mãn và
hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ.
Theo Viện khoa học lao động và xã hội thì an sinh xã hội là hệ thống
các chính sách can thiệp của nhà nước (bảo hiểm xã hội/trợ giúp xã hội) và tư
nhân (các chế độ không theo luật định hoặc của tư nhân) nhằm giảm mức độ
nghèo đói và tổn thương, nâng cao năng lực tự bảo vệ của người dân và xã hội
trước những rủi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu nhập, bảo đảm ổn định,
phát triển và công bằng xã hội.
Để dễ thống nhất, trong đề tài này tôi dùng khái niệm của Tổ chức lao
động quốc tế (ILO) đang sử dụng: An sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối
với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm
chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu
nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật,
tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia
đình đông con.
Như vậy theo định nghĩa của ILO, ASXH được hiểu là sự thỏa mãn các
nhu cầu tối thiểu của đối tượng xã hội yếu thế hay dễ bị tổn thương, chúng tôi
dựa vào khái niệm này để thấy rằng, đối tượng của chính sách trợ cấp xã hội
thường xuyên cần được đáp ứng những nhu cầu sơ cấp như sau: khi bị đói họ
có được ăn no hay không, khi bị rét họ có quần áo mặc hay không, họ có nhà
của để che nắng che mưa hay không. Họ có bảo hiểm y tế để chăm sóc sức
khỏe khi đau ốm hay không, họ có được giúp đỡ về giáo dục, đào tạo hỗ trợ
việc làm để tạo ra thu nhập hay không.
 Khái niệm “trợ giúp thường xuyên”
Để hiểu được khái niệm TGXH thường xuyên trước hết chúng ta nên đi
tìm hiểu khái niệm trợ giúp xã hội.
21
Theo tác giả Nguyễn Văn Định (2008) cho rằng “Cứu trợ xã hội” là sự
giúp đỡ của xã hội bằng nguồn tài chính của Nhà nước và của cộng đồng đối
với các thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và gặp rủi ro trong cuộc sống như
thiên tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu…dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào
cảnh neo đơn túng quẫn nhằm giúp họ bảo đảm được điều kiện sống tối thiểu,
vượt qua cơn nghèo khốn và vươn lên trong cuộc sống bình thường”. Đồng
thời giải thích “Cứu tế xã hội là sự giúp đỡ của cộng đồng và xã hội bằng tiền
hoặc hiện vật, có tính tức thời, khẩn cấp và ở mức độ tối cần thiết cho người
được trợ cấp khi họ bị rơi vào hoàn cảnh bần cùng, không còn khả năng tự lo
liệu cuộc sống thường ngày cho bản thân họ và gia đình”. Cũng với cách tiếp
cận này tác giả cũng cho rằng “TGXH là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng xã
hội bằng tiền hoặc bằng các phương tiện thích hợp để người được trợ giúp có
thể phát huy được khả năng tự lo liệu cho cuộc sống bản thân và gia đình,
sớm hòa nhập lại với cộng đồng”.
Theo Nguyễn Ngọc Toản (2010), TGXH không chỉ là hoạt động của
cộng đồng và xã hội mà phải là trách nhiệm của Nhà nước, không những thế
còn là hoạt động có tính chất về công tác xã hội, không dành riêng cho một
hoặc một số đối tượng xã hội, đồng thời TGXH không phải là giải pháp toàn
diện về an sinh xã hội, mà chỉ là một hợp phần của an sinh xã hội. Như vậy,
có thể hiểu TGXH là biện pháp, giải pháp bảo đảm cho Nhà nước và xã hội
đối với các đối tượng Bảo trợ xã hội nhằm giúp họ khắc phục những khó
khăn trước mắt cũng như lâu dài trong cuộc sống. Việc bảo đảm này thông
qua các hoạt động cung cấp tài chính, vật phẩm, các điều kiện vật chất khác
cho đối tượng.
Như vậy chúng ta có thể hiểu, TGXH thường xuyên là một hệ thống
các chính sách chế độ của Nhà nước, chính quyền quy định việc trợ giúp một
cách thường xuyên, liên tục và có thể hiểu là trợ giúp hàng tháng nhằm tạo
điều kiện cho các đối tượng hưởng lợi có điều kiện ổn định cuộc sống.
 Vai trò của trợ giúp xã hội thường xuyên
Giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
là một thước đo quan trọng đánh giá được tố độ phát triển xã hội của mỗi
quốc gia cũng có nghĩa là việc phát triển xã hội kéo theo nó chính là vấn đề an
22
sinh xã hội và trợ giúp xã hội cũng sẽ trở thành một hợp phần không thế thiếu
trong mắt xích phát triển đó.
Thứ nhất, trợ giúp xã hội thưỡng xuyên sẽ là nhân tố giúp giảm phân
hóa giàu nghèo và giảm phân tầng xã hội, tạo đồng thuận xã hội giữa các
nhóm xã hội khác nhau trong quá trình phát triển. Kinh tế xã hội càng phát
triển thì xu hướng phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội và bất bình đẳng
càng gia tăng. Để tạo ra sự phát triển bền vững, đòi hỏi nhà nước càng phải
phát triển mạnh mẽ TGXHTX để điều hòa các mâu thuẫn xã hội phát sinh
trong quá trình phát triển. Đồng thời, TGXHTX sẽ thực hiện việc tái phân
phối lại của cải xã hội.
Thứ 2: TGXHTX sẽ cố gắng tập trung vào những vùng nghèo, vùng
chậm phát triển tạo nên sự phát triển hài hòa giữa các vùng, giảm bớt sự
chênh lệch giữa các vùng, các nhóm dân sư.
Thứ 3, TGXHTX có vai trò phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu và khắc phục
rủi ro và giải quyết một số vấn đề nảy sinh
TGXHTX sẽ trực tiếp giải quyết những rủi ro trong xã hội, giúp hạn
chế đến mức tối thiểu những tổn thương của rủi ro thông qua những chính
sách và chương trình cụ thể giúp các thành viên tái hòa nhập cộng đồng.
Đồng thời TGXHTX cũng là một lĩnh vực tạo nguồn tài chính choc ho phát
triển kinh tế và giúp tăng trưởng nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội,
góp phần ổn định xã hội và tạo ra sự phát triển bền vững.
1.1.2. Một số lý thuyết áp dụng trong đề tài
 Lý thuyết xã hội học về chính sách công
Lý thuyết xã hội học về chính sách công đã được nhà xã hội học người
Pháp Francois de Laction nêu lên với một cách tiếp cận mới mẻ, cách tiếp cận
Bottom up – tiếp cận từ dưới lên. Đây có thể nói là cách tiếp cận phổ biến trong
những nghiên cứu về chính sách trong thời gian gần đây. Bởi lẽ với cách tiếp
cận từ dưới lên như thế này đem lại những hiệu quả cao khi chúng ta nghiên
cứu về nhu cầu của những đối tượng thực hiện chính sách, nó cũng cho thấy
được tại địa phương thì những chính sách gì đang được áp dụng, phối hợp thực
hiện như thế nào. Đồng thời qua đó nhà nghiên cứu cũng đưa ra được những
đánh giá mức độ kì vọng của người tiếp nhận chính sách đó là như thế nào và
với cách tiếp cận này giúp nhà nghiên cứu đưa ra những giải thích vì sao có sự
23
“vênh” giữa chính sách và nhu cầu của người dân. Từ đó, kết quả mà mỗi
nghiên cứu mang lại đó là chúng ta có thể đánh giá đúng được nguồn nhân lực
của mỗi địa phương, nắm bắt được những cái chưa hoàn hảo, những cái chưa
đủ cần được cải thiện, góp phần xây dựng, bổ sung chính sách.
Tác giả cũng nêu lên nhận xét rằng chính sách công khi được thực thi
thì luôn có những lẫn lộn về mục tiêu. Có nghĩa là với mỗi một hoàn cảnh
khác nhau thì chính sách sẽ có những mục tiêu hướng đến khác nhau. Điều
này không cố gắng giải thích thành công hay thất bại của chính sách mà muốn
hướng đến việc rút ra quy luật của hành động. Trong xã hội học cũng vậy,
điều chúng ta muốn hướng đến đó chính là rút ra được một quy luật của quá
trình thẩm thấu những quy định chung, những chính sách chúng thành những
chính sách phù hợp với từng địa phương và người ta thường gọi là những
“sáng tạo chính sách” để phù hợp với nguồn lực của địa phương mình.
Trong quá trình đó các nhóm người khác nhau họ sẽ có những tuân thủ,
cũng như chia sẽ những ràng buộc, thành công hay thất bại của quá trình thực
hiện và từ đó tìm ra tiếng nói chung tạo ra sự thỏa hiệp của xã hội. Giữa
những đối tượng thực hiện chính sách và nhóm đối tưởng hưởng chính sách
sẽ diễn ra những cuộc thỏa hiệp hoặc những căng thẳng, xung đột.
Theo các tác giả này cũng nêu lên rằng chính sách công không phải là 1
trật tự xã hội cũng không phải là việc đảm bảo trật tự nhưng cũng không phải
là việc đảo lộn, không phải là trên nói là A thì ở dưới phải là A, cũng không
phải là trên nói A dưới sẽ làm thành Z (Padiodeau, 81- 140). Chính vì vậy
phải có sự thương thuyết để nó không trở thành áp đặt cũng không phải là đảo
lộn mà nó phụ thuộc vào từng đặc thù của địa phương. Trong quá trình tiếp
cận để lựa chọn thực hiện những chính sách nào hợp lý nhất thì có những giả
thuyết liên quan giữa các tác nhân chính là nhà nước, và các chiến lược tự trị,
tự quyết của địa phương. Trong sự phối hợp, điều tiết của quy tắc trung ương,
địa phương, người dân sẽ đưa ra những điều chỉnh hợp lý dựa trên 3 dạng
nguyên tắc cơ bản:
1. Nguyên tắc diễn giải các quy định theo cách hiểu của từng địa
phương dựa trên nguyên tắc hiểu văn bản ban hành. Khi áp dụng nguyên tắc
này trong nghiên cứu, chúng tôi muốn tìm hiểu xem, một khhi văn bản về
chính sách TGXHTX được ghi rõ ràng như vậy trên giấy tờ thì việc thực hiện
24
chúng có được đúng và đầy đủ trong thực tế hay không. Nội dung này sẽ được
giải quyết trong chương 2 của luận văn.
2. Nguyên tắc thương thuyết đi đến thỏa hiệp xã hội tạo ra khung tương
tác giữa các nhóm với nhau. Khi áp dụng nguyên tắc này, chúng tôi muốn tìm
hiểu xem trong điều kiện của địa phương như xã Đông Lĩnh thì chính quyền
địa phương có những chính sách gì hỗ trợ hay không.
3. Nguyên tắc xung đột : khi đưa ra những chính sách mới thì sẽ có các
nhóm đối tượng được hưởng lợi hoặc bị đe dọa. Khi đưa ra nguyên tắc thương
thuyết, họ sẽ xác định đối tượng nào hưởng lợi nhiều hơn và đối tượng nào bị
đe dọa lợi ích nhiều hơn và qua đó tạo nên những căng thẳng xung đột giữa
các nhóm với nhau. Khi áp dụng nguyên tắc này, chúng tôi muốn tìm hiểu
xem có sự khác biệt hay không về mức độ hài lòng giữa hai nhóm đối tượng
xã hội hưởng TCXHTX là người khuyết tật và người cao tuổi.
Theo như quan điểm của các tác giả đã nêu lên rằng trong quá trình
thực hiện chính sách thì bao giờ quá trình thực hiện cũng chịu những áp lực .
Áp lực về mặt thời gian có nghĩa là những chích sách đó từ trước đã như thế
nào, do ai ban hành, hiệu quả hoạt động ra sao. Theo chiều đồng đại thì được
hiểu là vị thế quyền lợi của các nhóm tác nhân rất là khác nhau và như thế họ
sẽ có những toan tính, quyết định khác nhau. Đây cũng chính là sự lựa chọn
một cách duy lý.
Có thể thấy rằng với cách tiếp cận từ dưới lên, lấy đối tượng hưởng lợi
làm xuất phát điểm rất phù hợp với quan điểm xây dựng chính sách ở nước ta
hiện nay. Với khẩu hiệu “ dân biết, dân làm, dân kiểm tra”, với phương châm
lấy dân làm gốc, xây dựng xã hội “ của dân, do dân và vì dân” thì việc lấy
những người dân, nhưng người được hưởng chính sách là xuất phát điểm là
hết sức hợp lý. Bởi lẽ, chính sách được sinh ra là để phục vụ người dân và
chính người dân là đối tượng của chính sách hướng đến, vậy với việc tiếp cận
từ dưới lên như thế này sẽ giúp cho nhà nghiên cứu nắm bắt được thực trạng
của vấn đề, biết được chích sách đang được tiến hành ra sao và mức độ hài
lòng của đối tượng hướng đến đâu.
25
 Lý thuyết cấp bậc Nhu cầu của Maslow
Maslow nhà khoa học xã hội nổi tiếng đã xây dựng học thuyết về nhu
cầu của con người vào những năm 1950. Lý thuyết của ông nhằm giải thích
những nhu cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để
một cá nhân hướng đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn
tinh thần.
Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một
hệ thống trật tự cấp bậc, trong đó các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất
hiện thì các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước.
Tầng thứ nhất: Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc "thể lý" (physiological)
- thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi.
Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn (safety) - cần có cảm giác yên tâm về an
toàn thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc
(love/belonging) - muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có
gia đình yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy.
Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến (esteem) - cần có cảm
giác được tôn trọng, kinh mến, được tin tưởng.
Tẩng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (self-actualization) -
muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có
được và được công nhận là thành đạt.
Maslow cho rằng con người muốn và luôn đấu tranh để thoả mãn
những nhu cầu khác nhau. Xuất phát từ việc những mức nhu cầu bậc thấp bao
giờ cũng cấp thiết và quan trọng hơn, nên chúng sẽ đóng vai trò như nguồn và
định hướng của một mục tiêu cá nhân nếu những nhu cầu này không được
thoả mãn.
Sau khi những nhu cầu bậc thấp được thoả mãn, những nhu cầu cao hơn
sẽ là động cơ hành động. Những nhu cầu chưa được thỏa mãn ở bậc dưới sẽ lấn
át những nhu cầu chưa được thỏa mãn ở bậc cao hơn, và chúng cần được thỏa
mãn trước khi một cá nhân tiến lên các bậc cao hơn của tháp nhu cầu.
Thang bậc nhu cầu cũng được áp dụng có hiệu quả trong việc tìm hiểu
và đánh giá hiểu quả của các chính sách đang triển khai, qua đó các nhà
nghiên cứu và quản lý có thể nắm bắt được tâm lí, sự khó khăn, thiếu hụt của
các đối tượng đang gặp phải ở vị trí nào trong tổng quan tháp nhu cầu để có
26
những thay đổi, điều chỉnh và rút ra những cách thức tổ chức cũng như có
những điều chỉnh phù hợp nhất nhằm phát huy tối đa tiềm năng của các đối
tượng thuộc diện hưởng chính sách.
 Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý
Thuyết lựa chọn hợp lý (hay còn gọi là thuyết lựa chọn duy lý) trong xã
hội học có nguồn gốc từ triết học, kinh tế học và nhân học vào thế kỷ VIII,
XIX. Một số nhà triết học đã cho rằng bản chất con người là vị kỷ, luôn tìm
đến sự hài lòng, sự thoả mãn và lảng tránh nỗi khổ đau. Một số nhà kinh tế
học cổ điển thì từng nhấn mạnh vai trò động lực cơ bản của động cơ kinh tế,
lợi nhuận khi con người phải đưa ra quyết định lựa chọn hành động. Đặc
trưng thứ nhất có tính chất xuất phát điểm của sự lựa chọn duy lý chính là các
cá nhân lựa chọn hành động.
Thuyết lựa chọn hợp lý dựa vào tiền đề cho rằng con người luôn hành
động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực
một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu.
Thuật ngữ “lựa chọn” được dùng để nhấn mạnh việc phải cân nhắc, tính
toán để quyết định sử dụng loại phương tiện hay cách thức tối ưu trong số
những điều kiện hay cách thức hiện có để đạt được mục tiêu trong điều kiện
khan hiếm các nguồn lực. Phạm vi của mục đích đây không chỉ có yếu tố vật
chất (lãi, lợi nhuận, thu nhập) mà còn có cả yếu tố lợi ích xã hội và tinh thần.
Trong xã hội học, Georg Simmel nêu ra nguyên tắc “cùng có lợi” của
mối tương tác xã hội giữa các cá nhân và cho rằng mỗi cá nhân luôn phải cân
nhắc, toan tính thiệt hơn để theo đuổi mục đích cá nhân, để thỏa mãn các nhu
cầu cá nhân.
Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng lý thuyết sự lựa chọn
hợp lý để giải thích và đánh giá mức độ hài lòng của đối tượng đối với chính
sách an sinh xã hội. Con người sẽ có những hành động theo cách theo một sự
lựa chọn mà người đó cho là đúng nhất, cho là có lợi nhất. Vậy khi nhận
được sự trợ cấp của nhà nước thông qua chương trình an sinh xã hội mà cụ
thể là hoạt động trợ giúp thường xuyên thì đối tượng hưởng lợi sẽ có những
thay đổi gì trong suy nghĩ và hành động để nhằm cải thiện cuộc sống dựa trên
những trợ giúp đó.
1.2 Cơ sở thực tiễn của nghiên cứu
27
1.2.1 Đặc thù của địa bàn nghiên cứu
Thái Bình là tỉnh duyên hải của Đồng bằng sông Hồng, gần tam
giác phát triển Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Tổng diện tích địa lý của
Thái Bình là 1.542 Km2, bằng 0,5% diện tích của cả nước. Tỉnh Thái
Bình gôm 7 huyện là Đông Hưng, Hưng Hà, Kiến Xương, Quỳnh Phụ,
Tiền Hải, Thái Thụy, Vũ Thư và thành phố Thái Bình. Tổng cộng, Thái
Bình có 284 xã và phường.
Theo thống kê năm 2008, dân số Thái Bình ước tính là 1.827.000
người, trong đó 94,2% sống ở nông thôn. Quy mô gia đình trung bình là 3,75
người. Dân số đang ở độ tuổi lao động lớn, gồm 1.073.000 người; 74,3% lực
lượng lao động làm nghề nông, 17% trong các ngành xây dựng và sản xuất;
8,7% làm trong các ngành thương mại và dịch vụ. Về mặt chất lượng lao
động, dưới ¼ (23,4%) đã được học nghề; 5,5% học trung cấp; 4,5% học đại
học và cao đẳng.
Là tỉnh có số dân trên 1,8 triệu người, mật độ 1.192 người/km2 cao
nhất vùng ĐBSH. Trước yêu cầu phát triển kinh tế cùng với quá trình công
nghiệp hoá, đô thị hoá và áp lực đòi hỏi dân số, đòi hỏi nhu cầu nước cho sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp và dân sinh ngày càng tăng về số lượng và
chất lượng.
Theo Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
năm 2012 thì tổng giá trị sản xuất kinh tế đạt 92 tỷ 294 triệu đồng trong đó giá
trị sản xuất nông nghiệp đạt 39 tỷ 965 triệu đồng, giá trị sản xuất Công
nghiệp-tiểu thủ công nghiệp đạt 34 tỷ 576 triệu đồng, giá trị sản xuất Thương
mại- dịch vụ 17 tỷ 753 triệu đồng. Về cơ cấu kinh tế thì sản xuất nông nghiệp
chiếm 43,3%, công nghiệp – TTCN và xây dựng cơ bản chiếm 37,5%, thương
mại- dịch vụ chiếm 19,2% [22].
Thực tế trong những năm gần đây và nhất là từ năm 2011 đến năm
2012 do tác động của thị trường nên sản xuất Công nghiệp- Tiểu thủ công
nghiệp có chiều hướng suy giảm trên địa bàn tỉnh nói chung và xã Đông Lĩnh
nói riêng. Nguyên nhân do sản xuất Tiểu thủ công nghiệp cho thu nhập thấp
nên lao động nông nhàn đã có nhiều người bỏ nghề chuyển sang việc khác
cho thu nhập cao hơn. Ngay tại các thôn đã được công nhận làng nghề cũng
rất khó khăn trong việc duy trì những nghề hiện có.
28
Hoạt động tài chính ngân sách, thu ngân sách năm 2012 là
4.152.812.816 đồng và chi nhân sách năm 2012 là 3.805.802.700 đồng. Nhìn
chung ngân sách còn gặp nhiều khó khăn chủ yếu thu từ ngân sách cấp trên,
xong trên cơ sở tiết kiệm chi 10% và dự phòng ngân sách. Hạn chế những
khoản chị chưa cần thiết ưu tiên chi cho những hoạt động phục vụ các nhiệm
vụ chính trị của địa phương [22].
Đông Lĩnh là một xã có số đông những đối tượng thuộc chính sách bảo
trợ của xã hội. Toàn xã có 247 đối tượng chính sách, người có công với cách
mạng, có 190 đối tượng là người cao tuổi đang thuộc diện chính sách trợ cấp,
41 đối tượng tâm thần hay mắc các chứng bệnh tâm thần phân liệt, 37 người
khuyết tật suy giảm nặng về sức khỏe không có khả năng phục vụ bản thân và
đang nhận được trợ giúp….
1.2.2 Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên đang áp dụng hiện nay
An sinh xã hội có vị trí quan trọng trong chiếm lược phát triển kinh tế -
xã hội của mỗi quốc gia. ASXH là nhằm thực hiện quyền cơ bản của con
người, thực hiện bình đẳng và công bằng xã hội góp phần xây dựng một xã
hội hài hòa, đồng thuận, không có sự loại trừ và phát triển bễn vững.
Chính sách an sinh xã hội có nội dung rất rộng và ngày càng được hoàn
thiện trong quá trình nhận thức và thực tiễn xã hội của một xã hội toàn cầu
luôn biến đổi. Chính sách trợ giúp xã hội là một nội dung quan trọng trong hệ
thống an sinh đó, nó bao gồm trợ giúp đột xuất và trợ giúp thường xuyên đã
được nhà nước quan tâm và ban hành nhiều văn bản chính sách, nhằm trợ
giúp đối tượng như: Nghị định 05/CP ngày 26/1/1994 của Chính phủ quy định
chế độ trợ cấp đối với các đối tượng chính sách xã hội: Pháp lệnh người tàn
tật số 06/1998/PL-UBTVQH ngày 30/7/1998; Nghị định 55/1999/NĐ-CP
ngày 10/7/1999 hướng dẫn và quy định chi tiết một số điều của pháp lệnh
người tàn tật, Pháp lệnh người cao tuổi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua ngày 28/4/2000 và đến năm 2009 nâng lên thành Luật Người cao
tuổi; Quốc hội, ngày 15/6/2004 đã thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc và Giáo
dục trẻ em...Đặc biệt, Nghị định số 67/2007/NĐ-CP (năm 2010 bổ sung bằng
Nghị định số 13/2010/NĐ-CP) và Nghị định số 68/2007/NĐ-CP của Chính
phủ về chính sách chế độ trợ giúp xã hội và quy định tiêu chuẩn thành lập cơ
sở bảo trợ xã hội).
29
Trong đề tài này, chúng tôi chủ yếu tập chung vào Nghị định số
67/2007/NĐ-CP được ban hành vào ngày 13 tháng 4 năm 2007 về chính sách
trợ giúp các đối tượng Bảo trợ xã hội và đã được sửa đổi vào ngày 27 tháng 2
năm 2010. Tại nghị định đã quy định rõ 9 đối tượng bảo trợ xã hội do xã,
phường, thị trấn quả lý bao gồm:
1.Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng;
trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích theo
quy định tại Điều 78 của Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để
nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc
mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không còn người
nuôi dưỡng; trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ gia đình nghèo. Người chưa
thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nhưng đang đi học văn hóa, học nghề, có
hoàn cảnh như trẻ em nêu trên.
2. Người cao tuổi cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo; người cao tuổi còn
vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để nương
tựa, thuộc hộ gia đình nghèo (theo chuẩn nghèo được Chính phủ quy định cho
từng thời kỳ).
3. Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp BHXH
4. Người tàn tật nặng không có khả năng lao động hoặc không có khả
năng tự phục vụ.
5. Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn
tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng
chưa thuyên giảm.
6. Người HIV/AIDS không còn khả năng lao động, thuộc hộ nghèo.
7. Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi.
8. Hộ gia đình có từ 02 NKT trở lên, không có khả năng tự phục vụ.
9. Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo, đang nuôi con nhỏ dưới 16
tuổi; trường hợp con đang đi học văn hoá, học nghề được áp dụng đến dưới
18 tuổi.
Cũng liên quan đến vấn đề bảo trợ xã hội bằng hình thức trợ giúp hàng
thàng thì trong Luật Người Cao tuổi có đề cập đến đối tượng người cao tuổi
thì 80 trở lên sẽ là đối tượng nhận được sự trợ giúp hàng tháng. Vì thế chính
30
sách trợ giúp xã hội cho đối tượng từ 85 chỉ được áp dụng đến hết ngày 31
tháng 12 năm 2010. Tiếp sau đó chế độ trợ cấp thường xuyên sẽ được thực
hiện như luật Người cao tuổi đối với những đối tượng được quy định tại
khoản 3 điều 4 của Nghị định 67/2007/NĐ-CP. Như vậy, trong đề tài này
chúng tôi sẽ tìm hiểu nghiên cứu những đối tượng người già từ 80 tuổi trở lên
không có bảo hiểm xã hội.
Liên quan đến mức trợ giúp tiền mặt hàng tháng, theo như quy định
năm 2007 về bảo trợ xã hội thì mức thấp nhất các đối tượng được nhận là
120.000 đồng tính là hệ số 1 và tùy theo từng đối tượng mức này sẽ được thay
đổi và có hướng dẫn thực hiện cụ thể. Đến năm 2010 thì mức trợ cấp này
cũng được sửa đổi cho phù hợp với điều kiện kinh tế và nó được tăng lên
thành 180.000 đồng trên một tháng. Mức trợ cấp này có thể được tăng lên tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế của từng địa phương thực hiện những luôn phải
đảm bảo mức tối thiểu là 180.000 đồng đối với tất cả các đối tượng.
Ngoài ra theo nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2005
của Chính phủ ban hành thì tất cả các đối tượng được hưởng trợ giúp thường
xuyên sẽ được hưởng các chế độ về thẻ bảo hiểm y tế khám chữa bệnh tại các
bệnh viện công lập. Các đối tượng là trẻ em đồng thời sẽ được hưởng các
chính sách theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Theo đó các đối
tượng này còn được trợ giúp miễn, giảm học phí và được cấp sách vở và đồ
dùng phục vụ việc học tập.
1.2.3. Đặc điểm kinh tế -xã hội của hộ gia đình có người được hưởng
trợ giúp xã hội thường xuyên.
* Quy mô hộ gia đình có người hưởng TGXHTX
Trong nghiên cứu, việc tìm hiểu về quy mô hộ gia đình với mục đích
muốn biết số thành viên đang cùng chung sống, cùng ăn, cùng ở, cùng phụ
thuộc vào quỹ thu nhập, chi tiêu chung của gia đình của một hộ gia đình ở
Đông Lĩnh hiện nay đang có cơ cấu như thế nào.
31
Bảng 1.1: Quy mô hộ gia đình của ngƣời hƣởng TGXHTX
STT Quy mô hộ Số lƣợng Chiếm %
1 Hộ 1 thành viên 16 6
2 Hộ 2 thành viên 125 46.6
3 Hộ 3 thành viên 36 13.4
4 Hộ 4 thành viên 64 23.9
5 Hộ 5 thành viên 15 5.6
6 Hộ hơn 5 thành viên 12 4.5
(Nguồn: Kết quả điều tra)
Theo tỷ lệ từ cao đến thấp thì số hộ gia đình có 2 thành viên chiếm
46.6%, tiếp đến đó là những hộ có 3 thành viên chiếm 13.4%, những hộ có 4
thành viên chiếm tỷ lệ là 23.9%, những hộ chỉ có một thành viên duy nhất lại
chiếm 6 %, hộ có 5 thành viên chiếm 5.6%, hộ hơn 5 thành viên thì chiếm số
lượng nhỏ là 4%.
Theo kết quả khảo mức sống dân cư năm 2010 của Tổng cục Thống
Kê, nhân khẩu bình quân 1 hộ dân cư thuộc khu vực nông thôn cao hơn khu
vực thành thị, của hộ dân cư nghèo cao hơn hộ giàu, vùng núi cao hơn vùng
đồng bằng. Nhân khẩu bình quân 1 hộ ở nông thôn là 3,92 người, cao gấp
1,03 lần hộ ở thành thị và xấp xỉ năm 2008 (con số này năm 2008 là 1,02 lần).
Nhóm hộ nghèo nhất có số nhân khẩu bình quân 1 hộ là 4,18 người, cao gấp
1,2 lần so với nhóm hộ giàu nhất. Các vùng Trung du và miền núi phía Bắc và
Tây Nguyên có số nhân khẩu bình quân 1 hộ cao hơn các vùng khác [25].
Thái Bình là một trong số những tỉnh đông dân, cũng là tỉnh ít tài
nguyên thiên nhiên, ngành nghề chủ yếu là nông nghiệp tập trung vào thâm
canh cây lúa. Nhóm người thuộc độ tuổi lao động lớn, tình trạng thiếu việc
làm trở thành vấn đề đáng lo ngại. Công việc của người dân ở đây chủ yếu chỉ
mang tính chất mùa vụ. Chính vì vậy số lượng người rời quê hương đi làm ăn
xa lớn, điều này giải thích cho việc những hộ gia đình có từ 1 đến 2 thành
viên chiếm tỷ lệ cao. Theo cơ cấu số lượng mẫu khảo sát thì những hộ gia
đình có người cao tuổi lớn; chủ yếu là có 1 vợ 1 chồng chiếm tỷ lệ cao ngược
lại những hộ gia đình có đông thành viên lại càng ít. Điều này cũng cho thấy
quy mô hộ gia đình ở Đông Lĩnh hiện nay cũng đang theo xu hướng chung
32
của Việt Nam đó là gia đình nhiều thế hệ đang ngày càng giảm thay vào đó là
những gia đình hạt nhân.
*Thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình
Thu nhập bình quân hộ gia đình
Khi nghiên cứu về hộ gia đình thì chỉ báo thu nhập của hộ là vô cùng
quan trọng bởi nó chỉ ra được điều kiện kinh tế của hộ gia đình đó. Thu nhập
hộ cũng là một nhân tố có cảnh hưởng rất lớn đến đời sống của các thành viên
từ vấn đề chăm sóc sức khỏe, tình trạng học vấn hay các hoạt động thư giãn
giải trí….Nhưng thu nhập của hộ cũng phụ thuộc vào số thành viên sinh sống
và tạo ra thu nhập trong hộ. Có thể nói những nhóm đối tượng mà đề tài đang
hướng đến là nhóm đối tượng đặc biệt. Họ đã không còn khả năng lao động
mà thậm chí là khả năng tự phụ vụ bản thân. Việc đi tìm hiểu xem những đối
tượng này đang sinh sống trong những gia đình như thế nào là câu hỏi mà
chúng tôi đang tìm kiếm câu trả lời.
Với số mẫu là 268 hộ gia đình hiện đang có đối tượng hưởng trợ cấp
sinh sống cùng với các thang đo: thu nhập dưới 1 triệu, từ 1 đến 3 triệu, từ 3-5
triệu và trên 5 triệu trên tháng
Bảng 1.2: Thu nhập hộ gia đình có ngƣời đƣợc hƣởng TGXHTX
STT Thu nhập Số hộ gia đình Chiếm tỷ lệ %
1 Dưới 1 triệu 187 69.8
2 Từ 1-3 triệu 41 15.3
3 Từ 3-5 triệu 18 6.7
4 Trên 5 triệu 22 8.2
5 Tổng 268 100
(Nguồn số liệu điều tra)
Những hộ gia đình có mức thu nhập dưới 1 triệu có tỷ lệ cao nhất là
187 hộ chiếm 69.8%, tiếp đến là những hộ có thu nhập từ 1 đến 3 triệu có số
lượng là 41 hộ chiếm 15.3%, những gia đình có thu nhập từ 3-5 triệu có 18 hộ
chiếm 6.7% còn mức trên 5 triệu đồng thì chiếm 8.2%. Có sự nghịch biến
trong số hộ gia đình và số tiền thu nhập hàng tháng. Số tiền hàng tháng càng ít
thì số hộ càng nhiều. Đây là hiện tượng đáng suy nghĩ trong khi những hộ gia
đình có người cần được trợ giúp thì lại là những hộ có thu nhập thấp. Điều
33
này sẽ ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến đời sống của đối tượng hưởng chính
sách TGXHTX mà còn đối với cả các thành viên trong gia đình.
Bảng 1.3: Tƣơng quan giữa quy mô hộ gia đình và thu nhập trung bình
của hộ gia đình/tháng
Quy mô hộ
Dƣới 1
triệu
Từ 1-3
triệu
Từ 3-5
triệu
Hơn 5
triệu
Tổng
1.Hộ 1 thành viên 16 0 0 0 16
2.Hộ 2 thành viên 91 34 0 0 125
3.Hộ 3 thành viên 21 7 8 0 36
4.Hộ 4 thành viên 35 0 10 19 64
5.Hộ 5 thành viên 12 0 0 3 15
6.Hơn 5 thành viên 12 0 0 0 12
Tổng 187 41 18 22 268
(Nguồn: số liệu điều tra)
Thu nhập hộ gia đình phụ thuộc rất nhiều vào quy mô hộ. Nếu trong điều
kiện bình thường các thành viên trong hộ gia đình có thể lao động tạo thu nhập
đóng góp vào quỹ thu nhập chung của cả hộ thì điều hiển nhiên hộ gia đình càng
đông thành viên thì mức thu nhập càng cao. Nhưng trong điều kiện những hộ gia
đình có người được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên có diễn biến
theo quy luật đó không? Đây là điều mà chúng tôi muốn hướng đến tìm hiểu khi
xây dựng bảng chéo tương quan giữa số thành viên và thu nhập hộ.
Mức thu nhập dưới 1 triệu là mức thu phổ biến ở mọi quy mô hộ gia
đình. Chiếm tỷ lệ thấp nhất là gia đình có từ 5 thành viên trở lên và có một
thành viên. Đối với gia đình có một thành viên thì mức thu nhập này không
cần bàn tới nhưng đối với những hộ gia đình có 5 thành viên thì mức thu nhập
này là quá thấp không thể đảm bảo được cuộc sống tối thiểu hàng ngày. Đây
cũng là số hộ gia đình khó khăn nhất trong tất những hộ gia đình có người
được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên.
Chi tiêu bình quân
Bên cạnh chỉ báo thu nhập thì chỉ báo về chi tiêu cũng góp phần quan
trọng trong việc đánh giá điều kiện sống hộ gia đình và có thể giúp chúng tôi
đánh giá được chất lượng đời sống của những hộ gia đình có đối tượng hưởng
chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên đang diễn ra như thế nào?
34
Bảng 1.4: Chi tiêu bình quân hộ gia đình trên 1 tháng
STT Chi tiêu/1 tháng Tổng 268 Chiếm %
1 Dưới 1 triệu 224 83.6
2 Từ 1-2 triệu 14 5.2
3 Từ 2-3 triệu 11 4.1
4 Từ 3-4 triệu 2 0.7
5 Trên 4 triệu 17 6.3
Tổng 268 100%
(Nguồn: Số liệu điều tra)
Như vậy, những hộ gia đình có mức chi tiêu dưới 1 triệu chiếm tỷ lệ
rất lớn là 83.6%, các mức chi tiêu cao hơn thì lại chiếm tỷ lệ rất nhỏ. So với
thu nhập bình quân hàng tháng của hộ gia đình thì những hộ gia đình thu nhập
dưới 1 triệu chiếm có 69.8%. Như vậy có sự chênh lệch giữa thu nhập và chi
tiêu của hộ gia đình ở mức dưới 1 triệu. Điều này nói lên được rằng đới sống
của các hộ gia đình có đối tượng hưởng chính sách TGXHTX đang rất bấp
bênh, điều kiện sống của các hộ gia đình có người được hưởng TGXHTX gặp
phải nhiều khó khăn hơn.
Theo khảo sát Mức sống dân cư năm 2010 của Tổng cục Thống kê,
Tính chung cả nước, chi tiêu theo giá hiện hành năm 2010 bình quân 1 người
1 tháng đạt 1.211 nghìn đồng, tăng 52,8% so với năm 2008, bình quân mỗi
năm tăng 23,6%. Chi tiêu thực tế (chi tiêu sau khi loại trừ yếu tố tăng giá) thời
kỳ 2008-2010 tăng 14,1% mỗi năm, cao hơn mức tăng 7,9% mỗi năm của
thời kỳ 2006-2008, 5,2% của thời kỳ 2004-2006 và mức tăng 10,3% của thời
kỳ 2002-2004. Ở các vùng, chi tiêu bình quân đầu người 1 tháng năm 2010
tăng khá so năm 2008, trong đó tăng chậm nhất là Đông Nam Bộ, cao nhất là
Đồng bằng sông Hồng.
Năm 2010 chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người 1 tháng ở khu vực
nông thôn đạt 891 nghìn đồng, tăng 62,4% so với năm 2008; khu vực thành thị
đạt 1.726 nghìn đồng, tăng 54,9% so năm 2008. Mức chi tiêu cho đời sống ở
khu vực thành thị gấp 1,94 lần ở khu vực nông thôn và có xu hướng thu hẹp
dần khoảng cách (hệ số này ở thời kỳ 2006-2008 là 2,03 lần; 2004-2006 là 2,06
lần; 2002-2004 là 2,1 lần). Chi tiêu cho đời sống năm 2010 của nhóm hộ nghèo
nhất tăng 51,4%; của nhóm hộ giàu nhất tăng 66,2% so với năm 2008. Chi tiêu
35
cho đời sống của nhóm hộ giàu nhất cao gấp 4,6 lần của nhóm hộ nghèo nhất
(hệ số này năm 2008 là 4,2 lần, 2006, 2004 và 2002 đều là 4,5 lần).
Tỷ trọng chi ăn uống trong chi tiêu đời sống là một chỉ tiêu đánh giá
mức sống cao hay thấp. Tỷ trọng này càng cao thì mức sống càng thấp và
ngược lại. Việt Nam là một nước còn nghèo nên tỷ trọng này còn cao, nhưng
đã có xu hướng giảm, từ 56,7% năm 2002 giảm xuống 52,9% năm 2010.
Nhóm hộ giàu nhất có mức chi tiêu những hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ngoài
ăn uống lớn gấp 7,4 lần so với nhóm hộ nghèo nhất, trong đó chi về nhà ở,
điện nước, vệ sinh gấp 10,9 lần; chi thiết bị và đồ dùng gia đình gấp 5,8 lần,
chi y tế, chăm sóc sức khoẻ gấp 3,6 lần, chi đi lại và bưu điện gấp 12,5 lần,
chi giáo dục gấp 5,6 lần, chi văn hoá thể thao giải trí gấp 132 lần [25].
Ở đây có thể thấy rõ được mức chênh lệch. Nếu bình quân hàng tháng
chi tiêu của một người dân theo như thống kế của Tổng cục Thống kê tại các
vùng nông thôn là 891 nghìn đồng/ 1 tháng thì ở nghiên cứu này mức chi tiêu
bình quân của cả Hộ gia đình có đối tượng hưởng trợ cấp xã hội thường
xuyên mới đạt được là dưới 1 triệu đồng/ tháng. Sự chênh lệch quá lớn này
cũng là điều làm cho nhà nghiên cứu đáng quan tâm. Như vậy liệu rằng có
dám nghĩ đến đảm bảo “chất lượng” cuộc sống nữa hay không.
Tài sản của hộ gia đình có người được hưởng TGXHTX
Khi xã hội phát triển, đời sống của con người dù ít hay nhiều cũng có
những thay đổi nhất định để bắt kịp với tốc độ phát triển. Nhưng vật dụng
phục vụ con người hàng ngày cũng được cải thiện nhằm đem đến cuộc sống
đỡ tiện nghi hơn, thoải mái và hiện đại hơn. Những tài sản mà hộ gia đình đó
sử dụng sẽ là một minh chứng đáng kể phản ánh được khả năng đáp ứng nhu
cầu sống cần thiết của hộ gia đình đó đến đâu. Hay nói cách khác là đánh giá
được đời sống vật chất của hộ gia đình đó mà trong đó có cả những người
đang được hưởng trợ giúp thường xuyên.
Tài sản đầu tiên mà khi nhìn vào hộ gia đình ta nghĩ ngay đến đó chính
là ngôi nhà. Theo quan niệm của người dân Việt Nam “An cư lạp nghiệp”, có
lẽ chính vì thế mà người dân Việt Nam luôn luôn chú ý đến vấn đề xây dựng
nhà cửa và coi đây như một thứ tài sản quan trọng. Hơn nữa, nhà còn được sử
dụng với mục đích kinh tế như để tổ chức các hoạt động, sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ. Ngân hàng hay các tổ chức tín dụng cũng coi đây là điều kiện
36
tiên quyết để cho hộ gia đình vay vốn. Cũng nhờ thế mà khi muốn đánh giá
năng lực kinh tế của một hộ gia đình có thể lấy chất lượng ngôi nhà mà hộ gia
đình đang sinh sống làm một thước đo..
Bảng 1.5: Kiểu nhà của các hộ gia đình có đối tƣợng hƣởng TGXHTX
STT Kiểu nhà Số lƣợng Chiếm %
1 Nhà cao tầng 12 4.5
2 Nhà mái bằng 135 50.4
3 Nhà lợp ngói 121 45.1
4 Nhà tạm 0 0
5 Tổng 268 100
Cũng theo như quan sát của chúng tôi kết hợp qua tìm hiểu bằng bảng
hỏi thì nhà mái bằng là kiểu nhà được đa số người dân lựa chọn chiếm tỷ lệ
50.4 %, tiếp đến là nhà lợp ngói chiếm 43.3%. Tỷ lệ hộ gia đình được ở kiểu
nhà cao tầng chiếm thấp nhất có 4.5 %. Tại địa phương tình trạng nhà tạm
(nhà tranh tre, nứa lá, nhà đắp đất…) hiện đã được xóa bỏ hoàn toàn điều này
theo chủ trương chính sách của nhà nước, xóa nhà ở dột nát cho những hộ gia
đình nghèo, gia đình chính sách.
Bảng 1.6: Tài sản của hộ gia đình có đối tƣợng hƣởng TGXHTX
STT Đồ dùng Tổng số 268 Tỷ lệ %
1 Đài radio 79 29.5
2 Tivi 268 100
3 Đầu đĩa 107 40
4 Xe máy 157 58.5
5 Điện thoại 268 100
6 Máy giặt 12 4.4
7 Bếp ga 209 78
8 Tủ lạnh 137 51.1
9 Khác 49 18.2
(Nguồn: số liệu điều tra)
Khi được hỏi về vấn đề này thì 100% các hộ gia đình đều có tivi và
điện thoại. Những vật dụng như đài và đầu đĩa có tỷ lệ ít hộ sử dụng cũng là
do mức độ phổ biến hiện nay cũng thấp và nhu cầu sử dụng của người dân
ngày càng giảm đối với 2 loại tài sản này. Với bếp ga thì tỷ lệ hộ gia đình sử
37
dụng có phần nhiều hơn vì được cho đây là vật dụng khá cần thiết đối với
cuộc sống. Xe máy, phương tiện di chuyển chủ yếu hiện nay của đa số người
dân thì việc sử dụng vẫn còn hạn chế, chỉ có 58.5%. Máy giặt và tủ lạnh cũng
là vật dụng được ít hộ gia đình sử dụng do nó chưa thật sự cần thiết lắm đối
với những gia đình điều kiện kinh tế không cao.
Đặc điểm nhân khẩu học của chủ hộ gia đình có người đang được
hưởng TGXHTX.
Trong phần này, chúng tôi sẽ đi sâu vào phân tích những đặc điểm nhân
khẩu học của chủ hộ gia đình của người đang được hưởng chính sách trợ giúp
xã hội thường xuyên. Bởi vì chủ hộ có vai trò quan trọng đối với kinh tế hộ,
quan hệ cộng đồng, quyền quyết định liên quan đến phúc lợi chung của hộ,
những đặc điểm trên thực tế phản ánh chất lượng lực lượng lao động của hộ
gia đình đó.
* Tuổi của chủ hộ
Theo quy định của Bộ luật Lao động thì tuổi nghỉ hưu chính thức là 55
đối với nữ và 60 đối với nam. Việc tìm hiểu về tuổi của chủ hộ gia đình có
người hưởng TGTX là một trong những biến số giúp đánh giá được điều kiện,
khả năng hoạt động kinh tế của họ.
Bảng 1.7: Tuổi của chủ hộ có ngƣời hƣởng TGTX
Tuổi Số lƣợng Tỷ lệ %
1. Dưới 60 tuổi 52 19.4
2. Từ 60-70 tuổi 12 4.5
3. Từ 70-80 tuổi 152 56.7
4. Trên 80 tuổi 52 19.4
Tổng 268 100.0
(Nguồn: Kết quả điều tra)
Theo kết quả điều tra, những hộ gia đình có người hưởng TGXH có
chủ hộ từ 70-80 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 56.7%. Như vậy là có tới hơn một
nửa số hộ gia đình được điều tra có chủ hộ từ 70-80 tuổi.Tiếp đến là 19.4%
chủ hộ có độ tuổi dưới 60 và trên 80, thấp nhất là chủ hộ từ 60-70 tuổi chiếm
tỷ lệ nhỏ là 12 %. Từ đây ta có thể thấy rằng, phần lớn chủ hộ của những gia
đình có người được hưởng TGXHTX đã hết tuổi lao động theo chuẩn của Bộ
38
luật Lao động. Những chủ hộ còn trong độ tuổi lao động bằng với số lượng
những chủ hộ trên 80 tuổi chính là đối tượng được nhận trợ giúp thường
xuyên. Kết quả cũng chỉ ra rằng, những gia đình có chủ hộ nằm ngoài độ tuổi
lao động sẽ ảnh hưởng xấu đến điều kiện, khả năng hoạt động kinh tế của họ,
làm tăng gánh nặng kinh tế của các thành viên khác đang làm việc. Hay nói
cách khác chủ hộ chỉ có giá trị tượng trưng về tuổi chứ không góp phần vào
thu nhập chung. Điều này dẫn đến khả năng là những hộ gia đình có người
hưởng chính sách TGXHTX tiếp tục gặp khó khăn.
* Giới tính của chủ hộ có người hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên
Giới tính của chủ hộ sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến điều kiện
sinh sống của từng hộ gia đình nhất là với những hộ gia đình đang sinh sống
tại các vùng nông thôn đặt trong bối cảnh xã hội vẫn chưa có những nhận
thức đúng đắn về vấn đề giới tính.
Biểu 1.1: Giới tính chủ hộ
Nam
60%
Nữ
40%
(Nguồn: Kết quả điều tra)
Tỷ lệ những chủ hộ gia đình có người được hưởng TGXHTX là nam
nhiều hơn nữ. Nhưng phần chênh lệch là không lớn, nam là chủ hộ có 161
người còn nữ là chủ hộ lại chiếm 107 người. Điều này cũng dễ hiểu, dù đã có
những cải cách rất nhiều trong vấn đề giới và bình đẳng giới nhưng quan niệm
từ xa xưa của ông cha ta thì người đàn ông trong gia đình luôn được coi là trụ
cột, có trách nhiệm gánh vác mọi công việc lớn nhỏ, có vai trò quyết định
trong mọi việc. Tuy đã có nhiều thay đổi những khi được lựa chọn nam hay
nữ làm chủ hộ để đại diện gia đình để đưa ra mọi quyết định thì nam giới vẫn
39
được ưu ái hơn. Nhưng trong trường hợp này thì có sự chênh lệnh được thu
hẹp lại bởi lẽ những gia đình được điều tra có những hoàn cảnh đặc biệt. Họ
có thể là những gia đình có người cao tuổi, họ là những gia đình có người
khuyết tật, có những hoàn cảnh đặc biệt như trường hợp người chồng lại là
người khuyết tật thì gánh nặng về gia đình và trách nhiệm kiếm tiền được đặt
lên vai người vợ, hoặc những hộ gia đình đơn thân.
Trong bối cảnh bất bình đẳng giới vẫn còn như hiện nay mà đặc biệt là
ở những vùng nông thôn thì những hộ gia đình có chủ hộ là nữ sẽ phải đối
mặt với nhiều khó khăn hơn trong các hoạt động kinh tế cũng như nâng cao vị
thế xã hội so với những hộ gia đình có chủ hộ là nam giới.
* Trình độ học vấn của chủ hộ gia đình
Một chỉ số quan trọng đánh giá năng lực kinh tế của một cá nhân đó
chính là trình độ học vấn. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy rằng,
chủ hộ của những gia đình có người được hưởng trợ giúp xã hội thường
xuyên có trình độ học vấn rất thấp. Những chủ hộ có trình hộ học vấn là tiểu
học chiếm 50%, 20 % chủ hộ chưa từng đi học, tiếp đến là chủ hộ được học
hết trung học cơ sở chiếm 18% còn trung học cơ sở chiếm 6% còn lại chỉ có
9% là những người chủ hộ có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học.
Biểu 1.2: Trình độ học vấn của chủ hộ
(Nguồn: Kết quả điều tra)
Điều này cũng có thể được giải thích rằng, chủ yếu chủ hộ gia đình
trong mẫu nghiên cứu nay là những người cao tuổi, được sinh ra trong hoàn
cảnh khó khăn đặc biệt của đất nước, lúc ấy nhận thức về việc học vẫn chưa
40
được nâng cao, việc đến trường vẫn còn bị xem nhẹ, chính vì thế mà quá một
nửa số chủ hộ được hỏi thì đều có trình độ học vấn thấp. Rõ ràng, với trình độ
học vấn thấp, chủ hộ gia đình có người được hưởng TGXHTX gặp phải nhiều
hạn chế hơn về cơ hội kiếm việc làm và năng lực kinh tế, vì vậy sẽ hạn chế sự
phát triển kinh tế - xã hội của gia đình.
Bảng 1.8: Tƣơng quan giữa trình độ học vấn của chủ hộ và thu nhập
chung của hộ gia đình có ngƣời hƣởng TGXHTX
Quy mô hộ
Dƣới 1
triệu
Từ 1-3
triệu
Từ 3-5
triệu
Hơn 5
triệu
Tổng
1.Không đi học 51 0 0 0 51
2.Tiểu học 104 30 0 0 134
3. THCS 32 11 1 0 44
4. THPT 0 0 7 9 16
5. TC- CĐ- ĐH 0 0 10 13 23
Tổng 187 41 18 22 268
(Nguồn: Số liệu điều tra)
Như vậy có thể thấy chiếm hơn 50% số hộ gia đình được điều tra có thu
nhập dưới 1 triệu và phân bố chủ yếu ở những hộ gia đình chủ hộ có trình hộ
học vấn thấp là ở mức tiểu học hoặc không đi học, chiếm hơn 20% là những
hộ gia đình có thu nhập từ 1 đến 3 triệu và tập trung ở những gia đình có chủ
hộ học tiểu học và trung học cơ sở. Những gia đình có thu nhập cao hơn từ 3-
5 triệu hay hơn 5 triệu thì lại có chủ hộ có trình độ học vấn cao hơn. Như vậy
có sự trùng lặp đáng ngạc nhiên là những hộ gia đình có thu nhập thấp thì lại
chủ hộ gia đình có trình độ học vấn thấp. Ngược lại những hộ gia đình có thu
nhập cao thì lại chủ hộ cũng có trình độ học vấn cao hơn so với những hộ gia
đình khác. Điều này dẫn đến một suy nghĩ trình hộ học vấn của chủ hộ gia
đình có quyết định đến thu nhập của hộ gia đình.
* Sức khỏe của chủ hộ
Chủ hộ luôn được xem là trụ cột gia đình, gánh vác những công việc
năng nhọc nhất và cũng là người sẽ có quyền đưa ra những quyết định quan
trọng trong gia đình. Sức khỏe là một trong những chỉ báo rõ ràng nhất để thể
hiện năng lực sản xuất của con người. Sức khỏe của chủ hộ gia đình ở đây sẽ
41
có vai trò tiên quyết giúp nhà nghiên cứu thấy được khả năng lao động sản
xuất tạo của cải phục vụ gia đình.
Bảng 1.9: Đánh giá của chính đối tƣợng về sức khỏe bản thân
STT Tình trạng sức khỏe Tổng số 268 Tỷ lệ %
1 Rất tốt 0 0
2 Tốt 32 12.1
3 Bình thường 50 18.6
4 Không tốt 118 44
5 Rất không tốt 68 25.3
(Nguồn: Số liệu điều tra)
Nhưng trong kết quả nghiên cứu này thì hầu hết những chủ hộ lại có
sức khỏe yếu so với những đối tượng cùng tuổi gần nơi sinh sống. Trong số
268 đối tượng chủ hộ tự đánh giá về sức khỏe của bản thân thì có đến 44%
đối tượng cho là có sức khỏe không tốt, 25.3% có sức khỏe rất không tốt,
18.6% có sức khỏe bình thường và 12.1% có sức khỏe tốt. Như vậy, với
những gia đình mà chủ hộ có tình trạng sức khỏe không tốt sẽ ảnh hướng rất
lớn đến hoạt động kinh tế của gia đình.
42
CHƢƠNG 2:
THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG CỦA ĐỐI TƢỢNG HƢỞNG
CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƢỜNG XUYÊN
TẠI XÃ ĐÔNG LĨNH HIỆN NAY
Để có cái nhìn tổng quan nhất về thực trạng thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội thường xuyên tại xã Đông Lĩnh hiện nay, thì chúng ta cần làm rõ
được tình hình triển khai chính sách tại địa bàn nghiên cứu và đời sống của
các nhóm đối tượng khi được tham gia chính sách đang diễn biến như thế nào.
Đời sống của các nhóm đối tượng cũng cần phải được đặt trong một bối cảnh
chung đó chính là đặc điểm kinh tế xã hội của hộ gia đình hiện đang sinh
sống. Việc tiếp cận các đặc điểm kinh tế hộ sẽ cho chúng thấy được bức tranh
chung về môi trường cụ thể của từng nhóm đối tượng. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi sẽ lựa chọn đánh giá thực trạng đời sống kinh tế - xã hội của từng
hộ gia đình trong đó tập trung đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
các hộ gia đình có các đối tượng hưởng chính sách đang sinh sống.
2.1 Tình hình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội thƣờng xuyên
tại Đông Lĩnh hiện nay
2.1.1 Nhận thức của các đối tượng hưởng TGXHTX về nhóm đối
tượng được hưởng chính sách TGXHTX
Nhận thức đúng và đầy đủ về chính sách trợ giúp xã hội là một trong
những yêu cầu cần thiết đối với mỗi đối tượng và với mỗi hộ gia đình có đối
tượng đang sinh sống. Việc nắm bắt được những chính sách cũng như cập
nhật được việc thay đổi chủ trương của chính sách là điều hết sức quan trọng
bởi vì chỉ có như vậy các đối tượng mới có thể biết hết được quyền và nghĩa
vụ thực hiện của mình đồng thời nhận thức được những tác động đến cuộc
sống mà chính sách đem lại.
Bằng câu hỏi: Theo Ông/ bà những đối tượng nào sau đây được hưởng
chính sách trợ cấp thường xuyên? Kết quả thu về được là:
43
Bảng 2.1: Nhận thức của đối tƣợng về chính sách
TT Đối tƣợng hƣởng Số lƣợng Tỷ lệ %
01 Trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng, bị
nhiễm HIV/AIDS
268 100%
02 Người cao tuổi cô đơn thuộc nhóm gia đình nghèo,
NCT còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con
cháu, người thân thích...
268 100%
03 Người từ 80 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc
không có trợ cấp bảo hiểm xã hội
268 100%
04 Người khuyết tật nặng không có khả năng lao động 268 100%
05 Người mắc chứng bệnh tâm thần 268 100%
06 Người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao
động, thuộc hộ gia đình nghèo
210 78.3%
07 Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ
em bị bỏ rơi.
126 47%
08 Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo, đang nuôi con
nhỏ dưới 16 tuổi
112 41.7%
(Nguồn: Số liệu điều tra)
Trong tất cả những nhóm đối tượng theo quy định thì hầu hết các đối
tượng chỉ nhận biết được về những nhóm đối tượng mà tại địa phương đang
tồn tại như nhóm đối tượng người cao tuổi từ 80 trở lên mà không có lương
hay bất kì một loại trợ cấp nào hay nhóm đối tượng người khuyết tật, trẻ mồ
côi không nơi nương tựa, người mặc bệnh tâm thần …còn lại các đối tượng
khác họ đều cho rằng không thuộc diện được hưởng. Đây vô hình đã trở thành
một rào cản đối với những người dân tại địa phương. Phần vì có thể họ không
được hướng dẫn đầy đủ, phần vì họ không tìm hiểu cặn kẽ các quy định và
cũng phần vì tính chất bàng quang, tâm lý chung là cái gì không thuộc phạm
trù mà gia đình có thì họ sẽ không quan tâm đến.
Một trong những yếu tố quyết định đến trình độ hiểu biết của người dân
tại địa phương về các chính sách hiện nay là quá trình truyền tải thông tin trên
địa bàn. Khi văn bản hay quy định mới được triển khai thì sẽ được họp phổ
biến đến những cán bộ Đảng viên trong xã, trong từng thôn. Sau đó sẽ có
44
những buổi thông báo đến toàn thể người dân trên địa bàn qua hệ thống loa
phát thanh của xã.
2.1.2 Tình trạng tuyên truyền phổ biển chính sách trợ giúp xã hội
thường xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay
Để chính sách được thực hiện đến từng đối tượng thuộc diện hưởng thì
việc tuyên truyền phổ biến chính sách là điều cần có trong các quy trình thực
hiện. Chính sách được ban hành thì hơn hết các đối tượng liên quan cần nắm
đầy đủ những thông tin để đảm bảo quá trình dân biết, dân làm và dân kiểm
tra. Hiện nay tại địa bàn công tác tuyên truyền được diễn ra sâu rộng với
những hình thức chủ yếu là tuyên truyền qua hệ thống loa đài phát thanh của
xã, tuyên truyền trực tiếp qua các buổi họp thôn, xóm, các buổi họp chi bộ
Đảng, Đoàn nhằm nâng cao hiểu biết cho tất cả các đối tượng liên quan để
phổ biến pháp lệnh, chính sách hiệu quả nhất.
Bảng 2.2: Hình thức tiếp cận thông tin tuyên truyền
về chính sách TGXHTX
Hình thức TT Số lƣợng/ 268 Tỷ lệ %
1. Đài truyền hình 49 18.2
2. Đài truyền thanh 49 18.2
3. Loa phát thanh của xã 195 72.7
4. Buổi họp thôn 250 85.8
5. Bạn bè, hàng xóm, người thân 267 99.6
6. Khác 15 5.2
(Nguồn: số liệu điều tra)
Từ số liệu thống kê ta có thể thấy loại hình tuyên truyền qua ban bè,
hàng xóm, người thân là hình thức tuyên truyền được nhiều người sử dụng
nhất chiếm đến 99.6%. Tiếp theo đó là hình thức tuyên truyền qua các buổi
họp thôn chiếm tỷ lệ là 85.8%. Loa phát thanh của xã cũng đóng vai trò quan
trọng trong việc đưa chính sách đến với người dân, nội dung của chính sách
sẽ được phát thanh viên truyền tải cụ thể, đầy đủ trên hệ thống loa, hình thức
này chiếm 72.7%. Sau đó nội dung của chính sách sẽ được phổ biến trực tiếp
đến tận các đối tượng qua các buổi họp thôn, xóm. Tại đây các đối tượng sẽ
được giải đáp những thắc mắc liên quan đến chính sách để qua đó có thể hiểu
45
đầy đủ về nội dung chính sách ban hành. Như vậy, hình thức tuyên truyền qua
người tân, bạn bè,hàng xóm vẫn được đánh giá là hình thức tuyên truyền hiệu
quả nhất tại các vùng nông thôn từ hàng ngàn đời bởi phong tục tập quán từ
xã xưa người dân luôn có tính cố kết cộng đồng, làng xóm cao nhất là với
những vùng quê thuộc khu vực miền Bắc. Nhưng yếu điểm của hình thức
truyền thông qua hàng xóm, bạn bè, người thân đó chính là độ chính xác của
thông tin vì vậy tại địa phương cũng rất cần phải có những buổi trao đổi, thảo
luận đầy đủ để đảm bảo người dân nắm được thông tin chính xác nhất và
nhanh nhất.
Qua đó chúng ta có thể thấy được vai trò rất quan trọng của hệ thống
loa truyền thanh và các đối tượng lãnh đạo xã, thôn. Điều này đặt ra vấn đề
đối với các lãnh đạo cấp xã, thôn phải là người hiểu, nắm rõ từng chính sách
đồng thời cũng phải là người đại diện cho các đối tượng hưởng chính sách
nắm được những tâm tư nguyện vọng của đối tượng để có những phản hồi kịp
thời lên cấp trên nhằm điều chỉnh chính sách cho phù hợp.
2.1.3 Quy trình xét duyệt, công nhận và triển khai chính sách trợ
giúp xã hội thường xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay
Nếu như tuyên truyền, phổ biển chính sách là điều kiện cần thì quy
trình xét duyệt, công nhận, triển khai chính sách là điều kiện đủ để chính sách
của Đảng và Nhà nước mới thực sự đến được với từng hộ dân, từng đối tượng
sinh sống trên địa bàn.
Quy trình xác định đối tượng, quy trình ra quyết định chính sách, thủ
tục hồ sơ là các nghiệp vụ chính sách quan trọng, nhìn nhận như là phương
tiện để đưa chính sách vào cuộc sống. Cùng với quá trình đơn giản hóa thủ
tục hành chính, các nghiệp vụ xác định đối tượng và nghiệp vụ ra quyết định
cũng đã từng bước được hoàn thiện chỉnh lý theo hướng đơn giản, công khai,
minh bạch và chính xác, kịp thời. Theo quy định tại Thông tư số 09/2007/TT-
BLĐTBXH ngày 14 tháng 7 năm 2007 của Bộ LĐTBXH để có được quyết
định hưởng trợ cấp xã hội của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thì đối
tượng và các cơ quan phải thực hiện đầy đủ các thủ tục và quy trình theo trách
nhiệm từ cá nhân, cấp thôn, cấp xã, cấp huyện đã cụ thể hóa nhiệm vụ từ cơ
quan tham gia vào quá trình xét duyệt ra quyết định hưởng chính sách. Đồng
thời đã quy định thời gian phải hoàn tất nghiệp vụ đối với cấp xã, phòng
46
LĐTBXH cấp huyện. Trong quá trình thực hiện bắt buộc niêm yết công khai
hồ sơ đối tượng, đây là biện pháp thực hiện nguyên tắc công khai.
Bảng 2.3: Thủ tục cần thiết để xét duyệt đối tƣợng thuộc chính sách
Các loại giấy tờ Tổng số ý kiến
đồng ý/ 268
Tỷ lệ
100%
1. Đơn xin xét duyệt 257 95.8
2. Sơ yếu lý lịch của đối tượng 263 98.1
3. Văn bản xác nhận của cơ quan y tế 255 95.1
4. Biên bản họp hội đồng xét duyệt cấp xã 164 61.1
5. Quyết định hưởng TC, điều chỉnh mức trợ cấp
tiền hàng tháng
252 94
6. Quyết định chấm dứt hưởng trợ cấp hàng tháng
của chủ tịch ủy ban nhân dân Huyện
50 18.6
(Nguồn: số liệu điều tra)
Khi được hỏi về những thủ tục cần thiết để làm hồ sơ xin xét duyệt là
đối tượng thuộc diện hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên thì 98.1
% đối tượng cho rằng cần phải có sơ yếu lý lịch, tiếp đến là đơn xin xét duyệt,
sau đó là các văn bản xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền và quyết định
hưởng trợ cấp, điều chỉnh mức trợ cấp tiền hàng tháng. Còn những giấy tờ
như biên bản họp xét duyệt của hội đồng cấp xã chiếm 61.1% và quyết định
chấm dứt hưởng trợ cấp hàng tháng chiếm 18.6%.
Có thể thấy rằng, các giấy tờ thủ tục cần phải có để hoàn thành hồ sơ
xin cấp trợ giúp xã hội thường xuyên tuy đã được triển khai nhưng những đối
tượng cũng chưa nắm đầy đủ về các loại giấy tờ, hồ sơ này. Các giấy tờ hồ sơ
chủ yếu nhận được sự giúp đỡ từ các cơ quan cấp thôn, xã để hoàn thành cho
các đối tượng. Cũng bởi những đặc điểm cá nhân không thuận lợi nên họ
được nhận trợ giúp nhiều hơn từ các đối tượng có thẩm quyền.
Theo như hướng dẫn của Thông tư số 09/2007/TT-Bộ LĐTB&XH thì
quy trình xét duyệt được diễn ra cụ thể như sau:
Trách nhiệm và thời gian ra quyết định thực hiện chính sách TGXHTX theo
quy định
47
Người thực
hiện
Công việc làm Thời gian thực
hiện
Người đề nghị
hưởng
Làm đơn và hồ sơ theo quy định
Trưởng thôn Xác định về hoàn cảnh và đơn cho đối tượng Không xác
định thời gian
Hội đồng xét
duyệt cấp xã
Xem xét với những trường hợp có ý kiến thắc
mắc, khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Những
trường hợp không có thắc mắc bỏ qua không
thực hiện bước này.
Không xác
định thời gian
UBND cấp xã - Thẩm định hồ sơ
- Niêm yết công khai tại Trụ sở ủy ban nhân dân
cấp xã và thông báo trên các phương tiện thông
tin đại chúng của xã
- Tối đa 7
ngày
- Tối thiểu 30
ngày
Phòng
LĐTBXH
Thẩm định hồ sơ, trình Chủ tịch ủy ban nhân cân
cấp huyện ra quyết định
Thời hạn 10
ngày
Chủ tịch
UBND cấp
huyện
Xem xét quyết định Không xác
định thời gian
[Nguồn: Thông tư số 09/2007/TT-BLĐTBXH]
Bảng 2.4: Đánh giá của đối tƣợng hƣởng chính sách TGXHTX về sự quan
tâm của các cơ quan, đoàn thể tại xã trong việc hỗ trợ làm thủ tục hồ sơ
Cơ quan
Rất quan
tâm
Quan
tâm
Bình
thƣờng
Không
quan
tâm
Rất
không
quan tâm
Tổng
1. Cán bộ TB&XH 12.7 25 50 12.3 0 100
2. Hội chữ thập đỏ 19 17.5 26.5 19.8 17.2 100
3.Cán bộ hội phụ nữ 25.3 36.6 29.5 8.6 0 100
4.Cán bộ thôn 48.9 27.3 17.1 6.7 0 100
5. Cán bộ hội NCT 10 40 14.2 21.3 14.5 100
6. Cán bộ y tế 13.8 39.2 7.8 25.7 13.5 100
(Nguồn: số liệu điều tra) (đơn vị tính %)
Khi tìm hiểu về mức độ quan tâm của các cơ quan, đoàn thể thuộc xã
đến các vấn đề của đối tượng hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên thì nhìn
chung các đối tượng nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình từ các cơ quan đoàn
48
thể như cán bộ thôn, cán bộ hội phụ nữa, cán bộ hội chữ thập đỏ. Đánh giá về
mức độ quan tâm của các cơ quan thì chủ yếu ý kiến tập trung ở các thang đo
như “rất quan tâm”, “quan tâm” và “bình thường”. Các thang đo “không quan
tâm” và “rất không quan tâm” có tỷ lệ đánh giá rất thấp. Qua đây ta có thể
thấy, các đối tượng thuộc diện hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên
nhận được sự giúp đỡ rất lớn từ các cơ quan đoàn hội tại xã trong việc hoàn
thiện hồ sơ giấy tờ, thủ tục chứng nhận hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên
cho các đối tượng.
2.2 Thực trạng đời sống của nhóm ngƣời cao tuổi
2.2.1 Đặc điểm nhân khẩu học của nhóm Người Cao tuổi
* Tuổi
Kết quả điều tra dân số năm 1989 cả nước có 7,15% dân số là NCT từ
60 tuổi, năm 1999 là 8,12% và năm 2005 tỷ lệ này là 8,82%, năm 2008 là
9,45% và dự báo năm 2020 sẽ có khoảng 10,5-11 triệu NCT chiếm trên 10%
dân số cả nước [3]. Trong vòng 10 năm tới, vấn đề già hóa dân số sẽ trở thành
một thách thức lớn trong việc đáp ứng những nhu cầu TGXH đối với NTC,
đặc biệt là những như cầu về sức khỏe, nhà ở, vui chơi giải trí.... Theo ước
tính của Viện Khoa học Lao động và Xã hội số NCT tập trung chủ yếu ở độ
tuổi dưới 80 và nhóm tuổi dưới 65, chiếm gần 30% tổng số NCT. Điều này
cho thấy xu hướng bổ sung số người vào dân số cao tuổi hàng năm là rất lớn.
Cũng đồng nghĩa nhu cầu về TGXH trong những năm tới là vừa phải bảo đảm
cũng cấp hệ thống dịch vụ cho tuổi già, vừa đảm bảo chất lượng dịch vụ kéo
dài tuổi thọ.
Như đã trình bày ở những phần trên, những đối tượng được hưởng trợ
cấp thường xuyên ở Đông Lĩnh hiện nay chủ yếu là đối tượng người cao tuổi
không còn khả năng lao động, không có lương hưu hay bất kì một khoản trợ
cấp nào. Đó cũng là lý do giải thích rằng phần lớn những đối tượng điều tra
có độ tuổi trên 80 chiếm đến 70% trong đó độ tuổi từ 80-90 chiếm tỷ lệ cao
nhất còn lại độ tuổi “xưa nay hiếm” từ 90 đến 100 tuổi và hơn 100 tuổi là rất
thấp từ 10-12% trên tổng số mẫu điều tra.
* Giới tính
49
Trong 268 đối tượng được điều tra thì có 161 đối tượng điều tra là nữ
chiếm 60,1% còn lại là 107 đối tượng là nam chiếm 39,9%. Số liệu cũng nói
lên được rằng đa số đối tượng được hưởng trợ cấp thường xuyên là nữ giới .
Thực tế cũng đã chỉ ra rằng nữ giới là phái chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới,
là đối tượng dễ bị tổn thương trong cuộc sống hơn so với nam giới. Hơn nữa,
nữ giới là đối tượng đặc thù với chức năng sinh sản chính vậy mà hơn bất kì
đối tượng nào nữ giới dễ rơi vào nhóm yếu thế nhất.
Theo số liệu thống kê từ cuộc điều tra Tổng điều tra Dân số và Nhà ở
năm 2009 cho thấy, Số lượng phụ nữ cao tuổi chiếm ưu thế so với nam giới
cao tuổi. Cụ thể, xét theo nhóm tuổi, số liệu tương ứng với 100 nam giới cao
tuổi ở độ tuổi 60-69 thì có 131 nữ giới cao tuổi cùng ở nhóm tuổi này; tương
tự, ở nhóm 70-79 có 149 nữ giới cao tuổi và từ 80 trở lên có 200 nữ giới cao
tuổi. Đây chính là biểu hiện của hiện tượng “nữ hóa dân số cao tuổi” ở Việt
Nam. Phụ nữ cao tuổi thường phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn so với nam
giới cao tuổi xét về thu nhập, tình trạng khuyết tật, và khả năng tiếp cận với
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm y tế.[6]
* Trình độ học vấn
Mặc dù đã hết tuổi lao động và không tham gia hoạt động kinh tế
nhưng trình độ học vấn có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống, sinh hoạt của
NCT. Nhất là khi kiến thức sẽ quyết định đến việc chăm sóc sức khỏe, chế độ
ăn uống, nhà ở, môi trường sống, thu nhập tuổi già.
NCT hiện nay là những người sinh từ thời kỳ trước năm 1949 và
trưởng thành trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp, chồng Mỹ, thời kỳ khó
khăn của đất nước, do vậy hầu như không có điều kiện đi học đầy đủ. Theo
kết quả khảo sát năm 2008 của Bộ LĐTBXH có tới 13,66% không biết chữ,
trên 50% chưa học hết cấp 1 (tiểu học) và chỉ có 13,93% tốt nghiệp lớp 10 (hệ
10 năm [4]. Kết quả từ cuộc khảo sát này:
Bảng 2.5: Học vấn của ngƣời cao tuổi
Học vấn Tổng số 190 Tỷ lệ
1. Không biết chữ/chưa từng đi học 38 20 %
2. Tiểu học 126 66.3 %
50
3. Trung học cơ sở 26 13.6%
4. Trung học PT 0 0 %
5. Trung cấp - CĐ – ĐH 0 0%
(Nguồn: Số liệu điều tra)
Chiếm tỷ lệ cao nhất vẫn là trình độ tiểu học đạt mức 66.3%, những
người không biết chữ hay chưa từng được đi học chiếm tỷ lệ khá cao đạt 20%,
thấp nhất là những người có trình độ trung học cơ sở chỉ đạt 13.6%. Điều này
cũng hoàn toàn dễ hiểu, những người cao tuổi nếu được theo học ở cấp học
trung học cơ sở thì rất dễ tham gia những ngành nghề có khả năng tạo thu
nhập cao hơn. Trong những năm bao cấp, khi chế độ có những thay đổi nhất
định, Nhà nước đang chủ trương xây dựng đất nước theo con đường công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước chính vì thế mà có nhu cầu rất lớn đối với
các đối tượng đã qua trường lớp và có trình độ học vấn cao. Còn lại các đối
tượng sẽ được theo học đến bậc tiểu học phần lớn là do hoàn cảnh gia đình
nên không thể học lên hoặc có thể do suy nghĩ còn lạc hậu chưa thực sự coi
trọng đến việc học tập. Cũng chính vì những lý do đó mà tỷ lệ những người
không biết chữ hoặc chưa từng được đến trường cũng còn khá cao.
* Tình trạng sức khỏe
Nghiên cứu về NCT thì đi liền với nó là vấn đề về sức khỏe, tình trạng
sức khỏe ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của NCT. Theo báo cáo sơ kết giữa
kỳ chương trình hành động quốc gia về NCT 2006 -2010 thì tỷ lệ NCT có sức
khỏe (so với cùng độ tuổi) khá chiếm 22,9%, số có sức khỏe tốt chỉ chiếm
5,7%. Bình quân một NCT có 2,69 bệnh; 56,7% người cao tuổi có bệnh tật
ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày; 24,9% phải đi khám bệnh ít nhất một
lần trong tháng. [4]
NCT thường mắc các bệnh mãn tính, bệnh xương khớp chiếm 53,8%
NCT bị bệnh, bệnh đường hô hấp 41,6%, bệnh tim mạch chiếm 31,3% và tiêu
hóa chiếm 27,1%...Đối với nhóm người cao tuổi cô đơn do thiếu điều kiện
chăm sóc sức khỏe thì tình trạng bệnh tật còn nghiêm trọng hơn rất nhiều[23].
Thực tế chỉ ra rằng, so với người dân thành thị thì người dân nông thôn
có ít hơn cơ hội được khám chữa bệnh tại các bệnh viện nhà nước. Chỉ có
51
74% lượt người ở khu vực nông thôn khám, chữa bệnh nội trú tại các bệnh
viện nhà nước, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 89%.
Theo kết quả Khảo sát mức sống năm 2006, đã có trên 50% số người
được cấp thẻ bảo hiểm y tế hoặc sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí khi đi
khám, chữa bệnh, tăng đáng kể so 2004, kể cả ở nông thôn. Đặc biêt đã có
71% số người thuộc nhóm hộ nghèo nhất có thẻ bảo hiểm y tế hoặc sổ/thẻ
khám chữa bệnh miễn phí trong khi nhóm hộ giàu nhất chỉ có 61%. Tính đến
nay, 100% số lượng những đối tượng thuộc diện Bảo trợ xã hội đều đã được
cấp thẻ bảo hiểm phục vụ khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe.
Bảng 2.6: Sức khỏe Ngƣời cao tuổi
Sức khỏe Số lƣợng Tỷ lệ %
1.Rất không tốt 50 26.3%
2.Không tốt 95 35.4%
3.Bình thường 33 12.3%
4.Tốt 12 4.5%
5Rất tốt 0 0%
Tổng 190 100%
(Nguồn: Số liệu điều tra)
Theo như đánh giá của chính bản thân đối tượng với 5 mức độ thì có
đến 35.4% đối tượng đánh giá sức khỏe của mình không còn tốt, tiếp đến là
tình trạng sức khỏe rất không tốt chiếm 26.3%, sức khỏe bình thường chỉ có
33 đối tượng chiếm 12.3% tổng số, phần còn lại rất nhỏ chiếm 4.5% đối
tượng đánh giá là sức khỏe không tốt. Đây cũng có thể là tình trạng chung của
người cao tuổi bởi lẽ khi cơ thể con người đã già yếu, các cơ quan trên cơ thể
không còn đủ sức để hoạt động theo đúng chức năng của mình nữa dẫn đến
vô vàn các bệnh khác nhau khiến cho sức khỏe con người có chiều hướng đi
xuống điều này đã được y học chứng minh rất rõ ràng và nó đã thành một
hiện thực mà đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận. Chúng ta sẽ không thể thay đổi
thực trạng đó mà chỉ có thể có những hành động làm giảm tác động xấu của
thực trạng trong cuộc sống.
* Tiếp cận các dịch vụ truyền thông giải trí
Theo như kết quả điều tra thì các hoạt động giải trí của NTC hết sức
nghèo nàn, phương tiện chủ yếu giúp NCT tiếp nhận thông tin là từ hệ thống
52
loa phát thanh của xã. Bên cạnh đó hình thức “thăm hỏi họ hàng, người thân”
là hình thức giải trí chủ yếu được nhiều NCT áp dụng vì có lẽ một phần thói
quen này được bắt nguồn từ lối sống giàu tình cảm của con người Việt Nam
và cũng chính nhờ có những hình thức thăm hỏi họ hàng như vậy sẽ tạo cơ
hôị tiếp cận các thông tin bên ngoài nhưng đồng thời cũng có điểm hạn chế
trong việc kiểm soát được độ chính xác của thông tin. Các hình thức giải trí
như đọc sách báo, sử dụng internet, sinh hoạt câu lạc bộ hầu như không được
sử dụng, phần vì họ không có điều kiện tiếp cận phần vì sức khỏe già yếu như
mắt mờ, chân chậm hạn chế khả năng tiếp cận. Qua đó ta mới thấy được các
hoạt động giải trí của NCT rất thấp. Từ đó phần nào phác họa được bức tranh
đời sống của NCT.
2.2.2. Thực trạng đời sống của đối tượng Người cao tuổi thông qua
trợ giúp thường xuyên bằng tiền mặt hàng tháng.
Theo kết quả mới nhất từ cuộc khảo sát mức sống dân cư năm 2012
của Tổng cục thống kê – Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì thu nhập trung bình
của người dân thành thị là 3 triệu đồng/tháng/người trong khi người dân
sống ở nông thôn là 1,6 triệu đồng/tháng/người. Nhóm hộ nghèo nhất có
mức thu nhập là 512.000 đồng/tháng/người, tăng 38,5% so với năm 2010;
nhóm hộ giàu nhất có mức thu nhập 4,8 triệu đồng/người/ tháng, tăng 40%
so với năm 2010 [29].
Bảng 2.7: Thu nhập bình quân của ngƣời dân Thái Bình
(Tính theo nguồn thu từ sản xuất nông, lâm, thủy sản)
Năm 2002 2004 2006 2008 2010 2012
Thu nhập 114.8 127.3 149.6 242.8 251.3 367.7
Theo như kết quả Tổng cục thống kê đã công bố thì mức thu nhập bình
quân đầu người có nguồn thu từ sản xuất nông, lâm, thủy sản đạt 367.8 nghìn
đồng/ tháng tăng 116 nghìn/ tháng tức là tăng lên 32% so với năm 2010 [29].
Tại địa phương thì tất cả 190 đối tượng NCT hiện đang được hưởng
TGXHTX với mức tối thiểu theo quy định của Nhà nước là 180 nghìn đồng/1
tháng. Đây là mức trợ cấp tối thiểu theo đúng quy định của nhà nước cho
những đối tượng từ 80 tuổi trở lên không có lương hay bảo hiểm xã hội sống
tại cộng đồng do xã trực tiếp quản lý. Như vậy so với thu nhập trung bình của
53
người dân Thái Bình vào năm 2012 ở nguồn thu từ sản xuất nông, lâm, thủy
sản thì thu nhập từ tiền trợ cấp hàng tháng đối với nhóm đối tượng là người
cao tuổi mới chỉ được bằng 1/2.
Cũng theo quy định này thì mức trợ giúp bằng tiền mặt hàng tháng cho
đối tượng người cao tuổi có thể tăng thêm tùy mức do tỉnh, huyện, xã quy
định. Có nghĩa là tỉnh, huyện, xã căn cứ vào nguồn thu của cơ sở có thể điều
chỉnh mức hỗ trợ cho các đối tượng nhưng không được thấp hơn so với mức
mà Nhà nước đã quy định. Đây cũng được coi là biện pháp mở rộng thêm
mức hỗ trợ dựa vào việc xã hội hóa và dựa vào năng lực của từng địa phương.
Nhưng do điều kiện kinh tế - xã hội ở Thái Bình nói chung và Đông Lĩnh nói
riêng là một trong những địa bàn chủ yếu phát triển dựa và các ngành nghề
liên quan đến nông nghiệp, chịu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu…Thêm vào
đó tỉnh có số lượng hưởng bảo trợ xã hội lớn trong cả nước chính vì lý do đó
tại Tỉnh hiện này chưa thể có thêm trợ cấp cho đối tượng hưởng trở giúp xã
hội thường xuyên theo quy định của Nhà nước.
2.2.3. Thực trạng đời sống của đối tượng Người cao tuổi thông qua
trợ giúp ch m sóc sức khỏe.
Trợ giúp về y tế nhằm giúp cho đối tượng bảo đảm các điều kiện chăm
sóc sức khỏe, khám chữa bệnh, phục hồi chứng năng. Chính sách trợ giúp y tế
được thực hiện bằng việc cung cấp nguồn tài chính trực tiếp để thanh toán các
dịch vụ khám chữa bệnh, phục hồi chức năng hoạt động và sử dụng các dịch
vụ y tế cần thiết khác. Đồng thời cũng có thể hỗ trợ chi phí để các cá nhân có
thể tham gia bảo hiểm y tế sử dụng các dịch vụ do bảo hiểm y tế thanh toán
khi sử dụng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, phục hồi
chức năng tại các cơ sở khám chữa bệnh.
Hiện tại, tất cả những đối tượng người cao tuổi đang hưởng trợ cấp xã
hội hàng tháng thì đều được hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo như quy định của
nhà nước có nghĩa là họ được hưởng trợ giúp về mặt khám, chữa bệnh, chăm
sóc sức khỏe tại các bệnh viện tuyến cơ sở đến trung ương. Khi được hỏi về
hình thức tham gia bảo hiểm thì trong số 190 đối tượng người cao tuổi đều chỉ
được tham gia loại hình bảo hiểm y tế do chính sách trợ giúp xã hội thường
xuyên cấp ngoài ra các đối tượng này không tham gia thêm bất cứ một hình
thức bảo hiểm nào khác. Nhưng trên thực tế khi đã được tham gia loại hình bảo
54
hiểm này thì số người tìm đến các cơ sở y tế để được hưởng dịch vụ chăm sóc
sức khỏe theo bảo hiểm còn thấp và chủ yếu là khi có bệnh nan y hay bệnh
trọng bắt buộc phải đi bệnh viện thì bảo hiểm mới là lựa chọn hàng đầu. Nếu
như đánh giá bệnh tình không quá nghiêm trọng thì hình thức khám chữa như
tự uống thuốc ở nhà hay khám thầy lang được sử dụng nhiều hơn cả.
Biểu 2.1: Hình thức khám chữa bệnh
28.7
71.3
85.7
14.3
52.6
47.4
24.6
75.4
21.2
78.8
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Có Không
Không làm gì
Tự uống thuốc
Khám tư
Trạm xá
BV tuyến trên
(Nguồn: số liệu điều tra)
Đối với hình thức khám chữa bệnh của nhóm đối tượng thì có đến
85.7% đối tượng sử dụng hình thức tự chữa ở nhà, tiếp đến là hình thức khám
chữa bệnh tư nhân với tỷ lệ là 52.6%. Đây là hình thức khám các bác sĩ, y tá
tại địa phương. Lợi thế của hình thức này là nhanh và gọn vừa túi tiền rất phù
hợp với những người cao tuổi sức khỏe yếu, neo đơn. Với những chứng bệnh
thông thường đã từng gặp nhiều lần thì hầu hết các đối tượng đều muốn nghỉ
ngơi ở nhà và uống thuốc sau đó mới đến hình thức khám chữa tư nhân hay
tại nhà. Tư nhân ở đây bao gồm cả hình thức khám chữa tây y và khám chữa
đông y thầy lang. Người dân vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề vào hình thức
khám chữa thầy lang theo như những lời giới thiệu của người khác. Và chỉ khi
nào họ uống thuốc thầy lang không khỏi thì mới tìm đến các bệnh viện tuyên
trên chính vì thế mà việc lựa chọn hình thức khám chữa bệnh viện tuyến trên
thấp chiếm có 21.2 %.
Theo nhưng kết quả nhận được thì 100% các đối tượng đều bị đau ốm
trong vòng một năm qua nhưng con số để bệnh tự khỏi hay tự mua thuốc điều
trị, khám tư nhân chiếm tỷ lệ cao hơn. Một hiện tượng đáng chú ý đó chính là
chưa thấy được vai trò của các trạm xá và các bệnh viện tuyến trên đối với các
55
đối tượng hưởng trợ cấp là người cao tuổi. Dường như đây không phải là lựa
chọn đầu tiên khi họ gặp những vấn đề về sức khỏe, chỉ khi nào bệnh trở nên
trầm trọng hơn thì họ mới tìm đến những cơ sở y tế đó. Khi đi tìm nguyên
ngân cho vấn đề này thì đa số những người được phỏng vấn họ đều có một
câu trả lời tương tự như là:
“ Nếu bị ốm nhẹ thì ông chữa bằng một số bài thuốc dân gian như là uống
lá hẹ, hay xông, đánh gió. Khi nặng hơn một chút thì ông mới nhờ người mua
thuốc, uống vài ba bữa sẽ đỡ. Chứ còn đi bên trạm xá thì cũng có vài ba viên
thuốc mà lại lôi thôi lắm”.
(PV1, Đỗ Văn C, 85 tuổi, Đông An)
Khi nói đến khám chữa bệnh thì một yếu tố được nhiều người quan tâm
đó chính là chi phí khám chữa bệnh. Nguồn cung cấp chi phí khám chữa bệnh
từ đâu. Đối với những gia đình có điều kiện khá trở lên thì nói đến chi phí
khám chữa bệnh cũng là một điều đáng suy nghĩ, vậy những gia đình có hoàn
cảnh khó khăn nhất là những gia đình có đối tượng đang hưởng trợ giúp thì nó
trở thành vấn đề rất khó để giải quyết.
Bảng 2.8: Nguồn chi phí khám chữa bệnh
Nguồn tiền Có Không Tổng
1. Tiền có sẵn 16.1 83.9 100
2. Do vay mượn 18.8 86.2 100
3. Người thân giúp 72.3 27.6 100
4. Do BH chi trả 82.3 17.7 100
5. Do bán nông sản 89.1 10.9 100
(Nguồn: Số liệu điều tra)
Đa số những hộ gia đình được nghiên cứu là những hộ làm nông nghiệp
tài sản của những người nông dân chính là các sản phẩm từ nông nghiêp, chúng
được coi như “của để dành” của mỗi hộ và khi có việc cần thiết thì những sản
phẩm này sẽ phát huy tác dụng “trao đổi”. Điều này giúp lý giải cho việc chi
phí khám chữa bệnh trước tiên sẽ được lấy từ việc bán các sản phẩm nông sản,
tỷ lệ này chiếm đến 89.1%, chiếm tỷ lệ thấp nhất 16% chính là phương án dùng
tiền mặt có sẵn của gia đình để trang trải các khoản chi phí khám chữa bệnh.
Các hộ gia đình hưởng chính sách được đánh giá là những gia đình có điều
kiện khó khăn, thu nhập của những gia đình là thấp hơn so với mặt bằng chung,
Tải bản FULL (126 trang): https://bit.ly/3L7qlbq
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
56
họ ít có cơ hội để dành tiền tiết kiệm chi tiêu vào những việc phát sinh trong
cuộc sống như là khám chữa bệnh.
Phương án vay mượn để trang trải chi phí cho khám chữa bệnh cũng
được sử dụng nhưng không cao chiếm 18.8% trong tổng số ý kiến được hỏi.
Phương án nhờ người thân giúp đỡ chi trả viện phí chiếm tỷ lệ khá cao là
72.3%, nhờ đặc thù nhóm người cao tuổi nên họ nhận được sự giúp đỡ từ con
cái trong gia đình. Vì thế khi có gặp khó khăn thì đối tượng này sẽ lựa chọn
phương án an toàn nhất là nhờ sự giúp đỡ của người thân trong gia đình.
Bảo hiểm là phương án được nhiều người dân lựa chọn bởi lẽ khi có
bảo hiểm thì họ sẽ tiết kiệm được phần lớn chi phí khám chữa bệnh cho đến
thuốc men điều trị. Tuy việc sử dụng bảo hiểm còn tồn tại nhiều vấn đề nhưng
đối với những trường hợp “bệnh trọng” thì đó cũng thực sự là một sự lựa
chọn đúng đắn.
Điều đáng nói ở đây đó chính là hiện tượng những đối tượng thuộc diện
được cấp phát bảo hiểm y tế thì họ chỉ sử dụng dịch vụ này khi thực sự cần
thiết như nhập viên hay những khi họ không thể tự chữa ở nhà được. Người
cao tuổi tại địa phương hiện nay vẫn chưa thấy hết được tác dụng của việc
phòng, khám và phát hiện bệnh sớm, việc chăm sóc sức khỏe cho người cao
tuổi vẫn còn bị coi nhẹ.
Đi tìm câu trả lời cho hiện tượng này thì cũng phần do điều kiện, hoàn
cảnh gia đình, điều kiện kinh tế chưa cho phép, cũng phần vì những phát sinh
cho chi phí khám chữa bệnh còn quá cao so với điều kiện kinh tế mà họ đang
có, chính vậy đối tượng thường nảy sinh tâm lý lo sợ tốn kém mỗi khi đến cơ
sở y tế. Chi phí giúp cho những đối tượng này khám chữa bệnh trên thực tế là
do bảo hiểm y tế chi trả nhưng có những khoản phát sinh mà bảo hiểm y tế
không thể chi trả được và họ phải nhờ đến sự trợ giúp của người thân, gia
đình và hàng xóm, thậm chí là đi vay. Đó chính là nguyên nhân mà những đối
tượng thường ít tìm đến sự trợ giúp của các cơ sở y tế.
2.3 Thực trạng đời sống của nhóm Ngƣời khuyết tật
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) thì NKT Việt Nam chiếm khoảng
10% dân số, theo điều tra của Tổng cục thống kê thì con số này là 15,8% dân
số. Còn theo Bộ LĐTBXH năm 2008 có khoảng 5,4 triệu người chiến 6,64%
Tải bản FULL (126 trang): https://bit.ly/3L7qlbq
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
57
dân số. NKT ở Việt Nam được phân bố không đồng đều giữa các vùng và các
khu vực. Tỷ lệ NKT ở vùng nông thôn chiếm 87,20%; NKT sống ở thành thị
chiến 12,8%. Quy mô theo các vùng thì Tây Bắc có 157,369 người, Đông Bắc
có 678,345 người, đồng bằng sông Hồng có 908.118 người, Bắc trung Bộ có
658.254 người, Duyên hải miền Trung có 749.489 người, Tây nguyên có
158.506 người, Đông Nam Bộ có 866.516 người và Đồng bằng sông Cửu
Long 1.018.341 người. Sự phân bố không đều này do mật độ dân số các khu
vực khác nhau, ảnh hưởng của chiến tranh, điều kiện tự nhiên, trình độ dân
trí, bẩm sinh, ốm đau, bệnh tật, mức độ can thiệp khác nhau của y học các
nguyên nhân từ xã hội (tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội). Chia theo các nhóm
dạng tật 29,03% tật vận động, 16,82% tâm thần, 17% đa dạng tật....Nguyên
nhân chủ yếu là bẩm sinh, bật tật và dao hậu quả của chiến tranh. Các nguyên
nhân này phản ánh sự chăm sóc ban đầu cho trẻ và dịch vụ y tế còn khá hạn
chế trong việc kiểm soát bệnh tật dẫn đến tỷ lệ tàn tật cao [7].
Đời sống vật chất, tinh thần của người khuyết tật được đánh giá còn gặp
nhiều khó khăn. Có tới 80% người khuyết tật ở thành thị và 70% người khuyết
tật ở nông thôn sống dựa vào gia đình, người thân và trợ cấp xã hội; 32,5% thuộc
diện nghèo (cao gấp hai lần so với tỷ lệ nghèo chung cùng thời điểm), 24% ở
nhà tạm. Những khó khăn này cản trở người khuyết tật tiếp cận dịch vụ y tế,
giáo dục, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông, dẫn đến khó khăn
trong cuộc sống và hoà nhập với cộng đồng [7].
Thái Bình hiện có khoảng 124.000 người khuyết tật, trong đó có 16.705
thương binh; 19.766 người bị nhiễm chất độc da cam; 35.890 người khuyết
tật được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Số đối tượng khuyết tật được nuôi
dưỡng, chữa trị tại các trung tâm bảo trợ xã hội là: 708 đối tượng (286 nuôi tại
2 trung tâm và 422 chăm sóc tại cộng đồng). Đa số người khuyết tật tỉnh
không thể sống tự lập mà chủ yếu dựa vào gia đình, người thân. Người khuyết
tật nói chung đều có nguyện vọng được đối xử bình đẳng, được hòa nhập thực
sự với cộng đồng, được góp phần nhỏ bé của mình vào việc xây dựng quê
hương đất nước.
2.3.1 Đặc điểm nhân khẩu học của Nhóm Người Khuyết tật
 Tuổi, giới tính
6795503

More Related Content

PPTX
Mẫu free ppt template quy trình, các bước thực hiện chuyên nghiệp
DOC
Đánh giá hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơ...
PDF
Luận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAY
PDF
Cấu truc-dữ-liệu-va-thuật-giải-1
PDF
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
PDF
Luận văn: Nghiên cứu mô hình Công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi tại trung ...
PDF
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
PDF
“Ảnh hưởng của đô thị hoá đến phát triển kinh tế xã hội của huyện Phổ Yên, tỉ...
Mẫu free ppt template quy trình, các bước thực hiện chuyên nghiệp
Đánh giá hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơ...
Luận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAY
Cấu truc-dữ-liệu-va-thuật-giải-1
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
Luận văn: Nghiên cứu mô hình Công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi tại trung ...
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
“Ảnh hưởng của đô thị hoá đến phát triển kinh tế xã hội của huyện Phổ Yên, tỉ...

What's hot (20)

PDF
Luận văn: Tình trạng bỏ học của trẻ em tại tp Đà Nẵng, HAY
DOC
Luận văn: Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ĐH Sư phạm
DOC
Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Hiếp Dâm Trẻ Em.
PDF
Sinh viên và việc làm (thực trạng và giải pháp)
DOCX
Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...
DOC
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
DOCX
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...
DOC
Nghiên cứu về vai trò của hội cựu sinh viên trong các trường đại học và đề xu...
DOC
Đề tài: Biện pháp khắc phục tình trạng bỏ học của sinh viên ĐH, HOT
PDF
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
PDF
Luận văn: Thực hiện chính sách an sinh xã hội quận Ngũ Hành Sơn
PDF
Luat BHYT.pdf
DOC
Đề tài: Bài thu hoạch di tích lịch sử “đền gióng” bảo tàng phòng không - khôn...
PDF
Luận án: Thực thi chính sách an sinh xã hội ở TP Đà Nẵng, HAY
PDF
Luận văn: Di cư lao động nông thôn - đô thị từ góc độ người ở lại
PDF
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử
PPTX
Một vài gợi ý khi giới thiệu chuyển gửi Thân chủ đến một dịch vụ cụ thể
PDF
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
PDF
Luận văn: Pháp luật về đình công qua thực tiễn tại tỉnh Trà Vinh, HAY
PDF
Pháp luật về xúc tiến thương mại của doanh nghiệp sang Hoa Kỳ, 9d
Luận văn: Tình trạng bỏ học của trẻ em tại tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ĐH Sư phạm
Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Hiếp Dâm Trẻ Em.
Sinh viên và việc làm (thực trạng và giải pháp)
Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...
Nghiên cứu về vai trò của hội cựu sinh viên trong các trường đại học và đề xu...
Đề tài: Biện pháp khắc phục tình trạng bỏ học của sinh viên ĐH, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Luận văn: Thực hiện chính sách an sinh xã hội quận Ngũ Hành Sơn
Luat BHYT.pdf
Đề tài: Bài thu hoạch di tích lịch sử “đền gióng” bảo tàng phòng không - khôn...
Luận án: Thực thi chính sách an sinh xã hội ở TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Di cư lao động nông thôn - đô thị từ góc độ người ở lại
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử
Một vài gợi ý khi giới thiệu chuyển gửi Thân chủ đến một dịch vụ cụ thể
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
Luận văn: Pháp luật về đình công qua thực tiễn tại tỉnh Trà Vinh, HAY
Pháp luật về xúc tiến thương mại của doanh nghiệp sang Hoa Kỳ, 9d
Ad

Similar to CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƢỜNG XUYÊN QUA KHẢO SÁT TẠI XÃ ĐÔNG LĨNH.pdf (20)

PDF
Tìm hiểu hoạt động chăm sóc, hỗ trợ cho người cao tuổi tại các trung tâm chăm...
PDF
Luận văn: Hỗ trợ xã hội cho người sau cai nghiện ma túy, HAY
PDF
Lv: Hoạt động hỗ trợ xã hội cho người sau cai nghiện ma túy, HAY!
DOCX
Hoạt Động Công Tác Xã Hội Với Người Có Công Với Cách Mạng Tại Xã Kim Bình
PDF
Luận văn: Hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ sinh kế đối với người khuyết...
PDF
Luận văn: Hoạt động công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần cho ngườ...
PDF
Luận văn: Nhiệm vụ công tác xã hội trong việc hỗ trợ người bệnh ung thư tại B...
PDF
Chính sách đối với người có công huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi
PDF
Luận văn: Thực hiện chính sách đối với người có công tại Quảng Ngãi
PDF
Luận văn: Sự tham gia của tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường
PDF
Hỗ trợ người khuyết tật sống độc lập tại trung tâm ở Hà Nội, HAY
DOCX
Luận Văn Tạo Động lực lao động Qua Đãi ngộ Tài chính Công
DOC
Luận văn: Nâng cao hiệu quả cho vay ưu dãi đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chí...
DOCX
Luận văn: Hiệu quả cho vay ưu dãi đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách
PDF
Đề tài: Chính sách an sinh xã hội tại huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, HOT
PDF
Nghiên Cứu Tình Hình Thực Hiện Một Số Chính Sách Xóa Đói Giảm Nghèo Trên Địa ...
PDF
Luận văn: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long
PDF
Đề tài: Quản lý về công tác thanh niên tỉnh Thừa Thiên Huế, HOT
PDF
Luận văn thạc sĩ tâm lí học.
DOCX
Luận Văn Hoạt Động Hỗ Trợ Xã Hội Cho Người Sau Cai Nghiện Ma Túy
Tìm hiểu hoạt động chăm sóc, hỗ trợ cho người cao tuổi tại các trung tâm chăm...
Luận văn: Hỗ trợ xã hội cho người sau cai nghiện ma túy, HAY
Lv: Hoạt động hỗ trợ xã hội cho người sau cai nghiện ma túy, HAY!
Hoạt Động Công Tác Xã Hội Với Người Có Công Với Cách Mạng Tại Xã Kim Bình
Luận văn: Hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ sinh kế đối với người khuyết...
Luận văn: Hoạt động công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần cho ngườ...
Luận văn: Nhiệm vụ công tác xã hội trong việc hỗ trợ người bệnh ung thư tại B...
Chính sách đối với người có công huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Thực hiện chính sách đối với người có công tại Quảng Ngãi
Luận văn: Sự tham gia của tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường
Hỗ trợ người khuyết tật sống độc lập tại trung tâm ở Hà Nội, HAY
Luận Văn Tạo Động lực lao động Qua Đãi ngộ Tài chính Công
Luận văn: Nâng cao hiệu quả cho vay ưu dãi đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chí...
Luận văn: Hiệu quả cho vay ưu dãi đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách
Đề tài: Chính sách an sinh xã hội tại huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, HOT
Nghiên Cứu Tình Hình Thực Hiện Một Số Chính Sách Xóa Đói Giảm Nghèo Trên Địa ...
Luận văn: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long
Đề tài: Quản lý về công tác thanh niên tỉnh Thừa Thiên Huế, HOT
Luận văn thạc sĩ tâm lí học.
Luận Văn Hoạt Động Hỗ Trợ Xã Hội Cho Người Sau Cai Nghiện Ma Túy
Ad

More from NuioKila (20)

PDF
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
PDF
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
PDF
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
PDF
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
PDF
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
PDF
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
PDF
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
PDF
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
PDF
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
PDF
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
PDF
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
PDF
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
PDF
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
PDF
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
PDF
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
PDF
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
PDF
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
PDF
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
PDF
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
PDF
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...

Recently uploaded (20)

PDF
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC KHÁM PHÁ TỰ NHIÊN CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VẬT S...
PPTX
Direct Marketing- chieu thi truyen thong
PPTX
14. thoát vị bẹn nghẹt bệnh học ngoại khoa.pptx
DOCX
Set menu 3 món rất hay và hiện đại dành cho người
PPTX
SLIDE BV CHÍNH THỨC LATSKH - note.pptx
PDF
Bản phân loại thực vật môn thực vật dược
PPTX
24. 9cqbq2reu57m5igbsz-signature-40d40b8bd600bcde0d0584523c684ec4933c280de74a...
DOC
Chương 1 Tính tương đổi của chuyển động.doc
PPTX
17. ĐẠI CƯƠNG GÃY XƯƠNG bệnh học ngoại.pptx
PDF
12894-44864-1-CE-1037-1038_Văn bản của bài báo.pdf
PDF
Dao tao va Phat trien NỘI DUNG ÔN THI CHO SINH VIÊN
DOCX
Chủ nghĩa xã hội khoa học - Đề Cương Cuối Kỳ.docx
PPTX
Chương 2 - Mô hình thực thể kết hợp.pptx
PPTX
Chương 1 – Tổng quan về Cơ sở dữ liệu.pptx
DOCX
6.CQ_KT_Ke toan tai chinh 2_Pham Thi Phuong Thao.docx
PPTX
1 CHƯƠNG MÔT- KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC (1) [Read-Only].pptx
PDF
TeétOrganicChemistryFromVietNamVeryHardd
PPTX
TIẾT 8, 9, 10. BÀI 32. DINH DƯỠNG VÀ TIÊU HÓA Ở NGƯỜI.pptx
PDF
BỘ TÀI LIỆU CHINH PHỤC ĐỈNH CAO TIẾNG ANH NĂM 2026 CHUYÊN ĐỀ ÔN HỌC SINH GIỎI...
PDF
Vision - Language - Model-- - Ebook.pdf
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC KHÁM PHÁ TỰ NHIÊN CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VẬT S...
Direct Marketing- chieu thi truyen thong
14. thoát vị bẹn nghẹt bệnh học ngoại khoa.pptx
Set menu 3 món rất hay và hiện đại dành cho người
SLIDE BV CHÍNH THỨC LATSKH - note.pptx
Bản phân loại thực vật môn thực vật dược
24. 9cqbq2reu57m5igbsz-signature-40d40b8bd600bcde0d0584523c684ec4933c280de74a...
Chương 1 Tính tương đổi của chuyển động.doc
17. ĐẠI CƯƠNG GÃY XƯƠNG bệnh học ngoại.pptx
12894-44864-1-CE-1037-1038_Văn bản của bài báo.pdf
Dao tao va Phat trien NỘI DUNG ÔN THI CHO SINH VIÊN
Chủ nghĩa xã hội khoa học - Đề Cương Cuối Kỳ.docx
Chương 2 - Mô hình thực thể kết hợp.pptx
Chương 1 – Tổng quan về Cơ sở dữ liệu.pptx
6.CQ_KT_Ke toan tai chinh 2_Pham Thi Phuong Thao.docx
1 CHƯƠNG MÔT- KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC (1) [Read-Only].pptx
TeétOrganicChemistryFromVietNamVeryHardd
TIẾT 8, 9, 10. BÀI 32. DINH DƯỠNG VÀ TIÊU HÓA Ở NGƯỜI.pptx
BỘ TÀI LIỆU CHINH PHỤC ĐỈNH CAO TIẾNG ANH NĂM 2026 CHUYÊN ĐỀ ÔN HỌC SINH GIỎI...
Vision - Language - Model-- - Ebook.pdf

CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƢỜNG XUYÊN QUA KHẢO SÁT TẠI XÃ ĐÔNG LĨNH.pdf

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- ĐỖ THỊ PHƢỢNG CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƢỜNG XUYÊN QUA KHẢO SÁT TẠI XÃ ĐÔNG LĨNH, HUYỆN ĐÔNG HƢNG, TỈNH THÁI BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC Hà Nội - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- ĐỖ THỊ PHƢỢNG CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƢỜNG XUYÊN QUA KHẢO SÁT TẠI XÃ ĐÔNG LĨNH, HUYỆN ĐÔNG HƢNG, TỈNH THÁI BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC MÃ SỐ: 60 31 03 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trịnh Văn Tùng Hà Nội - 2014
  • 3. 1 LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian làm việc tích cực và nghiêm túc, luận văn “Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên qua khảo sát tại xã Đông Lĩnh, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình” đã được hoàn thành. Trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới PGS,TS.Trịnh Văn Tùng, người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Xã hội học đã dạy dỗ và truyền đạt những tri thức quý báu trong suốt những năm qua, để tôi có thể hoàn thành tốt khóa học của mình. Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng vì thời gian có hạn, trình độ năng lực của bản thân còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được những góp ý của các thầy cô giáo khoa Xã hội học để tôi được rút kinh nghiệm trong những nghiên cứu sau đạt kết quả tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2014 Học viên Đỗ Thị Phƣợng
  • 4. 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................... 2 3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ..............................11 3.1. Ý nghĩa khoa học .............................................................................11 3.2. Ý nghĩa thực tiễn..............................................................................11 4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu...................................12 4.1. Mục đích nghiên cứu........................................................................12 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................12 5. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu.....................................12 5.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................12 5.2. Khách thể nghiên cứu.......................................................................12 5.3. Phạm vi nghiên cứu..........................................................................12 6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu....................................13 6.1. Câu hỏi nghiên cứu ..........................................................................13 6.2. Giả thuyết nghiên cứu......................................................................13 7. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................13 7.1. Phân tích tài liệu...............................................................................13 7.2. Phỏng vấn sâu ..................................................................................14 7.3. Phương pháp trưng cầu ý kiến .........................................................15 8. Khung lý thuyết.....................................................................................17 NỘI DUNG.....................................................................................................18 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN......................18 1.1 Cơ sở lý luận ........................................................................................18 1.1.1 Những khái niệm công cụ ..............................................................18 1.1.2. Một số lý thuyết áp dụng trong đề tài ...........................................22 1.2 Cơ sở thực tiễn của nghiên cứu..........................................................26 1.2.1 Đặc thù của địa bàn nghiên cứu.....................................................27 1.2.2 Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên đang áp dụng hiện nay ....28 1.2.3. Đặc điểm kinh tế -xã hội của hộ gia đình có người được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên........................................................................30
  • 5. 3 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG CỦA ĐỐI TƢỢNG HƢỞNG CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƢỜNG XUYÊN TẠI XÃ ĐÔNG LĨNH HIỆN NAY..............................................................42 2.1 Tình hình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội thƣờng xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay...................................................................................42 2.1.1 Nhận thức của các đối tượng hưởng TGXHTX về nhóm đối tượng được hưởng chính sách TGXHTX..........................................................42 2.1.2 Tình trạng tuyên truyền phổ biển chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay.................................................................44 2.1.3 Quy trình xét duyệt, công nhận và triển khai chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay ..............................................45 2.2 Thực trạng đời sống của nhóm ngƣời cao tuổi.................................48 2.2.1 Đặc điểm nhân khẩu học của nhóm Người Cao tuổi.....................48 2.2.2. Thực trạng đời sống của đối tượng Người cao tuổi thông qua trợ giúp thường xuyên bằng tiền mặt hàng tháng.........................................52 2.2.3. Thực trạng đời sống của đối tượng Người cao tuổi thông qua trợ giúp chăm sóc sức khỏe. .........................................................................53 2.3 Thực trạng đời sống của nhóm Ngƣời khuyết tật............................56 2.3.1 Đặc điểm nhân khẩu học của Nhóm Người Khuyết tật.................57 2.3.2 Thực trạng đời sống của người khuyết tật thông qua trợ giúp về tiền mặt hàng tháng.................................................................................61 2.3.3 Thực trạng đời sống của người khuyết tật thông qua trợ giúp về dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe..............................................................62 2.3.4 Thực trạng đời sống của người khuyết tật thông qua trợ giúp về giáo dục – đào tạo – việc làm cho người khuyết tật ...............................66 Tiểu kết.......................................................................................................69 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ NHU CẦU CỦA ĐỐI TƢỢNG ĐƢỢC HƢỞNG TRỢ GIÚP THƢỜNG XUYÊN TẠI ĐÔNG LĨNH HIỆN NAY.............................................................................71 3.1 Một số yếu tố tác động đến đời sống của các đối tƣợng hƣởng chính sách trợ giúp thƣờng xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay.............................71 3.1.1. Nhóm yếu tố mang tính chủ quan.................................................71
  • 6. 4 3.1.2 Nhóm yếu tố mang tính khách quan .............................................74 3.2. Nhu cầu của đối tƣợng đƣợc hƣởng trợ giúp xã hội thƣờng xuyên..77 3.2.1. Nhu cầu của người cao tuổi ..........................................................77 3.2.2 Nhu cầu của nhóm người khuyết tật ............................................80 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ...............................................................83 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................86 PHỤ LỤC
  • 7. 5 DANH MỤC VIẾT TẮT 1 ASXH An sinh xã hội 2 Bộ LĐTB&XH Bộ Lao động Thương binh và xã hội 3 BHXH Bảo hiểm xã hội 4 BTXH Bảo trợ xã hội 5 NCT Người cao tuổi 6 NKT Người khuyết tật 7 PV Phỏng vấn 8 TCXH Trợ cấp xã hội 9 TGXH Trợ giúp xã hội 10 TGXHTX Trợ giúp xã hội thường xuyên
  • 8. 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1: Cơ cấu mẫu........................................................................................16 Bảng 1.1: Quy mô hộ gia đình của người hưởng TGXHTX ..........................31 Bảng 1.2: Thu nhập hộ gia đình có người được hưởng TGXHTX.................32 Bảng 1.3: Tương quan giữa quy mô hộ gia đình và thu nhập trung bình của hộ gia đình/tháng ...................................................................33 Bảng 1.4: Chi tiêu bình quân hộ gia đình trên 1 tháng ...................................34 Bảng 1.5: Kiểu nhà của các hộ gia đình có đối tượng hưởng TGXHTX .......36 Bảng 1.6: Tài sản của hộ gia đình có đối tượng hưởng TGXHTX.................36 Bảng 1.7: Tuổi của chủ hộ có người hưởng TGTX........................................37 Bảng 1.8: Tương quan giữa trình độ học vấn của chủ hộ và thu nhập chung của hộ gia đình có người hưởng TGXHTX ......................40 Bảng 1.9: Đánh giá của chính đối tượng về sức khỏe bản thân......................41 Bảng 2.1: Nhận thức của đối tượng về chính sách .........................................43 Bảng 2.2: Hình thức tiếp cận thông tin tuyên truyền về chính sách TGXHTX......................................................................................44 Bảng 2.3: Thủ tục cần thiết để xét duyệt đối tượng thuộc chính sách............46 Bảng 2.4: Đánh giá của đối tượng hưởng chính sách TGXHTX về sự quan tâm của các cơ quan, đoàn thể tại xã trong việc hỗ trợ làm thủ tục hồ sơ ..........................................................................47 Bảng 2.5: Học vấn của người cao tuổi............................................................49 Bảng 2.6: Sức khỏe Người cao tuổi................................................................51 Bảng 2.7: Thu nhập bình quân của người dân Thái Bình (Tính theo nguồn thu từ sản xuất nông, lâm, thủy sản) .................................52 Bảng 2.8: Nguồn chi phí khám chữa bệnh......................................................55 Bảng 2.9: Hệ số trợ cấp đối với các đối tượng thuộc nhóm NKT ..................61
  • 9. 7 Bảng 2.10: Mức trợ cấp hàng tháng của nhóm người khuyết tật....................62 Bảng 2.11: Hình thức khám chữa bệnh của NKT...........................................64 Bảng 2.12: Nguồn chi phí khám chữa bệnh của đối tượng NKT ...................65 Bảng 3.1: Mong muốn nhận TGXH................................................................79 Bảng 3.2: Nhu cầu nhận trợ cấp xã hội thường xuyên của NCT....................79 Bảng 3.3: Nhu cầu nhận TGXHTX của nhóm đối tượng NKT......................80
  • 10. 8 DANH MỤC CÁC BIỂU Biểu 1.1: Giới tính chủ hộ...............................................................................38 Biểu 1.2: Trình độ học vấn của chủ hộ ...........................................................39 Biểu 2.1: Hình thức khám chữa bệnh..............................................................54 Biểu 2.2: Cơ cấu độ tuổi của Người khuyết tật...............................................59 Biểu 2.3: Trình độ học vấn của người khuyết tật............................................60 Biểu 2.4: Số người khuyết tật được dạy nghề giai đoạn 2006-2010 ..............67 Biểu 3.1: Nguồn sống người cao tuổi .............................................................78
  • 11. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã bước vào nhóm những nước đang phát triển có thu nhập trung bình và đang tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức. Trong văn kiện đại hội Đảng khóa XI đã nêu rõ: phát triển kinh tế nhanh, bền vững, đồng thời “ thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”. Bởi vậy, an sinh xã hội đã trở thành vấn đề trung tâm trong các chiến lược phát triển của đất nước. Điều này cũng rất phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, đất nước “của dân, do dân, vì dân”. Cuộc cách mạng công nghiệp ở thế kỷ thứ 19 đã khiến cuộc sống người lao động gắn chặt với thu nhập do bán sức lao động đem lại. Chính vì vậy mà những rủi ro trong cuộc sống như ốm đau bệnh tật, tuổi già sức yếu, tại nạn mất khả năng lao động…đã trở thành mối lo ngại đối với những người lao động. Thế nhưng con người chúng ta muốn tồn tại và phát triển được thì phải đảm bảo những nhu cầu cần thiết của cuộc sống. Vậy những người mất khả năng lao động thì họ khó có thể tự lo cho cuộc sống của mình nếu họ không nhận được những trợ giúp từ phía xã hội và nhà nước. Xã hội muốn phát triển thì tất cả các tầng lớp, các nhóm người đều cần phải có sự phát triển một cách đồng bộ. Trong hơn gần 30 năm qua, chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu cơ bản về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được hiện nay chúng ta vẫn còn đứng trước một loạt các vấn đề cần giải quyết. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải giải quyết ngày càng tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Những chuyển biến mang tính cách mạng đó đã đưa lại sự tăng trưởng chưa từng có của nền kinh tế trong nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm từ 1986 đến 2000 đạt 6,3%. Trong đó tốc độ tăng GDP trong những năm 1986-1991 có sự dao động rất lớn. Từ 1992-1997 tốc độ tăng trưởng GDP đều ở mức cao và khá ổn định (1992 đạt 8,6%; 1993:8,1%; 1994: 8,8%; 1995: 9,5%; 1996: 9,3%; 1997: 8,2%). Do tác động của khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở khu vực từ năm 1997-1999 tốc độ tăng GDP nước ta cũng
  • 12. 2 suy giảm theo. Tuy vậy, tốc độ tăng trưởng GDP từ 2000 đến 2003 được khôi phục và đạt mức tăng bình quân 6,97%/năm. Đến năm 2005 tốc độ tăng trưởng này đạt 8,4%/năm. Với tốc độ tăng trưởng đó, nước ra đứng vào hàng các nước có mức tăng trưởng khá cao so với trong khu vực. Những thành tựu đã đạt được trong tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở vật chất để chúng ta thực hiện công bằng xã hội [16]. Bên cạnh bức tranh kinh tế với màu sắc tăng trưởng khá tươi mới thì chúng ta cũng thấy những màu sắc ảm đạm đối với những nhóm người gặp nhiều rủi ro trong cuộc sống nhất là những nhóm chịu ảnh hưởng của chiến tranh, nhóm người bị khuyết tật. Bản thân của sự tăng trưởng đó cũng đã để lại những tác động không mong muốn đó là tạo ra những sự chênh lệch trong xã hội trong đó phải kể đến những nhóm bị loại trừ xã hội. Đó là những nhóm không đủ năng lực để thích nghi, để vươn lên trong cuộc sống và đương nhiên họ sẽ trở thành những người bị động, không làm chủ được việc làm, thu nhập và tiếp cận giáo dục đào tạo. Chính vì thế, rất cần có những chính sách điều chỉnh phù hợp để tạo nên công bằng xã hội, giảm thiểu những rủi ro không đáng có đối với những nhóm người “thiệt thòi”. Trong hệ thống chính sách mà Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng phải kể tới hệ thống an sinh xã hội. Một trong những trụ cột của hệ thống an sinh xã hội đó chính là chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên. Trong lĩnh vực nghiên cứu đã có rất nhiều nghiên cứu diễn ra trên nhiều cấp độ cả vi mô và vĩ mô với nhiều góc nhìn khác nhau nhằm đưa ra cái nhìn đa chiều về chính sách, đánh giá độ hiểu quả khi chính sách triển khai đến người dân. Nhưng hiện tại chưa có một nghiên cứu cụ thể nào được thực hiện ở Thái Bình về chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên. Dưới góc độ xã hội học, người dân đánh giá như thế nào về chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên? Dưới tác động của chính sách thì đời sống của đối tượng đang diễn ra như thế nào? So với những mong muốn thì mức độ hài lòng đối với chính sách hiện nay như thế nào? Để giải quyết tất cả những vấn đề cấp bách đó chúng tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu vấn đề “Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên qua khảo sát tại xã Đông Lĩnh, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình”. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
  • 13. 3 An sinh xã hội là một nội dung nghiên cứu rộng lớn và được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm ở Việt Nam hiện nay. Những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu về an sinh xã hội đã xuất hiện với nhiều chiều hướng nghiên cứu và cách tiếp cận khác nhau. Trong những năm 1980, các nghiên cứu về chính sách xã hội và phúc lợi xã hội được tiến hành nghiên cứu với hai đề tài chính “Chính sách xã hội và quản lý xã hội ở cấp cơ sở nông thôn và đô thị” (1983 - 1985) và đề tài “Chính sách xã hội ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa” (1987 - 1989). Đề tài sau nằm trong khuôn khổ hoạt động hợp tác quốc tế của 8 nước xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, đây là những nghiên cứu đầu tiên về chính sách xã hội ở Việt Nam. Tuy chưa có được những cơ sở lý luận thật sự vững chắc về lĩnh vực chính sách xã hội và phúc lợi xã hội, nhưng những thành quả chính vẫn khá nổi bật. Các bài viết về chính sách xã hội như “Quản lý xã hội ở cấp phường thành phố Hà Nội” (Viện Xã hội học, 1985), “Chính sách xã hội Việt Nam” (Viện Hàn lâm Khoa học Đức, 1989), “Một phân tích tổng quan về chính sách xã hội ở Việt Nam” (1989) đã mang lại những thông tin hết sức kịp thời cho khoảng thời gian đầu tiên thiếu hụt thông tin về chính sách xã hội và phúc lợi xã hội thời kỳ đầu ở Việt Nam. Từ năm 1992 trở đi, các nghiên cứu đã dần cố gắng chứng minh tầm quan trọng của học thuyết chính sách xã hội Việt Nam sang kinh tế thị trường tất yếu đòi hỏi phải khẩn trương xây dựng lại học thuyết chính sách xã hội cho đất nước. Một số nghiên cứu quốc tế đã khái quát hóa từ thực tiễn chính sách xã hội thế giới thành ba mô hình chính sách xã hội. Các nghiên cứu đã gợi ý mô hình chính sách xã hội của Việt Nam phải xuất phát từ thực tế lịch sử chính sách xã hội để đưa ra một kết hợp cụ thể thích ứng với bản thân. Trong thời điểm những năm 1990, các công trình nghiên cứu hoàn thiện lý luận về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội được chú trọng. “Một số vấn đề về chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay” (1993) thuộc đề tài “Luận cứ khoa học cho việc đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo đảm xã hội trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, một đề tài nhánh thuộc đề tài Khoa học công nghệ cấp Nhà nước “Những luận cứ khoa học cho việc đổi mới các chính sách xã hội và việc quản lý thực hiện chính sách xã hội” (KX.04.05). Tác phẩm này là
  • 14. 4 sự tổng hợp các bài viết, tham luận của các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách ở nhiều cơ quan khác nhau về vấn đề xung quanh lĩnh vực bảo đảm xã hội như Bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội. Không những vậy, các nghiên cứu đã nỗ lực đi sâu nhận diện những đặc trưng của hệ thống phúc lợi xã hội quốc gia: “Một phân tích về phúc lợi xã hội quốc gia, nêu lên 10 đặc điểm vấn đề cơ bản” (1999), nghiên cứu này đã tổng kết được 10 đặc điểm và vấn đề cơ bản của phúc lợi xã hội ở Việt Nam. Bên cạnh đó, những nghiên cứu về chính sách phúc lợi cho người cao tuổi bước đầu được tiến hành như “Một phân tích hệ thống đầu tiên đối với dân số học về sự già hóa và chính sách người cao tuổi Việt Nam” (1999); Cũng trong những nghiên cứu mang tính lý luận về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, Lê Đăng Doanh và Nguyễn Minh Tú (1999) đã đưa ra “Khung chính sách xã hội trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn của Việt Nam”. Kết quả nghiên cứu này được dựa trên xem xét, nghiên cứu một số mô hình và kinh nghiệm quốc tế có lựa chọn, thực tiễn chính sách xã hội ở Việt Nam, nhằm định hướng lâu dài cho khung chính sách xã hội ở Việt Nam, tạo ra nền tảng cho sự phát triển; đồng thời đề ra một số kiến nghị cụ thể, một số mô hình cải cách đối với bốn lĩnh vực tồn tại nhiều vấn đề ở thời điểm đó: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bồi thường tai nạn lao động và bảo hiểm thất nghiệp. Đến đầu những năm 2003, các nghiên cứu tiến hành xây dựng mô hình phân tích không gian phúc lợi con người và xã hội như“Một phân tích tổng quan về phúc lợi quốc gia, nêu lên 8 khuyến nghị chính (Phúc lợi xã hội ở Việt Nam: Hiện trạng, vẩn đề và điều chỉnh, Báo cáo Đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam)” (2003) đã cho thấy sự chuyển biến về định hướng trong nghiên cứu chính sách xã hội và phúc lợi xã hội. Những công trình trong giai đoạn này dần tiến đến việc hoàn thiện các khái niệm về lý thuyết cũng như bộ khung nghiên cứu chuẩn về phúc lợi xã hội và chính sách xã hội tại Việt Nam. Hơn nữa, cũng trong năm này, Viện Xã hội học đã hoàn thành chương trình phân tích dữ liệu định lượng quốc gia để tìm hiểu mối tương quan giữa phúc lợi xã hội và biến đổi kết cấu giai tầng xã hội qua thời gian 1993 - 2002. Chương trình “Một phân tích tổng quan về chính sách xã hội quốc gia ” nêu lên 7 khuyến nghị chính kết thúc đã đưa ra kết quả nhận diện năm trục phát triển cơ
  • 15. 5 bản của hệ thống phúc lợi xã hội, đó là: xây dựng ba khu vực chính của hệ thống phúc lợi xã hội (ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, cứu trợ xã hội); hình thành các quan hệ lao động; phúc lợi xã hội cho các nhóm xã hội yếu thế (trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người tàn tật, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn...); xóa đói giảm nghèo; khuôn khổ hoạt động của các chủ thể trong lĩnh vực phúc lợi xã hội (nhà nước, đoàn thể xã hội, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp, nhóm hoạt động...) Ngoài các đề tài lớn, các đề tài thiên về nghiên cứu lý luận, các nghiên cứu về phúc lợi xã hội và chính sách xã hội cũng xuất hiện khá nhiều những công trình thực nghiệm liên quan đến các bộ phận hợp thành của hệ thống phúc lợi và chính sách xã hội của quốc gia. Có thể liệt kê tổng thể các nghiên cứu này như sau: về mặt khu vực, các chương trình nghiên cứu cũng đã tìm hiểu về các lĩnh vực ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, cứu trợ xã hội (từ những năm 1991); về nhóm đối tượng, có những khảo sát về người cao tuổi (từ những năm 1991), trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (từ những năm 1993), người khuyết tật (từ những năm 1999), sức khỏe, y tế và giáo dục ở người dân tộc thiểu số (từ năm 1992)... tất cả các nghiên cứu này tập trung làm sáng tỏ hoàn cảnh sống và chính sách xã hội của Nhà nước đối với các nhóm đối tượng hưởng lợi hoặc chịu ảnh hưởng từ các chính sách xã hội và phúc lợi xã hội. Không những vậy, các nghiên cứu cũng chú trọng đến việc các chủ thể trong lĩnh vực phúc lợi xã hội như doanh nghiệp, tổ chức xã hội, các tác nhân nỗ lực tập thể và phong trào xã hội, cụ thể “Khởi đầu nghiên cứu về tổ chức xã hội như là một tác nhân của biến đổi xã hội và khu vực xã hội dân sự” (2001), “Đề xuất hướng nghiên cứu các chủ thể phúc lợi xã hội phi nhà nước” (2005), những nghiên cứu này đã mở ra nhiều mục tiêu mới về lĩnh vực phúc lợi xã hội và chính sách xã hội ở Việt Nam cần phải làm sáng tỏ. Tác giả Mạc Văn Tiến (2005) lại nghiên cứu hệ thống an sinh xã hội theo hướng “An sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực”. Đây là tuyển tập các công trình nghiên cứu và bài báo khoa học giai đoạn 1993-2004. Với hơn 100 bài viết, tác phẩm này đã đề cập đến nhiều nội dung và khía cạnh khác nhau của an sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, nhiều vấn đề thể hiện tính dự báo chính xác trong thực tiễn về hình thành quỹ bảo hiểm xã hội, vấn đề hình thành hệ thống hoạt động sự nghiệp bảo hiểm xã hội,... cũng
  • 16. 6 có những vấn đề đang được hoàn thiện như bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội tự nguyện,.. Tác giả Nguyễn Hải Hữu (2007) đã khái quát những lý luận chung về an sinh xã hội trong “Giáo trình nhập môn an sinh xã hội” với các khái niệm, mô hình, trường phái, khung lý thuyết tổng thể về an sinh xã hội với mục đích, chức năng, cấu trúc, vai trò, các thể chế và mối quan hệ của nó, qua đó, phân tích các thể chế chính sách, thể chế tài chính và thể chế tổ chức, cán bộ của hệ thống an sinh xã hội Việt Nam. Cũng nhằm hoàn thiện lý luận chung về an sinh xã hội trong bối cảnh mới, nhóm tác giả do Nguyễn Văn Định chủ biên (2008) thông qua “Giáo trình an sinh xã hội” đã tổng kết những vấn đề lý luận cơ bản về an sinh xã hội và mỗi vấn đề lý luận được liên hệ với thực tế Việt Nam và các nước trên thế giới. Rõ ràng, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đang là vấn đề nghiên cứu được các nhà khoa học xã hội quan tâm nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu đã được các học giả uy tín trong nước công bố trong những năm gần đây với nội dung phong phú, đa dạng, từ khía cạnh lý luận cho tới thực tiễn. Trước hết, mặt lý luận đang được nhiều học giả hoàn thiện qua những tranh luận sâu sắc về khái niệm liên quan tới an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo đảm xã hội,... Nhóm các tác giả Phạm Văn Sáng, Ngô Quang Minh, Bùi Văn Huyền, Nguyễn Anh Dũng (2009) đã công bố công trình nghiên cứu về “Lý thuyết và mô hình an sinh xã hội - Phân tích thực tiễn ở Đồng Nai”. Đây là một công trình nghiên cứu bổ sung lý luận về hệ thống an sinh xã hội tại Việt Nam dựa trên đánh giá, phân tích thực tiễn địa phương. Cụ thể, ngoài việc trình bày những bất cập, xu hướng vận động và kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và phát triển hệ thống an sinh xã hội nhìn từ đối tượng thụ hưởng và những trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội ở Đồng Nai như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp xã hội, và xóa đói giảm nghèo. Tuy những lý luận trên được khái quát từ tình hình thực tiễn ở Đồng Nai nhưng nó có tính bao quát và giá trị tham khảo cao khi đối chiếu với đánh giá, phân tích hệ thống an sinh xã hội của cả nước. Đặc biệt, các vấn đề an sinh xã hội mới được đặt ra trong bối cảnh nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tác giả Đàm Hữu Đắc cùng nhóm biên soạn (2010) đã đưa ra kết quả về “Chính sách phúc
  • 17. 7 lợi xã hội và phát triển dịch vụ xã hội - Chăm sóc người cao tuổi trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập” dựa trên đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước “Nghiên cứu chính sách phúc lợi xã hội và phát triển dịch vụ xã hội chăm sóc người cao tuổi trong kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa và hội nhập”. Nghiên cứu đã chỉ ra khoảng cách giữa thể chế chính sách, thể chế tài chính, thể chế về tổ chức, nhân lực và nhận thức so với yêu cầu hoàn thiện và phát triển hệ thống phúc lợi xã hội dành cho người cao tuổi. Thông qua nghiên cứu, dựa trên khái quát kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu đưa ra những định hướng phát triển hệ thống chính sách phúc lợi xã hội và dịch vụ xã hội cơ bản chăm sóc người cao tuổi hiện đại phù hợp với bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua từng giai đoạn. Đặc biệt, trong năm qua, ban biên tập Chiến lược An sinh xã hội Việt Nam thời kì 2011 - 2020 của Bộ Lao động thương binh và Xã hội đưa ra khái niệm an sinh xã hội: “An sinh xã hội là một hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước, các đối tác xã hội thực hiện nhằm bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, sức khỏe, và các phúc lợi xã hội, nâng cao năng lực của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong quản lý và kiểm soát các rủi ro về mất việc làm, tuổi già, ốm đau, rủi ro, thiên tai, chuyển đổi cơ cấu, khủng hoảng kinh tế, dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập và giảm khả năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cơ bản”. Khái niệm này được sự đồng thuận cao của các cấp và người dân. Các nghiên cứu trong nước cũng chỉ ra rằng, hạn chế rủi ro cần thực hiện qua hệ thống chính sách an sinh xã hội sao cho đáp ứng được 3 nội dung cơ bản: 1. Phòng ngừa rủi ro 2. Giảm thiểu rủi ro 3. Khắc phục rủi ro Chính vì vậy mà các nghiên cứu về an sinh xã hội đã cấu trúc nên 3 tầng lưới tương ứng với 3 nhóm chính sách có khả năng hỗ trợ lẫn nhau hướng tới mục tiêu đảm bảo mức sống tối thiểu cho người dân: Nhóm 1: nhóm chính sách hỗ trợ đối tượng dễ bị tổn thương có việc
  • 18. 8 làm, tăng thu nhập và tham gia vào thị trường lao động để chủ động phòng ngừa rủi ro. Nhóm 2: nhóm chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và các bảo hiểm có liên quan khác nhằm giảm thiểu rủi ro do các biến cố trong đời sống, sức khỏe và lao động sản xuất. Nhóm 3: nhóm chính sách trợ giúp xã hội, xóa đói giảm nghèo, tăng cường cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản nhằm hỗ trợ người dân khắc phục rủi ro, giảm nghèo, giảm bất bình đẳng và thực hiện công bằng xã hội Cụ thể hơn, với nhóm chính sách “thị trường lao động”, có 3 nội dung chính được đề cập: hỗ trợ tiếp cận hệ thống giáo dục, đào tạo, dạy nghề; khuyến nông, khuyến lâm nhằm tạo cơ hội tự tạo việc làm; hỗ trợ tiếp cận thông tin thị trường lao động, việc làm; và hỗ trợ vay tín dụng tự tạo việc làm và mở rộng sản xuất, chuyển đổi sang các việc làm có năng suất cao hơn, bên vững hơn. Đây được coi là tầng phòng phòng ngừa trong hệ thông chính sách an sinh xã hội. Nhóm chính sách “bảo hiểm xã hội” được coi là biện pháp giảm thiểu rủi ro cho người dân hiệu quả và tại Việt Nam, nó được coi là xương sống của chương trình an sinh xã hội nhờ tính lâu dài và ổn định vốn hình thành do dựa vào nguồn thu của đối tượng tham gia bảo hiểm (người dân, doanh nghiệp, hỗ trợ một phần từ nhà nước). Tuy nhiên, các chính sách này cũng cần tiếp tục hoàn thiện. Với nhóm chính sách “trợ giúp xã hội” được xác định là giải pháp khắc phục rủi ro, hỗ trợ người dân để họ không bị rơi vào cảnh bần cùng. Đối tượng thụ hưởng chính là những nhóm dễ bị tổn thương, người nghèo đó đó trách nhiệm chính thuộc về Nhà nước. Trợ giúp xã hội vốn được chia thành 2 nhánh là trợ giúp thường xuyên và trợ giúp đột xuất. Các nghiên cứu về trợ giúp xã hội ở Việt Nam đã khẳng định vai trò quan trọng của các chính sách này trong hỗ trợ đảm bảo mức sống tối thiểu cho các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, thể hiện qua: diện đối tượng ngày càng được mở rộng, mức hỗ trợ được từng bước điều chỉnh nâng lên phù hợp với điều kiện phát triển kinh té, hình thức trợ giúp đa dạng, nhiều mô hình trợ giúp xã hội hiệu quả được nhân rộng, các dịch vụ xã hội ngày càng sẵn có và đáp ứng tốt hơn nhu cầu đối tượng khiến cho tỉ lệ nghèo giảm nhanh. Tuy vậy, những điểm hạn ché còn tồn tại khá
  • 19. 9 nhiều cần được nghiên cứu để khắc phục. Bên cạnh những nghiên cứu về lý luận liên quan tới an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, nhiều học giả khác cũng đã tìm hiểu và đưa ra khái quát bức tranh hệ thống này tại Việt Nam hiện nay thông qua những khía cạnh cụ thể. Bế Quỳnh Nga (2012) đã đưa ra một bức tranh tổng thể về bảo hiểm y tế Việt Nam thông qua tham luận “Bảo hiểm y tế Việt Nam giai đoạn 2000- 2011: Thực trạng và vấn đề”. Tác giả Nguyễn Đức Chiện lại tìm hiểu „Trợ giúp xã hội ở Việt Nam hơn một thập kỷ qua: Từ góc nhìn xã hội học” để thấy được toàn cảnh hoạt động trợ giúp xã hội trong nước thông qua trợ giúp xã hội thường xuyên và trợ giúp xã hội đột xuất, để từ đó chỉ ra những hạn chế của hệ thống này. Tác giả Bùi Thị Thanh Hà (2012) lại tập trung đánh giá “Thực hiện an sinh xã hội đổi với lao động nữ trong các doanh nghiệp”. Nghiên cứu này tập trung phần lớn vào đánh giá việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội theo góc nhìn Giới. Cũng trong đánh giá thực trạng thực hiện an sinh xã hội cho các đối tượng đặc thù, đặc biệt là các đối tượng dễ bị tổn thương, Dương Chí Thiện (2012) lại tập trung vào “ An sinh xã hội và lao động di cư từ nông thôn ra đô thị”. Nghiên cứu này phân tích những yếu tố chủ yếu liên quan đến an sinh xã hội của lao động di cư từ nông thôn ra đô thị, qua đó đề xuất một số giải pháp về an sinh xã hội đối với lao động di cư từ nông thôn ra đô thị. Một nghiên cứu có những điểm chung về khách thể nghiên cứu với 2 nghiên cứu trên là nghiên cứu của tác giả Hoàng Bá Thịnh (2011) về “Lao động nữ di cư làm việc ở khu vực phi chỉnh thức và mức độ tiếp cận an sinh xã hội”. Nghiên cứu này đã chỉ ra một cách hệ thống các khó khăn, hạn chế của lao động nữ di cư trong bối cảnh thị trường và môi trường lao động hiện nay, tiếp đó là đánh giá mức độ tiếp cận an sinh xã hội của nhóm này tại các khía cạnh khu biệt: chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; dịch vụ giáo dục và y tế,... Không chỉ những nghiên cứu về mặt lý luận và thực nghiệm mới được quan tâm mà hiện nay, các nghiên cứu về các phương thức thay đổi các chính sách xã hội và phúc lợi xã hội đang rất được chú trọng. Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thúy Hương (2011) nghiên cứu “Pháp luật an sinh xã hội - Kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam” cụ thể thông qua nghiên cứu, phân tích hệ thống pháp luật an sinh xã hội ở một số nước tiêu biểu như Đức, Mỹ, Nga,
  • 20. 10 đồng thời trình bày những nội dung cơ bản của pháp luật an sinh tại Việt Nam. Trên cơ sở sử dụng những phương pháp nghiên cứu, so sánh luật, tác giả nhận định, đánh giá chung về những ưu điểm, bất cập trong pháp luật hiện hành, qua đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh yực này. Matthias Meißner (2012) trong nghiên cứu về thực tế hệ thống an sinh xã hội tại Việt Nam đã đưa ra những ý tưởng định hướng về “Tăng cường Bảo trợ xã hội cho lao động khu vực phi chính thức - Những bài học từ nghiên cứu đang tiến hành”. Trước hết nghiên cứu đóng góp về mặt lý luận thông qua các việc thống nhất các định nghĩa liên quan tới bảo trợ xã hội, lao động phi chính thức,... sau đó, đánh giá thực trạng với những phân tích số liệu đa dạng từ nhiều nguồn tin cậy khác nhau. Từ đó, những bài học kinh nghiệm và triển vọng được đưa ra một cách rõ ràng, khách quan. Một đề tài khác là “Đánh giá phúc lợi xã hội: Các mô hình phân phối lại Scandinavian và Đông Á trong bối cảnh toàn cầu” (Hội đồng nghiên cứu Thụy Điển phối hợp với Khoa Xã hội học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) tập trung vào so sánh nghiên cứu chính sách xã hội và phúc lợi xã hội qua phát triển các nghiên cứu so sánh về hệ thống phúc lợi xã hội trong những bối cảnh phát triển khác nhau, nhất là tìm hiểu đặc điểm và kết quả của chính sách xã hội trong các lĩnh vực chính sách xã hội khác nhau; so sánh các nghiên cứu đã có về phúc lợi xã hội và chính sách xã hội ở Thụy Điển và những nghiên cứu được thực hiện ở các nước Đông Á; đóng góp vào nghiên cứu liên ngành về toàn cầu hóa và sự phát triển phúc lợi xã hội. Tất cả những nghiên cứu trên giúp chúng tôi rút ra được những điểm sau đây cho đề tài: - Chính sách an sinh xã hội hay phúc lợi xã hội là khung phân tích rất rộng, cho dù tên gọi là an sinh xã hội hay phúc lợi xã hội thì đều chứa đựng những nội ding của chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên - Từ những nghiên cứu đã nêu ta có thể thấy rõ được rằng chủ yếu các nghiên cứu này tập trung theo 2 hướng: Nhóm 1: Nghiên cứu mang tính vĩ mô, lý luận, phạm vi rộng trên toàn quốc trong chính sách đổi mới tổng thể. Nhóm 2: Những nghiên cứu sẽ được tiến hành theo lát cắt nông thôn hay đô thị vùng miền.
  • 21. 11 Nhưng nghiên cứu dưới dạng vi mô, một khu vực cụ thể trong một tỉnh thì chưa có. Những nghiên cứu trên giúp cho chúng tôi có được cái nhìn khái quát từ lý luận đến những nghiên cứu vi mô cho đến nghiên cứu vĩ mô về chính sách an sinh này. Nhưng để thấy được sự tác động, biến đổi ở một xã cụ thể thì vẫn chưa có. Đề tài sẽ giúp bổ sung mạnh mẽ hơn nữa những lập luận về chính sách an sinh đang thực hiện hiện nay để chúng ta thấy được cái nhìn đa chiều từ vĩ mô cấp toàn quốc cho đến những nghiên cứu vi mô cụ thể cấp địa phương. 3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3.1. Ý nghĩa khoa học Cùng với việc làm rõ mục đích của để tài nghiên cứu, một số khái niệm, lý thuyết và phương pháp nghiên cứu xã hội học được vận dụng một cách khoa học góp phần xây dựng lý luận về trợ giúp xã hội thường xuyên đồng thời đưa những nhận thức khoa học vào ứng dụng trong thực tiễn. Đề tài đã ứng dụng các lý thuyết xã hội học để phân tích và hiểu được mối quan hệ giữa một bên là lý luận về chích sách và một bên là đời sống thực tế của đối tượng hưởng lợi từ chính sách. Qua đó thấy được những khoảng cách từ lý luận đến thực tiễn và đưa ra được những kiến nghị cần cải thiện chính sách đó. Đề tài cũng góp phần làm phong phú thêm mảng nghiên cứu về hiệu quả của những chính sách xã hội của Đảng và nhà nước đối với những nhóm đối tượng thiệt thòi trong xã hội. 3.2. Ý nghĩa thực tiễn Qua việc mô tả thực trạng vấn đề, chúng tôi muốn rà soát lại lý luận hiện nay về lĩnh vực trợ giúp xã hội thường xuyên, góp phần điều chỉnh, xây dựng một số luận đề mới trong bối cảnh nền kinh tế đang có nhiều thay đổi. Qua việc chỉ ra hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội tại địa phương, những thông tin thu được trong đề tài sẽ cho chúng ta biết được những điểm đã làm được và những điểm còn hạn chế cần khắc phục. Thông qua đề tài này, chúng ta cũng đề xuất một số những giải pháp cụ thể giúp cải thiện chính sách về an sinh xã hội ngày một sâu rộng hơn nhằm đem lại cuộc sống bớt cơ cực hơn cho những đối tượng gặp khó khăn.
  • 22. 12 4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài hướng đến tìm hiểu thực trạng đới sống của nhóm đối tượng hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên hiện nay đang diễn ra như thế nào. Thông qua đó tìm hiểu những nguyện vọng, mong muốn, nhu của đối tượng được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên hiện nay. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xây dựng khung phân tích để tìm hiểu đời sống của đối tượng được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên. Tìm hiểu mức độ kỳ vọng của người dân và sự phù hợp của chính sách tại địa phương. Mô tả thực trạng đời sống của những đối tượng được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên tại địa phương hiện nay. Đề xuất những giải pháp cụ thể phối hợp giữa chính sách của địa phương và chính sách vĩ mô. 5. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng đời sống của đối tượng được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên tại xã Đông Lĩnh, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình hiện nay. 5.2. Khách thể nghiên cứu - Tất cả các cá nhân được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên - Đối tượng quản lý và thực hiện TGXH thường xuyên tại địa phương. 5.3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi thời gian: Tính từ khi nghị định số 67/2007 NĐ-CP của Chính phủ về chính sách trợ giúp xã hội của các đối tượng bảo trợ xã hội kí ngày 13 tháng 4 năm 2007 có hiệu lực. - Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ tháng 7/2013 đến tháng 9/2014 - Phạm vi không gian: nghiên cứu tại xã Đông Lĩnh, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. - Phạm vi nội dung nghiên cứu: Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên là một nội dung nghiên cứu rộng và có nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng dưới góc nhìn xã hôi học, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu đời sống của những đối tượng được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên với
  • 23. 13 những ba hình thức cơ bản thông qua việc trợ giúp tiền mặt hàng tháng, thông qua các chế độ về chăm sóc sức khỏe, thông qua những hỗ trợ về đào tạo, giáo dục, việc làm (đây cũng chính là 3 nội dung cơ bản nhất trong chính sách về trợ giúp xã hội thường xuyên hiện nay). 6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 6.1. Câu hỏi nghiên cứu Câu hỏi 1: Thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay như thế nào? Câu hỏi 2: Đời sống của những đối tượng hưởng chính sách tại xã Đông Lĩnh hiện nay đang diễn ra như thế nào? Câu hỏi 3: Mong muốn và nhu cầu của đối tượng hưởng chính sách hiện nay là như thế nào? 6.2. Giả thuyết nghiên cứu Giả thuyết 1: Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên hiện nay đã được thực hiện đúng và đầy đủ tại xã Đông Lĩnh huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình. Tuy nhiên, hầu hết các đối tượng hưởng lợi của chính sách cho rằng mức trợ cấp chưa phù hợp, chưa đáp ứng được như cầu cấp thiết của họ. Giả thuyết 2: Đến nay, đời sống của đối tượng hướng chính sách trợ cấp xã hội thường xuyên phần nhiều còn phụ thuộc vào điều kiện sống của hộ gia đình, tức là chính sách trợ cấp xã hội thường xuyên chưa có nhiều tác động thực sự tích cực đến đối tượng hưởng lợi. Giả thuyết 3: Phần lớn các đối tượng hưởng chính sách trợ cấp xã hội mong muốn nhận được nhiều hơn nữa các hỗ trợ về dịch vụ chăm sóc sức khỏe. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu 7.1. Phân tích tài liệu Phân tích tài liệu là khâu đầu tiên để tác giả có thể có được những nhận định ban đầu về vấn đề nghiên cứu. Các tài liệu được sử dụng là các bài báo, tạp chí, các trang tin điện tử, các công trình nghiên cứu, các tài liệu có liên quan đến nghiên cứu. Việc sử dụng phương pháp phân tích tài liệu giúp tác giả có thể nắm bắt được các hướng nghiên cứu trước đó cũng về mảng đề tài này. Qua đó tìm ra những điểm mới mẻ và sáng tạo trong nghiên cứu của mình. Các dạng tài liệu được sử dụng phân tích nghiên cứu trong đề tài:
  • 24. 14 - Các báo cáo nghiên cứu: Đề tài sử dụng những báo cáo dạng vi mô hay vĩ mô như: Báo cáo về mức sống dân cư các năm 2010, 2012…, báo cáo tại các cuộc nghiên cứu … - Các báo cáo đặc điểm kinh tế xã hội các cấp từ Nhà nước đến cấp địa phương cụ thể - Các kết quả nghiên cứu từ những cuộc điều tra có liên quan đến các vấn đề an sinh xã hội, vấn đề bảo trợ xã hội, phúc lợi xã hội, người cao tuổi, người khuyết tật… Các tài liệu sẽ giúp: - Đánh giá chung về sự phát triển của địa bàn nghiên cứu để thấy được sự tương đồng giữa địa bàn nghiên cứu và khu vực khác thuộc tỉnh hoặc cả nước. - Qua những tài liệu đó chúng tôi thấy được các biến số đang được sử dụng trong nghiên cứu về chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên để vận dụng vào thao tác trong nghiên cứu. - Các kết quả nghiên cứu được từ những cuộc điều tra trước đó sẽ giúp chúng tôi tìm ra được những điểm tương đồng hay những điểm mới của đề tài nghiên cứu. Thấy được vấn đề nghiên cứu đang tiến triển ở mức độ nào…. 7.2. Phỏng vấn sâu Để thực hiện đề tài này chúng tôi quyết định phỏng vấn 12 đối tượng hưởng chính sách trong đó có 8 đối tượng là người cao tuổi, 4 đối tượng thuộc nhóm người khuyết tật. Trong đó có 2 đối tượng người cao tuổi và 3 đối tượng thuộc nhóm người khuyết tật do không đủ năng lực trả lời phỏng vấn thì chúng tôi cần nhờ đến sự trọ giúp từ phía đại diện gia đình. Trong đề tài chúng tôi lựa chọn phỏng vấn sâu 2 đối tượng quản lý: - Cán bộ chính sách xã hội tại xã, đây là đối tượng trực tiếp quản lý tất cả những đối tượng được hưởng chính sách cũng là đối tượng nắm rõ nhất các chính sách của Đảng và Nhà nước về các đối tượng bảo trợ xã hội. - Cán bộ quản lý cấp thôn: Đây là đối tượng sống gần với đối tượng hướng chính sách nhất và cùng là đối tượng giải quyết các vấn đề thủ tục cấp thôn để trình lên xã, huyện… Trên cơ sở phỏng vấn chúng tôi ngoài kết quả mà chúng tôi thu được để đưa vào bảng hỏi nghiên cứu chúng tôi còn có thể có những minh chứng cụ
  • 25. 15 thể cho việc đánh giá đời sống của các đối tượng được hưởng chính sách hiện nay là những thế nào. 7.3. Phương pháp trưng cầu ý kiến Trưng cầu ý kiến là một phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng rộng rãi. Phương pháp này cho phép tác giả thu thập các thông tin định lượng phục vụ cho nghiên cứu. Sử dụng phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi đem lại những ưu điểm riêng như: được tiến hành nhanh, mang tính đại diện cao và thông tin được cập nhật. Chúng tôi tiến hành trưng cầu ý kiến đối với 268 cá nhân thuộc diện trợ giúp thường xuyên trên địa bàn xã, tức là tất cả các đối tượng đang được hưởng chế độ trợ giúp thường xuyên trên địa bàn xã Đông Lĩnh, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Do lựa chọn nghiên cứu tất cả đối tượng trên địa bàn nghiên cứu, nên chúng tôi đã nhờ đến sự giúp đỡ của các cán bộ quản lý cấp thôn hoặc là cán bộ phụ nữ tại các thôn rải phiếu điều tra. Sau một tuần phát bảng hỏi thì số phiếu phát ra là 268 phiếu và số phiếu thu về là 241 phiếu chỉ đạt 90% số phiếu phát ra. Chúng tôi tiếp tục hẹn sau 1 tuần để thu nốt 10% số phiếu còn lại. Kết quả cuối cùng chúng tôi thu về đầy đủ 100% số phiếu phát ra. Nội dung chính của bảng hỏi chủ yếu xoay quanh các nhóm thông tin: Nhóm 1: Thông tin nhân khẩu học Nhóm 2: Thực trạng của quá trình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại địa phương. Nhóm 3: Tập hợp những nhu cầu của nhóm đối tượng đang được hưởng chính sách.
  • 26. 16 Bảng 1: Cơ cấu mẫu Phân loại các đối tƣợng hƣởng trợ cấp xã hội thƣờng xuyên TT Đối tƣợng hƣởng Số lƣợng Tỷ lệ 01 Trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng, bị nhiễm HIV/AIDS 0 0% 02 Người cao tuổi cô đơn thuộc gia đình nghèo 0 0% 03 Người từ 80 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc không có trợ cấp bảo hiểm xã hội 190 70.8% 04 Người khuyết tật nặng, hộ gia đình có NKT không có khả năng lao động 41 15.2% 05 Người mắc chứng bệnh tâm thần 37 14% 06 Người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động, thuộc hộ gia đình nghèo 0 0% 07 Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi. 0 0% 08 Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo, đang nuôi con nhỏ dưới 16 tuổi 0 0% (Nguồn điều tra) Nhìn vào cơ cấu mẫu và căn cứ tính chất pháp lý của việc quy định chính sách hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên Theo căn cứ theo điều 3 của luật người khuyết tật có quy định về dạng tật và mức độ khuyết tật đã chỉ rõ 6 dạng khuyết tật (khuyết tật vận động, khuyết tật nghe nói, khuyết tật nhìn, khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ và khuyết tật khác) như vậy thì người tâm thần được xem là một trong 6 đối tượng của người khuyết tật. Thêm vào đó, nhóm hộ gia đình có 2 người khuyết tật nặng trở lên sẽ được tìm hiểu nhưng đặc điểm chung của hộ gia đình có người hưởng chính sách TGXHTX chính vì vậy trong nghiên cứu này nhóm người khuyết tật và nhóm người mắc các chứng bệnh tâm thần nói chung và nhóm hộ gia đình có từ 2 người khuyết tật nặng không có khả năng lao động được tính là 1 nhóm người khuyết tật. Theo như cơ cấu mẫu từ cuộc điều tra với 268 đối tượng là toàn thể những người đang được hưởng trợ cấp thường xuyên tại xã Đông Lĩnh thì đối tượng chủ yếu là những người cao tuổi với số lượng là 190 người chiếm tỷ lệ
  • 27. 17 70.8%, tiếp đến là đối tượng mắc các chứng bệnh về tâm thần thuộc loại tâm thần phân liệt, rối loại tâm thần với số lượng là 37 đối tượng chiếm tỷ lệ là 14%, còn lại là đối tượng người khuyết tật không có khả năng lao động chiếm tỷ lệ là 15.2% với số lượng là 41 người. Các đối tượng khác theo quy định. 8. Khung lý thuyết Điều kiện kinh tế - xã hội – văn hóa của địa phương Một số yếu tố hộ gia đình • Thu nhập • Chi tiêu • Số thành viên • Kiểu nhà • Tài sản hộ • TC Giải trí Đặc điểm nhân khẩu học • Tuổi • Giới tính • Sức khỏe • Trình độ học vấn • Nghề nghiệp • Thu nhập Thông qua Trợ giúp về tiền hàng tháng Thông qua trợ giúp về dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe Thông qua trợ giúp về giáo dục đào tạo việc làm Thực trạng đời sống của đối tƣợng hƣởng trợ giúp xã hội thƣờng xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên hiện nay
  • 28. 18 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.1 Cơ sở lý luận 1.1.1 Những khái niệm công cụ  Khái niệm chính sách xã hội Chính sách xã hội là sự cụ thể hóa bằng pháp luật những chủ chương đường lối của Đảng và Nhà nước, của các tổ chức chính trị xã hội khác nhau dựa trên những quan điểm tư tưởng của chủ thể của chính sách xã hội, phù hợp với bản chất chế độ chính trị xã hội nhất định, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng nói chung và từng nhóm xã hội nói riêng nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân Việt Nam. Đó là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Từ góc độ xã hội học có thể định nghĩa: Chính sách xã hội là tổng thể các quan điểm, các chủ trương của Đảng và Nhà nước, của giai cấp, của nhóm xã hội được thể hiện bằng các quy định luật để tác động vào các quan hệ xã hội, nhằm giải quyết những vấn đề xã hội, góp phần thực hiện công bằng, tiến bộ và phát triển con người.  Khái niệm đời sống Khái niệm đời sống là khái niệm khá rộng, chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa đời sống tinh thần xã hội và đời sống vật chất xã hội. Đời sống tinh thần xã hội phản ánh đời sống vật chất xã hội, chịu sự quy định, chi phối của đời sống vật chất xã hội. Khi đời sống vật chất thay đổi thì cũng kéo theo sự thay đổi của đời sống tinh thần. Nói một cách cụ thể hơn - như C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" khi sản xuất vật chất thay đổi thì nó sẽ kéo theo sự thay đổi của sản xuất tinh thần. Nhu cầu và lợi ích tinh thần, xét cho cùng, thường xuyên chịu sự chi phối của nhu cầu và lợi ích vật chất. Xét theo mặt bằng xã hội, con người thường có "mức sống" tinh thần tương ứng với mức sống kinh tế. Mặt khác, chủ nghĩa duy vật lịch sử còn vạch ra sự thống nhất giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Sự thống nhất đó thể hiện ở chỗ, đời sống tinh thần tồn tại thông qua đời sống vật chất. Đời sống vật chất là phương tiện, phương thức thể hiện của đời sống tinh thần. Nói cách khác, đời sống vật
  • 29. 19 chất là phương tiện thể hiện mặt bản thể luận của đời sống tinh thần. Chẳng hạn, những giá trị tinh thần bao giờ cũng phải được tồn tại, phát triển thông qua một số cơ sở, phương tiện vật chất như nhà in, đài phát thanh, đài truyền hình, thư viện, viện bảo tàng… và được vật chất hoá dưới nhiều hình thức như sách báo, tranh ảnh, băng hình, băng nhạc, tượng đài, đình chùa… Như vậy, khái niệm đời sống trong nghiên cứu này được nhìn nhận dưới góc độ là đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Chúng tôi cũng chọn cách hiểu như trên nhưng được cụ thể như sau: Đời sống vật chất chính là tìm hiểu những điều kiện kinh tế hộ gia đình, thu nhập trong đó kể tới khoản thu nhập có được từ chính sách trợ giúp thường xuyên thông qua trợ cấp tiền mặt hàng tháng, chi tiêu của hộ…Đời sống tinh thần được đánh giá dưới tác động của chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên thông qua các hình thức trợ giúp về y tế, chăm sóc sức khỏe của đối tượng và những trợ giúp về giáo dục, đào tạo việc làm và sự tham gia của các đối tượng đến các hoạt động của cộng đồng.  Khái niệm an sinh xã hội Theo tiếng Anh, An sinh xã hội thường được gọi là Social Security và khi dịch ra tiếng Việt, ngoài An sinh xã hội thì thuật ngữ này còn được dịch là bảo đảm xã hội, bảo trợ xã hội, an ninh xã hội, an toàn xã hội… với những ý nghĩa không hoàn toàn tương đồng nhau. Theo nghĩa chung nhất, Social Security là sự đảm bảo thực hiện các quyền của con người được sống trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ luật pháp; được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có việc làm, có nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già…Theo nghĩa này thì tầm “bao” của Social Security rất lớn và vì vậy khi dịch sang tiếng Việt có nhiều nghĩa như trên cũng là điều dễ hiểu. Theo nghĩa hẹp, Social Security được hiểu là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho người lao động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cả, cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người nghèo đói và những người bị thiên tai, dịch hoạ…
  • 30. 20 Theo H. Beveridge, nhà kinh tế học và xã hội học người Anh (1879- 1963), ASXH là sự bảo đảm về việc làm khi người ta còn sức làm việc và bảo đảm một lợi tức khi người ta không còn sức làm việc nữa. Trong Đạo luật về An sinh xã hội của Mỹ thì An sinh xã hội được hiểu khái quát hơn, đó là sự bảo đảm của xã hội, nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị của cá nhân, đồng thời tạo lập cho con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ. Theo Viện khoa học lao động và xã hội thì an sinh xã hội là hệ thống các chính sách can thiệp của nhà nước (bảo hiểm xã hội/trợ giúp xã hội) và tư nhân (các chế độ không theo luật định hoặc của tư nhân) nhằm giảm mức độ nghèo đói và tổn thương, nâng cao năng lực tự bảo vệ của người dân và xã hội trước những rủi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu nhập, bảo đảm ổn định, phát triển và công bằng xã hội. Để dễ thống nhất, trong đề tài này tôi dùng khái niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đang sử dụng: An sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. Như vậy theo định nghĩa của ILO, ASXH được hiểu là sự thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu của đối tượng xã hội yếu thế hay dễ bị tổn thương, chúng tôi dựa vào khái niệm này để thấy rằng, đối tượng của chính sách trợ cấp xã hội thường xuyên cần được đáp ứng những nhu cầu sơ cấp như sau: khi bị đói họ có được ăn no hay không, khi bị rét họ có quần áo mặc hay không, họ có nhà của để che nắng che mưa hay không. Họ có bảo hiểm y tế để chăm sóc sức khỏe khi đau ốm hay không, họ có được giúp đỡ về giáo dục, đào tạo hỗ trợ việc làm để tạo ra thu nhập hay không.  Khái niệm “trợ giúp thường xuyên” Để hiểu được khái niệm TGXH thường xuyên trước hết chúng ta nên đi tìm hiểu khái niệm trợ giúp xã hội.
  • 31. 21 Theo tác giả Nguyễn Văn Định (2008) cho rằng “Cứu trợ xã hội” là sự giúp đỡ của xã hội bằng nguồn tài chính của Nhà nước và của cộng đồng đối với các thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và gặp rủi ro trong cuộc sống như thiên tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu…dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào cảnh neo đơn túng quẫn nhằm giúp họ bảo đảm được điều kiện sống tối thiểu, vượt qua cơn nghèo khốn và vươn lên trong cuộc sống bình thường”. Đồng thời giải thích “Cứu tế xã hội là sự giúp đỡ của cộng đồng và xã hội bằng tiền hoặc hiện vật, có tính tức thời, khẩn cấp và ở mức độ tối cần thiết cho người được trợ cấp khi họ bị rơi vào hoàn cảnh bần cùng, không còn khả năng tự lo liệu cuộc sống thường ngày cho bản thân họ và gia đình”. Cũng với cách tiếp cận này tác giả cũng cho rằng “TGXH là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng xã hội bằng tiền hoặc bằng các phương tiện thích hợp để người được trợ giúp có thể phát huy được khả năng tự lo liệu cho cuộc sống bản thân và gia đình, sớm hòa nhập lại với cộng đồng”. Theo Nguyễn Ngọc Toản (2010), TGXH không chỉ là hoạt động của cộng đồng và xã hội mà phải là trách nhiệm của Nhà nước, không những thế còn là hoạt động có tính chất về công tác xã hội, không dành riêng cho một hoặc một số đối tượng xã hội, đồng thời TGXH không phải là giải pháp toàn diện về an sinh xã hội, mà chỉ là một hợp phần của an sinh xã hội. Như vậy, có thể hiểu TGXH là biện pháp, giải pháp bảo đảm cho Nhà nước và xã hội đối với các đối tượng Bảo trợ xã hội nhằm giúp họ khắc phục những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài trong cuộc sống. Việc bảo đảm này thông qua các hoạt động cung cấp tài chính, vật phẩm, các điều kiện vật chất khác cho đối tượng. Như vậy chúng ta có thể hiểu, TGXH thường xuyên là một hệ thống các chính sách chế độ của Nhà nước, chính quyền quy định việc trợ giúp một cách thường xuyên, liên tục và có thể hiểu là trợ giúp hàng tháng nhằm tạo điều kiện cho các đối tượng hưởng lợi có điều kiện ổn định cuộc sống.  Vai trò của trợ giúp xã hội thường xuyên Giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế xã hội là một thước đo quan trọng đánh giá được tố độ phát triển xã hội của mỗi quốc gia cũng có nghĩa là việc phát triển xã hội kéo theo nó chính là vấn đề an
  • 32. 22 sinh xã hội và trợ giúp xã hội cũng sẽ trở thành một hợp phần không thế thiếu trong mắt xích phát triển đó. Thứ nhất, trợ giúp xã hội thưỡng xuyên sẽ là nhân tố giúp giảm phân hóa giàu nghèo và giảm phân tầng xã hội, tạo đồng thuận xã hội giữa các nhóm xã hội khác nhau trong quá trình phát triển. Kinh tế xã hội càng phát triển thì xu hướng phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội và bất bình đẳng càng gia tăng. Để tạo ra sự phát triển bền vững, đòi hỏi nhà nước càng phải phát triển mạnh mẽ TGXHTX để điều hòa các mâu thuẫn xã hội phát sinh trong quá trình phát triển. Đồng thời, TGXHTX sẽ thực hiện việc tái phân phối lại của cải xã hội. Thứ 2: TGXHTX sẽ cố gắng tập trung vào những vùng nghèo, vùng chậm phát triển tạo nên sự phát triển hài hòa giữa các vùng, giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng, các nhóm dân sư. Thứ 3, TGXHTX có vai trò phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu và khắc phục rủi ro và giải quyết một số vấn đề nảy sinh TGXHTX sẽ trực tiếp giải quyết những rủi ro trong xã hội, giúp hạn chế đến mức tối thiểu những tổn thương của rủi ro thông qua những chính sách và chương trình cụ thể giúp các thành viên tái hòa nhập cộng đồng. Đồng thời TGXHTX cũng là một lĩnh vực tạo nguồn tài chính choc ho phát triển kinh tế và giúp tăng trưởng nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần ổn định xã hội và tạo ra sự phát triển bền vững. 1.1.2. Một số lý thuyết áp dụng trong đề tài  Lý thuyết xã hội học về chính sách công Lý thuyết xã hội học về chính sách công đã được nhà xã hội học người Pháp Francois de Laction nêu lên với một cách tiếp cận mới mẻ, cách tiếp cận Bottom up – tiếp cận từ dưới lên. Đây có thể nói là cách tiếp cận phổ biến trong những nghiên cứu về chính sách trong thời gian gần đây. Bởi lẽ với cách tiếp cận từ dưới lên như thế này đem lại những hiệu quả cao khi chúng ta nghiên cứu về nhu cầu của những đối tượng thực hiện chính sách, nó cũng cho thấy được tại địa phương thì những chính sách gì đang được áp dụng, phối hợp thực hiện như thế nào. Đồng thời qua đó nhà nghiên cứu cũng đưa ra được những đánh giá mức độ kì vọng của người tiếp nhận chính sách đó là như thế nào và với cách tiếp cận này giúp nhà nghiên cứu đưa ra những giải thích vì sao có sự
  • 33. 23 “vênh” giữa chính sách và nhu cầu của người dân. Từ đó, kết quả mà mỗi nghiên cứu mang lại đó là chúng ta có thể đánh giá đúng được nguồn nhân lực của mỗi địa phương, nắm bắt được những cái chưa hoàn hảo, những cái chưa đủ cần được cải thiện, góp phần xây dựng, bổ sung chính sách. Tác giả cũng nêu lên nhận xét rằng chính sách công khi được thực thi thì luôn có những lẫn lộn về mục tiêu. Có nghĩa là với mỗi một hoàn cảnh khác nhau thì chính sách sẽ có những mục tiêu hướng đến khác nhau. Điều này không cố gắng giải thích thành công hay thất bại của chính sách mà muốn hướng đến việc rút ra quy luật của hành động. Trong xã hội học cũng vậy, điều chúng ta muốn hướng đến đó chính là rút ra được một quy luật của quá trình thẩm thấu những quy định chung, những chính sách chúng thành những chính sách phù hợp với từng địa phương và người ta thường gọi là những “sáng tạo chính sách” để phù hợp với nguồn lực của địa phương mình. Trong quá trình đó các nhóm người khác nhau họ sẽ có những tuân thủ, cũng như chia sẽ những ràng buộc, thành công hay thất bại của quá trình thực hiện và từ đó tìm ra tiếng nói chung tạo ra sự thỏa hiệp của xã hội. Giữa những đối tượng thực hiện chính sách và nhóm đối tưởng hưởng chính sách sẽ diễn ra những cuộc thỏa hiệp hoặc những căng thẳng, xung đột. Theo các tác giả này cũng nêu lên rằng chính sách công không phải là 1 trật tự xã hội cũng không phải là việc đảm bảo trật tự nhưng cũng không phải là việc đảo lộn, không phải là trên nói là A thì ở dưới phải là A, cũng không phải là trên nói A dưới sẽ làm thành Z (Padiodeau, 81- 140). Chính vì vậy phải có sự thương thuyết để nó không trở thành áp đặt cũng không phải là đảo lộn mà nó phụ thuộc vào từng đặc thù của địa phương. Trong quá trình tiếp cận để lựa chọn thực hiện những chính sách nào hợp lý nhất thì có những giả thuyết liên quan giữa các tác nhân chính là nhà nước, và các chiến lược tự trị, tự quyết của địa phương. Trong sự phối hợp, điều tiết của quy tắc trung ương, địa phương, người dân sẽ đưa ra những điều chỉnh hợp lý dựa trên 3 dạng nguyên tắc cơ bản: 1. Nguyên tắc diễn giải các quy định theo cách hiểu của từng địa phương dựa trên nguyên tắc hiểu văn bản ban hành. Khi áp dụng nguyên tắc này trong nghiên cứu, chúng tôi muốn tìm hiểu xem, một khhi văn bản về chính sách TGXHTX được ghi rõ ràng như vậy trên giấy tờ thì việc thực hiện
  • 34. 24 chúng có được đúng và đầy đủ trong thực tế hay không. Nội dung này sẽ được giải quyết trong chương 2 của luận văn. 2. Nguyên tắc thương thuyết đi đến thỏa hiệp xã hội tạo ra khung tương tác giữa các nhóm với nhau. Khi áp dụng nguyên tắc này, chúng tôi muốn tìm hiểu xem trong điều kiện của địa phương như xã Đông Lĩnh thì chính quyền địa phương có những chính sách gì hỗ trợ hay không. 3. Nguyên tắc xung đột : khi đưa ra những chính sách mới thì sẽ có các nhóm đối tượng được hưởng lợi hoặc bị đe dọa. Khi đưa ra nguyên tắc thương thuyết, họ sẽ xác định đối tượng nào hưởng lợi nhiều hơn và đối tượng nào bị đe dọa lợi ích nhiều hơn và qua đó tạo nên những căng thẳng xung đột giữa các nhóm với nhau. Khi áp dụng nguyên tắc này, chúng tôi muốn tìm hiểu xem có sự khác biệt hay không về mức độ hài lòng giữa hai nhóm đối tượng xã hội hưởng TCXHTX là người khuyết tật và người cao tuổi. Theo như quan điểm của các tác giả đã nêu lên rằng trong quá trình thực hiện chính sách thì bao giờ quá trình thực hiện cũng chịu những áp lực . Áp lực về mặt thời gian có nghĩa là những chích sách đó từ trước đã như thế nào, do ai ban hành, hiệu quả hoạt động ra sao. Theo chiều đồng đại thì được hiểu là vị thế quyền lợi của các nhóm tác nhân rất là khác nhau và như thế họ sẽ có những toan tính, quyết định khác nhau. Đây cũng chính là sự lựa chọn một cách duy lý. Có thể thấy rằng với cách tiếp cận từ dưới lên, lấy đối tượng hưởng lợi làm xuất phát điểm rất phù hợp với quan điểm xây dựng chính sách ở nước ta hiện nay. Với khẩu hiệu “ dân biết, dân làm, dân kiểm tra”, với phương châm lấy dân làm gốc, xây dựng xã hội “ của dân, do dân và vì dân” thì việc lấy những người dân, nhưng người được hưởng chính sách là xuất phát điểm là hết sức hợp lý. Bởi lẽ, chính sách được sinh ra là để phục vụ người dân và chính người dân là đối tượng của chính sách hướng đến, vậy với việc tiếp cận từ dưới lên như thế này sẽ giúp cho nhà nghiên cứu nắm bắt được thực trạng của vấn đề, biết được chích sách đang được tiến hành ra sao và mức độ hài lòng của đối tượng hướng đến đâu.
  • 35. 25  Lý thuyết cấp bậc Nhu cầu của Maslow Maslow nhà khoa học xã hội nổi tiếng đã xây dựng học thuyết về nhu cầu của con người vào những năm 1950. Lý thuyết của ông nhằm giải thích những nhu cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần. Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hệ thống trật tự cấp bậc, trong đó các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước. Tầng thứ nhất: Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc "thể lý" (physiological) - thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi. Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn (safety) - cần có cảm giác yên tâm về an toàn thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo. Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc (love/belonging) - muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy. Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến (esteem) - cần có cảm giác được tôn trọng, kinh mến, được tin tưởng. Tẩng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (self-actualization) - muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được công nhận là thành đạt. Maslow cho rằng con người muốn và luôn đấu tranh để thoả mãn những nhu cầu khác nhau. Xuất phát từ việc những mức nhu cầu bậc thấp bao giờ cũng cấp thiết và quan trọng hơn, nên chúng sẽ đóng vai trò như nguồn và định hướng của một mục tiêu cá nhân nếu những nhu cầu này không được thoả mãn. Sau khi những nhu cầu bậc thấp được thoả mãn, những nhu cầu cao hơn sẽ là động cơ hành động. Những nhu cầu chưa được thỏa mãn ở bậc dưới sẽ lấn át những nhu cầu chưa được thỏa mãn ở bậc cao hơn, và chúng cần được thỏa mãn trước khi một cá nhân tiến lên các bậc cao hơn của tháp nhu cầu. Thang bậc nhu cầu cũng được áp dụng có hiệu quả trong việc tìm hiểu và đánh giá hiểu quả của các chính sách đang triển khai, qua đó các nhà nghiên cứu và quản lý có thể nắm bắt được tâm lí, sự khó khăn, thiếu hụt của các đối tượng đang gặp phải ở vị trí nào trong tổng quan tháp nhu cầu để có
  • 36. 26 những thay đổi, điều chỉnh và rút ra những cách thức tổ chức cũng như có những điều chỉnh phù hợp nhất nhằm phát huy tối đa tiềm năng của các đối tượng thuộc diện hưởng chính sách.  Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý Thuyết lựa chọn hợp lý (hay còn gọi là thuyết lựa chọn duy lý) trong xã hội học có nguồn gốc từ triết học, kinh tế học và nhân học vào thế kỷ VIII, XIX. Một số nhà triết học đã cho rằng bản chất con người là vị kỷ, luôn tìm đến sự hài lòng, sự thoả mãn và lảng tránh nỗi khổ đau. Một số nhà kinh tế học cổ điển thì từng nhấn mạnh vai trò động lực cơ bản của động cơ kinh tế, lợi nhuận khi con người phải đưa ra quyết định lựa chọn hành động. Đặc trưng thứ nhất có tính chất xuất phát điểm của sự lựa chọn duy lý chính là các cá nhân lựa chọn hành động. Thuyết lựa chọn hợp lý dựa vào tiền đề cho rằng con người luôn hành động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Thuật ngữ “lựa chọn” được dùng để nhấn mạnh việc phải cân nhắc, tính toán để quyết định sử dụng loại phương tiện hay cách thức tối ưu trong số những điều kiện hay cách thức hiện có để đạt được mục tiêu trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực. Phạm vi của mục đích đây không chỉ có yếu tố vật chất (lãi, lợi nhuận, thu nhập) mà còn có cả yếu tố lợi ích xã hội và tinh thần. Trong xã hội học, Georg Simmel nêu ra nguyên tắc “cùng có lợi” của mối tương tác xã hội giữa các cá nhân và cho rằng mỗi cá nhân luôn phải cân nhắc, toan tính thiệt hơn để theo đuổi mục đích cá nhân, để thỏa mãn các nhu cầu cá nhân. Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng lý thuyết sự lựa chọn hợp lý để giải thích và đánh giá mức độ hài lòng của đối tượng đối với chính sách an sinh xã hội. Con người sẽ có những hành động theo cách theo một sự lựa chọn mà người đó cho là đúng nhất, cho là có lợi nhất. Vậy khi nhận được sự trợ cấp của nhà nước thông qua chương trình an sinh xã hội mà cụ thể là hoạt động trợ giúp thường xuyên thì đối tượng hưởng lợi sẽ có những thay đổi gì trong suy nghĩ và hành động để nhằm cải thiện cuộc sống dựa trên những trợ giúp đó. 1.2 Cơ sở thực tiễn của nghiên cứu
  • 37. 27 1.2.1 Đặc thù của địa bàn nghiên cứu Thái Bình là tỉnh duyên hải của Đồng bằng sông Hồng, gần tam giác phát triển Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Tổng diện tích địa lý của Thái Bình là 1.542 Km2, bằng 0,5% diện tích của cả nước. Tỉnh Thái Bình gôm 7 huyện là Đông Hưng, Hưng Hà, Kiến Xương, Quỳnh Phụ, Tiền Hải, Thái Thụy, Vũ Thư và thành phố Thái Bình. Tổng cộng, Thái Bình có 284 xã và phường. Theo thống kê năm 2008, dân số Thái Bình ước tính là 1.827.000 người, trong đó 94,2% sống ở nông thôn. Quy mô gia đình trung bình là 3,75 người. Dân số đang ở độ tuổi lao động lớn, gồm 1.073.000 người; 74,3% lực lượng lao động làm nghề nông, 17% trong các ngành xây dựng và sản xuất; 8,7% làm trong các ngành thương mại và dịch vụ. Về mặt chất lượng lao động, dưới ¼ (23,4%) đã được học nghề; 5,5% học trung cấp; 4,5% học đại học và cao đẳng. Là tỉnh có số dân trên 1,8 triệu người, mật độ 1.192 người/km2 cao nhất vùng ĐBSH. Trước yêu cầu phát triển kinh tế cùng với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá và áp lực đòi hỏi dân số, đòi hỏi nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dân sinh ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Theo Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 thì tổng giá trị sản xuất kinh tế đạt 92 tỷ 294 triệu đồng trong đó giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 39 tỷ 965 triệu đồng, giá trị sản xuất Công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp đạt 34 tỷ 576 triệu đồng, giá trị sản xuất Thương mại- dịch vụ 17 tỷ 753 triệu đồng. Về cơ cấu kinh tế thì sản xuất nông nghiệp chiếm 43,3%, công nghiệp – TTCN và xây dựng cơ bản chiếm 37,5%, thương mại- dịch vụ chiếm 19,2% [22]. Thực tế trong những năm gần đây và nhất là từ năm 2011 đến năm 2012 do tác động của thị trường nên sản xuất Công nghiệp- Tiểu thủ công nghiệp có chiều hướng suy giảm trên địa bàn tỉnh nói chung và xã Đông Lĩnh nói riêng. Nguyên nhân do sản xuất Tiểu thủ công nghiệp cho thu nhập thấp nên lao động nông nhàn đã có nhiều người bỏ nghề chuyển sang việc khác cho thu nhập cao hơn. Ngay tại các thôn đã được công nhận làng nghề cũng rất khó khăn trong việc duy trì những nghề hiện có.
  • 38. 28 Hoạt động tài chính ngân sách, thu ngân sách năm 2012 là 4.152.812.816 đồng và chi nhân sách năm 2012 là 3.805.802.700 đồng. Nhìn chung ngân sách còn gặp nhiều khó khăn chủ yếu thu từ ngân sách cấp trên, xong trên cơ sở tiết kiệm chi 10% và dự phòng ngân sách. Hạn chế những khoản chị chưa cần thiết ưu tiên chi cho những hoạt động phục vụ các nhiệm vụ chính trị của địa phương [22]. Đông Lĩnh là một xã có số đông những đối tượng thuộc chính sách bảo trợ của xã hội. Toàn xã có 247 đối tượng chính sách, người có công với cách mạng, có 190 đối tượng là người cao tuổi đang thuộc diện chính sách trợ cấp, 41 đối tượng tâm thần hay mắc các chứng bệnh tâm thần phân liệt, 37 người khuyết tật suy giảm nặng về sức khỏe không có khả năng phục vụ bản thân và đang nhận được trợ giúp…. 1.2.2 Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên đang áp dụng hiện nay An sinh xã hội có vị trí quan trọng trong chiếm lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. ASXH là nhằm thực hiện quyền cơ bản của con người, thực hiện bình đẳng và công bằng xã hội góp phần xây dựng một xã hội hài hòa, đồng thuận, không có sự loại trừ và phát triển bễn vững. Chính sách an sinh xã hội có nội dung rất rộng và ngày càng được hoàn thiện trong quá trình nhận thức và thực tiễn xã hội của một xã hội toàn cầu luôn biến đổi. Chính sách trợ giúp xã hội là một nội dung quan trọng trong hệ thống an sinh đó, nó bao gồm trợ giúp đột xuất và trợ giúp thường xuyên đã được nhà nước quan tâm và ban hành nhiều văn bản chính sách, nhằm trợ giúp đối tượng như: Nghị định 05/CP ngày 26/1/1994 của Chính phủ quy định chế độ trợ cấp đối với các đối tượng chính sách xã hội: Pháp lệnh người tàn tật số 06/1998/PL-UBTVQH ngày 30/7/1998; Nghị định 55/1999/NĐ-CP ngày 10/7/1999 hướng dẫn và quy định chi tiết một số điều của pháp lệnh người tàn tật, Pháp lệnh người cao tuổi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 28/4/2000 và đến năm 2009 nâng lên thành Luật Người cao tuổi; Quốc hội, ngày 15/6/2004 đã thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc và Giáo dục trẻ em...Đặc biệt, Nghị định số 67/2007/NĐ-CP (năm 2010 bổ sung bằng Nghị định số 13/2010/NĐ-CP) và Nghị định số 68/2007/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách chế độ trợ giúp xã hội và quy định tiêu chuẩn thành lập cơ sở bảo trợ xã hội).
  • 39. 29 Trong đề tài này, chúng tôi chủ yếu tập chung vào Nghị định số 67/2007/NĐ-CP được ban hành vào ngày 13 tháng 4 năm 2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng Bảo trợ xã hội và đã được sửa đổi vào ngày 27 tháng 2 năm 2010. Tại nghị định đã quy định rõ 9 đối tượng bảo trợ xã hội do xã, phường, thị trấn quả lý bao gồm: 1.Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích theo quy định tại Điều 78 của Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không còn người nuôi dưỡng; trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ gia đình nghèo. Người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nhưng đang đi học văn hóa, học nghề, có hoàn cảnh như trẻ em nêu trên. 2. Người cao tuổi cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo; người cao tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo (theo chuẩn nghèo được Chính phủ quy định cho từng thời kỳ). 3. Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp BHXH 4. Người tàn tật nặng không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ. 5. Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm. 6. Người HIV/AIDS không còn khả năng lao động, thuộc hộ nghèo. 7. Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi. 8. Hộ gia đình có từ 02 NKT trở lên, không có khả năng tự phục vụ. 9. Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo, đang nuôi con nhỏ dưới 16 tuổi; trường hợp con đang đi học văn hoá, học nghề được áp dụng đến dưới 18 tuổi. Cũng liên quan đến vấn đề bảo trợ xã hội bằng hình thức trợ giúp hàng thàng thì trong Luật Người Cao tuổi có đề cập đến đối tượng người cao tuổi thì 80 trở lên sẽ là đối tượng nhận được sự trợ giúp hàng tháng. Vì thế chính
  • 40. 30 sách trợ giúp xã hội cho đối tượng từ 85 chỉ được áp dụng đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2010. Tiếp sau đó chế độ trợ cấp thường xuyên sẽ được thực hiện như luật Người cao tuổi đối với những đối tượng được quy định tại khoản 3 điều 4 của Nghị định 67/2007/NĐ-CP. Như vậy, trong đề tài này chúng tôi sẽ tìm hiểu nghiên cứu những đối tượng người già từ 80 tuổi trở lên không có bảo hiểm xã hội. Liên quan đến mức trợ giúp tiền mặt hàng tháng, theo như quy định năm 2007 về bảo trợ xã hội thì mức thấp nhất các đối tượng được nhận là 120.000 đồng tính là hệ số 1 và tùy theo từng đối tượng mức này sẽ được thay đổi và có hướng dẫn thực hiện cụ thể. Đến năm 2010 thì mức trợ cấp này cũng được sửa đổi cho phù hợp với điều kiện kinh tế và nó được tăng lên thành 180.000 đồng trên một tháng. Mức trợ cấp này có thể được tăng lên tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng địa phương thực hiện những luôn phải đảm bảo mức tối thiểu là 180.000 đồng đối với tất cả các đối tượng. Ngoài ra theo nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ ban hành thì tất cả các đối tượng được hưởng trợ giúp thường xuyên sẽ được hưởng các chế độ về thẻ bảo hiểm y tế khám chữa bệnh tại các bệnh viện công lập. Các đối tượng là trẻ em đồng thời sẽ được hưởng các chính sách theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Theo đó các đối tượng này còn được trợ giúp miễn, giảm học phí và được cấp sách vở và đồ dùng phục vụ việc học tập. 1.2.3. Đặc điểm kinh tế -xã hội của hộ gia đình có người được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên. * Quy mô hộ gia đình có người hưởng TGXHTX Trong nghiên cứu, việc tìm hiểu về quy mô hộ gia đình với mục đích muốn biết số thành viên đang cùng chung sống, cùng ăn, cùng ở, cùng phụ thuộc vào quỹ thu nhập, chi tiêu chung của gia đình của một hộ gia đình ở Đông Lĩnh hiện nay đang có cơ cấu như thế nào.
  • 41. 31 Bảng 1.1: Quy mô hộ gia đình của ngƣời hƣởng TGXHTX STT Quy mô hộ Số lƣợng Chiếm % 1 Hộ 1 thành viên 16 6 2 Hộ 2 thành viên 125 46.6 3 Hộ 3 thành viên 36 13.4 4 Hộ 4 thành viên 64 23.9 5 Hộ 5 thành viên 15 5.6 6 Hộ hơn 5 thành viên 12 4.5 (Nguồn: Kết quả điều tra) Theo tỷ lệ từ cao đến thấp thì số hộ gia đình có 2 thành viên chiếm 46.6%, tiếp đến đó là những hộ có 3 thành viên chiếm 13.4%, những hộ có 4 thành viên chiếm tỷ lệ là 23.9%, những hộ chỉ có một thành viên duy nhất lại chiếm 6 %, hộ có 5 thành viên chiếm 5.6%, hộ hơn 5 thành viên thì chiếm số lượng nhỏ là 4%. Theo kết quả khảo mức sống dân cư năm 2010 của Tổng cục Thống Kê, nhân khẩu bình quân 1 hộ dân cư thuộc khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị, của hộ dân cư nghèo cao hơn hộ giàu, vùng núi cao hơn vùng đồng bằng. Nhân khẩu bình quân 1 hộ ở nông thôn là 3,92 người, cao gấp 1,03 lần hộ ở thành thị và xấp xỉ năm 2008 (con số này năm 2008 là 1,02 lần). Nhóm hộ nghèo nhất có số nhân khẩu bình quân 1 hộ là 4,18 người, cao gấp 1,2 lần so với nhóm hộ giàu nhất. Các vùng Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có số nhân khẩu bình quân 1 hộ cao hơn các vùng khác [25]. Thái Bình là một trong số những tỉnh đông dân, cũng là tỉnh ít tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề chủ yếu là nông nghiệp tập trung vào thâm canh cây lúa. Nhóm người thuộc độ tuổi lao động lớn, tình trạng thiếu việc làm trở thành vấn đề đáng lo ngại. Công việc của người dân ở đây chủ yếu chỉ mang tính chất mùa vụ. Chính vì vậy số lượng người rời quê hương đi làm ăn xa lớn, điều này giải thích cho việc những hộ gia đình có từ 1 đến 2 thành viên chiếm tỷ lệ cao. Theo cơ cấu số lượng mẫu khảo sát thì những hộ gia đình có người cao tuổi lớn; chủ yếu là có 1 vợ 1 chồng chiếm tỷ lệ cao ngược lại những hộ gia đình có đông thành viên lại càng ít. Điều này cũng cho thấy quy mô hộ gia đình ở Đông Lĩnh hiện nay cũng đang theo xu hướng chung
  • 42. 32 của Việt Nam đó là gia đình nhiều thế hệ đang ngày càng giảm thay vào đó là những gia đình hạt nhân. *Thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình Thu nhập bình quân hộ gia đình Khi nghiên cứu về hộ gia đình thì chỉ báo thu nhập của hộ là vô cùng quan trọng bởi nó chỉ ra được điều kiện kinh tế của hộ gia đình đó. Thu nhập hộ cũng là một nhân tố có cảnh hưởng rất lớn đến đời sống của các thành viên từ vấn đề chăm sóc sức khỏe, tình trạng học vấn hay các hoạt động thư giãn giải trí….Nhưng thu nhập của hộ cũng phụ thuộc vào số thành viên sinh sống và tạo ra thu nhập trong hộ. Có thể nói những nhóm đối tượng mà đề tài đang hướng đến là nhóm đối tượng đặc biệt. Họ đã không còn khả năng lao động mà thậm chí là khả năng tự phụ vụ bản thân. Việc đi tìm hiểu xem những đối tượng này đang sinh sống trong những gia đình như thế nào là câu hỏi mà chúng tôi đang tìm kiếm câu trả lời. Với số mẫu là 268 hộ gia đình hiện đang có đối tượng hưởng trợ cấp sinh sống cùng với các thang đo: thu nhập dưới 1 triệu, từ 1 đến 3 triệu, từ 3-5 triệu và trên 5 triệu trên tháng Bảng 1.2: Thu nhập hộ gia đình có ngƣời đƣợc hƣởng TGXHTX STT Thu nhập Số hộ gia đình Chiếm tỷ lệ % 1 Dưới 1 triệu 187 69.8 2 Từ 1-3 triệu 41 15.3 3 Từ 3-5 triệu 18 6.7 4 Trên 5 triệu 22 8.2 5 Tổng 268 100 (Nguồn số liệu điều tra) Những hộ gia đình có mức thu nhập dưới 1 triệu có tỷ lệ cao nhất là 187 hộ chiếm 69.8%, tiếp đến là những hộ có thu nhập từ 1 đến 3 triệu có số lượng là 41 hộ chiếm 15.3%, những gia đình có thu nhập từ 3-5 triệu có 18 hộ chiếm 6.7% còn mức trên 5 triệu đồng thì chiếm 8.2%. Có sự nghịch biến trong số hộ gia đình và số tiền thu nhập hàng tháng. Số tiền hàng tháng càng ít thì số hộ càng nhiều. Đây là hiện tượng đáng suy nghĩ trong khi những hộ gia đình có người cần được trợ giúp thì lại là những hộ có thu nhập thấp. Điều
  • 43. 33 này sẽ ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến đời sống của đối tượng hưởng chính sách TGXHTX mà còn đối với cả các thành viên trong gia đình. Bảng 1.3: Tƣơng quan giữa quy mô hộ gia đình và thu nhập trung bình của hộ gia đình/tháng Quy mô hộ Dƣới 1 triệu Từ 1-3 triệu Từ 3-5 triệu Hơn 5 triệu Tổng 1.Hộ 1 thành viên 16 0 0 0 16 2.Hộ 2 thành viên 91 34 0 0 125 3.Hộ 3 thành viên 21 7 8 0 36 4.Hộ 4 thành viên 35 0 10 19 64 5.Hộ 5 thành viên 12 0 0 3 15 6.Hơn 5 thành viên 12 0 0 0 12 Tổng 187 41 18 22 268 (Nguồn: số liệu điều tra) Thu nhập hộ gia đình phụ thuộc rất nhiều vào quy mô hộ. Nếu trong điều kiện bình thường các thành viên trong hộ gia đình có thể lao động tạo thu nhập đóng góp vào quỹ thu nhập chung của cả hộ thì điều hiển nhiên hộ gia đình càng đông thành viên thì mức thu nhập càng cao. Nhưng trong điều kiện những hộ gia đình có người được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên có diễn biến theo quy luật đó không? Đây là điều mà chúng tôi muốn hướng đến tìm hiểu khi xây dựng bảng chéo tương quan giữa số thành viên và thu nhập hộ. Mức thu nhập dưới 1 triệu là mức thu phổ biến ở mọi quy mô hộ gia đình. Chiếm tỷ lệ thấp nhất là gia đình có từ 5 thành viên trở lên và có một thành viên. Đối với gia đình có một thành viên thì mức thu nhập này không cần bàn tới nhưng đối với những hộ gia đình có 5 thành viên thì mức thu nhập này là quá thấp không thể đảm bảo được cuộc sống tối thiểu hàng ngày. Đây cũng là số hộ gia đình khó khăn nhất trong tất những hộ gia đình có người được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên. Chi tiêu bình quân Bên cạnh chỉ báo thu nhập thì chỉ báo về chi tiêu cũng góp phần quan trọng trong việc đánh giá điều kiện sống hộ gia đình và có thể giúp chúng tôi đánh giá được chất lượng đời sống của những hộ gia đình có đối tượng hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên đang diễn ra như thế nào?
  • 44. 34 Bảng 1.4: Chi tiêu bình quân hộ gia đình trên 1 tháng STT Chi tiêu/1 tháng Tổng 268 Chiếm % 1 Dưới 1 triệu 224 83.6 2 Từ 1-2 triệu 14 5.2 3 Từ 2-3 triệu 11 4.1 4 Từ 3-4 triệu 2 0.7 5 Trên 4 triệu 17 6.3 Tổng 268 100% (Nguồn: Số liệu điều tra) Như vậy, những hộ gia đình có mức chi tiêu dưới 1 triệu chiếm tỷ lệ rất lớn là 83.6%, các mức chi tiêu cao hơn thì lại chiếm tỷ lệ rất nhỏ. So với thu nhập bình quân hàng tháng của hộ gia đình thì những hộ gia đình thu nhập dưới 1 triệu chiếm có 69.8%. Như vậy có sự chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình ở mức dưới 1 triệu. Điều này nói lên được rằng đới sống của các hộ gia đình có đối tượng hưởng chính sách TGXHTX đang rất bấp bênh, điều kiện sống của các hộ gia đình có người được hưởng TGXHTX gặp phải nhiều khó khăn hơn. Theo khảo sát Mức sống dân cư năm 2010 của Tổng cục Thống kê, Tính chung cả nước, chi tiêu theo giá hiện hành năm 2010 bình quân 1 người 1 tháng đạt 1.211 nghìn đồng, tăng 52,8% so với năm 2008, bình quân mỗi năm tăng 23,6%. Chi tiêu thực tế (chi tiêu sau khi loại trừ yếu tố tăng giá) thời kỳ 2008-2010 tăng 14,1% mỗi năm, cao hơn mức tăng 7,9% mỗi năm của thời kỳ 2006-2008, 5,2% của thời kỳ 2004-2006 và mức tăng 10,3% của thời kỳ 2002-2004. Ở các vùng, chi tiêu bình quân đầu người 1 tháng năm 2010 tăng khá so năm 2008, trong đó tăng chậm nhất là Đông Nam Bộ, cao nhất là Đồng bằng sông Hồng. Năm 2010 chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người 1 tháng ở khu vực nông thôn đạt 891 nghìn đồng, tăng 62,4% so với năm 2008; khu vực thành thị đạt 1.726 nghìn đồng, tăng 54,9% so năm 2008. Mức chi tiêu cho đời sống ở khu vực thành thị gấp 1,94 lần ở khu vực nông thôn và có xu hướng thu hẹp dần khoảng cách (hệ số này ở thời kỳ 2006-2008 là 2,03 lần; 2004-2006 là 2,06 lần; 2002-2004 là 2,1 lần). Chi tiêu cho đời sống năm 2010 của nhóm hộ nghèo nhất tăng 51,4%; của nhóm hộ giàu nhất tăng 66,2% so với năm 2008. Chi tiêu
  • 45. 35 cho đời sống của nhóm hộ giàu nhất cao gấp 4,6 lần của nhóm hộ nghèo nhất (hệ số này năm 2008 là 4,2 lần, 2006, 2004 và 2002 đều là 4,5 lần). Tỷ trọng chi ăn uống trong chi tiêu đời sống là một chỉ tiêu đánh giá mức sống cao hay thấp. Tỷ trọng này càng cao thì mức sống càng thấp và ngược lại. Việt Nam là một nước còn nghèo nên tỷ trọng này còn cao, nhưng đã có xu hướng giảm, từ 56,7% năm 2002 giảm xuống 52,9% năm 2010. Nhóm hộ giàu nhất có mức chi tiêu những hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ngoài ăn uống lớn gấp 7,4 lần so với nhóm hộ nghèo nhất, trong đó chi về nhà ở, điện nước, vệ sinh gấp 10,9 lần; chi thiết bị và đồ dùng gia đình gấp 5,8 lần, chi y tế, chăm sóc sức khoẻ gấp 3,6 lần, chi đi lại và bưu điện gấp 12,5 lần, chi giáo dục gấp 5,6 lần, chi văn hoá thể thao giải trí gấp 132 lần [25]. Ở đây có thể thấy rõ được mức chênh lệch. Nếu bình quân hàng tháng chi tiêu của một người dân theo như thống kế của Tổng cục Thống kê tại các vùng nông thôn là 891 nghìn đồng/ 1 tháng thì ở nghiên cứu này mức chi tiêu bình quân của cả Hộ gia đình có đối tượng hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên mới đạt được là dưới 1 triệu đồng/ tháng. Sự chênh lệch quá lớn này cũng là điều làm cho nhà nghiên cứu đáng quan tâm. Như vậy liệu rằng có dám nghĩ đến đảm bảo “chất lượng” cuộc sống nữa hay không. Tài sản của hộ gia đình có người được hưởng TGXHTX Khi xã hội phát triển, đời sống của con người dù ít hay nhiều cũng có những thay đổi nhất định để bắt kịp với tốc độ phát triển. Nhưng vật dụng phục vụ con người hàng ngày cũng được cải thiện nhằm đem đến cuộc sống đỡ tiện nghi hơn, thoải mái và hiện đại hơn. Những tài sản mà hộ gia đình đó sử dụng sẽ là một minh chứng đáng kể phản ánh được khả năng đáp ứng nhu cầu sống cần thiết của hộ gia đình đó đến đâu. Hay nói cách khác là đánh giá được đời sống vật chất của hộ gia đình đó mà trong đó có cả những người đang được hưởng trợ giúp thường xuyên. Tài sản đầu tiên mà khi nhìn vào hộ gia đình ta nghĩ ngay đến đó chính là ngôi nhà. Theo quan niệm của người dân Việt Nam “An cư lạp nghiệp”, có lẽ chính vì thế mà người dân Việt Nam luôn luôn chú ý đến vấn đề xây dựng nhà cửa và coi đây như một thứ tài sản quan trọng. Hơn nữa, nhà còn được sử dụng với mục đích kinh tế như để tổ chức các hoạt động, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Ngân hàng hay các tổ chức tín dụng cũng coi đây là điều kiện
  • 46. 36 tiên quyết để cho hộ gia đình vay vốn. Cũng nhờ thế mà khi muốn đánh giá năng lực kinh tế của một hộ gia đình có thể lấy chất lượng ngôi nhà mà hộ gia đình đang sinh sống làm một thước đo.. Bảng 1.5: Kiểu nhà của các hộ gia đình có đối tƣợng hƣởng TGXHTX STT Kiểu nhà Số lƣợng Chiếm % 1 Nhà cao tầng 12 4.5 2 Nhà mái bằng 135 50.4 3 Nhà lợp ngói 121 45.1 4 Nhà tạm 0 0 5 Tổng 268 100 Cũng theo như quan sát của chúng tôi kết hợp qua tìm hiểu bằng bảng hỏi thì nhà mái bằng là kiểu nhà được đa số người dân lựa chọn chiếm tỷ lệ 50.4 %, tiếp đến là nhà lợp ngói chiếm 43.3%. Tỷ lệ hộ gia đình được ở kiểu nhà cao tầng chiếm thấp nhất có 4.5 %. Tại địa phương tình trạng nhà tạm (nhà tranh tre, nứa lá, nhà đắp đất…) hiện đã được xóa bỏ hoàn toàn điều này theo chủ trương chính sách của nhà nước, xóa nhà ở dột nát cho những hộ gia đình nghèo, gia đình chính sách. Bảng 1.6: Tài sản của hộ gia đình có đối tƣợng hƣởng TGXHTX STT Đồ dùng Tổng số 268 Tỷ lệ % 1 Đài radio 79 29.5 2 Tivi 268 100 3 Đầu đĩa 107 40 4 Xe máy 157 58.5 5 Điện thoại 268 100 6 Máy giặt 12 4.4 7 Bếp ga 209 78 8 Tủ lạnh 137 51.1 9 Khác 49 18.2 (Nguồn: số liệu điều tra) Khi được hỏi về vấn đề này thì 100% các hộ gia đình đều có tivi và điện thoại. Những vật dụng như đài và đầu đĩa có tỷ lệ ít hộ sử dụng cũng là do mức độ phổ biến hiện nay cũng thấp và nhu cầu sử dụng của người dân ngày càng giảm đối với 2 loại tài sản này. Với bếp ga thì tỷ lệ hộ gia đình sử
  • 47. 37 dụng có phần nhiều hơn vì được cho đây là vật dụng khá cần thiết đối với cuộc sống. Xe máy, phương tiện di chuyển chủ yếu hiện nay của đa số người dân thì việc sử dụng vẫn còn hạn chế, chỉ có 58.5%. Máy giặt và tủ lạnh cũng là vật dụng được ít hộ gia đình sử dụng do nó chưa thật sự cần thiết lắm đối với những gia đình điều kiện kinh tế không cao. Đặc điểm nhân khẩu học của chủ hộ gia đình có người đang được hưởng TGXHTX. Trong phần này, chúng tôi sẽ đi sâu vào phân tích những đặc điểm nhân khẩu học của chủ hộ gia đình của người đang được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên. Bởi vì chủ hộ có vai trò quan trọng đối với kinh tế hộ, quan hệ cộng đồng, quyền quyết định liên quan đến phúc lợi chung của hộ, những đặc điểm trên thực tế phản ánh chất lượng lực lượng lao động của hộ gia đình đó. * Tuổi của chủ hộ Theo quy định của Bộ luật Lao động thì tuổi nghỉ hưu chính thức là 55 đối với nữ và 60 đối với nam. Việc tìm hiểu về tuổi của chủ hộ gia đình có người hưởng TGTX là một trong những biến số giúp đánh giá được điều kiện, khả năng hoạt động kinh tế của họ. Bảng 1.7: Tuổi của chủ hộ có ngƣời hƣởng TGTX Tuổi Số lƣợng Tỷ lệ % 1. Dưới 60 tuổi 52 19.4 2. Từ 60-70 tuổi 12 4.5 3. Từ 70-80 tuổi 152 56.7 4. Trên 80 tuổi 52 19.4 Tổng 268 100.0 (Nguồn: Kết quả điều tra) Theo kết quả điều tra, những hộ gia đình có người hưởng TGXH có chủ hộ từ 70-80 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 56.7%. Như vậy là có tới hơn một nửa số hộ gia đình được điều tra có chủ hộ từ 70-80 tuổi.Tiếp đến là 19.4% chủ hộ có độ tuổi dưới 60 và trên 80, thấp nhất là chủ hộ từ 60-70 tuổi chiếm tỷ lệ nhỏ là 12 %. Từ đây ta có thể thấy rằng, phần lớn chủ hộ của những gia đình có người được hưởng TGXHTX đã hết tuổi lao động theo chuẩn của Bộ
  • 48. 38 luật Lao động. Những chủ hộ còn trong độ tuổi lao động bằng với số lượng những chủ hộ trên 80 tuổi chính là đối tượng được nhận trợ giúp thường xuyên. Kết quả cũng chỉ ra rằng, những gia đình có chủ hộ nằm ngoài độ tuổi lao động sẽ ảnh hưởng xấu đến điều kiện, khả năng hoạt động kinh tế của họ, làm tăng gánh nặng kinh tế của các thành viên khác đang làm việc. Hay nói cách khác chủ hộ chỉ có giá trị tượng trưng về tuổi chứ không góp phần vào thu nhập chung. Điều này dẫn đến khả năng là những hộ gia đình có người hưởng chính sách TGXHTX tiếp tục gặp khó khăn. * Giới tính của chủ hộ có người hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên Giới tính của chủ hộ sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến điều kiện sinh sống của từng hộ gia đình nhất là với những hộ gia đình đang sinh sống tại các vùng nông thôn đặt trong bối cảnh xã hội vẫn chưa có những nhận thức đúng đắn về vấn đề giới tính. Biểu 1.1: Giới tính chủ hộ Nam 60% Nữ 40% (Nguồn: Kết quả điều tra) Tỷ lệ những chủ hộ gia đình có người được hưởng TGXHTX là nam nhiều hơn nữ. Nhưng phần chênh lệch là không lớn, nam là chủ hộ có 161 người còn nữ là chủ hộ lại chiếm 107 người. Điều này cũng dễ hiểu, dù đã có những cải cách rất nhiều trong vấn đề giới và bình đẳng giới nhưng quan niệm từ xa xưa của ông cha ta thì người đàn ông trong gia đình luôn được coi là trụ cột, có trách nhiệm gánh vác mọi công việc lớn nhỏ, có vai trò quyết định trong mọi việc. Tuy đã có nhiều thay đổi những khi được lựa chọn nam hay nữ làm chủ hộ để đại diện gia đình để đưa ra mọi quyết định thì nam giới vẫn
  • 49. 39 được ưu ái hơn. Nhưng trong trường hợp này thì có sự chênh lệnh được thu hẹp lại bởi lẽ những gia đình được điều tra có những hoàn cảnh đặc biệt. Họ có thể là những gia đình có người cao tuổi, họ là những gia đình có người khuyết tật, có những hoàn cảnh đặc biệt như trường hợp người chồng lại là người khuyết tật thì gánh nặng về gia đình và trách nhiệm kiếm tiền được đặt lên vai người vợ, hoặc những hộ gia đình đơn thân. Trong bối cảnh bất bình đẳng giới vẫn còn như hiện nay mà đặc biệt là ở những vùng nông thôn thì những hộ gia đình có chủ hộ là nữ sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn trong các hoạt động kinh tế cũng như nâng cao vị thế xã hội so với những hộ gia đình có chủ hộ là nam giới. * Trình độ học vấn của chủ hộ gia đình Một chỉ số quan trọng đánh giá năng lực kinh tế của một cá nhân đó chính là trình độ học vấn. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy rằng, chủ hộ của những gia đình có người được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên có trình độ học vấn rất thấp. Những chủ hộ có trình hộ học vấn là tiểu học chiếm 50%, 20 % chủ hộ chưa từng đi học, tiếp đến là chủ hộ được học hết trung học cơ sở chiếm 18% còn trung học cơ sở chiếm 6% còn lại chỉ có 9% là những người chủ hộ có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học. Biểu 1.2: Trình độ học vấn của chủ hộ (Nguồn: Kết quả điều tra) Điều này cũng có thể được giải thích rằng, chủ yếu chủ hộ gia đình trong mẫu nghiên cứu nay là những người cao tuổi, được sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn đặc biệt của đất nước, lúc ấy nhận thức về việc học vẫn chưa
  • 50. 40 được nâng cao, việc đến trường vẫn còn bị xem nhẹ, chính vì thế mà quá một nửa số chủ hộ được hỏi thì đều có trình độ học vấn thấp. Rõ ràng, với trình độ học vấn thấp, chủ hộ gia đình có người được hưởng TGXHTX gặp phải nhiều hạn chế hơn về cơ hội kiếm việc làm và năng lực kinh tế, vì vậy sẽ hạn chế sự phát triển kinh tế - xã hội của gia đình. Bảng 1.8: Tƣơng quan giữa trình độ học vấn của chủ hộ và thu nhập chung của hộ gia đình có ngƣời hƣởng TGXHTX Quy mô hộ Dƣới 1 triệu Từ 1-3 triệu Từ 3-5 triệu Hơn 5 triệu Tổng 1.Không đi học 51 0 0 0 51 2.Tiểu học 104 30 0 0 134 3. THCS 32 11 1 0 44 4. THPT 0 0 7 9 16 5. TC- CĐ- ĐH 0 0 10 13 23 Tổng 187 41 18 22 268 (Nguồn: Số liệu điều tra) Như vậy có thể thấy chiếm hơn 50% số hộ gia đình được điều tra có thu nhập dưới 1 triệu và phân bố chủ yếu ở những hộ gia đình chủ hộ có trình hộ học vấn thấp là ở mức tiểu học hoặc không đi học, chiếm hơn 20% là những hộ gia đình có thu nhập từ 1 đến 3 triệu và tập trung ở những gia đình có chủ hộ học tiểu học và trung học cơ sở. Những gia đình có thu nhập cao hơn từ 3- 5 triệu hay hơn 5 triệu thì lại có chủ hộ có trình độ học vấn cao hơn. Như vậy có sự trùng lặp đáng ngạc nhiên là những hộ gia đình có thu nhập thấp thì lại chủ hộ gia đình có trình độ học vấn thấp. Ngược lại những hộ gia đình có thu nhập cao thì lại chủ hộ cũng có trình độ học vấn cao hơn so với những hộ gia đình khác. Điều này dẫn đến một suy nghĩ trình hộ học vấn của chủ hộ gia đình có quyết định đến thu nhập của hộ gia đình. * Sức khỏe của chủ hộ Chủ hộ luôn được xem là trụ cột gia đình, gánh vác những công việc năng nhọc nhất và cũng là người sẽ có quyền đưa ra những quyết định quan trọng trong gia đình. Sức khỏe là một trong những chỉ báo rõ ràng nhất để thể hiện năng lực sản xuất của con người. Sức khỏe của chủ hộ gia đình ở đây sẽ
  • 51. 41 có vai trò tiên quyết giúp nhà nghiên cứu thấy được khả năng lao động sản xuất tạo của cải phục vụ gia đình. Bảng 1.9: Đánh giá của chính đối tƣợng về sức khỏe bản thân STT Tình trạng sức khỏe Tổng số 268 Tỷ lệ % 1 Rất tốt 0 0 2 Tốt 32 12.1 3 Bình thường 50 18.6 4 Không tốt 118 44 5 Rất không tốt 68 25.3 (Nguồn: Số liệu điều tra) Nhưng trong kết quả nghiên cứu này thì hầu hết những chủ hộ lại có sức khỏe yếu so với những đối tượng cùng tuổi gần nơi sinh sống. Trong số 268 đối tượng chủ hộ tự đánh giá về sức khỏe của bản thân thì có đến 44% đối tượng cho là có sức khỏe không tốt, 25.3% có sức khỏe rất không tốt, 18.6% có sức khỏe bình thường và 12.1% có sức khỏe tốt. Như vậy, với những gia đình mà chủ hộ có tình trạng sức khỏe không tốt sẽ ảnh hướng rất lớn đến hoạt động kinh tế của gia đình.
  • 52. 42 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG CỦA ĐỐI TƢỢNG HƢỞNG CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI THƢỜNG XUYÊN TẠI XÃ ĐÔNG LĨNH HIỆN NAY Để có cái nhìn tổng quan nhất về thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại xã Đông Lĩnh hiện nay, thì chúng ta cần làm rõ được tình hình triển khai chính sách tại địa bàn nghiên cứu và đời sống của các nhóm đối tượng khi được tham gia chính sách đang diễn biến như thế nào. Đời sống của các nhóm đối tượng cũng cần phải được đặt trong một bối cảnh chung đó chính là đặc điểm kinh tế xã hội của hộ gia đình hiện đang sinh sống. Việc tiếp cận các đặc điểm kinh tế hộ sẽ cho chúng thấy được bức tranh chung về môi trường cụ thể của từng nhóm đối tượng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ lựa chọn đánh giá thực trạng đời sống kinh tế - xã hội của từng hộ gia đình trong đó tập trung đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các hộ gia đình có các đối tượng hưởng chính sách đang sinh sống. 2.1 Tình hình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội thƣờng xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay 2.1.1 Nhận thức của các đối tượng hưởng TGXHTX về nhóm đối tượng được hưởng chính sách TGXHTX Nhận thức đúng và đầy đủ về chính sách trợ giúp xã hội là một trong những yêu cầu cần thiết đối với mỗi đối tượng và với mỗi hộ gia đình có đối tượng đang sinh sống. Việc nắm bắt được những chính sách cũng như cập nhật được việc thay đổi chủ trương của chính sách là điều hết sức quan trọng bởi vì chỉ có như vậy các đối tượng mới có thể biết hết được quyền và nghĩa vụ thực hiện của mình đồng thời nhận thức được những tác động đến cuộc sống mà chính sách đem lại. Bằng câu hỏi: Theo Ông/ bà những đối tượng nào sau đây được hưởng chính sách trợ cấp thường xuyên? Kết quả thu về được là:
  • 53. 43 Bảng 2.1: Nhận thức của đối tƣợng về chính sách TT Đối tƣợng hƣởng Số lƣợng Tỷ lệ % 01 Trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng, bị nhiễm HIV/AIDS 268 100% 02 Người cao tuổi cô đơn thuộc nhóm gia đình nghèo, NCT còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con cháu, người thân thích... 268 100% 03 Người từ 80 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc không có trợ cấp bảo hiểm xã hội 268 100% 04 Người khuyết tật nặng không có khả năng lao động 268 100% 05 Người mắc chứng bệnh tâm thần 268 100% 06 Người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động, thuộc hộ gia đình nghèo 210 78.3% 07 Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi. 126 47% 08 Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo, đang nuôi con nhỏ dưới 16 tuổi 112 41.7% (Nguồn: Số liệu điều tra) Trong tất cả những nhóm đối tượng theo quy định thì hầu hết các đối tượng chỉ nhận biết được về những nhóm đối tượng mà tại địa phương đang tồn tại như nhóm đối tượng người cao tuổi từ 80 trở lên mà không có lương hay bất kì một loại trợ cấp nào hay nhóm đối tượng người khuyết tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, người mặc bệnh tâm thần …còn lại các đối tượng khác họ đều cho rằng không thuộc diện được hưởng. Đây vô hình đã trở thành một rào cản đối với những người dân tại địa phương. Phần vì có thể họ không được hướng dẫn đầy đủ, phần vì họ không tìm hiểu cặn kẽ các quy định và cũng phần vì tính chất bàng quang, tâm lý chung là cái gì không thuộc phạm trù mà gia đình có thì họ sẽ không quan tâm đến. Một trong những yếu tố quyết định đến trình độ hiểu biết của người dân tại địa phương về các chính sách hiện nay là quá trình truyền tải thông tin trên địa bàn. Khi văn bản hay quy định mới được triển khai thì sẽ được họp phổ biến đến những cán bộ Đảng viên trong xã, trong từng thôn. Sau đó sẽ có
  • 54. 44 những buổi thông báo đến toàn thể người dân trên địa bàn qua hệ thống loa phát thanh của xã. 2.1.2 Tình trạng tuyên truyền phổ biển chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay Để chính sách được thực hiện đến từng đối tượng thuộc diện hưởng thì việc tuyên truyền phổ biến chính sách là điều cần có trong các quy trình thực hiện. Chính sách được ban hành thì hơn hết các đối tượng liên quan cần nắm đầy đủ những thông tin để đảm bảo quá trình dân biết, dân làm và dân kiểm tra. Hiện nay tại địa bàn công tác tuyên truyền được diễn ra sâu rộng với những hình thức chủ yếu là tuyên truyền qua hệ thống loa đài phát thanh của xã, tuyên truyền trực tiếp qua các buổi họp thôn, xóm, các buổi họp chi bộ Đảng, Đoàn nhằm nâng cao hiểu biết cho tất cả các đối tượng liên quan để phổ biến pháp lệnh, chính sách hiệu quả nhất. Bảng 2.2: Hình thức tiếp cận thông tin tuyên truyền về chính sách TGXHTX Hình thức TT Số lƣợng/ 268 Tỷ lệ % 1. Đài truyền hình 49 18.2 2. Đài truyền thanh 49 18.2 3. Loa phát thanh của xã 195 72.7 4. Buổi họp thôn 250 85.8 5. Bạn bè, hàng xóm, người thân 267 99.6 6. Khác 15 5.2 (Nguồn: số liệu điều tra) Từ số liệu thống kê ta có thể thấy loại hình tuyên truyền qua ban bè, hàng xóm, người thân là hình thức tuyên truyền được nhiều người sử dụng nhất chiếm đến 99.6%. Tiếp theo đó là hình thức tuyên truyền qua các buổi họp thôn chiếm tỷ lệ là 85.8%. Loa phát thanh của xã cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa chính sách đến với người dân, nội dung của chính sách sẽ được phát thanh viên truyền tải cụ thể, đầy đủ trên hệ thống loa, hình thức này chiếm 72.7%. Sau đó nội dung của chính sách sẽ được phổ biến trực tiếp đến tận các đối tượng qua các buổi họp thôn, xóm. Tại đây các đối tượng sẽ được giải đáp những thắc mắc liên quan đến chính sách để qua đó có thể hiểu
  • 55. 45 đầy đủ về nội dung chính sách ban hành. Như vậy, hình thức tuyên truyền qua người tân, bạn bè,hàng xóm vẫn được đánh giá là hình thức tuyên truyền hiệu quả nhất tại các vùng nông thôn từ hàng ngàn đời bởi phong tục tập quán từ xã xưa người dân luôn có tính cố kết cộng đồng, làng xóm cao nhất là với những vùng quê thuộc khu vực miền Bắc. Nhưng yếu điểm của hình thức truyền thông qua hàng xóm, bạn bè, người thân đó chính là độ chính xác của thông tin vì vậy tại địa phương cũng rất cần phải có những buổi trao đổi, thảo luận đầy đủ để đảm bảo người dân nắm được thông tin chính xác nhất và nhanh nhất. Qua đó chúng ta có thể thấy được vai trò rất quan trọng của hệ thống loa truyền thanh và các đối tượng lãnh đạo xã, thôn. Điều này đặt ra vấn đề đối với các lãnh đạo cấp xã, thôn phải là người hiểu, nắm rõ từng chính sách đồng thời cũng phải là người đại diện cho các đối tượng hưởng chính sách nắm được những tâm tư nguyện vọng của đối tượng để có những phản hồi kịp thời lên cấp trên nhằm điều chỉnh chính sách cho phù hợp. 2.1.3 Quy trình xét duyệt, công nhận và triển khai chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại Đông Lĩnh hiện nay Nếu như tuyên truyền, phổ biển chính sách là điều kiện cần thì quy trình xét duyệt, công nhận, triển khai chính sách là điều kiện đủ để chính sách của Đảng và Nhà nước mới thực sự đến được với từng hộ dân, từng đối tượng sinh sống trên địa bàn. Quy trình xác định đối tượng, quy trình ra quyết định chính sách, thủ tục hồ sơ là các nghiệp vụ chính sách quan trọng, nhìn nhận như là phương tiện để đưa chính sách vào cuộc sống. Cùng với quá trình đơn giản hóa thủ tục hành chính, các nghiệp vụ xác định đối tượng và nghiệp vụ ra quyết định cũng đã từng bước được hoàn thiện chỉnh lý theo hướng đơn giản, công khai, minh bạch và chính xác, kịp thời. Theo quy định tại Thông tư số 09/2007/TT- BLĐTBXH ngày 14 tháng 7 năm 2007 của Bộ LĐTBXH để có được quyết định hưởng trợ cấp xã hội của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thì đối tượng và các cơ quan phải thực hiện đầy đủ các thủ tục và quy trình theo trách nhiệm từ cá nhân, cấp thôn, cấp xã, cấp huyện đã cụ thể hóa nhiệm vụ từ cơ quan tham gia vào quá trình xét duyệt ra quyết định hưởng chính sách. Đồng thời đã quy định thời gian phải hoàn tất nghiệp vụ đối với cấp xã, phòng
  • 56. 46 LĐTBXH cấp huyện. Trong quá trình thực hiện bắt buộc niêm yết công khai hồ sơ đối tượng, đây là biện pháp thực hiện nguyên tắc công khai. Bảng 2.3: Thủ tục cần thiết để xét duyệt đối tƣợng thuộc chính sách Các loại giấy tờ Tổng số ý kiến đồng ý/ 268 Tỷ lệ 100% 1. Đơn xin xét duyệt 257 95.8 2. Sơ yếu lý lịch của đối tượng 263 98.1 3. Văn bản xác nhận của cơ quan y tế 255 95.1 4. Biên bản họp hội đồng xét duyệt cấp xã 164 61.1 5. Quyết định hưởng TC, điều chỉnh mức trợ cấp tiền hàng tháng 252 94 6. Quyết định chấm dứt hưởng trợ cấp hàng tháng của chủ tịch ủy ban nhân dân Huyện 50 18.6 (Nguồn: số liệu điều tra) Khi được hỏi về những thủ tục cần thiết để làm hồ sơ xin xét duyệt là đối tượng thuộc diện hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên thì 98.1 % đối tượng cho rằng cần phải có sơ yếu lý lịch, tiếp đến là đơn xin xét duyệt, sau đó là các văn bản xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền và quyết định hưởng trợ cấp, điều chỉnh mức trợ cấp tiền hàng tháng. Còn những giấy tờ như biên bản họp xét duyệt của hội đồng cấp xã chiếm 61.1% và quyết định chấm dứt hưởng trợ cấp hàng tháng chiếm 18.6%. Có thể thấy rằng, các giấy tờ thủ tục cần phải có để hoàn thành hồ sơ xin cấp trợ giúp xã hội thường xuyên tuy đã được triển khai nhưng những đối tượng cũng chưa nắm đầy đủ về các loại giấy tờ, hồ sơ này. Các giấy tờ hồ sơ chủ yếu nhận được sự giúp đỡ từ các cơ quan cấp thôn, xã để hoàn thành cho các đối tượng. Cũng bởi những đặc điểm cá nhân không thuận lợi nên họ được nhận trợ giúp nhiều hơn từ các đối tượng có thẩm quyền. Theo như hướng dẫn của Thông tư số 09/2007/TT-Bộ LĐTB&XH thì quy trình xét duyệt được diễn ra cụ thể như sau: Trách nhiệm và thời gian ra quyết định thực hiện chính sách TGXHTX theo quy định
  • 57. 47 Người thực hiện Công việc làm Thời gian thực hiện Người đề nghị hưởng Làm đơn và hồ sơ theo quy định Trưởng thôn Xác định về hoàn cảnh và đơn cho đối tượng Không xác định thời gian Hội đồng xét duyệt cấp xã Xem xét với những trường hợp có ý kiến thắc mắc, khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Những trường hợp không có thắc mắc bỏ qua không thực hiện bước này. Không xác định thời gian UBND cấp xã - Thẩm định hồ sơ - Niêm yết công khai tại Trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng của xã - Tối đa 7 ngày - Tối thiểu 30 ngày Phòng LĐTBXH Thẩm định hồ sơ, trình Chủ tịch ủy ban nhân cân cấp huyện ra quyết định Thời hạn 10 ngày Chủ tịch UBND cấp huyện Xem xét quyết định Không xác định thời gian [Nguồn: Thông tư số 09/2007/TT-BLĐTBXH] Bảng 2.4: Đánh giá của đối tƣợng hƣởng chính sách TGXHTX về sự quan tâm của các cơ quan, đoàn thể tại xã trong việc hỗ trợ làm thủ tục hồ sơ Cơ quan Rất quan tâm Quan tâm Bình thƣờng Không quan tâm Rất không quan tâm Tổng 1. Cán bộ TB&XH 12.7 25 50 12.3 0 100 2. Hội chữ thập đỏ 19 17.5 26.5 19.8 17.2 100 3.Cán bộ hội phụ nữ 25.3 36.6 29.5 8.6 0 100 4.Cán bộ thôn 48.9 27.3 17.1 6.7 0 100 5. Cán bộ hội NCT 10 40 14.2 21.3 14.5 100 6. Cán bộ y tế 13.8 39.2 7.8 25.7 13.5 100 (Nguồn: số liệu điều tra) (đơn vị tính %) Khi tìm hiểu về mức độ quan tâm của các cơ quan, đoàn thể thuộc xã đến các vấn đề của đối tượng hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên thì nhìn chung các đối tượng nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình từ các cơ quan đoàn
  • 58. 48 thể như cán bộ thôn, cán bộ hội phụ nữa, cán bộ hội chữ thập đỏ. Đánh giá về mức độ quan tâm của các cơ quan thì chủ yếu ý kiến tập trung ở các thang đo như “rất quan tâm”, “quan tâm” và “bình thường”. Các thang đo “không quan tâm” và “rất không quan tâm” có tỷ lệ đánh giá rất thấp. Qua đây ta có thể thấy, các đối tượng thuộc diện hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên nhận được sự giúp đỡ rất lớn từ các cơ quan đoàn hội tại xã trong việc hoàn thiện hồ sơ giấy tờ, thủ tục chứng nhận hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên cho các đối tượng. 2.2 Thực trạng đời sống của nhóm ngƣời cao tuổi 2.2.1 Đặc điểm nhân khẩu học của nhóm Người Cao tuổi * Tuổi Kết quả điều tra dân số năm 1989 cả nước có 7,15% dân số là NCT từ 60 tuổi, năm 1999 là 8,12% và năm 2005 tỷ lệ này là 8,82%, năm 2008 là 9,45% và dự báo năm 2020 sẽ có khoảng 10,5-11 triệu NCT chiếm trên 10% dân số cả nước [3]. Trong vòng 10 năm tới, vấn đề già hóa dân số sẽ trở thành một thách thức lớn trong việc đáp ứng những nhu cầu TGXH đối với NTC, đặc biệt là những như cầu về sức khỏe, nhà ở, vui chơi giải trí.... Theo ước tính của Viện Khoa học Lao động và Xã hội số NCT tập trung chủ yếu ở độ tuổi dưới 80 và nhóm tuổi dưới 65, chiếm gần 30% tổng số NCT. Điều này cho thấy xu hướng bổ sung số người vào dân số cao tuổi hàng năm là rất lớn. Cũng đồng nghĩa nhu cầu về TGXH trong những năm tới là vừa phải bảo đảm cũng cấp hệ thống dịch vụ cho tuổi già, vừa đảm bảo chất lượng dịch vụ kéo dài tuổi thọ. Như đã trình bày ở những phần trên, những đối tượng được hưởng trợ cấp thường xuyên ở Đông Lĩnh hiện nay chủ yếu là đối tượng người cao tuổi không còn khả năng lao động, không có lương hưu hay bất kì một khoản trợ cấp nào. Đó cũng là lý do giải thích rằng phần lớn những đối tượng điều tra có độ tuổi trên 80 chiếm đến 70% trong đó độ tuổi từ 80-90 chiếm tỷ lệ cao nhất còn lại độ tuổi “xưa nay hiếm” từ 90 đến 100 tuổi và hơn 100 tuổi là rất thấp từ 10-12% trên tổng số mẫu điều tra. * Giới tính
  • 59. 49 Trong 268 đối tượng được điều tra thì có 161 đối tượng điều tra là nữ chiếm 60,1% còn lại là 107 đối tượng là nam chiếm 39,9%. Số liệu cũng nói lên được rằng đa số đối tượng được hưởng trợ cấp thường xuyên là nữ giới . Thực tế cũng đã chỉ ra rằng nữ giới là phái chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới, là đối tượng dễ bị tổn thương trong cuộc sống hơn so với nam giới. Hơn nữa, nữ giới là đối tượng đặc thù với chức năng sinh sản chính vậy mà hơn bất kì đối tượng nào nữ giới dễ rơi vào nhóm yếu thế nhất. Theo số liệu thống kê từ cuộc điều tra Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 cho thấy, Số lượng phụ nữ cao tuổi chiếm ưu thế so với nam giới cao tuổi. Cụ thể, xét theo nhóm tuổi, số liệu tương ứng với 100 nam giới cao tuổi ở độ tuổi 60-69 thì có 131 nữ giới cao tuổi cùng ở nhóm tuổi này; tương tự, ở nhóm 70-79 có 149 nữ giới cao tuổi và từ 80 trở lên có 200 nữ giới cao tuổi. Đây chính là biểu hiện của hiện tượng “nữ hóa dân số cao tuổi” ở Việt Nam. Phụ nữ cao tuổi thường phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn so với nam giới cao tuổi xét về thu nhập, tình trạng khuyết tật, và khả năng tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm y tế.[6] * Trình độ học vấn Mặc dù đã hết tuổi lao động và không tham gia hoạt động kinh tế nhưng trình độ học vấn có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống, sinh hoạt của NCT. Nhất là khi kiến thức sẽ quyết định đến việc chăm sóc sức khỏe, chế độ ăn uống, nhà ở, môi trường sống, thu nhập tuổi già. NCT hiện nay là những người sinh từ thời kỳ trước năm 1949 và trưởng thành trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp, chồng Mỹ, thời kỳ khó khăn của đất nước, do vậy hầu như không có điều kiện đi học đầy đủ. Theo kết quả khảo sát năm 2008 của Bộ LĐTBXH có tới 13,66% không biết chữ, trên 50% chưa học hết cấp 1 (tiểu học) và chỉ có 13,93% tốt nghiệp lớp 10 (hệ 10 năm [4]. Kết quả từ cuộc khảo sát này: Bảng 2.5: Học vấn của ngƣời cao tuổi Học vấn Tổng số 190 Tỷ lệ 1. Không biết chữ/chưa từng đi học 38 20 % 2. Tiểu học 126 66.3 %
  • 60. 50 3. Trung học cơ sở 26 13.6% 4. Trung học PT 0 0 % 5. Trung cấp - CĐ – ĐH 0 0% (Nguồn: Số liệu điều tra) Chiếm tỷ lệ cao nhất vẫn là trình độ tiểu học đạt mức 66.3%, những người không biết chữ hay chưa từng được đi học chiếm tỷ lệ khá cao đạt 20%, thấp nhất là những người có trình độ trung học cơ sở chỉ đạt 13.6%. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu, những người cao tuổi nếu được theo học ở cấp học trung học cơ sở thì rất dễ tham gia những ngành nghề có khả năng tạo thu nhập cao hơn. Trong những năm bao cấp, khi chế độ có những thay đổi nhất định, Nhà nước đang chủ trương xây dựng đất nước theo con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước chính vì thế mà có nhu cầu rất lớn đối với các đối tượng đã qua trường lớp và có trình độ học vấn cao. Còn lại các đối tượng sẽ được theo học đến bậc tiểu học phần lớn là do hoàn cảnh gia đình nên không thể học lên hoặc có thể do suy nghĩ còn lạc hậu chưa thực sự coi trọng đến việc học tập. Cũng chính vì những lý do đó mà tỷ lệ những người không biết chữ hoặc chưa từng được đến trường cũng còn khá cao. * Tình trạng sức khỏe Nghiên cứu về NCT thì đi liền với nó là vấn đề về sức khỏe, tình trạng sức khỏe ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của NCT. Theo báo cáo sơ kết giữa kỳ chương trình hành động quốc gia về NCT 2006 -2010 thì tỷ lệ NCT có sức khỏe (so với cùng độ tuổi) khá chiếm 22,9%, số có sức khỏe tốt chỉ chiếm 5,7%. Bình quân một NCT có 2,69 bệnh; 56,7% người cao tuổi có bệnh tật ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày; 24,9% phải đi khám bệnh ít nhất một lần trong tháng. [4] NCT thường mắc các bệnh mãn tính, bệnh xương khớp chiếm 53,8% NCT bị bệnh, bệnh đường hô hấp 41,6%, bệnh tim mạch chiếm 31,3% và tiêu hóa chiếm 27,1%...Đối với nhóm người cao tuổi cô đơn do thiếu điều kiện chăm sóc sức khỏe thì tình trạng bệnh tật còn nghiêm trọng hơn rất nhiều[23]. Thực tế chỉ ra rằng, so với người dân thành thị thì người dân nông thôn có ít hơn cơ hội được khám chữa bệnh tại các bệnh viện nhà nước. Chỉ có
  • 61. 51 74% lượt người ở khu vực nông thôn khám, chữa bệnh nội trú tại các bệnh viện nhà nước, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 89%. Theo kết quả Khảo sát mức sống năm 2006, đã có trên 50% số người được cấp thẻ bảo hiểm y tế hoặc sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí khi đi khám, chữa bệnh, tăng đáng kể so 2004, kể cả ở nông thôn. Đặc biêt đã có 71% số người thuộc nhóm hộ nghèo nhất có thẻ bảo hiểm y tế hoặc sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí trong khi nhóm hộ giàu nhất chỉ có 61%. Tính đến nay, 100% số lượng những đối tượng thuộc diện Bảo trợ xã hội đều đã được cấp thẻ bảo hiểm phục vụ khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe. Bảng 2.6: Sức khỏe Ngƣời cao tuổi Sức khỏe Số lƣợng Tỷ lệ % 1.Rất không tốt 50 26.3% 2.Không tốt 95 35.4% 3.Bình thường 33 12.3% 4.Tốt 12 4.5% 5Rất tốt 0 0% Tổng 190 100% (Nguồn: Số liệu điều tra) Theo như đánh giá của chính bản thân đối tượng với 5 mức độ thì có đến 35.4% đối tượng đánh giá sức khỏe của mình không còn tốt, tiếp đến là tình trạng sức khỏe rất không tốt chiếm 26.3%, sức khỏe bình thường chỉ có 33 đối tượng chiếm 12.3% tổng số, phần còn lại rất nhỏ chiếm 4.5% đối tượng đánh giá là sức khỏe không tốt. Đây cũng có thể là tình trạng chung của người cao tuổi bởi lẽ khi cơ thể con người đã già yếu, các cơ quan trên cơ thể không còn đủ sức để hoạt động theo đúng chức năng của mình nữa dẫn đến vô vàn các bệnh khác nhau khiến cho sức khỏe con người có chiều hướng đi xuống điều này đã được y học chứng minh rất rõ ràng và nó đã thành một hiện thực mà đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận. Chúng ta sẽ không thể thay đổi thực trạng đó mà chỉ có thể có những hành động làm giảm tác động xấu của thực trạng trong cuộc sống. * Tiếp cận các dịch vụ truyền thông giải trí Theo như kết quả điều tra thì các hoạt động giải trí của NTC hết sức nghèo nàn, phương tiện chủ yếu giúp NCT tiếp nhận thông tin là từ hệ thống
  • 62. 52 loa phát thanh của xã. Bên cạnh đó hình thức “thăm hỏi họ hàng, người thân” là hình thức giải trí chủ yếu được nhiều NCT áp dụng vì có lẽ một phần thói quen này được bắt nguồn từ lối sống giàu tình cảm của con người Việt Nam và cũng chính nhờ có những hình thức thăm hỏi họ hàng như vậy sẽ tạo cơ hôị tiếp cận các thông tin bên ngoài nhưng đồng thời cũng có điểm hạn chế trong việc kiểm soát được độ chính xác của thông tin. Các hình thức giải trí như đọc sách báo, sử dụng internet, sinh hoạt câu lạc bộ hầu như không được sử dụng, phần vì họ không có điều kiện tiếp cận phần vì sức khỏe già yếu như mắt mờ, chân chậm hạn chế khả năng tiếp cận. Qua đó ta mới thấy được các hoạt động giải trí của NCT rất thấp. Từ đó phần nào phác họa được bức tranh đời sống của NCT. 2.2.2. Thực trạng đời sống của đối tượng Người cao tuổi thông qua trợ giúp thường xuyên bằng tiền mặt hàng tháng. Theo kết quả mới nhất từ cuộc khảo sát mức sống dân cư năm 2012 của Tổng cục thống kê – Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì thu nhập trung bình của người dân thành thị là 3 triệu đồng/tháng/người trong khi người dân sống ở nông thôn là 1,6 triệu đồng/tháng/người. Nhóm hộ nghèo nhất có mức thu nhập là 512.000 đồng/tháng/người, tăng 38,5% so với năm 2010; nhóm hộ giàu nhất có mức thu nhập 4,8 triệu đồng/người/ tháng, tăng 40% so với năm 2010 [29]. Bảng 2.7: Thu nhập bình quân của ngƣời dân Thái Bình (Tính theo nguồn thu từ sản xuất nông, lâm, thủy sản) Năm 2002 2004 2006 2008 2010 2012 Thu nhập 114.8 127.3 149.6 242.8 251.3 367.7 Theo như kết quả Tổng cục thống kê đã công bố thì mức thu nhập bình quân đầu người có nguồn thu từ sản xuất nông, lâm, thủy sản đạt 367.8 nghìn đồng/ tháng tăng 116 nghìn/ tháng tức là tăng lên 32% so với năm 2010 [29]. Tại địa phương thì tất cả 190 đối tượng NCT hiện đang được hưởng TGXHTX với mức tối thiểu theo quy định của Nhà nước là 180 nghìn đồng/1 tháng. Đây là mức trợ cấp tối thiểu theo đúng quy định của nhà nước cho những đối tượng từ 80 tuổi trở lên không có lương hay bảo hiểm xã hội sống tại cộng đồng do xã trực tiếp quản lý. Như vậy so với thu nhập trung bình của
  • 63. 53 người dân Thái Bình vào năm 2012 ở nguồn thu từ sản xuất nông, lâm, thủy sản thì thu nhập từ tiền trợ cấp hàng tháng đối với nhóm đối tượng là người cao tuổi mới chỉ được bằng 1/2. Cũng theo quy định này thì mức trợ giúp bằng tiền mặt hàng tháng cho đối tượng người cao tuổi có thể tăng thêm tùy mức do tỉnh, huyện, xã quy định. Có nghĩa là tỉnh, huyện, xã căn cứ vào nguồn thu của cơ sở có thể điều chỉnh mức hỗ trợ cho các đối tượng nhưng không được thấp hơn so với mức mà Nhà nước đã quy định. Đây cũng được coi là biện pháp mở rộng thêm mức hỗ trợ dựa vào việc xã hội hóa và dựa vào năng lực của từng địa phương. Nhưng do điều kiện kinh tế - xã hội ở Thái Bình nói chung và Đông Lĩnh nói riêng là một trong những địa bàn chủ yếu phát triển dựa và các ngành nghề liên quan đến nông nghiệp, chịu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu…Thêm vào đó tỉnh có số lượng hưởng bảo trợ xã hội lớn trong cả nước chính vì lý do đó tại Tỉnh hiện này chưa thể có thêm trợ cấp cho đối tượng hưởng trở giúp xã hội thường xuyên theo quy định của Nhà nước. 2.2.3. Thực trạng đời sống của đối tượng Người cao tuổi thông qua trợ giúp ch m sóc sức khỏe. Trợ giúp về y tế nhằm giúp cho đối tượng bảo đảm các điều kiện chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh, phục hồi chứng năng. Chính sách trợ giúp y tế được thực hiện bằng việc cung cấp nguồn tài chính trực tiếp để thanh toán các dịch vụ khám chữa bệnh, phục hồi chức năng hoạt động và sử dụng các dịch vụ y tế cần thiết khác. Đồng thời cũng có thể hỗ trợ chi phí để các cá nhân có thể tham gia bảo hiểm y tế sử dụng các dịch vụ do bảo hiểm y tế thanh toán khi sử dụng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng tại các cơ sở khám chữa bệnh. Hiện tại, tất cả những đối tượng người cao tuổi đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng thì đều được hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo như quy định của nhà nước có nghĩa là họ được hưởng trợ giúp về mặt khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe tại các bệnh viện tuyến cơ sở đến trung ương. Khi được hỏi về hình thức tham gia bảo hiểm thì trong số 190 đối tượng người cao tuổi đều chỉ được tham gia loại hình bảo hiểm y tế do chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên cấp ngoài ra các đối tượng này không tham gia thêm bất cứ một hình thức bảo hiểm nào khác. Nhưng trên thực tế khi đã được tham gia loại hình bảo
  • 64. 54 hiểm này thì số người tìm đến các cơ sở y tế để được hưởng dịch vụ chăm sóc sức khỏe theo bảo hiểm còn thấp và chủ yếu là khi có bệnh nan y hay bệnh trọng bắt buộc phải đi bệnh viện thì bảo hiểm mới là lựa chọn hàng đầu. Nếu như đánh giá bệnh tình không quá nghiêm trọng thì hình thức khám chữa như tự uống thuốc ở nhà hay khám thầy lang được sử dụng nhiều hơn cả. Biểu 2.1: Hình thức khám chữa bệnh 28.7 71.3 85.7 14.3 52.6 47.4 24.6 75.4 21.2 78.8 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 Có Không Không làm gì Tự uống thuốc Khám tư Trạm xá BV tuyến trên (Nguồn: số liệu điều tra) Đối với hình thức khám chữa bệnh của nhóm đối tượng thì có đến 85.7% đối tượng sử dụng hình thức tự chữa ở nhà, tiếp đến là hình thức khám chữa bệnh tư nhân với tỷ lệ là 52.6%. Đây là hình thức khám các bác sĩ, y tá tại địa phương. Lợi thế của hình thức này là nhanh và gọn vừa túi tiền rất phù hợp với những người cao tuổi sức khỏe yếu, neo đơn. Với những chứng bệnh thông thường đã từng gặp nhiều lần thì hầu hết các đối tượng đều muốn nghỉ ngơi ở nhà và uống thuốc sau đó mới đến hình thức khám chữa tư nhân hay tại nhà. Tư nhân ở đây bao gồm cả hình thức khám chữa tây y và khám chữa đông y thầy lang. Người dân vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề vào hình thức khám chữa thầy lang theo như những lời giới thiệu của người khác. Và chỉ khi nào họ uống thuốc thầy lang không khỏi thì mới tìm đến các bệnh viện tuyên trên chính vì thế mà việc lựa chọn hình thức khám chữa bệnh viện tuyến trên thấp chiếm có 21.2 %. Theo nhưng kết quả nhận được thì 100% các đối tượng đều bị đau ốm trong vòng một năm qua nhưng con số để bệnh tự khỏi hay tự mua thuốc điều trị, khám tư nhân chiếm tỷ lệ cao hơn. Một hiện tượng đáng chú ý đó chính là chưa thấy được vai trò của các trạm xá và các bệnh viện tuyến trên đối với các
  • 65. 55 đối tượng hưởng trợ cấp là người cao tuổi. Dường như đây không phải là lựa chọn đầu tiên khi họ gặp những vấn đề về sức khỏe, chỉ khi nào bệnh trở nên trầm trọng hơn thì họ mới tìm đến những cơ sở y tế đó. Khi đi tìm nguyên ngân cho vấn đề này thì đa số những người được phỏng vấn họ đều có một câu trả lời tương tự như là: “ Nếu bị ốm nhẹ thì ông chữa bằng một số bài thuốc dân gian như là uống lá hẹ, hay xông, đánh gió. Khi nặng hơn một chút thì ông mới nhờ người mua thuốc, uống vài ba bữa sẽ đỡ. Chứ còn đi bên trạm xá thì cũng có vài ba viên thuốc mà lại lôi thôi lắm”. (PV1, Đỗ Văn C, 85 tuổi, Đông An) Khi nói đến khám chữa bệnh thì một yếu tố được nhiều người quan tâm đó chính là chi phí khám chữa bệnh. Nguồn cung cấp chi phí khám chữa bệnh từ đâu. Đối với những gia đình có điều kiện khá trở lên thì nói đến chi phí khám chữa bệnh cũng là một điều đáng suy nghĩ, vậy những gia đình có hoàn cảnh khó khăn nhất là những gia đình có đối tượng đang hưởng trợ giúp thì nó trở thành vấn đề rất khó để giải quyết. Bảng 2.8: Nguồn chi phí khám chữa bệnh Nguồn tiền Có Không Tổng 1. Tiền có sẵn 16.1 83.9 100 2. Do vay mượn 18.8 86.2 100 3. Người thân giúp 72.3 27.6 100 4. Do BH chi trả 82.3 17.7 100 5. Do bán nông sản 89.1 10.9 100 (Nguồn: Số liệu điều tra) Đa số những hộ gia đình được nghiên cứu là những hộ làm nông nghiệp tài sản của những người nông dân chính là các sản phẩm từ nông nghiêp, chúng được coi như “của để dành” của mỗi hộ và khi có việc cần thiết thì những sản phẩm này sẽ phát huy tác dụng “trao đổi”. Điều này giúp lý giải cho việc chi phí khám chữa bệnh trước tiên sẽ được lấy từ việc bán các sản phẩm nông sản, tỷ lệ này chiếm đến 89.1%, chiếm tỷ lệ thấp nhất 16% chính là phương án dùng tiền mặt có sẵn của gia đình để trang trải các khoản chi phí khám chữa bệnh. Các hộ gia đình hưởng chính sách được đánh giá là những gia đình có điều kiện khó khăn, thu nhập của những gia đình là thấp hơn so với mặt bằng chung, Tải bản FULL (126 trang): https://bit.ly/3L7qlbq Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
  • 66. 56 họ ít có cơ hội để dành tiền tiết kiệm chi tiêu vào những việc phát sinh trong cuộc sống như là khám chữa bệnh. Phương án vay mượn để trang trải chi phí cho khám chữa bệnh cũng được sử dụng nhưng không cao chiếm 18.8% trong tổng số ý kiến được hỏi. Phương án nhờ người thân giúp đỡ chi trả viện phí chiếm tỷ lệ khá cao là 72.3%, nhờ đặc thù nhóm người cao tuổi nên họ nhận được sự giúp đỡ từ con cái trong gia đình. Vì thế khi có gặp khó khăn thì đối tượng này sẽ lựa chọn phương án an toàn nhất là nhờ sự giúp đỡ của người thân trong gia đình. Bảo hiểm là phương án được nhiều người dân lựa chọn bởi lẽ khi có bảo hiểm thì họ sẽ tiết kiệm được phần lớn chi phí khám chữa bệnh cho đến thuốc men điều trị. Tuy việc sử dụng bảo hiểm còn tồn tại nhiều vấn đề nhưng đối với những trường hợp “bệnh trọng” thì đó cũng thực sự là một sự lựa chọn đúng đắn. Điều đáng nói ở đây đó chính là hiện tượng những đối tượng thuộc diện được cấp phát bảo hiểm y tế thì họ chỉ sử dụng dịch vụ này khi thực sự cần thiết như nhập viên hay những khi họ không thể tự chữa ở nhà được. Người cao tuổi tại địa phương hiện nay vẫn chưa thấy hết được tác dụng của việc phòng, khám và phát hiện bệnh sớm, việc chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi vẫn còn bị coi nhẹ. Đi tìm câu trả lời cho hiện tượng này thì cũng phần do điều kiện, hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế chưa cho phép, cũng phần vì những phát sinh cho chi phí khám chữa bệnh còn quá cao so với điều kiện kinh tế mà họ đang có, chính vậy đối tượng thường nảy sinh tâm lý lo sợ tốn kém mỗi khi đến cơ sở y tế. Chi phí giúp cho những đối tượng này khám chữa bệnh trên thực tế là do bảo hiểm y tế chi trả nhưng có những khoản phát sinh mà bảo hiểm y tế không thể chi trả được và họ phải nhờ đến sự trợ giúp của người thân, gia đình và hàng xóm, thậm chí là đi vay. Đó chính là nguyên nhân mà những đối tượng thường ít tìm đến sự trợ giúp của các cơ sở y tế. 2.3 Thực trạng đời sống của nhóm Ngƣời khuyết tật Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) thì NKT Việt Nam chiếm khoảng 10% dân số, theo điều tra của Tổng cục thống kê thì con số này là 15,8% dân số. Còn theo Bộ LĐTBXH năm 2008 có khoảng 5,4 triệu người chiến 6,64% Tải bản FULL (126 trang): https://bit.ly/3L7qlbq Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
  • 67. 57 dân số. NKT ở Việt Nam được phân bố không đồng đều giữa các vùng và các khu vực. Tỷ lệ NKT ở vùng nông thôn chiếm 87,20%; NKT sống ở thành thị chiến 12,8%. Quy mô theo các vùng thì Tây Bắc có 157,369 người, Đông Bắc có 678,345 người, đồng bằng sông Hồng có 908.118 người, Bắc trung Bộ có 658.254 người, Duyên hải miền Trung có 749.489 người, Tây nguyên có 158.506 người, Đông Nam Bộ có 866.516 người và Đồng bằng sông Cửu Long 1.018.341 người. Sự phân bố không đều này do mật độ dân số các khu vực khác nhau, ảnh hưởng của chiến tranh, điều kiện tự nhiên, trình độ dân trí, bẩm sinh, ốm đau, bệnh tật, mức độ can thiệp khác nhau của y học các nguyên nhân từ xã hội (tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội). Chia theo các nhóm dạng tật 29,03% tật vận động, 16,82% tâm thần, 17% đa dạng tật....Nguyên nhân chủ yếu là bẩm sinh, bật tật và dao hậu quả của chiến tranh. Các nguyên nhân này phản ánh sự chăm sóc ban đầu cho trẻ và dịch vụ y tế còn khá hạn chế trong việc kiểm soát bệnh tật dẫn đến tỷ lệ tàn tật cao [7]. Đời sống vật chất, tinh thần của người khuyết tật được đánh giá còn gặp nhiều khó khăn. Có tới 80% người khuyết tật ở thành thị và 70% người khuyết tật ở nông thôn sống dựa vào gia đình, người thân và trợ cấp xã hội; 32,5% thuộc diện nghèo (cao gấp hai lần so với tỷ lệ nghèo chung cùng thời điểm), 24% ở nhà tạm. Những khó khăn này cản trở người khuyết tật tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông, dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và hoà nhập với cộng đồng [7]. Thái Bình hiện có khoảng 124.000 người khuyết tật, trong đó có 16.705 thương binh; 19.766 người bị nhiễm chất độc da cam; 35.890 người khuyết tật được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Số đối tượng khuyết tật được nuôi dưỡng, chữa trị tại các trung tâm bảo trợ xã hội là: 708 đối tượng (286 nuôi tại 2 trung tâm và 422 chăm sóc tại cộng đồng). Đa số người khuyết tật tỉnh không thể sống tự lập mà chủ yếu dựa vào gia đình, người thân. Người khuyết tật nói chung đều có nguyện vọng được đối xử bình đẳng, được hòa nhập thực sự với cộng đồng, được góp phần nhỏ bé của mình vào việc xây dựng quê hương đất nước. 2.3.1 Đặc điểm nhân khẩu học của Nhóm Người Khuyết tật  Tuổi, giới tính 6795503