HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THANH SANG
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THANH SANG
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
Mã số: 62 31 02 03
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS TRẦN KHẮC VIỆT
2. TS ĐẶNG ĐÌNH PHÚ
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu của luận án là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học trong luận án chưa từng
được ai công bố ở bất kỳ công trình bào khác.
Tác giả luận án
Trần Thanh Sang
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài
1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
1.3. Tổng quan các kết quả nghiên cứu và những vấn đề cần tập trung
nghiên cứu
Chương 2: CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
2.1. Các tỉnh, thành phố ở đồng bằng sông Cửu Long; các xã, phường,
thị trấn và cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long
2.2. Đào tạo, bồi dưỡng và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở
đồng bằng sông Cửu Long - khái niệm, chương trình, nội dung, hình thức và
vai trò
Chương 3: CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN
VÀ KINH NGHIỆM
3.1. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng
sông Cửu Long
3.2. Nguyên nhân và những kinh nghiệm
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP
XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN NĂM 2030
4.1. Dự báo các yếu tố tác động đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long và mục tiêu, phương hướng
4.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030
KẾT LUẬN
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
6
6
13
26
29
29
45
69
69
98
109
109
119
145
147
148
165
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương
CB, CC : Cán bộ, công chức
CBCX : Cán bộ cấp xã
CHDCND : Cộng hòa Dân chủ nhân dân
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CTQG : Chính trị quốc gia
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
ĐT, BD : Đào tạo, bồi dưỡng
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTCT : Hệ thống chính trị
KT-XH : Kinh tế - xã hội
LLCT : Lý luận chính trị
LLCT-HC : Lý luận chính trị - hành chính
MTTQ : Mặt trận Tổ quốc
Nxb : Nhà xuất bản
QLNN : Quản lý nhà nước
TCT : Trường chính trị
TTBDCT : Trung tâm bồi dưỡng chính trị
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ. Người khẳng định: “Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc” [123, tr. 309]; “công việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém” [123, tr. 313]. Trong Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, Đảng ta nhấn mạnh:
“Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [61,
tr. 66]. Đội ngũ cán bộ cơ sở, trong đó đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn (cấp xã),
có vai trò rất quan trọng, vì họ là những người gần dân nhất, lãnh đạo, quản lý, thực
hiện những nhiệm vụ chính trị tại cơ sở - nơi các đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước được triển khai, hiện thực hóa trong cuộc sống; là lực
lượng chủ yếu, nòng cốt trực tiếp quyết định kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của
từng xã, phường, thị trấn.
Chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã (CBCX) được hình thành bằng nhiều con
đường khác nhau, trong đó đào tạo, bồi dưỡng (ĐT, BD) là con đường quan trọng
hàng đầu. Vì vậy, để xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCX phải chăm lo
công tác ĐT, BD cán bộ, trong đó vấn đề chất lượng ĐT, BD là điều kiện quan trọng
góp phần thực hiện thắng lợi công tác ĐT, BD cán bộ nói chung, công tác ĐT, BD
đội ngũ CBCX nói riêng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Huấn luyện cán bộ là công việc
gốc của Đảng” [123, tr. 309]. Kết luận của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung
ương (BCHTW) Đảng khóa X khẳng định: “Tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ, chú
trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, coi đây là giải
pháp quan trọng hàng đầu trong thực hiện chiến lược cán bộ trong giai đoạn mới”
[65, tr. 275]. Quy định số 164-QĐ/TW ngày 01-02-2013 của Bộ Chính trị “về chế độ
bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp” xác định: “Bồi
dưỡng, cập nhật thông tin, kiến thức mới và kỹ năng nghiệp vụ nhằm nâng cao nhận
thức chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng
2
trong tình hình mới” [26, tr. 1]. Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-2014 của Bộ
Chính trị “về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý” đã khẳng định: “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
về chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, góp phần xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức và
năng lực, phong cách làm việc hiệu quả đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [27, tr. 3].
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), hay còn được gọi là vùng Tây Nam bộ,
có vị trí chiến lược quan trọng của cả nước, là vùng có nhiều tiềm năng về kinh tế và
tính đặc thù về dân tộc, tôn giáo. Toàn vùng có 01 thành phố Cần Thơ và 12 tỉnh trực
thuộc Trung ương (An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau, Đồng Tháp, Long An,
Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh và Vĩnh Long); có 134
đơn vị hành chính cấp huyện, 1.624 đơn vị hành chính cấp xã (trong đó có 1.293 xã,
211 phường, 120 thị trấn), với 16.984 CBCX. Dân số 17,66 triệu người, trong đó có
khoảng 1,4 triệu người dân tộc Khmer. Trong thời gian qua, được sự quan tâm của
Trung ương và của các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương, đội ngũ CBCX trong
khu vực đã có bước trưởng thành đáng kể, phát huy tốt vai trò và là nhân tố quan
trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), giữ vững ổn định chính trị, an
ninh và quốc phòng ở ĐBSCL. Tuy nhiên, đội ngũ CBCX ở các tỉnh, thành phố thuộc
khu vực này còn nhiều hạn chế, yếu kém, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của
nhiệm vụ chính trị mới đặt ra.
Trong những năm qua, công tác ĐT, BD CBCX đã được các cấp, các ngành ở
đồng ĐBSCL rất chú trọng, do vậy trình độ lý luận chính trị (LLCT), chuyên môn
nghiệp vụ của đội ngũ CBCX, được nâng lên một bước. Nhận thức của đội ngũ cán bộ,
công chức (CB, CC) cơ sở nói chung, CBCX nói riêng đã có sự chuyển biến rõ nét; họ
coi việc tham gia ĐT, BD là trách nhiệm, nghĩa vụ và là yêu cầu bắt buộc. Bên cạnh
đó, nhiều loại hình ĐT, BD như tập trung, vừa làm vừa học, dài hạn, ngắn hạn, với
nhiều nội dung lồng ghép đa dạng được mở ra tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ
CBCX tham gia học tập một cách phù hợp.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX
của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL vẫn còn nhiều hạn chế. Các chủ trương, chính sách
cho ĐT, BD CBCX chậm đổi mới. Công tác quy hoạch, lựa chọn CBCX đưa đi ĐT,
BD chưa hợp lý, thiếu khoa học, một số cấp ủy thậm chí còn buông lỏng công tác
3
này. Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, cơ sở ĐT, BD thiếu nhịp nhàng, thậm chí
còn chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, lấn sân lẫn nhau. Chương trình, nội dung còn
nhiều trùng lắp, thậm chí lỗi thời, không phù hợp với yêu cầu của thực tiễn; nội dung
còn nặng về lý thuyết, thiếu kiến thức kỹ năng, tác nghiệp, chú trọng nhiều vào tổng
quan, thiếu tính cụ thể, đặc thù. Đội ngũ giảng viên, báo cáo viên tham gia ĐT, BD
còn hạn chế; một số thiếu kiến thức thực tiễn, trong giảng dạy còn nặng về lý thuyết,
thiếu truyền thụ kỹ năng, nghiệp vụ. Việc xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên
LLCT ở ĐBSCL có được chú trọng, nhưng còn chắp vá, không thường xuyên; nhiều
giảng viên, báo cáo viên thiếu chuẩn theo yêu cầu mới. Đội ngũ cán bộ quản lý, phục
vụ hoạt động ĐT, BD trình độ chuyên môn hóa chưa cao; cơ sở vật chất - kỹ thuật
phục vụ ĐT, BD CBCX còn nhiều thiếu thốn. Một số CBCX tuy có bằng cấp, nhưng
không đúng chuyên môn với vị trí công tác; một bộ phận CBCX còn tâm lý e ngại
tham gia ĐT, BD; một số có tham gia học tập, nhưng tư tưởng còn đối phó, học cốt
để có bằng chứ không cần kiến thức; một số CBCX không chú trọng việc tự học, tự
rèn, nhất là về chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Công
tác kiểm tra, giám sát, tổ chức rút kinh nghiệm trong ĐT, BD không thường xuyên.
Chế độ chính sách cho công tác ĐT, BD CBCX của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL
không thống nhất, chậm đổi mới, chưa tạo động lực cho CBCX tham gia ĐT, BD.
Khâu bố trí, sử dụng CBCX sau đào tạo và việc phát huy năng lực sau bồi dưỡng
chưa được quan tâm đúng mức, làm cho không ít CBCX chán nản, thậm chí nghỉ
việc... Xuất phát từ thực tế nêu trên, tác giả chọn đề tài “Công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay” làm luận án nghiên
cứu của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác ĐT, BD CBCX,
luận án đề xuất các giải pháp đồng bộ, có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng công
tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Làm rõ các khái niệm và nội dung có liên quan về công tác ĐT, BD CBCX;
nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác ĐT, BD CBCX.
4
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng công tác ĐT, BDCBCX ở ĐBSCL, phân
tích nguyên nhân và rút ra các kinh nghiệm về công tác này.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD
CBCX ở ĐBSCL đến năm 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu công tác ĐT, BD CBCX của 13 tỉnh, thành phố
ở ĐBSCL từ năm 2006 đến năm 2017.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác ĐT,
BD cán bộ nói chung, về công tác ĐT, BD CBCX nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Cơ sở thực tiễn
Công tác ĐT, BD CBCX và công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL từ năm 2006
đến 2017.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: lịch sử và lôgíc, tổng kết thực
tiễn, khảo sát, phương pháp chuyên gia, phân tích và tổng hợp, so sánh.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học và ý nghĩa thực tiễn của
luận án
5.1. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Làm rõ các khái niệm có liên quan đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
- Chỉ ra tính đặc thù trong công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
- Rút ra một số kinh nghiệm trong công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
- Đề xuất hai giải pháp mang khả thi góp phần nâng cao chất lượng công tác
ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL: một là, đổi mới cách thức tổ chức, quản lý ĐT, BD CBCX;
hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên làm nhiệm vụ ĐT, BD
CBCX.
5
5.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm cứ liệu khoa học cho các cấp
ủy, tổ chức đảng, chính quyền, ban tổ chức, sở nội vụ, trường chính trị (TCT) của các
tỉnh, thành phố ở ĐBSCL trong việc xác định các chủ trương, giải pháp thực hiện
công tác ĐT, BD CBCX có hiệu quả.
Luận án còn có thể góp phần bổ sung và hoàn thiện chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước đối với công tác ĐT, BD đội ngũ CB, CC nói chung và đội ngũ
CBCX nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Luận án cũng có thể phục vụ việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy ở Học viện
Chính trị quốc gia (CTQG) Hồ Chí Minh, các trường chính trị (TCT) tỉnh, thành phố,
các trung tâm bồi dưỡng chính trị (TTBDCT) cấp huyện ở ĐBSCL.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các công trình khoa học của tác giả đã công bố
liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Công tác ĐT, BD cán bộ nói chung và công tác ĐT, BD CBCX nói riêng trong
thời gian qua đã có rất nhiều công trình khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành, địa
phương, nhiều đề tài luận án tiến sĩ và nhiều bài viết của các học giả đề cập đến công
tác ĐT, BD cán bộ không chỉ trong nước, mà cả ở nước ngoài. Tuy nhiên, tùy theo đối
tượng và phạm vi nghiên cứu mà từng công trình khoa học, từng bài viết có góc độ tiếp
cận, giải quyết các vấn đề riêng có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở
Trung Quốc
- Phùng Đại Minh, Quản lý hiệu năng và quản lý tự chủ trong nhà trường -
một cơ chế để phát triển [127]. Tác phẩm chỉ ra rằng, cải cách giáo dục cần quan tâm
phát triển giáo viên, trong đó nhấn mạnh: khuyến khích cá nhân giáo viên có thêm
động cơ và hăng say công tác; giúp đỡ giáo viên phát triển chuyên môn và tiềm năng,
tăng kiến thức, kỹ năng và sở trường.
- Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc,
Xây dựng đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc
[105]. Nhiều bài tham luận của các học giả Trung Quốc đã tập trung vào kinh nghiệm về
xây dựng đội ngũ cán bộ, công tác ĐT, BD cán bộ như:
Tác giả Hạ Quốc Cường cho rằng: một trong những yếu tố quan trọng xây
dựng đảng cầm quyền thành công là xây dựng đội ngũ cán bộ có tố chất cao, tập trung
xây dựng được đội ngũ nhân tài, vì thế phải “không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo
và trình độ cầm quyền, tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng biến chất và chống
rủi ro”.
Theo học giả Tôn Hiển Quần, cần “tăng cường xây dựng ban lãnh đạo, cố gắng
hình thành tầng lớp lãnh đạo hăng hái, sôi nổi, phấn đấu thành đạt”. Muốn đạt được
điều đó phải kiên trì học tập, nghiên cứu lý luận và rèn luyện thực tế; đồng thời, phải
chú trọng việc chọn, dùng người theo tiêu chuẩn khoa học, cải tiến tác phong, thắt
7
chặt liên hệ máu thịt với quần chúng nhân dân, ngăn ngừa và khắc phục chủ nghĩa
hình thức, quan liêu.
Giả Cao Kiến cho rằng: “Phát huy đầy đủ vai trò của trường Đảng, làm tốt
công tác giáo dục và đào tạo cán bộ”, cần thực hiện phân tầng cương vị lãnh đạo,
nhằm vào nhu cầu nhậm chức của cán bộ mà đào tạo phù hợp.
Bài viết “Xuất phát từ đại cục, hướng tới lâu dài, cố gắng xây dựng một đội
ngũ cán bộ dự bị tố chất cao” của Chu Phúc Khởi cho thấy: Đảng Cộng sản Trung
Quốc xem đội ngũ cán bộ dự bị là “nguồn quan trọng của ban lãnh đạo đạo các cấp”,
vì thế xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị là nhiệm vụ chiến lược quan trọng liên quan đến
đại cục, lâu dài. Theo tác giả, để xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị tố chất cao gồm ba
khâu: tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và quản lý cán bộ dự bị. Cách làm cụ thể: một là,
xây dựng quy hoạch thiết thực, khả thi đội ngũ dự bị; hai là, chế độ hóa, quy phạm
hóa chặt chẽ về tiêu chuẩn, quy trình và yêu cầu đối với các khâu của công tác cán
bộ dự bị; ba là, mở rộng dân chủ trong tuyển chọn; bốn là, đào tạo đa dạng, theo
nguyên tắc “thiếu gì bù nấy”; năm là, quản lý động thái, đảm bảo số lượng và chất
lượng cán bộ; sáu là, kiên trì dự trữ, kết hợp với sử dụng, kịp thời tuyển chọn cán bộ
dự bị chín muồi vào ban lãnh đạo; bảy là, nắm đầu nguồn, tuyển cán bộ dự bị từ sinh
viên tốt, tốt nghiệp đạt loại giỏi ở các trường đại học và cao đẳng, sau đó đào tạo, rèn
luyện ở cơ sở một cách có kế hoạch.
Triệu Lý Văn có bài “Lý luận và tực tiễn công tác giáo dục cán bộ của Đảng
Cộng sản Trung Quốc”. Tác giả đã khái quát 5 nguyên tắc giáo dục, đào tạo (lấy con
người làm gốc, đào tạo theo nhu cầu; đào tạo toàn bộ, đảm bảo chất lượng; phát triển
toàn diện, chú trọng năng lực; liên hệ thực tế, học để sử dụng; tiến tới cùng thời đại,
cải cách sáng tạo), 4 mặt của chương trình giảng dạy (nền tảng lý luận; nhãn quan thế
giới; tư duy chiến lược; tu dưỡng tính đảng), 3 định hướng cải cách tư duy giảng dạy
(chia loại, chia tầng nấc - tùy theo tính chất giáo dục, đào tạo và tầng nấc cán bộ để bố
trí lớp và xác định nội dung; đào tạo theo nhu cầu; học viên là chủ thể). Ngoài ra, tác
giả còn đề cập đến những vấn đề có liên quan đến công tác ĐT, BD cán bộ như: chú
trọng cải cách nội dung, phương pháp giảng dạy; đặc biệt coi trọng việc bồi dưỡng
năng lực cho cán bộ ở những vị trí nổi bật; việc thử nghiệm giảng dạy kiểu mô phỏng...
Những khái quát kinh nghiệm trên được tác giả đúc kết từ quá trình tiến hành công tác
giáo dục, đào tạo cán bộ của Trung Quốc.
8
- Diêm Kiệt Hoa, Nghiên cứu tiến trình phát triển giáo dục lý luận chủ nghĩa
Mác ở Trung Quốc [86] chỉ ra: Trung Quốc là một nước xã hội chủ nghĩa (XHCN)
kiên trì lấy chủ nghĩa Mác làm tư tưởng chỉ đạo, tiến hành giáo dục lý luận chủ nghĩa
Mác. Từ góc độ tiến trình phát triển của giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác, tác giả nghiên
cứu quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện việc giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác,
rút ra bài học kinh nghiệm từ việc giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác, qua đó thúc đẩy tốt
hơn sự phát triển của giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc.
- Charlotte P. Lee, “Training the Party: Party adaptation and elite training in
reform-era China”, (tạm dịch: “Đào tạo Đảng: Sự chỉnh đốn Đảng và đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ đứng đầu ở Trung Quốc thời kỳ cải cách”) [42]. Tác giả đã
trình bày các nghiên cứu về trường đảng, chủ yếu chia thành hai dòng nghiên cứu:
một là, những nhiệm vụ, chức năng của trường Đảng Trung ương Trung Quốc; hai
là, hệ thống trường đảng bên ngoài Bắc Kinh. Ban giám hiệu các trường này phải
theo đuổi nhiều phương thức tăng thu nhập khác nhau. Trong số đó có những phương
thức tồn tại thuần túy vì mục tiêu lợi nhuận và có cả những phương thức khác vừa
giúp nâng cao thu nhập, vừa tăng chất lượng đào tạo của nhà trường. Sự phong phú,
đa dạng trong hoạt động của trường đảng chứng tỏ sự phong phú về phương cách
thích nghi của tổ chức trong cơ chế thị trường có cạnh tranh. Các trường đã tự điều
chỉnh, tự thích ứng trước hai mục tiêu ra là phải tối đa hóa nguồn thu trong bối cảnh
kinh tế thị trường và phải cập nhật, đổi mới nội dung ĐT, BD cán bộ xứng tầm trong
nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Cộng
hòa Dân chủ nhân dân Lào
- Xỉnh Khăm Phom Ma Xay, Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào trong giai đoạn hiện nay, [202]. Luận án
đã luận giải đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế trong quá trình hình thành và
phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào hiện
nay; phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của Đảng và Nhà
nước Lào và tình hình công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ này trong thời gian qua, chỉ
ra những thành tựu và hạn chế cùng những nguyên nhân. Trên cơ sở đó, luận án đề
xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD cán bộ lãnh đạo quản lý
kinh tế của Nhà nước Lào. Những giải pháp cần chú ý là: nghiên cứu xác định một
9
cách đúng đắn mục tiêu ĐT, BD cán bộ phù hợp với tình hình của CHDCND Lào
hiện nay và những năm tới; xây dựng tốt công tác quy hoạch ĐT, BD đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý kinh tế; đẩy mạnh phong trào tự học tập nâng cao trình độ, năng lực
và rèn luyện đạo đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ của Lào; xây dựng và kiện toàn
hệ thống trường, lớp và hoàn thiện các chế độ, chính sách về ĐT, BD đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý kinh tế; đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về ĐT, BD đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế; kết hợp chặt chẽ giữa ĐT, BD và quản lý, sử dụng
có hiệu quả những người đã qua ĐT, BD; bảo đảm những điều kiện cần thiết để tăng
cường công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế.
- Khăm Phăn Phôm Ma Thắt, Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân
dân Lào trong thời kỳ đổi mới, [111]. Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận
về công tác ĐT, BD cán bộ theo quan điểm mácxít, đồng thời phân tích, đánh giá
thực trạng công tác ĐT, BD cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý
ở nước CHDCND Lào trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất những
phương hướng và giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác ĐT, BD cán
bộ chủ chốt ở nước Lào trong thời gian tới.
- Khăm Phăn Vông Pha Chăn, Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống
chính trị ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay, [112]. Tác giả khẳng định: cán
bộ lãnh đạo có vai trò quan trọng đối với sự phát triển KT-XH. Đất nước Lào có phát
triển nhanh hay không một phần rất lớn phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo có tài
và đức trong hệ thống chính trị (HTCT). Vì vậy, việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo
của HTCT là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào hiện
nay. Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của HTCT ở CHDCND Lào là nói đến việc đào
tạo đội ngũ cán bộ giữ những chức vụ nhất định trong HTCT với các hoạt động đào tạo
cụ thể, biểu hiện chủ yếu ở nội dung, chương trình và phương thức đào tạo nhằm đáp
ứng những đòi hỏi về chất lượng cán bộ đảm bảo thực thi quyền lực chính trị của nhân
dân. Luận án đánh giá, trong những năm gần đây ở CHDCND Lào, việc đào tạo cán
bộ lãnh đạo trong HTCT đã được Đảng và Nhà nước Lào quan tâm, đổi mới cả về mặt
nội dung, chương trình và phương thức đào tạo, đáp ứng được một số yêu cầu về chất
lượng cán bộ cho sự nghiệp đổi mới ở Lào. Tuy nhiên, công tác đào tạo cán bộ lãnh
đạo của HTCT còn nhiều hạn chế, chưa có bước đột phá và nâng cao hiệu quả đáp ứng
10
các đòi hỏi đặt ra từ thực tiễn yêu cầu chất lượng cán bộ lãnh đạo thời kỳ mới. Để nâng
cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của HTCT đáp ứng với yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới ở Lào hiện nay, tác giả đề xuất cần thực hiện đồng bộ các giải pháp
sau: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác đào tạo;
gắn đào tạo với quy hoạch và sử dụng cán bộ; đổi mới nội dung, chương trình, phương
thức ĐT, BD; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trong các cơ sở đào tạo; tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo; xây dựng chế
độ, chính sách đãi ngộ đối với người dạy và học, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế
trong đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
- Kham Bay Malasing, Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở
và những người có uy tín ở thôn bản trong phát triển cộng đồng ở Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Lào, [109]. Tác giả đã phân tích vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản
lý cấp cơ sở và những người có uy tín ở thôn bản trong phát triển cộng đồng ở
CHDCND Lào, trong đó yếu tố tuổi tác động mạnh nhất. Luận án cũng cho thấy, sự
tham gia của khối cán bộ lãnh đạo, quản lý về các nội dung phát triển cộng đồng còn
có sự khác nhau nhất định, trong đó khối cán bộ chính quyền thôn, bản thường có vai
trò tích cực nhất. Tác giả cũng đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao
vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở và những người có uy tín ở
thôn, bản trong phát triển cộng đồng trong thời gian tới, trong đó có giải pháp nâng
cao công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở.
- Sai Kham Moun Na Ni Vong, Vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho học
viên hệ cao cấp ở các trường chính trị và hành chính nước Cộng hòa Dân chủ nhân
dân Lào hiện nay, [139]. Tác giả khẳng định: giáo dục lý luận Mác - Lênin cho học
viên hệ cao cấp là bộ phận rất quan trọng trong hệ thống giáo dục, đào tạo cán bộ lãnh
đạo, quản lý của các TCT - Hành chính ở Lào, hình thành thế giới quan khoa học, nhân
sinh quan cộng sản chủ nghĩa và trang bị phương pháp luận khoa học, biểu hiện chủ
yếu ở nội dung, chương trình và phương thức đào tạo nhằm đáp ứng những đòi hỏi về
chất lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở CHDCND Lào hiện nay. Luận án đánh giá những
vấn đề đặt ra đối với giáo dục lý luận Mác - Lênin cho học viên hệ cao cấp ở các TCT
- Hành chính nước CHDCND Lào hiện nay: một là, mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có
đội ngũ giảng viên chuyên nghiệp giỏi chuyên môn, có phương pháp sư phạm tốt với
thực tế đội ngũ này còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng; hai là, mâu thuẫn giữa
11
yêu cầu phải có chương trình, nội dung giáo dục lý luận Mác - Lênin đa dạng, linh hoạt,
phù hợp thực tiễn Lào với hiện trạng chương trình, nội dung còn nhiều bất cập; ba là,
mâu thuẫn giữa đòi hỏi tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo trong học tập của đội
ngũ học viên hệ cao cấp với thực tế còn chưa tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo
trong học tập; bốn là, mâu thuẫn giữa lý tưởng trong giáo dục lý luận Mác - Lênin với
đời sống thực tế còn nhiều trái ngược. Luận án đề xuất bốn giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả cho học viên hệ cao cấp là: một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác giáo dục lý luận Mác - Lênin và nâng cao nhận thức về vai trò của giáo dục lý
luận Mác - Lênin cho học viên hệ cao cấp; hai là, từng bước xây dựng đội ngũ giảng
viên các bộ môn khoa học Mác - Lênin đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng; ba là,
đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy các môn khoa học
Mác - Lênin và tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất cho công tác giáo dục lý luận Mác
- Lênin; bốn là, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học viên trong việc tự
giáo dục lý luận Mác - Lênin.
- Kouyang Sisomblong, Chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy ở các
trường chính trị - hành chính tỉnh Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, [115]. Tác giả chỉ
ra các yếu tố ảnh hưởng chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy ở các TCT -
hành chính tỉnh ở CHDCND Lào giai đoạn hiện nay: một là, số lượng và cơ cấu đội ngũ
cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; hai là, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng của đội
ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; ba là, trình độ chuyên môn và năng lực nghiên cứu,
giảng dạy của từng cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; bốn là, kết quả thực hiện nhiệm vụ
của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy ở các TCT - hành chính tỉnh
CHDCND Lào giai đoạn hiện nay: một là, một số cán bộ lãnh đạo cấp trên cũng như cán
bộ lãnh đạo các nhà trường chưa quan tâm, chăm lo ĐT, BD năng lực cho đội ngũ cán
bộ nghiên cứu, giảng dạy; hai là, trình độ hiểu biết và việc tiếp thu khoa học, công nghệ
hiện đại của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy còn hạn chế; ba là, vốn đầu tư và kinh
phí còn hạn chế; bốn là, do thiếu quy hoạch, cơ chế tuyển chọn, ĐT, BD, bố trí và sử
dụng; năm là, một số chế độ, chính sách chưa thật hợp lý. Luận án đã đề xuất những giải
pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy ở các TCT -
hành chính tỉnh CHDCND Lào giai đoạn hiện nay: một là, nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của đảng ủy và ban giám hiệu các nhà trường về sự cần thiết, tầm quan trọng về
12
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; hai là, đổi mới các khâu
trong xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; ba là, phát huy tính tự giác của
đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy trong việc tu duỡng rèn luyện phẩm chất chính trị,
đạo đức cách mạng và nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ dược giao;
bốn là, đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp ĐT, BD đội ngũ cán bộ nghiên cứu,
giảng dạy; năm là, tăng cường đầu tư kính phí, cơ sở vật chất và đổi mới chế độ đãi ngộ
đối với đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; sáu là, tăng cường sự lãnh đạo, chi đạo,
giúp đỡ của tỉnh ủy, chính quyền tỉnh và Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Lào
trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; bảy là, tăng cường
sự lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước; thường xuyên giao lưu và phối hợp
với các cơ quan chức năng tồ chức các cuộc thi giảng viên giỏi giữa các TCT - hành
chính tỉnh ở Lào.
- Vilay Philavong, Giáo dục pháp luật cho công chức hành chinh ở nước Cộng
hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay, [196]. Tác giả cho rằng: công chức hành chính
là người đại diện cho Đảng và Nhà nước thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể
trong quan hệ với nhân dân. Công chức hành chính là đối tượng giáo đục pháp luật
đặc biệt, bởi vì họ vừa là đối tượng giáo dục, vừa là chủ thể giáo dục. Vì thế, cần coi
trọng công tác giáo dục pháp luật cho công chức hành chính nhằm đạt ba mục tiêu
như: về nhận thức, về thái độ tình cảm, về hành vi. Luận án chỉ ra những hạn chế,
yếu kém của công tác nêu trên: một là, chủ thể giáo dục pháp luật chưa được quan
tâm, vừa thiếu vừa yếu; hai là, công chức hành chính chưa nhận thức đầy đủ, đúng
mức về việc trang bị cho mình những kiến thức hiểu biết pháp luật, chưa có ý chí tự
phấn đấu, thái độ học tập chưa nghiêm túc, tinh thần trách nhiệm chưa cao; ba là, nội
dung chương trình giáo dục pháp luật chưa đáp ứng được yêu câu thực tiễn, việc thể
chế hóa pháp luật còn chậm, quy định không rõ ràng, chồng chéo mang tính đơn lẽ,
manh mún chậm đổi mới; bốn là, công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật chưa
đồng bộ, thiếu sự phối hợp trao đổi kinh nghiệm, phương pháp chưa khoa học. Để
bảo đảm được chất lượng giáo dục pháp luật cho công chức hành chính ở nước Lào
hiện nay, tác giả đưa ra 9 giải pháp giải pháp: một là, tăng cường trách nhiệm của
các cấp ủy đảng, chính quyền về công tác giáo dục pháp luật cho công chức hành
chính; hai là, tăng cường công lác ĐT, BD pháp luật cho công chức hành chính; ba
là, đổi mới, hoàn thiện, nội dung, chương trình giáo dục pháp luật cho công chức
13
hành chính; bốn là, đa dạng hóa hình thức giáo dục pháp luật cho công chức hành
chính; năm là, tăng cường giáo dục pháp luật cho công chức hành chính ở Lào kết
hợp với các hình thức giáo dục khác; sáu là, nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất
đội ngũ giảng viên, báo cáo viên trong giáo dục pháp luật cho công chức hành chính;
bảy là, phối hợp giữa hệ thống các cơ quan Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa - Thông tin và
truyền thông, Đài Truyền hình, Đài Phát thanh xây dựng hệ thống tư liệu thông tin,
tạo điều kiện cho công chức hành chính tiếp cận với pháp luật một cách kịp thời,
chinh xác; tám là, bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện, tài chính và
thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm về giáo dục pháp luật đối với công chức hành
chính; chín là, tăng cường công tác quan hệ quốc tế trong việc giáo dục pháp luật
cho công chức hành chính.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
1.2.1. Những nghiên cứu về hệ thống chính trị và cán bộ, công chức cấp xã
- Huỳnh Văn Long, Xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch ủy ban nhân
dân huyện ở đồng bằng sông Cửu Long ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, [118]. Luận án phân tích thực trạng đánh giá đội ngũ bí
thư huyện ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân (UBND) huyện vùng ĐBSCL từ năm 1996
đến năm 2003. Trong đó, tác giả khẳng định: trên cơ sở đổi mới quan điểm đánh giá
đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch UBND huyện, các tỉnh ủy ở vùng ĐBSCL đã đánh
giá đội ngũ này không đơn thuần căn cứ vào quá trình công tác, học vị, lý lịch, thành
phần xuất thân, vị thế xã hội, mà chủ yếu căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, vào hiệu quả
thực hiện nhiệm vụ được giao, đồng thời còn căn cứ vào mức độ tín nhiệm của nhân
dân. Các ban tổ chức tỉnh ủy đã phối hợp chặt chẽ với các cấp ủy ở cơ sở nơi cán bộ
sinh hoạt và bản thân từng đồng chí tự đánh giá. Các cấp ủy lãnh đạo chặt chẽ, nghiêm
túc quy chế đánh giá, bảo đảm chế độ tự phê bình và phê bình, nguyên tắc tập trung
dân chủ, công khai, kết luận rõ ràng theo đa số. Luận án đã trình bày tiêu chuẩn chức
danh bí thư huyện ủy, chủ tịch UBND huyện trong thời kỳ mới. Luận án nhấn mạnh
một số tiêu chuẩn về bản lĩnh chính trị qua lời nói và việc làm cụ thể trên cương vị
đứng đầu huyện ủy và UBND huyện; kiên định đường lối đổi mới theo đúng mục tiêu
đã định và thể hiện gương mẫu bằng hành động cụ thể của bản thân, gia đình, thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Trung ương và của tỉnh trên địa bàn
huyện; có ý chí, quyết tâm và năng lực làm giàu cho huyện, biến ý chí đó thành ý chí
14
của đảng bộ và nhân dân huyện; có tầm nhận thức sâu sắc đối với những diễn biến
chính trị, có tinh thần cảnh giác cao, nhanh nhạy giải quyết mọi tình huống chính trị...
Luận án khẳng định và đề xuất những vấn đề có tính nguyên tắc và quy trình xây dựng
đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch UBND huyện ở ĐBSCL.
- Nguyễn Thái Hòa (Chủ nhiệm), Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ người dân tộc Khmer ở cơ sở xã, phường, thị trấn khu vực Tây Nam bộ, [89]. Đề tài
nhận định: trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong
giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, hội nhập kinh tế quốc
tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền, cần tiếp tục nâng cao về số lượng và chất lượng
đội ngũ cán bộ dân tộc người Khmer, nhất là cán bộ đang công tác ở cơ sở xã, phường,
thị trấn. Mặt khác, mở cửa, hội nhập quốc tế, sự chống phá của các thế lực thù địch lợi
dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo kích động ly khai… cũng tác động đến đồng bào và đội
ngũ cán bộ người dân tộc Khmer ở vùng đất Tây Nam bộ. Vì vậy, bảo đảm sự ổn định
chính trị, trật tự, an toàn xã hội để phát triển, chăm lo xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ cơ sở là một trong những công việc rất cấp thiết. Đề tài tập
trung phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer trong HTCT ở
cơ sở xã hiện nay, qua đó chỉ ra được điểm mạnh, điểm yếu, nguyên nhân và bài học từ
thực tiễn; từ đó, xây dựng mô hình cán bộ người dân tộc Khmer phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ đặt ra; đề ra phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ này theo tiêu
chuẩn của từng chức danh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đó ở Tây Nam Bộ đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở từng địa phương trong giai đoạn mới.
- Hội thảo khoa học, Hệ thống chính trị cấp cơ sở các tỉnh, thành khu vực Tây
Nam bộ - thực trạng và giải pháp, [92]. Hội thảo đã đề cập tổng quát về HTCT cấp cơ
sở các tỉnh, thành phố khu vực Tây Nam bộ và những giải pháp khả thi để nâng cao chất
lượng của HTCT cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, trong đó có
công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ ở cơ sở.
- Nguyễn Huy Kiệm, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cơ sở vùng
đồng bằng sông Cửu Long, [114]. Sau khi thống kê những có số tác giả đi đến đánh giá:
hiện nay đội ngũ CB, CC xã, phường, thị trấn ở các tỉnh, thành phố trong vùng ĐBSCL
nhìn chung còn yếu kém, bất cập về nhiều mặt, phần lớn chưa được đào tạo một cách bài
bản, chính quy về chuyên môn, nghiệp vụ, tỷ lệ đạt chuẩn còn thấp so với yêu cầu. Năng
lực quản lý điều hành chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Nhận thức trong đội ngũ CB, CC
15
không đồng đều... Bên cạnh sự thiếu hụt, bất cập về số lượng và yếu kém về chất lượng,
việc xây dựng quy hoạch ĐT, BD CB, CC chưa được các địa phương trong vùng quan
tâm chỉ đạo một cách thỏa đáng. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém
nêu trên, để nâng cao chất lượng đội ngũ CB, CC cơ sở nhằm đáp ứng với tình hình,
nhiệm vụ phát triển KT-XH của vùng, tác giả đã đưa ra 7 giải pháp tập trung vào công
tác ĐT, BD CB, CC cơ sở.
- Bùi Công Tường, Mấy suy nghĩ và kiến nghị về đội ngũ cán bộ cơ sở, [167].
Tác giả đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém của đội ngũ cán bộ cơ sở và nhu cầu cần có
bước “đột phá” trong việc ĐT, BD nâng cao năng lực cho đội ngũ này. Những nội dung
bài báo có thể tham khảo, vận dụng, kế thừa: những kiến nghị của tác giả về đẩy mạnh
ĐT, BD đội ngũ cán bộ cơ sở thông qua việc mở các khóa huấn luyện ngắn ngày theo
từng chuyên đề, từng nghiệp vụ cụ thể, đồng thời cung cấp sách “cẩm nang” về các
mặt công tác đảng và quản lý nhà nước (QLNN) cho cán bộ cơ sở.
- Đinh Ngọc Giang, Chuẩn hóa chủ tịch ủy ban nhân dân xã các tỉnh đồng
bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay, [77]. Tác giả đưa ra quan điểm: chuẩn hóa chủ
tịch UBND xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng là tổng thể các hoạt động của cấp ủy,
tổ chức đảng, các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp ủy, các tổ chức trong HTCT
từ tỉnh đến cơ sở xã và các cơ quan có liên quan trong việc cụ thể hóa tiêu chuẩn chủ
tịch UBND xã và tiến hành những công việc cần thiết để những chủ tịch UBND xã
chưa đạt tiêu chuẩn và những cán bộ trong quy hoạch chủ tịch UBND xã đạt tiêu
chuẩn đã đề ra, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chuẩn hóa chủ tịch UBND xã là
một bộ phận rất quan trọng của công tác cán bộ đối với chủ tịch UBND xã. Để thực
hiện mạnh mẽ chuẩn hóa chủ tịch UBND xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng cần tập
trung giải quyết những vấn đề chủ yếu như: phát huy mạnh mẽ trách nhiệm, tính chủ
động của các cấp ủy trong thực hiện chuẩn hóa kết hợp chặt chẽ với việc tạo điều kiện
thuận lợi để cán bộ thực hiện quy trình chuẩn hóa và động viên họ tự chuẩn hóa; hạn
chế những tác động tiêu cực của quan hệ huyết thống, truyền thống làng xã và tâm lý
truyền thống cho rằng chủ tịch UBND xã phải là người của xã đó, để luân chuyển
mạnh mẽ, thực hiện có hiệu quả chuẩn hóa về năng lực tổ chức thực tiễn đối với
những cán bộ trong quy hoạch chủ tịch UBND xã; nâng cao chất lượng hoạt động
của các TCT tỉnh, các cơ sở ĐT, BD cán bộ.
16
- Hồ Ngọc Trường, Xây dựng phong cách chủ tịch ủy ban nhân dân xã ở đồng
bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay, [163]. Tác giả đã nêu lên khái niệm xây dựng
phong cách chủ tịch UBND xã ở ĐBSCL là toàn bộ hoạt động của ban thường vụ cấp
ủy cấp ủy, các tổ chức, lực lượng có liên quan và của bản thân từng chủ tịch UBND xã
về ĐT, BD, giáo dục, quản lý, kiểm tra, giám sát việc hình thành, phát triển phong cách
tư duy, phong cách làm việc, phong cách sinh hoạt của chủ tịch UBND xã ở ĐBSCL
giai đoạn hiện nay, đảm bảo cho chủ tịch UBND xã thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ
được giao. Tác giả cũng đã chỉ ra 5 kinh nghiệm về xây dựng phong cách chủ tịch
UBND xã ở ĐBSCL, trong đó có kinh nghiệm: đẩy mạnh công tác đào tạo, đào tạo
lại chủ tịch UBND xã và thường xuyên bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho chủ tịch
UBND xã; tăng cường quản lý quá trình tự học, tự rèn luyện của chủ tịch UBND xã.
Từ đó tác giã đã đề xuất những giải pháp quan trọng xây dựng phong cách chủ tịch
UBND xã ở ĐBSCL, trong đó giải pháp hàng đầu, mang tính chất chi phối toàn bộ là:
tạo bước chuyển biến căn bản về tạo nguồn, công tác quy hoạch, để có nguồn nhân lực
và tố chất mới xây dựng phong cách chủ tịch UBND xã trong giai đoạn hiện nay.
- Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, [165]. Cuốn sách gồm 03
chương, đi sâu phân tích tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ; quan
điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước;
đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ. Trên cơ
sở phân tích các nội dung này, cuốn sách đề cập việc tiếp tục đổi mới đồng bộ các
khâu trong công tác cán bộ, nhấn mạnh việc tập trung thực hiện có chất lượng, hiệu
quả từng khâu, sự đổi mới mang tính đột phá, tạo bước chuyển căn bản về công tác
cán bộ trong giai đoạn hiện nay: xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy
hoạch cán bộ; cán bộ; chính sách đãi ngộ cán bộ. Đồng thời, cuốn sách đề cập việc
nghiên cứu khoa học, xây dựng tổ chức và con người làm công tác tổ chức, cán bộ
với việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học tổ chức, công tác tổ chức và con người làm
công tác tổ chức, cán bộ của Đảng giai đoạn hiện nay. Cuốn sách đề cập khá sâu sắc
phương pháp, cách thức tiến hành các khâu trong công tác cán bộ, đây là tài liệu tham
khảo tốt để tác giả luận án nghiên cứu thực hiện đề tài.
- Phạm Phi Hùng (Chủ nhiệm), Cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị xã, phường,
thị trấn ở thành phố Cần Thơ - thực trạng và giải pháp, [107]. Đề tài đã khảo sát,
17
điều tra, phân tích, tổng hợp thực trạng cán bộ chủ chốt của HTCT cơ sở xã, phường,
thị trấn thành phố Cần Thơ, cụ thể hóa được tiêu chuẩn các chức danh bí thư đảng
ủy, chủ tịch UBND, chủ tịch ủy ban MTTQ và người đứng đầu các tổ chức chính trị
- xã hội ở cơ sở, đồng thời đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ chủ
chốt của HTCT cơ sở.
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
- Hoàng Ngọc Hòa, Công tác giáo dục đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học
ở các trường đảng Trung Quốc [88]. Tác giả đã nghiên cứu về công tác giáo dục, đào
tạo cán bộ tại trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và một số trường
đảng tỉnh, thành phố, trong đó nhấn mạnh: mục đích thực tiễn của công tác giáo dục,
đào tạo được xác định ngay trong nội dung, chương trình sát hợp với đối tượng học
viên của từng loại lớp, đảm bảo sự nhất quán trong các khâu: từ biên soạn giáo án
đến tổ chức giảng dạy - học tập - nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, vận dụng lý luận
vào thực tiễn, bố trí, sử dụng cán bộ; nội dung giáo dục, đào tạo luôn đổi mới, bám
sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị và thực tiễn phát triển của công cuộc cải cách, mở cửa
đã thúc đẩy nghiên cứu khoa học phát triển.
- Trần Ngọc Uẩn (chủ nhiệm), Phương thức đào tạo cán bộ ở các trường
chính trị tỉnh, thành phố trong thời kỳ mới, [168]. Đề tài đã tập trung phân tích
những phương thức đã và đang được áp dụng trong việc đào tạo cán bộ ở các TCT
tỉnh, thành phố ở nước ta hiện nay, bao gồm đào tạo tập trung và đào tạo tại chức;
đồng thời xác định những ưu điểm và hạn chế trong từng phương thức đào tạo này.
Trên cơ sở những phân tích đó, đề tài đề xuất các phương hướng và giải pháp chủ
yếu khắc phục những hạn chế trong công tác đào tạo cán bộ ở các trường chính trị
tỉnh, thành phố.
- Nguyễn Hữu Cát, Mai Hoàng Anh, Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị
chủ chốt trong hệ thống trường đảng ở Trung Quốc hiện nay [41]. Bài viết đã xác định:
chấn hưng đất nước bằng khoa giáo, trong đó hệ thống trường đảng đóng vai trò chủ
chốt. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có nghị quyết về tăng cường và cải
tiến công tác trường đảng, tạo nên bước đột phá mới trong công tác giáo dục - đào tạo cả
về nội dung và hình thức, trong đó đề cập nội dung về đào tạo đội ngũ làm công tác lý
luận, giáo dục chủ nghĩa Mác chất lượng cao.
18
- Lê Hanh Thông, Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong
hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ (qua khảo sát một số trường chính
trị trong khu vực), [149]. Luận án đã đi sâu phân tích vai trò và những nét đặc thù của
giáo dục LLCT đối với cán bộ chủ chốt cấp xã ở các tỉnh khu vực Nam bộ hiện nay.
Tác giả đã đề xuất những giải pháp tập trung đổi mới nội dung, phương pháp, hình
thức giáo dục LLCT đối với các TCT tỉnh khu vực Nam bộ trước yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới đất nước.
- Trần Hậu Thành (chủ nhiệm), Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (qua khảo sát ở một số tỉnh,
thành phố phía Bắc nước ta, [144]. Đề tài đi sâu tìm hiểu những động lực của ĐT, BD
LLCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã qua việc khảo sát, phân tích, đánh
giá thực trạng, nhu cầu ĐT, BD LLCT của đội ngũ cán bộ này. Trên cơ sở những phân
tích đó, đề tài đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu ĐT, BD
LLCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã ở nước ta hiện nay.
- Huỳnh Thanh Quang, Đào tạo cán bộ người dân tộc Khmer ở các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long, [132]. Theo tác giả, vừa qua công tác đào tạo cán bộ người Khmer
ở các tỉnh ĐBSCL còn mang tính chắp vá, hiệu quả chưa cao. Do đó, tỷ lệ cán bộ là
người dân tộc Khmer, nhất là trong cấp ủy các cấp, chưa đạt theo quy định. Tác giả đưa ra
một số giải pháp chủ yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc Khmer ở các tỉnh
ĐBSCL, trong đó đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ người dân tộc
Khmer ở các tỉnh ĐBSCL, coi trọng công tác tạo nguồn cán bộ là người dân tộc; có chính
sách ưu đãi đối với cán bộ là người dân tộc Khmer.
- Cầm Thị Lai, Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị - hành chính cho đội ngũ
cán bộ chuyên trách cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc giai đoạn hiện nay, [117]. Tác giả khẳng
định: ĐT, BD lý luận chính trị - hành chính (LLCT - HC) cho đội ngũ cán bộ chuyên
trách cấp xã các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay là quá trình trang bị kiến thức cơ bản
và cập nhật, bổ sung những kiến thức mới về LLCT - HC cho những cán bộ này, nhằm
nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành và thực thi công vụ, hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ được giao, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp
xã chuyên nghiệp, có phẩm chất và năng lực đáp ứng tốt yêu cầu phát triển KT-XH của
địa phương. Từ đó, tác giả rút ra bốn kinh nghiệm và đề cập hai giải pháp quan trọng
đẩy mạnh ĐT, BD LLCT, HC cho đội ngũ CBCX ở các tỉnh Tây Bắc đến năm
19
2020: một là, có chủ trương, chính sách và tạo môi trường thuận lợi cho công tác ĐT,
BD cho cán bộ ở các tỉnh Tây Bắc, gồm: bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ
cho công tác ĐT, BD cán bộ chuyên trách cấp xã; nâng cao chất lượng của đội ngũ
giảng viên ở các TCT tỉnh; thực hiện đồng bộ các chế độ, chính sách đối với đội
ngũ CBCX; hai là, đề cao việc tự ĐT, BD, rèn luyện của mỗi CB, CC cấp xã gồm:
đẩy mạnh phong trào tự học tập nâng cao trình độ, năng lực và rèn luyện đạo đức
cách mạng trong đội ngũ CB, CC cấp xã; phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của
đội ngũ cán bộ, đảng viên về tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện gắn với cuộc vận động
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Lê Công Quyền, Nên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo nhu cầu công
tác, [137]. Tác giả đã chỉ ra những hạn chế về công tác ĐT, BD CB, CC như: nội dung,
chương trình, hình thức và phương pháp ĐT, BD còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn
lãnh đạo, quản lý, nhất là trong lĩnh vực QLNN. Một số chương trình ĐT, BD còn nặng
về lý luận, dàn trải, thiếu sự liên thông, kế thừa, còn trùng lặp về nội dung, thiếu tính
thiết thực, chưa đi sâu vào rèn luyện kỹ năng, nghiệp vụ công tác cho CB, CC… Chính
việc ĐT, BD với những nội dung, chương trình không sát hợp đã phát sinh lãng phí,
kém hiệu quả, người học không hứng thú, vì nội dung không đáp ứng nhu cầu công
việc. Mặc dù đã được ĐT, BD, một số CB, CC vẫn còn lúng túng trong việc thực hiện
nhiệm vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành, giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt
ra còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Những nội
dung có thể tham khảo, vận dụng, kế thừa: những hạn chế, yếu kém trong công tác ĐT,
BD cán bộ gây ra nhưng hậu quả rất nghiêm trọng trong sử dụng, đánh giá cán bộ; chất
lượng cán bộ không đúng với bằng cấp yêu cầu của ĐT, BD. Giải pháp đưa ra là ĐT,
BD CB, CC cần phải xuất phát và gắn liền với nhu cầu công tác của CB, CC nhằm
khắc phục sự lãng phí, kém hiệu quả.
- Vĩnh Trọng, Sóc Trăng quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ người dân tộc
Khmer, [160]. Bài viết phản ánh, là tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer, nên công
tác củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT cơ sở nơi có đông đồng bào dân
tộc, nhất là việc xây dựng lực lượng cốt cán trong đồng bào dân tộc, xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên là người dân tộc Khmer, luôn được cấp ủy các cấp của tỉnh Sóc Trăng
quan tâm. Theo tác giả, việc đào tạo cán bộ người dân tộc Khmer cũng gặp không ít
khó khăn. Tác giả đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng ĐT, BD cán bộ là
20
người dân tộc Khmer, trong đó tập trung quan tâm xây dựng lực lượng cốt cán, thực
hiện tốt công tác quy hoạch, ĐT, BD, sử dụng cán bộ người dân tộc Khmer là nhân tố
quyết định trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về công tác dân tộc, công tác tôn giáo.
- Phạm Huy Kỳ (chủ biên), Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý luận
chính trị, [116]. Tác giả trình bày một số vấn đề lý luận chung về nghiên cứu, giáo dục
LLCT và phương pháp nghiên cứu, giáo dục LLCT. Cuốn sách nhấn mạnh vai trò của
phương pháp giảng dạy LLCT mà người giảng viên LLCT cần quan tâm nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục LLCT của Đảng. Những yêu cầu, các nguyên tắc
và phương pháp giáo dục LLCT đề cập trong cuốn sách cho tác giả nhiều gợi ý đối với
xây dựng đội ngũ giảng viên LLCT ở các TCT.
- Trần Thị Anh Đào (chủ biên), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ
làm công tác tư tưởng, [58]. Cuốn sách đã làm rõ một số nội dung, khái niệm liên
quan đến công tác tư tưởng; những yếu tố tác động đến công tác tư tưởng cũng như
giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng hiện nay. Đặc
biệt, công trình đã đề cập đến vấn đề nâng cao phẩm chất và năng lực cán bộ làm
công tác tư tưởng.
- Phạm Thị Hạnh, Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay, [84]. Trên cơ sở làm rõ bản chất,
đặc trưng, tầm quan trọng của việc nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp cơ sở và từ thực trạng trình độ LLCT cũng như công tác đào tạo nâng
cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ này, tác giả đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, trong
đó nhấn mạnh giải pháp rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức cho
đội ngũ giảng viên và chú trọng chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác
giáo dục LLCT, từng bước đổi mới, hiện đại hóa cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục LLCT.
- Trần Ngọc Hiên, Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị - những vấn
đề cần đổi mới, [85]. Tác giả đã chỉ ra những tiêu chí hợp thành chất lượng đào tạo
LLCT phù hợp: một là, chất lượng LLCT làm cơ sở cho việc soạn giáo trình giảng dạy;
hai là, chất lượng của học viên được đào tạo thành giảng viên LLCT; ba là, chất lượng
của hoạt động quản lý đào tạo giảng viên LLCT nhằm tạo ra môi trường chủ động,
21
sáng tạo, tự giác của những người học và người dạy, cũng như đánh giá chất lượng đào
tạo để kịp thời nâng cao kết quả đào tạo. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh: chất lượng các
thày, cô giáo tham gia đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến công tác đào tạo LLCT.
- Đinh Ngọc Giang, Vũ Khánh Hoàn, Công tác tuyển dụng, đào tạo cán bộ,
công chức, viên chức hiện nay, [78]. Bài viết đánh giá thực trạng công tác tuyển dụng
và đào tạo CB, CC, viên chức Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp đào tạo
CB, CC, viên chức.
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia của Đại học Sư phạm Hà Nội, Nghiên
cứu và giảng dạy lý luận chính trị trong xu thế toàn cầu hóa, [60]. Kỷ yếu kết cấu
gồm ba phần. Phần một, nghiên cứu và giảng dạy các môn LLCT hiện nay: thực trạng
và giải pháp. Các tác giả đã đánh giá những ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc
trong giảng dạy LLCT ở các trường cao đẳng, đại học hiện nay, đồng thời đề ra những
giải pháp thiết thực nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy LLCT gắn với Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng. Phần hai, nghiên cứu và giảng dạy các môn LLCT hiện
nay - những vấn đề phương pháp. Trong phần này các nhà khoa học đã đi sâu bàn về
các phương pháp nhằm đạt hiệu quả nhất trong giảng dạy LLCT trước xu thế toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế. Phần ba, nghiên cứu và giảng dạy các môn LLCT hiện
nay - những vấn đề đào tạo giảng viên. Trong phần này, các tác giả đã đưa ra những
ý kiến thiết thực bàn về vị trí, vai trò của giảng viên LLCT, những yếu tố ảnh hưởng
đến đào tạo giảng viên, xây dựng nội dung, chương trình đào tạo giáo viên, phát triển
năng lực của giảng viên theo xu thế mới hiện nay.
- Lương Ngọc Vĩnh, Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ tư tưởng đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, [197]. Tác giả đã gợi mở một số giải
pháp khắc phục những hạn chế về chất lượng đào tạo cán bộ tư tưởng: một là, định
hướng mục tiêu đào tạo sang coi trọng việc phát triển toàn diện phẩm chất và năng
lực nghề nghiệp; hai là, tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo hướng
tinh giản lý thuyết, tăng thực hành, phục vụ mục tiêu bồi dưỡng phẩm chất và kỹ năng
nghề nghiệp cho người học, ba là, ứng dụng mạnh mẽ phương pháp dạy học mới vào
quá trình đào tạo, bốn là, kiện toàn đội ngũ giảng viên đủ về số lượng và mạnh về
chất lượng, năm là, tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường và cơ quan tuyên giáo
các cấp trong đào tạo cán bộ tuyên giáo.
22
1.2.3. Những công trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hiện nay
- Huỳnh Minh Đoàn, Phương hướng xây dựng trường chính trị tỉnh ngang tầm
yêu cầu, nhiệm vụ mới, [74]. Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của TCT tỉnh Đồng
Tháp trong ĐT, BD LLCT cho đội ngũ cán bộ của tỉnh, từ đó đặt ra yêu cầu cần xây
dựng TCT tỉnh Đồng Tháp xứng đáng hơn với chức trách và nhiệm vụ được giao. Tác
giả chỉ ra những nội dung cần quan tâm: cần có quyết tâm mới, trách nhiệm mới để nâng
cao chất lượng giáo dục - đào tạo, xứng đáng vị thế của TCT. Tăng cường công tác
nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn góp phần phát triển lý luận, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới. Tập trung xây dựng trường, lớp khang trang, kiểu mẫu,
xây dựng môi trường sư phạm chuẩn mực, tiêu biểu.
- Nguyễn Thế Vịnh, Đinh Ngọc Giang (đồng chủ biên), Tiếp tục hoàn thiện
chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cơ sở, [198]. Cuốn sách đã tập trung
phân tích những vấn đề lý luận về CB, CC và chế độ, chính sách đối với CB, CC cơ
sở; thực trạng về chế độ, chính sách đối với CB, CC cơ sở; quan điểm, giải pháp hoàn
thiện chế độ, chính sách đối với CB, CC ở cơ sở.
- Lại Đức Vượng, Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng công chức hành
chính trong giai đoạn hiện nay, [200]. Luận án đã hoàn thiện khái niệm công chức
hành chính và các khái niệm liên quan tới nội dung, phương pháp QLNN về ĐT,
BD công chức hành chính. Luận án cũng đã tập trung phân tích có hệ thống về sự
hình thành và phát triển công tác ĐT, BD công chức hành chính và đánh giá thực
trạng QLNN về ĐT, BD công chức hành chính, qua phân tích đã hình thành hệ
thống số liệu để các nhà lãnh đạo và CB, CC quản lý ĐT, BD hoạch định cơ chế,
chính sách và triển khai thực hiện các nội dung QLNN về ĐT, BD công chức hành
chính. Tác giả đã đề ra những nguyên tắc, giải pháp đồng bộ để nâng cao hiệu lực,
hiệu quả QLNN về ĐT, BD công chức hành chính đáp ứng yêu cầu quản lý công
trong tình hình mới.
- Nguyễn Văn Đệ, Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học, [73]. Trên cơ
sở đánh giá thực trạng đội ngũ giảng viên và phát triển đội ngũ giảng viên các trường
đại học ở vùng ĐBSCL tác giả đã đề ra 5 nhóm giải pháp phát triển đội ngũ giảng
viên của các trường đại học ở vùng ĐBSCL đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục như:
23
một là, liên kết đội ngũ giảng viên giữa các trường đại học ở vùng ĐBSCL tạo thành
mạng lưới; hai là, phát triển số lượng đội ngũ giảng viên; ba là, nâng cao phẩm chất
và năng lực đội ngũ giảng viên; bốn là, điều chỉnh cơ cấu đội ngũ giảng viên; năm là,
tạo động lực làm việc cho đội ngũ giảng viên.
- Trần Minh Tuấn (chủ nhiệm), Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,
quản lý theo chức danh tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
[166]. Đề tài đã tập trung giải quyết các vấn đề: luận giải yêu cầu cấp thiết hiện nay
về ĐT, BD cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh; công tác ĐT, BD cán bộ lãnh
đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện từ 2005 đến nay - thực trạng và những vấn
đề đặt ra; quan điểm và những giải pháp nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD cán
bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện. Một số giải pháp cần chú ý: xác
định đối tượng và mục tiêu đào tạo; đổi mới chương trình đào tạo theo mục tiêu và
quan điểm đã xác định, phục vụ nhiệm vụ chính trị của Học viện và đáp ứng được
yêu cầu phát triển của thực tiễn; trong tổng thể chương trình ĐT, BD phải phân định
rõ các chương trình đào tạo và các chương trình bồi dưỡng; mỗi chương trình ĐT,
BD phải hướng tới một loại đối tượng xác định, phải hướng tới từng chức danh đào
tạo nhất định; chương trình ĐT, BD phải đa dạng, mang tính “mềm”; chương trình
ĐT, BD phải tiến tới theo nhu cầu của người học và sát với từng chức danh đào tạo.
Nội dung ĐT, BD cán bộ tại Học viện phải gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với
hành; hạn chế đến mức thấp nhất sự trùng lắp kiến thức không cần thiết giữa các chức
danh, các hệ lớp; phù hợp và góp phần thúc đẩy việc áp dụng phương pháp dạy và
học tích cực; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Cần tăng cường và nâng cao chất lượng mời giảng viên, báo cáo viên kiêm chức; đổi
mới quá trình dạy và học theo hướng tích cực, lấy người học làm trung tâm, nâng cao
hiệu quả ĐT, BD; hiện đại hóa công tác quản lý ĐT, BD; nâng cao chất lượng cơ sở
vật chất kỹ thuật phục vụ quá trình dạy - học; thường xuyên tiến hành công tác khảo
sát, đánh giá chương trình đào tạo và hiệu quả sau đào tạo.
- Lê Đình Lý, Chính sách tạo động lực cho cán bộ, công chức cấp xã (nghiên cứu
trên địa bàn tỉnh Nghệ An), [121]. Tác giả đã chỉ rõ những hạn chế của một số chính
sách hiện hành chưa tạo động lực cho CB, CC cấp xã. Cụ thể: một là, chính sách bố trí,
sử dụng, chưa phát huy tốt năng lực, sở trường của từng CB, CC; hai là, chính sách đánh
giá cán bộ chưa chú trọng đúng mức thành tích, kết quả công tác và mức độ hoàn thành
24
nhiệm vụ của CB, CC; ba là, chính sách đào tạo và phát triển, chưa tạo được nhiều cơ
hội cho CB, CC cấp xã được đào tạo và phát triển; bốn là, chính sách khen thưởng, chưa
căn cứ nhiều vào kết quả và thành tích công tác của CB, CC; năm là, chính sách tiền
lương chưa căn cứ vào khối lượng và chất lượng công việc thực hiện của CB, CC, mức
lương thấp; sáu là, điều kiện, môi trường làm việc chưa được quan tâm đúng mức. Những
hạn chế, bất cập của các chính sách nêu trên chính là nguyên nhân không tạo đông lực
làm việc cho CB, CC cấp xã. Một trong những giải pháp mà tác giả tập trung để tạo động
lực cho CB, CC cấp xã là phải chú trọng chính sách đào tạo và phát triển cán bộ.
- Đỗ Thị Ngọc Oanh, Quản lý bồi dưỡng nghiệp vụ hành chính cho cán bộ
chính quyền cấp xã trong bối cảnh hiện nay, [131]. Luận án đã xác định rõ được các
nội dung của quản lý bồi dưỡng nghiệp vụ hành chính cho cán bộ chính quyền cấp xã
theo quan điểm tăng cường năng lực thực hiện trong tình hình mới. Tác giả cũng chỉ
ra những yêu cầu khách quan phải đổi mới quản lý bồi dưỡng nghiệp vụ hành chính
cho chính quyền cấp xã. Luận án đánh giá thực trạng các nội dung quản lý bồi dưỡng
nghiệp vụ hành chính cho cán bộ chính quyền cấp xã, chỉ rõ những nguyên nhân của
sự yếu kém, từ đó đề xuất những giải pháp quản lý bồi dưỡng nghiệp vụ hành chính
cho cán bộ chính quyền cấp xã trong bối cảnh hiện nay theo quan điểm tăng cường
năng lực thực hiện.
- Phan Thị Thúy Vân, Thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ chủ chốt
của hệ thống chính trị phường ở khu vực Tây Nam bộ giai đoạn hiện nay, [192]. Tác
giả đề xuất,để thực hiện tốt chính sách cán bộ đối với cán bộ chủ chốt của HTCT
phường ở khu vực Tây Nam bộ đến năm 2020 cần thực hiện những giải pháp: nâng
cao chất lượng công tác nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hóa chính sách cán bộ của
Đảng, Nhà nước đối với cán bộ chủ chốt của HTCT phường ở khu vực Tây Nam
bộ; vận dụng phù hợp ba nội dung cơ bản của chính sách cán bộ đối với cán bộ chủ
chốt của HTCT phường khu vực Tây Nam bộ để giải quyết những vấn đề bức xúc,
cụ thể trong thực tiễn công tác cán bộ; phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ,
tăng cường sự phối hợp giữa các tỉnh, thành phố trong khu vực, đảm bảo sự thống
nhất trong quá trình thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ chủ chốt của HTCT
phường ở các địa phương.
- Nguyễn Văn Biết, Vượt qua thách thức, trở ngại đối với giảng viên trường
chính trị, [20]. Tác giả đã chỉ ra một số khó khăn mà giảng viên TCT phải khắc phục để
25
vượt qua trước xu thế phát triển hiện nay như: công tác lý luận chưa theo kịp thực tiễn
cuộc sống, sự vô hạn của tri thức trong thời đại bùng nổ thông tin, những giới hạn của
chính giảng viên và những bất cập của môi trường làm việc.
- Đỗ Minh Cương, Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, [55]. Tác giả
đánh giá thực trạng công tác ĐT, BD LLCT trong hệ thống trường đảng, từ đó đề ra
giải pháp đổi mới giáo dục LLCT: một là, đổi mới nhận thức về vị trí, tác dụng của
LLCT và mục tiêu công tác đào tạo LLCT; hai là, cần nghiên cứu, so sánh, xây dựng
lại chương trình đào tạo cao cấp LLCT trong bối cảnh, điều kiện mới để thực hiện có
hiệu quả hơn; ba là, đổi mới cơ chế quản lý hoạt động ĐT, BD LLCT theo nguyên tắc
chủ thể quản lý vĩ mô độc lập với chủ thể quản trị cơ sở đào tạo và chức năng quản lý
thống nhất các nhiệm vụ, chương trình đào tạo; bốn là, đổi mới phương thức ĐT, BD
theo nguyên tắc lấy người học làm trung tâm, trọng tâm của hoạt động dạy là phát triển
khả năng tự học và giải quyết vấn đề của người học; thực hiện kiểm định chất lượng độc
lập các chương trình đào tạo.
- Hội thảo khoa học quốc gia, Nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên lý luận
chính trị ở Việt Nam hiện nay, [18] với gần 100 bài tham luận của các nhà khoa học
ở Việt Nam chuyên nghiên cứu về vấn đề này. Hội thảo đã tập trung vào các vấn đề:
một là, vị trí, vai trò, phẩm chất và năng lực của đội ngũ giảng viên: các tác giả đã
làm rõ vị trí, vai trò, nhu cầu về đội ngũ giảng viên LLCT ở các cơ sở đào tạo hiện
nay, từ đó làm rõ những yêu cầu về phẩm chất và năng lực đặc thù của giảng viên
LLCT, những tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo giảng viên, các nhân tố ảnh hưởng
đến công tác đào tạo giảng viên LLCT hiện nay; hai là, thực trạng và những vấn đề
đặt ra đối với công tác ĐT, BD giảng viên LLCT hiện nay. Các bài viết về vấn đề này
đã đi sâu đánh giá thực trạng mọi mặt về hoạt động ĐT, BD giảng viên LLCT, những
hạn chế, bất cập trong nội dung, chương trình ĐT, BD, phương pháp giảng dạy,
phương thức tổ chức và quản lý cơ sở vật chất phục vụ ĐT, BD… ở các trường cao
đẳng, đại học, TCT tỉnh, thành phố hiện nay; ba là, những giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng ĐT, BD giảng viên LLCT hiện nay. Các tham luận đã bàn kỹ về quan
điểm, chủ trương, cơ chế, chính sách đối với đội ngũ giảng viên LLCT, về phẩm chất
cần có và những giải pháp thực hiện đào tạo đội ngũ giảng viên thật sự có đủ phẩm
chất và năng lực, đổi mới các nội dung liên quan đến công tác ĐT, BD giảng viên
LLCT hiện nay.
26
1.3. TỔNG QUAN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu các công trình có liên quan đề tài
Một là, về HTCT, đội ngũ cán bộ cơ sở.
Đây là vấn đề được nhiều tác giả, nhà khoa học nghiên cứu. Những công trình
đã làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn về củng cố, xây dựng hệ HTCT ở cơ sở,
về xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở. Các công trình đã nêu khái niệm HTCT, về cán bộ
cơ sở, vai trò và tầm quan trọng của củng cố, xây dựng HTCT, về tạo nguồn cán bộ
cơ sở; củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; kinh nghiệm trong xây dựng
củng cố đội ngũ cán bộ cơ sở.
Ha là, về quan điểm, chủ trương, chính sách ĐT, BD cán bộ.
Nhiều công trình đã hệ thống hóa những quan điểm, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về ĐT, BD cán bộ trong thời kỳ đổi mới, chỉ ra được sự vận
dụng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác ĐT, BD cán bộ gắn
liền với từng vùng, từng địa phương; xác định rõ sự cần thiết phải tăng cường công
tác ĐT, BD cho đội ngũ CB, CC ở cơ sở; thực hiện sự gắn kết giữa công tác ĐT, BD
với công tác quy hoạch và sử dụng từng loại CB, CC cơ sở; xây dựng cơ sở pháp lý
về ĐT, BD CB, CC của HTCT cấp xã.
Ba là, về chủ thể, chương trình, nội dung, hình thức, điều kiện cơ sở vật chất
cho công tác ĐT, BD.
Các công trình nghiên cứu đã cho thấy: các cơ sở ĐT, BD cán bộ cơ sở chủ
yếu là TCT, các trường cao đẳng, đại học, các học viện trong và ngoài khu vực. Các
chương trình tùy từng đối tượng, loại hình đào tạo có nội dung phù hợp. Nội dung
ĐT, BD CB, CC chính quyền cấp xã gồm: nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý
công tác ĐT, BD; đổi mới nội dung, chương trình ĐT, BD; tiếp tục sắp xếp và kiện
toàn hệ thống các cơ sở ĐT, BD, hình thành một mạng lưới ĐT, BD CB, CC chính
quyền cấp xã thống nhất, ổn định; xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên.
Bốn là, những kinh nghiệm trong công tác ĐT, BD cán bộ.
Các trình khoa học trong và ngoài nước, các sách, tạp chí đã đề cập rất nhiều
kinh nghiệm trong công tác ĐT, BD cán bộ. Kinh nghiệm của nước ngoài bao gồm
kinh nghiệm ĐT, BD theo chức danh; vấn đề ĐT, BD cán bộ, tiến cử, lựa chọn, bổ
nhiệm, sử dụng và nhận xét, đánh giá và quản lý cán bộ hiện nay ở Trung Quốc; kinh
27
nghiệm ĐT, BD cán bộ ở CHDCND Lào. Kinh nghiệm ĐT, BD cán bộ trong nước
được đề cập gồm: bám sát mục tiêu, đối tượng đào tạo để hoàn thiện chương trình
ĐT, BD, đặc biệt là ĐT, BD theo chức danh; đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa
học, nghiên cứu thực tiễn phục vụ cho công tác ĐT, BD; thường xuyên tiến hành
công tác khảo sát, đánh giá chương trình đào tạo và hiệu quả sau đào tạo để có những
thay đổi, cải tiến phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn; tiếp tục đổi mới
nâng cao chất lượng quản lý đào tạo. Không ngừng mở rộng quy mô ngành nghề đào
tạo với nỗ lực tự thân và tăng cường khả năng hợp tác, liên kết; đa dạng hóa loại hình
đào tạo, thường xuyên đổi mới hình thức và phương pháp đào tạo nhằm thích ứng với
nhu cầu của thực tiễn.
Năm là, những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác ĐT, BD CB, CC.
Tập trung đổi mới chương trình, nội dung, hình thức ĐT, BD cán bộ cơ sở
theo hướng phù hợp với từng chức danh cán bộ; công tác ĐT, BD phải gắn với quy
hoạch cán bộ, kết hợp với sử dụng cán bộ và quản lý cán bộ cơ sở; ĐT, BD cán bộ
phải gắn với chế độ chính sách cán bộ; xác định đúng nguồn để đưa vào quy hoạch
cán bộ; thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ cơ sở; tăng cường công tác đào tạo
cán bộ theo kế hoạch của các địa phương; phân công, bầu cử, bổ nhiệm cán bộ đúng
năng lực, sở trường sau ĐT, BD; tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cấp trên cơ
sở trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở.
Các công nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập khá nhiều vấn đề có liên quan
đến công tác ĐT, BD cán bộ. Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu có
hệ thống công tác ĐT, BD CBCX. Vấn đề đó đặt ra cho tác giả là cùng với việc kế
thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các công trình trên, phải kết hợp với việc
nghiên cứu có hệ thống những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước về ĐT, BD CBCX, đồng thời qua khảo sát thực tế, nghiên cứu thực tiễn công
tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL để thực hiện tốt đề tài “công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay”.
1.3.2. Những vấn đề cần tập trung nghiên cứu
Một là, nghiên cứu có hệ thống những luận cứ khoa học, những chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước cấp Trung ương, chủ trương của các cấp ủy đảng,
chính quyền ở ĐBCSL về công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
28
Hai là, nghiên cứu các khái niệm, vị trí, vai trò của CBCX, của công tác ĐT,
BD CBCX. Trong đó, tập trung hệ thống hóa chương trình, nội dung, hình thức ĐT,
BD CBCX ở ĐBSCL.
Ba là, chỉ ra đặc điểm của cấp xã ở ĐBSCL, đánh giá đúng thực trạng công
tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL, phân tích nguyên nhân và rút ra các kinh nghiệm về
công tác này.
Bốn là, chỉ ra những yếu tố tác động đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL
qua đó đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu góp phần tăng cường công
tác ĐT, BD CBCX xã ở ĐBSCL trong thời gian tới.
Những nội dung tiếp cận nghiên cứu của luận án hoàn toàn không trình lặp với
các công trình nghiên cứu trước đó.
29
Chương 2
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG;
CÁC XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN VÀ CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
2.1.1. Khái quát về các tỉnh, thành phố ở đồng bằng sông Cửu Long
2.1.1.1. Về đặc điểm tự nhiên
ĐBSCL là vùng đất nằm ở phần cuối của bán đảo Đông Dương, ở tây cực Nam
của Tổ quốc và được thường gọi là miền Tây Nam bộ, gồm 12 tỉnh và 01 thành phố
trực thuộc Trung ương. ĐBSCL có diện tích tự nhiên 40.816 km2
, chiếm 12,2% diện
tích tự nhiên của cả nước. ĐBSCL nằm ở hạ lưu sông Mê kông, có đường bờ biển dài
trên 740 km với khoảng 100 đảo lớn nhỏ, có 360.000 km² khu vực đặc quyền kinh tế.
Phía Tây Bắc giáp Campuchia, phía Đông Bắc tiếp giáp thành phố Hồ Chí Minh và
tỉnh Tây Ninh, phía Đông giáp biển Đông, phía Nam giáp Thái Bình Dương, phía
Tây giáp vịnh Thái Lan. Đây là vị trí thuận lợi trong việc phát triển kinh tế biển, khai
thác và nuôi trồng thủy sản phục vụ cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu.
Nằm trong tiểu vùng sông Mêkông và tiếp giáp với biển, ĐBSCL ở vị trí trung
tâm của khu vực ASEAN, thuận lợi cho giao thương quốc tế, trước hết là với đất liền
và trên biển. Vị trí địa lý thuận lợi này cùng với sự ưu đãi của thiên nhiên đã biến
BĐSCL thành vùng kinh tế nông nghiệp, vựa lúa và nông sản lớn nhất nước. ĐBSCL
là một vùng đất mang đặc điểm sinh thái đặc thù, với hệ thống sông ngòi, kinh rạch
chằng chịt, có tổng chiều đài khoảng 28.000 km, trong đó 13.000km có khả năng
khai thác vận tải, chiếm 70% chiều dài đường thủy nội địa, tạo ra một ưu thế lớn về
giao thông thủy và một ưu thế, tiềm năng trong xây dựng và phát triển các đô thị
xanh, sinh thái.
ĐBSCL là khu vực có nông - lâm nghiệp - thủy sản trù phú nhất trong hệ thống
các vùng sinh thái của đất nước ta. ĐBSCL được xem là vùng sản xuất nông nghiệp,
thủy sản lớn nhất nước, với khoảng 3,5 triệu ha chuyên canh sản xuất nông nghiệp
đang được sử dụng, chiếm 35% đất nông nghiệp cả nuớc và 1.100.000 ha có khả năng
30
nuôi trồng thủy sản, chiếm 55% diện tích này của nước ta, nên ĐBSCL có tầm quan
trọng chiến lược bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, hằng năm đóng góp khoảng
90% sản lượng gạo và trên 60% kim ngạch xuất khẩu thủysản của Việt Nam ra thị trường
quốc tế. Ngoài vai trò là vựa lúa lớn nhất của nước ta, ĐBSCL còn có thế mạnh về nhiều
loại nông sản khác, 70% sản lượng trái cây có giá trị xuất khẩu mang lợi nhuận kinh tế
cao như các loại cây ăn quả: bưởi, cam, quít, sầu riêng, xoài, nhãn, dừa, chôm chôm,
măng cụt, thanh long...
Bên cạnh đó, ĐBSCL còn giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc
phòng, an ninh, với 202,6 km biên giới trên bộ giáp Campuchia, vùng hải phận rộng
lớn tiếp giáp nhiều nước trong khu vực, kết hợp với thành phố Hồ Chí Minh, miền
Đông Nam Bộ, cực Nam Trung bộ, Nam Tây Nguyên cùng hệ thống vòng cung đảo
vả quần đảo tiền tiêu như Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du, Bà Lụa, Hải Tặc, Côn Đảo,
Trường Sa... tạo cho ĐBSCL có một vị trí chiến lược quốc phòng trong thế thuận lợi
và trọng yếu. Với đặc điểm này, sự phát triển KT-XH ở ĐBSCL là điều kiện quan
trọng đảm bảo an ninh biên giới và chủ quyền quốc gia, nâng cao tiềm lực quốc
phòng, giữ vững ổn định xã hội.
2.1.1.2. Về đặc điểm kinh tế - xã hội và dân cư
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân toàn vùng giai đoạn 2006-2016 đạt
8,1%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển địch theo hướng tích cực, năm 2016 tỷ trọng nông
- lâm - ngư nghiệp trong GDP của vùng là 36,7%; công nghiệp, xây dựng 30,4%;
dịch vụ 32,9%; xuất khẩu khoảng 6-7 triệu tấn gạo/năm. Tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu bình quân giai đoạn 2006 -2016 đạt 12,3%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt
hơn 17,2 tỷ USD; tổng vốn đầu tư toàn xã hội gần 300.000 tỷ đồng; tổng mức bán lẻ và
doanh thu dịch vụ đạt trên 600.000 tỷ đồng; thu ngân sách trên 40.000 tỷ đồng. Tốc độ
đổi mới công nghệ đạt bình quân 8-10%/năm; thu nhập bình quân đầu người năm 2016
đạt 42,5 triệu đồng, tương đương 1.950 USD.
Toàn vùng hiện có 20 khu công nghiệp và 177 cụm công nghiệp đang hoạt
động. Ðến nay, vùng ÐBSCL có hơn 53.000 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên
lĩnh vực chế biến nông, thủy sản, phát triển đô thị, giao thông vận tải, thương mại -
dịch vụ - du lịch..., giải quyết việc làm cho hơn 2 triệu người lao động. Những năm
gần đây, tốc độ thu hút các dự án FDI ở ÐBSCL tăng khá nhanh, tính đến đầu năm
2017 toàn vùng thu hút 1.205 dự án FDI với tổng vốn đăng ký khoảng 18 tỷ USD.
Thương mại, dịch vụ, du lịch, thông tin và truyền thông phát triển mạnh, đáp ứng
31
nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt hằng ngày của người dân. Kinh tế nhà nước vẫn
giữ vai trò chủ đạo, chi phối, các mặt hàng chiến lược như: ximăng, xăng dầu, phân bón...
Hạ tầng thương mại dịch vụ được các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL rất quan tâm đầu tư: hệ
thống dịch vụ bản lẻ, vận tải, du lịch; đầu tư xây dựng các chợ xã, phường, thị trấn (1.800
chợ, chiếm 21,7% tổng số chợ cả nước), các chợ đầu mối (21 chợ), 65 siêu thị và 10
trung tâm thương mại. Đã hình thành được trung tâm thương mại cấp vùng ở thành phố
Cần Thơ. Về du dịch, các tỉnh, thành phố đã chú trọng phát huy tiềm năng, thế mạnh của
từng tỉnh, thực hiện tốt sự liên kết chặt chẽ với thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam trong việc khai thác, phát huy lợi thế vùng sông nước, phát triển
đa dạng, phong phú các loại hình du lịch sinh thái, sông nước miệt vườn; đầu tư tạo ra
nhiều tuyến, điểm du lịch mới, thực hiện liên kết tỉnh, thành để phát triển du lịch cũng
như các dịch vụ thương mại, kinh tế khác. Những địa điểm du lịch được đầu tư phát triển
như: Ninh Kiều (thành phố Cần Thơ); Phú Quốc, Hà Tiên (Kiên Giang); Đất Mũi, Hòn
Đá Bạc (Cà Mau); Điện Gió, Nhà Mát (Bạc Liêu); Chùa Dơi, Chùa Đất Sét, Chùa Chén
Kiểu (Sóc Trăng); tuyến du lịch Sóc Trăng - Côn Đảo... đã góp phần làm thay đổi nhanh
chóng cơ cấu du lịch, dịch vụ trong vùng.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng có bước phát triển. Toàn vùng cơ bản hoàn
thành mục tiêu xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lụt, các đô thị được
đầu tư, nâng cấp ngày càng khang trang, hiện đại. Hạ tầng giao thông có nhiều chuyển
biến rõ nét đã góp phần giảm ách tắc giao thông liên vùng, liên tỉnh. Hệ thống giao
thông quanh đảo, xuyên đảo, tuyến quốc lộ 1A - trục chính Bắc - Nam, sân bay Cần
Thơ, sân bay Phú Quốc (Kiên Giang), cảng Cần Thơ, cảng biển Sóc Trăng, Trà Vinh,
Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang đều được tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp ngày
càng hiện đại, đáp ứng bước đầu phát triển và ổn định kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc
phòng, an ninh toàn vùng.
ĐBSCL có số dân 17,66 triệu người, chiếm gần 22% dân số cả nước, trong đó
có khoảng 1,3 triệu người dân tộc Khmer. Ở vùng này hình thành rõ nét các cộng
đồng dân cư, trong đó dân tộc Kinh chiếm số đông, cùng với dân tôc Khmer, Hoa,
Chăm sinh sống lâu đời, hình thành cộng đồng các dân tộc với những nét văn hóa
đặc thù của vùng sông nước. Đồng thời, đồng bào các dân tộc ở BĐSCL cùng chung
sống lâu đời, nên có sự giao thoa về văn hóa, có sự lai chủng về dân tộc, vay mượn
và sử dụng lẫn nhau về tiếng nói. Ở ĐBSCL có các tôn giáo như: Đạo Phật (Nam
32
Tông và Bắc Tông); Công giáo, Tin Lành, Islam, ngoài ra còn có nhiều tôn giáo khác
như: Cao Đài, Hòa Hảo... và nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian khác. Ở ĐBSCL,
các tập tục, lễ hội, lễ nghi tôn giáo, tín ngưỡng không ảnh hưởng, tác động bất lợi tới
việc tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước,
nhân dân có ý thức tôn trọng pháp luật cao. Nhân dân trong vùng có truyền thống cách
mạng kiên cường qua các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo ở khu
vực ĐBSCL cao, năm 2006 là 18,2%. Được sự quan tâm của Trung ương, các tỉnh,
thành phố trong khu vực đã thực hiện rất thành công chiến lược xóa đói, giảm nghèo:
năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 8,9%, đến cuối năm 2014 còn 5,48%, đến cuối năm
2015 tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng giảm còn khoảng 3,54% (cả nước còn dưới 4,5%).
Trong đó, có 8/13 tỉnh, thành phố trong vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp (dưới 5%); một
số tỉnh có mức giảm tỷ lệ hộ nghèo đạt cao như Sóc Trăng (khoảng 4,5%), Bạc Liêu
(khoảng 4,5%), Trà Vinh (khoảng 3,3%).
Đồng bào các dân tộc ở ĐBSCL có truyền thống văn hóa đặc sắc, độc đáo,
hình thành nên cốt cách, phong cách văn hóa ứng xử đặc trưng của người dân Nam
bộ. Nét nổi bật trong đời sống văn hóa của nhân dân vùng ĐBSCL là văn hóa của
đồng bào Khmer.
Giáo dục - đào tạo và dạy nghề là lĩnh vực có sự quan tâm đầu tư góp phần đưa
trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực của vùng phát triển. Đã thành lập mới và
mở rộng, nâng cấp nhiều trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, các cơ sở
đào tạo nghề. Trường Đại học Cần Thơ là trường trọng điểm quốc gia cấp vùng. Cuối
năm 2015 có 100% xã, phường, thị trấn đã hoàn thành xong phổ cập trung học cơ sở;
xây dựng, sửa chữa mới 25.300 phòng học, không còn tình trạng học ba ca. Đối với
các tỉnh, huyện có đông đồng bào Khmer điều có trường dân tộc nội trú. Công tác dạy
nghề có bước tiến bộ, đặc biệt là thực hiện nghiêm túc Quyết định số 1956/QĐ-TTg
ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ về “phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đến năm 2020” và Quyết định 1033/QĐ-TTg ngày 30-6-2011 của Thủ
tướng Chính phủ “về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông
Cửu Long giai đoạn 2011-2015”. Trong thời gian qua, hệ thống dạy nghề vùng ĐBSCL
đã hình thành mạng lưới đa dạng, với tổng số 364 cơ sở. Đặc biệt, 119/131 đơn vị cấp
huyện có cơ sở dạy nghề công lập đóng trên địa bàn. Công tác xã hội hóa dạy nghề
33
cũng được đẩy mạnh, với 39 cơ sở dạy nghề ngoài công lập, chiếm 22,16%; có nhiều
mô hình dạy nghề đa dạng, sáng tạo như dạy nghề tại các doanh nghiệp, dạy nghề tại
các khu công nghiệp… Trong giai đoạn 2011-2015, tổng số tuyển sinh học nghề là
1.238.643 người, trong đó cao đẳng nghề là 29.120 người (chiếm 2%), trung cấp nghề
là 58.917 người (chiếm 5%), sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng là 1.150.606 người
(chiếm 93%), số lao động nông thôn học nghề là 794.147 người. Tỷ lệ lao động qua
đào tạo nghề của vùng năm 2015 ước đạt 35,2%, đã tăng so với năm 2010 (23,5%).
Năm 2016 đã giải quyết việc làm cho hơn 400.000 lao động, trong đó có 110.000 lao
động nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số.
Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân thời gian qua đã đạt được những
kết quả rất quan trọng. Các tỉnh, thành phố trong khu vực có 92 bệnh viện đa khoa
tuyến huyện, 14 bệnh viện đa khoa khu vực, 17 bệnh viện đa khoa tỉnh, 37 bệnh viện
chuyên khoa, trong đó có 21 bệnh viện phục vụ các chuyên ngành hiếm gồm: lao,
phong, tâm thần, giải phẫu bệnh và pháp y. Riêng khối y tế dự phòng, cả vùng có 135
trung tâm y tế huyện; 103 trung tâm y tế trực thuộc tỉnh và các tỉnh, thành phố trong
vùng đều có trung tâm giám định pháp y và pháp y tâm thần. Đến 2016, tỷ lệ trạm y
tế có bác sĩ, y tác phục vụ đạt 100%. Hộ nghèo, gia đình có công, người dân sống
vùng khó khăn, xã bãi ngang, xã nghèo, xã đảo đều được hỗ trợ 100% bảo hiểm y tế.
Có thể khẳng định rằng: giáo dục - đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm, xóa
đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày được chú trọng, đời sống nhân
dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số Khmer, Chăm, được cải thiện rõ nét.
Các hoạt động văn hóa - xã hội được tổ chức với nhiều hình thức, nội dung
phong phú. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở
khu dân cư”, cuộc vận động “Toàn dân tham gia thực hiện chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới” ngày càng thiết thực, hiệu quả. Công tác đền ơn,
đáp nghĩa, thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng, các chính sách
an sinh xã hội được chú trọng thực hiện và đem đến kết quả rất tốt. Thông qua nhiều
hình thức vận động khác nhau, các tỉnh, thành phố như: Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc
Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp... đã huy động nguồn lực từ xã hội đóng góp hàng chục
nghìn tỷ đồng để giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.
HTCT ở các địa phương trong vùng ĐBSCL được củng cố và có sự đổi mới
trong nội dung, phương thức hoạt động, góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH, giữ
34
vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, ĐBSCL vẫn còn những hạn chế, yếu kém
cần khắc phục:
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn
thấp, yếu tố rủi ro còn cao, chưa tương xứng tiềm năng của vùng. Nông nghiệp có
lợi thế, nhưng công tác quy hoạch cụ thể các vùng chuyên canh sản xuất lúa cao sản,
chất lượng cao, nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn trái, các mặt hàng nông sản... thực
hiện còn chậm; chưa khai thác tốt tiềm năng thế mạnh của vùng về mặt hàng nông,
thủy sản, chưa tạo được nhiều thương hiệu. Nền nông nghiệp chưa thật sự chuyển
sản sản xuất lớn, điều đó rủi ro cao, bị sự đe dọa của biến đổi khí hậu và nước biển
dâng. Quy mô công nghiệp nhỏ, giá trị gia tăng thấp; công nghiệp chế tác cơ khí phục
vụ nông nghiệp và công nghiệp công nghệ cao chưa phát triển. Các doanh nghiệp
trong vùng hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP
của khu vực còn thấp. Thu hút đầu tư chưa nhiều, nhất là đầu tư nước ngoài... Về
thương mại, dịch vụ, du lịch, hệ thống các trung tâm thương mại hiện đại còn hạn
chế, hệ thống phân phối, bán lẻ hiện đại chỉ mới đáp ứng 25% nhu cầu tiêu dùng của
người dân ở ĐBSCL.
Kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi vẫn còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển. Một số công trình trọng điểm về giao thông, bến cảng, sân bay như:
tuyến cao tốc Trung Lương (Tiềng Giang) - Cần Thơ; tuyến đường sắt thành phố Hồ
Chí Minh - Mỹ Tho (Tiền Giang); cầu Đại Ngãi vượt sông Hậu nối liền quốc lộ 60,
giữa hai tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng; cảng biển Đại Ngãi, Hòn Chông; nâng cấp sân
bay quốc tế Cần Thơ... chưa được tập trung đầu tư xây dựng đúng mức và kịp thời.
Giáo dục - đào tạo, dạy nghề, văn hóa - xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém so
với các vùng, miền khác. Chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo ở ĐBSCL vẫn còn
nhiều yếu kém, chất lượng nguồn nhân lực chưa đạt yêu cầu. Tỷ lệ đầu tư cho giáo
dục - đào tạo và dạy nghề còn thấp, nếu bình quân cả nước hơn 570 nghìn dân có một
trường đại học thì ở ÐBSCL hơn 1,5 triệu dân mới có một trường đại học. Cơ sở vật
chất, đội ngũ cán bộ, giảng viên ở một số trường đại học, cao đẳng mới thành lập
không bảo đảm, chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo. Có tới 45% số người từ 15 tuổi trở
lên ở địa bàn nông thôn vùng ÐBSCL không hoàn thành cấp học nào, 32,87% tốt
nghiệp tiểu học, 13,51% tốt nghiệp trung học cơ sở và 5,43% tốt nghiệp trung học
35
phổ thông. Sinh viên đại học và sau đại học của toàn vùng cũng chỉ chiếm hơn 4%
dân số ở độ tuổi từ 20 đến 24. Trang thiết bị đầu tư cho dạy nghề thiếu thốn, lạc hậu,
giáo viên thiếu về số lượng, chất lượng chưa cao, chủ yếu dạy nghề ngắn hạn. Tỷ lệ
lao động chưa qua đào tạo chiếm 83,25%, trong khi đó tỷ lệ chung cả nước 74,6% và
ÐBSCL xếp thứ bảy trong số tám vùng, miền. Xuất khẩu lao động chưa đạt kế hoạch
cả về số lượng và thu nhập.
Xây dựng HTCT còn nhiều hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục. Năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng ở ĐBSCL còn yếu kém;
công tác lãnh đạo ở một số nơi còn lúng túng về phương thức và nội dung, chỉ đạo
thiếu tập trung, dàn trải, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, nhất là công tác quản
lý kinh tế, quản lý xã hội. Hiệu lực và hiệu quả QLNN chưa cao; kỷ luật, kỷ cương
chưa nghiêm; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan và cơ sở từng lúc, từng nơi
còn hình thức. Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp
không cao, vẫn còn tình trạng hẫng hụt cán bộ. HTCT cơ sở ở ĐBSCL nhìn chung
còn một số yếu kém. Việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là người
dân tộc thiểu số trong HTCT còn một số bất cập.
2.1.2. Quan niệm, đặc điểm cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long
* Quan niệm về cấp xã
Khoản 1, Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc
trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương
đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành
phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
do Quốc hội thành lập [Error! Reference source not found., tr. 36].
Điều 2 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
1. Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);
3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
36
4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt [136, tr. 7-8].
Theo phân cấp hành chính thì cấp xã (bao gồm xã, phường, thị trấn) là cấp
cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp (Trung ương, tỉnh, huyện, xã). Cấp xã
được xác định là cấp cơ sở, chính vì thế, khi nói đến cấp cơ sở ở địa phương là muốn
nói đến cấp xã.
Tương ứng với mỗi đơn vị hành chính ở địa phương được quy định như trên
là một cấp chính quyền (gọi là chính quyền địa phương) được thành lập nhằm thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước ở địa phương; thực hiện chức năng cai quản
và phục vụ của Nhà nước ở một vùng lãnh thổ nhất định.
Cấp xã là đơn vị hành chính cuối cùng gần dân nhất, trực tiếp quản lý các mặt
đời sống của xã hội.
* Đặc điểm của cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long
Các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL có 134 đơn vị hành chính cấp huyện (102 huyện,
13 thị xã, 14 thành phố thuộc tỉnh và 5 quận), có 1.624 đơn vị hành chính cấp xã (1.293
xã, 211 phường, 120 thị trấn). Trong số đó có 36 xã, 05 thị trấn, 44 phường thuộc 05
quận; 52 xã, 95 phường thuộc 14 thành phố thuộc tỉnh; 74 xã, 43 phường thuộc thị xã;
119 thị trấn, 1.143 xã thuộc huyện. Trong số xã hiện có 93 xã đặc biệt khó khăn vùng
bãi ngang ven biển và hải đảo, 50 xã giáp biên giới Campuchia.
Một là, cấp xã ở ĐBSCL được hình thành qua nhiều giai đoạn lịch sử, có sự
pha trộn tính dòng tộc.
Sau năm 1945, danh xưng cấp hành chính kỳ được đổi thành bộ. Như vậy, Nam
Kỳ chính thức được đổi thành Nam Bộ cho đến nay và lúc bấy giờ được chia thành 3
khu vực nhỏ hơn: Đông Nam bộ, Trung Nam bộ và Tây Nam bộ (vùng ĐBSCL). Sau
năm 1956, các làng được gọi là xã, khi đó các đơn vị hành chính trực thuộc trong
một tỉnh được phân chia, sắp xếp như sau: dưới tỉnh là quận, dưới quận là tổng, dưới
tổng là xã, dưới xã là ấp. Sự phân chia, sắp xếp này được duy trì, thực hiện ở cả vùng
nông thôn lẫn thành thị. Từ năm 1962, chính quyền bỏ dần, đến năm 1965 thì bỏ hẳn
cấp tổng, các xã trực tiếp thuộc các quận. Sau ngày 30-4-1975, bỏ tên gọi đơn vị hành
chính quận, gọi là huyện (quận và phường dành cho các đơn vị hành chính là thành phố
trực thuộc Trung ương, thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh).
Sự hình thành khóm, khu dân cư (trừ ấp trước đây đã có) thuộc xã, phường, thị
trấn trong thời kỳ đổi mới đất nước, trong khi đó các tỉnh miền Trung và miền Bắc gọi
37
là làng, thôn, bản, tổ, khu. Sau năm 1954, việc di dân từ miền Bắc vào miền Nam rất
nhiều. Trong khi đó, ĐBSCL là vùng đất trù phú, giàu tiềm năng thuận lợi cho làm ăn
kinh tế, trong giai đoạn mới đã không ít người ở miền Bắc, miền Trung vào làm ăn
kinh tế. Điều đó đã hình thành sự pha trộn, tính chặt chẽ dòng tộc của người dân ở
ĐBSCL không như trước. Chính vì thế, sự ảnh hưởng của tính dòng tộc trong đội ngũ
CBCX ở ĐBSCL ít so với ở những vùng khác.
Hai là, quá trình CNH, HĐH ở ĐBSCL diễn ra chậm, tính chuyên canh nông
nghiệp vẫn là chủ đạo.
So với các vùng miền khác trong cả nước, ở khu vực ĐBSCL quá trình CNH,
HĐH, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi diễn ra còn chậm. Tỷ lệ hộ
gia đình ở ĐBSCL mang tính chuyên canh nông nghiệp vẫn lớn, canh tác hộ gia đình
là phổ biến, gắn liền tài sản là ruộng, vườn, ao, hồ để hoạt động nông nghiệp, thủy
sản. Làm ăn kinh tế nông nghiệp, thủy sản mang tính rủi ro cao, không ổn định, giá
cả bấp bênh, nhất là trong cơ chế thị trường. Tình trạng “được mùa rớt giá” diễn ra
trong nhiều năm.
Ba là, cấp xã ở ĐBSCL là cấp cuối cùng trong HTCT 4 cấp của Đảng và Nhà
nước, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức đảng, chính quyền cấp xã là
cấp gần dân nhất, sát dân, trực tiếp lãnh đạo, quản lý, chăm lo, giải quyết các vấn đề
liên quan đến lợi ích chính của nhân dân.
Mặc dù hiện nay dưới cấp xã có tổ chức khóm, ấp, tổ dân phố, khu dân cư…,
song đây không phải là một cấp hành chính độc lập, hoàn chỉnh, có ngân sách, con
dấu cũng như tư cách pháp nhân riêng, mà chỉ là tổ chức tự quản trong cộng đồng
dân cư; các trưởng khóm, ấp, tổ dân phố là cầu nối giữa Đảng, chính quyền, đoàn thể
với người dân.
Cấp xã là nơi tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển KT-XH, giữ vững ổn định chính trị. Đồng
thời, đây là nơi bắt nguồn cung cấp các sáng kiến, kinh nghiệm góp phần điều chỉnh,
bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách; phát hiện rõ nét nhất cái đúng,
cái sai, sự thành công hay thất bại của mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.
Bốn là, CBCX ở ĐBSCL chịu tác động mạnh mẽ của các yếu tố dân tộc, tôn giáo.
Đây là nét đặc thù ở ĐBSCL - nơi có nhiều đơn vị xã, phường, thị trấn có đông
đồng bào Khmer (như ở Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang); đông đồng bào Hoa (Sóc
38
Trăng, Kiên Giang); nơi có nhiều người theo đạo (An Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Sóc
Trăng, Trà Vinh). Vì vậy, phải căn cứ tình hình cụ thể của từng địa phương mà xây
dựng đội ngũ CBCX cho phù hợp về cơ cấu dân tộc, tôn giáo, tạo được sức mạnh tổng
hợp, hoạt động có hiệu quả của HTCT cấp xã.
Năm là, ở ĐBSCL còn nhiều địa phương cấp xã thuộc diện khó khăn.
Hiện tại, toàn vùng vẫn còn 93 xã khó khăn, 50 xã giáp biên giới. Những xã này
thiếu thốn về nhiều mặt, nhất là đường giao thông, bị thâm nhập mặn, sạt lở đất, ngập
nước… Vì thế, việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh gắn liền
với củng cố HTCT, xây dựng đội ngũ CBCX gặp không ít trở ngại.
Sáu là, cấp xã ở ĐBSCL chịu ảnh hưởng rất lớn hậu quả của chiến tranh để lại.
Nơi đây kẻ thù xây dựng hệ thống bộ máy cai trị chặt chẽ, đồ sộ, trở thành lực
lượng đối lập với nhân dân ta. Sống trong vùng địch kiểm soát hoặc đan xen giữa ta
và địch trong thời gian dài, nên có một bộ phận nhân dân tham gia hoặc ít hoặc nhiều
với chế độ cũ, thậm chí trong một dòng họ, gia đình vừa có người tham gia cách
mạng, vừa có người tham gia bộ máy ngụy quân, ngụy quyền. Sau ngày miền Nam
được giải phóng, công tác cán bộ cấp xã ở ĐBSCL gặp không ít khó khăn về vấn đề
lịch sử chính trị của cán bộ.
2.1.3. Cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long
2.1.3.1. Quan niệm về cán bộ cấp xã
Từ “cán bộ” được du nhập vào nước ta từ Trung Quốc và được dùng phổ biến
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Lúc đầu, từ cán bộ được dùng nhiều trong quân
đội để phân biệt với chiến sĩ. Từ cán bộ dùng để chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ
huy từ tiểu đội phó trở trên. Dần dần, từ cán bộ được dùng để chỉ tất cả những người
hoạt động kháng chiến thoát ly gia đình để phân biệt với nhân dân.
Theo Từ điển Từ Hải của Trung Quốc, từ cán bộ được giải thích là: xuất phát
từ một từ tiếng Pháp được dịch sang tiếng Nhật… (như vậy, từ này do người Nhật sử
dụng đầu tiên, chuyển sang Trung Quốc rồi vào Việt Nam). Trong Từ điển Nhật -
Việt, từ cán bộ cũng được dùng tương tự như ở Trung Quốc, có nghĩa là ở hạng cao
(trong một đoàn thể), là yếu nhân (nhân vật quan trọng)..., nghĩa là từ cán bộ ở Nhật
trung thành nhiều hơn với từ gốc mà nó được dịch ra (cadre). Trong tiếng Pháp cũng
như tiếng Anh, từ này có nhiều nghĩa. Tựu trung có hai nghĩa chủ yếu được chuyển
vào từ cán bộ của Nhật, Trung Quốc và Việt Nam: nghĩa thứ nhất là cái khung (ảnh),
39
cái khuôn; nghĩa thứ hai là người nòng cốt, những người chỉ huy trong quân đội, trong
một tổ chức làm thành một nòng cốt.
Cũng như hiện tượng chung của ngôn ngữ, từ cán bộ khi du nhập vào nước ta
đã được áp dụng theo thực tiễn tâm lý - văn hóa Việt Nam, nên đã biến đổi không còn
nguyên như nghĩa gốc, tuy nhiên cái hàm nghĩa “bộ khung”, “người làm nòng cốt”,
“người chỉ huy” vẫn được lưu giữ.
Ở nước ta, theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất cả những người
làm việc trong bộ máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể, lực lượng vũ trang.
Trong Từ điển Tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là: người làm công tác nghiệp
vụ chuyên môn trong cơ quan đảng, nhà nước và đoàn thể; người làm công tác có chức vụ
trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ.
Cho đến nay, từ cán bộ đã được dùng nhiều nghĩa khác nhau:
Trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa: một là,
dùng để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, quản lý, chỉ huy từ cấp cơ
sở đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt đảng viên thường, đoàn viên, hội
viên; hai là, những người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ
chức đảng, nhà nước và đoàn thể.
Trong hệ thống cơ quan nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản là trùng với từ
công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc lĩnh vực hành chính,
tư pháp, kinh tế, văn hóa - xã hội… Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là những người
có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó phòng, ban, vụ, cục…).
Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có khác
nhau, nhưng về cơ bản, từ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó: là nòng cốt, là chỉ huy.
Như vậy, có thể quan niệm một cách chung nhất, “cán bộ là khái niệm chỉ những
người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng
đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành,
góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức” [158, tr. 20].
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX “về đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn” nêu rõ:
Hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và cán bộ không
chuyên trách:
Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động
làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm:
40
- Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử gồm: cán bộ chủ chốt của cấp ủy đảng,
hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, những người đứng đầu ủy ban Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Cán bộ chuyên môn được ủy ban nhân dân tuyển chọn gồm: công an trưởng,
xã đội trưởng, cán bộ văn phòng, địa chính, tài chính - kế toán, tư pháp, văn
hóa - xã hội. Số lượng cán bộ chuyên trách do Chính phủ quy định.
Cán bộ không chuyên trách là những người chỉ tham gia việc công trong
một phần thời gian lao động [62, tr.178].
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 xác định:
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó bí thư đảng ủy, người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội [134, tr. 3].
Chức vụ, chức danh và số lượng của CBCX được Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày
22-10-2009 của Chính phủ quy định cụ thể như sau:
- CBCX có các chức danh, chức vụ sau đây:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
+ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
+ Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
+ Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn
có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân
Việt Nam);
+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
- Số lượng cán bộ, công chức cấp xã được bố trí theo loại đơn vị hành
chính cấp xã; cụ thể như sau:
+ Cấp xã loại 1: không quá 25 người;
+ Cấp xã loại 2: không quá 23 người;
+ Cấp xã loại 3: không quá 21 người [47, tr.2].
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định:
Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân xã.
41
+ Ủy ban nhân dân xã gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên phụ trách quân
sự, Ủy viên phụ trách công an.
+ Ủy ban nhân dân xã loại I có không quá hai Phó Chủ tịch; xã loại II và
loại III có một Phó Chủ tịch [136, tr. 3].
Do trên thực tế, thường bí thư hoặc phó bí thư đảng ủy cấp xã đồng thời là chủ
tịch HĐND cấp xã, nên CBCX có 11 chức danh. Tùy đặc điểm của từng xã, nếu là xã
loại 2 hoặc loại 3 thì số lượng CBCX giữ các chức danh trên có khác nhau.
2.1.3.2. Vai trò của cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long
Thứ nhất, CBCX là người giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng và hoạt động
của HTCT cấp xã.
CBCX là người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu tổ chức đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và tổ chức chính trị - xã hội cấp xã. CBCX là người
có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có vai trò ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ
chức bộ máy, làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất
định; được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ
máy, có vai trò tham gia định hướng lớn, điều khiển hoạt động của bộ máy thực hiện
chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về lĩnh vực
công tác được giao. Chất lượng hiệu quả hoạt động của các tổ chức này phụ thuộc rất
lớn vào việc phát huy phẩm chất, năng lực của CBCX.
Thứ hai, CBCX là người trực tiếp thực hiện và vận hành cơ chế “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” ở cơ sở.
CBCX xã là người trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng; trực tiếp tổ
chức thực hiện QLNN trên các lĩnh vực đời sống xã hội ở cơ sở về kinh tế, văn hóa, y
tế, giáo dục, quốc phòng, an ninh; trực tiếp thực hiện dân chủ ở cơ sở xã phường, thị
trấn, phát huy dân chủ trực tiếp của nhân dân; phối hợp hoạt động của các tổ chức trong
HTCT ở cấp xã để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. CBCX là những người tiên phong trong các phong trào cách
mạng, là hình mẫu, tấm gương sáng lôi cuốn nhân dân, cổ vũ, động viên nhân dân tham
gia các phong trào cách mạng. Đội ngũ CBCX là nơi tin cậy, chỗ dựa vững chắc để
nhân dân an tâm tăng gia sản xuất, vì vậy họ là những người nòng cốt gương mẫu trong
việc xây dựng HTCT ở cơ sở;
Thứ ba, CBCX là “cầu nối” giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính
quyền, tổ chức chính trị - xã hội cấp trên.
42
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cấp xã là gần dân nhất, là nền tảng của
hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi. Các CBCX trực tiếp
tuyên truyền, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước, đồng thời họ cũng là chủ thể trực tiếp nắm bắt và phản
ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với Đảng. Các đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước có đi vào cuộc sống của nhân dân hay
không phần rất lớn và quyết định nhờ vào đội ngũ CBCX. Các CBCX là người trực
tiếp chăm lo đời sống nhân dân. Trực tiếp và thông qua đội ngũ cán bộ không chuyên
trách (bí thư chi bộ, trưởng ấp, tổ trưởng dân phố, công an viên khóm, ấp, tổ dân phố),
CBCX nắm được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện
chính sách xã hội ở địa phương.
Thứ tư, CBCX là người đại diện cho ý chí, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân ở địa phương.
Hơn ai hết, CBCX là người có lợi thế am tường các hoạt động và cuộc sống
của người dân nhất. Phần đông CBCX là những người cùng địa phương, được sinh
ra và lớn lên trên quê hương mình, là người có cùng tiếng nói, phong tục tập quán,
tín ngưỡng, tôn giáo với người dân. Là những người con của nhân dân, nên CBCX
nắm được sâu sắc những tâm tư, tình cảm, lối sống, ý chí, nguyện vọng và tập tục của
người dân. Hơn nữa, các CBCX là những người có uy tín, năng lực giỏi được tổ chức
đảng, nhân dân lựa chọn, giới thiệu, bầu ra để đại diện cho ý chí và bảo vệ quyền lợi
chính đáng của nhân dân.
Thứ năm, CBCX ở ĐBSCL có vai trò to lớn trong việc xây dựng khối đại đoàn
kết các dân tộc ở địa phương.
Các CBCX là hiện thân của các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn
giáo, các lứa tuổi, các giới, của các hoạt động văn hóa - xã hội, hoạt động tương thân,
tương ái, tương trợ giúp đỡ nhau trong cộng đồng các dân tộc cùng chung sống, tạo
nên một khối đoàn kết vững chắc ở các địa phương có nhiều dân tộc anh em cùng
sinh sống.
2.1.3.3. Đặc điểm của cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long
Tổng số xã, phường, thị trấn ở ĐBSCL là 1.624. Thực hiện theo quy định về
việc cơ cấu đội ngũ cán bộ ở cấp xã, đồng thời tùy theo đặc điểm của từng loại đơn
vị xã, phường, thị trấn cũng như việc bố trí, sắp xếp vị trí các chức danh, mà mỗi đơn
vị có số lượng, cơ cấu không giống hệt nhau.
43
Tổng số đội ngũ CBCX ở ĐBSCL là 16.984 người, trong đó có 1.611 bí thư
đảng ủy, 1.664 phó bí thư đảng ủy, 290 chủ tịch HĐND, 1.437 phó chủ tịch HĐND,
1.482 chủ tịch UBND, 2.601 phó chủ tịch UBND; 1.609 chủ tịch ủy ban MTTQ,
1.611 bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, 1.615 chủ tịch Hội Liên hiệp
phụ nữ, 1.564 chủ tịch Hội Nông dân, 1.500 chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
Có 3.713 cán bộ nữ, 697 cán bộ là người dân tộc thiểu số, tuổi đời bình quân:
18-35 có 5.435 người, chiếm 32%; 36-55 có 9.511 người, chiếm 56%; 56-60 có 2.039
người, chiếm 12%. Có 95% CBCX có trình độ học vấn tốt nghiệp trung học phổ thông.
Về trình độ chuyên môn, có 89% đạt trình độ cao đẳng, đại học, có 2,6% đạt trình độ
sau đại học, số còn lại có trình độ trung cấp hoặc sơ cấp. Về trình độ LLCT, có 7,1%
trình độ sơ cấp, 77,1% trình độ trung cấp và 15,8% trình độ cao cấp. Có 82% CBCX
có chứng chỉ tin học, có 76% có chứng chỉ ngoại ngữ.
Nhìn tổng thể đội ngũ CBCX ở ĐBSCL, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số,
nhất là dân tộc Khmer, so với tổng số CBCX còn ít. Vẫn còn có cán bộ chưa tốt
nghiệp phổ thông trung học (chiếm khoảng 5%), 8,4% cán bộ còn ở trình độ chuyên
môn trung cấp, sơ cấp. Trên thực tế, nhiều cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ đạt chuẩn,
nhưng được bố trí chưa đúng ngành nghề.
Ngoài những đặc điểm chung của CBCX ở các địa phương khác trong cả nước,
CBCX ở ĐBSCL có một số đặc điểm đáng chú ý.
Một là, CBCX ở ĐBSCL giàu truyền thống cách mạng, nhưng tâm lý, phong
cách, lề lối làm việc chưa ổn định.
Cấp xã ở ĐBSCL giàu truyền thống cách mạng, đây là cái nôi của tinh thần
chống giặc bất khuất, nhân dân cần cù, chịu khó. Phần lớn đội ngũ CBCX ở ĐBSCL
là người địa phương ít nhiều ảnh hưởng giá trị tốt đẹp này, có một số ít CBCX hiện
tại đã được tôi luyện và trưởng thành trong kháng chiến, đây là một trong những yếu
tố thuận lợi đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCX. Là người địa phương,
nên CBCX nắm chắc các điều kiện tự nhiên, KT-XH, văn hóa, phong tục tập quán ở
địa bàn, thuận lợi trong công tác, từ việc nắm bắt tình hình tư tưởng và tiến hành
công tác tư tưởng, tiến hành công tác dân vận đến các công tác khác góp phần quan
trọng thay đổi mọi mặt đời sống của người dân sở tại. Song, là người địa phương,
nên trong công việc có lúc, có nơi những quan hệ làng xóm, họ hàng còn chi phối
nhất định, làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công việc của CBCX.
Bên cạnh đó, nhiều CBCX còn chịu những tác động về tâm lý, cách tư duy,
44
phong cách, lề lối làm việc của tiểu nông. Đa số CBCX ở ĐBSCL sinh ra và lớn lên ở
một vùng sản xuất nhỏ, manh mún, đã dần dần hình thành trong cư dân vùng ĐBSCL
cách nghĩ, tầm nhìn và phong cách làm việc của người sản xuất nhỏ, nặng về kinh
nghiệm, thủ công. Đã qua hơn 30 năm đổi mới, nhưng tư duy, tầm nhìn, phong cách
làm việc của phần đông CBCX vẫn chưa thay đổi cho phù hơp với tình hình mới.
Hai là, trình độ, năng lực của đội ngũ CBCX ở ĐBSCL còn hạn chế so với yêu
cầu chuẩn hóa cán bộ, một số còn biểu hiện tâm lý ngại học tập, nâng cao trình độ.
Đội ngũ CBCX ở ĐBSCL được đánh giá là “vùng trũng” về trình độ LLCT,
chuyên môn nghiệp vụ so với các vùng khác của cả nước. Trong quá trình hội nhập
quốc tế sâu, rộng, thời kỳ hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, thời kỳ thế giới đang
chuyển mình mạnh mẽ sang nền công nghiệp 4.0, nhưng đội ngũ CBCX ở ĐBSCL
chưa có sự chuyển biến để tiếp cận, bổ sung tri thức, nâng tầm tư duy. Hoàn cảnh tự
nhiên, xã hội đã tạo cho con người ở ĐBSCL những tính cách riêng như sự ôn hòa,
ổn định, an phận..., vì thế CBCX nơi đây còn tâm lý thỏa mãn với vốn kiến thức kinh
nghiệm, ngại học tập, tiếp cận tri thức, kỹ năng mới.
Về năng lực thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn còn thấp, chưa có tính chuyên
nghiệp, phần lớn thiếu khả năng độc lập, quyết đoán trong giải quyết công việc, thụ
động trong thực thi các nhiệm vụ; thiếu khả năng bao quát tình hình, đồng thời chậm
thích ứng với nhiệm vụ mới. Đa số cán bộ, công chức cơ sở chưa có khả năng tư duy,
dự báo, xây dựng chương trình kế hoạch, thiếu khả năng nghiên cứu, tổng hợp tình
hình, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; tinh thần hợp tác, phối hợp công việc còn nhiều
hạn chế, nên hiệu quả công tác không cao.
Ba là, ngoài hoạt động công vụ, CBCX ở ĐBSCL còn gắn chặt với hoạt động
làm ăn kinh tế gia đình.
Đa số CBCX ở ĐBSCL đều có gắn chặt với kinh tế gia đình, trong đó phần đông
làm nông nghiệp, thủy sản. Họ vừa là người cán bộ lãnh đạo, quản lý của HTCT cơ sở,
quyết định đến hiệu quả hoạt động của hệ thống, nhưng họ cũng là ông chủ giữ vai trò
quyết định đến kết quả làm ăn kinh tế của gia đình. Xét mặt thành quả, một bộ phận
CBCX có kinh tế gia đình tương đối ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để họ an tâm công
tác, hoàn thành tốt vai trò, chức trách, nhiệm vụ của mình. Mặt khác, việc tập trung
nhiều vào làm ăn kinh tế của gia đình cũng ảnh hướng không ít đến công tác của họ.
Tuy nhiên, trong điều kiện làm ăn kinh tế, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản,
tuy có nhiều thành công, nhưng thất bại cũng không ít, do giá cả bấp bênh, thua lỗ, mất
45
mùa, thậm chí mất trắng (nhất là nuôi trồng thủy sản). Điều đó tác động không nhỏ đến
hoạt động công vụ hằng ngày của CBCX, có những CBCX nợ nần, thậm chí bỏ việc.
2.2. ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG VÀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - KHÁI NIỆM,
CHƯƠNG TRÌNH, NỘI DUNG, HÌNH THỨC VÀ VAI TRÒ
2.2.1. Khái niệm, chương trình, nội dung, hình thức đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long
2.2.1.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
* Khái niệm đào tạo cán bộ
Đào tạo là khái niệm được xác định là quá trình biến đổi hành vi con người
một cách có hệ thống thông qua việc học tập và rèn luyện. Việc học tập này có được
là kết quả của việc giáo dục, hướng dẫn, phát triển và lĩnh hội kinh nghiệm một cách
có kế hoạch. Đào tạo là quá trình cung cấp và tạo dựng khả năng làm việc cho người
học, hoặc - nói cách khác - là huấn luyện và giáo dục một cách có kế hoạch, có sự
kết hợp trong các lĩnh vực khoa học chuyên ngành như: chính trị, kinh tế, khoa học
kỹ thuật, hành chính hay các lĩnh vực khác, nhằm nâng cao kết quả thực hiện công
việc của cá nhân, tổ chức và giúp họ hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu công tác.
Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên định nghĩa: Đào tạo là “dạy
dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp, đào tạo thành người có
tri thức, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ” [203, tr. 593]. Theo Đại từ điển Tiếng Việt
của Trung tâm Từ điển ngôn ngữ Hà Nội, “đào tạo” được hiểu là “dạy dỗ, rèn luyện
để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp” [162, tr. 593]. Từ điển Tiếng Việt do
Viện Ngôn ngữ học chủ biên, định nghĩa đào tạo là: “làm cho trở thành người có năng
lực theo những tiêu chuẩn nhất định” [195, tr. 289].
Điều 5, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ về ĐT,
BD CB, CC định nghĩa: “Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những
tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học” [48, tr. 2].
Dưới góc độ giáo dục học, đào tạo là quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch, có phương pháp đến tâm lý, nhân cách con người, nhằm giáo dục, rèn luyện
những phẩm chất nhân cách đảm bảo cho con người có khả năng thực hiện hiệu quả
những hoạt động nghề nghiệp nhất định. Đào tạo là trang bị những những kiến thức cơ
bản, kỹ năng mới và có tính hệ thống cho đối tượng đào tạo.
46
Đào tạo cán bộ là một công việc đào tạo con người chuyên biệt. Đó là quá
trình tác động đến những người đang làm việc cho một cơ quan, tổ chức, nhằm làm
cho họ lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng cần thiết một cách có hệ
thống, chú trọng về phương pháp luận đảm bảo cho người đó có thể đảm nhận và
hoàn thành tốt những nhiệm vụ, công vụ được cơ quan, tổ chức giao phó. Ở Việt
Nam, ĐT, BD cán bộ được xác định là một trong những công cụ đặc biệt quan trọng,
một khâu trong công tác cán bộ của Đảng. Đảng ta xác định công tác ĐT, BD cán bộ
là một trong những giải pháp đặc biệt quan trọng trong chiến lược xây dựng đội ngũ
cán bộ trong tình hình mới.
Đào tạo là quá trình trang bị một cách có hệ thống kiến thức cơ bản theo một
chương trình có mục tiêu nhất định, nhằm hình thành và phát triển các tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, nghề nghiệp của mỗi cá nhân. Đào tạo được xem là quá trình làm cho
người ta trở thành có năng lực theo tiêu chuẩn nhất định và có khả năng nhận được
một sự phân công lao động. Quá trình đào tạo, tùy theo mỗi cấp học và mục tiêu đào
tạo, phải có một chương trình, nội dung và thời gian tương ứng, cuối khóa học, nếu
người được học đáp ứng những yêu cầu thì được cấp bằng tốt nghiệp.
Đào tạo cán bộ một cách cơ bản thường được thực hiện một lần, với thời gian
ít nhất phải tương xứng với một năm học và thường được tổ chức chặt chẽ, tập trung.
Đối tượng là những cán bộ chưa được đào tạo cơ bản. Chương trình đào tạo phải đảm
bảo cho người được đào tạo có được kiến thức một cách cơ bản, hệ thống để sau đó
có thể tiếp tục bổ sung, cập nhật các kiến thức chuyên sâu hơn ở các khóa bồi dưỡng.
Văn bản chứng minh hoàn thành khóa học là văn bằng (sơ cấp, trung cấp, cao cấp, cử
nhân, thạc sĩ, tiến sĩ).
* Bồi dưỡng cán bộ
Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý (chủ biên) định nghĩa: Bồi dưỡng: 1. Làm
khỏe thêm, mạnh thêm, bồi dưỡng sức khỏe. 2. Làm cho tốt hơn, giỏi hơn, bồi dưỡng đạo
đức, bồi dưỡng nghiệp vụ [203, tr. 191]. Theo Đại từ điển tiếng Việt, bồi dưỡng là: “làm
cho tốt hơn, giỏi hơn” [162, tr. 191]. Theo Từ điển tiếng Việt, “bồi dưỡng” được hiểu là:
“làm cho tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất” [195, tr. 82].
Điều 5 Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ về ĐT,
BD CB, CC đã nêu rõ: “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến
thức, kỹ năng làm việc”; “bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức, kỹ
năng hoạt động theo chương trình quy định cho ngạch công chức”; “bồi dưỡng theo
47
vị trí việc làm là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để làm
tốt công việc được giao” [48, tr. 2].
Như vậy, giống như đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ cũng là quá trình tác
động đến tâm lý, nhân cách của người cán bộ, làm cho họ tốt hơn về đạo đức và giỏi
hơn về năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Xét một cách tổng quát thì khái niệm “đào
tạo cán bộ” bao hàm cả ý nghĩa “bồi dưỡng cán bộ”, vì vậy cụm từ “ĐT, BD cán bộ”
thường được sử dụng trong thực tế.
Tuy nhiên, bồi dưỡng cán bộ có những đặc điểm cơ bản khác với đào tạo: bồi
dưỡng cán bộ chủ yếu là bổ sung, cập nhật kiến thức, thông tin vào những tri thức
mà cán bộ đã có. Nội dung bồi dưỡng chủ yếu hướng vào những quan điểm, chủ
trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, cập nhật nhưng kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ. Hình thức bồi dưỡng đa dạng, linh hoạt: có bồi dưỡng nâng cao, cập
nhật, chuyên sâu theo chức danh; có bồi dưỡng nhiều lần, hằng năm và khi hoàn thành
được cấp chứng nhận. Thời gian bồi dưỡng cán bộ trong thực tế thường trong khoảng
một vài tuần đến một vài tháng. Hình thức bồi dưỡng cán bộ có thể được tổ chức một
cách mềm dẻo hơn, thậm chí trong một số hoàn cảnh không nhất thiết phải tập trung
(ví dụ như thông qua việc cung cấp tài liệu, sách vở hoặc những lời chỉ dẫn… cho
người được bồi dưỡng).
Có thể nói, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, tuy là hai khái niệm khác nhau, nhưng
nó cùng một mục đích chung là làm cho cán bộ có phẩm chất, năng lực công tác tốt.
Tóm lại, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là quá trình nhằm trang bị cho đội ngũ
cán bộ những phẩm chất, kiến thức, kỹ năng, hành vi cần thiết để thực hiện tốt nhất
chức trách, nhiệm vụ được giao.
Đối với đội ngũ CB, CC, ĐT, BD được xác định là một nhiệm vụ thường
xuyên, có ý nghĩa quan trọng, góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên
môn, năng lực công tác, chất lượng và hiệu quả làm việc của CB, CC; hướng tới mục
tiêu tạo được sự thay đổi về chất trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn. Nghị định số
18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ về ĐT, BD CB, CC nhấn mạnh: “đào
tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý là trang bị kiến thức, kỹ
năng, phương pháp làm việc theo chương trình quy định cho từng chức vụ lãnh đạo,
quản lý” [48, tr. 2].
Mục tiêu ĐT, BD cán bộ là trang bị những kiến thức và kỹ năng cơ bản, bổ
sung kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý theo yêu cầu cụ thể của từng chức
48
danh trong từng thời kỳ phát triển xã hội, nhằm nâng cao năng lực của cán bộ, xây
dựng đội ngũ cán bộ thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; trung thành với chế độ XHCN,
tận tụy với công vụ; có trình độ quản lý tốt, đáp ứng yêu cầu của việc kiện toàn và
nâng cao hiệu quả của bộ máy QLNN; tiếp tục thực hiện một cách có chất lượng và
hiệu quả chương trình cải cách hành chính nhà nước.
Đồng thời, ĐT, BD cán bộ phải theo tiêu chuẩn của từng ngạch công chức và chức
danh cán bộ quản lý đã được Nhà nước ban hành, nhằm khắc phục về cơ bản những hạn
chế, hẫng hụt hiện nay để thực thi công vụ, bảo đảm yêu cầu công việc và tạo nguồn nhân
lực thường xuyên cho các cơ quan nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu cơ bản
của công tác ĐT, BD cán bộ là: “Trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện
nhiệm vụ, công vụ. Góp phần xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp có đủ năng lực
xây dựng nền hành chính tiên tiến, hiện đại” [48, tr. 1].
Việc ĐT, BD cán bộ cần được tiến hành trên cơ sở khoa học, trước hết là cơ sở
khoa học tâm lý và giáo dục. Do vậy, bồi dưỡng có thể áp dụng với mọi đối tượng cán
bộ, nhưng đào tạo diễn ra thuận lợi, hiệu quả hơn nếu cán bộ ở độ tuổi dưới 40.
Từ các khái niệm nêu trên có thể quan niệm: ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL là quá
trình trang bị kiến thức cơ bản và cập nhật, bổ sung những kiến thức mới về LLCT,
quản lý hành chính nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tác nghiệp cho những
CBCX nhằm nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành và thực thi
công vụ, hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, từng bước xây dựng đội ngũ
CBCX chuyên nghiệp, có phẩm chất và năng lực đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của
địa phương.
2.2.1.2. Chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở
đồng bằng sông Cửu Long
* Chương trình ĐT, BD CBCX
Đặc trưng của ĐT, BD là thường được tổ chức học tập theo hệ thống chương
trình nhất định theo quy định, nhằm làm cho người học nắm được một cách cơ bản,
hệ thống những vấn đề cốt lõi kiến thức về LLCT; về QLNN; về kỹ năng, chuyên
môn nghiệp vụ. Các chương trình ĐT, BD cho đội ngũ CBCX hiện nay gồm:
Chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền cấp
trên cơ sở (hệ cao cấp lý luận LLCT - HC). Chương trình này chỉ dành cho chức danh
bí thư, phó bí thư đảng ủy, chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp xã trở lên.
49
Chương trình đào tạo, cán bộ lãnh đạo quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn
thể nhân dân cấp cơ sở (hệ trung cấp LLCT - HC).
Các chương trình bồi dưỡng cho các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
cơ sở (bồi dưỡng các chức danh: bí thư, phó bí thư đảng ủy; chủ tịch, phó chủ tịch
HĐND; chủ tịch, phó chủ tịch UBND; chủ tịch ủy ban MTTQ, trưởng người đứng
đầu các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã).
Chương trình bồi dưỡng LLCT theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước để thực
hiện tiêu chuẩn hóa CB, CC.
Chương trình bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ công tác đảng, chính quyền, tổ chức
chính trị - xã hội.
Chương trình bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới.
Chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đối tượng 3, 4.
* Nội dung ĐT, BD CBCX
Tùy theo đối tượng, nhu cầu thực tế của cơ sở mà nội dung ĐT, BD sẽ được
cụ thể đối với từng loại cán bộ, với chương trình cụ thể, nhằm trang bị những kiến
thức phù hợp vị trí, chức năng, nhiệm vụ và phương thức công tác của cán bộ đảm
bảo tính thiết thực, phù hợp, đồng thời chú trọng cả bồi dưỡng, rèn luyện về phẩm
chất đạo đức cán bộ, tạo thành mối liên hệ mật thiết giữa lý luận và thực tiễn, bồi
dưỡng kiến thức cơ bản và kỹ năng thực hành. Ví dụ: đối cán bộ lãnh đạo, quản lý
cần trang bị những kiến thức về quan điểm, đường lối, chính sách chung của Nhà
nước và của cấp ủy đảng ở các tỉnh ĐBSCL, những kiến thức chung về QLNN, pháp
luật, kinh tế, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh, các kỹ năng quản lý… Đối với
đội ngũ cán bộ làm công tác đoàn thể cần thường xuyên được bồi dưỡng về kỹ năng
thực hành, cách thức vận động nhân dân, giữ vai trò hạt nhân đoàn kết…
Theo Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt đề án ĐT, BDCB, CC, viên chức giai đoạn 2016-2025, nội dung ĐT, BD
CBCX được cụ thể như sau:
Nội dung đào tạo
Đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học cho CB, CC cấp xã phù hợp với
điều kiện và yêu cầu phát triển của từng vùng, miền [153, tr. 4 - 5].
Đào tạo trình độ LLCT hệ trung cấp theo khung chương trình do Học viện
CTQG Hồ Chí Minh ban hành. Theo Quyết định số 484/2002/QĐ-HVCTQG ngày
50
11-12-2002 của Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh về chương trình đào tạo cán
bộ lãnh đạo Đảng, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở, thời gian đào tạo là 12 tháng, khi đó
tên gọi là chương trình đào tạo trung cấp LLCT. Thực hiện Quyết định số 184-
QĐ/TW ngày 03-9-2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về chức năng,
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
và Thông báo Kết luận số 181-TB/TW ngày 03-9-2008 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng (khóa X) về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của trường chính trị cấp
tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, Giám đốc Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện CTQG Hồ Chí Minh) đã ban hành
Quyết định số 1845/QĐ-HVCT-HCQG ngày 29-7-2009 về việc ban hành Chương
trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp
cơ sở (gọi là chương trình trung cấp LLCT-HC) thời gian thực học là 8 tháng, với
1756 tiết. Ngày 21-4-2014 Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh ký Quyết định
số 1479/QĐ-HVCTQG về việc ban hành chương trình đào tạo trung cấp LLCT-HC,
thời gian thực học là 6 tháng, với 1.056 tiết. Sau đó, ngày 14-7-2016 Giám đốc Học
viện CTQG ban hành Quyết định số 3136/QĐ-HVCTQG điều chỉnh bổ sung chương
trình đào tạo trung cấp LLCT-HC, tăng thêm 100 tiết.
Chương trình đào tạo trung cấp LLCT về sau được mở rộng hơn so với trước đó,
các môn học, các chuyên đề hướng đến nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở và chương
trình mới, trong đó đưa thêm cả mảng kiến thức lý luận, quan điểm đường lối, về kỹ
năng công tác đảng, chính quyền, đoàn thể, kỹ năng lãnh đạo quản lý ở cơ sở.
Chương trình đào tạo cao cấp LLCT do Học viện CTQG Hồ Chí Minh ban
hành và thực hiện. Việc đào tạo cao cấp LLCT khu vực ĐBSCL từ năm 2006 đến nay
do Học viện Chính trị khu vực II và Học viện Chính trị khu vực IV đảm nhiệm. Các
tỉnh ủy ở ĐBSCL đã thực hiện quy trình quy hoạch các bộ các cấp để đào tạo đạt trình
độ cao cấp LLCT. Đối với CBCX được đưa đi đào tạo cao cấp LLCT gồm có học tập
trung và học tại chức là những cán bộ giữ chức vụ bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó
chủ tịch UBND.
Chương trình đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng, trung cấp là khung chương
trình đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, gắn liền với chuyên ngành phù hợp.
Khi tiến hành đào tạo, đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải tuân thủ nội dung và khung
chương trình.
51
Nội dung bồi dưỡng
Theo Nghị định số 101/2007/NĐ-CP, ngày 01-9-2017 của Chính phủ, nội
dung bồi dưỡng gồm: “1. Lý luận chính trị; 2. Kiến thức quốc phòng và an ninh; 3.
Kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước; 4. Kiến thức quản lý chuyên ngành, chuyên
môn, nghiệp vụ; đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; kiến thức hội nhập quốc tế;
5. Tiếng dân tộc, tin học, ngoại ngữ” [52, tr. 5].
Bồi dưỡng LLCT: bồi dưỡng trình độ LLCT theo tiêu chuẩn quy định cho CB,
CC cấp xã; cập nhật nội dung các văn kiện, nghị quyết của Đảng; cập nhật, nâng cao
trình độ LLCT theo quy định.
Bồi dưỡng kiến thức QLNN: bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng QLNN theo tiêu
chuẩn chức danh công chức; tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; cập nhật kiến thức,
kỹ năng, phương pháp quản lý chuyên ngành; kiến thức, phương pháp thực hiện
nhiệm vụ, công vụ được giao; cập nhật kiến thức pháp luật, văn hóa công sở, nâng
cao ý thức đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng
- an ninh theo các chương trình quy định cho CB, CC, viên chức; cập nhật và nâng
cao kiến thức, năng lực hội nhập quốc tế.
Bồi dưỡng kiến thức tin học, ngoại ngữ theo tiêu chuẩn quy định; tiếng dân tộc
cho CB, CC, viên chức công tác tại vùng có đồng bào DTTS sinh sống.
Tóm lại, nội dung ĐT, BD CBCX đã được xác định; khi tiến hành công tác ĐT,
BD, các cơ sở ĐT, BD phải sát với thực tiễn, cụ thể; phải phù hợp với vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của từng chức danh, chú trọng kết hợp ĐT, BD theo mục tiêu, chương trình
cần ĐT, BD với từng nhóm chức danh CBCX theo đúng tiêu chuẩn chức danh đề ra.
2.2.1.3. Hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã
Để phù hợp với điều kiện khách quan và yêu cầu chủ quan, các khóa ĐT, BD
cần được tổ chức theo các hình thức khác nhau, phù hợp với yêu cầu, tính chất, độ
tuổi, trình độ yêu cầu công việc và chuẩn hóa của từng nhóm đối tượng CBCX, cơ sở
vật chất của mỗi địa phương, đảm bảo tiến độ, chất lượng, hiệu quả của công tác ĐT,
BD CBCX.
* Các hình thức đào tạo CBCX
Một là, đào tạo tập trung. Đây là hình thức mà theo đó các học viên phải đến
học tập trung tại cơ sở đào tạo; thực hiện đầy đủ các nội quy, quy định của trường,
thực hiện chế độ học tập không phải tham gia bất kỳ hoạt động chuyên môn nào tại
52
cơ sở. Hình thức đào tạo này thường được áp dụng cho các lớp bồi dưỡng là chủ yếu
và áp dụng đối với các lớp đào tạo trung cấp LLCT, trung cấp LLCT - HC, trung cấp
LLCT - HC và nghiệp vụ.
Hai là, đào tạo vừa làm, vừa học. Đây là quá trình học tập gắn liền với quá trình
làm việc tại cơ sở như ngày đi làm, tối đi học hoặc sáng đi làm, chiều đi học, một tháng
tập trung một đợt. Hình thức này thường được áp dụng ở các đại học phối hợp với các
cơ sở đào tạo mở tại tỉnh, thành phố, các lớp cao cấp LLCT, trung cấp LLCT- HC; các
lớp trung cấp LLCT - HC gắn với các trung cấp nghiệp vụ. Bên cạnh đó với sự phát triển
mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện nay đã xuất hiện các hình thức mở lớp đào tạo từ
xa. Tuy nhiên với các hình thức học tập từ xa không được các cấp ủy chú trọng cử CBCX
đi học, vì chất lượng không cao.
Gần đây, việc đào tạo sau đại học đối với CBCX được chú trọng, góp phần
nâng cao kiến thức, tầm tư duy, rèn luyện kỹ năng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn ở cơ sở. Tuy nhiên, CBCX phải hội đủ các điều kiện mới tham gia các lớp đào
tạo như: thời gian công tác, độ tuổi, cam kết, đào tạo đúng vị trí việc làm.
* Các hình thức và loại hình bồi dưỡng CBCX
Hình thức bồi dưỡng CBCX
Điều 15 Nghị định số 101/2017/NĐ-CP quy định:
1. Tập sự
2. Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp viên chức.
3. Bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý.
4. Bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
chuyên ngành bắt buộc hàng năm (thời gian thực hiện tối thiểu là 01 tuần/01 năm;
một tuần được tính bằng 05 ngày học, một ngày học 08 tiết) [52, tr. 5].
Loại hình bồi dưỡng CBCX
Một là, bồi dưỡng tập trung. Thông thường là các lớp ngắn ngày, có thời gian
từ 1 đến 5 ngày. Đó là các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng; các lớp cập nhật kiến
thức, các lớp học tập triển khai nghị quyết, dự án, chương trình… Ngoài ra còn có
các lớp bồi dưỡng tập trung dài ngày (5 đến 10 ngày). Đây là những lớp bồi dưỡng
bổ sung, cập nhật các kiến thức mới, chương trình mới như: các lớp bồi dưỡng theo
chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở; bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ công
tác đảng, chính quyền, đoàn thể…
53
Hai là, bồi dưỡng bán tập trung, thời gian trên 10 ngày cho đến 3 tháng. Đó là
những lớp bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở; bồi dưỡng chương
trình chuyên viên, chuyên viên chính; kiến thức quốc phòng và an ninh dành cho đối
tượng 3... để chuẩn hóa cán bộ.
* Về phương pháp ĐT, BD CBCX
ĐT, BD CBCX là một hoạt động giáo dục mang tính đặc thù. Về đối tượng, ĐT,
BD chủ yếu cho các cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức, đã kinh qua những công việc
nhất định, có trình độ, kiến thức, có kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Nội dung
chương trình rất rộng, dành cho nhiều đối tượng CBCX: đào tạo LLCT - HC, quản lý hành
chính nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ; bồi dưỡng cập nhật kiến thức
mới, quản lý hành chính nhà nước, kiến thức quốc phòng, an ninh, các nghiệp vụ chuyên
môn. Do vậy, phương pháp ĐT, BD CBCX cũng mang tính đặc thù, mang tính tích cực:
kết hợp linh hoạt các phương pháp giảng dạy, tiếp tục phát huy những ưu điểm của pháp
giảng dạy truyền thống kết hợp với “phương pháp tích cực, phát huy tính tự giác, chủ động
và tư duy sáng tạo của người học, tăng cường trao đổi thông tin, kiến thức và kinh nghiệm
giữa giảng viên với học viên và giữa các học viên” [52, tr. 11].
Nếu ĐT, BD theo hệ đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo được coi là đào tạo
cơ bản, yêu cầu đặt ra là phải học nhiều về lý thuyết cơ sở, thì ĐT, BD CBCX đòi hỏi
phải tăng cường việc hướng dẫn học viên tự học, tự nghiên cứu, tự đọc giáo trình
trước khi lên lớp nghe giảng; phải viết thu hoạch, tiểu luận, khóa luận như một trong
những nội dung bắt buộc trong hoạt động ĐT, BD. Hoạt động này diễn ra ở các lớp
đào tạo chuyên môn, LLCT - HC và các lớp bồi dưỡng. Các chủ đề là những vấn đề
thực tiễn, những tình huống trong lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Thông qua viết thu hoạch,
tiểu luận, khóa luận rèn luyện cho các học viên các kỹ năng viết báo cáo, cách tổng
hợp, phân tích, đánh giá, đề xuất các phương án giải quyết một vấn đề cụ thể của thực
tiễn công tác đặt ra.
Đối với CBCX, phương pháp ĐT, BD phải gắn chặt lý thuyết, quan điểm lý
luận với hoạt động thực tiễn ở cơ sở, phương pháp và kỹ năng giải quyết các tình
huống cụ thể trong lãnh đạo, quản lý, điều hành. Khích lệ học viên tích cực tham gia
trao đổi, thảo luận, nhưng cũng phải dành thời gian nhất định để họ suy ngẫm, không
áp đặt, nóng vội. Phương pháp giảng dạy, dẫn dắt vấn đề chậm rãi, rõ ràng, kết hợp
giảng dạy trên lớp với khảo sát thực tế, trao đổi kinh nghiệm từ cơ sở. Đây cũng chính
là quan điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: học phải đi đôi với hành, lý
54
luận phải gắn liền với thực tiễn. Người nói: “Học lý luận không phải để nói mép, nhưng
biết lý luận mà không thực hành là lý luận suông. Học là để áp dụng vào làm. Làm mà
không áp dụng thì khác nào đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp, vừa vấp váp. Có lý
luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng,
làm cho đúng” [124, tr. 357].
Ngoài ra, việc ĐT, BD CBCX còn gồm việc tự đào tạo, tự bồi dưỡng, tự rèn
luyện thông qua việc tự nghiên cứu, tự suy ngẫm, tự tìm hiểu học tập ở chính những
người chung quanh, ở những cán bộ lão thành có nhiều kinh nghiệm, từ những tình
huống xảy ra trong thực tiễn.
2.2.2. Khái niệm, nội dung và vị trí vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long
2.2.2.1. Khái niệm, mục tiêu, chủ thể, đối tượng của công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long
* Khái niệm công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL
Công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL là toàn bộ hoạt động của các cấp ủy đảng,
các tổ chức trong HTCT, các đơn vị ĐT, BD và cá nhân có liên quan tham gia vào
các hoạt động trong lĩnh vực ĐT, BD nhằm nâng cao trình độ LLCT, chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý, phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách
công tác của CBCX đáp ứng tốt nhất yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cấp xã.
* Mục tiêu của công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL
Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ xác định mục
tiêu chung của ĐT, BD CB, CC, VC là:
Trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động
công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp
phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm
chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ
nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước [52, tr. 2].
Theo đó, mục tiêu ĐT, BD cho đội ngũ CBCX ở ĐBSCL là tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả ĐT, BD, góp phần xây dựng đội ngũ CBCX chuyên
nghiệp, có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự
nghiệp phát triển của địa phương, đất nước và hội nhập quốc tế. Cụ thể là: xây dựng hệ
thống thể chế thống nhất, đồng bộ cho công tác ĐT, BD CBCX phù hợp với điều kiện ở
ĐBSCL và yêu cầu của đất nước; hệ thống cơ chế khuyến khích CBCX học tập và tự
55
học để không ngừng nâng cao trình độ, năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao.
Tổ chức hệ thống quản lý và các cơ sở ĐT, BD CBCX khoa học, phù hợp với mục tiêu,
yêu cầu nhiệm vụ ĐT, BD. Tổ chức ĐT, BD nâng cao năng lực hoạt động thực hiện
nhiệm vụ của đội ngũ CBCX.
* Chủ thể công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL
Chủ thể lãnh đạo:
Các tỉnh ủy, thành ủy ở ĐBSCL - căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị của Trung
ương, thực tiễn đội ngũ CBCX - xây dựng nghị quyết, chương trình, đề án…; chỉ đạo
các ban, ngành, đoàn thể, các cấp ủy cấp huyện trong tỉnh, thành phố triển khai các
bước tiếp theo trong công tác ĐT, BD cán bộ: khảo sát, xác định nhu cầu, đối tượng
CBCX cần ĐT, BD; nắm vững năng lực tổ chức ĐT, BD của các TCT tỉnh, thành
phố; xác định nguồn kinh phí phục vụ, hỗ trợ...
Các huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy ở ĐBSCL cụ thể hóa nghị quyết của
các tỉnh ủy, thành ủy mình trực thuộc, chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành có liên quan
ở cấp huyện và các cấp ủy cấp xã xây dựng kế hoạch ĐT, BD CBCX.
Cấp ủy xã, phường, thị trấn xem xét nhu cầu, xét duyệt đối tượng cán bộ cần
ĐT, BD báo cáp cấp ủy cấp trên và trực tiếp tham gia ĐT, BD CBCX, đồng thời
động viên, quản lý cán bộ thực hiện nhiệm vụ ĐT, BD.
Chủ thể thực hiện là các cơ quan, tổ chức, ban, ngành các cấp tham gia công tác
ĐT, BD cán bộ dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, gồm:
Ban tuyên giáo; các cơ sở ĐT, BD (TCT tỉnh, thành phố); TTBDCT và ban tuyên
giáo huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong việc xây dựng đội ngũ giảng viên,
báo cáo viên; tổ chức các lớp học theo chương trình, nội dung, kế hoạch ĐT, BD hằng
năm đã đề ra.
Ban tổ chức, ban tuyên giáo cấp ủy các cấp, sở nội vụ, phòng nội vụ tham
mưu cho cấp ủy, UBND cấp mình trong việc ban hành các quyết định lãnh đạo, chỉ
đạo, thực hiện công tác ĐT, BD, đồng thời hướng dẫn cấp ủy cấp dưới triển khai
các quyết định về công tác này của cấp trên.
Đảng ủy xã, phường, thị trấn trực tiếp cử cán bộ tham gia ĐT, BD theo yêu
cầu để cấp ủy cấp huyện quyết định.
Chủ thể tham gia gián tiếp:
BCHTW, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng - căn cứ vào yêu cầu
của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn cụ thể - để ra các nghị quyết, chỉ thị, kết
56
luận chuyên đề về công tác xây dựng đội ngũ CB, CC, trong đó có công tác ĐT, BD
CBCX. Nghị quyết, chỉ thị xác định quan điểm, phương hướng, mục tiêu cũng như trách
nhiệm của các cấp, các ngành trong HTCT đối với công tác này.
Thủ tướng Chính phủ, chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện - với sự tham mưu
của cơ quan nội vụ các cấp (bộ, sở, phòng) - cụ thể hóa nghị quyết của Trung ương
Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện thành các đề án, chương
trình, kế hoạch ĐT, BD cụ thể, trong đó có mục tiêu, đối tượng, nội dung, loại hình,
số lớp, kinh phí…
Học viện CTQG Hồ Chí Minh - căn cứ đối tượng đào tạo - xây dựng chương
trình, nội dung ĐT, BD LLCT; định kỳ từng giai đoạn có tổng kết, đánh giá và sửa đổi,
bổ sung chương trình, nội dung ĐT, BD cho phù hợp với thực tiễn và phù hợp với từng
loại hình đối tượng cần ĐT, BD; tổ chức biên soạn giáo trình trung cấp LLCT, bồi dưỡng
giảng viên các TCT tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Cán bộ Ủy ban MTTQ và ban chấp hành các tổ chức chính trị - xã hội các cấp
ở địa phương tham gia bồi dưỡng cho CBCX.
* Đối tượng công tác ĐT, BD
Đối tượng đào tạo là những CBCX đương chức nhưng chưa đạt chuẩn trình độ
về LLCT - HC và những cán bộ diện quy hoạch CBCX và cấp cao hơn. Đối với
trường hợp cán bộ diện quy hoạch CBCX và cấp cao hơn tiến hành đào tạo khung
chương trình trung cấp LLCT - HC và cao cấp LLCT. Đào tạo chuyên môn nghiệp
vụ đối với những cán bộ chưa có bằng cấp đạt chuẩn, hoặc đào tạo bổ sung đối với
những cán bộ đã có bằng cấp, nhưng chuyên môn không đúng vị trí việc làm. Việc
đào tạo CB, CC thực hiện theo quy định của pháp luật về giáo dục và đào tạo, phù
hợp với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đáp ứng quy hoạch nguồn nhân lực của đơn vị.
Chú trọng đào tạo CBCX “là người dân tộc thiểu số hoặc công tác tại các xã miền
núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” [52, tr. 2].
Đối tượng bồi dưỡng là mọi đối tượng CBCX đã đạt chuẩn hay chưa đạt chuẩn
theo quy định, nhưng cần được bổ sung, cập nhật các kiến thức mới, các kỹ năng cụ
thể trong thực tiễn làm việc. Thực hiện tốt công tác ĐT, BD các chức danh CBCX
theo Quy định số 164-QĐ/TW ngày 01-02-2013 của Bộ Chính trị, quy định về chế
độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và Quyết
57
định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt đề án
ĐT, BD CB, CC, viên chức giai đoạn 2016 - 2025.
2.2.2.2. Nội dung công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng
sông Cửu Long
Một là, xây dựng chủ trương, kế hoạch ĐT, BD CBCX.
Xây dựng chủ trương, kế hoạch ĐT, BD là một trong những nội dung quan
trọng, mang tính chất quyết định trong công tác ĐT, BD. Xây dựng chủ trương, kế
hoạch chính là thiết kế cho một tương lai mong muốn và cách thức có hiệu quả để
thực hiện; là sự phát họa cách sử dụng các nguồn lực, thời gian và sự cố gắng thực
hiện những gì mong muốn. Xây dựng kế hoạch là sự tìm tòi, nghiên cứu, dự đoán trước
những gì sẽ xảy ra và tập trung mọi biện pháp cố gắng tiếp cận hợp lý tới mục tiêu đã đề
ra từ trước. Đó là việc quyết định xem mỗi tổ chức, cơ quan, cá nhân phải làm gì, làm
như thế nào, làm ở đâu và bao giờ thì hoàn thành.
Chủ trương ĐT, BD cán bộ là những những quyết định của Đảng, Nhà
nước về phương hướng hoạt động ĐT, BD cán bộ. Kế hoạch ĐT, BD cán bộ là việc
Đảng, Nhà nước và các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xác định phương hướng,
nhiệm vụ, chỉ tiêu, biện pháp tiến hành ĐT, BD cán bộ. Kế hoạch ĐT, BD cán bộ
chính là sự cụ thể hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước trong chủ trương về ĐT, BD
cán bộ phù hợp về thời gian, đặc điểm tình hình cụ thể của từng địa phương, cơ quan
đơn vị. Kế hoạch ĐT, BD cán bộ thường được xây dựng cho từng thời gian nhất định
theo niên hạn như: kế hoạch dài hạn (5 năm, 10 năm, 20 năm…); kế hoạch trung hạn
(2-3 năm), kế hoạch ngắn hạn (1 năm, 6 tháng, quý). Thông thường, xây dựng kế
hoạch ĐT, BD có các nội dung: xác định mục đích, mục tiêu; xác định các nguồn lực;
xác định các hoạt động, các chương trình, các khóa ĐT, BD; xác định thời gian thực
hiện; xác định kinh phí và điều kiện vật chất. Theo nguyên tắc, kế hoạch ĐT, BD khi
đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì bắt buộc các cơ quan, đơn vị hữu quan triển
khai thực hiện và hoàn thành đúng thời hạn. Kế hoạch đề ra (hoặc được giao) có được
hoàn thành tốt và đúng thời hạn hay không là căn cứ chủ yếu để đánh giá mức độ
hoàn thành nhiệm vụ được giao của một cơ quan, đơn vị.
Để đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới của đất nước, trong thời gian qua Đảng ta đã
đề ra nhiều chủ trương thể hiện rõ sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với công tác
ĐT, BD cán bộ, trong đó có CBCX. Trên cơ sở những quan điểm chỉ đạo của Đảng
về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cơ sở, trong đó chú trọng tập trung
58
công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản triển khai
thực hiện. Trên cơ sở chỉ đạo của Trung ương về công tác ĐT, BD cán bộ, Bộ Nội
vụ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, các đơn vị bộ, ngành trực thuộc Trung ương, tỉnh
ủy, các UBND tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã cụ thể hóa thành những chủ trương, kế
hoạch ĐT, BD cán bộ phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, từng địa phương,
từng đối tượng cán bộ.
Trong xây dựng chủ trương, kế hoạch ĐT, BD CBCX, các cấp ủy, chính quyền địa
phương ở ĐBSCL lưu ý một số vấn đề sau: một là, thực hiện nghiêm túc việc nghiên
cứu, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, tỉnh ủy về công tác ĐT, BD CB,
CC đến toàn thể đảng viên, CB, CC, viên chức; hai là, chỉ đạo rà soát đội ngũ CBCX
đương chức và trong quy hoạch, xác định nhu cầu, lập kế hoạch ĐT, BD đối với đội ngũ
CBCX; ba là, chỉ đạo việc ra soát các văn bản của Trung ương, bộ, ngành có liên quan
đến công tác ĐT, BD, nhất là văn bản về cơ chế, chính sách, đồng thời đánh giá sự hợp
lý nguồn ngân sách cho ĐT, BC CB, CC, viên chức của từng tỉnh, thành phố ở ĐBSCL;
bốn là, chỉ đạo hình thành cơ chế phối hợp chặt chẽ thực hiện công tác ĐT, BD CBCX.
Hai là, xây dựng và thực hiện chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp
ĐT, BD CBCX.
Xây dựng chương trình ĐT, BD CBCX là cơ sở để tổ chức các khóa ĐT, BD,
nội dung ĐT, BD CBCX bảo đảm phù hợp với mục tiêu, đối tượng ĐT, BD. Quá
trình xây dựng chương trình, nội dung ĐT, BD CBCX cần thực hiện theo các bước
và quy định về phân cấp của Đảng, Nhà nước và cơ quan có thẩm quyền. Cốt lõi của
việc xây dựng chương trình ĐT, BD CBCX là việc xác định được: mục tiêu ĐT, BD,
đối tượng cụ thể trong đội ngũ CBCX được ĐT, BD; thời gian, số lượng ĐT, BD;
giảng viên và phương pháp ĐT, BD, cụ thể:
Ba là, việc tuyển chọn và cử CBCX dự học các khóa ĐT, BD.
Chọn cử CBCX đi ĐT, BD là một khâu quan trọng của công tác quy hoạch
CBCX và kế hoạch ĐT, BD CBCX. Việc xây dựng quy hoạch CBCX là một trong
những nhiệm vụ của hoạt động lãnh đạo, quản lý, là cơ sở quan trọng để thể hiện sự
lãnh đạo của Đảng, QLNN về công tác ĐT, BD CBCX. Việc xây dựng kế hoạch ĐT,
BD CBCX ở ĐBSCL là việc hoạch định, kế hoạch hóa một cách cụ thể, chi tiết đối
tượng, số lượng, thời gian, khối lượng công việc, giải pháp thực hiện theo tiến độ, để
đạt được mục tiêu của công tác ĐT, BD CBCX đã đề ra. Có quy hoạch thì công tác
ĐT, BD mới khắc phục được tình trạng hẫng hụt, bị động trong công tác cán bộ; có
59
được kế hoạch ĐT, BD hợp lý, cụ thể, thì việc ĐT, BD mới chủ động, tránh phân tán,
tự phát, tùy tiện, lãng phí tiền bạc, thời gian của CB, CC cũng như của Đảng, Nhà nước.
Việc chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD cần được tiến hành nghiêm túc, nhằm
đáp ứng đúng, đủ kế hoạch ĐT, BD CBCX. Trên cơ sở kế hoạch ĐT, BD CB, CC dài
hạn hoặc hằng năm, các tổ chức, cơ quan, đơn vị cử CBCX tham gia các lớp ĐT, BD
cần làm tốt công tác đánh giá năng lực, rà soát, thống kê những CBCX còn thiếu
chuẩn, hạn chế về chuyên môn, về chính trị để lựa chọn, đề xuất vào danh sách cử
tham gia ĐT, BD hợp lý, đúng thời điểm, đúng chủ trương. Việc chọn cử CBCX tham
gia ĐT, BD phải bám sát quy hoạch CBCX và kế hoạch ĐT, BD, không để xảy ra
tình trạng nhiều CBCX được bầu cử, bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo, quản lý không đáp
ứng được yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, nợ bằng cấp, chưa đủ điều kiện, tiêu
chuẩn. Đối với các cơ quan có trách nhiệm (ban tổ chức tỉnh ủy, sở nội vụ, TCT tỉnh)
thực hiện nghiêm việc rà soát danh sách chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD của các
cấp ủy cấp huyện.
Bốn là, xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, lực lượng quản lý và chuẩn
bị cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động ĐT, BD CBCX.
* Xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên
Đội ngũ giảng viên, báo cáo viên có vai trò to lớn đối với việc nâng cao chất
lượng ĐT, BD, đặc biệt là đối với việc định hướng về chính trị, tư tưởng cho người
học. V.I. Lênin cho rằng: “Trong bất kỳ một trường học nào, điều quan trọng nhất là
phương hướng chính trị và tư tưởng của các giáo trình. Cái gì quyết định phương
hướng đó? Hoàn toàn và chỉ là thành phần các giảng viên mà thôi” [194, tr. 248].
Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất quan tâm và đề cao công tác ĐT, BD cán bộ, trong đó Người yêu cầu: “người
huấn luyện của Đoàn thể phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm
việc” [124, tr. 356]. Đội ngũ giảng viên tham gia ĐT, BD CBCX phải bảo đảm các
tiêu chuẩn chung:
(1) Có bản lĩnh chính trị vững vàng, phấm chất đạo đức tốt, có tinh thần
yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; (2) Có trình độ lý luận Mác - Lênin, tư tướng Hồ Chí Minh
hoặc khoa học xã hội và nhân văn ó' bậc đại học trở lên, hệ tập trung; (3)
Có thái độ trung thực, khiêm tốn, giản dị; tâm huyết với sự nghiệp giáo
60
dục và đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước; (4) Có khả năng và nghiệp
vụ sư phạm; (5) Có đủ sức khỏe hoàn thành nhiệm vụ; (6) Lý lịch bản thân
rõ ràng [98, tr. 34].
Ngoài ra, giảng viên còn phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn cụ thể cho từng ngạch
giảng viên, giảng viên chính hoặc giảng viên cao cấp.
Xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên đóng vai trò quan trọng trong quyết
định chất lượng của công tác ĐT, BD. Họ là đội ngũ trực tiếp truyền tải kiến thức, kỹ
năng cho đối tượng được ĐT, BD. Để đảm bảo chủ trọng trong việc tổ chức các khóa
ĐT, BD cần xây dựng hệ thống giảng viên, báo cáo viên tương đối ổn định tham gia
ĐT, BD một cách có hiệu quả.
Yêu cầu đối với giảng viên, báo cáo viên tham gia ĐT, BD cán bộ phải là
người có năng lực chuyên môn, có kiến thức thực tế, có kỹ năng sư phạm. Các nội
dung cần thực hiện để lựa chọn, xây dựng đội ngũ giảng viên: lựa chọn những cán bộ có
chuyên môn nghiệp vụ tốt, kinh nghiệm qua các công việc liên quan đến nội dung giảng
dạy; chú trong bồi dưỡng kỹ năng sự phạm cho giảng viên đáp ứng yêu cầu giảng dạy;
lựa chọn giảng viên có kinh nghiệm lâu năm.
Chất lượng, hiệu quả của công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX không chỉ phụ thuộc
vào chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên, báo cáo viên mà còn phụ thuộc vào
khâu phục vụ. Lực lượng phục vụ các hoạt động ĐT, BD là một bộ phận rất quan
trọng trong các cơ sở ĐT, BD và trong các cơ quan đơn vị quản lý CB, CC, viên chức.
Căn cứ yêu cầu, cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ sở ĐT, BD và của các cơ quan
quản lý đội ngũ CB, CC, viên chức mà xây dựng lực lượng phù hợp. Yêu cầu chung
là đội ngũ này phải đạt chuẩn, có kỹ năng tốt, nhạy bén trong các tình huống, phải
chuyên nghiệp, chịu khó...
* Công tác quản lý
Công tác quản lý công tác ĐT, BD CBCX có vai trò quan trọng trong triển khai
hoạt động ĐT, BD. Quản lý công tác ĐT, BD CBCX bao gồm các hoạt động: xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật và quy phạm nội bộ về ĐT, BD; xây dựng kế hoạch ĐT,
BD; quản lý tổ chức thực hiện chương trình ĐT, BD theo kế hoạch; kiểm tra, đánh giá
hiệu quả công tác ĐT, BD theo từng giai đoạn nhất định.
Đội ngũ cán bộ quản lý công tác ĐT, BD là những người phải có trách nhiệm,
năng lực, hiểu biết, nắm chắc quy định về các hoạt động ĐT, BD. Trong giai đoạn mới
hiện nay, đội ngũ cán bộ quản lý công tác ĐT, BD cán bộ cần được bồi dưỡng thường
61
xuyên để cập nhật thông tin mới, kỹ năng mới, qua đó nâng cao năng lực chuyên môn,
tham gia quản lý và triển khai công tác ĐT, BD có hiệu quả; đồng thời, phải chú trọng
rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, tránh tiêu cực.
Đối với hoạt động quản lý công tác ĐT, BD CBCX, Nghị định số 101/2017/NĐ-
CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Nội vụ, Bộ
Tài chính. Riêng UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quy định:
1. Xây dựng, ban hành chế độ khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức
không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực công tác; bố trí kinh phí
bảo đảm thực hiện có hiệu quả chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định.
2. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện đề án, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý.
3. Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định.
4. Cử cán bộ, công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng theo thẩm quyền.
5. Quản lý và biên soạn các chương trình, tài liệu bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức theo thẩm quyền.
6. Quản lý cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và đội ngũ giảng viên theo thẩm quyền.
7. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng
theo thẩm quyền. [52, tr. 22].
Về trách nhiệm của đơn vị sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, Nghị định
quy định:
1. Thực hiện các quyđịnh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
2. Đề xuất biên soạn và lựa chọn chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp
với yêu cầu vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức.
3. Tạo điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức thực hiện chế độ đào tạo,
bồi dưỡng theo quy định. [52, tr. 22].
* Đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ công tác ĐT, BD
Cơ sở vật chất phục vụ công tác ĐT, BD chủ yếu là phục vụ cho hoạt động
học tập, giảng dạy, bao gồm trường, lớp và các phương tiện vật chất khác được trực
tiếp sử dụng trong quá trình ĐT, BD. Cơ sở vật chất phục vụ cho ĐT, BD thực chất
là những phương tiện giúp cơ quan lãnh đạo, quản lý, giảng viên và học viên thực
hiện tốt công việc của mình trong quá trình ĐT, BD. Do đó, có phương tiên tốt sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho lãnh đạo, quản lý, giảng dạy và học tập đạt hiệu quả, chất
62
lượng cao. Ngược lại, nếu không quan tâm đúng mức đến vấn đề này, hiệu quả ĐT,
BD sẽ hạn chế, cho dù năng lực lãnh đạo, quản lý tốt, đội ngũ giảng viên giỏi, sự cố
gắng vượt bậc của học viên.
Ngày nay, đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ mới, để
nâng cao chất lượng ĐT, BD CBCX, việc hiện đại hóa những điều kiện vật chất, những
phương tiện phục vụ cho công tác ĐT, BD là rất quan trọng và cấp thiết. Chỉ có như
vậy CBCX mới có điều kiện nắm vững các kiến thức mới về LLCT, về chuyên môn
nghiệp vụ trong môi trường ĐT, BD hiện đại. Mặt khác, trước những yêu cầu mới trong
ĐT, BD cán bộ hiện nay, để CBCX được ĐT, BD hình thành được tư duy độc lập trong
học tập, nghiên cứu càng phải đầu tư cho phương tiện học tập nhiều hơn, giúp cho
người học được tiếp cận hơn với thực tiễn, phát huy được tính độc lập, sáng tạo của
mình. Việc trang bị những phương tiện ngày càng hoàn chỉnh, hiện đại phục vụ cho
công tác ĐT, BD cán bộ hiện nay là công việc của tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành
phố, các đơn vị ĐT, BD cán bộ trong đó có đội ngũ CBCX.
Trong xây dựng cơ sở vật chất phục vụ hoạt động trung tâm của ĐT, BD là dạy
và học thì việc chuẩn bị tài liệu, giáo trình là vấn đề quan trọng, phải được trang bị đầy
đủ, phù hợp với nội dung học tập, được trình bày rõ ràng, dễ hiểu và gửi kịp thời đến
người học. Ngoài tài liệu giáo trình học tập chính khóa, cần chuẩn bị thêm các tài liệu
tham khảo phù hợp với nội dung, chương trình của khóa ĐT, BD.
Ngoài ra, cơ sở vật chất phục vụ công tác ĐT, BD còn là những điều kiện về
ăn, nghỉ, sinh hoạt, vật chất và tinh thần. Đó là những điều kiện không thể thiếu đối
với CBCX tham gia ĐT, BD tại các cơ sở ĐT, BD cán bộ, nhất là đối với CBCX tham
gia các khóa ĐT, BD tập trung. Tất cả những điều kiện đó sẽ tạo môi trường thuận
lợi giúp người học phấn khởi, tự tin, yên tâm học tập.
Năm là, kiểm tra, giám sát hoạt động ĐT, BD CBCX.
Kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động ĐT, BD CBCX là công việc vô cùng
quan trọng trong chuỗi quá trình ĐT, BD CBCX, là một khâu quan trọng, xuyên suốt
quá trình thực hiện công tác ĐT, BD. Kiểm tra, giám sát là để bảo đảm cho toàn bộ các
nội dung trong công tác ĐT, BD được thực hiện đúng, đủ, hiệu quả, đồng thời ngăn ngừa
các thiếu sót, sai phạm. Kiểm tra, giám sát cũng để xem có đạt mục tiêu đề ra không,
chương trình, nội dung có phù hợp không, học viên áp dụng được gì sau ĐT, BD.
Các cấp lãnh đạo, quản lý phải tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát và kết
hợp cả thanh tra, để bảo đảm các hoạt động trong công tác ĐT, BD thực hiện nghiêm
63
túc, đúng chủ trương, quan điểm, quy trình. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động
ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL chính là việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra
Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Thanh tra Sở Bộ Nội vụ, kiểm tra, giám sát của cấp
ủy đảng cấp tỉnh, cấp huyện, lãnh đạo các đơn vị ĐT, BD thuộc các tỉnh, thành phố
ở ĐBSCL.
Nội dung tiến hành kiểm tra, giám sát hoạt động ĐT, BD CBCX: một là, việc
thực hiện khung chương trình ĐT, BD CBCX có bảo đảm đúng quy định về mặt thời
gian, đối tượng không; hai là, chủ thể tiến hành ĐT, BD CBCX có đúng theo quy
định phân cấp, đúng chức năng trong hoạt động ĐT, BD không, hoặc xem các cơ sở,
đội ngũ giảng viên, báo cáo viên tham gia ĐT, BD CBCX có đủ năng lực thực hiện
các nội dung chương trình; ba là, kiểm tra, giám sát quá trình diễn ra hoạt động ĐT,
BD: điều kiện vật chất, trường, lớp có bảo đảm không, số lượng học viên học tập có
đầy đủ không, công tác phục vụ học viên trong học tập, ăn nghỉ có tốt không...; bốn
là, kiểm tra, giám sát việc đánh giá kết quả học tập của CBCX thông qua bài kiểm
tra, bài thi, bài thu hoạch, khóa luận có nghiêm túc, đúng theo quy định hay không.
Sáu là, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác ĐT, BD CBCX.
Sơ kết, tổng kết, rút ra những kinh nghiệm là khâu cuối trong công tác ĐT, BD
CBCX. Tổ chức hoạt động này là để đánh giá kết quả ĐT, BD CBCX, xác định mức
độ đạt được các mục tiêu đã đề ra từ trước, giúp cho các cơ quan Đảng, Nhà nước,
các đơn vị tham gia vào công tác ĐT, BD CBCX ở địa phương và Trung ương đưa ra
các quyết định phù hợp tiếp theo cho công tác ĐT, BD CBCX, nhất là phát hiện những
lỗ hổng, sự bất hợp lý, phi thực tế của công tác ĐT, BD. Nội dung đánh giá kết quả
ĐT, BD CBCX cần làm rõ bốn vấn đề chính: một là, khóa học đã đạt mục tiêu ĐT,
BD ở mức độ nào; hai là, các vấn đề xác định trong chương trình, nội dung học tập
đã được giải quyết thông qua ĐT, BD ở mực độ nào; ba là, những nội dung gì cần
hoàn thiện trong những khóa ĐT, BD tiếp theo; bốn là, công tác lãnh đạo, quản lý
cần điều chỉnh gì.
Sau mỗi khóa ĐT, BD thực hiện sơ kết, tổng kết đánh giá chương trình ĐT,
BD như: đánh giá phản ứng của người học về nội dung, chương trình, giảng viên,
cách tổ chức…; đánh giá kết quả học tập thông qua những bài kiểm tra để biết học
viên tiếp thu được gì từ khóa ĐT, BD. Đây là việc đánh giá kết quả ĐT, BD theo
phương pháp truyền thống. Cách thức đánh giá này có ưu điểm: dễ đánh giá vì chỉ
cần căn cứ vào kết quả điểm học tập và nhận xét của cơ sở, đơn vị ĐT, BD. Tuy
64
nhiên, ở một mức độ nhất định, cách thức đánh giá này chưa phản ánh chính xác kết
quả học tập của người học thông qua nhận thức và vận dụng các kiến thức đã được
ĐT, BD vào thực tế, thậm chí có trường hợp kết quả học tập được đánh giá, nhận xét
cao nhưng thực chất nhận thức của người học chưa phản ánh đúng kết quả đó. Hiện
nay, cách thức đánh giá kết quả, hiệu quả ĐT, BD đã có sự thay đổi, hướng đánh giá
kết quả sau ĐT, BD, nghĩa là đánh giá kết quả “đầu ra”. Cần đánh giá xem việc vận
dụng kiến thức đã học vào thực tế công tác để giải quyết những vấn đề đặt ra trong
thực tiễn thi hành công vụ của CBCX được ĐT, BD, những thay đổi đối với việc thực
hiện công việc như thế nào. Từ đó, đánh giá tác động, hiệu quả của tổ chức xem việc
ĐT, BD cán bộ có tác động, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của tổ chức hay không.
Có thể đánh giá kết quả ĐT, BD với từng mức độ cụ thể như sau:
Mức độ 1 - phản ứng: đánh giá CBCX có hài lòng về chương trình ĐT, BD
hay không (mức độ hài lòng, ấn tượng, cảm nhận…) thông qua khảo sát bằng bảng
câu hỏi hoặc phỏng vấn.
Mức độ 2 - tiếp thu: đánh giá CBCX có tiếp thu chương trình, nội dung ĐT,
BD (sự thay đổi kiến thức, kỹ năng, thái độ của CBCX sau ĐT, BD) thông qua kết
quả bài kiểm tra, bài thi, đề án, tiểu luận, bài thu hoạch trong khóa học và thông qua
việc khảo sát bằng phỏng vấn, trắc nghiệm, quan sát, hoặc kết hợp tổng thể các
phương pháp khảo sát này.
Mức độ 3 - hành vi: đánh giá CBCX có áp dụng được những gì đã học không (đánh
giá mức độ mà người học có thể áp dụng những kiến thức, kỹ năng đã học vào công việc).
Sau khi CBCX hoàn thành nhiệm vụ học tập, căn cứ vào công việc mà họ đang đảm nhận
và nội dung đã được ĐT, BD, lãnh đạo cấp xã giao việc với yêu cầu cao hơn. Thông qua
kết quả công việc đã thực hiện để đánh giá chất lượng và kết quả ĐT, BD.
Mức độ 4 - kết quả: đánh giá tác động nhất định đến kết quả hoạt động của tổ
chức nơi CBCX công tác. Đây là mức độ cao nhất đánh giá chất lượng của ĐT, BD
thông qua việc phân tích dữ liệu, đánh giá kết quả hoạt động, thực hiện nhiệm vụ
được giao của tổ chức nơi CBCX công tác (hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian; hiệu
quả công việc nâng cao; giảm tỷ lệ sai sót….).
Đối với các mức độ 3 và 4, hằng năm cơ sở, đơn vị ĐT, BD nên thu thập kết
quả làm việc của CBCX đã được ĐT, BD thông qua nhận xét, đánh giá của cấp ủy
đảng trực tiếp sử dụng cán bộ. Căn cứ những nhận xét, đánh giá đó, cơ sở, đơn vị ĐT,
65
BD xem xét, nghiên cứu để điều chỉnh nội dung, chương trình, phương pháp giảng
dạy và phương pháp tổ chức quản lý ĐT, BD.
Cơ sở pháp lý cho hoạt động đánh giá chất lượng bồi dưỡng được Nghị định
số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chín phủ quy định rõ như sau:
1. Đánh giá chất lượng bồi dưỡng nhằm cung cấp thông tin về mức độ
nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức,
viên chức sau khi được bồi dưỡng.
2. Đánh giá chất lượng bồi dưỡng phải bảo đảm công khai, minh bạch,
khách quan, trung thực.
3. Nội dung đánh giá chất lượng bồi dưỡng gồm:
a) Đánh giá chất lượng chương trình bồi dưỡng;
b) Đánh giá chất lượng học viên tham gia khóa bồi dưỡng;
c) Đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên tham gia khóa bồi dưỡng;
d) Đánh giá chất lượng cơ sở vật chất phục vụ khóa bồi dưỡng;
đ) Đánh giá chất lượng khóa bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức;
e) Đánh giá hiệu quả sau bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
4. Việc đánh giá chất lượng bồi dưỡng do cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng
cán bộ, công chức, viên chức; cơ sở đào tạo, bồi dưỡng; cơ sở đào tạo,
nghiên cứu tổ chức thực hiện hoặc thuê cơ quan đánh giá độc lập.
5. Bộ Nội vụ hướng dẫn cụ thể về đánh giá chất lượng bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức [52 tr. 15-16].
2.2.2.3. Vị trí, vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cấp xã
ở đồng bằng sông Cửu Long
Một là, công tác ĐT, BD cho CBCX ở ĐBSCL là công việc, nhiệm vụ đặc biệt
quan trọng của các cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội
các tỉnh ở ĐBSCL.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng công tác ĐT, BD cán bộ.
Người khẳng định:“Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [123, tr. 309].
Người đã nêu phương châm của công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ là: Huấn luyện ai,
ai huấn luyện, huấn luyện như thế nào, phải kiểm tra ra sao và bài học cần áp dụng là
gì? Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: nếu có văn hóa, giỏi chuyên môn, “có kinh nghiệm mà
không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” [123, tr. 274]. Sự yếu kém
về chính trị đẻ ra những khuynh hướng sai lầm hoặc “tả” hoặc “hữu”.
66
Từ những chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể thấy, công tác ĐT, BD
CBCX góp phần nâng cao trình độ mọi mặt của CBCX, từ LLCT đến chuyên môn
nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, tác phong công tác..., từ đó sẽ chuẩn hóa cán bộ, tạo sự
đồng bộ trong bộ máy của Đảng, Nhà nước và cả HTCT cơ sở. Theo quan điểm Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, các cấp ủy đảng phải
quan tâm, thống nhất lãnh đạo công tác ĐT, BD cán bộ.
Hai là, công tác ĐT, BD cho CBCX là nhiệm vụ trọng yếu góp phần chuẩn
hóa, trẻ hóa đội ngũ CBCX.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã khẳng định: CB, CC “được đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ” [134, tr. 5]. Vì vậy, CBCX
phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, được giao, phải có trình độ học vấn, LLCT - HC,
chuyên môn nghiệp vụ để được xếp lương theo chức vụ, ngạch bậc. Trên thực tế,
phần lớn CBCX hiện nay chưa có đủ các điều kiện về trình độ, nhất là về chuyên
môn, đúng vị trí việc làm để đáp ứng tiêu chuẩn của CB, CC cấp xã, họ chủ yếu là
những người lớn tuổi, công tác lâu năm, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, được nhân
dân tín nhiệm và giữ vai trò quan trọng ở cơ sở. Do đó, cần chú trọng ĐT, BD cho
đội ngũ này để thực hiện chuẩn hóa cán bộ, mặt khác chú trọng quy hoạch CBCX trẻ
đưa đi ĐT, BD xây dựng lực lượng kế tục góp phần trẻ hóa đội ngũ CBCX trong thời
gian tới. Đây là yêu cầu bắt buộc nhằm đảm bảo tiêu chuẩn của cán bộ theo quy định
tại Quyết định số 163/2016/QĐ-TTg ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt kế hoạch ĐT, BD CBCC giai đoạn 2016-2020 và cũng là để nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực hiệu quả QLNN ở cơ sở.
Ba là, công tác ĐT, BD CBCX góp phần nâng cao trình độ giác ngộ, bồi dưỡng
phẩm chất chính trị đạo đức, lối sống, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ
CBCX đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 4 BCHTW khóa XII.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí…” [70, tr. 19]... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống là căn
bệnh nguy hiểm hàng đầu, là căn nguyên gây ra nhiều căn bệnh khác. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra những giải pháp cơ bản khắc phục tình trạng suy
67
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ, trong đó yêu cầu:
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai
trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có kế hoạch
học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ,
đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng
đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Thực hiện nghiêm túc, có
hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị [71, tr. 36-37].
Với đội ngũ CBCX, việc ĐT, BD sẽ là một con đường hết sức quan trọng trong
việc nâng cao kiến thức LLCT, bồi dưỡng, giác ngộ về bản lĩnh chính trị, đạo đức
cách mạng, nâng cao kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ, góp phần làm trong sạch Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, của cả HTCT cơ sở, đem lại
niềm tin và sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân, quyết tâm xây dựng cuộc sống mới
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bốn là, công tác ĐT, BDCBCX là cơ sở, nền tảng để nâng cao năng lực hiệu
quả thực thi công vụ của CBCX trước mắt và chuẩn bị đội ngũ cán bộ cấp trên trong
tương lai.
Công tác ĐT, BD giúp người CBCX có khả năng xem xét và giải quyết các tình
huống lãnh đạo, quản lý ở địa phương một cách khoa học, phù hợp với quan điểm, chính
sách của Đảng và Nhà nước; làm cho người cán bộ lãnh đạo phát huy tốt hơn năng lực
công tác và hoạt động có hiệu quả cao hơn; khắc phục được lối làm việc theo kinh
nghiệm, quản lý thủ công, sự vụ, luộm thuộm…
Nội dung ĐT, BD giúp cho người CBCX cập nhật thường xuyên những kiến
thức mới về lý luận, những chủ trương, đường lối, chính sách cụ thể của Đảng và Nhà
nước qua từng giai đoạn cách mạng khác nhau; những kiến thức mới về chuyên môn
nghiệp vụ cho từng vị trí việc làm, từ đó cán bộ biết cách vận dụng các kiến thức mới,
phù hợp hơn với điều kiện hoàn cảnh cụ thể ở từng địa phương mình, công việc mình
đảm trách, sẵn sàng đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý cao hơn. Đồng thời, thông
qua các lớp ĐT, BD sẽ giúp các CBCX, các đơn vị khác nhau có điều kiện gặp gỡ,
trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, để xử lý những tình huống cụ thể trong lãnh
đạo, quản lý ở cơ sở.
68
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
ĐBSCL là khu vực có vị trí địa - chính trị đặc biệt quan trọng về an ninh, quốc
phòng của nước ta, đồng thời là vùng có nhiều đặc thù về địa hình, dân cư, kinh tế,
văn hóa, xã hội chi phối hoạt động ĐT, BD đội ngũ CBCX. Đội ngũ CBCX nơi đây
là một tất yếu khách quan. Mặc dù có những đặc điểm riêng, mang tính đặc thù về
điều kiện xã hội và con người, nhưng công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL cũng phải
tuân thủ những quan điểm mang tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta.
Công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX gồm hai công việc chính là công tác đào tạo
và công tác bồi dưỡng. Đào tạo là hoạt động dành cho những CBCX chưa được đào
tạo cơ bản về LLCT, chuyên môn nghiệp vụ, chưa đủ quy định theo tiêu chuẩn Đảng,
Nhà nước đã đề ra. Bồi dưỡng là hoạt động đưa các CBCX đã được trang bị kiến thức
lý luận cơ bản đi học tập ở những lớp ngắn hạn để bổ sung những kiến thức mới, học
tập, trao đổi những kinh nghiệm hoạt động cụ thể. Cả hai công tác này đều nhằm đảm
bảo cho các CBCX hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Tùy từng đối tượng
mà có các hình thức, phương pháp ĐT, BD cụ thể, phù hợp.
Công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL là toàn bộ hoạt động của các cấp ủy đảng,
các tổ chức trong HTCT, các đơn vị ĐT, BD và cá nhân có liên quan tham gia vào các
hoạt động trong lĩnh vực ĐT, BD nhằm nâng cao trình độ LLCT, chuyên môn nghiệp
vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý, phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách công tác của
CBCX đáp ứng tốt nhất yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cấp xã. Công tác ĐT, BD
CBCX ở ĐBSCL bao gồm các nội dung chủ yếu: xây dựng chủ trương, kế hoạch ĐT,
BD CBCX; xây dựng và thực hiện chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp
ĐT, BD CBCX; tuyển chọn và cử CBCX dự học các khóa ĐT, BD; xây dựng đội ngũ
giảng viên, báo cáo viên, lực lượng quản lý và chuẩn bị cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ hoạt động ĐT, BD CBCX; kiểm tra, giám sát hoạt động ĐT, BD CBCX; sơ
kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác ĐT, BD CBCX.
69
Chương 3
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
3.1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN
BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
3.1.1. Những ưu điểm trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp
xã ở đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua
3.1.1.1. Trong xây dựng chủ trương, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cấp xã
Trên cơ sở văn bản chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành và các cơ
quan trực thuộc Trung ương về công tác ĐT, BD cán bộ, các tỉnh, thành ủy, UBND
tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã cụ thể hóa cho phù hợp với đặc điểm tình hình của từng
tỉnh, thành về công tác ĐT, BD cán bộ cơ sở như sau:
Tỉnh Bạc Liêu: Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 19/CT-TU ngày 31-12-
2012 “về tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị”. Từ
chủ trương này, Tỉnh ủy đã triển khai nhiều kế hoạch để thực hiện cụ thể như: Kế hoạch
số 21-KH/TU “về đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và bố trí, sắp xếp cán bộ trong quy
hoạch cấp ủy tỉnh và huyện, thành phố nhiệm kỳ 2015 - 2020” và Kế hoạch số 20-
KH/TU “về đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sắp xếp nguồn cán bộ kế cận từ nay đến năm
2015 và những năm tiếp theo”. Trong các kế hoạch đó đã đề ra các biện pháp cụ thể về
ĐT, BD cán bộ trong quy hoạch cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và lựa chọn
150 cán bộ trẻ để đưa đi đào tạo, luân chuyển, từng bước bố trí, sắp xếp vào các chức
danh cán bộ chủ chốt cấp xã. UBND tỉnh đã ra Quyết định số 32/2006/QĐ-UBND ngày
06-12-2006 “về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai
đoạn 2006-2010”; Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 11-8-2008 “ban hành đề án đào
tạo nguồn nhân lực tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2008-2010 và định hướng 2020”; Quyết
định số 4107/QĐ-UBND ngày 28-12-2011 “về việc ban hành Kế hoạch ĐT, BD cán
bộ, công chức, viên chức nhà nước tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2011-2015”.
Thành phố Cần Thơ: Thành ủy ban hành Kế hoạch số 10-KH/TU ngày 22-01-
2007 “về quy hoạch và đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
70
hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2006-2020”; Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 18-
5-2012 “về đào tạo cán bộ cơ sở, quận, huyện và thành phố đạt chuẩn”; Nghị quyết
số 05-NQ/TU ngày 27-12-2016 “về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thành phố
Cần Thơ đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. UBND thành phố đã ban hành Kế
hoạch số 68/KH-UBND ngày 28-12-2012 “về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
giai đoạn 2011-2015”; Kế hoạch số 08/KH-UBND ngày 22-01-2013 “về việc triển
khai đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg, giai
đoạn 2013 - 2015” ...
Tỉnh Tiền Giang: Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU
ngày 27-6-2011 “Về nâng cao chất lượng công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”. Tỉnh ủy đã xây dựng các đề án, kế hoạch thực hiện đề án đào tạo
và bổ nhiệm 100 phó chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn từ nguồn sinh viên mới tốt
nghiệp đại học; Quy chế thu hút nhân tài, tạo nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo; xây
dựng cơ chế phát huy tính năng động, sáng tạo trong đội ngũ cán bộ... UBND tỉnh
ban hành và thực hiện Chỉ thị 07/2006/CT-UBND ngày 08-3-2006 “về tiếp tục đẩy
mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức xã”; Quyết
định 22/2009/QĐ-UBND ngày 25-8-2009 “về chính sách đào tạo, bồi dưỡng và thu
hút cán bộ, công chức hành chính, viên chức sự nghiệp giai đoạn 2009-2015”; Quyết
định 26/2011/QĐ-UBND ngày 19-9-2011 “về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ
thể đối với cán bộ, công chức xã”; Quyết định 01/2012/QĐ-UBND ngày 02-02-2012
“về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và thu hút nguồn nhân lực”.
Cũng trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Trung ương, các Tỉnh ủy Sóc Trăng,
Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang... ban hành nhiều văn bản về công tác ĐT, BD cán bộ
theo từng giai đoạn, HĐND tỉnh ra nghị quyết, UBND tỉnh đã cụ thể hóa thành các quyết
định, quy định, quy chế cụ thể thực hiện các văn bản chỉ đạo của tỉnh ủy và HĐND tỉnh
về ĐT, BD CB, CC, viên chức theo giai đoạn, hoặc kế hoạch cụ thể hằng năm.
Các văn bản chỉ đạo trên của các tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố ở
ĐBSCL được xây dựng dựa trên những nghiên cứu, khảo sát, đánh giá sát thực trạng
đội ngũ CBCX, xác định rõ đối tượng, thời gian, nội dung, kinh phí cho ĐT, BD đội
ngũ CBCX qua từng giai đoạn; trên cơ sở đó ban tổ chức, sở nội vụ, đơn vị chức
năng, TCT tỉnh và các TTBDCT huyện, thị, thành phố đã xây dựng và thực hiện theo
kế hoạch cụ thể, gắn ĐT, BD với vấn đề quy hoạch và bố trí sử dụng cán bộ, triển
71
khai thực hiện kế hoạch ĐT, BD theo ba nội dung chủ yếu là: ĐT, BD CBCX theo
chức danh; ĐT, BD CBCX theo vùng (vùng đô thị gồm phường, thị trấn riêng và
vùng nông thôn - xã); ĐT, BD nguồn CBCX.
TCT ở các tỉnh, thành ĐBSCL được giao nhiệm vụ chính trong việc thực hiện
kế hoạch ĐT, BD đội ngũ CBCX. TCT thực hiện sự phối hợp chặt chẽ với các
TTBDCT huyện, thị, thành phố của tỉnh, thành phố. Hằng năm, các TCT đều chủ
động xây dựng kế hoạch ĐT, BD cán bộ của tỉnh trên cơ sở phối hợp với sở nội vụ,
ban tổ chức tỉnh, thành ủy, các huyện, thị, thành ủy, các ngành của tỉnh, thành phố để
khảo sát nhu cầu ĐT, BD và tiếp nhận ý kiến tư vấn về đối tượng và nội dung ĐT,
BD, thời gian, địa điểm, kinh phí. Trên cơ sở đó, kế hoạch ĐT, BD được xây dựng
và trình HĐND tỉnh, thành phố để phê duyệt và sau đó được giao cho UBND tỉnh,
thành phố ban hành quyết định hoặc phê duyệt đề án, giao chỉ tiêu kế hoạch ngay từ
đầu năm. Nhờ vậy, các TCT tỉnh, thành phố có điều kiện thuận lợi để sớm triển khai
công tác ĐT, BD từ đầu năm, chủ động bố trí kế hoạch giảng dạy các lớp, các môn
học, giúp các giảng viên có nhiều thời gian nghiên cứu, soạn giáo án đồng thời bảo
đảm tiến độ mở lớp ở tại trường và các TTBDCT huyện, thị xã, thành phố.
Qua 10 năm (2006 - 2016) tiến hành công tác ĐT, BD CBCX, tổng số cán bộ
được ĐT, BD CBCX là: 203.404 lượt. Đào tạo trình độ LLCT cho 11.045 lượt, trong
đó: cao cấp LLCT là 3.154, trung cấp LLCT - HC là 6.321, sơ cấp LLCT 1.570 lượt
người. Đào tạo chuyên môn cho 13.434 lượt người, trong đó: sau đại học là 158, đại
học là 6.892, cao đẳng là 302, trung cấp là 6.082 lượt người. Bồi dưỡng cho 178.925
lượt người [9, tr 5-7].
Bằng biện pháp đồng bộ trong xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể trong từng
năm mà công tác ĐT, BD cho đội ngũ CBCX ở ĐBSCL trong những năm qua luôn được
tiến hành một cách chủ động, thuận lợi. Qua khảo sát có 332/500 phiếu hỏi (chiếm
66,4%) cho rằng chủ trương, chính sách, quy định, quy chế của Đảng, Nhà nước các cấp
quan tâm đến công tác ĐT, BD CBCX đáp ứng được yêu cầu.
3.1.1.2. Trong chỉ đạo xây dựng và thực hiện chương trình, nội dung,
hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã
Chủ thể xây dựng chương trình, nội dung ĐT, BD LLCT cho CBCX là Học
viện CTQG Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương, tỉnh ủy, thành ủy. Chủ thể xây
dựng chương trình, nội dung ĐT, BD chuyên môn gồm: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Nội vụ. Riêng chương trình, nội dung bồi dưỡng CBCX ngoài các chủ thể trên còn có
72
Bộ Quốc phòng chủ trì hướng dẫn cụ thể về chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng và an ninh. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính
trị - xã hội ở trung ương, UBND cấp tỉnh quản lý các chương trình bồi dưỡng theo
yêu cầu của vị trí việc làm, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành cho cán bộ, công chức,
thuộc thẩm quyền quản lý.
Chủ thể thực hiện chương trình, nội dung ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL rất da
dạng. Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị khu vực IV thực hiện đào tạo
chương trình và cấp bằng cao cấp LLCT. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học
viện Hành chính (chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh), Học viện Thanh thiếu niên Việt
Nam (Phân viện miền Nam), Học viện Phụ nữ Việt Nam (Phân hiệu miền Nam), các
trường đại học, cao đẳng trong và ngoài khu vực ĐBSCL thực hiện đào tạo chương
trình đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng, trung cấp và bồi dưỡng nghiệp vụ. Các
TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL tiến hành đào tạo chương trình trung cấp LLCT-HC,
đào tạo trung cấp hành chính, đào tạo nguồn CBCX, đồng thời tiến hành bồi dưỡng
theo chức danh, bồi dưỡng cập nhật kiến thức, bồi dưỡng thi công chức, bồi dưỡng
thi nâng ngạch, bồi dưỡng kiến thức nhà nước ngạch cán sự, chuyên viên, chuyên viên
chính. Các TTBDCT cấp huyện tiến hành bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật kiến thức,
đào tạo sơ cấp LLCT-HC. Ngoài ra, các đơn vị sở, ngành, cơ quan cấp tỉnh, các huyện
ủy, UBND cấp huyện cũng tiến hành mở và phối hợp mở các lớp bồi dưỡng CBCX
theo yêu cầu, nhiệm vụ với tính chất là chuyển giao, nâng cao năng lực hoạt động và
phối hợp có liên quan đến ngành, lĩnh vực.
Trong hoạt động của các cơ sở ĐT, BD nêu trên, hoạt động của TCT tỉnh,
thành phố và TTBDCT cấp huyện là chủ yếu, liên quan trực tiếp đến công tác ĐT,
BD CBCX. Thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, các TCT tỉnh, thành phố, các
TTBDCT cấp huyện ở ĐBSCL đã thực hiện đa dạng hóa các hình thức tổ chức ĐT,
BD phù hợp với yêu cầu thực tiễn địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học
tập của đội ngũ CBCX. Đi đôi với công tác quản lý, ĐT, BD các cơ sở ĐT, BD luôn
chú trọng việc xây dựng đội ngũ giảng viên có chất ngày được nâng lên. Chú trọng
việc đổi mới phương pháp giảng dạy; đổi mới hình thức ra đề thi hết môn theo hướng
mở gắn lý luận với thực tiễn; đổi mới cách thức hướng dẫn viết và chấm tiểu luận
cuối khóa; đổi mới cách thức quản lý lớp, kết hợp giữa chủ nhiệm, giảng viên lên lớp
với ban cán sự trong quá trình học tập, cuối khóa học trong phiếu nhận xét đánh giá
73
kết quả học tập và rèn luyện của học viên ghi cụ thể số buổi nghỉ của học viên trong
khóa học; đổi mới quá trình nhận xét, công nhận học viên các lớp bồi dưỡng… Việc
đổi mới nêu trên góp phần nâng cao chất lượng ĐT, BD CBCX.
TCT là đơn vị chủ động đề xuất với tỉnh ủy, UBND tỉnh, thành phố về nhu cầu
đào tạo trung cấp LLCT-HC, các đại học chuyên ngành, cao cấp LLCT, bồi dưỡng,
cập nhật kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn sâu cho đội ngũ cán bộ của tỉnh, thành ở
ĐBSCL nhất là đội ngũ CBCX. Đồng thời, TCT tỉnh, thành phố cũng là đơn vị tiến
hành thực hiện các hoạt động phối hợp với các đơn vị ĐT, BD khác trong và ngoài
khu vực ĐBSCL để tiến hành ĐT, BD cho CBCX.
* Về đào tạo LLCT:
Đào tạo cao cấp LLCT: đơn vị đào tạo là Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Học
viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị khu vực IV.
Đào tạo trung cấp LLCT-HC: đơn vị đào tạo là TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL.
Đào tạo sơ cấp LLCT: đơn vị đào tạo là các TTBDCT huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh, thành phố ở ĐBSCL.
Hình thức đào tạo gồm có tập trung và không tập trung (vừa làm, vừa học).
* Về đào tạo chuyên môn:
Học viện Báo chí và Tuyên truyền đào tạo đại học các chuyên ngành: kinh tế
chính trị, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, báo chí, triết học, xây dựng Đảng và Chính
quyền nhà nước, chính trị học... Học viện Hành chính (chi nhánh thành phố Hồ Chí
Minh) đào tạo đại học, cao đẳng các chuyên ngành: QLNN, luật, hành chính công...
Các trường đại học Cần Thơ, Trà Vinh, An Giang, Đồng Tháp... và các đại học khác
ngoài khu vực đào tạo đại học, cao đẳng các chuyên ngành: quản lý đất đai, nông
nghiệp, tài chính - kế toán, kinh tế, quản trị kinh doanh...
Đào tạo trung cấp nghiệp vụ có hai hình thức tập trung và không tập trung (vừa
làm, vừa học), gồm: trung cấp nghiệp vụ công tác hội phụ nữ, công tác đoàn thanh
niên, công tác hội nông dân; luật, quản lý hành chính nhà nước... Đơn vị đào tạo là
TCT, Trường Quân sự tỉnh, thành phố, các trường đại học, cao đẳng trong và ngoài
khu vực ĐBSCL. Đối với đào tạo nguồn CBCX thực hiện theo đề án được phê duyệt,
cơ sở đào tạo là TCT tỉnh, thành phố.
* Về bồi dưỡng:
Trên cơ sở quyết định của UBND tỉnh, thành phố ban hành kế hoạch ĐT, BD
CB, CC, viên chức theo từng năm, từng giai đoạn (2006-2010, 2011-2015, 2016-
74
2020), sở nội vụ, ban tổ chức tỉnh ủy, thành ủy, TCT, các đơn vị có liên quan rà soát,
xác định nhu cầu, nội dung, hình thức, đối tượng tham gia bồi dưỡng. Về nội dung
bồi dưỡng cho CBCX gồm:
Bồi dưỡng các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch HĐND và UBND cấp xã về:
kiến thức cơ bản về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và tổ chức, hoạt động của
HTCT ở xã, phường, thị trấn; kiến thức và kỹ năng trong hoạt động của HĐND
và UBND.
Bồi dưỡng các chức danh phụ trách công tác đảng, đoàn thể về: kiến thức, kỹ
năng cơ bản về tổ chức, hoạt động của HTCT ở cấp xã trong quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn; nghiệp vụ và các kỹ năng cần thiết trong công tác đảng và
các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã;
Bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước; bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng các đối tượng 3, 4; bồi dưỡng cập nhật kiến thức; bồi dưỡng các chức danh
theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Sau thời gian ngắn tham gia bồi dưỡng, đội ngũ CBCX ở ĐBSCL được nâng
cao trình độ lý luận, kiến thức và năng lực công tác, đặc biệt là sự vận dụng kiến thức
học tập vào thực tiễn cơ sở, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn
vị, địa phương.
Kết quả một số tỉnh như sau: Tỉnh Sóc Trăng, từ năm 2006 đến năm 2016 đã
mở các lớp đào tạo có số lượng CBCX tham dự như sau: cao cấp LLCT: 165; trung
cấp LLCT-HC: 1.090; trung cấp LLCT - HC và trung cấp nghiệp vụ: 762; đại học
chuyên ngành: 895 người. Các lớp bồi dưỡng có số lượng CBCX tham dự như sau:
bồi dưỡng kiến thức QLNN: 250, bồi dưỡng chức danh: 9.075, bồi dưỡng nghiệp vụ:
11.123, bồi dưỡng cập nhật kiến thức: 15.798 lượt người; Tỉnh Long An từ năm 2006
đến năm 2016 đã mở các lớp đào tạo có số lượng CBCX tham dự: cao cấp LLCT:
275, trung cấp LLCT-HC: 1.709, trung cấp LLCT-HC và trung cấp nghiệp vụ: 986,
đại học chuyên ngành: 1.176. Các lớp bồi dưỡng: bồi dưỡng kiến thức QLNN: 345,
bồi dưỡng chức danh: 12.045, bồi dưỡng nghiệp vụ: 15.980, bồi dưỡng cập nhật kiến
thức: 18.907 lượt người [9, tr15-21].
3.1.1.3. Trong việc chọn cử, bố trí cán bộ cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng
Đối tượng được xác định đưa vào quy hoạch, chọn cử đưa đi ĐT, BD CBCX là
những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong HTCT cơ sở (bí thư,
phó bí thư đảng ủy; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND; chủ tịch, phó chủ tịch UBND; chủ
75
tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam; chủ tịch Hội Nông dân; bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh; chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ; chủ tịch Hội Cựu chiến binh), những người
đưa vào quy hoạch dự kiến nguồn cho những chức vụ CBCX. Quy hoạch ĐT, BD CBCX
chú ý đến điều kiện, đặc điểm cụ thể của từng vùng, như vùng các xã đồng bằng, biên
giới, hải đảo; các phường, thị trấn; vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Thực hiện các nghị quyết, hướng dẫn của Đảng về công tác quy hoạch cán bộ
và các văn bản của Nhà nước về công tác quy hoạch ĐT, BD cán bộ nói chung, CBCX
nói riêng, những năm qua, các cấp ủy đảng, chính quyền và các cơ quan chức năng
của từng địa phương ở ĐBSCL đã tổ chức quán triệt mục đích, ý nghĩa, vai trò tầm
quan trọng của việc rà soát, quy hoạch ĐT, BD đội ngũ CBCX. Một số tỉnh đã cụ thể
hóa các văn bản chỉ đạo công tác quy hoạch ĐT, BD CBCX. Thành ủy thành phố Cần
Thơ có Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 18-5-2012 “về đào tạo cán bộ cơ sở, quận,
huyện và thành phố đạt chuẩn”. Tỉnh ủy Bến Tre có Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày
22-9-2006 “về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2006-
2010 và định hướng đến 2015”. UBND tỉnh Sóc Trăng có Kế hoạch số 08/KH-UBND
ngày 31-8-2006 về “đào tạo cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Sóc Trăng giai đoạn
2006-2010”, Quyết định số 48/2012/QĐ-UBND ngày 15-11-2012 “ban hành quy chế
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng”, Kế
hoạch số 39/KH-UBND ngày 05-12-2011 về “đào tạo cán bộ, công chức, viên chức
tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2011-2015”. UBND tỉnh Hậu Giang ra Quyết định số
30/2014/QĐ-UBND ngày 22-10-2014 “ban hành quy định về chế độ hỗ trợ đào tạo,
bồi dưỡng và chính sách thu hút nhân lực tỉnh Hậu Giang”. UBND tỉnh Cà Mau ra
Quyết định số 440/QĐ-UBND, ngày 01-4-2013 “ban hành kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chúc giai đoạn 2013-2015 và định hướng đến năm
2020”; Quyết định số 20/2014/QĐ-UBND, ngày 30-7-2014 “ban hành Quy chế đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh Cà Mau”. UBND tỉnh Vĩnh
Long có Quyết định số 1157/QĐ-UBND, ngày 24-5-2016 “phê duyệt Kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2016-
2020 theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg và Quyết định số 971/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ”.
Mặc dù chưa xây dựng được quy hoạch riêng cho đội ngũ CBCX, nhưng trong
kế hoạch ĐT, BD cán bộ các tỉnh, thành phố hằng năm, hoặc một giai đoạn, CBCX
cũng được quy hoạch ĐT, BD chung trong toàn bội đội ngũ CB, CC, viên chức của
76
từng địa phương cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh. Do đó, việc chọn cử CBCX tham gia ĐT,
BD khá thuận lợi, việc lựa chọn, cử CBCX để ĐT, BD bước đầu đã đáp ứng được nhu
cầu ĐT, BD CBCX. Khảo sát có 262/500 phiếu (52,4%) cho rằng khâu quy hoạch,
chọn cử cán bộ cấp xã đi ĐT, BD kịp thời, bảo đảm đúng quy trình.
3.1.1.4. Trong xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên; công tác
quản lý và chuẩn bị cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp xã
* Về xây dựng đội ngũ giảng viên
Trong những năm qua, các cấp ủy, chính quyền và các cơ sở ĐT, BD của các
tỉnh, thành phố ở ĐBSCL luôn quan tâm xây dựng đội ngũ giảng viên, phát triển cả
về số lượng và chất lượng, họ là những người có tinh thần trách nhiệm và tâm huyết
với nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đáp ứng tốt yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra.
Hoạt động xây dựng đội ngũ giảng viên của các tỉnh, thành ở ĐBSCL đạt được
những kết quả như sau:
Về công tác tuyển chọn giảng viên.
Công tác tuyển chọn giảng viên được các cơ sở ĐT, BD và ban tổ chức tỉnh,
thành ủy thực hiện theo tiêu chuẩn quy định, công khai, minh bạch nhằm chọn được
những người có đủ phẩm chất và năng lực. Phần đông đội ngũ giảng viên ở các cơ sở
ĐT, BD, nhất là của các TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL, được tuyển chọn khá kỹ từ
nhiều nguồn khác nhau. Việc tuyển dụng giảng viên (nhất là giảng viên ở TCT), ngoài
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thì tiêu chuẩn chính trị được đặc biệt coi trọng. Các ứng
viên phải có lịch sử chính trị rõ ràng, có lập trường, tư tưởng chính trị vững vàng, đạo
đức, lối sống trong sạch, lành mạnh và phải có khả năng phát triển trở thành đảng viên
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về đào tạo, bồi dưỡng giảng viên.
ĐT, BD LLCT cho đội ngũ giảng viên được các cơ sở đào tạo rất coi trọng. Đối
với các giảng viên giảng dạy LLCT - HC ở các TCT đều được trang bị trình độ LLCT
tương xứng. Hầu hết giảng viên của TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL mới được tuyển
dụng chưa đủ tiêu chuẩn trình độ LLCT, chưa có nền tảng kiến thức về LLCT, do đó
thông qua hoạt động này giúp giảng viên nâng cao nhận thức lý luận, giữ vững quan
điểm, lập trường, tính đảng, tính chiến đấu, thống nhất sự gắn kết lý luận với thực tiễn.
77
Số lượng giảng viên các TCT ở các tỉnh ĐBSCL được cử đi đào tạo về chuyên môn,
nghiệp vụ không ngừng được tăng lên qua các năm. Từ năm 2010 đến nay, giảng viên
ở TCT và các cơ sở ĐT, BD khác ở ĐBSCL được cử đi học khá đông, chủ yếu đi học
đại học bằng 2 và sau đại học ở cơ sở đào tạo là Học viện Báo chí và Tuyên truyền,
Học viện CTQG Hồ Chí Minh và một số cơ sở đào tạo có uy tín khác. Việc cử giảng
viên đi đào tạo cao học, nghiên cứu sinh được coi trọng hơn, số lượng tăng lên đáng kể
so với trước đây. Trong năm 2016, chỉ tính riêng các TCT ở ĐBSCL đã có 57 giảng
viên đang học cao học và 20 giảng viên học nghiên cứu sinh. Theo báo cáo của TCT
tỉnh Hậu Giang, trong nhiệm kỳ qua đã tuyển chọn đưa đi đào tạo tập trung 25 lượt
giảng viên; đào tạo không tập trung 06 lượt giảng viên; đưa 08 lượt giảng viên dự thi
và học sau đại học, 02 lượt giảng viên học nghiên cứu sinh. TCT tỉnh Đồng Tháp có
06 giảng viên đang học cao học và 05 giảng viên đang học nghiên cứu sinh [9, tr 7-8].
Việc ĐT, BD đội ngũ giảng viên có xem xét cân đối các chuyên ngành, khắc
phục tình trạng có chuyên ngành thừa giảng viên có chuyên ngành thiếu.
Ngoài ra, đội ngũ giảng viên còn được bồi dưỡng thông qua các lớp tập huấn
chuyên môn, nghiệp vụ nâng cao kỹ năng, bổ sung kiến thức; bồi dưỡng giảng viên
thông qua công tác giáo dục chính trị - tư tưởng; học tập nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh;
bồi dưỡng phương pháp giảng dạy tích cực thông qua các lớp tập huấn, hoạt động thao
giảng, dự giờ; bồi dưỡng giảng viên thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên
cứu thực tế; bồi dưỡng ngạch, bậc để nâng ngạch cho đội ngũ giảng viên.
Kết quả ĐT, BD đội ngũ giảng viên: Trình độ chuyên môn, kỹ năng được nâng
lên, lập trường, tư tưởng vững vàng, nâng cao tính chiến đấu trong giảng dạy, tính
mô phạm, tác phong, phẩm chất đạo đức người giảng viên ngày càng được hoàn thiện;
hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đội ngũ
giảng viên tham gia tích cực, có hiệu quả hơn nhiều so với trước. Các hoạt động nâng
cao chất lượng giảng dạy luôn được giảng viên quan tâm, thực hiện tốt khâu thao
giảng, dự giờ, kiểm tra, đánh giá giáo án, giờ giảng. Tính từ năm 2007 đến năm 2017,
ở ĐBSCL có 90 giảng viên của các TCT được công nhận giảng viên dạy giỏi LLCT
toàn quốc [9, tr 8].
Quy hoạch, đánh giá, bố trí, sử dụng giảng viên
Các TCT ở ĐBSCL đã quan tâm đến công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý, đội ngũ giảng viên các khoa, phòng trên cơ sở cơ cấu, số lượng, tiêu
78
chuẩn, chất lượng và xu hướng phát triển. Hằng năm, TCT đều có nhận xét, đánh giá,
rà soát đánh giá, bổ sung quy hoạch cho phù hợp với tình hình thực tế. Điều này đã
kích thích đội ngũ giảng viên phấn đấu học tập, rèn luyện và an tâm công tác. Công
tác đánh giá giảng viên được thực hiện trên cơ sở tiêu chí cụ thể, căn cứ vào chức
trách, nhiệm vụ và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ theo đề án vị trí việc làm. Quá trình
đánh giá được tiến hành khoa học, công khai, dân chủ, minh bạch, đảm bảo công
bằng, khách quan. Các cơ sở ĐT, BD đã chú trọng đến việc bố trí, sử dụng giảng viên
phù hợp với năng lực, sở trường. Phần lớn giảng viên được bố trí, sử dụng ở các khoa
theo đúng chuyên ngành, phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo; từ đó
phát huy trí tuệ, năng lực, sở trường của giảng viên.
Quản lý giảng viên, thực hiện chế độ chính sách và tạo điều kiện làm việc đối
với giảng viên
Trong thời gian qua, việc đổi mới thực hiện cơ chế quản lý đối với giảng viên
được quan tâm đúng mức. Một số TCT đổi mới cơ chế quản lý giảng viên, thay vì
quản lý giảng viên theo giờ hành chính, nay mạnh dạn chuyển đổi theo quản lý hiệu
quả công việc, không bắt buộc ngày phải 8 giờ đến cơ quan làm việc (trừ những ngày
được phân công trực).
Chế độ chính sách đối với giảng viên được các TCT thực hiện khá tốt, bảo
đảm đúng và đủ các chế độ, chính sách cho giảng viên theo quy định như: hưởng 45%
phụ cấp đứng lớp và mỗi năm được hưởng thêm 1% thâm niên nghề nghiệp; chi trả
lương; chế độ thi đua, khen thưởng. Ngoài ra, các TCT hỗ trợ kinh phí cho giảng viên
tham gia các lớp ĐT, BD; đi dạy ở các quận, huyện, nghiên cứu thực tế; ốm đau, thai
sản; xét nâng lương trước thời hạn. Các trường thường xuyên quan tâm cải thiện,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ giảng viên; tạo điều kiện để đội ngũ
giảng viên nâng cao thu nhập, ổn định đời sống, an tâm công tác. Công tác khen
thưởng, đánh giá giảng viên hằng năm được coi trọng, từ đó động viên, khích lệ giảng
viên phấn đấu.
Điều kiện và môi trường làm việc ở các TCT ở ĐBSCL đã được cải thiện đáng
kể. Về cơ sở vật chất phòng làm việc và trang thiết phục vụ cho giảng viên giảng dạy,
nghiên cứu tương đối đầy đủ, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Môi trường
làm việc của giảng viên rất được quan tâm, xây dựng một môi trường sư phạm, công
bằng, dân chủ, đoàn kết, thân ái. Một số TCT ở ĐBSCL đã và đang thực hiện quản
lý chất lượng ĐT, BD, quản lý các hoạt động của giảng viên theo tiêu chuẩn ISO
79
(4/13 trường), có quy trình, quy định cụ thể, rõ ràng, khoa học, tạo sự đồng thuận cao
của cán bộ, giảng viên và học viên.
* Xây dựng đội ngũ báo cáo viên
Ngoài lực lượng tham gia chủ yếu trong ĐT, BD là đội ngũ giảng viên của các
cơ sở ĐT, BD, đội ngũ báo cáo viên cũng là một lực lượng rất quan trọng tham gia
vào công tác này. Đội ngũ báo cáo viên được chia thành: báo cáo viên Trung ương,
báo cáo viên cấp tỉnh, báo cáo viên cấp huyện và báo cáo viên cấp xã. Đội ngũ báo
cáo viên tham gia ĐT, BD gồm hai nhóm: một là, nhóm đội ngũ báo cáo viên được
các cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Nhà nước công nhận, họ hoạt động và hưởng
chế theo quy định của Đảng, Nhà nước về chế độ của báo cáo viên; hai là, nhóm đội
ngũ báo cáo viên không thuộc nhóm trên, nhưng có phẩm chất, trình độ, kỹ năng,
kinh nghiệm tham gia báo cáo, giảng dạy, được các cơ sở ĐT, BD mời tham gia vào
công tác ĐT, BD CB, CC. Đội ngũ báo cáo viên thuộc nhóm này thường là những
người giữ cương vị lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, đơn vị, có thể là đương chức
hoặc đã nghỉ hưu.
Trong thời gian qua, đội ngũ báo cáo viên đã đóng góp rất đáng kể vào hoạt
động ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL, trong đó hoạt động bồi dưỡng CBCX là đóng góp
nhiều nhất. Cụ thể: họ tham gia vào việc báo cáo nghị quyết, bồi dưỡng cấp ủy, các
chức danh, bồi dưỡng nâng ngạch, cập nhật kiến thức mới...
Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của báo cáo viên, trong thời gian qua các
cấp ủy các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL không ngừng tập trung xây dựng, củng cố, nâng
cao chất lượng hoạt động của đội ngũ này, quá trình xây dựng đội ngũ báo cáo viên
đã chú ý vào những vấn đề như:
Một là, lựa chọn những báo cáo viên là người có lập trường, quan điểm đúng
đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với mục tiêu lý tưởng và sự nghiệp
cách mạng của Đảng; bản thân và gia đình chấp hành tốt đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; có tính đảng cao, tinh thần đấu tranh tự phê bình và
phê bình, ý thức tổ chức kỷ luật cao, đặc biệt là kỷ luật phát ngôn; có tinh thần trách
nhiệm, nhiệt tình, tâm huyết với chuyên môn, nghiệp vụ, khiêm tốn học hỏi, gương
mẫu về đạo đức và lối sống, có mối quan hệ gần gũi, sâu sát, gắn bó với nhân dân.
Hai là, chú trọng về trình độ LLCT, trình độ chuyên môn, có hiểu biết thực
tiễn, có năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin, biết vận dụng tâm lý học, phương pháp
sư phạm và nghiệp vụ tuyên truyền miệng vào hoạt động của mình.
80
Ba là, các cấp ủy đảng chủ động đánh giá năng lực của đội ngũ cán bộ thuộc cấp
mình quản lý, căn cứ vào các tiêu chuẩn do Ban Tuyên giáo Trung ương quy định để
xem xét công nhận và đề nghị công nhận kịp thời bổ sung vào đội ngũ báo cáo viên.
Bốn là, các cơ sở ĐT, BD nghiên cứu, lựa chọn, xây dựng cho được một đội ngũ
báo cáo viên là đối tác ổn định, tham gia tích cực vào hoạt động ĐT, BD CBCX.
Đến nay, các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã có một lực lượng báo cáo viên tương
đối lớn mạnh, chất lượng được nâng hơn nhiều so với trước. Môi trường, điều kiện
hoạt động của báo cáo viên ngày càng đa dạng hơn, đặc biệt là họ tham gia rất nhiều
hoạt động ĐT, BD, trong đó ĐT, BD CBCX là chủ yếu. Qua khảo sát có 383/500
phiếu (chiếm 76,6%) cho rằng chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên làm
nhiệm vụ ĐT, BD CBCX hiện nay đáp ứng nhiệm vụ tốt và khá.
* Công tác tổ chức, quản lý ĐT, BD CBCX
Các tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố, sở nội vụ tỉnh, thành phố ở ĐBSCL
đã xây dựng các quy trình cụ thể nhằm quản lý các khóa học ĐT, BD CBCX một cách
chặt chẽ, khoa học. Trên cơ sở quy định về quy chế hoạt động của các TCT tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, các TCT tỉnh, thành phố đều đã cụ thể hóa được “Quy chế
học viên”, “Quy chế công tác chủ nhiệm lớp”, “Quy chế giảng viên”… làm cơ sở cho
việc đánh giá chất lượng giảng viên và học viên trong toàn khóa học. Cùng với bộ quy
chế là những văn bản quy định về quy trình, thủ tục mở lớp, khai giảng, bế giảng, quy
định về văn bằng, quản lý và cấp phát văn bằng, chứng chỉ các hệ ĐT, BD.
Cụ thể, tại các tỉnh Sóc Trăng, Cà Mau, An Giang, Hậu Giang..., trước mỗi
khóa ĐT, BD CBCX, các sở nội vụ, ban tổ chức, TCT đều tiến hành duyệt hồ sơ,
danh sách, kiểm tra văn bằng, chứng chỉ của tất cả các CBCX được cử đi tham gia
ĐT, BD nhằm đảm bảo đúng mục tiêu, đối tượng chiêu sinh. Trước khi khai giảng
các khóa ĐT, BD, đơn vị trực tiếp hoặc và đơn vị phối hợp triển khai hoạt động ĐT,
BD đã gửi cho các đơn vị cử CBCX đi ĐT, BD và đơn vị lãnh đạo, quản lý hoạt động
ĐT, BD biết rõ về: quyết định mở lớp, kế hoạch toàn khóa, lịch giảng dạy… để các
cơ sở trực tiếp quản lý quá trình ĐT, BD, đồng thời làm cơ sở theo dõi, nắm bắt tình
hình và chỉ đạo lớp học kịp thời. Những việc làm này hiện nay đã trở thành hoạt động
có nền nếp của trường và được các cơ quan chức năng phối hợp thực hiện đầy đủ, có
hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, các TCT thường xuyên trao đổi và định kỳ họp ban chỉ đạo khóa
học (gồm: cấp ủy cơ sở có cán bộ gửi đi đào tạo, cơ quan quản lý và cơ sở đào tạo) để
81
đánh giá chính xác tình hình hoạt động và thống nhất kế hoạch ĐT, BD đợt tiếp theo,
đảm bảo tính chủ động trong điều hành hoạt động chuyên môn. Nhìn chung, sự phối
hợp triển khai công tác quản lý ĐT, BD CBCX đã được các TCT tỉnh, thành và các
đơn vị phối hợp thực hiện chặt chẽ và có hiệu quả tốt. Trong nhiều năm qua, sau khi
được UBND tỉnh giao chỉ tiêu kế hoạch ĐT, BD CB, CC, viên chức hằng năm, các
TCT tỉnh, thành ở ĐBSCL đã tiến hành tổ chức hội nghị phối hợp sở nội vụ, ban tổ
chức tỉnh ủy, các sở, ngành có liên quan, các đơn vị huyện, thị xã, thành phố trực thuộc
tỉnh, thành phố triển khai công tác ĐT, BD. Thông qua hội nghị này, lãnh đạo tỉnh,
thành phố nắm bắt và đánh giá được công tác phối hợp quản lý ĐT, BD trong năm
trước và bàn các giải pháp để phối hợp triển khai tốt kế hoạch ĐT, BD CB, CC, viên
chức cho năm tiếp theo.
Ngoài ra, các đơn vị lãnh đạo, quản lý hoạt động ĐT, BD CBCX và TCT các
tỉnh, thành ở ĐBSCL còn thực hiện tốt công tác phối hợp tiến hành kiểm tra, thanh
tra môn học để nâng cao chất lượng dạy và học thông qua những hình thức như: kiểm
tra các điều kiện học tập, kiểm tra đột xuất các giờ giảng của giảng viên, tổ chức lấy
phiếu đóng góp của học viên, kiểm tra qua sổ đầu bài, lịch giảng dạy… Đồng thời,
các cơ sở đào tạo, nhất là TCT, còn thường xuyên quan tâm đến việc thanh tra, kiểm
tra việc chuẩn bị giáo án của giảng viên; thực hiện kiểm tra học viên như kiểm tra nơi
ở, kiểm tra thời gian tự nghiên cứu của học viên, nhất là đối với học viên học tập
trung thuộc chương trình đào tạo LLCT - HC... để đảm bảo quy chế và kịp thơi uốn
nắn những vi phạm của học viên. Sau các đợt thanh tra, kiểm tra, cùng với việc lấy
phiếu thăm dò ý kiến của học viên, các ý kiến đóng góp của các đơn vị tổ chức lớp
ĐT, BD ở các huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, lãnh đạo các TCT đều có các
buổi làm việc rút kinh nghiệm cho giảng viên, gặp gỡ từng giảng viên, thông báo kết
quả đánh giá của học viên, ý kiến của ban chỉ đạo, ban thanh tra để giảng viên, học
viên rút kinh nghiệm và nâng cao được chất lượng công tác giảng dạy.
* Bảo đảm các điều kiện kinh phí, tài liệu, cơ sở vật chất, kỹ thuật.. trong ĐT,
BD CBCX
Mặc dù các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL còn gặp nhiều khó khăn, song được sự
quan tâm của các cấp ủy đảng, hệ thống các cơ ĐT, BD được củng cố và đầu tư nâng
cấp. Các trường cơ bản đều có cơ sở vật chất ngày càng khang trang. Một số cơ sở
ĐT, BD, TCT tỉnh đã được đầu tư xây dựng phòng học hiện đại, trang bị các thiết bị
giảng dạy hiện đại như máy chiếu, bảng từ, bảng lật, máy điều hòa… như TCT Đồng
82
Tháp, TCT Cà Mau, TCT Kiên Giang, TCT Long An... Một số trường đang được đầu
tư xây dựng mới và nâng cấp như: TCT Cần Thơ, TCT Sóc Trăng, TCT An Giang.
Điều kiện ăn, ở, sinh hoạt của học viên cũng được nhiều địa phương quan tâm. Nhiều
khu ký túc xá của học viên được nâng cấp, xây dựng khép kín, nhiều cơ sở ĐT, BD
có nơi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, như: TCT Châu Văn Đặng tỉnh
Bạc Liêu; TCT tỉnh Sóc Trăng, TCT tỉnh Đồng Tháp... Sự quan tâm đầu tư cơ sở vật
chất như trên đã góp phần quan trọng vào thành công của công tác ĐT, BD CBCX
các tỉnh, thành ở ĐBSCL trong những năm qua.
Thực hiện chính sách ĐT, BD đối với CBCX
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác ĐT, BD CBCX, nghiên cứu các
quy định của Đảng, Nhà nước về chính sách ĐT, BD, đánh giá điều kiện thực tế từng
tỉnh, thành và nghiên cứu các tỉnh, thành khác ngoài khu vực, trong những năm qua,
các tỉnh ủy, thành ủy và UBND tỉnh, thành phố ở ĐBSCL rất cọi trọng việc thực hiện
các chính sách trong công tác ĐT, BD CB, CC, viên chức nói chung, CBCX nói riêng.
Trách nhiệm của CBCX là phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ lý
luận; kiến thức, kỹ năng hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và các kiến thức bổ trợ
khác theo quy định. Đối với CB, CC đang giữ chức vụ và thuộc ngạch, chức danh
nào phải ĐT, BD đáp ứng các tiêu chuẩn trình độ kiến thức quy định cho chức vụ và
ngạch, chức danh đó. CBCX sau khi đã được ĐT, BD mà tự ý bỏ việc hoặc chuyển
công tác khỏi khu vực nhà nước vì lý do cá nhân thì phải bồi thường cho cơ quan, tổ
chức sử dụng CB, CC các chi phí ĐT, BD theo quy định của Nhà nước. Bên cạnh
trách nhiệm, CBCX có quyền lợi như: khi được cử đi ĐT, BD được cơ quan bố trí
thời gian và kinh phí theo chế độ quy định; trong trường hợp CB, CC theo nguyện
vọng cá nhân mà được cơ quan có thẩm quyền cử đi ĐT, BD thì được cơ quan hỗ trợ
về thời gian và kinh phí tùy theo khả năng và điều kiện cho phép; trong thời gian
được cử đi dự các khóa ĐT, BD CBCX được hưởng nguyên lương và các chế độ khác
theo quy định.
Từ những quy định chung của Trung ương về tiêu chuẩn cán bộ, định hướng
quy hoạch ĐT, BD CB, CC trong những năm 2011-2015 và 2016-2025 do Thủ tướng
phê duyệt, tỉnh ủy, thành ủy từng tỉnh, thành phố đã thực hiện đổi mới và quản lý chặt
chẽ việc đào tạo cán bộ, từ việc ban hành đề án, chương trình, kế hoạch ĐT, BD, phân
bổ, cơ cấu nguồn kinh phí đi đôi với việc phân công, phân cấp trong công tác ĐT, BD
bảo đảm phù hợp giữa các cơ quan, đơn vị làm công tác ĐT, BD. Cụ thể: Kế hoạch số
83
68/KH-UBND ngày 28-12-2012 của UBND thành phố Cần Thơ “về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức giai đoạn 2011 - 2015”; Quyết định số 28/2010/QĐ-UBND ngày
25-5-2010 của UBND tỉnh An Giang “về việc ban hành Quy định chế độ trợ cấp đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và chính sách thu hút, khuyết khích người
có trình độ cao trên địa bàn tỉnh An Giang”; Quyết định số 4107/QĐ-UBND ngày 28-
12-2011 của UBND tỉnh Bạc Liêu “về việc ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức, viên chức nhà nước tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2011 2015”; Quyết định
số 440/QĐ-UBND, ngày 01-4-2013. UBND tỉnh Cà Mau ban hành kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chúc giai đoạn 2013-2015 và định hướng đến năm
2020; Quyết định 01/2012/QĐ-UBND ngày 02-02-2012 của UBND tỉnh Tiền Giang
về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và thu hút nguồn nhân lực; Quyết
định số 1163/QĐ-UBND, ngày 24-5-2016 của UBND tỉnh Vĩnh Long về việc phê
duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Vĩnh Long, giai
đoạn 2016 - 2025.
Nhìn chung, các đề án, chương trình, quy định, kế hoạch ĐT, BD có tính chiến
lược, đưa công tác ĐT, BD cán bộ vào nghị quyết và lãnh đạo thể chế hóa về mặt nhà
nước làm cho các cấp ủy, chính quyền, các đơn vị tham gia thực hiện ĐT, BD thấy
đúng tầm quan trọng của ĐT, BD CBCX. Các đơn vị ĐT, BD ở ĐBSCL đã chủ động
tham mưu, đề xuất với tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố mở các lớp ĐT, BD
CBCX với nhiều hình thức khác nhau, trên cơ sở kế hoạch đã được phê duyệt. Nhiều
tỉnh, thành phố đã tạo điều kiện tốt nhất về mặt chính sách: lợi ích vật chất, tinh thần
và quyền lợi chính trị để CBCX yên tâm tham gia học tập.
Việc thực hiện chính sách hỗ trợ ĐT, BD cho CBCX được các tỉnh, thành phố
ở ĐBSCL rất quan tâm. Đối với chế độ ĐT, BD CBCX tham gia học tập, tùy theo
đặc điểm, điều kiện từng tỉnh, thành có quy định cụ thể, chẳng hạn:
Tỉnh Kiên Giang quy định: về đào tạo, CB, CC, viên chức trong thời gian tập
trung học tập được hỗ trợ một phần tiền ăn, mức hỗ trợ tối đa 30.000 đồng/người/ngày
(học các lớp mở tại cơ sở đào tạo ở địa bàn thành phố Rạch Giá và ngoài tỉnh), 25.000
đồng/người/ngày học các lớp mở tại cơ sở đào tạo ở địa bàn các huyện, thị xã, thành
phố (gọi chung là cấp huyện). Học phí được thanh toán theo thông báo thu của cơ sở
đào tạo. Tài liệu học tập, thanh toán tối đa không quá 800.000 đồng/năm (thời gian
tập trung học tập một năm từ 4 tháng trở lên), đối với các lớp ngắn hạn không quá
100.000 đồng/đợt. Tiền ở trong những ngày học tập trung tại cơ sở đào tạo (trong
84
trường hợp cơ sở đào tạo xác nhận không bố trí được chỗ nghỉ) được hỗ trợ một phần,
cụ thể như sau: học ngoài tỉnh mức hỗ trợ tối đa là 30.000 đồng/người/ngày; học trong
tỉnh mức hỗ trợ tối đa là 20.000 đồng/người/ngày. Ngoài các mức trợ cấp nêu trên,
nếu học viên là nữ được trợ cấp thêm 50.000 đồng/người/tháng; là người dân tộc thiểu
số trợ cấp thêm 50.000 đồng/người/tháng. Đối với người học nghiên cứu sinh, cao
học được khoán kinh phí viết và bảo vệ luận án, luận văn tốt nghiệp sau khi có bằng
với mức: tiến sĩ 30.000.000 đồng, thạc sĩ 20.000.000 đồng. Về bồi dưỡng, đối với các
lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn theo yêu cầu của ngành (không kể
các lớp tập huấn hội, đoàn thể; QLNN, chính trị, ngoại ngữ, tin học, tiếng dân tộc):
ngắn hạn dưới 01 tháng áp dụng theo chế độ công tác phí hiện hành của tỉnh; từ 01
tháng trở lên hỗ trợ cho đối tượng được cử đi bồi dưỡng, tập huấn tối đa không quá
về tiền ăn 60.000đồng/người/ngày, tiền ở 80.000 đồng/người/ngày (nếu đơn vị tổ
chức tập huấn không bố trí chỗ ăn, ở) [104, tr 3-7].
Tỉnh Cà Mau: CBCX được cử đi đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng,
đại học thì được hỗ trợ tiền học phí theo thông báo của cơ sở đào tạo (nếu có); hỗ trợ
bằng 0,03 mức lương tối thiểu chung/người/ngày thực học (theo thông báo của cơ sở
đào tạo) đối với các lớp học tại tỉnh Cà Mau; hỗ trợ bằng 0,04 mức lương tối thiểu
chung/người/ngày thực học đối với lớp học ngoài tỉnh Cà Mau. Học viên nữ được hỗ
trợ thêm bằng 10% so với mức hỗ trợ tương ứng nêu trên. CBCX được cử đi đào tạo sau
đại học ở trong nước được hỗ trợ tiền học phí theo quy định của cơ sở đào tạo và hỗ trợ
chi phí học tập của toàn khóa học: tiến sĩ bằng 100 lần mức lương tối thiểu chung, thạc
sĩ bằng 60 lần mức lương tối thiểu chung [103, tr 3-5].
Tỉnh Long An, CBCX đi học tập được hỗ trợ như sau: tiền ăn, nếu học ở Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh hỗ trợ 50.000 đồng/người/ngày, ở các tỉnh, thành phố
khác 40.000 đồng/người/ngày, trong tỉnh 30.000 đồng/người/ngày; Tiền học phí, lệ phí
thi tuyển, thi cuối khóa được thanh toán theo biên lai thu tiền của nhà trường. Tài liệu
học tập được thanh toán tiền tài liệu học tập theo chương trình chính khóa, có phiếu
thu của nhà trường, không thanh toán tiền tài liệu cho việc tham khảo của học viên.
Tiền nghỉ trọ, nếu có phiếu thu của nhà trường, cơ sở đào tạo hoặc có giấy xác nhận
nơi thuê chỗ trọ, học ngoài tỉnh mức hỗ trợ 600.000 đồng/tháng/người, học trong tỉnh
(áp dụng đối với khoảng cách từ cơ quan đến nơi học từ 15 km trở lên) mức hỗ trợ là
300.000 đồng/người/tháng. Ngoài ra, tỉnh còn hỗ trợ tiền tàu, xe đối với các đối tượng
ĐT, BD trong và ngoài tỉnh [182, tr 2-5].
85
Việc thực hiện chế độ chính sách ĐT, BD cho CBCX ở các tỉnh ĐBSCL hoàn
toàn không giống nhau, mỗi tỉnh, thành phố một mức hỗ trợ cụ thể riêng biệt. Tuy
nhiên, dù ít, dù nhiều, nó cũng thể hiện rõ sự quan tâm của tỉnh, thành ủy, HĐND,
UBND của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL. Chế độ chính sách ĐT, BD là động lực
giúp cho CBCX hoàn thành hiệu quả chương trình ĐT, BD.
3.1.1.5. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cấp xã
Công tác kiểm tra, giám sát trong hoạt động ĐT, BD CBCX là một trong những
chức năng quan trọng của các cấp ủy đảng, chính quyền và các cơ quan có thẩm quyền
trong lãnh đạo, quản lý và của cơ sở ĐT, BD, để công tác ĐT, BD CB, CC nói chung
và CBCX nói riêng diễn ra theo đúng quy định. Trong thời gian qua, căn cứ chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền, lãnh đạo các đơn vị ở các cấp đã tiến hành hoạt động kiểm tra,
giám sát, thanh tra công tác ĐT, BD CB, CC, trong đó có ĐT, BD đội ngũ CBCX:
Học viện CTQG Hồ Chí Minh đã tiến hành kiểm tra, giám sát, thanh tra các hoạt
động ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL gồm: kiểm tra, giám sát, thanh tra hoạt động ĐT, BD
cao cấp LLCT của Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị khu vực IV; tiến
hành kiểm tra, giám sát trực tiếp các hoạt động ĐT, BD của TCT ở một số tỉnh, thành
phố (Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang), trong đó tập trung nhiều vào việc kiểm
tra, giám sát hoạt động đào tạo trung cấp LLCT - HC, các điều kiện cơ sở vật chất đảm
bảo cho ĐT, BD.... Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban
Chỉ đạo Tây Nam bộ cũng đã thường xuyên kiểm tra, giám sát công tác ĐT, BD CB, CC
của các tỉnh, thành, các cơ sở ĐT, BD ở ĐBSCL.
Các tỉnh ủy, thành ủy ở ĐBSCL cũng đã chủ động thành lập hội đồng giáo dục
- đào tạo của tỉnh, thành phố. Người đứng đầu hội đồng là chủ tịch UBND hoặc phó
chủ tịch UBND tỉnh, thành phố phụ trách văn hóa, xã hội. Hội đồng giao nhiệm vụ
cho một số thành viên theo dõi, giám sát hoạt động giáo dục - đào tạo và báo cáo trực
trực tiếp, thường xuyên cho tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố về hoạt động
ĐT, BD CB, CC.
Các cấp ủy cấp tỉnh, huyện cũng đã chỉ đạo các đơn vị, cán bộ lãnh đạo đơn vị,
cơ sở ĐT, BD CB, CC chủ động kiểm tra, giám sát các hoạt động có liên quan đến
công tác ĐT, BD. Một là, giao UBKT của cấp ủy cấp trên trực tiếp tổ chức đảng của
các cơ sở ĐT, BD có kế hoạch thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm
vụ chính trị. Hai là, chỉ đạo Thanh tra nhà nước cấp tỉnh, cấp huyện theo dõi, hỗ trợ,
86
đồng thời tiến hành thanh tra các hoạt động của cơ sở ĐT, BD, chủ yếu về mặt tài
chính. Ba là, ủy viên ban thường vụ - trưởng ban tuyên giáo cấp ủy cấp tỉnh, huyện
được giao nhiệm vụ theo dõi, lãnh đạo trực tiếp hoạt động ĐT, BD của TCT có kế
hoạch kiểm tra, giám sát về nội dung, chương trình, giảng dạy, quản lý. Bốn là, ban tổ
chức cấp ủy cấp tỉnh, huyện, sở nội vụ, phòng nội vụ thực hiện kiểm tra, giám sát việc
quy hoạch, chọn cử CBCX đi ĐT, BD, theo dõi cán bộ tham gia ĐT, BD. Năm là, các
cơ sở ĐT, BD ở tỉnh, thành phố ĐBSCL, trong đó chủ yếu là TCT, đều thành lập ban
thanh tra giáo dục. Ban giám hiệu TCT đã chủ động thực hiện công tác kiểm tra, giám
sát các hoạt động về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà trường, chỉ đạo cho
thanh tra giáo dục thực hiện tốt nhiệm vụ thanh tra các hoạt động như: giảng dạy của
giảng viên, báo cáo viên, hoạt động coi kiểm tra, thi, hoạt động chấm bài... Sáu là, từng
khóa ĐT, BD đều có thành lập ban chỉ đạo lớp học, ban này đã thực hiện nhiệm vụ
theo dõi quá trình học tập, tiến độ học tập, việc chấp hành quy định, quy chế của người
dạy, người học và người quản lý lớp học, nắm bắt kịp thời những phản ảnh có liên quan
trực tiếp đến lớp học, qua đó phối hợp, chỉ đạo giải quyết, đảm bảo hoạt động ĐT, BD
diễn ra đúng kế hoạch, đạt hiệu quả cao.
Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra ĐT, BD CBCX đã có những tác động
thay đổi rất lớn đến các hoạt động trong công tác ĐT, BD CBCX như: một là, công
tác quy hoạch, chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD được tốt hơn, đúng đối tượng hơn;
hai là, chương trình, nội dung, hoạt động giảng dạy, học tập, việc thực hiện quy định,
quy chế, nội quy nghiêm túc hơn, chất lượng được nâng lên; ba là, những phản ảnh,
vướng mắc trong công tác ĐT, BD CBCX đã được chỉ đạo giải quyết kịp thời; bốn
là, các chế độ chính sách được bảo đảm thực hiện đúng theo quy định.
3.1.1.6. Việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cấp xã
Việc sơ kết, tổng kết để đánh giá lại quá trình tiến hành công tác ĐT, BD
CBCX được chú trọng. Qua sơ kết, tổng kết công tác ĐT, BD CBCX, các chủ thể
lãnh đạo, quản lý và tiến hành ĐT, BD CBCX có cái nhìn tổng quát, nắm lại quy
trình, thực tế ĐT, BD CBCX, từ đó rút ra những kinh nghiệm quý báu trong công tác
ĐT, BD CBCX, có những chỉ đạo kịp thời đối với công tác ĐT, BD CBCX, giúp cho
công tác này đạt được mục tiêu đề ra.
Hằng năm, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, các cơ quan, bộ, ngành Trung ương
đều có tổ chức sơ kết, tổng kết công tác ĐT, BD CB, CC. Hoạt động này có sự tham gia
87
của các cán bộ lãnh đạo, quản lý hoạt động ĐT, BD CBCC ở địa phương. Các cơ sở phối
hợp thực hiện công tác ĐT, BD CBCX cũng đã chủ động cùng với cấp ủy địa phương
tiến hành sơ kết, đánh giá công tác ĐT, BD.
Các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các cơ quan có thẩm quyền và cơ
sở ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL đã rất chú trọng việc tổ chức sơ kết, tổng kết công tác
ĐT, BD CBCX. Hoạt động này được diễn ra thường xuyên theo định kỳ gắn với kế
hoạch ĐT, BD, đồng thời qua các cuộc họp hằng quý, sáu tháng, tổng kết năm hoặc
tổng kết chương trình, đề án ĐT, BD CBCX. Trong sơ kết, tổng kết, các cơ sở ĐT,
BD CBCX đã phối hợp cùng với các đơn vị có liên quan đánh giá kết quả đạt được và
chưa đạt được ở các nội dung như: việc triển khai kế hoạch ĐT, BD; việc tổ chức thực
hiện ĐT, BD; những thuận lợi, khó khăn đặt ra trong giảng dạy, học tập, quản lý; các chế
độ chính sách để thực hiện ĐT, BD. Đó là những cơ sở quan trọng để định hướng tiếp
theo cho hoạt động ĐT, BD CBCX.
Các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL tổ chức tổng kết công tác ĐT, BD CBCX không
chỉ khi kết thúc khóa học, mà sau đó một thời gian, các cơ quan quản lý CBCX cùng cơ
sở ĐT, BD phối hợp tổng kết, đánh giá hiệu quả ĐT, BC CBCX trên thực tế, xem CBCX
sau ĐT, BD đã vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn lãnh đạo, quản lý hiệu quả như
thế nào. Việc này giúp chủ thể lãnh đạo, quản lý, tiến hành công tác ĐT, BC CBCX có
cái nhìn toàn diện hơn, đặc biệt xem xét nội dung ĐT, BD có đáp ứng được nhu cầu ĐT,
BD của CBCX hay không, đáp ứng đến đâu.
3.1.2. Những hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở
đồng bằng sông Cửu Long
3.1.2.1. Về xây dựng chủ trương, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ cấp xã
Việc đề ra chủ trương về công tác ĐT, BC CBCX của các tỉnh ủy, thành ủy,
UBND tỉnh, thành phố ở ĐBSCL còn chậm so với yêu cầu, nhất là những nghị quyết
chuyên đề về công tác ĐT, BD CB, CC. Những chủ trương về ĐT, BC CBCX của cấp
ủy các cấp ở ĐBSCL thường mới chỉ lồng ghép trong nghị quyết đại hội nhiệm kỳ,
chương trình hành động thực hiện nghị quyết của Trung ương. Chính vì thế, có những
nghị quyết, quan điểm chỉ đạo về công tác ĐT, BD CB, CC của các cấp ủy đảng, chính
quyền ở ĐBSCL đã đề ra rất lâu, nhưng đến nay chưa được bổ sung, điều chỉnh, ban
hành mới cho phù hợp quan điểm của Đảng, Nhà nước và tình hình mới. Qua nghiên
cứu các văn bản của các cấp ủy, chính quyền ở ĐBSCL, đến nay chưa thấy địa phương
nào có một nghị quyết, quy định riêng về công tác ĐT, BD CBCX.
88
Công tác lập kế hoạch ĐT, BD cho đội ngũ CB, CC, trong đó có đội ngũ CBCX,
hằng năm của tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố, các cơ quan chức năng, các
TCT ở ĐBSCL mới chỉ dựa vào thực tế con số ở cơ sở, chưa có tầm nhìn chiến lược
dài hạn, mang tính khoa học. Do vậy, đến nay vẫn chưa đạt được một số chỉ tiêu theo
Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ “về phê duyệt
đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025”. Vẫn còn
hiện tượng các tỉnh chờ từ nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước để xây dựng kế hoạch
ĐT, BD dẫn đến tình trạng lập và triển khai kế hoạch các lớp chậm, đáng lẽ ngay từ
đầu năm sau khi thẩm định của hội đồng giáo dục - đào tạo, thì UBND tiến hành phê
duyệt và triển khai kế hoạch ĐT, BD cán bộ chậm, triển khai thực hiện có khi tới qua
hết quý II mới tiến hành. Còn tình trạng cán bộ xây dựng kế hoạch ĐT, BD chưa nắm,
bám sát đối tượng và nhu cầu ĐT, BD, dẫn đến thực tế có năm xây dựng và triển khai
kế hoạch ĐT, BD rất nhiều lớp, những đối tượng được chọn cử không tham gia đủ,
đúng tiêu chuẩn hoặc có năm nhu cầu CBCX phải được đào tạo, đặc biệt là bồi dưỡng
nhiều, nhưng trong kế hoạch không đáp ứng được. Thời gian thực hiện trong kế hoạch
ĐT, BD thường từ quý III đến cuối năm, việc tập trung CBCX tham gia ĐT, BD cùng
một lúc nhiều cũng ảnh hưởng tới các hoạt động ở cơ sở, ngoài ra tập trung cùng lúc
tại cơ sở đào tạo cũng làm quá tải về điều kiện lớp học phục vụ cho hoạt động ĐT, BD.
Hiện nay, một số tỉnh ở ĐBSCL vẫn còn tình trạng xây dựng kế hoạch ĐT, BD
chưa xuất phát từ nhu cầu, đòi hỏi thực tiễn trong công tác cán bộ. Với mỗi nhóm đối
tượng (chức danh) của CBCX, chưa xác định rõ cần ĐT, BD nội dung nào, bằng
phương thức nào cho thích hợp, nên việc ĐT, BD còn chung chung cho tất cả CBCX,
chưa có sự bóc tách theo đối tượng để ĐT, BD theo nhu cầu bảo đảm tính chuyên sâu
về từng mảng kiến thức, kỹ năng. Mặc dù cũng có nơi, có lúc các tỉnh đã hình thành
việc mở một số lớp bồi dưỡng theo chuyên đề, theo đối tượng, song chương trình, nội
dung không mới, không cập nhật kịp thời, không thiết thực, nhất là việc bồi dưỡng
chức danh theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính
phủ. Vì vậy, nhiều CBCX có bằng cấp, chứng chỉ, nhưng không vận dụng có hiệu quả
kiến thức trong thực hiện nhiệm vụ.
Qua khảo sát có 92/500 phiếu (18,4%) các chủ trương, chính sách, quy chế,
quy định về ĐT, BD CBCX chỉ đáp ứng một phần; có 74/500 (4,8%) chưa đáp ứng
yêu cầu.
89
3.1.2.2. Về chỉ đạo xây dựng và thực hiện chương trình, nội dung đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ cấp xã
Trong thời gian qua, tuy có mở rộng, đa dạng hóa về quy mô, hình thức ĐT, BD
CBCX, song công tác ĐT, BD lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước, MTTQ, các tổ
chức chính trị - xã hội nói chung, CBCX nói riêng, vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ cách mạng mới hiện
nay. Xét về quy mô, tốc độ, chất lượng ĐT, BD CBCX vẫn còn khoảng cách xa so với
yêu cầu bức thiết về nâng cao chất lượng đội ngũ CBCX hiện nay.
Nhìn chung, các cơ sở ĐT, BD như Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Hành chính quốc gia (chi nhánh thành phố Hồ
Chí Minh), Học viện Chính trị khu vực IV, các trường đại học, các cơ sở ĐT, BD ở
khu vực và ngoài ĐBSCL đảm bảo tốt các khâu trong công tác ĐT, BD cán bộ. Riêng
Học viện Chính trị khu vực IV là đơn vị chủ yếu thực hiện đào tạo LLCT chương
trình cao cấp, nhưng do điều kiện cơ sở vật chất chưa được đầu tư kịp thời, công tác
đào tạo LLCT, nhất là hình thức đào tạo tập trung, vẫn còn đặt các lớp ở các tỉnh,
thành phố. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả trong giảng
dạy, học tập và nghiên cứu của cán bộ.
Sự quan tâm chỉ đạo, phối hợp của các ngành, đơn vị đối với công tác ĐT, BD
CBCX còn hạn chế. Nhiều địa phương chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của
công tác ĐT, BD cán bộ, vì thế quan tâm chưa đúng mức. Hoạt động phối hợp giữa
các cơ sở ĐT, BD cán bộ trong thời gian gần đây cũng bị hạn chế rất nhiều, nhất là
hoạt động đào tạo chuyên môn, đại học, cao đẳng. Việc chiêu sinh không bảo đảm
yêu cầu, số lượng để tiến hành mở lớp so với trước, một số cán bộ không có điều kiện
tham gia đào tạo. Một số chính sách hỗ trợ cho cán bộ tham gia đào tạo, cao đẳng,
đại học của nhiều tỉnh ở ĐBSCL không còn như trước, thậm chí gần đây không hỗ
trợ chính sách cho cán bộ tham gia học tập nâng cao trình độ ở chương trình cao học
(như ở Sóc Trăng, Cần Thơ). Chính vì thế, việc mở các lớp đại học chuyên ngành
như trước diễn ra rất ít.
Hoạt động ĐT, BD CBCX ở một số TCT tỉnh, thành phố chưa thực hiện đúng
các quy định của Trung ương, chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Chẳng
hạn, việc sắp xếp cơ cấu tổ chức bộ máy gắn với phân bổ nguồn nhân lực giảng dạy ở
nhiều TCT không theo đúng Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03-9-2008 của Ban Bí
thư “về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực
90
thuộc Trung ương”. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ ĐT, BD cán bộ chưa có đủ
nguồn nhân lực tham gia ĐT, BD, nhất là việc bồi dưỡng về kỹ năng lãnh đạo, chuyên
môn, nghiệp vụ cho các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ chuyên môn,
nghiệp vụ của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp, đào tạo tiền công
vụ đối với công chức dự bị; bồi dưỡng chuyên viên, chuyên viên chính và các chức
danh tương đương theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ
về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Việc thực hiện nội dung bồi dưỡng của nhiều
tỉnh, thành phố ở ĐBSCL do sở nội vụ phối hợp với các cơ sở ĐT, BD khác thực hiện,
nên tính chủ động trong công tác bồi dưỡng chưa tốt. Công tác phối hợp giữa đơn vị
ĐT, BD và các cơ quan chức năng tham gia công tác ĐT, BD CBCX để tiến hành trong
xây dựng kế hoạch, trong kiểm tra, giám sát quá trình ĐT, BD chưa thật sự tốt.
3.1.2.3. Việc chọn cử, bố trí cán bộ cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng
Việc chọn cử CBCX đi ĐT, BD còn bị động, đôi lúc chọn cử không chuẩn xác
với CBCX cần được ĐT, BD để nâng cao trình độ chính trị hay chuyên môn nghiệp
vụ. Có những cán bộ đã được ĐT, BD cơ bản, nhưng vẫn tiếp tục được cử tham gia
đào tạo, nội dung tiếp nhận của CBCX đó bị trùng lắp. Bên cạnh đó, có những cán bộ
rất cần kiến thức bổ sung để thực hiện tốt hơn cho nhiệm vụ của mình thì ít được quan
tâm chọn cử, nhất là việc chọn cử đi bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Ví dụ: việc
bồi dưỡng kiến thức xây dựng Đảng dành cho cấp ủy viên cơ sở, thường chỉ chọn cử
bí thư, phó bí thư phụ trách công tác đảng, còn những cấp ủy viên khác ít được tham
gia, trong khi đó họ chưa am tường về công tác đảng, về hoạt động cấp ủy. Đa số
CBCX đã có trình độ chuyên môn ở bậc cao đẳng, đại học, nhưng lại không phù hợp
với vị trí việc làm, nhưng chưa được chú ý chọn cử tham gia những khóa đào tạo bổ
sung chuyên môn cho phù hợp.
Việc chọn cử CBCX đưa đi bồi dưỡng thường thiếu sự kiểm tra, giám sát của đơn
vị chủ trì, nên có những CBCX không thuộc đối tượng vẫn được cử đi bồi dưỡng.
Hiện nay, chương trình, nội dung ĐT, BD CBCX rất phong phú, đa dạng,
nhưng do yêu cầu nhiệm vụ phải thường xuyên trực tiếp giải quyết công việc, có
những vị trí quan trọng như bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND, hoặc bí thư đồng thời
chủ tịch UBND, việc cử họ đi ĐT, BD nhiều ngày sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt
động ở cơ sở. Vì thế, những cán bộ này thường khó bố trí tham gia các khóa ĐT, BD.
Cũng có những chương trình, nội dung bồi dưỡng dành cho nhiều đối tượng như: bồi
dưỡng kiến thức hội nhập quốc tế, kiến thức về QLNN, bồi dưỡng cập nhật kiến thức
91
về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... nhưng do điều kiện kinh phí hạn chế, việc
chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD bị giới hạn.
Kết quả điều tra cho thấy, có 132/500 người được hỏi (chiếm 26,4%) cho rằng
khâu quy hoạch, chọn cử CBCX đi ĐT, BD còn bị động; có 60/500 ngươi được hỏi
(chiếm 12,0%) cho rằng tuy có thực hiện quy hoạch nhưng không gắn chặt với ĐT,
BD; có 40/500 người được hỏi (chiếm 8,0%) cho rằng công tác này còn nhiều hạn
chế, bỏ ngõ.
3.1.2.4. Về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên,
công tác quản lý và chuẩn bị cơ sở vật chất, đầu tư kinh phí cho hoạt động đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ cấp xã
* Công tác xây dựng đội ngũ giảng viên
Trong tuyển chọn giảng viên chưa có lộ trình, quy trình chặt chẽ, chưa đúng đối
tượng, tiêu chuẩn, còn biểu hiện nể nang, cảm tính, hình thức, chưa xuất phát từ nhu cầu
thực tế của đơn vị, thiếu tính kế thừa theo độ tuổi. Do đặc điểm ở ĐBSCL ít có cơ sở đào
tạochuyênngànhLLCT,nên việc tuyểnchọn giảngviênLLCTgặpnhiều khó khăn.Nhiều
người được tuyển làm giảng viên từ các ngành khác nhau như cử nhân sư phạm lịch sử,
cử nhân sư phạm ngữ văn, cử nhân ngữ văn, tiếng Anh, địa lý, nông nghiệp, thủy sản...
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ giảng viên. Việc tuyển dụng
giảng viên từ nguồn các sở, ban, ngành có năng lực sư phạm tham gia giảng dạy được chú
trọng, nhưng rất khó, vì cán bộ đã có vị trí công việc ổn định. Do chưa chú trọng đúng mức
đến yếu tố năng khiếu, trình độ, kỹ năng…, nên vẫn còn tình trạng sau khi được ĐT, BD
trở về để làm giảng viên, nhiều người không phát triển được thành giảng viên, buộc phải
chuyển sang các bộ phận chuyên môn khác, thậm chí phải nghỉ việc.
* Công tác ĐT, BD giảng viên
Công tác đào tạo đội ngũ giảng viên ở một số TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL
chưa được quan tâm đúng mức, chưa có kế hoạch dài hạn và liên tục, có trường hợp
giảng viên được cử đào tạo không phù hợp chuyên môn giảng dạy. Việc cử giảng
viên đi đào tạo tập trung còn khó khăn, giảng viên thích được học gần hơn đi xa, thích
học không tập trung hơn học tập trung.
Công tác bồi dưỡng, tập huấn đội ngũ giảng viên ở một số TCT còn hạn chế,
số lượng giảng viên được cử đi bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn còn ít, một số
giảng viên do chi phối nhiều việc nên chưa chú tâm học tập. Công tác bồi dưỡng
ngạch, bậc vẫn một số bất cập. Số lượng giảng viên đạt trình độ giảng viên chính,
92
giảng viên cao cấp chưa nhiều, trong khi đòi hỏi của học viên ngày càng cao. Cụ thể:
giảng viên cao cấp, giảng viên chính mới chỉ chiếm 35,6% trên tổng số giảng viên
của các TCT ở ĐBSCL (trong đó giảng viên cao cấp chỉ chiếm khoảng 3,61%).
Công tác bồi dưỡng, giáo dục chính trị - tư tưởng, đạo đức, lối sống cho đội ngũ
giảng viên ở một vài tỉnh, thành phố ở ĐBSCL còn những mặt hạn chế nhất định như:
hình thức triển khai chủ yếu truyền đạt một chiều từ trên xuống, chưa phát huy việc thảo
luận, tranh luận trong sinh hoạt đảng; công tác nắm bắt dư luận, giải thích và định hướng
tư tưởng cho giảng viên chưa được chú trọng. Ở một số TCT, công tác giáo dục chính trị
- tư tưởng hiệu quả chưa cao, một số giảng viên chưa nghiêm túc trong học tập, nghiên
cứu nghị quyết. TCT Sóc Trăng đã chỉ ra: một số cấp ủy, chi bộ việc triển khai, quán
triệt, đôi lúc thiếu chủ động, chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao; việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tuy có chuyển biến tích cực, nhưng thiếu chiều sâu,
việc làm theo tấm gương của Bác chưa nhiều. TCT Tiền Giang đánh giá: việc xây dựng
tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến để nhân rộng còn lúng túng về phương pháp, cách
làm theo tấm gương phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh.
Một số TCT chưa đầu tư thích đáng cho việc bồi dưỡng về sử dụng phương pháp
giảng dạy tích cực và trang bị dụng cụ hỗ trợ giảng dạy, nên hiệu quả của vận dụng
phương pháp giảng dạy tích cực chưa cao. Vẫn còn một số giảng viên ngại thay đổi
phương pháp giảng dạy, tiếp cận công nghệ thông tin, các phương tiện hỗ trợ giảng dạy
hiện đại hạn chế, nên chất lượng, hiệu quả giảng dạy chưa cao.
Hoạt động thao giảng, dự giờ ở một số trường chưa được quan tâm, đầu tư
đúng mức, ảnh hưởng đến đổi mới phương pháp giảng dạy. Hoạt động dự giờ ít được
chú ý, chưa tạo nên phong trào rộng khắp. Công tác thao giảng ở một số trường còn
tổ chức theo phong trào, chỉ tập trung vào những năm có hội thi giảng viên dạy giỏi
toàn quốc để tuyển chọn giảng viên dự thi, chưa thực hiện được thường xuyên hằng
năm theo nền nếp, kế hoạch.
Công tác nghiên cứu khoa học ở các TCT ở ĐBSCL vẫn còn những khó khăn,
vướng mắc nhất định. Các hoạt động khoa học như tổ chức hội thảo, tọa đàm khoa học
hiệu quả chưa cao. Số lượng các đề tài khoa học các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh, thành
phố, còn ít và kết quả loại giỏi, loại xuất sắc chưa nhiều. Các bài viết đăng trên tạp chí
chuyên ngành trong nước và quốc tế còn hạn chế về số lượng. Điều này cho thấy, năng
lực tổ chức, tư duy khoa học, phương pháp nghiên cứu và triển khai đề tài khoa học của
đội ngũ giảng viên ở các TCT còn nhiều bất cập.
93
Công tác nghiên cứu thực tế của giảng viên tuy được quan tâm, nhưng hiệu
quả chưa cao, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn giảng dạy. Hầu hết giảng viên
LLCT các TCT đều được ĐT, BD khá bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ. Tuy nhiên,
khả năng liên hệ lý luận với thực tiễn trong các bài giảng của giảng viên chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra, nhất là đối với giảng viên trẻ. Một số tỉnh ở ĐBSCL chưa
coi trọng đúng mức việc bồi dưỡng kiến thức thực tế cho giảng viên. Khảo sát các
TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL cho thấy, vấn đề trải nghiệm thực tế của giảng viên
còn nhiều hạn chế. Thời gian các giảng viên đi nghiên cứu còn ít, đôi khi chưa đảm
bảo theo quy chế, chất lượng, hiệu quả của các đợt nghiên cứu chưa cao.
* Công tác quy hoạch, đánh giá, bố trí, sử dụng giảng viên
Một số tỉnh, thành phố ở ĐBSCL chưa có quy hoạch, kế hoạch tổng thể và lâu
dài xây dựng đọi ngũ giảng viên, chủ yếu theo nhiệm kỳ, đôi khi số lượng, chất lượng
và cơ cấu vẫn chưa đảm bảo theo quy định. Công tác này chủ yếu thực hiện ở cấp
khoa, phòng, tập trung vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, chưa làm tốt quy hoạch
giảng viên gắn với đề án vị trí việc làm dẫn đến đội ngũ cán bộ, giảng viên vừa thừa,
vừa thiếu. Công tác đánh giá giảng viên ở một số cơ sở ĐT, BD còn chung chung, có
tình trạng nể nang, hình thức, cào bằng. Đánh giá giảng viên ở một số nơi còn có biểu
hiện chưa được công tâm, khách quan, chưa đánh giá được đúng người, đúng việc,
phẩm chất và năng lực. Công tác bố trí, sử dụng giảng viên có lúc, có nơi chưa đúng
người, đúng việc, thậm chí tham gia giảng dạy các phần học chưa đúng chuyên ngành
được đào tạo. Thực tế cho thấy, hầu hết giảng viên khoa dân vận ở các TCT đều không
được học chuyên ngành công tác dân vận, vì chuyên ngành này mới được mở ở trình
độ đại học vào năm 2016 ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Có trường ở khoa Xây dựng
Đảng nhưng chưa có giảng viên chuyên ngành Xây dựng Đảng mà phải bố trí các
chuyên ngành khác về giảng dạy.
* Quản lý giảng viên và chính sách và điều kiện làm việc đối với giảng viên.
Cơ chế quản lý giảng viên ở một số trường còn cứng nhắc, thiên về quản lý
hành chính, chưa phát huy được năng lực của giảng viên. Cơ sở vật chất trang thiết
bị không đồng bộ chưa bảo đảm cho quá trình dạy học, nghiên cứu. Về môi trường
làm việc của giảng viên, ở một số nơi tính dân chủ, công bằng chưa tốt. Chế độ, chính
sách đối với đội ngũ giảng viên vẫn còn nhiều bất cập, việc hỗ trợ kinh phí cho giảng
viên thực hiện các nhiệm vụ như giảng dạy, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế
và các công tác khác gặp nhiều khó khăn; chế độ, chính sách khuyến khích tham gia
94
các ĐT, BD chưa đảm bảo để giảng viên an tâm học tập; công tác chăm lo đời sống
vật chất và tinh thần cho giảng viên có nhiều hạn chế.
* Công tác xây dựng đội ngũ báo cáo viên
Ở các tỉnh, thành phố ĐBSCL công tác lựa chọn để bổ sung vào đội ngũ báo
cáo viên bảo đảm đúng tiêu chuẩn quy định, để các cơ quan có thẩm quyền quyết
định công nhận báo cáo viên gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ báo cáo viên chuyên
nghiệp, báo cáo viên trải nghiệm thực tiễn, có nhiều kinh nghiệm tham gia ĐT, BD
đội ngũ CBXC ngày càng ít đi, không tương xứng với yêu cầu ĐT, BD CBCX. Đội
ngũ báo cáo viên đạt chuẩn, giữ chuẩn không nhiều. Có những người được công nhận
báo cáo viên, nhưng không có kỹ năng và khả năng giảng dạy. Cũng có những báo
cáo viên được công nhận, kể cả báo cáo viên Trung ương, nhưng rất ít, thậm chí
không tham gia vào công tác ĐT, BD.
Công tác quản lý hoạt động của đội ngũ báo cáo viên còn nhiều bất cập. Một số
ban tuyên giáo tỉnh, thành phố ở ĐBSCL chưa thống kê, đánh giá kịp thời và đầy đủ kết
quả hoạt động của các báo cáo viên; chưa duy trì sinh hoạt định kỳ đội ngũ báo cáo viên
để đánh giá tình hình. Việc cung cấp tài liệu, thông tin tình hình, nắm bắt những vấn đề
xã hội quan tâm cho báo cáo viên có mặt còn hạn chế. Số lượng báo cáo viên đông, nhưng
chưa được khai thác hết năng lực của mỗi cá nhân. Phương thức hoạt động, nội dung thông
tin định hướng còn mang nặng tính một chiều, chưa chú trọng đúng mức tính phản biện,
lắng nghe, giải đáp thỏa đáng. Số báo cáo viên tham gia các hội nghị định kỳ chưa bảo
đảm. Đội ngũ báo cáo viên phối hợp với cơ sở ĐT, BD ngày càng ít đi. Chất lượng không
được nâng lên. Mặt khác, họ cũng e ngại tham gia ĐT, BD, vì không phải là sở trưởng của
họ. Chế độ chính sách dành cho báo cáo viên còn nhều bất cập.
Qua khảo sát về chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, có 93/500 người
hỏi (chiếm 18,6%) cho rằng đáp ứng nhiệm vụ ở mức trung bình; có 23/500 người
(chiếm 4,6%) cho rằng chưa đáp ứng nhiệm vụ ĐT, BD.
* Công tác tổ chức, quản lý ĐT, BD CBCX
Việc quản lý, theo dõi quá trình ĐT, BD CBCX, bám sát lớp học vẫn còn có
lúc, có nơi buông lỏng; chưa có biện pháp hữu hiệu để quản lý học viên, các tiêu chí
kiểm tra, đánh giá học viên chưa phản ánh đúng thực tế chất lượng đào tạo.
Đối với các lớp đào tạo đại học, cao cấp LLCT thực hiện phối hợp với các học
viện, các trường đại học, thì công tác quản lý còn buông lỏng, giảng viên được phân
công chủ nhiệm lớp thiếu kiểm tra, uốn nắn đối với học viên. Các giảng viên tham
95
gia giảng dạy cũng ít tiến hành kiểm tra sĩ số lớp học. Hoạt động kiểm tra, thi cử thực
hiện chưa nghiêm túc.
Đối với các lớp đào tạo trung cấp lý LLCT - HC, các lớp đào tạo lồng ghép chính
trị với nghiệp vụ, công tác quản lý đôi lúc thực hiện chưa nghiêm quy chế đào tạo. Chính
vì thế, một số cán bộ tham gia học tập còn mang tính đối phó. Đặc biệt, đối với các lớp
bồi dưỡng, hoạt động quản lý quá trình giảng dạy. học tập rất ít được quan tâm, số lượng
cán bộ thực học so với danh sách tham gia bồi dưỡng thường không bảo đảm. Sự phối
hợp giữa cơ sở ĐT, BD với đơn vị chọn cử CBCX đi ĐT, BD để quản lý quá trình học
tập của CBCX chưa được thực hiện thường xuyên.
Hoạt động quản lý nội dung, chương trình, đội ngũ giảng dạy còn yếu. Trong nội
dung ĐT, BD vẫn còn sự trùng lắp, vẫn còn việc bồi dưỡng những nội dung kiến thức
cũ không đáp ứng được kỳ vọng của CBCX cũng như mục tiêu ĐT, BD CBCX.
Công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm trong công tác ĐT, BD của ban chỉ
đạo, của các cấp ủy, cơ quan chức năng tuy có được quan tâm, nhưng vẫn còn hình
thức. Việc nhận định thực chất hạn chế, thiếu sót từ khâu tổ chức, quản lý, khâu giảng
dạy, khâu học tập còn dừng lại mức độ chung chung, chưa mạnh dạn chỉ ra hạn chế,
thiếu sót do đâu, ai chịu trách nhiệm, tinh thần, thái độ học tập của CBCX chưa tốt
cũng không kiểm điểm, xử lý.
* Sự chuẩn bị cơ sở vật chất, đầu tư kinh phí cho công tác ĐT, BD CBCX
Mặc dù các đơn vị ĐT, BD ở ĐBSCL đã có sự đầu tư đáng kể về cơ sở vật chất
phục vụ hoạt động ĐT, BD cán bộ, nhưng chưa đồng bộ và còn nhiều hạn chế. Các TCT
tỉnh, thành phố đều được đầu tư xây dựng phòng học với quy mô giảng đường, phục vụ
cho phương pháp hiện đại, nhưng lại không được trang bị một số phương tiện giảng dạy
đồng bộ; các phòng học, giảng đường mới chỉ dùng lại ở mô hình dùng cho báo cáo nghị
quyết. Số lượng phòng học hiện đại hiện vẫn còn rất ít, có TCT tỉnh chỉ có vài phòng;
hầu hết các TTBDCT cấp huyện chưa có phòng học hiện đại.
Hiện nay, cơ sở vật chất của hệ thống cơ sở ĐT, BD cán bộ của nhiều các tỉnh
ĐTSCL đều đang xuống cấp, nhất là ở các TTBDCT cấp huyện: thiếu các phòng học,
phương tiện học tập như ghế, bàn, bảng; phòng ở của học viên chất lượng kém;
phương tiện kỹ thuật cho học tập, giảng dạy còn đơn sơ, lạc hậu; hệ thống thư viện
chưa được đầu tư tương xứng.
Qua khảo sát 11 TTBDCT cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng, có 06 đơn vị phòng
học, bàn ghế, nơi nghỉ quá cũ kỹ; 04 đơn vị không có đầy đủ các phương tiện phục
96
vụ ĐT, BD; 02 đơn vị không có nơi nghỉ cho học viên… TCT thành phố Cần Thơ
đang trong giai đoạn quy hoạch xây dựng mới, nên điều kiện vật chất hiện tại phục
vụ hoạt động ĐT, BD gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều TCT, TTBDCT cấp huyện các
tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đều đang trong quá trình đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất,
do vậy vẫn còn xảy ra hiện tượng thiếu nơi ăn, chốn nghỉ cho học viên trong quá trình
tổ chức các khóa ĐT, BD, nhất là các khóa bồi dưỡng có số lượng người học đông từ
trên 100 người trở lên.
Tài liệu học tập, công tác phục vụ ở những lớp bồi dưỡng đôi lúc không đáp
ứng kịp, có những lớp bồi dưỡng không có tài liệu. Một số cơ sở ĐT, BD không có
khu thể dục, thể thao.
Chính sách ĐT, BD các bộ đều được các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL chú trọng ban
hành, nhưng chưa đồng bộ, thống nhất, còn có sự bất hợp lý so với sự thay đổi về kinh
tế, xã hội. Do chưa được chi tiết hóa, chưa nhất quán giữa các địa phương và trong từng
địa phương, nên chính sách còn có sự vận dụng khác nhau. Cùng một quy định, nhưng
mỗi địa phương thực hiện một cách, thậm chí trong cùng một tỉnh, một thành phố, có
những hoạt động tương tự nhau, nhưng áp dụng chính sách để giải quyết lại rất khác
nhau. Chẳng hạn, về hỗ trợ tiền ăn, nghỉ về ĐT, BD:
Tỉnh Hậu Giang: đi học trong tỉnh 25.000 đồng/người/ngày, đi học ngoài tỉnh
30.000 đồng/người/ngày, tại Hà Hội và thành phố Hồ Chí Minh 35.000
đồng/người/ngày, đối với cán bộ là nữ hỗ trợ thêm 200.000 đồng/người/tháng [180, tr 3].
Tỉnh Đồng Tháp: đi học trong tỉnh 25.000 đồng/người/ngày, đi học ngoài tỉnh
50.000 đồng/người/ngày, tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh 60.000
đồng/người/ngày [179, tr 4-5].
Tỉnh Kiên Giang: đi học trong tỉnh 20.000 đồng/người/ngày, đi học ngoài tỉnh
30.000 đồng/người/ngày; cán bộ nữ, dân tộc thiểu số được trợ cấp thêm 50.000
đồng/người/tháng [104, tr 3-4].
Nhìn chung, nhiều chính sách ban hành đã cách đây khá lâu (Cần Thơ, Kiên
Giang), trong khi vật giá, giá dịch vụ ngày càng tăng. Mặt khác, điều kiện tài chính, thu
nhập từ lương của CBCX còn rất hạn chế, các chế độ chính sách hỗ trợ như trên chưa tạo
động lực, khuyến khích cán bộ tham gia ĐT, BD. Nhiều tỉnh có chủ trương, chính sách
khuyến khích tự học tập, các cơ quan quản lý cán bộ tạo điều kiện về mặt thời gian, nhưng
không hỗ trợ về kinh phí học tập, do đó động lực tham gia học tập của cán bộ bị giới hạn.
Một bộ phận CBCX thấy tuổi đã cao, nên từ chối không tham gia các lớp ĐT, BD.
97
3.1.2.5. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cấp xã
Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động ĐT, BD tuy được các chủ thể ĐT, BD
CBCX ở ĐBSCL chú trọng, nhưng chưa kịp thời, chưa thường xuyên, chưa đúng kế
hoạch đề ra. Các nội dung tiến hành kiểm tra, giám sát, thanh tra chưa bao trùm hết,
mới chỉ dừng lại ở một vài hoạt động trong công tác ĐT, BD CBCX. Học viện CTQG
Hồ Chí Minh, Bộ Nội vụ chưa chủ động và phối hợp kiểm tra, thanh tra công tác ĐT,
BD các cơ các cơ sở ĐT, BD, còn bỏ ngỏ thời gian dài đối với các cơ sở ĐT, BD ở
các tỉnh, thành phố ĐBSCL. Vì thế, trong thực hiện chương trình, nội dung, một số
TCT còn cắt xén, có khi tự xây dựng ra khung chương trình đào tạo không đúng quy
định, thẩm quyền.
Các các cơ quan tham mưu cho tỉnh ủy, thành ủy ở ĐBSCL thiếu kiểm tra, giám
sát khâu quy hoạch, tuyển chọn đối tượng CBCX đưa ĐT, BD, dẫn đến có những cán
bộ được quy hoạch thì không được tham gia, có cán bộ không quy hoạch lại được tham
gia học tập. Mặt khác, một số tỉnh ủy, thành ủy ở ĐBSCL thiếu kiểm tra, giám sát việc
xây dựng nguồn nhân lực ở các cơ sở ĐT, BD, dẫn đến đội ngũ giảng viên vừa thừa,
vừa thiếu, nhiều TCT đội ngũ giảng viên chưa đảm bảo đúng quy định của Trung ương
là phải 2/3 trên tổng số biên chế, trong khi bộ phận phục vụ, quản lý lại nhiều hơn đội
ngũ giảng viên. Các cấp ủy cử CBCX đi ĐT, BD thiếu sự chủ động theo dõi, nắm bắt
tình hình học tập của cán bộ cấp mình.
Các cơ sở ĐT, BD thiếu chú trọng công tác kiểm tra, giám sát và thanh tra hoạt
động ĐT, BD của đơn vị. Cụ thể như: không giám sát thường xuyên hoạt động giảng
dạy của đội ngũ giảng viên, báo cáo viên về giáo án, giờ giấc lên lớp, về chất lượng
giờ giảng. Lãnh đạo cơ sở ĐT, BD tiến hành kiểm tra trong việc coi thi, kiểm tra,
quản lý học viên không, các cơ sở vật chất, các khâu phục vục ĐT, BD chưa thường
xuyên, dẫn đền còn nhiều sai sót, yếu kém xảy ra.
Hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra tài chính của thanh tra nhà nước, ủy
ban kiểm tra tỉnh, thành ủy ở ĐBSCL đối với hoạt động ĐT, BD CBCX của các cơ
sở ĐT, BD chưa thường xuyên, có những đơn vị từ trước cho đến nay chưa thanh tra,
kiểm tra lần nào. Vì thế, có đơn vị khi tiến hành kiểm tra, thanh tra tài chính thì phát
hiện có nhiều sai phạm, buộc phải xử lý. Kết luận của kiểm tra, giám sát, thanh tra
công tác ĐT, BD CBCX đã phát hiện có những sai sót, bất hợp lý, nhưng chưa được
xử lý kịp thời.
98
3.1.2.6. Việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cấp xã
Việc chỉ đạo hoạt động sơ kết, tổng kết công tác ĐT, BD chưa thực sự được
chú trọng, chưa diễn ra thường xuyên, thậm chí không tiến hành. Điều này ảnh hướng
rất lớn đến việc đánh giá công tác ĐT, BD CBCX để có những chỉ đạo hiệu quả hơn
cho công tác ĐT, BD CBCX trong thời gian tiếp theo.
Nhiệm vụ của ban chỉ đạo ở các khóa ĐT, BD CBCX có nhiệm vụ là tiến hành
sở kết, tổng kết hoạt động ĐT, BD, nhưng trên thực tế nhiệm vụ này còn rất hình
thức, mới dừng lại ở việc báo cáo đánh giá chung chung, chưa đánh giá sâu sắc, đúng
thực chất các mặt trong công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. Qua sơ kết, tổng kết cũng
chưa biểu dương, khen thưởng kịp thời cho các cá nhân, tổ chức thực hiện tốt công
tác ĐT, BD.
Hoạt động đánh giá hiệu quả sau ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL rất ít chú trọng.
Do đó, sau khi được ĐT, BD, quan điểm, lập trường, bản lĩnh của CBCX có được
nâng lên so với trước hay không; việc vận dụng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ đã
được ĐT, BD vào hoạt động thực tiễn lãnh đạo, quản lý hiệu quả như thế nào thì các
chủ thể quản lý cán bộ và cơ sở ĐT, BD chưa nắm được.
3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM
3.2.1. Nguyên nhân của ưu điểm
Một là, những chủ trương và chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước; quy
định của Học viện CTQG Hồ Chí Minh và các nghị quyết, chủ trương của các tỉnh
ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố ở ĐBSCL về ĐT, BD CBCX là nhân tố quan
trọng hàng đầu để công tác này đạt ưu điểm và kết quả.
Trong thời gian qua, BCHTW Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương đã
ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác ĐT, BD cán bộ, trong đó có đội ngũ
CBCX. Các văn bản của Trung ương gồm: Kết luận số 37-KL/TW ngày 02-02-2009
của Hội nghị Trung ương 9 khóa X về “Tiếp tục đẩy mạnh chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Quy định số 164-QĐ/TW ngày
01-02-2013 của Bộ Chính trị “về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”; Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 của
BCHTW khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-
99
2014 của Bộ Chính trị “về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý”; Kết luận số 117-KL/TW ngày
20-11-2015 của Ban Bí thư “về công tác đào tạo, bồi dưỡng tại các trường chính trị
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2016
của BCHTW khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ”...
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương đã
ban hành: Kế hoạch số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15-02-2006 của Thủ tướng Chính phủ
về việc “phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006-
2010”; Quyết định số 03/QĐ-TTg ngày 01-7-2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc
“phê duyệt định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường,
thị trấn đến năm 2010”; Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng
Chính phủ về “phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”.
Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ “về đào tạo, bồi dưỡng
công chức”; Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12-8-2011 của Thủ tướng Chính phủ
“phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011- 2015”;
Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13-6-2012 của Thủ tướng Chính phủ về “phê duyệt
chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020”; Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-
2016 của Thủ tướng Chính phủ “phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức giai đoạn 2016-2025”; Thông tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21-9-
2010 của Bộ Tài chính “quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng ngân sách nhà
nước dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức”; Thông tư số
03/2011/TT-BNV ngày 25-01-2011 của Bộ Nội vụ “hướng dẫn thực hiện một số điều
của Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi
dưỡng công chức”, quy định cụ thể về việc thực hiện chế độ ĐT, BD và biên soạn,
thẩm định chương trình, tài liệu ĐT, BD, tổ chức ĐT, BD và quản lý chứng chỉ ĐT,
BD; Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06-6-2011 của Bộ Nội
vụ và Bộ Giáo dục và Đào tạo “quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính
sách đối với giảng viên tại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”;
Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC ngày 08-3-2013 của liên
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính “hướng dẫn thực hiện chế độ trả
100
lương dạy thêm giờ đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập”; Nghị định
số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 “về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức”; Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08-01-2018 của Bộ Nội vụ về “hướng
dẫn một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ
về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức”; v.v..
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện
CTQG Hồ Chí Minh) đã ban hành các văn bản như: Quyết định số 1845/QĐ-HVCT-
HCQG ngày 29-7-2009 “về việc ban hành chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản
lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (hệ Trung cấp lý luận chính
trị - hành chính)”; Quyết định số 1479/QĐ-HVCTQG ngày 21-4-2014 “về việc ban
hành chương trình đào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành chính”. Quyết định số
1855/QĐ-HVCTQG ngày 21-4-2016 “về việc ban hành Bộ quy chế quản lý đào tạo
của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”; Quyết định số 3136/QĐ
-HVCTQG ngày 14-7-2016 “về việc điều chỉnh chương trình đào tạo trung cấp lý
luận chính trị - hành chính ban hành kèm theo Quyết định số 1479/QĐ- HVCTQG
ngày 21-4-2014 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh”; v.v..
Trên cơ sở các nghị quyết, quyết định, hướng dẫn của Trung ương, các tỉnh
ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố và cấp ủy đảng, chính quyền các cấp ở ĐBSCL
đã có những quyết sách đúng và phù hợp với hoàn cảnh của mỗi địa phương, như
Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 22-9-2006 của Tỉnh ủy Bến Tre “về nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến
2015”; Kế hoạch số 39/KH-UBND, ngày 05-12-2011 của UBND tỉnh Sóc Trăng “về
đào tạo cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2011-2015”; Quyết
định số 20/2014/QĐ-UBND ngày 30-7-2014 của UBND tỉnh Cà Mau “ban hành Quy
chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh Cà Mau”... Những chủ
trương này đã góp phần quan trọng trong công tác ĐT, BD, nâng cao chất lượng đội
ngũ CBCX của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL trong thời gian qua.
Hai là, các cấp ủy, ban ngành, các cơ quan chức năng, các cấp và các cơ sở
ĐT, BD cán bộ có sự phối hợp chặt chẽ trong thực hiện nhiệm vụ ĐT, BD CBCX
ở ĐBSCL.
Các tỉnh ủy, thành ủy, cấp ủy cấp huyện ở ĐBSCL rất quan tâm đến công tác
ĐT, BD đội ngũ CBCX, đã lãnh đạo các cơ quan (ban tổ chức, sở nội vụ, TCT) tiến
hành phối hợp rà soát nhu cầu ĐT, BD CBCX, chủ động đề xuất bổ sung kế hoạch
101
hằng năm để tiến hành ĐT, BD kịp thời. Bên cạnh đó, cấp ủy đảng ở cấp xã đã có
nhiều chủ trương, giải pháp cụ thể để chăm lo, kiện toàn củng cố đội ngũ cán bộ,
nâng cao chất lượng đội ngũ CBCX, thường xuyên theo dõi, đề xuất, đôn đốc việc
thực hiện công tác ĐT, BD cho đội ngũ CBCX. Do vậy, về cơ bản, nhiều tỉnh, thành
phố ở ĐBSCL đã đạt được chỉ tiêu theo Quyết định 163/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ và các kế hoạch cụ thể về ĐT, BD hằng năm cho CBCX của các tỉnh,
thành phố đã đặt ra.
Ba là, các cấp ủy, đơn vị chức năng, các cơ sở ĐT, BD đã xây dựng được kế
hoạch cụ thể về ĐT, BD cán bộ tương đối hợp lý, bước đầu đã có chiến lược ĐT, BD
CBCX lâu dài.
Trên cơ sở các văn bản quy định, hướng dẫn của Trung ương và của tỉnh ủy,
thành ủy, UBND tỉnh, thành phố, các TCT, trung tâm bồi dưỡng huyện, quận, thị xã,
thành phố ở ĐBSCL - đơn vị trực tiếp được giao nhiệm vụ ĐT, BD đội ngũ CBCX -
đã xây dựng, kế hoạch và triển khai cụ thể từng năm. Các TCT tỉnh, thành phố đều
chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể và được thông báo kịp thời đến tất cả các cơ quan
quản lý cán bộ của tỉnh, các cấp ủy cấp huyện, ban tổ chức, phòng nội vụ cấp huyện.
Qua đó, các cơ quan có thẩm quyền rà soát, đánh giá quy hoạch, chọn cử CBCX tham
gia ĐT, BD phù hợp. Cách làm đó đã giúp công tác ĐT, BD được diễn ra cơ bản đúng
kế hoạch, đảm bảo cả về số lượng, tiến độ và chất lượng.
Bốn là, các tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã phát huy
tốt chức năng, nhiệm vụ của TCT tỉnh và các sở, ngành của tỉnh, thành phố trong việc
chủ động phối hợp với các cơ sở đào tạo khác đa dạng hóa loại hình ĐT, BD cho đội
ngũ CBCX.
Đây là thế mạnh của các đơn vị tham gia ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. Trong
nhiều năm qua, TCT tỉnh, ban tổ chức, sở nội vụ đã chủ động tham mưu với tỉnh ủy,
thành ủy, UBND tỉnh, thành phố về mở rộng loại hình đào tạo, chủ động phối hợp
với Học viện Báo chí và Tuyên truyền mở nhiều loại lớp đại học chính trị, đại học
chuyên ngành (trong đó có cấp chứng nhận trình độ cao cấp LLCT); phối hợp với
Học viện Hành chính quốc gia (chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh); các trường đại
học Cần Thơ, An Giang, Trà Vinh... mở nhiều lớp đại học hành chính, luật, quản lý
đất đai, mở loại hình kết hợp đại học văn bằng 2 với trung cấp LLCT-HC... Nhờ đó,
đã mở rộng được phạm vi ĐT, BD, đáp ứng các yêu cầu đặt ra về ĐT, BD cho đội
ngũ CBCX ở ĐBSCL.
102
Năm là, các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các đơn vị sử dụng CBCX đã có
những cơ chế, quy định phù hợp hỗ trợ, khuyến khích CBCX tham gia ĐT, BD.
Tuy còn những hạn chế về chế độ, chính sách, nhưng trong những năm qua
các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã có những cố gắng lớn trong việc hỗ trợ về tài chính
nhằm khuyến khích, động viên CBCX tham gia học tập, bồi dưỡng và cả chính sách
dành cho các giảng viên tham gia ĐT, BD cán bộ. UBND tỉnh An Giang đã ban hành
Quyết định số 28/2010/QĐ-UBND ngày 25-5-2010 “về việc ban hành Quy định chế
độ trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và chính sách thu hút,
khuyết khích người có trình độ cao trên địa bàn tỉnh An Giang”. UBND tỉnh Hậu Giang
ban hành Quyết định số 30/2014/QĐ-UBND ngày 22-10-2014 quy định “về chế độ hỗ
trợ đào tạo, bồi dưỡng và chính sách thu hút nhân lực tỉnh Hậu Giang”. UBND tỉnh Long
An ban hành Quyết định số 21/2011/QĐ-UBND ngày 13-7-2011 “về việc quy định chế
độ đi học đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và mức thù lao đối với giảng
viên, báo cáo viên trên địa bàn tỉnh Long An”. UBND tỉnh Tiền Giang ban hành Quyết
định số 22/2009/QĐ-UBND ngày 25-8-2009 “về chính sách đào tạo, bồi dưỡng và thu
hút cán bộ, công chức hành chính, viên chức sự nghiệp giai đoạn 2009-2015”.
Bên cạnh đó, nhiều CBCX đã xây dựng được ý thức tự giác, ham học, tích
cực, chủ động tham gia các khóa ĐT, BD tích cực học tập, tự tìm hiểu, nghiên cứu
qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các buổi tổng kết, đi tham quan thực tế
ở các đơn vị khác…
3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Một là, một số cấp ủy, chính quyền địa phương và đội ngũ CBCX do hạn chế
về trình độ chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác ĐT, BD CBCX đối
với sự phát triển KT-XH ở ĐBSCL; do không chú trọng công tác quy hoạch CBCX
để ĐT, BD cho nên việc chọn cử cán bộ đi ĐT, BD gặp nhiều khó khăn, ĐT, BD chưa
gắn chặt việc sử dụng cán bộ.
Ở nhiều nơi, các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương chưa thật sự quan tâm đầu
tư và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác quy hoạch, tạo nguồn, xây dựng kế hoạch và chỉ
đạo thực hiện công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX dẫn đến chất lượng của đội ngũ cán bộ này
còn thiếu và yếu. Cụ thể là, một số địa phương cử CBCX tham gia ĐT, BD không đúng
đối tượng, ảnh hưởng lớn đến việc đạt mục tiêu của ĐT, BD.
Bên cạnh đó, một bộ phận CBCX còn tâm lý sợ khó, ngại thay đổi, nên chưa
tích cực tìm tòi phương pháp học tập phù hợp. Một bộ phận CBCX chưa nhận thức
103
đúng đắn mục tiêu của ĐT, BD mà cho rằng học “cốt để lấy bằng”, “để chuẩn hóa”,
nên chưa tích cực chủ động trong việc tiếp thu kiến thức.
Nhiều địa phương chưa thực hiện nghiêm túc xây dựng quy hoạch ĐT, BD
CBCX, nên việc chọn cử cán bộ tham gia ĐT, BD chưa gắn với quy hoạch. Cán bộ
nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa được quan tâm đúng mứ. Vẫn còn trường hợp
cán bộ sau khi đi ĐT, BD không được bố trí sử dụng đúng chuyên ngành đã học, đúng
năng lực, sở trường nên không có điều kiện để phát huy những kiến thức đã học. Việc
học tập để nâng cao trình độ, vươn lên đảm bảo đủ tiêu chuẩn CBCX theo quy định
của Nhà nước chưa được hình thành rõ nét trong đa số CBCX.
Hai là, thiếu sự phối hợp nên chương trình, nội dung ĐT, BD CBCX còn có
những bất hợp lý, trùng lắp, nặng về lý luận, thiếu thực tiễn và kỹ năng thực hành;
đội ngũ giảng viên, báo cáo viên hạn chế về trình độ, kỹ năng truyền thụ.
Các cơ quan, tổ chức chưa cùng bàn bạc về nội dung ĐT, BD CBCX, nên vẫn
còn nhiều điểm chưa phù hợp, nhất là nội dung bồi dưỡng các chức danh. Việc đổi mới
chương trình, nội dung chưa đồng bộ, nhiều lúc coi nhẹ mục tiêu bồi dưỡng cập nhật
kiến thức mới, kỹ năng chuyên môn, rèn luyện phẩm chất đạo đức, phong cách.
Giảng viên, báo cáo viên và CBCX tham gia ĐT, BD chưa mạnh dạn chủ động,
tích cực trong tự nghiên cứu, học tập. Giảng viên đã quen với việc sử dụng phương
pháp thuyết trình, nay chuyển sang phương pháp giảng mới đòi hỏi phải đầu tư nhiều
công sức, dành nhiều thời gian hơn cho từng bài giảng, nên dễ nảy sinh tâm lý ngại,
nhất là đối với những giảng viên lớn tuổi. Việc đổi mới phương pháp dạy và học chưa
được quan tâm triển khai nghiêm túc tới học viên. Việc tự nghiên cứu chuẩn bị bài trước
khi lên lớp của học viên còn hạn chế, cộng với một phần tính tự ti, e ngại, nên cơ bản
học viên vẫn bị thụ động trước phương pháp giảng dạy tích cực của giảng viên, báo cáo
viên làm giảm hiệu quả của công tác ĐT, BD.
Ba là, việc xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, lực lượng phục vụ cho
hoạt động ĐT, BD chưa được chú trọng đúng mức.
Một số cơ sở ĐT, BD ở ĐBSCL hiện nay đang bị hẫng hụt về nhân lực giảng
dạy, việc xây dựng đội ngũ giảng viên cơ hữu còn nhiều bất cập, còn biểu hiện sự chắp
vá, chưa có TCT nào đạt tỷ lệ 2/3 là giảng viên trên tổng số biên chế chung của đơn vị.
Đời sống của một bộ phận giảng viên còn gặp nhiều khó khăn. Việc tuyển dụng giảng
viên chưa thu hút được nhiều người có đức, có tài. Công tác ĐT, BD giảng viên ở một
104
số trường chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao. Công tác đánh giá, bố trí,
sử dụng giảng viên còn nể nang. Cơ chế, chính sách đối với giảng viên chưa tạo được
động lực kích thích giảng viên toàn tâm, toàn ý với nghề.
Một bộ phận giảng viên của các cơ sở ĐT, BD ở ĐBSCL chưa nỗ lực phấn đấu
vượt qua khó khăn để học tập, rèn luyện về chuyên môn, nghiệp vụ: một số giảng viên
ngại đi học xa nhà, ngại học tập trung; chưa quan tâm đúng mức đến công tác nghiên
cứu khoa học, nghiên cứu thực tế cũng như ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi mới
phương pháp giảng dạy; chưa cập nhật kiến thức mới để cải thiện chất lượng bài giảng.
Giảng viên đầu tư thời gian cho việc tự học ngoại ngữ, tin học và các kiến thức xã hội
khác để hỗ trợ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn chưa nhiều. Một số ít
trường hợp thiếu tu dưỡng về đạo đức, lối sống. Việc tham gia vào các hoạt động chính
trị, đoàn thể tại địa phương còn hạn chế.
Lực lượng tham gia quản lý còn thiếu hiểu biết, kỹ năng, còn dựa dẫm, đùn đẩy
trách nhiệm, thiếu kiên quyết, lơ là trong thực hiện nhiệm vụ được phân công.
Bốn là, kinh phí, cơ sở vật chất và chế độ chính sách cho công tác ĐT, BD
CBCX ở ĐBSCL chưa phù hợp, chưa tạo động lực cho người học và cũng chưa tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động ĐT, BD.
Kinh phí dành ĐT, BD cho đội ngũ CBCX còn ít và thấp, chưa tương xứng với
quy mô và yêu cầu, nhất là kinh phí phục vụ cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy
và học tập. Các tỉnh ủy, thành ủy luôn mong muốn nâng cao hiệu quả công tác ĐT, BD
cán bộ, nhưng việc giao, cấp kinh phí không đồng bộ, ít hơn rất nhiều so với nhu cầu
ĐT, BD. Ngoài ra, việc cấp kinh phí đầu tư sửa chữa các cơ sở ĐT, BD rất chậm, nhỏ
giọt so với phương án đã được phê duyệt. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ ĐT,
BD chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn hoạt động của công tác này, nhất là ở các
TTBDCT huyện, quận, thị xã và thành phố. Việc thiếu giảng đường, lớp học đã dẫn
đến tình trạng số lượng học viên mỗi lớp thường rất đông, có lớp lên tới hơn 100 người,
thiếu trang thiết bị phục vụ dạy và học. Tài liệu học tập cho học viên không đầy đủ.
Chế độ chính sách đối với CBCX được cử đi ĐT, BD còn rất hạn chế: mức hỗ
trợ CBCX trong ĐT, BD hiện nay còn quá thấp, nhiều chính sách ĐT, BD trước đây
có, nhưng nay không còn, như việc hỗ trợ đào tạo đại học, thậm chí cả cao học. Một
số chính sách hỗ trợ ĐT, BD ở các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL không thực hiện đúng
như hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương. Chẳng hạn, Thông tư số 139/2010/TT-
BTC ngày 21-9-2010 quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân
105
sách nhà nước dành cho công tác ĐT, BD CB, CC đã quy định mức hỗ trợ tối đa cho
mỗi học viên là 50.000 đồng/người/ngày, nhưng các tỉnh Kiên Giang, Vĩnh Long quy
định mức tối hỗ trợ tối đa cho cán bộ ĐT, BD tại tỉnh chỉ là 20.000 đồng/người/ngày;
các tỉnh Hậu Giang, Đồng Tháp là 25.000đ/người/ngày.
3.2.3. Những kinh nghiệm
Thứ nhất, phải xây dựng được quy hoạch cán bộ, kế hoạch ĐT, BD CBCX cụ
thể, sát với điều kiện thực tế từng tỉnh, thành phố ở ĐBSCL.
Cần có quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD CBCX cụ thể, căn cứ vào những nghiên
cứu, khảo sát khoa học và chi tiết, hướng đến những mục tiêu trước mắt và lâu dài,
với hoàn cảnh, điều kiện đặc thù của địa phương theo phương châm ĐT, BD CBCX
sát với quy hoạch, rõ địa chỉ sử dụng (của chính cơ sở cử cán bộ đi ĐT, BD), đáp ứng
đúng yêu cầu thực tiễn phát triển của cơ sở.
Để đảm bảo hoạt động của HTCT cơ sở luôn thông suốt, công tác quy hoạch,
tạo nguồn cán bộ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, công tác quy hoạch, tạo
nguồn cán bộ mới chỉ đảm bảo cho HTCT cơ sở hoạt động liên tục, có tính kế thừa,
không thực sự đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của hệ thống - yếu tố phụ thuộc
vào trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ. Vì vậy, để bảo đảm cả tính liên tục và hiệu
quả của HTCT cơ sở, cần kết hợp làm tốt cả công tác quy hoạch, tạo nguồn và ĐT,
BD đội ngũ CBCX. Yếu tố “đầu vào” có tác động rất lớn đến chất lượng ĐT, BD đội
ngũ CBCX, đồng thời công tác chiêu sinh, tuyển sinh phải đúng đối tượng, đúng tiêu
chuẩn quy định.
Để có thể ĐT, BD cho một số lượng lớn CBCX ở ĐBSCL đạt chuẩn, cần đẩy
mạnh việc tạo nguồn và ĐT, BD cán bộ. Khi xây dựng kế hoạch ĐT, BD cần chú ý
thực hiện các nội dung được quy định trong từng loại chương trình ĐT, BD cho đội
ngũ CBCX theo hệ thống chung, song cũng cần hướng vào việc thực hiện các chiến
lược, kế hoạch phát triển đã được nêu trong nghị quyết của đảng bộ các cấp tỉnh,
huyện, xã. Có như vậy mới có thể xây dựng được những chương trình ĐT, BD có nội
dung phù hợp, hữu ích với công việc thực tiễn của CBCX, giải quyết được mối quan
hệ giữa công tác ĐT, BD CBCX với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở các địa
phương trong từng giai đoạn.
Thứ hai, tăng cường chỉ đạo sát sao và sự phối hợp nhịp nhàng của các cấp
lãnh đạo, các đơn vị chức năng, giữa đơn vị sử dụng cán bộ và cơ sở đào tạo trong cả
quá trình ĐT, BD CBCX.
106
Khi đã có kế hoạch ĐT, BD CBCX với những mục tiêu rõ ràng, cần tập trung
chỉ đạo và phối hợp tổ chức thực hiện cho tốt giữa các cơ quan chức năng với các cơ
sở đào tạo về chế độ chính sách với giảng viên và học viên, cụ thể bao gồm các cơ
quan quản lý tài chính, các đơn vị có cán bộ đi học và nhà trường. Đặc biệt, sự phối
hợp này không được gián đoạn, không chỉ trong một thời gian ngắn, mà là cả suốt
quá trình cần ĐT, BD. Đồng thời, cần xác định cơ chế phối hợp, có sự phân công
nhiệm vụ rõ ràng cho từng cơ quan, tổ chức có liên quan và có sự đôn đốc, kiểm tra
thường xuyên việc thực hiện.
Phải tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh,
thành phố đối với các đơn vị ĐT, BD trong tỉnh, nhất là TCT và các TTBDCT cấp
huyện; phải có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của ban tổ chức, sở nội vụ, của đơn vị cử
cán bộ đi ĐT, BD. Phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học đáp
ứng yêu cầu nâng cao chất lượng ĐT, BD. Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa các
địa phương, các cơ quan trong việc tuyển chọn, quản lý, sử dụng CBCX sau ĐT, BD.
Thứ ba, coi trọng xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên có trình độ,
chuyên môn vững vàng, am hiểu thực tiễn.
Đội ngũ giảng viên, báo cáo viên đóng vai trò quan trọng, quyết định chất
lượng của quá trình ĐT, BD, do đó cần chú trọng công tác ĐT, BD giảng viên, báo
cáo viên. Các giảng viên, báo cáo viên phải có trình độ chuyên môn vững vàng, nắm
vững và quán triệt các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và tình hình nhiệm vụ cụ thể của địa phương; phải thường xuyên cập nhật những
thông tin mới, các tình huống cụ thể để kịp thời giải đáp các vướng mắc của học viên.
Đồng thời, người giảng viên, báo cáo viên phải luôn gương mẫu trong hành động, lời
nói, giữ vững phẩm chất chính trị, quan điểm lập trường, đạo đức cách mạng, có
phong cách làm việc khoa học theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của
Đảng và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị, để học viên không chỉ học kiến thức,
mà còn học và rèn luyện cả phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách từ người thày.
Quan tâm xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên giải quyết kịp thời, thỏa
đáng các chế độ, chính sách để giảng viên, báo cáo viên yên tâm, yêu nghề.
Thứ tư, nắm chắc đặc điểm của từng loại lớp ĐT, BD, từng loại đối tượng học
viên để có phương pháp giảng dạy, quản lý phù hợp.
107
Do đối tượng ĐT, BD là đội ngũ CBCX - những người đã, đang và sẽ tiếp tục
thực thi các chức trách, công vụ gắn với tri thức mà họ đang hoặc sẽ được truyền đạt,
việc xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch ĐT, BD cho CBCX cần chú ý đến tính chất,
đặc điểm của từng loại đối tượng học viên để áp dụng các phương pháp giảng dạy,
quản lý khác nhau cho phù hợp như: học viên đã lớn tuổi, có nhiều kinh nghiệm thực
tiễn phải áp dụng phương pháp giảng dạy, quản lý khác với các học viên là cán bộ còn
trẻ tuổi (bí thư đoàn thanh niên), cán bộ nữ (chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ)… Chương
trình ĐT, BD tập trung phải khác chương trình ĐT, BD vừa làm, vừa học. Chương
trình đào tạo phải khác với chương trình bồi dưỡng. Mỗi loại đối tượng CBCX có một
chương trình, nội dung bồi dưỡng phù hợp… Đương nhiên, với bất cứ đối tượng CBCX
nào, việc ĐT, BD cũng đều phải đảm bảo tính nghiêm túc, thực hiện đúng các yêu cầu
của quy chế ĐT, BD đã đề ra.
Phải quan tâm đến nhu cầu thực tế của địa phương và nhu cầu của chính
CBCX, từ đó xác định rõ cần ĐT, BD những gì người học và xã hội cần, chứ không
phải xuất phát từ những gì mà cơ sở đào tạo có. Phải đa dạng hóa chương trình, nội
dung, hình thức, phương pháp ĐT, BD để thích ứng với nhu cầu, đặc điểm, chức
trách, chức danh của từng CBCX.
Thứ năm, không ngừng quan tâm đầu tư vật chất phục vụ công tác ĐT, BD
gắn liền với thực hiện tốt các chế độ, chính sách ĐT, BD CBCX.
Việc đầu tư tốt các điều kiện vật chất phục vụ ĐT, BD trong thời gian qua ở các
tỉnh, thành ĐBSCL rất được chú trọng. Điều kiện trường, lớp, nơi nghiên cứu, nghỉ
ngơi, ăn, ở, các chế độ hỗ trợ học tập được thực hiện tốt giúp cho chất lượng ĐT, BD
được nâng lên đáng kể. Hoạt động ĐT, BD diễn ra thuận lợi hơn, hoạt động giảng dạy
với đổi mới phương pháp tích cực gắn liền với công cụ, phương tiện hiện đại có điều
kiện được thực hiện tốt hơn. Chính sách hỗ trợ cho người học, người dạy, người quản
lý được quan tâm đúng mức sẽ là nguồn động viên khích lệ họ tham gia hiệu quả hơn
trong công tác ĐT, BD CBCX. Những tỉnh, thành phố ở ĐBSCL có chính sách hỗ trợ
cho CB, CC, viên chức nâng cao trình độ học tập sau đại học, như chính sách hỗ trợ
đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ (Hậu Giang hỗ trợ đào tạo thạc sĩ 70 triệu đồng/người, tiến sĩ
100 triệu đồng/người; Cà Mau hỗ trợ thạc sĩ 60 lần, tiến sĩ 100 lần mức lương tối thiểu
chung; Vĩnh Long hỗ trợ thạc sĩ 30 triệu đồng/người, tiến sĩ 50 triệu đồng/người) đem
lại hiệu ứng rất tích cực.
108
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong những năm qua các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã xây dựng được đội
ngũ CBCX có đạo đức cách mạng, có trình độ LLCT, có năng lực thực tiễn về cơ bản
đáp ứng được yêu cầu, thực hiện nhiệm vụ chính trị đặt ra. Có được một đội ngũ
CBCX như vậy là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng là sự đóng
góp rất tích cực của công tác ĐT, BD, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp ủy đảng,
các cơ quan, ban, ngành, cơ sở đào tạo trong xây dựng kế hoạch, chương trình, nội
dung ĐT, BD; sự trưởng thành về trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên; sự
cải tiến, đổi mới về chương trình, nội dung cách tổ chức, quản lý hệ thống trường,
lớp; sự chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết rút kinh nghiệm… Tuy nhiên,
bên cạnh những ưu điểm, công tác ĐT, BD CBCX ở các tỉnh ĐBSCL vẫn còn hạn
chế như: chương trình, nội dung thường chậm đổi mới; phương pháp truyền thụ kiến
thức chưa phù hợp; cơ sở vật chất, chế độ cho học viên, giảng viên còn nhiều bất cập;
sự mất cân đối giữa đào tạo và bồi dưỡng; chất lượng ĐT, BD chưa đáp ứng được
yêu cầu của tình hình mới.
Phân tích, đánh giá cụ thể thực trạng công tác ĐT, BD CBCX của các tỉnh,
thành phố ở ĐBSCL trong những năm qua cho thấy đang nổi lên những mâu thuẫn
nội tại cần giải quyết. Một là, mâu thuẫn giữa nhu cầu chuẩn hóa trình độ cán bộ cơ
sở của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL theo Quyết định số 163/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ với năng lực ĐT, BD của các cơ sở đào tạo. Hai là, mâu thuẫn giữa yêu
cầu về kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ công tác ĐT, BD CBCX với khả năng hạn
hẹp của ngân sách và các ché độ chính sách. Ba là, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao
chất lượng nội dung ĐT, BD CBCX với thực trạng hạn chế về trình độ, năng lực của
đội ngũ giảng viên. Bốn là, mâu thuẫn giữa yêu cầu học tập thực chất với tâm lý học
mang tính đối phó, cốt để có bằng cấp của một số CBCX ở ĐBSCL hiện nay.
109
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN NĂM 2030
4.1. DỰ BÁO CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG VÀ MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG
4.1.1. Dự báo các yếu tố tác động đến công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long
Thứ nhất, thành tựu và khó khăn trong công cuộc đổi mới của đất nước và các
tỉnh, thành phố ở ĐBSCL những năm tới tác động sâu sắc đến công tác ĐT, BD
CBCX ở ĐBSCL.
Trong những năm tới, đất nước và các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL sẽ có nhiều
thay đổi do sự tác động của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, với quyết tâm triển khai
thực hiện đổi mới của toàn Đảng, toàn dân, quyết tâm tranh thủ thời cơ, vượt qua thách
thức, chắc chắn sự nghiệp đổi mới sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn trên các
lĩnh vực đời sống xã hội; hoạt động CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thành công bước đầu thực hiện chương trình
mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới tác động rõ nét đến sự thay đổi đời sống
vật chất và tinh thần của cán bộ, nhân dân ở ĐBSCL. Tất cả những thành tựu đó sẽ là
cơ sở thuận lợi để củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước, trong đó có đội ngũ CBCX ở ĐBSCL; tạo sự phấn khởi, cổ vũ,
động viên đội ngũ CBCX tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao năng lực hoạt động và
phẩm chất đạo đức cách mạng, tạo nên tính chủ động, năng động, sáng tạo trong công
việc cụ thể…
Đan xen với những thuận lợi là những khó khăn, thách thức lớn đối với công
tác ĐT, BD đội ngũ CBCX ở ĐBSCL trong thời gian tới. Đó là nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN đang vận hành ở Việt Nam hiện nay đã đem lại nhiều thành tựu
quan trọng, nhưng cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp đòi hỏi HTCT và đội ngũ
CBCX phải giải quyết như: công tác quản lý đô thị và dân cư, quản lý xây dựng, quản
lý đất đai, quản lý môi trường, giải quyết việc làm, chống buôn lậu, truyền đạo trái
110
phép, các dịch vụ văn hóa, công tác giữ vững an ninh, trật tự, chống các tệ nạn xã hội...
Ngoài ra, mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động tiêu cực đến phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Những
thách thức này là những khó khăn lớn đối với công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX ở
ĐBSCL, đặc biệt là về trình độ, năng lực quản lý, điều hành, nâng cao bản lĩnh chính
trị, đạo đức cách mạng, phong cách công tác...
Thứ hai, quá trình hội nhập quốc tế và của cách mạng khoa học - công nghệ
tác động mạnh mẽ đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
Trong giai đoạn 2016-2021, tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực dự
báo có nhiều thời cơ, thuận lợi thúc đẩy Việt Nam hội nhập và phát triển. Ngày nay,
trên thế giới cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, đang phát
triển mạnh mẽ, tác động đến nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Trong phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH, Việt Nam đã và đang
tiếp thu được những thành tựu khoa học - công nghệ mới, tạo nhiều thuận lợi cho phát
triển đất nước. Trong qua trình hội nhập, trao đổi có các chương trình ĐT, BD nguồn
nhân lực của các tổ chức quốc tế đã được triển khai; các dự án của các nước phát triển
trong lĩnh vực ĐT, BD nguồn nhân lực, cải cách hành chính, QLNN… đang được
triển khai ở ĐBSCL; các dự án về phương pháp giảng dạy tích cực đã và đang được
áp dụng ngày càng phổ biến ở các TCT tỉnh, các TTBDCT huyện, thị, thành phố…
là cơ sở để thúc đẩy, nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX ở ĐBSCL.
Tuy sự tác động mạnh của hội nhập kinh tế quốc tế và các thành tựu của khoa
học - công nghệ đem đến cơ hội, nhưng cũng đặt ra thách thức đối với công tác ĐT,
BD CBCX ở ĐBSCL trong thời gian tới. Bên cạnh việc tạo cơ sở, điều kiện thuận lợi
cho đội ngũ CBCX tiếp thu các tri thức mới, đổi mới tư duy, có nhiều phương pháp,
cách thức khác nhau để tiếp cận và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, việc
hội nhập kinh tế quốc tế cũng đòi hỏi CBCX phải thường xuyên tự học, tự rèn luyện
nâng cao trình độ mọi mặt, trong đó có học tập công nghệ hiện đại; có bản lĩnh trước
những cám dỗ vật chất và có quyết tâm chính trị cao; am hiểu sâu sắc và biết vận dụng
sáng tạo chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chủ động, sáng tạo,
năng động, nhạy bén, có tầm nhìn xa, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không
sợ hy sinh lợi ích cá nhân; biết điều hành công việc một cách khoa học và nghệ thuật;
biết đề cao hiệu quả công việc. Tuy nhiên, yêu cầu này mâu thuẫn gay gắt với thực
111
trạng còn một bộ phận không nhỏ đội ngũ CBCX còn có trình độ hạn chế về phẩm
chất, năng lực, về trình độ, thiếu quyết tâm vươn lên… Do đó, bộ phận cán bộ này sẽ
không theo kịp yêu cầu của sự phát triển, không đủ khả năng gánh vác công việc, dẫn
tới tình trạng lúng túng, làm ẩu, làm liều, giáo điều, áp dụng máy móc mô hình, cách
làm của nước ngoài.
Thứ ba, các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về ĐT, BD cán
bộ tác động nhiều mặt đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
Trong giai đoạn cách mạng mới, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết,
nghị định quan trọng với nhiều quan điểm chỉ đạo tác động sâu sắc đến công tác ĐT,
BD, cụ thể như: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng
định: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước…” [70, tr. 205]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII về xây dựng Đảng khẳng định nhiệm vụ: “Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng
cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp
thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp với từng đối tượng, từng cấp, từng ngành,
từng địa phương” [71, tr. 36-37]. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Hội
nghị lần thứ 6 BCH Trung ương khóa XII về “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản: Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-2016
của Thủ tướng Chính phủ “phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức giai đoạn 2016-2025”; Nghị định số 101//2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của
Chính phủ “về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức”; Thông tư số
01/2018/TT-BNV ngày 08-01-2018 “hướng dẫn một số điều của Nghị định số
101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức”; v.v.. Đây là những cơ sở mang tính pháp lý quan trọng để các cấp ủy
đảng ở các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL xây dựng mục tiêu, phương hướng và đề ra những
giải pháp cụ thể cho công tác ĐT, BDCBCX của địa phương mình.
Các nghị quyết Đại hội đại biểu nhiệm kỳ 2015-2020 của các đảng bộ tỉnh,
thành phố ở ĐBSCL đều khẳng định chú trọng đến công tác ĐT, BD cán bộ cơ sở,
tiếp tục thực hiện các quyết định về ĐT, BD cán bộ đã và đang triển khai như: quy
hoạch nguồn cán bộ, kết hợp chặt chẽ với ĐT, BD để đảm bảo tính kế thừa và liên
tục trong bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý; việc bố trí, sử dụng cán bộ chú trọng cơ
cấu độ tuổi, trẻ hóa cán bộ, cơ cấu dân tộc, tỷ lệ cán bộ nữ… Đến nay đã hơn hai năm
112
đại hội Đảng các cấp, đội ngũ CBCX ở ĐBSCL đã được củng cố, kiện toàn, là cơ sở
để những cán bộ đương chức tiếp tục vươn lên, hoàn thiện bản thân; những cán bộ dự
nguồn, cán bộ trong quy hoạch đội ngũ CBCX phấn khởi, tự phấn đấu rèn luyện và
học tập thông qua các chương trình ĐT, BD. Những cơ sở thực tiễn này sẽ rất bổ ích
cho các tỉnh ủy, huyện ủy, đảng ủy cấp xã cùng với các đơn vị chức năng rút kinh
nghiệm, tạo thuận lợi cơ bản để phát huy những ưu điểm, đồng thời khắc phục những
khuyết điểm, vướng mắc và đề ra phương hướng, giải pháp cụ thể, phù hợp hơn trong
công tác ĐT, BD CBCX trong thời gian tới.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, thực tế vẫn còn nhiều vấn đề về công tác
ĐT, BD chậm được sửa đổi, bổ sung như: có văn bản nghị quyết, chủ trương, chính
sách cho đội ngũ CBCX ra đời đã quá lâu, không còn phù hợp với điều kiện thực tế,
nhưng chậm được điều chỉnh hoặc thay đổi; có những văn bản ban hành nội dung chồng
chéo, khó triển khai thực hiện trên thực tế...
Hiện nay, mức lương, chế độ chính sách hỗ trợ cho CBCX còn rất thấp, chưa
tương xứng với nhiệm vụ họ đang thực hiện. Cho nên, có nhiều thanh niên sau khi
tốt nghiệp đại học, cao đẳng không muốn làm việc ở HTCT cấp xã. Thực tế này là
một thách thức trong công tác tuyển chọn, quy hoạch, tạo nguồn cho ĐT, BD đội ngũ
CBCX ở ĐBSCL trong thời gian tới. Ở các tỉnh ĐBSCL đã có một số CBCX tự
nguyện xin thôi công tác, vì thu nhập quá thấp.
Thứ tư, việc đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ
Chính trị học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục
triển khai cả về chiều rộng và chiều sâu; thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất
là thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, Trung ương 6 khóa XII sẽ tác động
mạnh đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Đại hội đã xác định các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản, toàn diện, có hệ thống thể
hiện quyết tâm của Đảng nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của
Đảng “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ” đã phát “hiệu lệnh”, ”thông điệp” mạnh mẽ đối với đội ngũ cán bộ,
đảng viên về quyết tâm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
113
Các cấp ủy đảng của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL trong thời gian tới sẽ tiếp
tục cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng, đề ra những chủ
trương, giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của địa phương và quyết tâm tổ chức
thực hiện. Đưa các chủ trương trên vào công tác ĐT, BD CBCX là cơ sở để bổ sung,
đổi mới công tác ĐT, BD CBCX (nhất là khâu đánh giá, quy hoạch, chọn cử, nội
dung các chương trình bồi dưỡng cấp ủy, bồi dưỡng theo chức danh..), giúp các chủ
thể tiến hành công tác ĐT, BD thực hiện nghiêm túc và triển khai có hiệu quả.
Những vấn đề trên vừa là những thuận lợi, nhưng cũng là một áp lực rất lớn đối
với các cấp ủy, các đơn vị chức năng trong triển khai thực hiện để đảm bảo nghị quyết
đi vào cuộc sống, đem lại những hiệu quả thiết thực trong công tác ĐT, BD CBCX ở
ĐBSCL trong thời gian tới.
Thứ năm, các điều kiện địa lý tự nhiên, phong tục, tập quán, truyền thống, tâm
lý của nhân dân các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL; vấn đề dân tộc, tôn giáo; âm mưu “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống lại Đảng, Nhà nước ta còn diễn biến
phức tạp sẽ tác động không nhỏ đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
Các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL điều kiện phát triển KT-XH không đồng đều,
trình độ dân trí thấp, vấn đề dân tộc, tôn giáo vẫn là những vấn đề nóng… đòi hỏi các
cấp, các ngành, đặc biệt là cấp xã, phải năng động sáng tạo, có những chủ trương,
biện pháp phù hợp và những nỗ lực bền bỉ, to lớn mới có thể ĐT, BD CBCX đạt các
tiêu chuẩn theo như quy định.
Những mặt tích cực của phong tục, tập quán, truyền thống, tâm lý của nhân
dân các dân tộc ở ĐBSCL luôn được khẳng định như: giàu lòng yêu nước, luôn tin
theo Đảng, khắc phục khó khăn, gian khổ, quyết tâm đi theo Đảng xây dựng đất nước
giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; không thích phô trương, nói ít, làm nhiều,
thật thà, chất phác... sẽ tiếp tục tác động tích cực đến công tác ĐT, BD, đến việc hình
thành phong cách, tác phong lãnh đạo gần dân, sát dân, được dân tin tưởng đi theo.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều tập quán, thói quen tiêu cực như: còn
tư tưởng trông chờ, ỷ lại; sống thiếu căn cơ, không lo xa, tiêu xài lãng phí, cách nghĩ
giản đơn… Đại bộ phận CBCX xuất thân từ nông dân, một bộ phận là người đồng
bào Khmer, nên còn chịu ảnh hưởng nặng nề của những tập quán, thói quen khó thay
đổi. Những hạn chế đó sẽ cản trở không nhỏ đến quá trình hình thành và phát triển
phong cách của một bộ phận CBCX. Nó không dễ dàng được loại bỏ trong một thời
114
gian ngắn, luôn ngự trị trong chính bản thân những CBCX, ngay cả trong những
người tham gia công tác ĐT, BD cho đội ngũ.
Vấn đề dân tộc và tôn giáo ở ĐBSCL hiện nay và trong thời gian tới còn diễn
biến phức tạp. Các thế lực thù địch và các phần tử xấu còn tiếp tục lợi dụng các vấn đề
dân tộc và tôn giáo để chống phá Đảng và Nhà nước ta, gây mất ổn định chính trị, KT-
XH, gây khó khăn cho các cấp ủy, chính quyền địa phương như: kích động đồng bào
Khmer đòi đất, khiếu kiện đông người vượt cấp, đòi thành lập “Nhà nước Đềga”, truyền
đạo trái phép, xúi giục tín đồ không chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước… Điều này đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền và đội ngũ CBCX ở ĐBSCL
phải nắm vững các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về dân tộc và tôn giáo,
làm tốt công tác vận động đồng bào dân tộc và tín đồ tôn giáo; kiên trì, khéo léo, linh
hoạt trong xử lý tình huống. Chương trình, nội dung ĐT, BD CBCX cũng cần quân
tâm đến những vấn đề này.
Thứ sáu, những thành tựu và hạn chế trong công tác ĐT, BD đội ngũ CBCTCX
ở ĐBSCL thời gian qua cung cấp những kinh nghiệm quý báu trong việc đẩy mạnh
hơn nữa công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX trong thời gian tới.
Các cấp ủy đảng, các TCT tỉnh, thành phố, các TTBDCT cấp huyện ở ĐBSCL
đã có nhiều kinh nghiệm tổ chức thực hiện, đã và đang hình thành đội ngũ giảng viên,
báo cáo viên có chất lượng khá cao, chuyên sâu về từng lĩnh vực; cơ sở vật chất cũng
đã được chú trọng đầu tư; nhiều nội dung, chương trình đã và đang được cập nhật mới,
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Đây là cơ sở, nhân tố quan trọng để tiếp
tục đẩy mạnh công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL trong những năm tới đạt kết quả tốt.
Hiện nay, đội ngũ CBCX ở ĐBSCL vẫn còn hạn chế về trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ; trình độ của số cán bộ trong diện quy hoạch còn thấp, đội ngũ cán bộ dự
nguồn cả trước mắt và lâu dài còn thiếu, điều kiện nâng cao trình độ mọi mặt gặp
nhiều khó khăn. Trong khi đó, CBCX là cán bộ chủ chốt của HTCT ở cơ sở, được
hình thành do bầu cử, nên thường biến động nhất là trong các kỳ đại hội Đảng, đoàn
thể cơ sở và sau khi bầu cử HĐND cấp cơ sở, nhiều cán bộ đã được đào tạo lại
chuyển công tác hoặc không còn tiếp tục công việc; trong khi đó, nhiều cán bộ được
bổ sung lại chưa qua ĐT, BD. Vì vậy, việc tập trung thực hiện có hiệu quả công tác
ĐT, BD đã và đang là một yêu cầu tất yếu của đội ngũ CBCX hiện nay và chính là
điều kiện, là cơ sở để đảm bảo cho công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL tiếp tục được
đẩy mạnh trong thời gian tới.
115
Công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL thời gian qua tuy đã đạt được những thành
tựu đáng khích lệ, nhưng vẫn bộc lộ những yếu kém cả về chương trình, nội dung
ĐT, BD cũng như khâu đánh giá, quy hoạch, chọn cử, khâu tổ chức thực hiện, quản
lý và cơ sở vật chất, khâu kiểm tra, giám sát, đánh giá rút kinh nghiệm. Những yếu
kém đó ảnh hưởng không nhỏ đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL trong thời gian
tới. Do vậy, cần có sự đánh giá đúng đắn khách quan về vấn đề này, phát huy những
ưu điểm, những kinh nghiệm và vượt qua được những hạn chế, yếu kém thúc đẩy
công tác ĐT, BD đạt được mục tiêu, hiệu quả cao.
Thứ bảy, nhu cầu CBCX cần được ĐT, BD, nhất là bồi dưỡng rất lớn, nhưng
kinh phí ĐT, BD hạn hẹp; chưa tách bạch hình thức đào tạo và chương trình, nội dung
giữa tập trung và không tập trung; khâu giảng dạy, quản lý ĐT, BD các lớp không
tập trung gặp không ít khó khăn.
Trên thực tế, do yêu cầu nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ CB, CC cơ sở
trong giai đoạn mới, nhu cầu ĐT, BD CBCX là rất lớn. Tuy nhiên, kinh phí bảo đảm,
hỗ trợ công tác ĐT, BD CB, CC, viên chức của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL có giới
hạn, ngày càng bị thu hẹp lại.
Chương trình, nội dung ĐT, BD giữa tập trung và không tập trung không có
gì khác biệt, đội ngũ giảng viên, báo cáo viên cũng khó tách bạch rõ nội dung, phương
pháp truyền thụ cho phù hợp với đối tượng và hình thức ĐT, BD này. Công tác quản
lý đối với các lớp ĐT, BD không tập trung còn đặt ra nhiều thách thức, nhất là số
lượng, giờ giấc, sự phối hợp giữa các chủ thể, ý thức tự quản của người học... Điều
đó đặt ra phải tìm phương thức hợp lý nhất cho công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL
trong thời gian tới.
4.1.2. Mục tiêu
4.1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa X đã chỉ rõ mục tiêu cần đạt được của
Chiến lược cán bộ đến năm 2020 là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị
vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh
tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục vững vàng giữa các thế hệ
cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới” [65, tr. 241]. Muốn đạt được mục
tiêu đó, cần quan tâm đến công tác ĐT, BD cán bộ cơ sở, phát triển, bồi dưỡng nguồn
nhân lực, quan tâm đến cán bộ là người dân tộc thiểu số, chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ tại chỗ, có phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu của địa phương.
116
Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức đã xác định mục tiêu ĐT, BD nhằm:
Trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động
công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp
phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm
chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ
nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước [52, tr. 2].
Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Nâng cao chất lượng công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp” [66, tr. 261].
Từ những mục tiêu định hướng trên và từ thực tế của địa phương các tỉnh,
thành phố ở ĐBSCL có thể xác định mục tiêu chung nâng cao chất lượng công tác
ĐT, CBCX ở ĐBSCL từ nay đến năm 2030 là: Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực
trong công tác ĐT, BD CBCX nhằm nâng cao trình độ LLCT-HC, chuyên môn nghiệp
vụ và năng lực tổ chức thực tiễn cho CBCX các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL, giúp CBCX
hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ ở
cơ sở có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống
lành mạnh, có uy tín với nhân dân, có đủ tiêu chuẩn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
phát triển KT-XH, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
4.1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Từ nay đến năm 2030, các cấp ủy cơ sở sẽ qua hai lần đại hội (vào năm 2020
và năm 2025), các cán bộ nhiều tuổi sẽ về hưu, do đó sẽ có sự thay đổi lớn về nhân
sự cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở cấp xã… Để đảm bảo thay thế từ 30% đến 40%
số cán bộ đương nhiệm, thực hiện được mục tiêu chung, ngay từ thời điểm này, các
cấp ủy đảng phải làm tốt công tác chuẩn bị nhân sự, trong đó ĐT, BD cho đội ngũ
CBCX ở ĐBSCL cần tập trung phấn đấu đạt được những mục tiêu cụ thể sau:
Về số lượng: 98% CBCX đạt trình độ LLCT - HC từ trung cấp trở lên. Trong
đó, cần phấn đấu đạt các chỉ tiêu cụ thể:
100% bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND xã có trình độ trung cấp LLCT - HC trở
lên (trong đó có 70% có trình độ cao cấp); 100% CBCX được đưa đi bồi dưỡng theo
chức danh ít nhất mỗi năm 1 lần.
100% CBCX phải được đi bồi dưỡng theo nghiệp vụ chuyên môn, bồi dưỡng
cập nhật kiến thức, mỗi năm ít nhất một lần.
117
Đối với các đối tượng là CBCX dự nguồn, cần thường xuyên mở các lớp đào
tạo trung cấp LLCT-HC kết hợp với một nghề nghiệp vụ cụ thể như cử nhân hành
chính, trung cấp văn thư, trung cấp kế toán, địa chính, luật…
Về chất lượng: từ nay đến năm 2030 phải đảm bảo CBCX đạt chuẩn về LLCT,
chuyên môn nghiệp vụ, được rèn luyện và nâng cao đạo đức cách mạng, có phong
cách làm việc tốt, lối sống giản dị, chan hòa gắn bó với nhân dân, tôn trọng kỷ luật,
nghiêm túc tự phê bình và phê bình.
CBCX phải có bản lĩnh chính trị vững vàng; có phong cách lãnh đạo tự chủ,
sáng tạo; biết thu nhận và xử lý thông tin nhanh chóng, chính xác; làm việc khoa học,
nhiệt tình, luôn gắn lý luận với thực tiễn; đề cao trách nhiệm cá nhân, thống nhất giữa
nói và làm; thường xuyên gắn bó với nhân dân, gương mẫu về mọi mặt.
CBCX phải có kiến thức sâu về chuyên môn trên lĩnh vực công việc được phân
công, nắm vững nghiệp vụ QLNN, luật, linh hoạt xử lý các tình huống, làm tốt công
tác dân vận, khéo léo trong hành vi ứng xử hằng ngày với nhân dân.
Về cơ cấu: cần thực hiện tốt việc ĐT, BD đội ngũ CBCX ở ĐBSCL đến năm
2030 với tinh thần xác định đúng đối tượng cần ĐT, BD. Đồng thời, đảm bảo tỷ lệ cơ
cấu về độ tuổi, giới tính, chú trọng cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số.
4.1.3. Phương hướng
4.1.3.1. Phương hướng chung
Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ ĐT, BD CBCX trong thời gian tới, trên cơ
sở nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và CBCX về vai trò, tầm quan trọng của
hoạt động ĐT, BD cán bộ, tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, tập trung tháo
gỡ những vướng mắc, khắc phục có kết quả những hạn chế, bất cập trong công tác ĐT,
BD CBCX, nhằm nâng cao kiến thức, năng lực quản lý hành chính, quản lý KT-XH,
đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành và thực thi công vụ của các
CBCX, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển KT-XH trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở địa phương.
4.1.3.2. Phương hướng cụ thể
Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, việc đẩy mạnh công tác ĐT, BD CBCX
ở ĐBSCL cần tập trung vào các hướng chủ yếu sau:
Một là, tuân thủ chặt chẽ yêu cầu về tiêu chuẩn cán bộ; ĐT, BD cán bộ phải vừa
đảm bảo hiệu quả KT-XH, vừa chống chủ nghĩa hình thức, mở lớp tràn lan, chạy theo
118
bằng cấp, không chú trọng chất lượng, hiệu quả ĐT, BD; kết hợp chặt chẽ giữa đáp ứng
nhu cầu nhiệm vụ chính trị ở cơ sở với nhu cầu của cá nhân cán bộ, động viên được cử
đi học tập; bảo đảm cán bộ trước khi bố trí vào vị trí chủ chốt đã được đào tạo những
kiến thức cơ bản về LLCT - HC và về chuyên môn nghiệp vụ.
Hai là, dự báo tốt nhu cầu ĐT, BD CBCX trong thời gian tới, ít nhất là từ nay
đến năm 2025 định hướng tới năm 2030, trên cơ sở đó chủ động xây dựng kế hoạch,
xác định các giải pháp lớn phù hợp, có tính khả thi. Đảm bảo ĐT, BD đúng đối tượng:
nguồn cán bộ trong quy hoạch trước mắt và lâu dài, chú trọng con em gia đình có
công cách mạng, người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ.
Ba là, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, đổi mới chương trình, nội dung ĐT, BD
theo hướng thiết thực, phù hợp với yêu cầu từng loại cán bộ; chú trọng việc rèn luyện
phẩm chất đạo đức và kiến thức, cả lý luận và thực tiễn, tăng cường bồi dưỡng kỹ
năng thực hành. Chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để mở rộng chương trình ĐT,
BD đạt chất lượng tốt.
Bốn là, củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động giảng dạy và nghiên
cứu khoa học của các cơ sở ĐT, BD cán bộ. Rà soát, đánh giá lại số lượng, cơ cấu, chất
lượng đội ngũ giảng viên, kể cả giảng viên cơ hữu và giảng viên kiêm chức, giảng viên
thỉnh giảng. Từ đó, có kế hoạch đảm bảo đủ về số lượng và nâng cao chất lượng đội
ngũ giảng viên nhằm thực hiện tốt yêu cầu ĐT, BD trong thời gian tới.
Năm là, đổi mới mạnh mẽ phương pháp giảng dạy, chú trọng nâng cao chất lượng
giảng dạy theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy ở các cơ sở ĐT,
BD cán bộ; củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý về công tác ĐT, BD; có cơ chế
quản lý phù hợp, đáp ứng tốt yêu cầu ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL do thực tiễn đặt ra.
Sáu là, mở rộng hoạt động phối hợp giữa cơ sở ĐT, BD với các cấp ủy, đơn
vị chức năng trong tỉnh, thành phố ở ĐBSCL và có mối quan hệ phối hợp, chỉ đạo
chặt chẽ về chuyên môn của Học viện CTQG Hồ Chí Minh để thực hiện tốt các
chương trình, nội dung, các đợt nghiên cứu thực tế cho học viên nhằm gắn lý luận
với thực tiễn công tác ở cơ sở; thực hiện tốt phương châm “học đi đôi với hành” và
rèn luyện năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy các địa
phương, cơ sở có người đi học để quản lý, rèn luyện học viên.
Bảy là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, vai trò quản lý của
chính quyền địa phương và sự phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể Trung ương đối
với công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
119
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG ĐẾN NĂM 2030
4.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính
quyền, đoàn thể, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và cán bộ cấp xã ở đồng bằng
sông Cửu Long về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã
Chỉ có nhận thức đúng về công tác ĐT, BD cho đội ngũ CBCX thì mới có sự
đầu tư đúng và trúng cho công tác này và đáp ứng được yêu cầu và mục tiêu đề ra.
Nhận thức đúng đắn về công tác ĐT, BD không chỉ đối với cán bộ làm công tác quản
lý mà cả đối với cán bộ thuộc đối tượng cần ĐT, BD.
Để thực hiện có hiệu quả công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL thời gian tới cần
sử dụng biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và các biện pháp hành chính
khác cụ thể là:
Một là, các cấp ủy đảng, các tổ chức trong HTCT từ cấp tỉnh đến cấp xã cần
hiểu đúng vị trí, vai trò tầm quan trọng của công tác ĐT, BD cán bộ, từ đó nghiêm túc
thực hiện một cách đầy đủ các nghị quyết của Đảng, chính sách, quy định của Nhà
nước về hoạt động ĐT, BD CBCX.
Tập trung thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng; Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 của BCHTW khóa XI “về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế”; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2006 của BCHTW khóa XII “về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thóai về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Quyết định
số 184-QĐ/TW ngày 03-9-2008 của Bộ Chính trị “về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”; Kết luận số 37-KL/TW
ngày 02-02-2009 của Hội nghị Trung ương 9 khóa X “về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020”; Quy định số 164-QĐ/TW ngày 01-02-2013
của Bộ Chính trị “về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp”; Kết luận số 57-KL/TW ngày 08-3-2013 của Ban Bí thư “về tiếp tục đẩy
mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”;
Kết luận số 117-KL/TW ngày 20-11-2015 của Ban Bí thư “về công tác đào tạo, bồi
dưỡng tại các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”; Quyết định số
120
1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ về “phê duyệt Đề án đào
tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”; Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày
05-3-2010 của Chính phủ “về đào tạo, bồi dưỡng công chức”; Quyết định số 163/QĐ-
TTg ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ “phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025” và các văn bản khác của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan, bộ, ngành Trung ương có liên quan chỉ đạo
thực hiện công tác ĐT, BD CBCX. Các tỉnh ủy, thành ủy cần ban hành các nghị quyết
chuyên đề, chương trình hành động, thành lập ban chỉ đạo về công tác ĐT, BD cán
bộ; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và có các biện pháp chế tài khi các nội dung cụ
thể đã đề ra được không thực hiện.
Hai là, khắc phục nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của cấp xã và đội
ngũ CBCX.
Đến nay vẫn còn quan điểm cho rằng, cấp xã là cấp trực tiếp làm việc cụ thể,
nên CBCX chỉ cần là những người có uy tín, có kinh nghiệm thực tế trong xã, phường,
thị trấn; hoặc có suy nghĩ chỉ có cái bằng, không nhất thiết là bằng chuyên môn gì
đều có thể làm được tất cả các vị trí mà không cần phải ĐT, BD. Thực tế đòi hỏi phải
nhận thức thức rõ: cùng với sự đổi thay, phát triển của toàn xã hội, yêu cầu nâng cao
hiệu quả hoạt hoạt động của HTCT, rất cần những cán bộ trực tiếp ở cấp cơ sở làm
việc có kiến thức sâu rộng, có trình độ và bản lĩnh chính trị vững vàng, dám nghĩ,
dám làm và làm đúng theo định hướng của Đảng đề ra. Cần đưa những nhận thức này
vào các chủ trương, nhiệm vụ và thông qua các biện pháp tuyên truyền chính thống, qua
các kênh truyền hình địa phương, sách, báo, đài, tuyên truyền miệng... một cách thường
xuyên để cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, CBCX hiểu và nhận thức đúng, suy nghĩ
đúng và từ đó thực hiện đúng.
Ba là, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp ở ĐBSCL cần xây dựng
chiến lược cán bộ của địa phương trong thời kỳ mới.
Xác định rõ sự cần thiết phải đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
của HTCT cấp xã; không nên chỉ vì nhiệm vụ trước mắt cần cán bộ làm việc cụ thể,
hằng ngày mà không đề ra chiến lược, kế hoạch cho cán bộ đi ĐT, BD nâng cao trình
độ, kỹ năng chuyên môn và LLCT để từ đó xây dựng được đội ngũ CBCX lâu dài,
bảo đảm sự kế thừa và phát triển theo hướng ngày càng trẻ hóa cán bộ, bảo đảm chuẩn
hóa theo quy định của Đảng với từng chức danh cán bộ ở cơ sở. Từ quy hoạch cán
bộ mà lập kế hoạch ĐT, BD CBCX.
121
Bốn là, bản thân mỗi CBCX phải nhận thức được rằng, được cấp ủy đảng và
chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện lựa chọn đưa đi ĐT, BD về LLCT, chuyên môn nghiệp
vụ là một cơ hội, một điều kiện tốt để học tập nâng cao trình độ, năng lực; phải coi đó
vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ.
Cần khắc phục tình trạng CBCX thường cho rằng, cứ làm cán bộ rồi thì không
cần học tập nữa, vì đã đủ chuẩn rồi, cũng khó thay thế hoặc không dễ bị thay thế hoặc
không có ai thay thế được mình; rằng chỉ công tác có một hoặc nhiều lắm là hai nhiệm
kỳ, không cần phải học nhiều. Chỉ khi CBCX nhận thức đúng về sự cần thiết, tầm quan
trọng của công tác ĐT, BD thì bản thân CBCX mới tích cực, tự giác học tập nâng cao
trình độ.
4.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể
cùng cấp và của cơ quan hữu quan có liên quan cấp trên đối với công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã
Đảng ta đã khẳng định quan điểm: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ
và quản lý đội ngũ cán bộ. Theo đó, công tác ĐT, BD phải đặt dưới sự lãnh đạo thống
nhất của cấp ủy đảng địa phương và các cấp ủy đảng cần tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo đối với công tác ĐT, BD cán bộ.
Một là, cần thực hiện nghiêm túc việc lựa chọn, quy hoạch làm cơ sở cho ĐT,
BD CBCX một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn ở địa phương.
Lựa chọn CBCX theo hướng trọng dụng những người đã được đào tạo cơ bản,
trọng dụng nhân tài, chú trọng những người có tâm huyết, có khả năng hoàn thành tốt
công việc. Để làm được như vậy, phải xuất phát từ khả năng, yêu cầu nhiệm vụ và
tiêu chuẩn cán bộ và tiêu chuẩn chức danh để lựa chọn; có biện pháp khoa học trên
quan điểm toàn diện và lịch sử - cụ thể để đánh giá đúng thực chất năng lực cán bộ,
tránh phiến diện và hình thức; cần loại bỏ quan niệm lựa chọn cán bộ theo kiểu: “sống
lâu lên lão làng” hay “con em lãnh đạo”, “đưa đi đào tạo để trống ghế”. Muốn thực
hiện tốt việc này cần:
Việc xây dựng quy hoạch CBCX phải được tiến hành một cách công khai, dân
chủ, trên quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể. Đối với CBCX vùng sâu,
vùng biên giới (ở các tỉnh Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Long An), vùng đông
đồng bào dân tộc thiểu số Khmer (ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, An
Giang), vùng có xã đảo (ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau) cần chú ý những đặc điểm
đặc thù (điều kiện tự nhiên, KT-XH, đặc điểm tâm lý dân tộc...) để tiến hành quy hoạch
122
cán bộ phù hợp. Đồng thời, căn cứ tiêu chuẩn chức danh cán bộ theo quy định của
Trung ương, kiên quyết không đưa những người không đủ tiêu chuẩn vào quy hoạch
cán bộ, vì như thế sẽ không khuyến khích được cán bộ tham gia ĐT, BD, nâng cao
trình độ, năng lực.
Trong hoạt động bầu cử và sử dụng CBCX, chỉ nên bầu những cán bộ có đủ tiêu
chuẩn theo quy định, kiên quyết đưa ra khỏi các chức vụ chủ chốt những cán bộ không
đủ tiêu chuẩn về trình độ LLCT, chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định hoặc cố tình
chây lười không chịu tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ. Có như
vậy mới chấm dứt được tình trạng “có thầy mà không có trò” ở các lớp ĐT, BD CBCX.
Khi đó, nhiệm vụ ĐT, BD CBCX mới được thực hiện tốt và chất lượng của đội ngũ
cán bộ này ở ĐBSCL mới được nâng lên.
Hằng năm cần đánh giá đúng thực chất năng lực của CBCX, để sử dụng cán bộ
đúng, hiệu quả từ đó có cơ sở để xây dựng kế hoạch ĐT, BD CBCX phù hợp.
Hai là, nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện các khâu
của công tác ĐT, BD CBCX
Để ĐT, BD cho đội ngũ CBCX đạt hiệu quả, trước hết phải có được đội ngũ
cán bộ trực tiếp làm công tác này có năng lực, như được đào tạo hệ thống, có kinh
nghiệm và am hiểu, có tầm nhìn về công tác này để tham mưu cho các cấp ủy, các
lãnh đạo tỉnh, huyện, xã về công tác ĐT, BD cán bộ, từ đó giúp các cơ quan lãnh đạo,
các đơn vị chức năng ban hành được quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD; chế độ chính sách
đúng với quy định chung và phù hợp với địa phương cũng như khả năng học tập của
CBCX ở từng địa bàn, từng khóa học, từng lớp học…
Cần trang bị cho cán bộ phụ trách công tác ĐT, BD ở các cấp ủy cấp xã các
kỹ năng phân tích, đánh giá đúng thực trạng CBCX, đưa ra nhu cầu đào tạo chuẩn
xác trên cơ sở quy hoạch cán bộ; đối với cán bộ cấp huyện, cần nâng cao kỹ năng
phân tích, tổng hợp, xử lý dữ liệu nhu cầu đào tạo từ cơ sở; đối với cán bộ cấp tỉnh,
cần biết tổng hợp, hoạch định nội dung quy hoạch ĐT, BD mang tính chiến lược,
thiết kế những bước đi cụ thể, cách thức sử dụng những nguồn lực trong kế hoạch
ĐT, BD, đề xuất các giải pháp hữu hiệu để đạt được mục tiêu. Cuối cùng, cần đôn
đốc, kiểm tra, giám sát việc xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện quy hoạch,
kế hoạch ĐT, BD.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL cần rà soát, củng cố
lại đội ngũ cán bộ tham mưu để tăng cường đủ về số lượng và nâng cao chất lượng cán bộ
123
theo hướng: ở cấp tỉnh, cấp xã cần tiếp tục cử đi đào tạo đối với những cán bộ có tuổi đời
còn trẻ và có trình độ đại học, cử đi bồi dưỡng những kỹ năng, nghiệp vụ tham mưu đối
với những cán bộ đã cao tuổi nhưng còn sức khỏe và khả năng làm việc để công tác đạt
hiệu quả cao hơn. Đối với cấp huyện, cần bố trí cán bộ chuyên trách về ĐT, BD, có trình
độ, kinh nghiệm tham mưu cho cấp ủy, UBND cấp huyện và làm cầu nối giữa cấp xã với
cấp tỉnh trong thực hiện công tác ĐT, BD CBCX.
Ba là, nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả QLNN
trong công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX.
Khắc phục những thiếu sót, yếu kém trong công tác QLNN đối với ĐT, BD
đội ngũ CBCX trong thời gian vừa qua, các cấp ủy đảng, đơn vị chức năng nên thường
xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch ĐT, BD đội ngũ
CBCX; việc xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát cần sát với thực tế để tổ chức thực
hiện có hiệu quả những chỉ tiêu đã đề ra. Các cán bộ được phân công nhiệm vụ này
phải bám sát quy hoạch và kế hoạch ĐT, BD cán bộ của cấp tỉnh, cấp huyện và của
từng xã, phường, thị trấn để theo dõi, giám sát ngay từ đầu công tác này như theo dõi
ngay từ khâu giao chỉ tiêu, kế hoạch, lựa chọn đối tượng để ĐT, BD cho TCT tỉnh, hay
thực hiện sự phối hợp với cơ sở ĐT, BD khác, các TTBDCT cấp huyện bảo đảm đúng
đối tượng, loại hình và địa chỉ đào tạo.
Lãnh đạo, quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí ĐT, BD có ý nghĩa
rất quan trọng. Cần tách nguồn kinh phí ĐT, BD cán bộ ra khỏi nguồn kinh phí hành
chính để thuận lợi cho việc quản lý và đánh giá hiệu quả của kinh phí ĐT, BD. Từ
trước đến nay vẫn còn nhiều tỉnh, thành phố ở ĐBSCL, nguồn kinh phí này vẫn để
nằm trong kinh phí hành chính tỉnh chia về cho các huyện; huyện có thể chi cho ĐT,
BD CBCX hay chi cho các mục khác, không ai quản lý hoặc quản lý chung chung
không rõ ràng, cụ thể, chi tiết. Với cách quản lý như vậy, hằng năm sở tài chính khó nắm
được chính xác tổng số tiền chi cho ĐT, BD, dẫn tới không quản lý sát và không đánh
giá được quy mô, hiệu quả của ĐT, BD đội ngũ CBCX. Vì vậy, cần tách riêng khoản
kinh phí cho ĐT, BD CBCX mới phù hợp.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát, theo dõi, nắm bắt tình hình hoạt động ĐT, BD
đội ngũ CBCX của các cơ sở đào tạo ở tất cả các khâu. Để làm được việc này, cần định
kỳ sơ kết, tổng kết nhằm kịp thời phát hiện những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc, đúc
rút những kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện để có những quyết định đúng
đắn, kịp thời trong chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện.
124
Bốn là, xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác tổ chức, quản lý ĐT, BD
CBCX giữa các địa phương, các cơ quan hữu quan, các TTBDCT cấp huyện, liên kết
giữa các TCT tỉnh và các đơn vị ĐT, BD khác.
Để nâng cao năng lực hoạt động của các TCT tỉnh, thành phố và các TTBDCT
huyện, quận, thị, thành cùng các đơn vị ĐT, BD trong khu vực, cần xây dựng cơ chế
phối hợp, chỉ đạo thống nhất, thông suốt giữa tỉnh, thành ủy và UBND tỉnh, thành
phố đối với các cơ sở này; phải phân định hợp lý những nội dung nào do tỉnh, thành
ủy trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, nội dung nào giao cho UBND tỉnh, thành quản lý; xác
định rõ mối quan hệ phối hợp giữa ban tổ chức, sở nội vụ cấp tỉnh với các TCT và
các cơ sở ĐT, BD khác của tỉnh, thành phố và ngoài khu vực ĐBSCL.
Một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của các TCT tỉnh, thành
phố là ĐT, BD cho CBCX, nhưng theo phân cấp quản lý CBCX không thuộc phạm
vi quản lý trực tiếp của tỉnh, thành ủy, mà việc quản lý CBCX là do UBND tỉnh,
thành phố thực hiện. Trong khi đó, ĐT, BD là nội dung không thể tách rời công tác
quản lý cán bộ. Thật khó phối hợp và gây nên sự chồng chéo khi tỉnh, thành ủy lãnh
đạo, chỉ đạo việc xây dựng và phê duyệt kế hoạch ĐT, BD CBCC, viên chức hằng
năm của TCT tỉnh, trong khi đó UBND tỉnh quản lý đội ngũ cán bộ này theo quy
hoạch, kế hoạch ĐT, BD CBCX theo định kỳ năm.
Tiếp cận theo xu hướng cải cách hành chính, cần xác định rõ TCT tỉnh là đơn
vị sự nghiệp cung ứng một loại dịch vụ công - công tác ĐT, BD cán bộ ở địa phương.
Ở một số nước trên thế giới, công tác ĐT, BD cho đội ngũ cán bộ được xã hội hóa
cao, nhà nước không trực tiếp quản lý các cơ sở đào tạo mà chỉ hỗ trợ, khi cần thiết
thì ký hợp đồng mở lớp với cơ sở đào tạo. Chương trình ĐT, BD - theo đó - cần được
xây dựng theo nhu cầu của khách hàng là nhà nước.
Để đổi mới, tạo cơ chế quản lý, hoạt động thuận lợi cho các TCT tỉnh, thành
phố, TTBDCT cấp huyện đảm bảo thực hiện công tác ĐT, BD đạt hiệu quả, cần thực
hiện tốt Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03-9-2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
khóa X, trong đó nêu rõ:
- Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là đơn vị sự nghiệp
trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặt dưới sự lãnh
đạo trực tiếp và thường xuyên của ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy.
- Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có chức năng tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở,
125
cán bộ, công chức ở địa phương về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức
và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà
nước và một số lĩnh vực khác [4, tr.1].
Như vậy, các chế độ, chính sách cho CBCX đi ĐT, BD; các quy hoạch, kế
hoạch ĐT, BD CBCX sẽ do UBND tỉnh, thành thống nhất quyết định và tổ chức triển
khai thực hiện. Kế hoạch ĐT, BD CBCX hằng năm của TCT tỉnh là một bộ phận
trong kế hoạch chung của tỉnh. Tỉnh ủy, thành ủy chỉ lãnh đạo công tác quy hoạch,
kế hoạch ĐT, BD CBCX thông qua các chủ trương, nghị quyết, chỉ đạo UBND tỉnh,
thành phố triển khai thực hiện.
Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố là yếu
tố quyết định đến chất lượng hoạt động của các TCT tỉnh, thành phố. Vì vậy, các TCT ở
ĐBSCL cần tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện của cấp trên. Các
trường này cũng cần thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương, phương hướng,
chỉ tiêu, kế hoạch do cấp trên giao, đồng thời kịp thời thông tin, báo cáo tình hình hoạt
động với tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố. Ngoài ra, các trường cần chủ động tham
mưu ý kiến, đề xuất phương án khả thi về ĐT, BD cán bộ cho tỉnh, thành ủy, UBND các
tỉnh, thà phố. Ngược lại, tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố nên tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát của đối với hoạt động của các TCT.
ĐT, BD cán bộ là sự nghiệp chung của cả HTCT, TCT tỉnh, thành phố và các
TTBDCT các huyện, quận, thị, thành phố thuộc tỉnh là cơ sở đào tạo, trong đó TCT
giữ vai trò trung tâm thực hiện nhiệm vụ này. Do đó, TCT tỉnh, thành phố cần chủ động
phối hợp với ban tổ chức tỉnh, thành ủy, sở nội vụ trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch
ĐT, BD; tích cực làm việc với sở tài chính để giải quyếtkịp thời, dứt điểm những vướng
mắc trong việc áp dụng chế độ, chính sách cho giảng viên; giữ mối liên hệ thường
xuyên với các địa phương, các cơ quan có cán bộ đi học ngay từ khâu chiêu sinh, trong
quá trình ĐT, BD và cả sau khi ĐT, BD. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, trường
nên mở rộng quan hệ, tranh thủ sự phối hợp, giúp đỡ của các cơ quan hữu quan, tạo
điều kiện thuận lợi cho trường thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao.
Việc mở các lớp đào tạo trung cấp LLCT-HC tại chức tại các huyện, quận, thị
xã, thành phố của các tỉnh, thành ở ĐBSCL hiện nay chủ yếu được đặt tại các
TTBDCT. TTBDCT cấp huyện không phải là cơ quan trực thuộc cấp dưới của TCT
126
tỉnh theo hệ thống dọc. Vì vậy, khi thực hiện nhiệm vụ tại các huyện, quận, thị xã,
thành phố, các TCT cần phối hợp chặt chẽ với các TTBDCT trong việc tổ chức và
quản lý lớp học, bố trí nơi ăn nghỉ cho giảng viên. Trong trường hợp cần thiết, các
trường có thể khai thác, sử dụng đội ngũ giảng viên do các trung tâm quản lý và các
báo cáo viên ở tại các huyện, quận, thị, thành phố khi mở lớp.
4.2.3. Đổi mới chương trình, nội dung, phương thức đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp xã
4.2.3.1. Đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng
Thứ nhất, Học viện CTQG Hồ Chí Minh khẩn trương bổ sung, cập nhật kiến
thức, quan điểm mới của Đảng, Nhà nước vào nội dung, chương trình trung cấp
LLCT-HC và triển khai thực hiện thống nhất trong cả trong cả nước. Để phù hợp với
điều kiện mới hiện nay của đất nước và khu vực ĐBSCL, Học viện và các tỉnh, thành
ủy, UBND các tỉnh, thành phố nên rà soát, xây dựng lại các chương trình, nội dung
các lớp bồi dưỡng đã và đang triển khai thực hiện (như các lớp: bồi dưỡng cập nhật
kiến thức, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đối tượng 3, 4; bồi dưỡng
cấp ủy cơ sở; bồi dưỡng kỹ năng kiểm tra, giám sát của Đảng...; bồi dưỡng cho chủ
tịch, phó chủ tịch UBND cấp xã; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND cấp xã; bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác đoàn, hội...).
Để thực hiện tốt giải pháp này, ban tổ chức tỉnh ủy, sở nội vụ, các TCT tỉnh,
thành phố ở ĐBSCL cần nắm rõ nhu cầu ĐT, BD hằng năm trong thực tế, tham mưu
cho tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch, chương trình ĐT,
BD sát với thực tế; các TCT tỉnh cần tham mưu cho tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh ủy,
thành quy định cơ cấu, tổ chức biên soạn, thẩm định và quyết định ban hành các tài
liệu bồi dưỡng, hoặc xác định nguồn tài liệu bồi dưỡng. Nội dung của các chuyên đề
bồi dưỡng nên triển khai theo hướng “cầm tay chỉ việc”, thiết thực, cụ thể, dưới dạng
hỏi - đáp, có nhiều ví dụ, bài tập thực hành, tình huống sát thực tế, chú trọng rèn luyện
kỹ năng, theo chức trách, chức danh cho từng loại cán bộ; loại bỏ những nội dung lý
luận giống nhau ở các lớp học, tập trung xây dựng chương trình học phù hợp, sát thực
cho phù hợp với đặc điểm, trình độ, khả năng nhận thức của từng nhóm đối tượng
người học. Cách thể hiện trong tài liệu cần đơn giản, dễ hiểu, chú trọng mô hình hóa,
phù hợp đối tượng, có tính gợi mở hướng vận dụng thực tế cho học viên. Thời gian
khóa bồi dưỡng khoảng 5-7 ngày, chú ý đến mở lớp bồi dưỡng tại cấp huyện, cụm
xã, phường, thị trấn.
127
Thứ hai, xuất phát từ đặc thù của khu vực ĐBSCL, để cải tiến, hoàn thiện, hợp lý
hóa các chương trình đào tạo phù hợp với đặc điểm, trình độ, khả năng tiếp nhận kiến
thức của từng nhóm, từng đối tượng người học. Cần nắm vững quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: huấn luyện chính trị môn nào cũng có, nhưng phải tùy theo mỗi đối
tượng mà định ít hay nhiều. Vì thế, đối với chương trình đào tạo trung cấp LLCT -
HC cũng cần nghiên cứu điều chỉnh (thực tế có những CBCX bằng đại học, thậm chí
là thạc sĩ, cũng có những cán bộ mới chỉ là trung cấp, hoặc cao đẳng) cho phù hợp
đối tượng, vừa sức, thiết thực và hiệu quả với người học. Trong chương trình cũng
cần chú trọng đưa vào đào tạo kỹ năng, nghiệp vụ nhiều hơn; chương trình bồi dưỡng
kiến thức QLNN cho cán bộ cơ sở cũng cần sửa đổi, cập nhật kiến thức mới cho phù
hợp với sự phát triển của xã hội…
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện lồng ghép các chương trình nhằm nâng cao tính
hiệu quả các lớp đào tạo, khắc phục các nội dung trùng lặp, tiết kiệm thời gian, chi
phí. Ví dụ, có thể lồng ghép đào tạo chuyên môn nghiệp vụ với trung cấp LLCT - HC
(trung cấp nghiệp vụ thanh vận và trung cấp LLCT - HC; trung cấp nghiệp vụ phụ nữ
và trung cấp lý LLCT - HC; trung cấp nghiệp vụ nông dân và trung cấp LLCT - HC);
hoặc đào tạo đại học gắn với trung cấp LLCT - HC; hoặc đào tạo LLCT - HC gắn với
chương trình bồi dưỡng kiến thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, dân số,
chương trình kiến thức chuyên môn về nông nghiệp.
Thứ ba, định kỳ hằng năm, Học viện CTQG Hồ Chí Minh nên tổ chức các lớp
tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho giảng viên của các TCT tỉnh, các TTBDCT cấp
huyện để qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng này đội ngũ giảng viên sẽ được cập nhật
những quan điểm chỉ đạo, nhận xét, đánh giá, nắm được yêu cầu nhiệm vụ và phương
hướng công tác ĐT, BD cán bộ trong thời gian tới của Đảng, Nhà nước. Đồng thời,
mỗi giảng viên sẽ thu nhận được những kiến thức và kinh nghiệm nhất định, qua trao
đổi, thảo luận giữa các giảng viên sẽ rút ra được những kinh nghiệm trong công tác
giảng dạy. Hiện nay, việc tổ chức các lớp này đã được triển khai nhưng chưa thường
xuyên mới chỉ áp dụng đối với giảng viên ở các TCT, chưa áp dụng cho đối tượng là
các giảng viên của các TTBDCT cấp huyện. Việc tổ chức các lớp bồi dưỡng này vẫn
còn chưa đáp ứng tốt về các nội dung nêu trên.
Đối với các báo cáo viên cấp tỉnh, cấp huyện cần thực hiện đúng quy định chế
độ báo cáo viên được cập nhật kiến thức thường xuyên do Ban Tuyên giáo Trung
ương, ban tuyên giáo tỉnh ủy, thành ủy tổ chức. Tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành
128
phố cũng nên phối hợp với Học viện CTQG Hồ Chí Minh mở những lớp tại tỉnh bồi
dưỡng phương pháp giảng đạy tích cực, phương pháp giáo dục, bồi dưỡng cán bộ
hiệu quả cho đội ngũ giảng viên kiêm chức, báo cáo viên của các tỉnh, thành ĐBSCL.
Thứ tư, các cấp ủy cấp huyện có cán bộ đưa đi ĐT, BD nên quan tâm chỉ đạo
sát sao việc bố trí sử dụng phù hợp, có hiệu quả đối với các CBCX sau ĐT, BD, đảm
bảo trở về công tác theo đúng trình độ, chuyên môn được ĐT, BD có như vậy mới
đáp ứng được nhu cầu công việc đặt ra.
4.2.3.2. Đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng
Yêu cầu ĐT, BD cho mỗi chức danh của đội ngũ CBCX là không giống nhau
và không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc. Vì vậy, các cấp ủy quản lý CBCX cần
thống kê, phân loại các chức vụ CBCX để nắm được số lượng, nhu cầu ĐT, BD từ đó
xây dựng kế hoạch mở lớp, xác định thời gian; từ đối tượng cụ thể để bố trí giảng viên,
tài liệu học tập, chế độ chính sách cho phù hợp. Làm được điều này sẽ giúp cho cấp ủy
và lãnh đạo các địa phương chủ động trong việc cử cán bộ đi học mà vẫn đảm bảo duy
trì công việc hằng ngày - đây cũng chính là một bước gắn ĐT, BD với quy hoạch cán
bộ, khắc phục tình trạng tùy tiện, chắp vá ở cơ sở để quản lý cán bộ, đánh giá đúng và
sát hơn. Đồng thời, việc ĐT, BD cán bộ theo chức danh còn giúp cho việc mở lớp đúng
đối tượng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà trường trong giảng dạy và quản lý học viên,
giúp cho học viên tiếp thu tốt hơn, từ đó góp phần nâng cao chất ĐT, BD.
Đẩy mạnh việc đa dạng hóa các hình thức ĐT, BD. Hiện nay, ở các tỉnh, thành
phố ở ĐBSCL, nhu cầu ĐT, BD cho đội ngũ cán bộ, nhất là cấp xã, ngày càng tăng,
không chỉ ĐT, BD cho cán bộ đương chức, mà còn phải ĐT, BD đối tượng tạo nguồn,
quy hoạch. Do đó, cần đa dạng hóa các hình thức ĐT, BD theo hướng: kết hợp đào
tạo chính quy, dài hạn, tập trung với đào tạo tại chức, ngắn hạn; đổi mới, mở rộng
hình thức bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ CBCX.
Để thực hiện được điều này, các TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL cần mạnh dạn
liên kết với các cơ sở đào tạo khác mở lớp tại trường, cụ thể như phối hợp với Học
viện Chính trị khu vực IV mở lớp cao cấp LLCT, phối hợp với Học viện Hành chính
mở lớp đại học hành chính; Học viện Báo chí và Truyên truyền, Học viện Phụ nữ,
các trường đại học khác ngoài khu vực và trong khu vực mở các đại học chuyên ngành
tập trung, tại chức, hoặc lồng ghép.
Cần đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng, hiện nay nhu cầu bồi dưỡng CBCX
rất lớn. Tuy nhiên, để thực hiện tốt nhiệm vụ bồi dưỡng CBCX, các tỉnh, thành phố
ĐBSCL cần chú trọng phát huy cơ sở ĐT, BD tại chỗ như: TCT, trường cao đẳng,
129
trường đại học, trường quân sự của tỉnh, thành, khu vực, các TTBDCT cấp huyện.
Ngoài ra, cũng do khung chương trình, nội dung bồi dưỡng khác phong phú, cần chủ
động phối hợp với các cơ sở ĐT, BD mời các chuyên gia, báo cáo viên, giảng viên
có kinh nghiệm để bồi dưỡng: Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị khu
vực IV bồi dưỡng cập nhật kiến thức, phương pháp; Học viện Hành chính, Trường
Đại học Nội vụ, Trường Đại học Cần Thơ bồi dưỡng kiến thức QLNN, bồi dưỡng
chức danh; Phân hiệu miền Nam Học viện Phụ nữ; Phân viện miền Nam của Học
viện Thanh thiếu niên Việt Nam...
Hằng năm, các tỉnh, thành phố ĐBSCL cần dành một khoản kinh phí cho đội
ngũ CBCX đi tham quan học tập, nghiên cứu trong nước để học tập, trao đổi kinh
nghiệm cách thức làm việc cụ thể, kỹ năng xử lý các tình huống trong thực tế của các
tỉnh bạn, các địa phương khác… Nội dung học tập nên tập trung đi sâu ba vấn đề:
những kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng Đảng, xây dựng HTCT, quản lý kính tế, văn
hóa, xã hội, an ninh trật tự, kinh nghiệm hoạt động các đoàn thể; những mô hình kinh
doanh, sản xuất có hiệu quả; tham quan những di tích văn hóa lịch sử và tham quan
tiếp xúc các loại hình công nghiệp có dây chuyền công nghệ cao để từ đó giúp cho
đội ngũ CBCX có nhận thức toàn diện phục vụ công việc của họ.
Cần đẩy mạnh việc tổ chức các hội thảo, hội nghị tổng kết trao đổi kinh nghiệm
làm việc của các CBCX giữa các xã, các huyện, các tỉnh trong và ngoài khu vực ĐBSCL
- đây thực chất cũng là một trong những hình thức bồi dưỡng rất bổ ích, thiết thực.
Đổi mới phương pháp ĐT, BD theo hướng: ĐT, BD theo nhu cầu, kỹ năng,
giảng viên lấy người học là trung tâm, gắn lý thuyết với thực hành, lý luận với thực
tiễn, quan tâm đến “đầu ra” của quá trình đào tạo, lấy chất lượng, hiệu quả làm mục
tiêu chính.
Trong điều kiện các TCT tỉnh ở ĐBSCL còn hạn hẹp về kinh phí, cơ sở vật
chất, trang thiết bị còn nhiều thiếu thốn, trình độ học vấn và khả năng tiếp thu của
đội ngũ CBCX còn nhiều bất cập, việc đổi mới phương pháp giảng dạy không có
nghĩa là phải sử dụng các phương tiện giảng dạy hiện đại như máy chiếu, dùng phần
mềm powerpoint.., mà điều quan trọng là phải đổi mới cách dạy học, cách truyền
thụ hướng vào rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo, phát huy trí tuệ và sự chủ động,
năng động của học viên. Cần tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm giữa giảng
viên với học viên và giữa các học viên với nhau. Dạy và học theo cách nêu vấn đề,
đặt ra tình huống, dẫn dắt, gợi ý học viên phân tích, đánh giá, suy nghĩ tìm tòi
nguyên nhân, cách thức giải quyết, liên hệ nội dung bài giảng với thực tế. Việc đi
130
nghiên cứu thực tế của học viên cần xác định mục đích, yêu cầu cụ thể, sau chuyến
đi thực tế phải có bài viết thu hoạch.
Các phương pháp thích hợp cần sử dụng ở đây có thể là: tăng cường thời gian
thảo luận nhóm, dạy học theo cách nêu vấn đề, ra các bài tập xử lý tình huống và gợi
ý các phương án xử lý, tăng cường thời gian nghiên cứu thực tế ở các địa phương, cơ
sở, tổng kết thực tiễn, tiếp cận với các mô hình điển hình tiên tiến; mời các cán bộ
lãnh đạo, quản lý có kinh nghiệm ở các địa phương, cơ sở về báo cáo, giảng dạy (đối
với cán bộ giữ chức vụ trưởng các đoàn thể cần chú trọng phương thức ĐT, BD
này)… Những phương pháp này nếu được thực hiện tích cực, sáng tạo sẽ có tác dụng
nâng cao hiệu quả, ĐT, BD giúp người học khắc sâu những kiến thức đã được truyền
thụ, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng và điều quan trọng hơn là giúp cho học viên phương
pháp tư duy, biết cách phân tích và xử lý những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn lãnh đạo,
quản lý ở cơ sở.
Có cơ chế bắt buộc, động viên, khuyến khích giảng viên, báo cáo viên đổi mới
phương pháp giảng dạy, báo cáo xác định đổi mới phương pháp giảng dạy là một
trong những tiêu chí để đánh giá kết quả công tác của giảng viên, báo cáo viên, thường
xuyên tổ chức trao đổi, thảo luận chuyên môn, thao giảng, giảng mẫu trong phạm vi
khoa, trường. Đồng thời, cần giúp học viên thay đổi cách học, cách nghĩ chuyển từ
lối “học vẹt”, thụ động sang cách học chủ động, tự giác, tự học, sáng tạo trong xử lý,
giải quyết vấn đề.
Để thực hiện được yêu cầu trên, cần cung cấp đủ giáo trình, tài liệu bổ trợ cho
học viên tự nghiên cứu, tìm hiểu, dành thời gian suy ngẫm, thảo luận các vấn đề nêu ra,
tạo điều kiện cho học viên không chỉ nghe mà còn trực tiếp trải nghiệm qua thực tiễn,
qua bài tập và vận dụng vào các tình huống cụ thể. Cần cải tiến mạnh mẽ nội dung, cách
thức kiểm tra, thi và viết tiểu luận, bài thu hoạch cuối khóa.
4.2.4. Đổi mới cách thức tổ chức, quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cấp xã
4.2.4.1. Đổi mới cơ chế quản lý
Quản lý tốt sẽ đưa hoạt động ĐT, BD của các TCT tỉnh, các TTBDCT cấp
huyện đi vào nền nếp và có hiệu quả. Trong thời gian tới, công tác quản lý ĐT, BD
nên điều chỉnh, rút kinh nghiệm theo hướng:
Cấp ủy cấp xã (nơi có cán bộ được cử đi ĐT, BD) và cấp ủy cấp trên trực tiếp
(cấp huyện nắm về đội ngũ CBCX) phải phối hợp chặt chẽ với cơ sở ĐT, BD (TCT
131
tỉnh hoặc TTBDCT cấp huyện) trong suốt toàn quá trình ĐT, BD; cố gắng tạo điều
kiện thuận lợi cho học viên tham gia học tập theo đúng tiến độ, thời gian, chương trình
lớp học. Không phân công công việc cho cán bộ trong thời gian theo học nhất đối với
hình thức đào tạo tập trung; đối với những địa phương mở lớp riêng cho CBCX, cử cán
bộ cùng tham gia theo dõi, quản lý lớp học cùng cơ sở đào tạo. Ngoài ra, thành lập ban
chỉ đạo lớp học, để theo dõi nắm bắt tình hình học tập của cán bộ, có sơ kết, tổng kết
rút kinh nghiệm trong quá trình đào tạo, chủ yếu là đào tạo LLCT - HC.
Về việc quản lý giờ làm việc của giảng viên, ngoài các buổi lên lớp không nhất
thiết phải máy móc đúng 8 giờ trong một ngày như công chức hành chính mà nên quản
lý linh hoạt hơn dựa trên kế hoạch làm việc của cá nhân đã được thông qua và hiệu quả
công việc. Việc cấp phát văn phòng phẩm, các chế độ của giảng viên có thể chuyển sang
khoán chi thay cho cơ chế “xin - cho” như ở một số nơi hiện nay.
Cán bộ lãnh đạo quản lý các khoa của TCT tỉnh, thành nên dành thời gian cho
việc quản lý chất lượng bài giảng của giảng viên trong khoa, duy trì chế độ thông qua
bài giảng, nhất là đối với những giảng viên mới, giảng viên chưa có nhiều kinh nghiệm
giảng dạy, để giúp giảng viên mới sớm trưởng thành, sớm có bài giảng chất lượng, cán
bộ lãnh đạo quản lý các khoa cần cử giảng viên có kinh nghiệm kèm, hướng dẫn giảng
viên mới tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Đối với các báo cáo viên (không là giảng viên cơ hữu của TCT) cũng phải chú
trọng việc nâng cao chất lượng báo cáo. Các lớp bồi dưỡng đều có kế hoạch trước,
báo cáo viên mời có được biết trước yêu cầu về nội dụng, đối tượng, thời gian, địa
điểm báo cáo. Vì thế, cần đầu tư nhiều hơn vào nội dung nâng cao chất lượng bài
giảng, đồng thời cũng chú trọng rèn luyện kỹ năng thuyết trình, phương pháp báo cáo
cho khoa học, sinh động.
Công tác chủ nhiệm lớp không được “khoán trắng” cho giáo viên chủ nhiệm mà
nên có sự phối hợp chặt chẽ với các khoa, phòng trong trường và phối hợp chặt chẽ với
đơn vị mở các lớp ĐT, BD để quản lý chặt chẽ học viên. Quán triệt sâu sắc các yêu cầu
về nội quy, quy chế ĐT, BD thực hiện nghiêm túc việc học lại, cấm thi đối với những
học viên không đảm bảo số giờ, số buổi lên lớp theo quy định. Thường xuyên liên hệ với
cơ quan, địa phương cán bộ đi học, kịp thời có thông báo định kỳ kết quả học tập, rèn
luyện của học viên cho cơ quan quản lý cán bộ.
4.2.4.2. Đổi mới cách thức xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ cấp xã
132
Xây dựng kế hoạch ĐT, BD là khâu không thể tách rời trong công tác ĐT, BD
cán bộ. Xây dựng kế hoạch ĐT, BD được tiến hành trên cơ sở quy hoạch cán bộ,
nhằm hỗ trợ, phục vụ cho công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ. Điều này đòi
hỏi quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD cần có địa chỉ, theo đơn đặt hàng, phù hợp với nhu
cầu thực tế của cơ sở, không ĐT, BD một cách ồ ạt, tràn lan, hình thức. Vì vậy, cần
đưa công tác xây dựng kế hoạch ĐT, BD cán bộ trở thành nhiệm vụ thường xuyên
của các cấp ủy đảng và chính quyền.
Để thực hiện quy trình xây dựng kế hoạch ĐT, BD một cách khoa học và thống
nhất thì việc lập kế hoạch ĐT, BD CBCX phải được xây dựng từ chính cấp xã đưa lên,
dựa trên nhu cầu thực tế, yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ của từng chức danh.
Xây dựng kế hoạch sát thực tiễn có tính khả thi, có định hướng rõ ràng sẽ tạo cơ sở tổ
chức thực hiện hoạt động ĐT, BD cán bộ đạt được mục tiêu đề ra. Khi kế hoạch đã
được phê duyệt phải được tuân thủ nghiêm, trở thành chỉ tiêu mang tính pháp lý. Việc
cấp phát, quản lý, sử dụng kinh phí đào tạo, tổ chức các hoạt động ĐT, BD nhất thiết
phải trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD.
Đổi mới việc xây dựng kế hoạch quản lý công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX ở
ĐBSCL trong thời gian tới nên tập trung vào một số nội dung cơ bản sau đây:
Trước hết, cấp ủy ở cấp xã và cấp huyện cần xác định được nhu cầu ĐT, BD
CBCX về số lượng, đối tượng, nội dung cần ĐT, BD cho từng loại cán bộ nhất là cán
bộ thuộc diện quy hoạch và cán bộ mới được bổ nhiệm hay trúng cử.
Thứ hai, ban tổ chức tỉnh ủy, sở nội vụ và TCT tỉnh nên có sự phối hợp chặt
chẽ với nhau trong xây dựng kế hoạch ĐT, BD cán bộ mang tầm chiến lược, định
hướng lâu dài, gắn với quy hoạch cán bộ, tránh đào tạo bị động, ồ ạt, tràn lan, hình
thức. Bên cạnh đó, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch để kịp
thời điều chỉnh, bổ sung khi có thay đổi. Đồng thời, thường xuyên tổ chức đánh giá
sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm khi thực hiện kế hoạch.
Thứ ba, chủ động tạo nguồn CBCX để đảm bảo nguồn ĐT, BD về LLCT, về
chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật kiến thức theo đúng kế hoạch. Tạo nguồn cán bộ là
trách nhiệm của các cấp ủy đảng, các đảng ủy cấp xã có trách nhiệm phát hiện, bồi
dưỡng, giúp đỡ cán bộ nguồn phấn đấu; cấp ủy cấp huyện, cấp tỉnh có trách nhiệm
kiểm tra, giám sát, phân bổ chỉ tiêu, tạo điều kiện mở trường lớp ĐT, BD nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, LLCT…
133
Để có được nguồn cán bộ trong ĐT, BD nên tập trung vào các nguồn sau:
Nguồn từ các CBCX đương chức chưa đủ điều kiện tiêu chuẩn theo quy định
chung cần phải học tập về LLCT - HC, về chuyên môn nghiệp vụ cho đúng vị trí việc
làm. Để nắm được chính xác số lượng đội ngũ cán bộ này, hàng năm cần rà sóat,
thống kê lại từng đối tượng cán bộ, tránh trường hợp cán bộ đã được cử đi ĐT, BD
lớp trước cũng cử đi học, lớp sau lại cử đi tiếp hoặc bỏ sót cán bộ chưa được bồi
dưỡng, cập nhật kiến thức mới…
Từ các đối tượng dự nguồn là sinh viên đã tốt nghiệp các trường đại học, cao
đẳng về địa phương công tác, hoặc sinh viên đã tốt nghiệp các trường đại học từ nơi
khác tình nguyện về công tác tại xã, phường, thị trấn đang trong diện hợp đồng, công
chức dự bị, thanh niên con em đồng bào Khmer và đồng bào các dân tộc khác ở địa
phương đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự tình nguyện về công tác tại quê hương, thanh
niên, cán bộ trẻ ở địa phương chưa phải là công chức có quá trình tu dưỡng, rèn luyện
và sản xuất tốt ở địa phương và đã tốt trung học phổ thông.
Thứ tư, đẩy mạnh việc hướng dẫn và thực hiện công tác quy hoạch đội ngũ
cán bộ cơ sở theo đúng các quy định, hướng dẫn của Trung ương. Chú trọng tạo
nguồn cơ sở là cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc Khmer. Đối với một số xã
đảo, biên giới đặc thù có thể lựa chọn một số con, em của những người có uy tín, gia
đình cách mạng có quá trình phấn đấu, tu dưỡng tốt cho đi đào tạo tập trung để trở về
bổ sung, thay thế cán bộ cơ sở.
4.2.4.3. Hoàn thiện tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cán bộ cấp xã
Nguyên tắc đánh giá phải công khai, minh bạch, khách quan, trung thực. Nội
dung tiêu chí đánh giá gồm: một là, mức độ phù hợp giữa nội dung chương trình với
yêu cầu tiêu chuẩn ngạch, chức vụ lãnh đạo, quản lý và yêu cầu vị trí việc làm; hai
là, năng lực của giảng viên và sự phù hợp của phương pháp ĐT, BD với nội dung
chương trình và người học; ba là, năng lực tổ chức ĐT, BD của cơ sở ĐT, BD; bốn
là, mức độ tiếp thu kiến thức, kỹ năng của công chức và thực tế áp dụng vào việc
thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Nội dung đánh giá trên cần được cụ thể hóa, lượng hóa một cách chi tiết. Hiện
nay, TCT ở các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã xây dựng được một số mẫu phiếu đánh
giá nhưng chưa đồng bộ, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Nên tiếp tục sử dụng
134
phiếu đánh giá giáo án, phiếu đánh giá bài giảng. Chỉnh lý, hoàn thiện phiếu lấy ý
kiến của học viên về bài giảng và đưa vào làm tiêu chí đánh giá chính thức chứ không
chỉ có giá trị tham khảo như hiện nay.
Làm tốt khâu kiểm định hồ sơ, đánh giá, phân loại, sàng lọc ngay từ đầu chất
lượng đầu vào của học viên. Kiên quyết không tiếp nhận những học viên không đúng
đối tượng, không đạt chuẩn yêu cầu. Số lượng học viên tuỳ vào từng lớp ĐT, BD mà
bố trí cho phù hợp. Đối với lớp đào tạo trình độ LLCT - HC “mỗi lớp hệ tập trung
không quá 50 học viên, mỗi lớp hệ không tập trung không quá 70 học viên” [98, tr. 9].
Đối với các lớp đào tạo chuyên môn trình độ đại học, trung cấp nghiệp vụ tuỳ vào chỉ
tiêu mà tổ chức lớp học và kết quả trúng tuyển. Các lớp bồi dưỡng phụ thuộc vào từng
nội dung, chương trình bồi dưỡng mà bố trí số lượng học viên, đối với các lớp bồi
dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng tổ chức lớp học vừa phải từ 50 đến 70 học viên
là hợp lý. Việc bố trí lớp học với số lượng học viên cân đối giúp cho quá trình ĐT, BD
đạt hiệu quả cao hơn. Đồng thời, cũng chú trọng việc xác định đúng đắn mục tiêu, động
cơ, mục đích học tập cho toàn khóa ĐT, BD và mỗi học viên.
Đổi mới đồng bộ công tác thi, kiểm tra, viết khóa luận, thu hoạch để đánh giá
đúng, thực chất kết quả học tập, rèn luyện của học viên. Xây dựng tiêu chí đánh giá
khả năng vận dụng kiến thức đã được trang bị vào thực tiễn công tác của cán bộ sau
khi được ĐT, BD. Đối tượng lấy ý kiến có thể là cán bộ được ĐT, BD hoặc người sử
dụng cán bộ sau ĐT, BD. Nội dung đánh giá chủ yếu trên các khía cạnh: nhận thức, kỹ
năng vận dụng lý luận vào thực tiễn công tác, phẩm chất, đạo đức, hiệu quả công tác,
mức độ đạt được của mục tiêu đề ra.
Hoàn thiện quy trình ĐT, BD, định ra tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá đối với các
công việc liên quan trong quá trình đào tạo để làm căn cứ đánh giá chất lượng, như:
yêu cầu của một kế hoạch học tập trong một khóa học, tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng một chương trình, tiêu chí để xác định một phòng học chuẩn, tiêu chuẩn đối
với giảng viên...
Hoạt động đánh giá chất lượng ĐT, BD cán bộ cần được tiến hành thường
xuyên theo môn học, khóa học, năm học và công bố công khai kết quả đánh giá. Bên
cạnh đó, Trường nên có biện pháp động viên, khuyến khích, khen thưởng kịp thời đối
với các giảng viên có sáng kiến, chất lượng giảng dạy tốt; có kế hoạch giúp đỡ đối
với giảng viên chất lượng giảng dạy ở mức trung bình hoặc chưa đạt yêu cầu.
135
4.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên làm nhiệm vụ
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã
Chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên là yếu tố quyết định đến chất lượng
ĐT, BD nên trong thời gian tới nên tập trung vào những nội dung sau:
Một là, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu thực tế của đội
ngũ giảng viên, báo cáo viên trong đó, cần tăng cường thời gian xuống cơ sở. Hằng
năm cần cử giảng viên đi nghiên cứu thực tế tại cơ sở trong thời gian ít nhất là một
tháng. Cần đảm bảo các giảng viên xuống cơ sở không phải chỉ “xem”, thu thập tài
liệu, số liệu, giảng viên cần chủ động thâm nhập vào thực tiễn quản lý, điều hành của
cơ quan, địa phương, nghiên cứu đúc rút kinh nghiệm từ thực tế, xây dựng các tình
huống cho giảng dạy “đóng vai” vào các vị trí công tác, học làm cán bộ trước khi dạy
cán bộ. Với giảng viên trẻ, có năng lực, triển vọng phát triển, thực hiện điều động,
luân chuyển về cơ sở trong khoảng 1 đến 2 năm để rèn luyện bồi dưỡng kiến thức
thực tiễn. Tạo điều kiện cho giảng viên đi nghiên cứu thực tế ở các địa phương khác
trong nước và ngoài nước.
Hai là, tăng thêm kinh phí cho biên soạn bài giảng, viết giáo trình, biên soạn
tài liệu tham khảo, từ đó bổ sung nguồn tư liệu giảng dạy cho cán bộ cơ sở; bổ sung
nguồn kinh phí cho giảng viên, học viên đi tham quan, nghiên cứu thực tế. Cần tăng
thêm kinh phí đi nghiên cứu thực tế cho các khóa ĐT, BD kể cả dài hạn và ngắn hạn.
Ba là, đổi mới chế độ chính sách đối với giảng viên, báo cáo viên thực hiện
nhiệm vụ ĐT, BD để khuyến khích giảng viên, báo cáo viên nâng cao chất lượng
giảng dạy. Tùy điều kiện cụ thể, các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL cần có cơ chế giúp họ
ổn định đời sống, an tâm với nghề nghiệp, dành thời gian đầu tư cho chuyên môn như
tạo điều kiện về nơi ăn, chốn ở, sinh hoạt; đảm bảo chế độ lương, phụ cấp giảng dạy,
chế độ thanh toán giờ giảng, chế độ tham quan, đi thực tế, nghỉ mát, nghỉ theo chế
độ, chữa bệnh, nghiên cứu khoa học, trao đổi nghiệp vụ, cập nhật thông tin…
Bốn là, các giảng viên phải là người thật sự tâm huyết với nghề và thường
xuyên rèn nghề, chú trọng việc khơi dậy cho học viên sự say mê nhận thức và vận
dụng kiến thức được ĐT, BD. Cần thay đổi, điều chỉnh chương trình, nội dung ĐT,
BD, bao gồm việc điều chỉnh lại giáo án, nội dung báo cáo sao cho gọn, nhẹ, mạch
lạc, không ôm đồm nhiều vấn đề, nội dung; điều chỉnh phương pháp giảng dạy, giảm
thuyết trình, tăng cường trao đổi, gợi mở vấn đề cho học viên cùng thảo luận, tăng
cường tự nghiên cứu; áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực, các bài giảng phải
136
thường xuyên cập nhật những kiến thức mới, kiến thức thực tiễn, đặt ra nhiều tình
huống, giả thuyết để học viên trao đổi, tự tìm ra phương án giải quyết vấn đề. Người
giảng viên cũng cần thực hiện nghiêm túc, khách quan và công bằng nhiều biện pháp
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên.
Năm là, dành kinh phí thỏa đáng cho việc đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ
giảng viên kiêm nhiệm là các cán bộ lãnh đạo địa phương có kinh nghiệm, có trình
độ sư phạm và giáo viên mời giảng ở các nơi khác, các báo cáo viên đương chức.
Cũng cần xây dựng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ giảng viên kiêm chức, tạo nguồn
giảng viên kiêm chức có kinh nghiệm thực tiễn bằng cách phối hợp với các sở, ban,
ngành, đoàn thể của tỉnh để tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương, những
người thuộc các ngạch chuyên viên chính trở lên, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt,
có kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn khả năng truyền đạt và tâm huyết,
sau đó lập danh sách đề nghị tỉnh ủy, thành ủy hoặc UBND tỉnh, thành phố phê duyệt.
Sáu là, quy định rõ quyền lợi, trách nhiệm của giảng viên kiêm chức, báo cáo
viên và tổ chức bồi dưỡng phương pháp giảng dạy tích cực cho họ, nhằm giúp họ khắc
phục điểm yếu về kỹ năng sư phạm. Hằng năm, cơ sở ĐT, BD cần có những nhận xét,
đánh giá về hoạt động của đội ngũ giảng viên kiêm chức, báo cáo viên. Nếu thực hiện
được các biện pháp đã nêu sẽ khuyến khích, động viên được những giảng viên kiêm
chức, báo cáo viên tham gia giảng dạy và tâm huyết với công tác ĐT, BD cán bộ cơ
sở. Trong quá trình sử dụng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên các cơ sở ĐT, BD cũng
cần thực hiện việc sàng lọc để lựa chọn những giảng viên, bảo cáo viên giỏi, có tâm
huyết với nghề. Những người có khả năng giảng dạy tốt cần có chính sách ĐT, BD để
họ có trình độ cao hơn, những người không đáp ứng được yêu cầu công việc thì phải
được chuyển sang hoạt động ở lĩnh vực khác phù hợp hơn.
Bảy là, đội ngũ giảng viên trong hệ thống TCT nhất thiết phải bảo đảm có đủ
tiêu chuẩn theo quy định, đúng chuyên môn đã được đào tạo, khắc phục thực trạng
được đào tạo ở chuyên ngành này nhưng lại được bố trí giảng dạy ở chuyên ngành
khác, lĩnh vực khác.
Dù là giảng viên chính hay giảng viên kiêm chức, giảng viên thỉnh giảng, báo
cáo viên đều đòi hỏi phải có đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị và tâm huyết
với nghề. Điều đó thể hiện ở việc khi đã lên lớp giảng, người giảng viên, báo cáo viên
phải có trách nhiệm với bài giảng, phải truyền đạt những kiến thức mà học viên cần,
để vận dụng trong công việc và cố gắng tạo niềm cảm hứng từ phía người học. Làm
137
nhiệm vụ giảng dạy, báo cáo bài đòi hỏi giữa lời nói, việc làm phải hài hòa. Nói và
làm phải đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Do vậy, người giảng viên, báo cáo viên phải rèn luyện, trau dồi về mọi mặt,
phải khắc phục việc giảng đường lối, chính sách, pháp luật rất hay, nhưng làm thì
ngược lại, gây ra hiệu ứng phản tác dụng trong giáo dục với học viên, tạo ra sự hoài
nghi, thiếu tin tưởng của người học.
Phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp không phải tự nhiên mà có, mà là sự tổng
hợp của nhiều yếu tố trong đó cơ bản nhất là sự tự rèn luyện, học tập phấn đấu và quyết
tâm của từng người. Giảng bài là việc khó, nhưng giảng cho học viên là những cán bộ vừa
là nhà lãnh đạo quản lý vừa là những người làm các công việc cụ thể ở cấp xã lại càng khó
hơn, vì vậy càng đòi hỏi phải có sự sắc sảo trong từng bài giảng và những tri thức thực tiễn
phong phú. Chỉ có như vậy mới thuyết phục được người học.
Để có được những bài giảng, bài cáo cáo hay, có chất lượng cao, từng giảng
viên, báo cáo viên phải được bồi dưỡng thường xuyên hàng năm, nhất là những vấn đề
mới về lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm dạy học. Do vậy, cần có chính sách rõ ràng,
dành thời gian thỏa đáng, có sự phân công công việc phù hợp cho đội ngũ giảng viên,
báo cáo viên để họ sắp xếp công việc phù hợp, có thời gian cho việc rèn luyện, học tập
nâng cao trình độ, đi nghiên cứu thực tế, tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học ở địa
phương và trong nước để tích lũy, nâng cao kiến thức thực tế đưa vào bài giảng và tích
lũy kinh nghiệm giảng dạy.
Cần có những chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với giảng viên, báo cáo viên có
ý thức tự học tập, bồi dưỡng. Đồng thời, cần theo dõi quá trình học tập và làm việc của
đội ngũ giảng viên, báo cáo viên để động viên, khuyến khích những giảng viên, báo cáo
viên mẫn cán làm việc và say mê học tập, có chí tiến thủ. Đối với những giảng viên, báo
cáo viên nào nào tự có ý thức học tập, bồi dưỡng mà vẫn đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao, cần phải có sự động viên, khen thưởng kịp thời như tăng lương, thưởng
thêm, hỗ trợ tài chính cho việc học, bổ nhiệm vào chức vụ phù hợp với trình độ, năng
lực và yêu cầu công việc.
4.2.6. Bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã
4.2.6.1. Chú trọng nguồn kinh phí và đầu tư cơ sở vật chất
Quyết định 184-QĐ/TW ngày 03-9-2008 của Ban Bí thư khẳng định:
138
Các tỉnh ủy, thành ủy trực tiếp lãnh đạo thực hiện nội dung, chương trình, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức; về tổ chức bộ máy và biên chế;
về chế độ, chính sách đối với cán bộ, giảng viên và học viên của trường chính
trị tỉnh, thành phố. ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện quy chế quản
lý đào tạo; đầu tư, cấp kinh phí hoạt động và quản lý cơ sở vật chất của trường
chính trị tỉnh, thành phố [4, tr. 3].
Qua quá trình triển khai thực hiện quyết định trên, đến ngày 20-11-2015 Ban
Bí thư ra Kết luận số 117-KL/TW yêu cầu:
Các tỉnh ủy, thành ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố nâng cao trách nhiệm
lãnh đạo, chỉ đạo đối với các trường chính trị trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, giảng viên đủ năng
lực; tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ lãnh đạo, quản lý, giảng viên của trường
chính trị đi thực tế ở cơ sở. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và các điều kiện
phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học [6, tr. 2].
Theo tinh thần trên, Nhà nước cần có quy định thực hiện nghiêm túc về việc trích
tỉ lệ thoả đáng trong tổng chi ngân sách hằng năm cho hoạt động ĐT, BD thường xuyên
cho CBCX, trong đó cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
Một là, phân định rõ ràng nguồn kinh phí cho công tác ĐT, BD CBCX với các
mục chi khác trong nguồn kinh phí hành chính của các đơn vị, phải quản lý và sử
dụng có hiệu quả nguồn kinh phí chi cho công tác ĐT, BD CBCX.
Tập trung kinh phí về một đơn vị quản lý nhằm thống nhất, đồng bộ trong công
tác ĐT, BD cán bộ theo kế hoạch; tránh tình trạng mạnh đơn vị nào thì đơn vị đó làm,
ngành nào cũng có thể tự tổ chức ĐT, BD, làm thất thoát kinh phí, hiệu quả ĐT, BD
không cao.
TCT và TTBDCT cấp huyện ở các tỉnh, thành ĐBSCL là những địa chỉ chính
để ĐT, BD cán bộ cơ sở. Vì vậy, cần tăng cường đầu tư, bổ sung, nâng cấp và xây
dựng mới cơ sở vật chất, trang thiết bị, phục vụ cho giảng dạy và học tập tại các TCT
tỉnh, thành phố, các TTBDCT cấp huyện nhằm đáp ứng yêu cầu công tác ĐT, BD
CBCX ở ĐBSCL.
Hai là, huy động khai thác mọi nguồn lực xã hội, phục vụ công tác ĐT, BD
CBCX ở ĐBSCL như: tranh thủ sự ủng hộ và hỗ trợ về vật chất của Trung ương, của
các dự án từ bên ngoài, các nguồn kinh phí của nước ngoài tài trợ về ĐT, BD; từ các
139
cán bộ lão thành cách mạng còn sức khỏe, có nhiều kinh nghiệm về phương pháp, kỹ
năng lãnh đạo, quản lý ở cơ sở…
Để đổi mới đẩy mạnh và nâng cao chất lượng ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL cần đầu
tư mạnh hơn nữa cho TCT và TTBDCT cấp huyện.
Ba là, đầu tư các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để phục vụ cho công tác giảng
dạy, tiến tới hiện đại hóa các phương tiện kỹ thuật dạy học. Trong thời gian trước mắt,
các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL cần đẩy mạnh việc đầu tư kinh phí mua sắm mới thay thế
cơ bản các trang thiết bị đã lạc hậu ở một số TCT như hệ thống ấm thanh, bảng từ, hệ
thống chiếu sáng, quạt, bàn ghế, nơi nào có điều kiện gắn máy điều hoà… Tạo môi
trường, không gian học tập thông thóang, thuận tiện (điều này đã được làm khá tốt ở các
TCT tỉnh Kiên Giang, Đồng Tháp, Bạc Liêu). Đối với một số TCT như thành phố Cần
Thơ, Sóc Trăng, An Giang… đang trong giai đoạn xây mới, nâng cấp, sửa chữa.
Bốn là, quan tâm đầu tư những thiết bị làm việc cơ bản cho cán bộ, giảng viên,
báo cáo viên. Cần cung cấp cho giảng viên, báo cáo viên các trang thiết bị phục vụ đổi
mới phương pháp giảng dạy như bút dạ, bìa, giấy, gim, máy vi tính, máy projector... đảm
bảo phục vụ tốt cho việc giảng dạy theo phương pháp tích cực.
Nâng cấp, mở rộng thư viện phục vụ tốt cho công tác giảng dạy và học tập.
Thư viện cần có đủ giáo trình, phong phú về tài liệu bổ trợ, sách tham khảo, báo, tạp
chí, có phòng đọc, phòng internet tạo ra môi trường tự học tập cho giảng viên và học
viên. Đối với CBCX nói chung cần cấp phát giáo trình, tài liệu học tập, bồi dưỡng
đầy đủ, kịp thời để họ thường xuyên nghiên cứu, sử dụng trong quá trình học tập cũng
như sau khi đã kết thúc khóa học trở về cơ sở công tác (hiện nay ở nhiều nơi giáo trình
đào tạo vẫn còn thiếu, đối với tài liệu bồi dưỡng có lớp có, lớp không). Thư viện cần
được tổ chức khoa học, thuận tiện, có phòng đọc riêng rộng rãi, thoáng mát thu hút cán
bộ, học viên đến nghiên cứu, tìm hiểu thông tin; từng bước ứng dụng công nghệ thông
tin trong tra cứu và quản lý tài liệu.
4.2.6.2. Thực hiện đồng bộ các chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán
bộ cấp xã
Chính sách đối với đội ngũ CBCX bao gồm: thu hút, thúc đẩy đầu tư cho công
tác tạo nguồn, quy hoạch, ĐT, BD nhận xét, đánh giá, bố trí sử dụng tạo điều kiện vươn
lên và đãi ngộ CBCX. Trong thời gian tới, cần có phương pháp và chính sách đầy đủ
hơn nữa trong công tác cán bộ đối với CBCX vùng sâu, vùng biên giới, hải đảo, là
người đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là đồng bào Khmer. Cụ thể là, cần có cách tiếp
140
cận dân chủ, dễ hiểu, làm cho họ hiểu và tin tưởng vào công việc tạo nguồn quy hoạch,
ĐT, BD CBCX; khắc phục tình trạng quy hoạch cán bộ mang tính hình thức, không
đúng quy trình hoặc thiếu công bằng.
Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới, các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL
cần tiếp tục xây dựng hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách: nhìn chung, chế độ đãi
ngộ đối với đội ngũ CBCX ở các tỉnh, thành ĐBSCL trong thực tế còn nhiều vấn đề
bất cập cần được xem xét và bổ sung. Cần có các chế độ, chính sách ưu tiên, hỗ trợ của
Nhà nước phù hợp và thỏa đáng đối với CBCX ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới, vùng hải đảo, vùng đông đồng bào dân tộc hơn. Các tỉnh, thành phố cũng cần xây
dựng và thực hiện nhất quán chế độ hỗ trợ kinh phí ĐT, BD đối với CBCX theo Thông
tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21-9-2010 của Bộ Tài chính về “quy định việc lập dự
toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách Nhà nước dành cho công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức”, đồng thời có chính sách, biện pháp khuyến khích và bắt
buộc CBCX phải thường xuyên học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị và
chuyên môn, cụ thể như với những CBCX đi học đạt kết quả cao trong học tập cần có
chính sách động viên, khen thưởng thỏa đáng như bố trí, sử dụng hợp lý, có thể xem
xét tăng lương hoặc bổ nhiệm sớm; cán bộ lười học tập, trốn tránh việc cử đi học, không
chấp hành nghiêm quy chế đào tạo trong thời gian đi học… cần có hình thức xử lý thích
đáng, chí ít là chưa đưa vào danh sách bầu cử, bổ nhiệm, không bổ nhiệm lại.
4.2.7. Phát huy tính tự giác trong tự học tập và rèn luyện của cán bộ
cấp xã gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng
Thực tế ở đã chứng minh, những CBCX thực sự có tài, được nhân dân tin
tưởng đều có phẩm chất đạo đức cách mạng, có trình độ, kiến thức chuyên môn, trong
đó, một phần phẩm chất, trình độ của những cán bộ có được là trong quá trình học
tập ở nhà trường, còn phần lớn là do chính họ tự rèn luyện trong môi trường công tác
và tự học tập, tu dưỡng.
Để xây dựng thái độ, động cơ tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện đúng đắn cho
đội ngũ CBCX, trước hết các cấp ủy đảng, nhất là cấp ủy cấp trên trực tiếp và các sở,
ban, ngành có liên quan cần phải tăng cường công tác giáo dục thường xuyên cho đội
ngũ cán bộ này nâng cao nhận thức về vai trò, tác dụng của việc tự học tập, tự tu
dưỡng và rèn luyện, thấy rõ những yêu cầu, đòi hỏi khách quan về tiêu chuẩn của
141
CBCX, giúp họ nhận thức sâu sắc rằng phẩm chất, đạo đức cách mạng và trình độ
năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, phần lớn phải trải
qua quá trình học tập, rèn luyện thường xuyên, liên tục, nghiêm túc và bền bỉ, như lời
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ, đảng viên trước lúc đi xa: “Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong” [125, tr. 612].
Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tạo ra môi trường, những điều kiện,hoàn cảnh
thuận lợi, thiết thực nhất để cán bộ nhận thấy được nhu cầu và có động cơ học tập, tu
dưỡng, rèn luyện đúng đắn; đồng thời, phân công, giao nhiệm vụ cho cán bộ, đặc biệt
là những cán bộ trẻ, tham gia vào các hoạt động thực tiễn để họ có điều kiện cọ sát, rèn
luyện, thử thách. Đẩy mạnh hơn nữa phong trào tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện
của đội ngũ cán bộ, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh đi vào chiều sâu, biểu hiện qua những việc làm cụ thể, thiết thực. Những
chuyển biến trong nhận thức của mỗi CBCX về mục đích, ý nghĩa, nội dung chủ trương
của Đảng về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là cơ sở
quan trọng để bản thân mỗi người tự học tập, phấn đấu rèn luyện phong cách, tu dưỡng
đạo đức và chủ yếu là “làm theo” Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành hành động tự giác,
tự nguyện, tự thân trong mỗi người, vì vậy nên coi việc rèn luyện đạo đức cách mạng
là thước đo lòng cao thượng của mỗi cán bộ mỗi CBCX.
Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta là: học
tập, rèn luyện là công việc suốt đời của cán bộ, đảng viên. Trong giai đoạn cách mạng
hiện nay, mỗi CBCX ở ĐBSCL phải xây dựng cho mình kế hoạch thường xuyên tự
học tập, nâng cao trình độ chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Học
tập vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải
được quy định thành nền nếp, chế độ. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự là
một tấm gương sáng, mẫu mực trong học tập, công tác cũng như trong cuộc sống để
cho cán bộ, nhân dân học tập và noi theo; cần phát huy cao độ vai trò tiền phong,
gương mẫu của đội ngũ cán bộ là lãnh đạo chủ chốt, lão thành cách mạng về ý thức
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, về ý thức thường xuyên
tự học nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và sáng tạo trong các hoạt
động để các cán bộ, đảng viên trẻ noi theo. Đặc biệt, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa
142
việc tự học tập, rèn luyện của cán bộ, đảng viên với việc nghiêm túc thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng “về tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã khẳng định nếu cán
bộ “nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập LLCT; lười
học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước” [71, tr. 28] là biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị.
Cấp ủy đảng các cấp phải thường xuyên và kịp thời nêu gương, biểu dương,
khen thưởng, tuyên truyền và nhân rộng những tấm gương điển hình về cán bộ trẻ
tiêu biểu trong quá trình tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện nhằm kích thích tính tích cực,
tự giác và khơi dậy sự say mê, hứng thú, lòng nhiệt huyết vươn lên phấn đấu học tập,
tu dưỡng, rèn luyện phát triển không ngừng của họ, đồng thời cần phê phán những
cán bộ thiếu cố gắng, dựa dẫm, ỷ lại, lười học tập, không chịu tu dưỡng, rèn luyện
phong cách, đạo đức cách mạng…
Trong giai đoạn mới của cách mạng, việc tự học tập, tu dưỡng rèn luyện phải
trở thành nhu cầu trực tiếp, thói quen, hành vi hàng ngày của mỗi cán bộ. Cán bộ nào
lười học, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp cận, cập nhật những thông tin mới,
những tri thức mới cũng là một biểu hiện suy thóai. Các cán bộ trẻ chính là nguồn
nhân lực lãnh đạo quan trọng trong thời kỳ hội nhập và phát triển của đất nước. Do
đó, mỗi cán bộ phải thường xuyên tự phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện không
ngừng, vừa làm vừa học để có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức chính trị, lập trường
quan điểm vững vàng, trình độ chuyên môn giỏi, xung kích, năng động, sáng tạo;
đồng thời phải có tinh thần học hỏi, khiêm tốn, cầu thị, tận tâm, tận lực đem trí tuệ
của mình phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân.
4.2.8. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chú trọng hoạt động sơ,
tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm công đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã
Kiểm tra, giám sát là hoạt động không thể thiếu trong công tác ĐT, BD cán
bộ, công chức nói chung, CBCX nói riêng. Kiểm tra, giám sát là để bảo đảm cho toàn
bộ các nội dung trong công tác ĐT, BD được thực hiện đúng, đủ, hiệu quả, đồng thời
ngăn ngừa các thiếu sót, sai phạm. Để hoạt động kiểm tra, giám sát công tác ĐT, BD
CBCX ở ĐBSCL có hiệu quả, cần chú trọng thực hiện tốt các vấn đề sau:
143
Một là, đối với các tỉnh ủy, thành ủy, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát để bảo đảm các hoạt động trong công tác ĐT, BD thực hiện nghiêm túc, đúng chủ
trương, quan điểm, quy trình. Cần tập trung kiểm tra, giám sát các khâu trong công
tác ĐT, BD CBCX như: thực hiện việc chỉ đạo đánh giá, rà soát cán bộ sau quy hoạch,
xây dựng đề án, kế hoạch ĐT, BD CBCX; việc đảm bảo kinh phí cho ĐT, BD...
Chú trọng giám sát việc phê duyệt kế hoạch và kinh phí ĐT, BD cán bộ, công
chức, viên chức hằng năm (trong đó có đội ngũ CBCX, bảo đảm kịp thời, đúng đối
tượng, kinh phí và thời gian thực hiện. Kiểm tra đánh giá nguồn nhân lực, khâu phối
hợp giữa các cơ quan, các điều kiện, cơ sở vật chất bảo đảm cho thực hiện công tác
ĐT, BD CBCX. Phân công cán bộ phụ trách công tác ĐT, BD cán bộ của ban tổ chức
tỉnh ủy, thành ủy, của sở nội vụ tỉnh, thành và cán bộ của tổ chức, nội vụ cấp huyện
theo dõi chặt chẽ hoạt động ĐT, BD CBCX để kịp thời báo cáo, phản ảnh để cấp ủy
và các cơ quan chức năng có thẩm quyền để có sự chỉ đạo đạt hiệu quả cao nhất.
Hai là, đối với Thanh tra của Học viện CTQG Hồ Chí Minh chủ động, thường
xuyên có kế hoạch thanh tra hoạt động ĐT, BD CBCX đối với các cơ sở đào tạo trong
hệ thống, cụ thể là TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL. Nội dung thanh tra cần tập trung
vào việc thực hiện quy chế của học viện về ĐT, BD cán bộ theo sự phân cấp như:
việc thực hiện khung chương trình, nội dung; đối tượng cán bộ tham gia ĐT, BD; đội
ngũ giảng viên và khâu tổ chức giảng dạy, quản lý; khâu thi, kiểm tra, viết thu hoạch,
thi tốt nghiệp, viết khóa luận tốt nghiệp; khâu cấp phát bằng, giấy chứng nhận; khâu
quản lý và lưu trữ hồ sơ...
Ba là, đối với thanh tra nhà nước tỉnh, ủy ban kiểm tra cấp ủy cấp tỉnh và cấp
huyện cần chú trọng việc phối kết hợp để thanh tra, kiểm tra hoạt động có liên quan
đến công tác ĐT, BD CBCX như: việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ sở
ĐT, BD; việc thực hiện các kinh phí ĐT, BD, các chế độ chính sách có bảo đảm đúng
nguyên tắc tài chính không, nhất là khoản kinh phí cấp, các khoản thu, chi; việc thực
hiện các quy định, quy chế đối với công tác ĐT, BD có thực hiện đúng, đủ không...
Bốn là, đối với các cơ sở đào tạo, chủ yếu là ban giám hiệu, lãnh đạo đơn vị
cần đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát phạm vi đơn vị mình trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị: kiểm tra thường xuyên và kết hợp với đánh giá chất lượng đội
ngũ giảng viên, báo cáo viên; kiểm tra các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho ĐT,
BD để kịp thời bổ sung, sửa chữa, kiến nghị xây cất mới; kiểm tra khâu tổ chức ĐT,
BD (giảng dạy, quản lý, chấp hành giờ giấc học tập của học viên, tổ thi, kiểm tra...);
144
thường xuyên kiểm tra giáo án, kết hợp chặt chẽ với khâu thao giảng, dự giờ để đánh
giá tiết giảng, buổi giảng; kiểm tra khâu phối kết hợp giữa các đầu mối trong đơn vị
về thực hiện nhiệm vụ ĐT, BD CBCX tạo sự nhịp nhàng, phát huy sự cộng đồng
trách nhiệm cao.
Qua kiểm tra, thanh tra nếu phát hiện có những sai phạm cần chấn chỉnh kịp
thời, hoặc đến mức xử lý kỷ luật thì căn cứ vào mức độ sai phạm của từng cá nhân và
tổ chức mà xử lý để bảo đảm quy định, quy chế của Đảng, Nhà nước về ĐT, BD
CBCX được thực hiện nghiệm túc.
Hoạt động sơ kết, tổng kết, rút ra kinh nghiệm là khâu cuối trong công tác ĐT,
BD CBCX. Sau mỗi khóa ĐT, BD, cấp ủy cấp tỉnh, huyện và cơ quan chức năng cần
tổ chức sơ, tổng kết đánh giá kết quả ĐT, BD CBCX đạt được những gì và chưa đạt
những gì từ mục tiêu, nội dung chương trình, chất lượng giảng dạy, công tác quản lý,
chế độ chính sách...chỉ ra những tổ chức, cán nhân có liên quan góp phần đem đến
chất lượng, hiệu quả ĐT, BD, hoặc những yếu kém, hạn chế. Qua đó có sự lãnh, chỉ
đạo kịp thời cho hoạt động này tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn. Hoặc đề xuất kiến nghị
giúp cho các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đơn vị tham gia vào công tác ĐT, BD
CBCX ở địa phương và Trung ương đưa ra các quyết định phù hợp tiếp theo cho công
tác ĐT, BD CBCX, nhất là phát hiện những lỗ hổng, sự bất hợp lý, phi thực tế của
công tác ĐT, BD.
Phát huy tốt vai trò của ban chỉ đạo lớp học trong việc tổ chức sơ kết giữa khóa
học để kịp thời đánh giá, chấn chỉnh. Cuối khóa cần có nhận định xác thực, nội dung
đánh giá hợp lý về kết quả ĐT, BD. Cần có định hướng tốt cho việc sử dụng CBCX
sau ĐT, BD. Công tác sơ tổng kết phải kết hợp với khen thưởng những tập thể, cá
nhân có thành tích tốt trong ĐT, BD CBCX.
Học viện CTQG Hồ Chí Minh, các cơ quan Trung ương định kỳ tổ chức tổng
kết, đánh giá kết quả ĐT, BD cán bộ, trong đó nên dành thời lượng, nội dung cho
đánh giá hoạt động ĐT, BD CBCX. Cần lưu ý đến chương trình, nội dung, cách thức
bồi dưỡng CBCX, nhất là bồi dưỡng chức danh, bồi dưỡng cập nhật kiến thức.
Tổng kết công tác ĐT, BD CBCX cần phải đánh giá được hiệu quả sự dụng cán
bộ CBCX sau khi được ĐT, BD và đánh giá xem CBCX đã vận dụng và phát huy tốt
kiến thức, kỹ năng sau khi được ĐT, BD như thế nào. Để từ đó các chủ thể trong công
tác ĐT, BD CBCX có những phương thức phù hợp hơn trong thời gian tới.
145
KẾT LUẬN
Công tác ĐT, BD CBCX là một trong những giải pháp quan trọng để xây dựng
đội ngũ CBCX chuyên nghiệp, vững vàng về chính trị, tinh thông nghiệp vụ. Hoạt
động ĐT, BD CBCX đạt hiệu quả thì mới đạt được mục tiêu xây dựng đội ngũ CBCX
vừa có chuyên môn, năng lực, vừa có kỹ năng nghề nghiệp cao trong hoạt động thực
tiễn, phục vụ sự nghiệp phát triển KT-XH tại địa phương. Muốn đạt được điều đó,
phải nắm chắc và thực hiện tốt tất cả các nội dung có liên quan đến công tác ĐT, BD
CBCX. Việc thực hiện các nội dung của công tác ĐT, BD không phải là nhiệm vụ
của một vài cá nhân, cơ quan có liên quan đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL mà
đó là nhiệm vụ chung của cả HTCT từ Trung ương đến cơ sở, trực tiếp các các tỉnh,
thành ủy, UBND tỉnh, thành ĐBSCL, các cơ sở ĐT, BD.
Trong những năm qua, công tác ĐT, BD CBCX của các tỉnh, thành phố ở
ĐBSCL đã đạt được những thành tựu và có những đổi mới đáng ghi nhận như: đã cụ
thể hóa các văn bản của Trung ương, triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình,
nội dung, hình thức ĐT, BD; khâu lập kế hoạch, chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD
khoa học hơn trước; chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên được nâng lên; khâu
quản lý, phục vụ ngày càng chuyên nghiệp, chặt chẽ; chế độ chính sách, cơ sở vật
chất phục vụ cho ĐT, BD được quan tâm; ý thức học tập của CBCX được nâng lên
rõ rệt. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn bộc lộ những hạn chế: việc xây dưng chủ
trương, kế hoạch ĐT, BD đội ngũ CBCX chưa thật khoa học, không đồng bộ, còn
chậm trễ; trong chỉ đạo xây dựng và thực hiện chương trình, nội dung ĐT, BD CBCX
còn lúng túng, thậm chí buông lỏng; việc chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD có nhiều
trường hợp chưa đáng; chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên, bảo cáo viên
chưa được nâng lên, còn yếu kém nhiều mặt; công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng
kết, rút kinh nghiệm công tác ĐT, BD chưa thường xuyên. Những hạn chế đó ảnh
hưởng rất lớn đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL thời gian qua, làm cho chất
lượng, hiệu quả ĐT, BD CBCX còn chưa đạt yêu cầu. Nguyên nhân của hạn chế trên
là do: một số cấp ủy, chính quyền địa phương và đội ngũ CBCX chưa nhận thức đầy
đủ về vị trí, vai trò của công tác ĐT, BD CBCX; chưa chú trọng công tác quy hoạch
CBCX và lập kế hoạch ĐT, BD cán bộ cụ thể; thiếu sự phối hợp giữa các tổ chức, cơ
quan; đội ngũ giảng viên, báo cáo viên chưa chịu khó nâng cao tay nghề, kỹ năng
146
truyền thụ; việc xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, lực lượng phục vụ cho
hoạt động ĐT, BD chưa được chú trọng đúng mức; kinh phí, cơ sở vật chất và chế độ
chính sách cho công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL chưa phù hợp, chưa tạo động lực
cho người học và cũng chưa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ĐT, BD.
Qua thực hiện công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL có thể rút ra một số kinh
nghiệm như sau: Thứ nhất, phải xây dựng được quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD CBCX
cụ thể, sát với điều kiện thực tế từng tỉnh, thành phố ở ĐBSCL. Thứ hai, tăng cường
chỉ đạo sát sao và sự phối hợp nhịp nhàng của các cấp lãnh đạo, các đơn vị chức năng,
giữa đơn vị sử dụng cán bộ và cơ sở đào tạo trong cả quá trình ĐT, BD CBCX. Thứ
ba, coi trọng xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên có trình độ, chuyên môn
vững vàng, am hiểu thực tiễn. Thứ tư, nắm chắc đặc điểm của loại lớp ĐT, BD, từng
loại đối tượng học viên để có phương pháp giảng dạy, quản lý phù hợp. Thứ năm,
không ngừng quan tâm đầu tư vật chất phục vụ công tác ĐT, BD gắn liền với thực
hiện tốt các chế độ, chính sách ĐT, BD CBCX.
Để tăng cường công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL đạt được mục tiêu ĐT, BD
CBCX phải nghiên cứu và thực hiện đồng bộ các giải pháp: một là, nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và CBCX ở ĐBSCL
về công tác ĐT, BD cho đội ngũ CBCX; hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp ủy và tạo điều kiện thuận lợi của cơ quan cấp trên đối với công tác ĐT, BD cho
CBCX; ba là, đổi mới chương trình, nội dung, phương thức ĐT, BD CBCX; bốn là,
đổi mới cách thức tổ chức, quản lý ĐT, BD CBCX; năm là, nâng cao chất lượng đội
ngũ giảng viên, báo cáo viên làm nhiệm vụ ĐT, BDCBCX; sáu là, bảo đảm kinh phí
và cơ sở vật chất phục vụ công tác ĐT, BDCBCX; bảy là, phát huy tính tự giác của
CBCX trong tự học tập và rèn luyện gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII của Đảng; tám là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chú trọng hoạt động
sơ, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm công ĐT, BD CBCX.
147
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Trần Thanh Sang (2014), “Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ bí thư đảng
ủy cấp xã ở Sóc Trăng”, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, ngày 11-5.
2. Trần Thanh Sang (2017), “Thực hiện nghiêm kỷ luật phát ngôn của đảng
viên, công chức, viên chức nhân viên các trường chính trị”, Tạp chí Lý luận chính trị
điện tử, ngày 13-9.
3. Trần Thanh Sang (2017), “Chủ trương, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cấp xã và quá trình triển khai ở các tỉnh, thành đồng bằng sông Cửu Long hiện
nay”, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, ngày 18-9.
4. Trần Thanh Sang (2017), “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Thông tin khoa học
lý luận chính trị, (9).
5. Trần Thanh Sang (2017), “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp
xã ở đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Châu Á - Thái Bình Dương, (9).
148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Ngọc Am (2009), Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy lý luận chính trị,
Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội.
2. Hoàng Anh (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo
đại học hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Bí thư (2008), Thông báo số 181-TB/TW ngày 03-9-2008 về đổi mới và nâng
cao chất lượng hoạt động của trường chính trị cấp tỉnh và trung tâm bồi dưỡng
chính trị cấp huyện, Hà Nội.
4. Ban Bí thư (2008), Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03-9-2008 về chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
5. Ban Bí thư (2013), Kết luận số 57-KL/TW ngày 08-3-2013 về tiếp tục đẩy mạnh
công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp, Hà Nội.
6. Ban Bí thư (2015), Kết luận số 117-KL/TW ngày 20-11-2015 về công tác đào tạo, bồi
dưỡng tại các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội.
7. Ban chỉ đạo Tây nam Bộ (2005), Đề án số 37-BC/BCĐ ngày 25-5-2005 về Công
tác đào tạo, bồi duỡng đội ngũ cán bộ hệ thống chính trị cơ sở vùng Tây Nam
Bộ, Cần Thơ.
8. Ban chỉ đạo Tây nam Bộ (2016), Báo cáo số 125-BC/BCĐ ngày 31-12-2016 về xây
dựng hệ thống chính trị khu vực Tây nam Bộ, Cần Thơ.
9. Ban chỉ đạo Tây nam Bộ (2017), Báo cáo số 278-BC/BCĐ ngày 01-02-2017 về
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức khu vực Tây nam
Bộ, Cần Thơ.
10. Ban chỉ đạo Tây nam Bộ (2017), Báo cáo số 167-BC/BCĐ ngày 25-12-2017 tổng
kết 15 năm hoạt động của Ban chỉ đạo Tây nam Bộ, Cần Thơ.
11. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bạc Liêu (2012), Chỉ thị số 19/CT-TU ngày 31-12-
2012 về tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực trong hệ thống chính
trị, Bạc Liêu.
12. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tiền Giang (2011), Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 27-
6-2011 về nâng cao chất lượng công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Tiền Giang.
149
13. Ban Tổ chức Trung ương (2008), Hướng dẫn số 22-HD/BTCTW ngày 21-10-
2008 về thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Hà Nội.
14. Ban Tổ chức Trung ương (2009), Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW ngày 26-9-2007
thực hiện quy định về phân cấp quản lý cán bộ, quy chế bổ nhiệm cán bộ và
giới thiệu cán bộ ứng cử, Hà Nội.
15. Ban Tổ chức Trung ương (2012), Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW ngày 05-11-
2012 về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tinh thần Nghị quyết
số 42-NQ/TW ngày 30-11-2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) và Kết luận số 24-
KL/TW ngày 05-6-2012 của Bộ Chính trị (khóa XI), Hà Nội.
16. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia
- Sự thật, Hà Nội.
17. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục Dạy nghề và Viện Nghiên cứu phát triển
phương Đông (2012), Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo Việt Nam.
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Ban Tuyên giáo Trung ương - Bộ Giáo dục và Đào tạo - Học viện Báo chí và Tuyên
truyền (2015), Hội thảo khoa học quốc gia “Nâng cao chất lượng đào tạo giảng
viên lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay”, Hà Nội.
19. Tần Xuân Bảo (2015), Đào tạo cán bộ lãnh đạo và quản lý: Kinh nghiệm từ thực
tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Văn Biết (2014), “Vượt qua thách thức, trở ngại đối với giảng viên
trường chính trị”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (8).
21. Vũ Thanh Bình (2012), Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên các môn lý luận chính
trị trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
22. Bộ Chính trị (1999), Quy định số 54-QĐ/TW ngày 12-5-1999 về chế độ học tập
lý luận chính trị trong Đảng, Hà Nội.
23. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30-11-2004 về công tác quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Hà Nội.
150
24. Bộ Chính trị (2007), Quyết định số 67-QĐ/TW ngày 04-7-200 quy định về phân
cấp quản lý cán bộ, Hà Nội.
25. Bộ Chính trị (2012), Kết luận số 24-KL/TW ngày 05-6-2012 về đẩy mạnh công tác
quy hoạch, luân chuyển cán bộ đến năm 2020 và những năm tiếp theo, Hà Nội.
26. Bộ Chính trị (2013), Quy định số 164-QĐ/TW ngày 01-02-2013 về chế độ bồi
dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, Hà Nội.
27. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-2014 về tiếp tục đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý, Hà Nội.
28. Bộ Chính trị (2015), Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17-4-2015 về tinh giản biên
chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội.
29. Bộ Chính trị (2016), Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 về đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Hà Nội.
30. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI -
Kinh nghiệm của các quốc gia (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính (2013), Thông tư liên tịch số
07/2013/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC ngày 08-3-2013 hướng dẫn thực hiện chế
độ trả lương dạy thêm giờ đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập,
Hà Nội.
32. Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-
BNV-BGDĐT ngày 06-6-2011 quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc,
chính sách đối với giảng viên tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan
nganh bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trường chính trị tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, Hà Nội.
33. Bộ Nội vụ (2013), Quyết định số 900/QĐ-BNV ngày 06-8-2013 ban hành tài liệu
bồi dưỡng ngạch chuyên viên, Hà Nội.
34. Bộ Nội vụ (2013), Quyết định số 975/QĐ-BNV ngày 28-8-2013 ban hành tài liệu
bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính, Hà Nội.
35. Bộ Nội vụ (2018), Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08-01-2018 hướng dẫn một
số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội.
36. Bộ Quốc phòng (2011), Thông tư số 176/2011/TT-BQP ngày 15-9-2011 ban hành
chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh, Hà Nội.
151
37. Bộ Tài chính (2010), Thông tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21-9-2010 quy định
việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Hà Nội.
38. Ngô Thành Can (2002), Những giải pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức hành
chính trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ
Giáo dục học, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
39. Trịnh Quang Cảnh (2005), Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số
nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Trịnh Quang Cảnh (2009), “Kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ cơ sở vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc”, Tạp chí Dân tộc, (6).
41. Nguyễn Hữu Cát, Mai Hoàng Anh (2002), “Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ
chính trị chủ chốt trong hệ thống trường đảng ở Trung Quốc hiện nay”, Tạp
chí Nghiên cứu Trung Quốc (3).
42. Charlotte P. Lee (2015), “Training the Party: Party adaptation and elite training
in reform-era China” (tạm dịch: “Đào tạo Đảng: Sự chỉnh đốn Đảng và đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đứng đầu ở Trung Quốc thời kỳ cải cách”), Nxb
Đại học Cambridge.
43. Mai Quốc Chánh (chủ biên) (1998), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
44. Nguyễn Thị Châu (2015), “Nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng viên
các trường chính trị”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11).
45. Chính phủ (2006), Quyết định số 31/2006/QĐ-TTg ngày 06-02-2006 về việc phê
duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.
46. Chính phủ (2006), Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15-02-2006 về việc phê
duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006-2010,
Hà Nội.
47. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22-10-2009 về chức danh,
số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường,
thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Hà Nội.
48. Chính phủ (2010), Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, Hà Nội.
152
49. Chính phủ (2011), Nghị định số112/2011/NĐ-CP ngày 05-12-2011 quy định về
công chức xã, phường, thị trấn, Hà Nội.
50. Chính phủ (2011), Nghị định số 57/2011/NĐ-CP ngày 07-7-2011 về chế độ phụ
cấp công vụ, Hà Nội.
51. Chính phủ (2011), Quyết định số 170/QĐ-TTg ngày 26-01-2011 Quyết định phê
duyệt Dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức ưu tú có trình độ đại học tăng cường
về làm Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thuộc 62 huyện nghèo, Hà Nội.
52. Chính phủ (2017), Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội.
53. Hoàng Đình Cúc (Chủ nhiệm) (2008), Đào tạo giảng viên các môn khoa học Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền đáp ứng
yêu cầu đổi mới hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Hà Nội.
54. Trịnh Cư, Nguyễn Duy Hùng, Lê Văn Yên (2009), Kinh nghiệm xây dựng đội
ngũ cán bộ ở Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Đỗ Minh Cương (2014), “Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, (5).
56. Denommé, J. M. và Roy, M. (2009), Sư phạm tương tác: một tiếp cận khoa học thần
kinh hoạt động dạy - học (Trịnh Văn Minh - Đặng Hoàng Minh - Nguyễn Chí
Thanh dịch và Nguyễn Thị Mỹ Lộc hiệu đính). Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
57. Thành Duy (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Trần Thị Anh Đào (chủ biên) (2014), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán
bộ làm công tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Lý luận chính trị (2014),
Tổng kết thực hiên Nghị quyết 01-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác lý luận
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Đại học Sư phạm Hà Nội (2016), Nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị trong
xu thế toàn cầu hóa, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
61. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153
63. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương - Ban Chỉ đạo tổng kết lý
luận (2005), Báo cáo tổng kết những vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi
mới (1986 - 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
70. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
71. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
72. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
73. Nguyễn Văn Đệ (2010), Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học, Luận
án tiến sĩ Quản lý giáo dục, Đại học Giáo dục, Hà Nội.
74. Huỳnh Minh Đoàn (2007), “Phương hướng xây dựng trường chính trị tỉnh ngang
tầm yêu cầu, nhiệm vụ mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (01).
75. Phạm Văn Đồng (1999), Về vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
76. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI,
Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
77. Đinh Ngọc Giang (2010), Chuẩn hóa chủ tịch ủy ban nhân dân xã các tỉnh đồng
bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
154
78. Đinh Ngọc Giang, Vũ Khánh Hoàn (2016), “Công tác tuyển dụng, đào tạo cán bộ,
công chức, viên chức hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (8).
79. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
80. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Nguyễn Mạnh Hải (2012), “Phát triển đội ngũ giảng viên trường chính trị - nhân
tố quan trọng trong công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng ta”, Tạp chí
Lý luận & Truyền thông, (12).
82. Nguyễn Mạnh Hải (2015), Phát triển đội ngũ giảng viên trường chính trị các tỉnh
miền núi phía Bắc đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, Luận
án tiến sĩ Khoa học giáo dục, Hà Nội.
83. Nguyễn Đức Hạt (chủ biên) (2009), Năng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ
trong hệ thống chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Phạm Thị Hạnh (2015), “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (105).
85. Trần Ngọc Hiên (2015), Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị - những vấn
đề cần đổi mới, Bản tin Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo), (1).
86. Diêm Kiệt Hoa - Học viện Chính trị, Đại học Quảng Tây, Trung Quốc (2013),
“Nghiên cứu tiến trình phát triển giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác ở Trung
Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (5).
87. Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu (2008), Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài
kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Hoàng Ngọc Hòa (2000), “Công tác giáo dục đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa
học ở các trường đảng Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (2)
89. Nguyễn Thái Hòa (2008), Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ người
dân tộc Khmer ở cơ sở xã, phường, thị trấn khu vực Tây Nam bộ, Đề tài khoa
học Ban Đảng, Vụ Địa phương III Ban Tổ chức Trung ương, Hà Nội.
90. Nguyễn Tiến Hoàng (2014) Tài liệu tham khảo bồi dưỡng, cấp nhận kiến thức lý
luận chính trị cho cán bộ các cấp ở địa phương, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật,
Hà Nội.
91. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Quyết định số
1845/QĐ-HVCT-HCQG ngày 29-7-2009 về việc ban hành chương trình đào
155
tạo, cán bộ lãnh đạo quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp
cơ sở (hệ trung cấp lý luận chính trị- hành chính), Hà Nội.
92. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Thành ủy Cần Thơ
(2008), Hội thảo khoa học “Hệ thống chính trị cấp cơ sở các tỉnh, thành khu
vực Tây Nam bộ - thực trạng và giải pháp”, ngày 25-11-2008, Cần Thơ.
93. Học viện Chính trị khu vực IV (2006), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Cần Thơ.
94. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000-2001), Phương thức đào tạo cán
bộ ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trong thời kỳ mới, Đề tài khoa học
cấp bộ, Hà Nội.
95. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Quyết định số 484/2002/QĐ-
HVCT-HCQG ngày 11-12-2002 về việc ban hành chương trình đào tạo, cán
bộ lãnh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở, Hà Nội.
96. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Quyết định số 1479/QĐ -
HVCTQG ngày 21-4-2014 về việc ban hành chương trình đào tạotrung cấp lý
luận chính trị - hành chính, Hà Nội.
97. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Quyết định số 3842/QĐ -
HVCTQG ngày 17-9-2015 ban hành quy chế đào tạo cao cấp lý luận chính trị,
Hà Nội.
98. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Quyết định số 1855/QĐ-
HVCTQG ngày 21-4-2016 về việc ban hành Bộ quy chế quản lý đào tạo của
trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội.
99. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Kế hoạch số 19/KH-HVCTQG
ngày 17-02-2016 của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về việc thực hiện
Kết luận số 117-KL/TW ngày 20-11-2015 của Ban Bí thư về công tác đào tạo, bồi
dưỡng tại các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội.
100. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Quyết định số 3136/QĐ -
HVCTQG ngày 14-7-2016 về việc điều chỉnh chương trình đào tạo trung cấp lý
luận chính trị - hành chính ban hành kèm theo Quyết địnhsố 1479/QĐ - HVCTQG
ngày 21-4-2014 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
101. Học viện Hành chính quốc gia (2005), Tài liệu bồi dưỡng cán bộ chính quyền
cấp xã về quản lý nhà nước, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội
102. Vũ Đình Hòe (1998), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
156
103. Hội đồng nhân dân tỉnh Cà Mau (2012), Quyết định số 01/2012/NQ-HĐND
ngày 12-7-2014 về chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo và thu hút nguồn nhân
lực của tỉnh Cà Mau, Cà Mau.
104. Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang (2014), Quyết định số 88/2014/NQ-HĐND
ngày 04-12-2014 về quy định chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức và thu hút nguồn nhân lực tỉnh Kiên Giang, Kiên Giang.
105. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc
(2004), Xây dựng đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm
của Trung Quốc.
106. Đoàn Minh Huấn(2005), Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở các tỉnh
Tây Bắc nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Phân viện Hà Nội, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
107. Phạm Phi Hùng (2013), Cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn
ở thành phố Cần Thơ - thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp tỉnh,
Cần Thơ.
108. Lê Đình Huy (2012), Đảng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng ngũ công chức
từ năm 2001 đến năm 2010, Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
109. Kham Bay Malasing (2012), Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp
cơ sở và những người có uy tín ở thôn bản trong phát triển cộng đồng ở Cộng
hòa Dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Xã hội học, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
110. Phạm Công Khâm (2000), Xây dựng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở Kiên Giang
trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
111. Khăm Phăn Phôm Ma Thắt (2005), Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở nước Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
112. Khăm Phăn Vông Pha Chăn (2011), Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ
thống chính trị ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ
khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
157
113. Nguyễn Khôi và các cộng sự (2000), Việc thực hiện chính sách dân tộc trên lĩnh
vực đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý cán bộ dân tộc thiểu số ở nước
ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
114. Nguyễn Huy Kiệm (2008), “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (7).
115. Kouyang Sisomblong (2016), Chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy
ở các trường chinh trị - hành chính tỉnh Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào,
Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
116. Phạm Huy Kỳ (chủ biên) (2010), Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục
lý luận chính trị, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
117. Cầm Thị Lai (2012), Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị - hành chính cho đội
ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc giai đoạn hiện nay, Luận
án tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
118. Huỳnh Văn Long (2003),Xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch ủy ban
nhân dân huyện ở đồng bằng sông Cửu Long ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị,
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
119. Tô Văn Lộc (2011), Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ trong
giáo dục. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Lê Đình Lung (2012), Đảng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công
chức từ năm 2001 đến năm 2010, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
121. Lê Đình Lý (2012), Chính sách tạo động lực cho cán bộ, công chức cấp xã
(nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Nghệ An), Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
122. M. I. Calinin (1983), Về giáo dục cộng sản chủ nghĩa, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
123. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
124. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
158
127. Phùng Đại Minh (2002), Quản lý hiệu năng và quản lý tự chủ trong nhà trường -
một cơ chế để phát triển, Nxb Giáo dục Thượng Hải, Trung Quốc.
128. Đinh Văn Mậu (2005), Tài liệu bồi dưỡng cán bộ chính quyền cấp xã về quản
lý nhà nước, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
129. Hoài Nhân (2002), “Nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở - những vấn đề lý luận
và thực tiễn”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (12).
130. Nhiều tác giả (2015), Bàn về giáo dục, Nxb Tri thức, Hà Nội.
131. Đỗ Thị Ngọc Oanh (2013), Quản lý bồi dưỡng nghiệp vụ hành chính cho cán
bộ chính quyền cấp xã trong bối cảnh hiện nay, Luận án tiến sĩ quản lý giáo
dục, Trường Đại học Giáo dục, Hà Nội.
132. Huỳnh Thanh Quang (2008), “Đào tạo cán bộ người dân tộc Khmer ở các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (12).
133. Thân Minh Quế (2016), “Vai trò và trách nhiệm người thầy giáo dục lý luận
chính trị”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11).
134. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Cán bộ, công
chức, Hà Nội.
135. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp năm
2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
136. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tổ chức chính
quyền địa phương, Hà Nội.
137. Lê Công Quyền (2009), “Nên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo nhu
cầu công tác”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9).
138. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (đồng chủ biên)
(2009), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
139. Sai Kham Moun Na Ni Vong (2014), Vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho
học viên hệ cao cấp ở các trường chính trị và hành chính nước Cộng hòa
Dân chủ nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
140. Nguyễn Minh Sản (2009), Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
ở Việt Nam hiện nay - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị -
Hành chính, Hà Nội.
159
141. Nguyễn Văn Sáu (chủ biên) (2005), Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
trong thời kỳ đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
142. Trịnh Thanh Tâm (2012), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ của hệ thống
chính trị các xã ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay. Luận án tiến sĩ
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
143. Nguyễn Huy Thám (2014), “Một số kinh nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
của trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11).
144. Trần Hậu Thành (2004), Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (qua khảo sát ở một số tỉnh,
thành phố phía Bắc nước ta), Đề tài khoa học cấp bộ, Phân viện Hà Nội,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
145. Thành ủy Cần Thơ (2007), Kế hoạch số 10-KH/TU ngày 22-01-2007 về quy
hoạch và đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2006 - 2020, Cần Thơ.
146. Thành ủy Cần Thơ (2016), Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 27-12-2016 về đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thành phố Cần Thơ đến năm 2020 và những
năm tiếp theo, Cần Thơ.
147. Lê Thị Phương Thảo, Nguyễn Cúc và Doãn Hùng (đồng chủ biên) (2005), Xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa - luận cứ và giải pháp, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
148. Hồ Bá Thâm (1994), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp xã hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
149. Lê Hanh Thông (2003), Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ (qua khảo sát một
số trường chính trị trong khu vực), Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
150. Lê Minh Thông - Nguyễn Danh Châu (2009), Kinh nghiệm công tác nhân sự
của một số nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
151. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12-8-2011 phê
duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011 - 2015,
Hà Nội.
160
152. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13-6-2012 phê
duyệt “chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020”, Hà Nội.
153. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-2016, phê
duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016
-2025, Hà Nội.
154. Tỉnh ủy Bến Tre (2006), Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 22-9-2006 về nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2006-2010 và định
hướng đến 2015, Bến Tre.
155. Nguyễn Minh Toản (2009), Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
ở Việt Nam hiện nay: những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành
chính, Hà Nội.
156. Lô Quốc Toản (2010), Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157. Tổng cục Thống kê (2017), Niên giám thống kê 2016, Nxb Thống kê, Hà Nội.
158. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159. Đặng Văn Trọng (2012), Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
của Đảng bộ Bộ đội biên phòng từ năm 1996 đến năm 2006, Luận án tiến sĩ
lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
160. Vĩnh Trọng (2009), “Sóc Trăng quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ người dân
tộc Khmer”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9).
161. Dương Thành Trung (2016), Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lý
luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
162. Trung tâm Từ điển ngôn ngữ Hà Nội (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb
Văn hóa - Thông tin.
163. Hồ Ngọc Trường (2012), Xây dựng phong cách chủ tịch ủy ban nhân dân xã ở
đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính
trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
164. Nguyễn Minh Tuấn (2010), “Đảng Cộng sản Trung Quốc đổi mới công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ”, Tạp chí Lý luận chính trị, (9).
161
165. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên) (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
166. Trần Minh Tuấn (chủ nhiệm) (2011), Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
167. Bùi Công Tường (2009), “Mấy suy nghĩ và kiến nghị về đội ngũ cán bộ cơ sở”,
Tạp chí Xây dựng Đảng, (12).
168. Trần Ngọc Uẩn (chủ nhiệm) (2001), Phương thức đào tạo cán bộ ở các trường
chính trị tỉnh, thành phố trong thời kỳ mới, Đề tài khoa học cấp bộ, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
169. Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ (2012), Kế hoạch số 68/KH-UBND ngày
28-12-2012 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015,
Cần Thơ.
170. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2006), Quyết định số 1356/QĐ-UB ngày 07-7-
2006 về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh
An Giang giai đoạn 2006-2010, An Giang.
171. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2008), Quyết định số 42/2008/QĐ-UBND ngày
17-11-2008 về việc ban hành Quy định chế độ trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức, viên chức và chính sách thu hút, khuyết khích người có trình độ
cao trên địa bàn tỉnh An Giang, An Giang.
172. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2010), Quyết định số 28/2010/QĐ-UBND ngày
25-5-2010 về việc ban hành Quy định chế độ trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức, viên chức và chính sách thu hút, khuyết khích người có trình độ
cao trên địa bàn tỉnh An Giang (thay thế Quyết định số: 42/2008/QĐ-
UBND ngày 17-11-2008), An Giang.
173. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2011), Quyết định số 2415/QĐ-UBND ngày
30-12-2011 về việc ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011 - 2015, An Giang.
174. Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu (2006), Quyết định số 32/2006/QĐ-UBND ngày
06-12-2006 về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
giai đoạn 2006-2010, Bạc Liêu.
162
175. Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu (2008), Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 11-8-
2008 ban hành đề án đào tạo nguồn nhân lực tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2008-
2010 và định hướng đến năm 2020, Bạc Liêu.
176. Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu (2011), Quyết định số 4107/QĐ-UBND ngày 28-
12-2011 về việc ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức nhà nước tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2011-2015, Bạc Liêu.
177. Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau (2013), Quyết định số 440/QĐ-UBND ngày 01-
4-2013 ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức
giai đoạn 2013-2015 và định hướng đến năm 2020, Cà Mau.
178. Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau (2014), Quyết định số 20/2014/QĐ-UBND, ngày
30-7-2014 ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức của tỉnh Cà Mau, Cà Mau.
179. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp (2013), Quyết định số 05/2013/QĐ-UBND,
ngày 31-01-2013 ban hành quy định chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, Đồng Tháp.
180. Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang (2014), Quyết định số 30/2014/QĐ-UBND,
ngày 22-10-2014 ban hành quy định về chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng và
chính sách thu hút nhân lực tỉnh Hậu Giang, Hậu Giang.
181. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An (2011), Quyết định số 21/2011/QĐ-UBND ngày
13-7-2011 về việc quy định chế độ đi học đối với cán bộ, công chức, viên
chức nhà nước và mức thù lao đối với giảng viên, báo cáo viên trên địa bàn
tỉnh Long An, Long An.
182. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An (2012), Quyết định số 06/2012/QĐ-UBND ngày
10-02-2012 về việc ban hành quy định chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức của tỉnh Long An, Long An.
183. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An (2014), Quyết định số 11/2014/QĐ-UBND ngày
08-02-2014 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 21/2011/QĐ-UBND ngày
13-7-2011 của UBND tỉnh về việc quy định chế độ đi học đối với cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước và mức thù lao đối với giảng viên, báo cáo
viên trên địa bàn tỉnh Long An, Long An.
184. Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng (2006), Kế hoạch số 08/KH-UBND ngày 31-8-
2006 về đào tạo cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2006
- 2010, Sóc Trăng.
163
185. Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng (2012), Quyết định số 48/2012/QĐ-UBND ngày
15-11-2012 ban hành quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, Sóc Trăng.
186. Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng (2011), Kế hoạch số 39/KH-UBND, ngày 05-
12-2011 về đào tạo cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Sóc Trăng giai đoạn
2011-2015, Sóc Trăng.
187. Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang (2009), Quyết định số 22/2009/QĐ-UBND ngày
25-8-2009 về chính sách đào tạo, bồi dưỡng và thu hút cán bộ, công chức hành
chính, viên chức sự nghiệp giai đoạn 2009-2015, Tiền Giang.
188. Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang (2010), Quyết định 01/2012/QĐ-UBND ngày 02-
02-2012 về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và thu hút nguồn
nhân lực, Tiền Giang.
189. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định số 53/QĐ-UBND ngày 08-
01-2013 về việc ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Quy hoạch phát triển
nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011-2020, Vĩnh Long.
190. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định số 1706/QĐ-UBND ngày
22-10-2013 phê duyệt kế hoạch thực hiện đề án quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng
đội ngũ tri thức tỉnh đến năm 2020, Vĩnh Long.
191. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định số 1163/QĐ-UBND ngày
24-5-2016 về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2016 - 2025, Vĩnh Long.
192. Phan Thị Thúy Vân (2013), Thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ chủ
chốt của hệ thống chính trị phường ở khu vực Tây Nam bộ giai đoạn hiện
nay, Luận án tiến sĩ chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chínhquốc gia
Hồ Chí Minh.
193. Nguyễn Hoài Văn, Đặng Duy Thìn (đồng chủ biên) (2012), Chính sách đào tạo,
sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông và công tác cán bộ hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
194. V. I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 47, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
195. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt (2000), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
196. Vilay Philavong (2017),Giáo dục pháp luật cho công chức hành chinh ở nước Cộng
hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lý luận lịch
sử nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
164
197. Lương Ngọc Vĩnh (2016), “Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ tư tưởng đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới”, Tạp chí Lý luận chính
trị và Truyền thông, (8).
198. Nguyễn Thế Vịnh, Đinh Ngọc Giang (đồng chủ biên) (2009), Tiếp tục hoàn thiện
chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
199. Nguyễn Hữu Vui (chủ nhiệm) (2002), Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn
khoa học Mác - Lênin ở Việt Nam - những vấn đề chung, Đề tài KX. 10-08,
Hà Nội.
200. Lại Đức Vượng (2009), Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng công chức hành
chính trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ quản lý hành chính công, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
201. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào tạo
nhân tài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
202. Xỉnh Khăm Phom Ma Xay (2003), Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận
án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
203. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
204. Trương Thị Bạch Yến (2013), Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc
thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học
chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
165
PHỤ LỤC 1
THỐNG KÊ ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN THÁNG 12-2016
TT
Tỉnh,
Thành phố
Đơn vị hành chính cấp huyện Đơn vị hành chính cấp xã
Tổng số Huyện Quận TP thuộc tỉnh Thị xã Tổng số Xã Phường Thị trấn
01 An Giang 11 08 02 01 156 119 21 16
02 Bạc Liêu 07 05 01 01 64 49 10 05
03 Bến Tre 09 08 01 164 147 10 07
04 Cà Mau 09 08 01 101 82 10 09
05 Cần Thơ 09 04 05 85 36 44 05
06 Đồng Tháp 12 09 02 01 144 119 17 08
07 Hậu Giang 08 05 01 02 76 54 12 10
08 Kiên Giang 15 13 01 01 145 118 15 12
09 Long An 15 13 01 01 192 166 12 14
10 Sóc Trăng 11 08 01 02 109 80 17 12
11 Tiền Giang 11 08 01 02 173 144 22 07
12 Trà Vinh 09 07 01 01 106 85 11 10
13 Vĩnh Long 08 06 01 01 109 94 10 05
Toàn vùng 134 102 05 14 13 1.624 1.293 211 120
Nguồn: [157]
166
PHỤ LỤC 2
TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
ĐẾN THÁNG 12-2016
TT
Tỉnh, thành
Đối tượng
Tổng số
AnGiang
BạcLiêu
BếnTre
CàMau
CầnThơ
ĐồngTháp
HậuGiang
KiênGiang
LongAn
SócTrăng
TiềnGiang
TràVinh
VĩnhLong
Ghi chú
1 Bí thư Đảng ủy 1611 156 64 164 98 85 144 73 145 187 109 173 106 107
2 Phó Bí thư Đảng ủy 1664 156 64 164 108 101 160 73 143 189 112 189 102 103
3 Chủ tịch HĐND 290 52 10 77 15 6 28 14 59 5 5 0 2 17
4 Phó CT.HĐND 1437 154 49 98 100 83 119 55 102 192 108 171 105 101
5 Chủ tịch UBND 1482 137 64 154 89 75 128 56 127 188 101 156 105 102
6 Phó CT.UBND 2601 278 101 302 159 132 260 102 270 240 177 219 159 202
7 Chủ tịch UB MTTQ 1609 155 64 164 99 81 144 73 145 190 109 172 106 107
8 Bí thư Đoàn TN 1611 155 64 164 101 83 144 73 144 191 108 171 105 107
9 Chủ tịch Hội LHPN 1615 156 64 164 100 85 144 73 145 192 109 171 105 107
10 Chủ tịch Hội ND 1564 151 64 159 99 71 142 72 140 188 107 166 101 104
11 Chủ tịch Hội CCB 1500 156 64 164 97 85 144 71 145 190 109 173 104 107
Tổng số 16984 1706 672 1754 1066 887 1557 735 1583 1952 1154 1761 1173 1164
Nguồn: [8]; [10]
167
PHỤ LỤC 3
THỐNG KÊ TÌNH HÌNH VĂN HÓA - XÃ HỘI CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Nội dung ĐVT
An
Giang
Bạc
Liêu
Bến
Tre
Cà
Mau
Cần
Thơ
Đồng
Tháp
Hậu
Giang
Kiên
Giang
Long
An
Sóc
Trăng
Tiền
Giang
Trà
Vinh
Vĩnh
Long
Toàn vùng
Dân số Người 2.169.971 886.297 1.265.274 1.222.682 1.282.926 1.687.382 782.589 1.776.788 1.449.691 1.312.599 1.740.295 1.040.572 1.048.688 17.665.754
Tỷ lệ hộ nghèo (TC mới) % 4 10 9 11 5 4,5 10 4,5 8 10,23 7,03 11.9 5,6 8,01
Số lao động có việc làm Người 35.000 15.000 30.000 30.000 50.000 40.000 23.000 28.000 30.000 20.300 22.500 15.000 27.500 366.300
Tỷ lệ lao động qua đào tạo % 34 31 40 30 42 40 16 30 50 40 35 22 34 34,15
Số xã chưa có đường ôtô
đến trung tâm
xã 49 5 2 0 5 0 11 41 0 21 0 8 4 146
Số và tỷ lệ tốt nghiệp THPT
học sinh 43.195 14.175 30.700 23.447 25.068 38.254 15.941 33.268 37.040 26.081 38.115 17.914 27.598 370.836
% 99,64 98.74 99,69 98.27 99.72 99,53 99.89 99.29 98.21 99.6 99.22 99.78 99.05 99,27
Tỷ lệ hộ dùng điện % 98 97 96,5 93 99,6 99 95 95 98 102,58 99,67 94 99 97,41
Tỷ lệ hộ được sử dụng
nước hợp vệ sinh
% 61 55 30 84 83 96 90 90 97,25 91,5 95,5 90 64,4 79,05
Tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ % 100 100 98 80 97,56 100 70 85 98 75,5 100 100 100 92,62
Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng
dưới 5 tuổi
% 16,2 17 17 16 16,1 18 18 17,8 18 17
17
19,4 20 17,46
Nguồn: [157]
168
PHỤ LỤC 4
THỐNG KÊ SỐ LIỆU VỀ DÂN TỘC CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Đvt: người
Tỉnh
Nội dung
An
Giang
Bạc
Liêu
Bến
Tre
Cà
Mau
Cần
Thơ
Đồng
Tháp
Hậu
Giang
Kiên
Giang
Long
An
Sóc
Trăng
Tiền
Giang
Trà
Vinh
Vĩnh
Long
Toàn
vùng
Dân tộc Kinh 2.053.150 791.351 1.260.475 1.179.109 1.245.630 1.684.326 753.573 1.525.535 1.444.869 770.254 1.735.383 663.209 1.020.773 16.127.637
Dân tộc Khmer 94.271 74.667 678 33.845 22.414 857 22.169 219.899 1.595 477.014 844 369.203 22.820 1.340.276
Dân tộc Hoa 8.075 20.082 3.918 9.311 14.299 1.955 6.563 30.250 2.690 64.910 3.863 7.690 4.679 178.285
Dân tộc Chăm 14.209 69 49 106 179 97 86 440 218 106 72 163 91 15.885
Dân tộc thiểu số
khác
266 128 154 311 404 147 198 664 319 315 133 307 325 3.671
Tổng 2.169.971 886.297 1.265.274 1.222.682 1.282.926 1.687.382 782.589 1.776.788 1.449.691 1.312.599 1.740.295 1.040.572 1.048.688 17.665.754
Nguồn: [8]; [10]
169
PHỤ LỤC 5
THỐNG KÊ SỐ LIỆU TÍN ĐỒ TÔN GIÁO Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Đvt: người
Tỉnh
Nội dung
An
Giang
Bạc
Liêu
Bến
Tre
Cà
Mau
Cần
Thơ
Đồng
Tháp
Hậu
Giang
Kiên
Giang
Long
An
Sóc
Trăng
Tiền
Giang
Trà
Vinh
Vĩnh
Long
Toàn
vùng
Phật giáo Bắc tông 69.094 144.673 56.687 277.420 243.369 164.375 107.926 53.307 230.000 29.393 103.177 621.091 98.116 2.198.628
Phật giáo Nam
tông Khmer
25.634 304.845 0 25.056 0 7.625 0 0 52.816 22.294 340.823 62.903 210.899 1.052.895
Công giáo 39.143 65.800 43.973 22.334 36.970 38.000 76.000 49.263 19.432 95.000 62.669 64.306 102.164 715.054
Tin lành 3.366 1.286 8.658 4.532 5.773 7.399 5.300 7.284 961 10.979 3.695 2.195 6.209 67.637
Hồi giáo 0 175 34 0 99 24 0 0 0 0 0 14.389 301 15.022
Nam Tông Minh
sư đạo
421 0 366 0 90 79 103 23 0 33 0 0 40 1.155
Baha'
i 241 0 0 0 0 0 0 32 0 239 77 0 271 860
Cao đài 12.831 16.609 41.713 21.943 60.621 44.974 30.651 50.190 9.790 18.433 8.439 63.693 22.250 402.137
Hòa Hảo 2.337 38 1.145 776 2.079 27.067 2.666 173.253 17 252.362 975 678.352 7.247 1.148.314
Tịnh độ cư sĩ 41.581 4.098 2.022 13.393 1.564 46.710 1.801 4.743 41.682 7.475 48.633 1.777 2.880 218.359
Tứ ân hiếu nghĩa 1.095 90 1.184 0 0 44 641 1.579 0 0 350 36.086 923 41.992
Bửu sơn kỳ hương 0 257 0 0 250 0 468 815 0 0 50 2.100 0 3.940
Nguồn: [8]; [10]
170
PHỤ LỤC 6
TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH AN GIANG ĐẾN THÁNG 12-2016
Đvt: người
TT
Nội dung
Đối tượng
Tổng
số
Dân
tộc
thiểu
số
Nữ
Trình độ hiện có
Ghi chú
Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước
THCS
THPT
Sơcấp
Trungcấp,
Caođẳng
Đạihọc
Sauđạihọc
Sơcấp
Trungcấp
Cửnhân,
caocấp
Đãquabồi
dưỡng
Chuyên
viên
Chuyên
viênchính
1 Bí thư Đảng ủy 156 4 19 156 6 146 6 2 24 130 100 45 39
2 Phó Bí thư Đảng ủy 156 4 27 156 11 145 11 45 67 39 2
3 Chủ tịch HĐND 52 2 5 52 10 42 2 12 8 5 4 1
4 Phó CT.HĐND 154 6 43 154 44 110 5 148 1 42 16
5 Chủ tịch UBND 137 11 137 7 127 3 1 80 53 73 48 3
6 Phó CT.UBND 278 10 73 278 53 219 6 7 255 16 100 46 2
7 Chủ tịch UB MTTQ 155 5 33 155 52 103 4 144 7 37 9
8 Bí thư Đoàn TN 155 1 67 155 53 102 36 112 7 32 2
9 Chủ tịch Hội PN 156 5 156 156 74 82 13 138 5 34 6
10 Chủ tịch Hội ND 151 5 9 6 145 8 62 81 15 132 4 32 1 1
11 Chủ tịch Hội CCB 156 3 54 102 64 71 21 52 83 17 28 1
Tổng số 1706 45 443 60 1646 72 443 1176 15 137 1239 293 552 218
Nguồn: [8]; [9]; [10]
171
PHỤ LỤC 7
TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH CÀ MAU ĐẾN THÁNG 12-2016
Đvt: người
TT
Nội dung
Đối tượng
Tổng
số
Dân
tộc
thiểu
số
Nữ
Trình độ hiện có
Ghi chú
Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước
THCS
THPT
Sơcấp
Trungcấp
Caođẳng,
Đạihọc
Sauđạihọc
Sơcấp
Trungcấp
Cửnhân,
caocấp
Đãqua
bồidưỡng,
cánsự
Chuyên
viên
Chuyên
viênchính
1 Bí thư Đảng ủy 98 1 8 98 4 84 8 13 82 7 65 17 Có 1
chủ tịch
HND, 10
chủ tịch
HCCB
học vấn
là tiểu
học
2 Phó Bí thư Đảng ủy 108 8 1 107 3 17 81 5 62 38 2 67 1
3 Chủ tịch HĐND 15 2 15 1 14 8 7 2 8
4 Phó CT.HĐND 100 20 1 99 5 26 9 2 78 16 5 62
5 Chủ tịch UBND 89 1 5 89 1 2 85 1 2 30 55 1 72 1
6 Phó CT.UBND 159 1 17 159 24 133 4 115 31 4 114
7 Chủ tịch UB MTTQ 99 2 9 6 93 7 26 51 3 71 17 3 50
8 Bí thư Đoàn TN 101 1 24 101 5 36 54 15 58 9 6 45
9 Chủ tịch Hội LHPN 100 100 5 95 7 27 57 9 77 3 2 49
10 Chủ tịch Hội ND 99 2 14 84 13 35 29 13 77 4 5 32
11 Chủ tịch Hội CCB 97 1 51 36 24 20 5 37 41 3 6
Tổng số 1.066 7 193 78 976 65 218 602 9 90 630 262 40 570 19
Nguồn: [8]; [9]; [10]
172
PHỤC LỤC 8
TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ ĐẾN THÁNG 12-2016
Đvt: người
TT
Nội dung
Đối tượng
Tổng
số
Dân
tộc
thiểu
số
Nữ
Trình độ hiện có
Ghi
chú
Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước
THCS
THPT
Sơcấp
Trungcấp
Caođẳng,
Đạihọc
Sauđạihọc
Sơcấp
Trungcấp
Cửnhân,
caocấp
Đãquabồi
dưỡng
Chuyên
viên
Chuyên
viênchính
1 Bí thư Đảng ủy 85 2 15 85 6 64 15 1 20 64 1 51 8
2 Phó Bí thư ĐU 101 15 2 99 7 14 74 3 1 78 22 2 40 1
3 Chủ tịch HĐND 6 6 1 3 6 6
4 Phó CT.HĐND 83 3 19 83 5 21 52 6 3 73 6 8 24 1
5 Chủ tịch UBND 75 1 8 75 5 63 1 44 30 4 50 1
6 Phó CT.UBND 132 23 132 3 15 104 4 119 7 7 58
7 Chủ tịch UB MTTQ 81 2 9 4 77 9 27 31 5 69 6 5 18
8 Bí thư Đoàn TN 83 1 24 1 82 3 17 55 1 25 47 1 4 8 1
9 Chủ tịch Hội PN 85 1 82 85 5 24 45 15 65 2 5 16
10 Chủ tịch Hội ND 71 4 4 67 6 24 15 16 51 1 5 6
11 Chủ tịch Hội CCB 85 1 3 25 59 18 13 12 32 39 3 2 1
Tổng số 887 11 80 36 517 56 167 518 31 103 611 142 43 272 12
Nguồn: [8]; [9]; [10]
173
PHỤC LỤC 9
TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH ĐỒNG THÁP ĐẾN THÁNG 12-2016
Đvt: người
TT
Nội dung
Đối tượng
Tổng
số
Dân
tộc
thiểu
số
Nữ
Trình độ hiện có
Ghi
chú
Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước
THCS
THPT
Sơcấp
Trungcấp
Caođẳng,
Đạihọc
Sauđạihọc
Sơcấp
Trungcấp
Cửnhân,
caocấp
Đãquabồi
dưỡng
Chuyênviên
Chuyênviên
chính
1 Bí thư Đảng ủy 143 2 19 143 5 121 17 13 128 16 32 34
2 Phó Bí thư ĐU 141 5 22 141 27 110 3 2 92 44 5 49 31
3 Chủ tịch HĐND 3 3 2 1 1 2
4 Phó CT.HĐND 142 13 33 142 1 45 93 4 119 18 5 57 9
5 Chủ tịch UBND 138 7 138 16 121 1 1 78 59 7 49 34
6 Phó CT.UBND 212 37 212 30 180 3 168 35 7 57 51
7 Chủ tịch MTTQ 143 5 26 143 57 72 3 125 12 2 49
8 Bí thư Đoàn TN 143 45 143 42 101 14 77 40 37
9 Chủ tịch Hội PN 143 2 143 143 3 52 82 11 91 25 29
10 Chủ tịch Hội ND 142 7 7 142 9 81 46 18 105 13 2 51
11 Chủ tịch Hội CCB 143 3 2 15 128 33 49 22 52 76 6 1 22
Tổng số 1.493 37 341 15 1.478 46 404 950 22 108 945 382 46 432 159
Nguồn: [8]; [9]; [10]
174
PHỤC LỤC 10
TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH HẬU GIANG ĐẾN THÁNG 12-2016
Đvt: người
TT
Nội dung
Đối tượng
Tổng
số
Dân
tộc
thiểu
số
Nữ
Trình độ hiện có
Ghi
chú
Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước
THCS
THPT
Sơcấp
Trungcấp
Caođẳng,
Đạihọc
Sauđạihọc
Sơcấp
Trungcấp
Cửnhân,
caocấp
Đãquabồi
dưỡng
Chuyênviên
Chuyênviên
chính
1 Bí thư Đảng ủy 76 1 6 76 1 72 3 10 66 15 2 15
2 Phó Bí thư ĐU 76 3 6 76 8 67 1 42 34 8 11 4
3 Chủ tịch HĐND 32 0 3 32 0 32 12 20 2 0 1
4 Phó CT.HĐND 76 1 11 76 26 50 55 21 11 4 1
5 Chủ tịch UBND 75 1 0 75 2 71 2 1 25 50 8 1 15
6 Phó CT.UBND 99 0 6 99 27 72 2 75 22 7 21 2
7 Chủ tịch UB MTTQ 76 2 7 76 23 49 7 55 14 3 8 1
8 Bí thư Đoàn TN 76 24 26 76 25 49 5 68 0 6 13 3
9 Chủ tịch Hội PN 76 24 76 76 31 40 5 69 0 5 11 0
10 Chủ tịch Hội ND 76 1 1 4 72 11 28 26 12 61 2 11 8 0
11 Chủ tịch Hội CCB 76 0 0 13 63 10 32 18 15 55 0 8 8 0
Tổng số 814 57 23 17 797 21 203 546 6 47 527 229 84 87 42
Nguồn: [8]; [9]; [10]
175
PHỤC LỤC 11
TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH KIÊN GIANG ĐẾN THÁNG 12-2016
Đvt: người
TT
Nội dung
Đối tượng
Tổng
số
Dân
tộc
thiểu
số
Nữ
Trình độ hiện có
Ghi
chú
Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước
THCS
THPT
Sơcấp
Trungcấp
Caođẳng,
Đạihọc
Sauđạihọc
Sơcấp
Trungcấp
Cửnhân,
caocấp
Đãquabồi
dưỡng
Chuyênviên
Chuyênviên
chính
1 Bí thư Đảng ủy 145 8 12 145 9 119 17 3 25 117 28 75 10
2 Phó Bí thư ĐU 157 8 24 157 1 45 111 0 15 70 72 23 45 1
3 Chủ tịch HĐND 5 0 1 5 3 2 0 0 4 1 1 1
4 Phó CT.HĐND 145 7 43 145 58 87 0 20 107 18 28 16
5 Chủ tịch UBND 132 3 11 132 25 107 6 4 59 69 14 40 1
6 Phó CT.UBND 234 12 39 234 1 79 154 2 26 170 38 41 45
7 Chủ tịch UB MTTQ 142 14 25 142 1 67 74 0 14 108 20 22 20
8 Bí thư Đoàn TN 143 5 45 143 1 71 71 26 115 2 30 12
9 Chủ tịch Hội PN 143 10 143 143 65 78 23 110 10 27 23
10 Chủ tịch Hội ND 142 12 6 142 7 71 64 30 107 5 33 6
11 Chủ tịch Hội CCB 144 7 0 21 123 5 126 13 82 57 5 23 4
Tổng số 1.533 86 349 21 1,511 11 619 880 25 234 932 357 270 287 12
Nguồn: [8]; [9]; [10]
176
PHỤ LỤC 12
TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH LONG AN ĐẾN THÁNG 12-2016
Đvt: người
TT
Nội dung
Đối tượng
Tổng
số
Dân
tộc
thiểu
số
Nữ
Trình độ hiện có
Ghi
chú
Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước
THCS
THPT
Sơcấp
Trungcấp
Caođẳng,
Đạihọc
Sauđạihọc
Sơcấp
Trungcấp
Cửnhân,
caocấp
Đãquabồi
dưỡng
Chuyênviên
Chuyênviên
chính
1 Bí thư Đảng ủy 187 0 18 187 0 6 170 7 1 96 90 45 37 5
2 Phó Bí thư Đảng ủy 189 0 46 189 2 43 128 0 3 160 25 37 7 1
3 Chủ tịch HĐND 5 0 1 5 0 1 4 0 0 5 0 2 0 0
4 Phó CT.HĐND 192 0 55 192 0 57 126 0 7 168 15 41 5 0
5 Chủ tịch UBND 188 0 11 188 0 28 157 1 7 152 29 47 22 1
6 Phó CT.UBND 240 0 55 240 1 56 171 1 7 217 10 50 20 1
7 Chủ tịch UB MTTQ 190 0 40 190 10 48 94 0 18 156 5 30 8 1
8 Bí thư Đoàn TN 191 0 66 1 190 6 62 84 0 31 131 1 13 2 0
9 Chủ tịch Hội PN 192 0 190 2 190 7 48 86 0 28 128 3 14 4 0
10 Chủ tịch Hội ND 188 0 13 15 173 11 42 66 0 36 112 3 13 2 1
11 Chủ tịch Hội CCB 190 0 0 59 125 16 28 28 0 49 78 3 15 1 0 6 cấp 1
Tổng số 1.952 0 495 77 1.869 53 419 1114 9 187 1403 184 307 108 10
Nguồn: [8]; [9]; [10]
177
PHỤ LỤC 13
TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH SÓC TRĂNG ĐẾN THÁNG 12-2016
Đvt: người
TT
Nội dung
Đối tượng
Tổng
số
Dân
tộc
thiểu
số
Nữ
Trình độ hiện có
Ghi
chú
Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước
THCS
THPT
Sơcấp
Trungcấp,Cao
đẳng
Đạihọc
Sauđạihọc
Sơcấp
Trungcấp
Cửnhân,
caocấp
Đãquabồi
dưỡng
Chuyênviên
Chuyênviên
chính
1 Bí thư Đảng ủy 109 13 7 0 109 1 7 101 4 16 93 79 82 30
2 Phó Bí thư Đảng ủy 112 11 15 0 111 9 25 77 1 67 44 67 72 11
3 Chủ tịch HĐND 5 1 1 0 4 0 3 1 4 1 5 5 2
4 Phó CT.HĐND 108 17 19 0 108 17 51 40 5 94 9 69 67
5 Chủ tịch UBND 101 12 6 0 103 4 21 78 3 57 43 92 65 15
6 Phó CT.UBND 177 20 16 0 179 8 65 106 1 9 139 29 112 42
7 Chủ tịch UB MTTQ 109 21 16 2 107 34 47 27 4 97 8 37 33
8 Bí thư Đoàn TN 108 18 42 0 107 13 52 42 10 85 7 68 15
9 Chủ tịch Hội PN 109 14 98 0 107 18 57 32 6 92 7 77 9
10 Chủ tịch Hội ND 107 11 3 6 100 36 52 18 9 93 5 50 4
11 Chủ tịch Hội CCB 109 5 2 15 93 58 34 12 19 78 8 47 6
Tổng số 1.154 143 225 23 1.128 198 198 414 8 63 822 254 703 400 58
Nguồn: [8]; [9]; [10]
178
PHỤC LỤC 14
TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH TIỀN GIANG ĐẾN THÁNG 12-2016
Đvt: người
TT
Nội dung
Đối tượng
Tổng
số
Dân
tộc
thiểu
số
Nữ
Trình độ hiện có
Ghi
chú
Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước
THCS
THPT
Sơcấp
Trungcấp
Caođẳng,
Đạihọc
Sauđạihọc
Sơcấp
Trungcấp
Cửnhân,
caocấp
Đãquabồi
dưỡng
Chuyênviên
Chuyênviên
chính
1 Bí thư Đảng ủy 173 1 17 173 1 35 103 6 1 99 73 22 58 8
2 Phó Bí thư ĐU 189 34 1 188 3 57 96 3 152 25 6 73 1
3 Chủ tịch HĐND
4 Phó CT.HĐND 171 40 171 4 60 84 7 148 8 2 43
5 Chủ tịch UBND 156 18 156 3 40 98 4 126 26 6 79 7
6 Phó CT.UBND 219 44 219 1 63 143 8 183 19 5 87
7 Chủ tịch UB MTTQ 172 44 27 145 17 55 34 7 149 13 30
8 Bí thư Đoàn TN 171 64 1 170 1 85 74 31 104 2 25
9 Chủ tịch Hội LHPN 171 171 2 169 4 80 64 26 122 5 15
10 Chủ tịch Hội ND 166 10 28 138 16 53 24 18 134 5 19
11 Chủ tịch Hội CCB 173 5 64 109 37 15 10 48 91 6 1 20
Tổng số 1.761 1 447 121 1.638 87 544 728 6 153 1.308 182 42 449 16
Nguồn: [8]; [9]; [10]
179
PHỤC LỤC 15
TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH TRÀ VINH ĐẾN THÁNG 12-2016
Đvt: người
TT
Nội dung
Đối tượng
Tổng
số
Dân
tộc
thiểu
số
Nữ
Trình độ hiện có
Ghi
chú
Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước
THCS
THPT
Sơcấp
Trungcấp
Caođẳng,
Đạihọc
Sauđạihọc
Sơcấp
Trungcấp
Cửnhân,
caocấp
Đãquabồi
dưỡng
Chuyênviên
Chuyênviên
chính
1 Bí thư Đảng ủy 106 5 7 106 6 97 3 24 82 82 57 25
2 Phó Bí thư ĐU 102 15 17 102 12 90 73 29 26 23 3
3 Chủ tịch HĐND 2 2 2 2 2 2
4 Phó CT.HĐND 105 20 30 105 17 88 97 8 20 20
5 Chủ tịch UBND 105 11 11 105 4 101 62 43 102 70 32
6 Phó CT.UBND 159 21 31 159 22 136 1 130 29 68 68
7 Chủ tịch UB MTTQ 106 25 26 106 1 28 77 95 11 9 9
8 Bí thư Đoàn TN 105 17 31 105 2 27 74 2 23 77 5 4 4
9 Chủ tịch Hội PN 105 18 105 105 17 88 12 89 4 2 2
10 Chủ tịch Hội ND 101 16 11 1 100 4 30 67 14 76 11 1 1
11 Chủ tịch Hội CCB 104 16 4 14 90 35 39 30 33 69 2 1 1
Tổng số 1.173 155 259 15 1.085 42 202 850 6 82 792 226 317 257 60
Nguồn: [8]; [9]; [10]
180
PHỤ LỤC 16
BẢNG THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG, TRÌNH ĐỘ CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
CỦA CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN THÁNG 12-2016
Đvt: người
TT Tên trường
Tổng số công chức,
viên chức
Số lượng, cơ cấu
ban giám hiệu
Trình độ
ban giám hiệu
Tổng
số
giảng
viên
Trình độ chung
Tổng Nam Nữ
Tỉnh ủy
viên
Phó hiệu
trưởng
Tiến
sĩ
Thạc
sĩ
Cử
nhân
Tiến
sĩ
Thạc
sĩ
Cử
nhân
Khác
1 Bến Tre 44 24 20 1 3 4 24 16 20 8
2 Cà Mau 57 38 19 1 3 1 2 1 30 1 20 12 24
3 Cần Thơ 60 30 30 3 1 3 0 38 1 23 30 6
4 Châu Văn Đặng (Bạc Liêu) 50 31 19 1 3 3 1 29 22 14 14
5 Đồng Tháp 50 29 21 1 3 1 3 25 1 27 19 3
6 Hậu Giang 56 34 22 1 3 3 1 32 14 38 4
7 Phạm Hùng (Vĩnh Long) 40 22 18 2 2 1 29 16 19 5
8 Kiên Giang 70 36 34 1 3 1 2 1 40 1 30 23 16
9 Long An 56 29 27 1 3 3 1 23 19 21 16
10 Sóc Trăng 51 29 22 1 2 2 1 24 17 30 4
11 Tôn Đức Thắng (An Giang) 65 40 25 1 3 2 1 1 35 3 24 25 13
12 Tiền Giang 48 28 20 3 1 3 26 1 16 22 9
13 Trà Vinh 53 26 27 1 3 2 2 32 2 12 35 4
Tổng 700 396 304 10 37 9 31 10 387 10 256 308 126
Nguồn: [8]; [9]
181
181
PHỤ LỤC 17
Nguồn: [8]; [9]
77,1%
15,8%
7,1%
TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CÁN BỘ CẤP XÃ
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN NĂM 2016
Trung cấp 77,1%
Cao cấp 15,8%
Sơ cấp 7,1%
182
182
PHỤ LỤC 18
Nguồn: [8]; [9]
89 %
2,6% 8,4%
TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN CÁN BỘ CẤP XÃ
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN NĂM 2016
Cao đẳng, đại học 89%
Sau đại học 2,6%
Trung, sơ cấp 8,4%
183
PHỤ LỤC 19
THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
ĐÃ THAM GIA ĐÀO TẠO TỪ NĂM 2010 ĐẾN 2016
Đvt: người
TT
Tỉnh, thành
Đối tượng
AnGiang
BạcLiêu
BếnTre
CàMau
CầnThơ
ĐồngTháp
HậuGiang
KiênGiang
LongAn
SócTrăng
TiềnGiang
TràVinh
VĩnhLong
Tổng số
1 Bí thư Đảng ủy 98 49 151 88 81 142 69 136 177 102 167 98 95 1,453
2 Phó Bí thư Đảng ủy 123 52 153 103 89 152 71 137 168 103 178 99 97 1,525
3 Chủ tịch HĐND 17 7 57 11 5 24 9 54 2 3 0 2 18 209
4 Phó CT.HĐND 131 49 81 89 82 111 50 98 178 101 168 102 89 1,329
5 Chủ tịch UBND 126 53 131 87 73 118 51 120 171 92 140 91 88 1,341
6 Phó CT.UBND 216 89 287 152 127 242 89 261 221 154 189 146 189 2,362
7 Chủ tịch UB MTTQ 121 59 153 76 70 121 62 120 162 96 154 89 81 1,364
8 Bí thư Đoàn TN 132 55 151 87 72 132 67 121 160 89 160 99 89 1,414
9 Chủ tịch Hội LHPN 131 52 142 79 69 126 60 132 151 91 149 87 93 1,362
10 Chủ tịch Hội ND 92 43 103 81 56 111 50 102 135 79 120 79 67 1,118
11 Chủ tịch Hội CCB 78 38 94 64 68 97 45 97 121 63 98 77 71 1,011
Tổng số 1,265 546 1,503 917 792 1,376 623 1,378 1,646 973 1,523 969 977 14,488
Nguồn: [8]; [9]; [10]
184
PHỤ LỤC 20
THỐNG KÊ SỐ LƯỢT CÁN BỘ CẤP XÃ THAM GIA CÁC LỚP BỒI DƯỠNG Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2016
Đvt: người
TT
Tỉnh, thành
Đối tượng AnGiang
BạcLiêu
BếnTre
CàMau
CầnThơ
ĐồngTháp
HậuGiang
KiênGiang
LongAn
SócTrăng
TiềnGiang
TràVinh
VĩnhLong
Tổng số
1 Bí thư Đảng ủy 1212 512 1232 784 464 1152 581 1154 1495 980 1382 847 855 12,650
2 Phó Bí thư Đảng ủy 1010 576 1351 876 817 1438 671 1302 1638 893 1700 917 923 14,112
3 Chủ tịch HĐND 472 101 547 105 56 216 112 413 37 40 0 14 118 2,231
4 Phó CT.HĐND 1163 343 756 750 664 833 432 714 1342 862 1195 734 807 10,595
5 Chủ tịch UBND 1096 832 1232 657 675 1152 501 1142 1692 1009 1559 943 917 13,407
6 Phó CT.UBND 1668 702 2416 1241 1056 2080 805 2156 1917 1414 1751 1271 1816 20,293
7 Chủ tịch UB MTTQ 1198 381 1450 635 567 1001 510 1014 1325 871 1203 847 745 11,747
8 Bí thư Đoàn TN 1395 832 1425 903 747 1293 654 1294 1718 971 1538 944 1067 14,781
9 Chủ tịch Hội LHPN 1872 901 1652 897 654 1134 656 1447 1919 1085 1709 1047 1165 16,138
10 Chủ tịch Hội ND 1057 514 1231 645 487 1008 501 979 1502 856 1326 802 831 11,739
11 Chủ tịch Hội CCB 998 443 1038 597 510 864 425 837 1327 760 1200 723 727 10,449
Tổng số 13,141 6,137 14,330 8,090 6,697 12,171 5,848 12,452 15,912 9,741 14,563 9,089 9,971 138,142
Nguồn: [8]; [9]; [10]
185
PHỤ LỤC 21
TỔNG HỢP CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
ĐƯỢC ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TỪ 2006 - 2016
Nguồn: [8]; [9]; [10]
3154
6321
1570
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
Cao cấp lý luận chính trị Trung cấp lý luận CT-HC Sơ cấp lý luận chính trị
186
PHỤ LỤC 22
TỔNG HỢP CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
ĐƯỢC ĐÀO TẠO CHUYÊN MÔN TỪ 2006 - 2016
Nguồn: [8]; [9]; [10]
158
6892
320
6082
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
Sau đại học Đại học Cao đẳng Trung cấp
187
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Dùng cho cán bộ cấp xã, cán bộ của các cơ quan chức năng có liên quan
đến đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long)
Để nghiên cứu thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở
đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay làm cơ sở đề xuất những giải
pháp khả thi góp phần nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới. Xin ông/bà cho biết ý
kiến của mình về một số vấn đề dưới đây. Đồng ý với phương án nào, xin
ông/bà hãy đánh dấu chéo (x) vào ô vuông bên phải hoặc ghi thêm ý kiến khác
vào phần chấm chấm (...).
Câu 1: Ông/bà nhận định như thế nào về chủ trương, chính sách, các quy định,
quy chế của Đảng, Nhà nước các cấp quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cấp xã.
1- Đáp ứng đầy đủ yêu cầu 
2- Chỉ đáp ứng một phần 
3- Chưa đáp ứng 
4- Ý kiến khác: .........................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Câu 2: Ông/bà nhận định về vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng có
thẩm quyền trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã.
1- Thể hiện vai trò, trách nhiệm tốt 
2- Thể hiện vai trò, trách nhiệm khá 
3- Thể hiện vai trò, trách nhiệm trung bình 
4- Thể hiện vai trò, trách nhiệm chưa tốt 
5- Ý kiến khác: .........................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Câu 3: Ông/bà đánh giá như thế nào về khâu quy hoạch, chọn cử cán bộ cấp xã
đi đào tạo, bồi dưỡng
1- Kịp thời, đảm bảo đúng quy trình 
188
2- Còn bị động 
3- Có thực hiện nhưng chưa đảm bảo 
4- Còn nhiều hạn chế 
5- Ý kiến khác: .........................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Câu 4: Ông/bà đánh giá như thế nào về cách thức tổ chức, quản lý đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp xã
1- Rất phù hợp 
2- Phù hợp nhưng chưa sáng tạo 
3- Còn chồng chéo 
4- Còn yếu kém 
5- Ý kiến khác: .........................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Câu 5: Ông/bà nhận định như thế nào về nội dung, chương trình đào tạo cán bộ
cấp xã hiện nay.
1- Rất phù hợp 
2- Phù hợp 
3- Chỉ phù hợp một phần 
4- Còn nhiều hạn chế 
5- Ý kiến khác: .........................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Câu 6: Ông/bà nhận định như thế nào về nội dung, chương trình bồi dưỡng cán
bộ cấp xã hiện nay.
1- Rất phù hợp 
2- Phù hợp 
3- Chỉ phù hợp một phần 
4- Còn nhiều hạn chế 
5- Ý kiến khác: .........................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
189
Câu 7: Ông/bà nhận định về phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã
hiện nay.
1- Rất phù hợp 
2- Chỉ phù hợp một phần 
3- Chưa phù hợp 
4- Phải đổi mới 
5- Ý kiến khác: .........................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Câu 8: Ông/bà đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên làm nhiệm
vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay.
1- Đáp ứng nhiệm vụ tốt 
2- Đáp ứng nhiệm vụ khá 
3- Đáp ứng nhiệm vụ trung bình 
4- Chưa đáp ứng nhiệm vụ 
5- Ý kiến khác: .........................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Câu 9: Ông/bà đánh giá như thế nào về điều kiện vật chất phục vụ công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay.
1- Rất tốt 
2- Khá 
3- Trung bình 
4- Chưa tốt 
5- Ý kiến khác: .........................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Câu 10: Ông/bà nhận định về chính sách hỗ trợ cán bộ cấp xã đi đào tạo, bồi
dưỡng.
1- Rất tốt 
2- Mức độ khá 
3- Mức trung bình 
4- Chưa đáp ứng 
190
5- Ý kiến khác: .........................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Câu 11: Ông/bà nhận định về ý thức, tính tự giác, tính hiệu quả trong học tập
khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng của cán bộ cấp xã hiện nay.
1- Rất tốt 
2- Mức độ khá 
3- Mức trung bình 
4- Chưa cao 
5- Ý kiến khác: .........................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Câu 12: Ông/bà nhận định khâu đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ cấp xã sau khi
đào tạo, bồi dưỡng.
1- Rất hợp lý 
2- Chỉ hợp lý một phần 
3- Không chú trọng 
4- Còn nhiều hạn chế 
5- Ý kiến khác: .........................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Xin cảm ơn ông, bà!
191
TỔNG HỢP PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Qua phát 500 phiếu cho cán bộ cấp xã, cán bộ phòng nội vụ, ban tổ chức
cấp huyện và giảng viên trường chính trị của các tỉnh, thành phố ở đồng bằng
sông Cửu Long, kết quả thu về như sau:
Câu 1: Ông/bà nhận định như thế nào về chủ trương, chính sách, các quy
định, quy chế của Đảng, Nhà nước các cấp quan tâm đến công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp xã.
1- Đáp ứng đầy đủ yêu cầu 332 66,4%
2- Chỉ đáp ứng một phần 92 18,4%
3- Chưa đáp ứng 74 14,8%
4- Ý kiến khác: 2 0,4%
Câu 2: Ông/bà nhận định về vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức
năng có thẩm quyền trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã.
1- Thể hiện vai trò, trách nhiệm tốt 298 59,6%
2- Thể hiện vai trò, trách nhiệm khá 97 19,4%
3- Thể hiện vai trò, trách nhiệm trung bình 81 16,2%
4- Thể hiện vai trò, trách nhiệm chưa tốt 19 3,8%
5- Ý kiến khác: 5 1,0%
Câu 3: Ông/bà đánh giá như thế nào về khâu quy hoạch, chọn cử cán bộ
cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng.
1- Kịp thời, đảm bảo đúng quy trình 262 52,4%
2- Còn bị động 132 26,4%
3- Có thực hiện nhưng chưa đảm bảo 60 12,0%
4- Còn nhiều hạn chế 40 8,0%
5- Ý kiến khác: 6 1,2%
Câu 4: Ông/bà đánh giá như thế nào về cách thức tổ chức, quản lý đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã.
1- Rất phù hợp 249 49,8%
2- Phù hợp nhưng chưa sáng tạo 125 25,0%
3- Còn chồng chéo 75 15,0%
4- Còn yếu kém 45 9,0%
5- Ý kiến khác: 5 1,0%
192
Câu 5: Ông/bà nhận định như thế nào về nội dung, chương trình đào tạo
cán bộ cấp xã hiện nay.
1- Rất phù hợp 315 63,0%
2- Phù hợp 95 19,0%
3- Chỉ phù hợp một phần 51 10,2%
4- Còn nhiều hạn chế 36 7,2%
5- Ý kiến khác: 3 0,6%
Câu 6: Ông/bà nhận định như thế nào về nội dung, chương trình bồi
dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay.
1- Rất phù hợp 298 59,6%
2- Phù hợp 92 18,4%
3- Chỉ phù hợp một phần 81 16,2%
4- Còn nhiều hạn chế 28 5,6%
5- Ý kiến khác: 1 0,2%
Câu 7: Ông/bà nhận định về phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã
hiện nay.
1- Rất phù hợp 261 52,2%
2- Chỉ phù hợp một phần 88 17,6%
3- Chưa phù hợp 79 15,8%
4- Còn chồng chéo 63 12,6%
5- Ý kiến khác: 9 1,8%
Câu 8: Ông/bà đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên làm
nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay.
1- Đáp ứng nhiệm vụ tốt 275 55,0%
2- Đáp ứng nhiệm vụ khá 108 21,6%
3- Đáp ứng nhiệm vụ trung bình 93 18,6%
4- Chưa đáp ứng nhiệm vụ 23 4,6%
5- Ý kiến khác: 1 0,2%
Câu 9: Ông/bà đánh giá như thế nào về điều kiện vật chất phục vụ công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay.
1- Rất tốt 201 40,2%
2- Khá 112 22,6%
3- Trung bình 108 21,6%
193
4- Chưa tốt 76 15,2%
5- Ý kiến khác: 3 0,6%
Câu 10: Ông/bà nhận định về chính sách hỗ trợ cán bộ cấp xã đi đào
tạo, bồi dưỡng.
1- Rất tốt 91 18,2%
2- Mức độ khá 170 34,0%
3- Mức trung bình 31 6,2%
4- Chưa đáp ứng 193 38,6%
5- Ý kiến khác: 15 3,0%
Câu 11: Ông/bà nhận định về ý thức, tính tự giác, tính hiệu quả trong học
tập khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng của cán bộ cấp xã hiện nay.
1- Rất tốt 263 52,6%
2- Mức độ khá 137 27,4%
3- Mức trung bình 67 13,4%
4- Chưa cao 32 6,4%
5- Ý kiến khác: 1 0,2%
Câu 12: Ông/bà nhận định khâu đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ cấp xã
sau khi đào tạo, bồi dưỡng.
1- Rất hợp lý 247 49,4%
2- Chỉ hợp lý một phần 165 33,0%
3- Không chú trọng 52 10,4%
4- Còn nhiều hạn chế 33 6,6%
5- Ý kiến khác: 3 0,6%

More Related Content

PDF
Luận văn: Đào tạo cán bộ công chức hành chính cấp xã TP Đà Nẵng
PDF
Luận án: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk
DOC
Luận văn: Chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho học viên ở các trung tâm
PDF
Luận án: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại Tuyên Quang
PDF
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ở thị xã Điện Bàn
PDF
Luận án: Quy hoạch cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ở ĐB bắc Bộ
DOC
Đề tài: Phát triển đảng viên trong thanh niên ở huyện Ba Vì, HAY
PDF
Luận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức
Luận văn: Đào tạo cán bộ công chức hành chính cấp xã TP Đà Nẵng
Luận án: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk
Luận văn: Chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho học viên ở các trung tâm
Luận án: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại Tuyên Quang
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ở thị xã Điện Bàn
Luận án: Quy hoạch cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ở ĐB bắc Bộ
Đề tài: Phát triển đảng viên trong thanh niên ở huyện Ba Vì, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức

What's hot (20)

PDF
Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước
PDF
Luận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo tại tỉnh Đắk Lắk
DOC
Luận văn Xây dựng và thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài
PDF
Luận văn: Pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk, HAY
PDF
Luận văn: Đánh giá cán bộ, công chức cấp huyện tại TP Đà Nẵng
DOC
Luận văn: Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở đảng bộ quân sự thành phố HAY
PDF
Luận văn: Chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
PDF
Luận văn: Cải cách hành chính trong lĩnh vực y tế tại TPHCM
PDF
Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị của Trung tâm chính trị
DOC
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Môn
PDF
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Cấp Xã ...
PDF
Luận văn: Đánh giá cán bộ, công chức cấp xã tỉnh Bắc Giang, 9đ
PDF
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay
PDF
Luận án: Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số
DOC
Luận văn: Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ĐH Sư phạm
DOC
Luận văn: Chất lượng đội ngũ cán bộ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu, 9đ
PDF
Luận văn:Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở Quảng Bình
PDF
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
PDF
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
PDF
Luận văn: Chính sách an sinh xã hội đối với người dân tộc thiểu số
Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước
Luận văn: Thực hiện chính sách giảm nghèo tại tỉnh Đắk Lắk
Luận văn Xây dựng và thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài
Luận văn: Pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk, HAY
Luận văn: Đánh giá cán bộ, công chức cấp huyện tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở đảng bộ quân sự thành phố HAY
Luận văn: Chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
Luận văn: Cải cách hành chính trong lĩnh vực y tế tại TPHCM
Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị của Trung tâm chính trị
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Môn
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Cấp Xã ...
Luận văn: Đánh giá cán bộ, công chức cấp xã tỉnh Bắc Giang, 9đ
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận án: Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số
Luận văn: Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ĐH Sư phạm
Luận văn: Chất lượng đội ngũ cán bộ cấp huyện tỉnh Bạc Liêu, 9đ
Luận văn:Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở Quảng Bình
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận văn: Chính sách an sinh xã hội đối với người dân tộc thiểu số
Ad

Similar to Luận án: Đào tạo cán bộ cấp xã ở ĐB sông Cửu Long, HOT (20)

PDF
Chính sách phát triển đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh Quảng Nam, 9đ
PDF
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của huyện Nam Giang
PDF
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị tỉnh Lạng Sơn, HAY
PDF
Quản lý về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình, 9đ
PDF
Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp cơ sở tại huyện Quế Sơn, HAY
PDF
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã từ thực tiễn quận tâ...
PDF
Nâng cao năng lực quản lý cơ quan chuyên môn tỉnh Bình Dương
PDF
Năng lực quản lý của trưởng phòng, phó trưởng phòng các cơ quan
PDF
Luận án: Tu dưỡng tính Đảng cộng sản của cán bộ chủ chốt, HAY
DOC
Luận Văn Thạc Sĩ Chất Lượng Giáo Dục Lý Luận Chính Trị Cho Học Viên.doc
PDF
Luận văn: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tỉnh Lạng Sơn
PDF
Luận văn: Chính sách đào tạo công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn
DOC
Luận Văn Công Tác Quy Hoạch Cán Bộ Diện Ban Thường Vụ Đảng Ủy Đại Học Quốc Gi...
PDF
Quản lý đội ngũ giảng viên trường chính trị vùng Đông Nam Bộ
PDF
Luận án: Quản lý đội ngũ giảng viên trường chính trị cấp tỉnh, HAY
PDF
Luận án: Đội ngũ cán bộ quản lí chuyên trách công tác thi đua
PDF
Quản lý đào tạo cao cấp lý luận ct cho cán bộ dân tộc thiểu số tại học viện c...
DOC
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành thuế tỉnh Bạc Liêu giai đoạn hiện nay
DOC
Đề tài: Xây dựng đội ngũ công chức ngành thuế tỉnh Bạc Liêu, HOT
PDF
Đề tài: Chất lượng cán bộ chính quyền cấp xã tỉnh Quảng Ninh, HAY
Chính sách phát triển đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh Quảng Nam, 9đ
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của huyện Nam Giang
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị tỉnh Lạng Sơn, HAY
Quản lý về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh Ninh Bình, 9đ
Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp cơ sở tại huyện Quế Sơn, HAY
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã từ thực tiễn quận tâ...
Nâng cao năng lực quản lý cơ quan chuyên môn tỉnh Bình Dương
Năng lực quản lý của trưởng phòng, phó trưởng phòng các cơ quan
Luận án: Tu dưỡng tính Đảng cộng sản của cán bộ chủ chốt, HAY
Luận Văn Thạc Sĩ Chất Lượng Giáo Dục Lý Luận Chính Trị Cho Học Viên.doc
Luận văn: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tỉnh Lạng Sơn
Luận văn: Chính sách đào tạo công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn
Luận Văn Công Tác Quy Hoạch Cán Bộ Diện Ban Thường Vụ Đảng Ủy Đại Học Quốc Gi...
Quản lý đội ngũ giảng viên trường chính trị vùng Đông Nam Bộ
Luận án: Quản lý đội ngũ giảng viên trường chính trị cấp tỉnh, HAY
Luận án: Đội ngũ cán bộ quản lí chuyên trách công tác thi đua
Quản lý đào tạo cao cấp lý luận ct cho cán bộ dân tộc thiểu số tại học viện c...
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành thuế tỉnh Bạc Liêu giai đoạn hiện nay
Đề tài: Xây dựng đội ngũ công chức ngành thuế tỉnh Bạc Liêu, HOT
Đề tài: Chất lượng cán bộ chính quyền cấp xã tỉnh Quảng Ninh, HAY
Ad

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

DOCX
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
DOCX
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
DOCX
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
DOCX
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu

Recently uploaded (20)

PPTX
THUÊ 2025 - CHƯƠNG 1 TỔNG QUANưqeqweqw.pptx
PPTX
Bai giảng ngữ văn Trai nghiem de truong thanh.pptx
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 CẦU LÔNG - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO C...
PDF
Slide bài giảng môn Tâm lý Học Giao tiếp - Chủ đề Tổng quan về Giao tiếp
PDF
BÀI GIẢNG POWERPOINT CHÍNH KHÓA THEO LESSON TIẾNG ANH 11 - HK1 - NĂM 2026 - G...
PPTX
Bài 02. bệnh da do nhiễm ký sinh trùng .pptx
PDF
Bai giang tieng trung HSK4-BAI1 - zhenzhengdeaiqing
PPTX
GIỚI THIỆU SÁCH GIÁO KHOA TOÁN 4_CTST.pptx
PDF
Giáo Dục Minh Triết: Tâm thế - Tâm thức bước vào kỷ nguyên mới
PPTX
Mô tả tổng quan về mô mình hóa robot nhiều bậc tự do
PDF
Thong bao 128-DHPY (25.Ke hoach nhap hoc trinh do dai hoc (dot 1.2025)8.2025)...
PDF
[IP] Chương 2. Chứng từ trong TMQT TTQT.pdf
DOCX
123 ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ I TOÁN 6 (1).docx
PDF
1. BỆNH VI NẤM CẠN do nhiễm ký sinh .pdf
PDF
8. Đỏ da toàn thân do tổn thương cơ bản.pdf
PDF
CHƯƠNG 2 ĐẠI CƯƠNG VỀ TIỀN TẸEEEEEEEEEEE
PDF
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 2 năm 2025 - 2026 có đáp án
PDF
FULL TN LSĐ 2024 HUIT. LICH SU DANGGGGGG
PPTX
Nhận thức chung về vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường
PDF
TUYỂN CHỌN ĐỀ ÔN THI OLYMPIC 30 THÁNG 4 HÓA HỌC LỚP 10-11 CÁC NĂM 2006-2021 B...
THUÊ 2025 - CHƯƠNG 1 TỔNG QUANưqeqweqw.pptx
Bai giảng ngữ văn Trai nghiem de truong thanh.pptx
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 CẦU LÔNG - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO C...
Slide bài giảng môn Tâm lý Học Giao tiếp - Chủ đề Tổng quan về Giao tiếp
BÀI GIẢNG POWERPOINT CHÍNH KHÓA THEO LESSON TIẾNG ANH 11 - HK1 - NĂM 2026 - G...
Bài 02. bệnh da do nhiễm ký sinh trùng .pptx
Bai giang tieng trung HSK4-BAI1 - zhenzhengdeaiqing
GIỚI THIỆU SÁCH GIÁO KHOA TOÁN 4_CTST.pptx
Giáo Dục Minh Triết: Tâm thế - Tâm thức bước vào kỷ nguyên mới
Mô tả tổng quan về mô mình hóa robot nhiều bậc tự do
Thong bao 128-DHPY (25.Ke hoach nhap hoc trinh do dai hoc (dot 1.2025)8.2025)...
[IP] Chương 2. Chứng từ trong TMQT TTQT.pdf
123 ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ I TOÁN 6 (1).docx
1. BỆNH VI NẤM CẠN do nhiễm ký sinh .pdf
8. Đỏ da toàn thân do tổn thương cơ bản.pdf
CHƯƠNG 2 ĐẠI CƯƠNG VỀ TIỀN TẸEEEEEEEEEEE
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 2 năm 2025 - 2026 có đáp án
FULL TN LSĐ 2024 HUIT. LICH SU DANGGGGGG
Nhận thức chung về vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường
TUYỂN CHỌN ĐỀ ÔN THI OLYMPIC 30 THÁNG 4 HÓA HỌC LỚP 10-11 CÁC NĂM 2006-2021 B...

Luận án: Đào tạo cán bộ cấp xã ở ĐB sông Cửu Long, HOT

  • 1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THANH SANG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC HÀ NỘI - 2018
  • 2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THANH SANG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC Mã số: 62 31 02 03 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS TRẦN KHẮC VIỆT 2. TS ĐẶNG ĐÌNH PHÚ HÀ NỘI - 2018
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu của luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học trong luận án chưa từng được ai công bố ở bất kỳ công trình bào khác. Tác giả luận án Trần Thanh Sang
  • 4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài 1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước 1.3. Tổng quan các kết quả nghiên cứu và những vấn đề cần tập trung nghiên cứu Chương 2: CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. Các tỉnh, thành phố ở đồng bằng sông Cửu Long; các xã, phường, thị trấn và cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long 2.2. Đào tạo, bồi dưỡng và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long - khái niệm, chương trình, nội dung, hình thức và vai trò Chương 3: CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM 3.1. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long 3.2. Nguyên nhân và những kinh nghiệm Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN NĂM 2030 4.1. Dự báo các yếu tố tác động đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long và mục tiêu, phương hướng 4.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 KẾT LUẬN CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 6 6 13 26 29 29 45 69 69 98 109 109 119 145 147 148 165
  • 5. BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương CB, CC : Cán bộ, công chức CBCX : Cán bộ cấp xã CHDCND : Cộng hòa Dân chủ nhân dân CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CTQG : Chính trị quốc gia ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long ĐT, BD : Đào tạo, bồi dưỡng HĐND : Hội đồng nhân dân HTCT : Hệ thống chính trị KT-XH : Kinh tế - xã hội LLCT : Lý luận chính trị LLCT-HC : Lý luận chính trị - hành chính MTTQ : Mặt trận Tổ quốc Nxb : Nhà xuất bản QLNN : Quản lý nhà nước TCT : Trường chính trị TTBDCT : Trung tâm bồi dưỡng chính trị UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ. Người khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [123, tr. 309]; “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [123, tr. 313]. Trong Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, Đảng ta nhấn mạnh: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [61, tr. 66]. Đội ngũ cán bộ cơ sở, trong đó đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn (cấp xã), có vai trò rất quan trọng, vì họ là những người gần dân nhất, lãnh đạo, quản lý, thực hiện những nhiệm vụ chính trị tại cơ sở - nơi các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước được triển khai, hiện thực hóa trong cuộc sống; là lực lượng chủ yếu, nòng cốt trực tiếp quyết định kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng xã, phường, thị trấn. Chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã (CBCX) được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau, trong đó đào tạo, bồi dưỡng (ĐT, BD) là con đường quan trọng hàng đầu. Vì vậy, để xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCX phải chăm lo công tác ĐT, BD cán bộ, trong đó vấn đề chất lượng ĐT, BD là điều kiện quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi công tác ĐT, BD cán bộ nói chung, công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX nói riêng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [123, tr. 309]. Kết luận của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương (BCHTW) Đảng khóa X khẳng định: “Tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ, chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thực hiện chiến lược cán bộ trong giai đoạn mới” [65, tr. 275]. Quy định số 164-QĐ/TW ngày 01-02-2013 của Bộ Chính trị “về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp” xác định: “Bồi dưỡng, cập nhật thông tin, kiến thức mới và kỹ năng nghiệp vụ nhằm nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng
  • 7. 2 trong tình hình mới” [26, tr. 1]. Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-2014 của Bộ Chính trị “về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý” đã khẳng định: “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực, phong cách làm việc hiệu quả đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [27, tr. 3]. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), hay còn được gọi là vùng Tây Nam bộ, có vị trí chiến lược quan trọng của cả nước, là vùng có nhiều tiềm năng về kinh tế và tính đặc thù về dân tộc, tôn giáo. Toàn vùng có 01 thành phố Cần Thơ và 12 tỉnh trực thuộc Trung ương (An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau, Đồng Tháp, Long An, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh và Vĩnh Long); có 134 đơn vị hành chính cấp huyện, 1.624 đơn vị hành chính cấp xã (trong đó có 1.293 xã, 211 phường, 120 thị trấn), với 16.984 CBCX. Dân số 17,66 triệu người, trong đó có khoảng 1,4 triệu người dân tộc Khmer. Trong thời gian qua, được sự quan tâm của Trung ương và của các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương, đội ngũ CBCX trong khu vực đã có bước trưởng thành đáng kể, phát huy tốt vai trò và là nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), giữ vững ổn định chính trị, an ninh và quốc phòng ở ĐBSCL. Tuy nhiên, đội ngũ CBCX ở các tỉnh, thành phố thuộc khu vực này còn nhiều hạn chế, yếu kém, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ chính trị mới đặt ra. Trong những năm qua, công tác ĐT, BD CBCX đã được các cấp, các ngành ở đồng ĐBSCL rất chú trọng, do vậy trình độ lý luận chính trị (LLCT), chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ CBCX, được nâng lên một bước. Nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức (CB, CC) cơ sở nói chung, CBCX nói riêng đã có sự chuyển biến rõ nét; họ coi việc tham gia ĐT, BD là trách nhiệm, nghĩa vụ và là yêu cầu bắt buộc. Bên cạnh đó, nhiều loại hình ĐT, BD như tập trung, vừa làm vừa học, dài hạn, ngắn hạn, với nhiều nội dung lồng ghép đa dạng được mở ra tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ CBCX tham gia học tập một cách phù hợp. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL vẫn còn nhiều hạn chế. Các chủ trương, chính sách cho ĐT, BD CBCX chậm đổi mới. Công tác quy hoạch, lựa chọn CBCX đưa đi ĐT, BD chưa hợp lý, thiếu khoa học, một số cấp ủy thậm chí còn buông lỏng công tác
  • 8. 3 này. Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, cơ sở ĐT, BD thiếu nhịp nhàng, thậm chí còn chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, lấn sân lẫn nhau. Chương trình, nội dung còn nhiều trùng lắp, thậm chí lỗi thời, không phù hợp với yêu cầu của thực tiễn; nội dung còn nặng về lý thuyết, thiếu kiến thức kỹ năng, tác nghiệp, chú trọng nhiều vào tổng quan, thiếu tính cụ thể, đặc thù. Đội ngũ giảng viên, báo cáo viên tham gia ĐT, BD còn hạn chế; một số thiếu kiến thức thực tiễn, trong giảng dạy còn nặng về lý thuyết, thiếu truyền thụ kỹ năng, nghiệp vụ. Việc xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên LLCT ở ĐBSCL có được chú trọng, nhưng còn chắp vá, không thường xuyên; nhiều giảng viên, báo cáo viên thiếu chuẩn theo yêu cầu mới. Đội ngũ cán bộ quản lý, phục vụ hoạt động ĐT, BD trình độ chuyên môn hóa chưa cao; cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ ĐT, BD CBCX còn nhiều thiếu thốn. Một số CBCX tuy có bằng cấp, nhưng không đúng chuyên môn với vị trí công tác; một bộ phận CBCX còn tâm lý e ngại tham gia ĐT, BD; một số có tham gia học tập, nhưng tư tưởng còn đối phó, học cốt để có bằng chứ không cần kiến thức; một số CBCX không chú trọng việc tự học, tự rèn, nhất là về chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Công tác kiểm tra, giám sát, tổ chức rút kinh nghiệm trong ĐT, BD không thường xuyên. Chế độ chính sách cho công tác ĐT, BD CBCX của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL không thống nhất, chậm đổi mới, chưa tạo động lực cho CBCX tham gia ĐT, BD. Khâu bố trí, sử dụng CBCX sau đào tạo và việc phát huy năng lực sau bồi dưỡng chưa được quan tâm đúng mức, làm cho không ít CBCX chán nản, thậm chí nghỉ việc... Xuất phát từ thực tế nêu trên, tác giả chọn đề tài “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay” làm luận án nghiên cứu của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác ĐT, BD CBCX, luận án đề xuất các giải pháp đồng bộ, có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. 2.2. Nhiệm vụ - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. - Làm rõ các khái niệm và nội dung có liên quan về công tác ĐT, BD CBCX; nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác ĐT, BD CBCX.
  • 9. 4 - Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng công tác ĐT, BDCBCX ở ĐBSCL, phân tích nguyên nhân và rút ra các kinh nghiệm về công tác này. - Đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL đến năm 2030. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. 3.1. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu công tác ĐT, BD CBCX của 13 tỉnh, thành phố ở ĐBSCL từ năm 2006 đến năm 2017. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác ĐT, BD cán bộ nói chung, về công tác ĐT, BD CBCX nói riêng trong giai đoạn hiện nay. 4.2. Cơ sở thực tiễn Công tác ĐT, BD CBCX và công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL từ năm 2006 đến 2017. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: lịch sử và lôgíc, tổng kết thực tiễn, khảo sát, phương pháp chuyên gia, phân tích và tổng hợp, so sánh. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án 5.1. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án - Làm rõ các khái niệm có liên quan đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. - Chỉ ra tính đặc thù trong công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. - Rút ra một số kinh nghiệm trong công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. - Đề xuất hai giải pháp mang khả thi góp phần nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL: một là, đổi mới cách thức tổ chức, quản lý ĐT, BD CBCX; hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên làm nhiệm vụ ĐT, BD CBCX.
  • 10. 5 5.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm cứ liệu khoa học cho các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, ban tổ chức, sở nội vụ, trường chính trị (TCT) của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL trong việc xác định các chủ trương, giải pháp thực hiện công tác ĐT, BD CBCX có hiệu quả. Luận án còn có thể góp phần bổ sung và hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với công tác ĐT, BD đội ngũ CB, CC nói chung và đội ngũ CBCX nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay. Luận án cũng có thể phục vụ việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy ở Học viện Chính trị quốc gia (CTQG) Hồ Chí Minh, các trường chính trị (TCT) tỉnh, thành phố, các trung tâm bồi dưỡng chính trị (TTBDCT) cấp huyện ở ĐBSCL. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, các công trình khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
  • 11. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Công tác ĐT, BD cán bộ nói chung và công tác ĐT, BD CBCX nói riêng trong thời gian qua đã có rất nhiều công trình khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành, địa phương, nhiều đề tài luận án tiến sĩ và nhiều bài viết của các học giả đề cập đến công tác ĐT, BD cán bộ không chỉ trong nước, mà cả ở nước ngoài. Tuy nhiên, tùy theo đối tượng và phạm vi nghiên cứu mà từng công trình khoa học, từng bài viết có góc độ tiếp cận, giải quyết các vấn đề riêng có liên quan đến đề tài nghiên cứu. 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NƯỚC NGOÀI 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Trung Quốc - Phùng Đại Minh, Quản lý hiệu năng và quản lý tự chủ trong nhà trường - một cơ chế để phát triển [127]. Tác phẩm chỉ ra rằng, cải cách giáo dục cần quan tâm phát triển giáo viên, trong đó nhấn mạnh: khuyến khích cá nhân giáo viên có thêm động cơ và hăng say công tác; giúp đỡ giáo viên phát triển chuyên môn và tiềm năng, tăng kiến thức, kỹ năng và sở trường. - Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Xây dựng đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc [105]. Nhiều bài tham luận của các học giả Trung Quốc đã tập trung vào kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ cán bộ, công tác ĐT, BD cán bộ như: Tác giả Hạ Quốc Cường cho rằng: một trong những yếu tố quan trọng xây dựng đảng cầm quyền thành công là xây dựng đội ngũ cán bộ có tố chất cao, tập trung xây dựng được đội ngũ nhân tài, vì thế phải “không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ cầm quyền, tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng biến chất và chống rủi ro”. Theo học giả Tôn Hiển Quần, cần “tăng cường xây dựng ban lãnh đạo, cố gắng hình thành tầng lớp lãnh đạo hăng hái, sôi nổi, phấn đấu thành đạt”. Muốn đạt được điều đó phải kiên trì học tập, nghiên cứu lý luận và rèn luyện thực tế; đồng thời, phải chú trọng việc chọn, dùng người theo tiêu chuẩn khoa học, cải tiến tác phong, thắt
  • 12. 7 chặt liên hệ máu thịt với quần chúng nhân dân, ngăn ngừa và khắc phục chủ nghĩa hình thức, quan liêu. Giả Cao Kiến cho rằng: “Phát huy đầy đủ vai trò của trường Đảng, làm tốt công tác giáo dục và đào tạo cán bộ”, cần thực hiện phân tầng cương vị lãnh đạo, nhằm vào nhu cầu nhậm chức của cán bộ mà đào tạo phù hợp. Bài viết “Xuất phát từ đại cục, hướng tới lâu dài, cố gắng xây dựng một đội ngũ cán bộ dự bị tố chất cao” của Chu Phúc Khởi cho thấy: Đảng Cộng sản Trung Quốc xem đội ngũ cán bộ dự bị là “nguồn quan trọng của ban lãnh đạo đạo các cấp”, vì thế xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị là nhiệm vụ chiến lược quan trọng liên quan đến đại cục, lâu dài. Theo tác giả, để xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị tố chất cao gồm ba khâu: tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và quản lý cán bộ dự bị. Cách làm cụ thể: một là, xây dựng quy hoạch thiết thực, khả thi đội ngũ dự bị; hai là, chế độ hóa, quy phạm hóa chặt chẽ về tiêu chuẩn, quy trình và yêu cầu đối với các khâu của công tác cán bộ dự bị; ba là, mở rộng dân chủ trong tuyển chọn; bốn là, đào tạo đa dạng, theo nguyên tắc “thiếu gì bù nấy”; năm là, quản lý động thái, đảm bảo số lượng và chất lượng cán bộ; sáu là, kiên trì dự trữ, kết hợp với sử dụng, kịp thời tuyển chọn cán bộ dự bị chín muồi vào ban lãnh đạo; bảy là, nắm đầu nguồn, tuyển cán bộ dự bị từ sinh viên tốt, tốt nghiệp đạt loại giỏi ở các trường đại học và cao đẳng, sau đó đào tạo, rèn luyện ở cơ sở một cách có kế hoạch. Triệu Lý Văn có bài “Lý luận và tực tiễn công tác giáo dục cán bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Tác giả đã khái quát 5 nguyên tắc giáo dục, đào tạo (lấy con người làm gốc, đào tạo theo nhu cầu; đào tạo toàn bộ, đảm bảo chất lượng; phát triển toàn diện, chú trọng năng lực; liên hệ thực tế, học để sử dụng; tiến tới cùng thời đại, cải cách sáng tạo), 4 mặt của chương trình giảng dạy (nền tảng lý luận; nhãn quan thế giới; tư duy chiến lược; tu dưỡng tính đảng), 3 định hướng cải cách tư duy giảng dạy (chia loại, chia tầng nấc - tùy theo tính chất giáo dục, đào tạo và tầng nấc cán bộ để bố trí lớp và xác định nội dung; đào tạo theo nhu cầu; học viên là chủ thể). Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến những vấn đề có liên quan đến công tác ĐT, BD cán bộ như: chú trọng cải cách nội dung, phương pháp giảng dạy; đặc biệt coi trọng việc bồi dưỡng năng lực cho cán bộ ở những vị trí nổi bật; việc thử nghiệm giảng dạy kiểu mô phỏng... Những khái quát kinh nghiệm trên được tác giả đúc kết từ quá trình tiến hành công tác giáo dục, đào tạo cán bộ của Trung Quốc.
  • 13. 8 - Diêm Kiệt Hoa, Nghiên cứu tiến trình phát triển giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc [86] chỉ ra: Trung Quốc là một nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) kiên trì lấy chủ nghĩa Mác làm tư tưởng chỉ đạo, tiến hành giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác. Từ góc độ tiến trình phát triển của giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác, tác giả nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện việc giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác, rút ra bài học kinh nghiệm từ việc giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác, qua đó thúc đẩy tốt hơn sự phát triển của giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc. - Charlotte P. Lee, “Training the Party: Party adaptation and elite training in reform-era China”, (tạm dịch: “Đào tạo Đảng: Sự chỉnh đốn Đảng và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đứng đầu ở Trung Quốc thời kỳ cải cách”) [42]. Tác giả đã trình bày các nghiên cứu về trường đảng, chủ yếu chia thành hai dòng nghiên cứu: một là, những nhiệm vụ, chức năng của trường Đảng Trung ương Trung Quốc; hai là, hệ thống trường đảng bên ngoài Bắc Kinh. Ban giám hiệu các trường này phải theo đuổi nhiều phương thức tăng thu nhập khác nhau. Trong số đó có những phương thức tồn tại thuần túy vì mục tiêu lợi nhuận và có cả những phương thức khác vừa giúp nâng cao thu nhập, vừa tăng chất lượng đào tạo của nhà trường. Sự phong phú, đa dạng trong hoạt động của trường đảng chứng tỏ sự phong phú về phương cách thích nghi của tổ chức trong cơ chế thị trường có cạnh tranh. Các trường đã tự điều chỉnh, tự thích ứng trước hai mục tiêu ra là phải tối đa hóa nguồn thu trong bối cảnh kinh tế thị trường và phải cập nhật, đổi mới nội dung ĐT, BD cán bộ xứng tầm trong nền kinh tế thị trường. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào - Xỉnh Khăm Phom Ma Xay, Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào trong giai đoạn hiện nay, [202]. Luận án đã luận giải đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào hiện nay; phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào và tình hình công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ này trong thời gian qua, chỉ ra những thành tựu và hạn chế cùng những nguyên nhân. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của Nhà nước Lào. Những giải pháp cần chú ý là: nghiên cứu xác định một
  • 14. 9 cách đúng đắn mục tiêu ĐT, BD cán bộ phù hợp với tình hình của CHDCND Lào hiện nay và những năm tới; xây dựng tốt công tác quy hoạch ĐT, BD đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế; đẩy mạnh phong trào tự học tập nâng cao trình độ, năng lực và rèn luyện đạo đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ của Lào; xây dựng và kiện toàn hệ thống trường, lớp và hoàn thiện các chế độ, chính sách về ĐT, BD đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế; đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về ĐT, BD đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế; kết hợp chặt chẽ giữa ĐT, BD và quản lý, sử dụng có hiệu quả những người đã qua ĐT, BD; bảo đảm những điều kiện cần thiết để tăng cường công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế. - Khăm Phăn Phôm Ma Thắt, Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới, [111]. Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công tác ĐT, BD cán bộ theo quan điểm mácxít, đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng công tác ĐT, BD cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở nước CHDCND Lào trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác ĐT, BD cán bộ chủ chốt ở nước Lào trong thời gian tới. - Khăm Phăn Vông Pha Chăn, Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay, [112]. Tác giả khẳng định: cán bộ lãnh đạo có vai trò quan trọng đối với sự phát triển KT-XH. Đất nước Lào có phát triển nhanh hay không một phần rất lớn phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo có tài và đức trong hệ thống chính trị (HTCT). Vì vậy, việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của HTCT là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào hiện nay. Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của HTCT ở CHDCND Lào là nói đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ giữ những chức vụ nhất định trong HTCT với các hoạt động đào tạo cụ thể, biểu hiện chủ yếu ở nội dung, chương trình và phương thức đào tạo nhằm đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng cán bộ đảm bảo thực thi quyền lực chính trị của nhân dân. Luận án đánh giá, trong những năm gần đây ở CHDCND Lào, việc đào tạo cán bộ lãnh đạo trong HTCT đã được Đảng và Nhà nước Lào quan tâm, đổi mới cả về mặt nội dung, chương trình và phương thức đào tạo, đáp ứng được một số yêu cầu về chất lượng cán bộ cho sự nghiệp đổi mới ở Lào. Tuy nhiên, công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo của HTCT còn nhiều hạn chế, chưa có bước đột phá và nâng cao hiệu quả đáp ứng
  • 15. 10 các đòi hỏi đặt ra từ thực tiễn yêu cầu chất lượng cán bộ lãnh đạo thời kỳ mới. Để nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của HTCT đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới ở Lào hiện nay, tác giả đề xuất cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác đào tạo; gắn đào tạo với quy hoạch và sử dụng cán bộ; đổi mới nội dung, chương trình, phương thức ĐT, BD; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trong các cơ sở đào tạo; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo; xây dựng chế độ, chính sách đãi ngộ đối với người dạy và học, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo. - Kham Bay Malasing, Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở và những người có uy tín ở thôn bản trong phát triển cộng đồng ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, [109]. Tác giả đã phân tích vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ sở và những người có uy tín ở thôn bản trong phát triển cộng đồng ở CHDCND Lào, trong đó yếu tố tuổi tác động mạnh nhất. Luận án cũng cho thấy, sự tham gia của khối cán bộ lãnh đạo, quản lý về các nội dung phát triển cộng đồng còn có sự khác nhau nhất định, trong đó khối cán bộ chính quyền thôn, bản thường có vai trò tích cực nhất. Tác giả cũng đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở và những người có uy tín ở thôn, bản trong phát triển cộng đồng trong thời gian tới, trong đó có giải pháp nâng cao công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở. - Sai Kham Moun Na Ni Vong, Vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho học viên hệ cao cấp ở các trường chính trị và hành chính nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay, [139]. Tác giả khẳng định: giáo dục lý luận Mác - Lênin cho học viên hệ cao cấp là bộ phận rất quan trọng trong hệ thống giáo dục, đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của các TCT - Hành chính ở Lào, hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa và trang bị phương pháp luận khoa học, biểu hiện chủ yếu ở nội dung, chương trình và phương thức đào tạo nhằm đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở CHDCND Lào hiện nay. Luận án đánh giá những vấn đề đặt ra đối với giáo dục lý luận Mác - Lênin cho học viên hệ cao cấp ở các TCT - Hành chính nước CHDCND Lào hiện nay: một là, mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có đội ngũ giảng viên chuyên nghiệp giỏi chuyên môn, có phương pháp sư phạm tốt với thực tế đội ngũ này còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng; hai là, mâu thuẫn giữa
  • 16. 11 yêu cầu phải có chương trình, nội dung giáo dục lý luận Mác - Lênin đa dạng, linh hoạt, phù hợp thực tiễn Lào với hiện trạng chương trình, nội dung còn nhiều bất cập; ba là, mâu thuẫn giữa đòi hỏi tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo trong học tập của đội ngũ học viên hệ cao cấp với thực tế còn chưa tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo trong học tập; bốn là, mâu thuẫn giữa lý tưởng trong giáo dục lý luận Mác - Lênin với đời sống thực tế còn nhiều trái ngược. Luận án đề xuất bốn giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho học viên hệ cao cấp là: một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý luận Mác - Lênin và nâng cao nhận thức về vai trò của giáo dục lý luận Mác - Lênin cho học viên hệ cao cấp; hai là, từng bước xây dựng đội ngũ giảng viên các bộ môn khoa học Mác - Lênin đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng; ba là, đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin và tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất cho công tác giáo dục lý luận Mác - Lênin; bốn là, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học viên trong việc tự giáo dục lý luận Mác - Lênin. - Kouyang Sisomblong, Chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy ở các trường chính trị - hành chính tỉnh Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, [115]. Tác giả chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy ở các TCT - hành chính tỉnh ở CHDCND Lào giai đoạn hiện nay: một là, số lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; hai là, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; ba là, trình độ chuyên môn và năng lực nghiên cứu, giảng dạy của từng cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; bốn là, kết quả thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy ở các TCT - hành chính tỉnh CHDCND Lào giai đoạn hiện nay: một là, một số cán bộ lãnh đạo cấp trên cũng như cán bộ lãnh đạo các nhà trường chưa quan tâm, chăm lo ĐT, BD năng lực cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; hai là, trình độ hiểu biết và việc tiếp thu khoa học, công nghệ hiện đại của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy còn hạn chế; ba là, vốn đầu tư và kinh phí còn hạn chế; bốn là, do thiếu quy hoạch, cơ chế tuyển chọn, ĐT, BD, bố trí và sử dụng; năm là, một số chế độ, chính sách chưa thật hợp lý. Luận án đã đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy ở các TCT - hành chính tỉnh CHDCND Lào giai đoạn hiện nay: một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đảng ủy và ban giám hiệu các nhà trường về sự cần thiết, tầm quan trọng về
  • 17. 12 nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; hai là, đổi mới các khâu trong xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; ba là, phát huy tính tự giác của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy trong việc tu duỡng rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ dược giao; bốn là, đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp ĐT, BD đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; năm là, tăng cường đầu tư kính phí, cơ sở vật chất và đổi mới chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; sáu là, tăng cường sự lãnh đạo, chi đạo, giúp đỡ của tỉnh ủy, chính quyền tỉnh và Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Lào trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy; bảy là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước; thường xuyên giao lưu và phối hợp với các cơ quan chức năng tồ chức các cuộc thi giảng viên giỏi giữa các TCT - hành chính tỉnh ở Lào. - Vilay Philavong, Giáo dục pháp luật cho công chức hành chinh ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay, [196]. Tác giả cho rằng: công chức hành chính là người đại diện cho Đảng và Nhà nước thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể trong quan hệ với nhân dân. Công chức hành chính là đối tượng giáo đục pháp luật đặc biệt, bởi vì họ vừa là đối tượng giáo dục, vừa là chủ thể giáo dục. Vì thế, cần coi trọng công tác giáo dục pháp luật cho công chức hành chính nhằm đạt ba mục tiêu như: về nhận thức, về thái độ tình cảm, về hành vi. Luận án chỉ ra những hạn chế, yếu kém của công tác nêu trên: một là, chủ thể giáo dục pháp luật chưa được quan tâm, vừa thiếu vừa yếu; hai là, công chức hành chính chưa nhận thức đầy đủ, đúng mức về việc trang bị cho mình những kiến thức hiểu biết pháp luật, chưa có ý chí tự phấn đấu, thái độ học tập chưa nghiêm túc, tinh thần trách nhiệm chưa cao; ba là, nội dung chương trình giáo dục pháp luật chưa đáp ứng được yêu câu thực tiễn, việc thể chế hóa pháp luật còn chậm, quy định không rõ ràng, chồng chéo mang tính đơn lẽ, manh mún chậm đổi mới; bốn là, công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật chưa đồng bộ, thiếu sự phối hợp trao đổi kinh nghiệm, phương pháp chưa khoa học. Để bảo đảm được chất lượng giáo dục pháp luật cho công chức hành chính ở nước Lào hiện nay, tác giả đưa ra 9 giải pháp giải pháp: một là, tăng cường trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền về công tác giáo dục pháp luật cho công chức hành chính; hai là, tăng cường công lác ĐT, BD pháp luật cho công chức hành chính; ba là, đổi mới, hoàn thiện, nội dung, chương trình giáo dục pháp luật cho công chức
  • 18. 13 hành chính; bốn là, đa dạng hóa hình thức giáo dục pháp luật cho công chức hành chính; năm là, tăng cường giáo dục pháp luật cho công chức hành chính ở Lào kết hợp với các hình thức giáo dục khác; sáu là, nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đội ngũ giảng viên, báo cáo viên trong giáo dục pháp luật cho công chức hành chính; bảy là, phối hợp giữa hệ thống các cơ quan Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa - Thông tin và truyền thông, Đài Truyền hình, Đài Phát thanh xây dựng hệ thống tư liệu thông tin, tạo điều kiện cho công chức hành chính tiếp cận với pháp luật một cách kịp thời, chinh xác; tám là, bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện, tài chính và thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm về giáo dục pháp luật đối với công chức hành chính; chín là, tăng cường công tác quan hệ quốc tế trong việc giáo dục pháp luật cho công chức hành chính. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC 1.2.1. Những nghiên cứu về hệ thống chính trị và cán bộ, công chức cấp xã - Huỳnh Văn Long, Xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân huyện ở đồng bằng sông Cửu Long ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, [118]. Luận án phân tích thực trạng đánh giá đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân (UBND) huyện vùng ĐBSCL từ năm 1996 đến năm 2003. Trong đó, tác giả khẳng định: trên cơ sở đổi mới quan điểm đánh giá đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch UBND huyện, các tỉnh ủy ở vùng ĐBSCL đã đánh giá đội ngũ này không đơn thuần căn cứ vào quá trình công tác, học vị, lý lịch, thành phần xuất thân, vị thế xã hội, mà chủ yếu căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, vào hiệu quả thực hiện nhiệm vụ được giao, đồng thời còn căn cứ vào mức độ tín nhiệm của nhân dân. Các ban tổ chức tỉnh ủy đã phối hợp chặt chẽ với các cấp ủy ở cơ sở nơi cán bộ sinh hoạt và bản thân từng đồng chí tự đánh giá. Các cấp ủy lãnh đạo chặt chẽ, nghiêm túc quy chế đánh giá, bảo đảm chế độ tự phê bình và phê bình, nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, kết luận rõ ràng theo đa số. Luận án đã trình bày tiêu chuẩn chức danh bí thư huyện ủy, chủ tịch UBND huyện trong thời kỳ mới. Luận án nhấn mạnh một số tiêu chuẩn về bản lĩnh chính trị qua lời nói và việc làm cụ thể trên cương vị đứng đầu huyện ủy và UBND huyện; kiên định đường lối đổi mới theo đúng mục tiêu đã định và thể hiện gương mẫu bằng hành động cụ thể của bản thân, gia đình, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Trung ương và của tỉnh trên địa bàn huyện; có ý chí, quyết tâm và năng lực làm giàu cho huyện, biến ý chí đó thành ý chí
  • 19. 14 của đảng bộ và nhân dân huyện; có tầm nhận thức sâu sắc đối với những diễn biến chính trị, có tinh thần cảnh giác cao, nhanh nhạy giải quyết mọi tình huống chính trị... Luận án khẳng định và đề xuất những vấn đề có tính nguyên tắc và quy trình xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch UBND huyện ở ĐBSCL. - Nguyễn Thái Hòa (Chủ nhiệm), Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer ở cơ sở xã, phường, thị trấn khu vực Tây Nam bộ, [89]. Đề tài nhận định: trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền, cần tiếp tục nâng cao về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ dân tộc người Khmer, nhất là cán bộ đang công tác ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Mặt khác, mở cửa, hội nhập quốc tế, sự chống phá của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo kích động ly khai… cũng tác động đến đồng bào và đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer ở vùng đất Tây Nam bộ. Vì vậy, bảo đảm sự ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội để phát triển, chăm lo xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ cơ sở là một trong những công việc rất cấp thiết. Đề tài tập trung phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer trong HTCT ở cơ sở xã hiện nay, qua đó chỉ ra được điểm mạnh, điểm yếu, nguyên nhân và bài học từ thực tiễn; từ đó, xây dựng mô hình cán bộ người dân tộc Khmer phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra; đề ra phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ này theo tiêu chuẩn của từng chức danh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đó ở Tây Nam Bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở từng địa phương trong giai đoạn mới. - Hội thảo khoa học, Hệ thống chính trị cấp cơ sở các tỉnh, thành khu vực Tây Nam bộ - thực trạng và giải pháp, [92]. Hội thảo đã đề cập tổng quát về HTCT cấp cơ sở các tỉnh, thành phố khu vực Tây Nam bộ và những giải pháp khả thi để nâng cao chất lượng của HTCT cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, trong đó có công tác ĐT, BD đội ngũ cán bộ ở cơ sở. - Nguyễn Huy Kiệm, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cơ sở vùng đồng bằng sông Cửu Long, [114]. Sau khi thống kê những có số tác giả đi đến đánh giá: hiện nay đội ngũ CB, CC xã, phường, thị trấn ở các tỉnh, thành phố trong vùng ĐBSCL nhìn chung còn yếu kém, bất cập về nhiều mặt, phần lớn chưa được đào tạo một cách bài bản, chính quy về chuyên môn, nghiệp vụ, tỷ lệ đạt chuẩn còn thấp so với yêu cầu. Năng lực quản lý điều hành chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Nhận thức trong đội ngũ CB, CC
  • 20. 15 không đồng đều... Bên cạnh sự thiếu hụt, bất cập về số lượng và yếu kém về chất lượng, việc xây dựng quy hoạch ĐT, BD CB, CC chưa được các địa phương trong vùng quan tâm chỉ đạo một cách thỏa đáng. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém nêu trên, để nâng cao chất lượng đội ngũ CB, CC cơ sở nhằm đáp ứng với tình hình, nhiệm vụ phát triển KT-XH của vùng, tác giả đã đưa ra 7 giải pháp tập trung vào công tác ĐT, BD CB, CC cơ sở. - Bùi Công Tường, Mấy suy nghĩ và kiến nghị về đội ngũ cán bộ cơ sở, [167]. Tác giả đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém của đội ngũ cán bộ cơ sở và nhu cầu cần có bước “đột phá” trong việc ĐT, BD nâng cao năng lực cho đội ngũ này. Những nội dung bài báo có thể tham khảo, vận dụng, kế thừa: những kiến nghị của tác giả về đẩy mạnh ĐT, BD đội ngũ cán bộ cơ sở thông qua việc mở các khóa huấn luyện ngắn ngày theo từng chuyên đề, từng nghiệp vụ cụ thể, đồng thời cung cấp sách “cẩm nang” về các mặt công tác đảng và quản lý nhà nước (QLNN) cho cán bộ cơ sở. - Đinh Ngọc Giang, Chuẩn hóa chủ tịch ủy ban nhân dân xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay, [77]. Tác giả đưa ra quan điểm: chuẩn hóa chủ tịch UBND xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng là tổng thể các hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp ủy, các tổ chức trong HTCT từ tỉnh đến cơ sở xã và các cơ quan có liên quan trong việc cụ thể hóa tiêu chuẩn chủ tịch UBND xã và tiến hành những công việc cần thiết để những chủ tịch UBND xã chưa đạt tiêu chuẩn và những cán bộ trong quy hoạch chủ tịch UBND xã đạt tiêu chuẩn đã đề ra, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chuẩn hóa chủ tịch UBND xã là một bộ phận rất quan trọng của công tác cán bộ đối với chủ tịch UBND xã. Để thực hiện mạnh mẽ chuẩn hóa chủ tịch UBND xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng cần tập trung giải quyết những vấn đề chủ yếu như: phát huy mạnh mẽ trách nhiệm, tính chủ động của các cấp ủy trong thực hiện chuẩn hóa kết hợp chặt chẽ với việc tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ thực hiện quy trình chuẩn hóa và động viên họ tự chuẩn hóa; hạn chế những tác động tiêu cực của quan hệ huyết thống, truyền thống làng xã và tâm lý truyền thống cho rằng chủ tịch UBND xã phải là người của xã đó, để luân chuyển mạnh mẽ, thực hiện có hiệu quả chuẩn hóa về năng lực tổ chức thực tiễn đối với những cán bộ trong quy hoạch chủ tịch UBND xã; nâng cao chất lượng hoạt động của các TCT tỉnh, các cơ sở ĐT, BD cán bộ.
  • 21. 16 - Hồ Ngọc Trường, Xây dựng phong cách chủ tịch ủy ban nhân dân xã ở đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay, [163]. Tác giả đã nêu lên khái niệm xây dựng phong cách chủ tịch UBND xã ở ĐBSCL là toàn bộ hoạt động của ban thường vụ cấp ủy cấp ủy, các tổ chức, lực lượng có liên quan và của bản thân từng chủ tịch UBND xã về ĐT, BD, giáo dục, quản lý, kiểm tra, giám sát việc hình thành, phát triển phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong cách sinh hoạt của chủ tịch UBND xã ở ĐBSCL giai đoạn hiện nay, đảm bảo cho chủ tịch UBND xã thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Tác giả cũng đã chỉ ra 5 kinh nghiệm về xây dựng phong cách chủ tịch UBND xã ở ĐBSCL, trong đó có kinh nghiệm: đẩy mạnh công tác đào tạo, đào tạo lại chủ tịch UBND xã và thường xuyên bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho chủ tịch UBND xã; tăng cường quản lý quá trình tự học, tự rèn luyện của chủ tịch UBND xã. Từ đó tác giã đã đề xuất những giải pháp quan trọng xây dựng phong cách chủ tịch UBND xã ở ĐBSCL, trong đó giải pháp hàng đầu, mang tính chất chi phối toàn bộ là: tạo bước chuyển biến căn bản về tạo nguồn, công tác quy hoạch, để có nguồn nhân lực và tố chất mới xây dựng phong cách chủ tịch UBND xã trong giai đoạn hiện nay. - Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, [165]. Cuốn sách gồm 03 chương, đi sâu phân tích tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ; quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ. Trên cơ sở phân tích các nội dung này, cuốn sách đề cập việc tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ, nhấn mạnh việc tập trung thực hiện có chất lượng, hiệu quả từng khâu, sự đổi mới mang tính đột phá, tạo bước chuyển căn bản về công tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay: xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; cán bộ; chính sách đãi ngộ cán bộ. Đồng thời, cuốn sách đề cập việc nghiên cứu khoa học, xây dựng tổ chức và con người làm công tác tổ chức, cán bộ với việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học tổ chức, công tác tổ chức và con người làm công tác tổ chức, cán bộ của Đảng giai đoạn hiện nay. Cuốn sách đề cập khá sâu sắc phương pháp, cách thức tiến hành các khâu trong công tác cán bộ, đây là tài liệu tham khảo tốt để tác giả luận án nghiên cứu thực hiện đề tài. - Phạm Phi Hùng (Chủ nhiệm), Cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở thành phố Cần Thơ - thực trạng và giải pháp, [107]. Đề tài đã khảo sát,
  • 22. 17 điều tra, phân tích, tổng hợp thực trạng cán bộ chủ chốt của HTCT cơ sở xã, phường, thị trấn thành phố Cần Thơ, cụ thể hóa được tiêu chuẩn các chức danh bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND, chủ tịch ủy ban MTTQ và người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở, đồng thời đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt của HTCT cơ sở. 1.2.2. Những công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Hoàng Ngọc Hòa, Công tác giáo dục đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học ở các trường đảng Trung Quốc [88]. Tác giả đã nghiên cứu về công tác giáo dục, đào tạo cán bộ tại trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và một số trường đảng tỉnh, thành phố, trong đó nhấn mạnh: mục đích thực tiễn của công tác giáo dục, đào tạo được xác định ngay trong nội dung, chương trình sát hợp với đối tượng học viên của từng loại lớp, đảm bảo sự nhất quán trong các khâu: từ biên soạn giáo án đến tổ chức giảng dạy - học tập - nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, vận dụng lý luận vào thực tiễn, bố trí, sử dụng cán bộ; nội dung giáo dục, đào tạo luôn đổi mới, bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị và thực tiễn phát triển của công cuộc cải cách, mở cửa đã thúc đẩy nghiên cứu khoa học phát triển. - Trần Ngọc Uẩn (chủ nhiệm), Phương thức đào tạo cán bộ ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trong thời kỳ mới, [168]. Đề tài đã tập trung phân tích những phương thức đã và đang được áp dụng trong việc đào tạo cán bộ ở các TCT tỉnh, thành phố ở nước ta hiện nay, bao gồm đào tạo tập trung và đào tạo tại chức; đồng thời xác định những ưu điểm và hạn chế trong từng phương thức đào tạo này. Trên cơ sở những phân tích đó, đề tài đề xuất các phương hướng và giải pháp chủ yếu khắc phục những hạn chế trong công tác đào tạo cán bộ ở các trường chính trị tỉnh, thành phố. - Nguyễn Hữu Cát, Mai Hoàng Anh, Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị chủ chốt trong hệ thống trường đảng ở Trung Quốc hiện nay [41]. Bài viết đã xác định: chấn hưng đất nước bằng khoa giáo, trong đó hệ thống trường đảng đóng vai trò chủ chốt. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có nghị quyết về tăng cường và cải tiến công tác trường đảng, tạo nên bước đột phá mới trong công tác giáo dục - đào tạo cả về nội dung và hình thức, trong đó đề cập nội dung về đào tạo đội ngũ làm công tác lý luận, giáo dục chủ nghĩa Mác chất lượng cao.
  • 23. 18 - Lê Hanh Thông, Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ (qua khảo sát một số trường chính trị trong khu vực), [149]. Luận án đã đi sâu phân tích vai trò và những nét đặc thù của giáo dục LLCT đối với cán bộ chủ chốt cấp xã ở các tỉnh khu vực Nam bộ hiện nay. Tác giả đã đề xuất những giải pháp tập trung đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục LLCT đối với các TCT tỉnh khu vực Nam bộ trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. - Trần Hậu Thành (chủ nhiệm), Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (qua khảo sát ở một số tỉnh, thành phố phía Bắc nước ta, [144]. Đề tài đi sâu tìm hiểu những động lực của ĐT, BD LLCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã qua việc khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng, nhu cầu ĐT, BD LLCT của đội ngũ cán bộ này. Trên cơ sở những phân tích đó, đề tài đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu ĐT, BD LLCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã ở nước ta hiện nay. - Huỳnh Thanh Quang, Đào tạo cán bộ người dân tộc Khmer ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, [132]. Theo tác giả, vừa qua công tác đào tạo cán bộ người Khmer ở các tỉnh ĐBSCL còn mang tính chắp vá, hiệu quả chưa cao. Do đó, tỷ lệ cán bộ là người dân tộc Khmer, nhất là trong cấp ủy các cấp, chưa đạt theo quy định. Tác giả đưa ra một số giải pháp chủ yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc Khmer ở các tỉnh ĐBSCL, trong đó đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ người dân tộc Khmer ở các tỉnh ĐBSCL, coi trọng công tác tạo nguồn cán bộ là người dân tộc; có chính sách ưu đãi đối với cán bộ là người dân tộc Khmer. - Cầm Thị Lai, Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị - hành chính cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc giai đoạn hiện nay, [117]. Tác giả khẳng định: ĐT, BD lý luận chính trị - hành chính (LLCT - HC) cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay là quá trình trang bị kiến thức cơ bản và cập nhật, bổ sung những kiến thức mới về LLCT - HC cho những cán bộ này, nhằm nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành và thực thi công vụ, hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã chuyên nghiệp, có phẩm chất và năng lực đáp ứng tốt yêu cầu phát triển KT-XH của địa phương. Từ đó, tác giả rút ra bốn kinh nghiệm và đề cập hai giải pháp quan trọng đẩy mạnh ĐT, BD LLCT, HC cho đội ngũ CBCX ở các tỉnh Tây Bắc đến năm
  • 24. 19 2020: một là, có chủ trương, chính sách và tạo môi trường thuận lợi cho công tác ĐT, BD cho cán bộ ở các tỉnh Tây Bắc, gồm: bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác ĐT, BD cán bộ chuyên trách cấp xã; nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên ở các TCT tỉnh; thực hiện đồng bộ các chế độ, chính sách đối với đội ngũ CBCX; hai là, đề cao việc tự ĐT, BD, rèn luyện của mỗi CB, CC cấp xã gồm: đẩy mạnh phong trào tự học tập nâng cao trình độ, năng lực và rèn luyện đạo đức cách mạng trong đội ngũ CB, CC cấp xã; phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên về tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện gắn với cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. - Lê Công Quyền, Nên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo nhu cầu công tác, [137]. Tác giả đã chỉ ra những hạn chế về công tác ĐT, BD CB, CC như: nội dung, chương trình, hình thức và phương pháp ĐT, BD còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn lãnh đạo, quản lý, nhất là trong lĩnh vực QLNN. Một số chương trình ĐT, BD còn nặng về lý luận, dàn trải, thiếu sự liên thông, kế thừa, còn trùng lặp về nội dung, thiếu tính thiết thực, chưa đi sâu vào rèn luyện kỹ năng, nghiệp vụ công tác cho CB, CC… Chính việc ĐT, BD với những nội dung, chương trình không sát hợp đã phát sinh lãng phí, kém hiệu quả, người học không hứng thú, vì nội dung không đáp ứng nhu cầu công việc. Mặc dù đã được ĐT, BD, một số CB, CC vẫn còn lúng túng trong việc thực hiện nhiệm vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành, giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Những nội dung có thể tham khảo, vận dụng, kế thừa: những hạn chế, yếu kém trong công tác ĐT, BD cán bộ gây ra nhưng hậu quả rất nghiêm trọng trong sử dụng, đánh giá cán bộ; chất lượng cán bộ không đúng với bằng cấp yêu cầu của ĐT, BD. Giải pháp đưa ra là ĐT, BD CB, CC cần phải xuất phát và gắn liền với nhu cầu công tác của CB, CC nhằm khắc phục sự lãng phí, kém hiệu quả. - Vĩnh Trọng, Sóc Trăng quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ người dân tộc Khmer, [160]. Bài viết phản ánh, là tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer, nên công tác củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT cơ sở nơi có đông đồng bào dân tộc, nhất là việc xây dựng lực lượng cốt cán trong đồng bào dân tộc, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên là người dân tộc Khmer, luôn được cấp ủy các cấp của tỉnh Sóc Trăng quan tâm. Theo tác giả, việc đào tạo cán bộ người dân tộc Khmer cũng gặp không ít khó khăn. Tác giả đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng ĐT, BD cán bộ là
  • 25. 20 người dân tộc Khmer, trong đó tập trung quan tâm xây dựng lực lượng cốt cán, thực hiện tốt công tác quy hoạch, ĐT, BD, sử dụng cán bộ người dân tộc Khmer là nhân tố quyết định trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc, công tác tôn giáo. - Phạm Huy Kỳ (chủ biên), Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị, [116]. Tác giả trình bày một số vấn đề lý luận chung về nghiên cứu, giáo dục LLCT và phương pháp nghiên cứu, giáo dục LLCT. Cuốn sách nhấn mạnh vai trò của phương pháp giảng dạy LLCT mà người giảng viên LLCT cần quan tâm nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục LLCT của Đảng. Những yêu cầu, các nguyên tắc và phương pháp giáo dục LLCT đề cập trong cuốn sách cho tác giả nhiều gợi ý đối với xây dựng đội ngũ giảng viên LLCT ở các TCT. - Trần Thị Anh Đào (chủ biên), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác tư tưởng, [58]. Cuốn sách đã làm rõ một số nội dung, khái niệm liên quan đến công tác tư tưởng; những yếu tố tác động đến công tác tư tưởng cũng như giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng hiện nay. Đặc biệt, công trình đã đề cập đến vấn đề nâng cao phẩm chất và năng lực cán bộ làm công tác tư tưởng. - Phạm Thị Hạnh, Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay, [84]. Trên cơ sở làm rõ bản chất, đặc trưng, tầm quan trọng của việc nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở và từ thực trạng trình độ LLCT cũng như công tác đào tạo nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ này, tác giả đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, trong đó nhấn mạnh giải pháp rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức cho đội ngũ giảng viên và chú trọng chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục LLCT, từng bước đổi mới, hiện đại hóa cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục LLCT. - Trần Ngọc Hiên, Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị - những vấn đề cần đổi mới, [85]. Tác giả đã chỉ ra những tiêu chí hợp thành chất lượng đào tạo LLCT phù hợp: một là, chất lượng LLCT làm cơ sở cho việc soạn giáo trình giảng dạy; hai là, chất lượng của học viên được đào tạo thành giảng viên LLCT; ba là, chất lượng của hoạt động quản lý đào tạo giảng viên LLCT nhằm tạo ra môi trường chủ động,
  • 26. 21 sáng tạo, tự giác của những người học và người dạy, cũng như đánh giá chất lượng đào tạo để kịp thời nâng cao kết quả đào tạo. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh: chất lượng các thày, cô giáo tham gia đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến công tác đào tạo LLCT. - Đinh Ngọc Giang, Vũ Khánh Hoàn, Công tác tuyển dụng, đào tạo cán bộ, công chức, viên chức hiện nay, [78]. Bài viết đánh giá thực trạng công tác tuyển dụng và đào tạo CB, CC, viên chức Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp đào tạo CB, CC, viên chức. - Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia của Đại học Sư phạm Hà Nội, Nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị trong xu thế toàn cầu hóa, [60]. Kỷ yếu kết cấu gồm ba phần. Phần một, nghiên cứu và giảng dạy các môn LLCT hiện nay: thực trạng và giải pháp. Các tác giả đã đánh giá những ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong giảng dạy LLCT ở các trường cao đẳng, đại học hiện nay, đồng thời đề ra những giải pháp thiết thực nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy LLCT gắn với Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Phần hai, nghiên cứu và giảng dạy các môn LLCT hiện nay - những vấn đề phương pháp. Trong phần này các nhà khoa học đã đi sâu bàn về các phương pháp nhằm đạt hiệu quả nhất trong giảng dạy LLCT trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Phần ba, nghiên cứu và giảng dạy các môn LLCT hiện nay - những vấn đề đào tạo giảng viên. Trong phần này, các tác giả đã đưa ra những ý kiến thiết thực bàn về vị trí, vai trò của giảng viên LLCT, những yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo giảng viên, xây dựng nội dung, chương trình đào tạo giáo viên, phát triển năng lực của giảng viên theo xu thế mới hiện nay. - Lương Ngọc Vĩnh, Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ tư tưởng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, [197]. Tác giả đã gợi mở một số giải pháp khắc phục những hạn chế về chất lượng đào tạo cán bộ tư tưởng: một là, định hướng mục tiêu đào tạo sang coi trọng việc phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực nghề nghiệp; hai là, tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo hướng tinh giản lý thuyết, tăng thực hành, phục vụ mục tiêu bồi dưỡng phẩm chất và kỹ năng nghề nghiệp cho người học, ba là, ứng dụng mạnh mẽ phương pháp dạy học mới vào quá trình đào tạo, bốn là, kiện toàn đội ngũ giảng viên đủ về số lượng và mạnh về chất lượng, năm là, tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường và cơ quan tuyên giáo các cấp trong đào tạo cán bộ tuyên giáo.
  • 27. 22 1.2.3. Những công trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hiện nay - Huỳnh Minh Đoàn, Phương hướng xây dựng trường chính trị tỉnh ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ mới, [74]. Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của TCT tỉnh Đồng Tháp trong ĐT, BD LLCT cho đội ngũ cán bộ của tỉnh, từ đó đặt ra yêu cầu cần xây dựng TCT tỉnh Đồng Tháp xứng đáng hơn với chức trách và nhiệm vụ được giao. Tác giả chỉ ra những nội dung cần quan tâm: cần có quyết tâm mới, trách nhiệm mới để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, xứng đáng vị thế của TCT. Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn góp phần phát triển lý luận, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tập trung xây dựng trường, lớp khang trang, kiểu mẫu, xây dựng môi trường sư phạm chuẩn mực, tiêu biểu. - Nguyễn Thế Vịnh, Đinh Ngọc Giang (đồng chủ biên), Tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cơ sở, [198]. Cuốn sách đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận về CB, CC và chế độ, chính sách đối với CB, CC cơ sở; thực trạng về chế độ, chính sách đối với CB, CC cơ sở; quan điểm, giải pháp hoàn thiện chế độ, chính sách đối với CB, CC ở cơ sở. - Lại Đức Vượng, Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính trong giai đoạn hiện nay, [200]. Luận án đã hoàn thiện khái niệm công chức hành chính và các khái niệm liên quan tới nội dung, phương pháp QLNN về ĐT, BD công chức hành chính. Luận án cũng đã tập trung phân tích có hệ thống về sự hình thành và phát triển công tác ĐT, BD công chức hành chính và đánh giá thực trạng QLNN về ĐT, BD công chức hành chính, qua phân tích đã hình thành hệ thống số liệu để các nhà lãnh đạo và CB, CC quản lý ĐT, BD hoạch định cơ chế, chính sách và triển khai thực hiện các nội dung QLNN về ĐT, BD công chức hành chính. Tác giả đã đề ra những nguyên tắc, giải pháp đồng bộ để nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về ĐT, BD công chức hành chính đáp ứng yêu cầu quản lý công trong tình hình mới. - Nguyễn Văn Đệ, Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học, [73]. Trên cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ giảng viên và phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học ở vùng ĐBSCL tác giả đã đề ra 5 nhóm giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên của các trường đại học ở vùng ĐBSCL đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục như:
  • 28. 23 một là, liên kết đội ngũ giảng viên giữa các trường đại học ở vùng ĐBSCL tạo thành mạng lưới; hai là, phát triển số lượng đội ngũ giảng viên; ba là, nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ giảng viên; bốn là, điều chỉnh cơ cấu đội ngũ giảng viên; năm là, tạo động lực làm việc cho đội ngũ giảng viên. - Trần Minh Tuấn (chủ nhiệm), Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, [166]. Đề tài đã tập trung giải quyết các vấn đề: luận giải yêu cầu cấp thiết hiện nay về ĐT, BD cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh; công tác ĐT, BD cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện từ 2005 đến nay - thực trạng và những vấn đề đặt ra; quan điểm và những giải pháp nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện. Một số giải pháp cần chú ý: xác định đối tượng và mục tiêu đào tạo; đổi mới chương trình đào tạo theo mục tiêu và quan điểm đã xác định, phục vụ nhiệm vụ chính trị của Học viện và đáp ứng được yêu cầu phát triển của thực tiễn; trong tổng thể chương trình ĐT, BD phải phân định rõ các chương trình đào tạo và các chương trình bồi dưỡng; mỗi chương trình ĐT, BD phải hướng tới một loại đối tượng xác định, phải hướng tới từng chức danh đào tạo nhất định; chương trình ĐT, BD phải đa dạng, mang tính “mềm”; chương trình ĐT, BD phải tiến tới theo nhu cầu của người học và sát với từng chức danh đào tạo. Nội dung ĐT, BD cán bộ tại Học viện phải gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành; hạn chế đến mức thấp nhất sự trùng lắp kiến thức không cần thiết giữa các chức danh, các hệ lớp; phù hợp và góp phần thúc đẩy việc áp dụng phương pháp dạy và học tích cực; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Cần tăng cường và nâng cao chất lượng mời giảng viên, báo cáo viên kiêm chức; đổi mới quá trình dạy và học theo hướng tích cực, lấy người học làm trung tâm, nâng cao hiệu quả ĐT, BD; hiện đại hóa công tác quản lý ĐT, BD; nâng cao chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ quá trình dạy - học; thường xuyên tiến hành công tác khảo sát, đánh giá chương trình đào tạo và hiệu quả sau đào tạo. - Lê Đình Lý, Chính sách tạo động lực cho cán bộ, công chức cấp xã (nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Nghệ An), [121]. Tác giả đã chỉ rõ những hạn chế của một số chính sách hiện hành chưa tạo động lực cho CB, CC cấp xã. Cụ thể: một là, chính sách bố trí, sử dụng, chưa phát huy tốt năng lực, sở trường của từng CB, CC; hai là, chính sách đánh giá cán bộ chưa chú trọng đúng mức thành tích, kết quả công tác và mức độ hoàn thành
  • 29. 24 nhiệm vụ của CB, CC; ba là, chính sách đào tạo và phát triển, chưa tạo được nhiều cơ hội cho CB, CC cấp xã được đào tạo và phát triển; bốn là, chính sách khen thưởng, chưa căn cứ nhiều vào kết quả và thành tích công tác của CB, CC; năm là, chính sách tiền lương chưa căn cứ vào khối lượng và chất lượng công việc thực hiện của CB, CC, mức lương thấp; sáu là, điều kiện, môi trường làm việc chưa được quan tâm đúng mức. Những hạn chế, bất cập của các chính sách nêu trên chính là nguyên nhân không tạo đông lực làm việc cho CB, CC cấp xã. Một trong những giải pháp mà tác giả tập trung để tạo động lực cho CB, CC cấp xã là phải chú trọng chính sách đào tạo và phát triển cán bộ. - Đỗ Thị Ngọc Oanh, Quản lý bồi dưỡng nghiệp vụ hành chính cho cán bộ chính quyền cấp xã trong bối cảnh hiện nay, [131]. Luận án đã xác định rõ được các nội dung của quản lý bồi dưỡng nghiệp vụ hành chính cho cán bộ chính quyền cấp xã theo quan điểm tăng cường năng lực thực hiện trong tình hình mới. Tác giả cũng chỉ ra những yêu cầu khách quan phải đổi mới quản lý bồi dưỡng nghiệp vụ hành chính cho chính quyền cấp xã. Luận án đánh giá thực trạng các nội dung quản lý bồi dưỡng nghiệp vụ hành chính cho cán bộ chính quyền cấp xã, chỉ rõ những nguyên nhân của sự yếu kém, từ đó đề xuất những giải pháp quản lý bồi dưỡng nghiệp vụ hành chính cho cán bộ chính quyền cấp xã trong bối cảnh hiện nay theo quan điểm tăng cường năng lực thực hiện. - Phan Thị Thúy Vân, Thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị phường ở khu vực Tây Nam bộ giai đoạn hiện nay, [192]. Tác giả đề xuất,để thực hiện tốt chính sách cán bộ đối với cán bộ chủ chốt của HTCT phường ở khu vực Tây Nam bộ đến năm 2020 cần thực hiện những giải pháp: nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hóa chính sách cán bộ của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ chủ chốt của HTCT phường ở khu vực Tây Nam bộ; vận dụng phù hợp ba nội dung cơ bản của chính sách cán bộ đối với cán bộ chủ chốt của HTCT phường khu vực Tây Nam bộ để giải quyết những vấn đề bức xúc, cụ thể trong thực tiễn công tác cán bộ; phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, tăng cường sự phối hợp giữa các tỉnh, thành phố trong khu vực, đảm bảo sự thống nhất trong quá trình thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ chủ chốt của HTCT phường ở các địa phương. - Nguyễn Văn Biết, Vượt qua thách thức, trở ngại đối với giảng viên trường chính trị, [20]. Tác giả đã chỉ ra một số khó khăn mà giảng viên TCT phải khắc phục để
  • 30. 25 vượt qua trước xu thế phát triển hiện nay như: công tác lý luận chưa theo kịp thực tiễn cuộc sống, sự vô hạn của tri thức trong thời đại bùng nổ thông tin, những giới hạn của chính giảng viên và những bất cập của môi trường làm việc. - Đỗ Minh Cương, Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, [55]. Tác giả đánh giá thực trạng công tác ĐT, BD LLCT trong hệ thống trường đảng, từ đó đề ra giải pháp đổi mới giáo dục LLCT: một là, đổi mới nhận thức về vị trí, tác dụng của LLCT và mục tiêu công tác đào tạo LLCT; hai là, cần nghiên cứu, so sánh, xây dựng lại chương trình đào tạo cao cấp LLCT trong bối cảnh, điều kiện mới để thực hiện có hiệu quả hơn; ba là, đổi mới cơ chế quản lý hoạt động ĐT, BD LLCT theo nguyên tắc chủ thể quản lý vĩ mô độc lập với chủ thể quản trị cơ sở đào tạo và chức năng quản lý thống nhất các nhiệm vụ, chương trình đào tạo; bốn là, đổi mới phương thức ĐT, BD theo nguyên tắc lấy người học làm trung tâm, trọng tâm của hoạt động dạy là phát triển khả năng tự học và giải quyết vấn đề của người học; thực hiện kiểm định chất lượng độc lập các chương trình đào tạo. - Hội thảo khoa học quốc gia, Nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay, [18] với gần 100 bài tham luận của các nhà khoa học ở Việt Nam chuyên nghiên cứu về vấn đề này. Hội thảo đã tập trung vào các vấn đề: một là, vị trí, vai trò, phẩm chất và năng lực của đội ngũ giảng viên: các tác giả đã làm rõ vị trí, vai trò, nhu cầu về đội ngũ giảng viên LLCT ở các cơ sở đào tạo hiện nay, từ đó làm rõ những yêu cầu về phẩm chất và năng lực đặc thù của giảng viên LLCT, những tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo giảng viên, các nhân tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo giảng viên LLCT hiện nay; hai là, thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với công tác ĐT, BD giảng viên LLCT hiện nay. Các bài viết về vấn đề này đã đi sâu đánh giá thực trạng mọi mặt về hoạt động ĐT, BD giảng viên LLCT, những hạn chế, bất cập trong nội dung, chương trình ĐT, BD, phương pháp giảng dạy, phương thức tổ chức và quản lý cơ sở vật chất phục vụ ĐT, BD… ở các trường cao đẳng, đại học, TCT tỉnh, thành phố hiện nay; ba là, những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ĐT, BD giảng viên LLCT hiện nay. Các tham luận đã bàn kỹ về quan điểm, chủ trương, cơ chế, chính sách đối với đội ngũ giảng viên LLCT, về phẩm chất cần có và những giải pháp thực hiện đào tạo đội ngũ giảng viên thật sự có đủ phẩm chất và năng lực, đổi mới các nội dung liên quan đến công tác ĐT, BD giảng viên LLCT hiện nay.
  • 31. 26 1.3. TỔNG QUAN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu các công trình có liên quan đề tài Một là, về HTCT, đội ngũ cán bộ cơ sở. Đây là vấn đề được nhiều tác giả, nhà khoa học nghiên cứu. Những công trình đã làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn về củng cố, xây dựng hệ HTCT ở cơ sở, về xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở. Các công trình đã nêu khái niệm HTCT, về cán bộ cơ sở, vai trò và tầm quan trọng của củng cố, xây dựng HTCT, về tạo nguồn cán bộ cơ sở; củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; kinh nghiệm trong xây dựng củng cố đội ngũ cán bộ cơ sở. Ha là, về quan điểm, chủ trương, chính sách ĐT, BD cán bộ. Nhiều công trình đã hệ thống hóa những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về ĐT, BD cán bộ trong thời kỳ đổi mới, chỉ ra được sự vận dụng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác ĐT, BD cán bộ gắn liền với từng vùng, từng địa phương; xác định rõ sự cần thiết phải tăng cường công tác ĐT, BD cho đội ngũ CB, CC ở cơ sở; thực hiện sự gắn kết giữa công tác ĐT, BD với công tác quy hoạch và sử dụng từng loại CB, CC cơ sở; xây dựng cơ sở pháp lý về ĐT, BD CB, CC của HTCT cấp xã. Ba là, về chủ thể, chương trình, nội dung, hình thức, điều kiện cơ sở vật chất cho công tác ĐT, BD. Các công trình nghiên cứu đã cho thấy: các cơ sở ĐT, BD cán bộ cơ sở chủ yếu là TCT, các trường cao đẳng, đại học, các học viện trong và ngoài khu vực. Các chương trình tùy từng đối tượng, loại hình đào tạo có nội dung phù hợp. Nội dung ĐT, BD CB, CC chính quyền cấp xã gồm: nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý công tác ĐT, BD; đổi mới nội dung, chương trình ĐT, BD; tiếp tục sắp xếp và kiện toàn hệ thống các cơ sở ĐT, BD, hình thành một mạng lưới ĐT, BD CB, CC chính quyền cấp xã thống nhất, ổn định; xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Bốn là, những kinh nghiệm trong công tác ĐT, BD cán bộ. Các trình khoa học trong và ngoài nước, các sách, tạp chí đã đề cập rất nhiều kinh nghiệm trong công tác ĐT, BD cán bộ. Kinh nghiệm của nước ngoài bao gồm kinh nghiệm ĐT, BD theo chức danh; vấn đề ĐT, BD cán bộ, tiến cử, lựa chọn, bổ nhiệm, sử dụng và nhận xét, đánh giá và quản lý cán bộ hiện nay ở Trung Quốc; kinh
  • 32. 27 nghiệm ĐT, BD cán bộ ở CHDCND Lào. Kinh nghiệm ĐT, BD cán bộ trong nước được đề cập gồm: bám sát mục tiêu, đối tượng đào tạo để hoàn thiện chương trình ĐT, BD, đặc biệt là ĐT, BD theo chức danh; đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tiễn phục vụ cho công tác ĐT, BD; thường xuyên tiến hành công tác khảo sát, đánh giá chương trình đào tạo và hiệu quả sau đào tạo để có những thay đổi, cải tiến phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn; tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng quản lý đào tạo. Không ngừng mở rộng quy mô ngành nghề đào tạo với nỗ lực tự thân và tăng cường khả năng hợp tác, liên kết; đa dạng hóa loại hình đào tạo, thường xuyên đổi mới hình thức và phương pháp đào tạo nhằm thích ứng với nhu cầu của thực tiễn. Năm là, những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác ĐT, BD CB, CC. Tập trung đổi mới chương trình, nội dung, hình thức ĐT, BD cán bộ cơ sở theo hướng phù hợp với từng chức danh cán bộ; công tác ĐT, BD phải gắn với quy hoạch cán bộ, kết hợp với sử dụng cán bộ và quản lý cán bộ cơ sở; ĐT, BD cán bộ phải gắn với chế độ chính sách cán bộ; xác định đúng nguồn để đưa vào quy hoạch cán bộ; thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ cơ sở; tăng cường công tác đào tạo cán bộ theo kế hoạch của các địa phương; phân công, bầu cử, bổ nhiệm cán bộ đúng năng lực, sở trường sau ĐT, BD; tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng cấp trên cơ sở trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở. Các công nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập khá nhiều vấn đề có liên quan đến công tác ĐT, BD cán bộ. Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống công tác ĐT, BD CBCX. Vấn đề đó đặt ra cho tác giả là cùng với việc kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các công trình trên, phải kết hợp với việc nghiên cứu có hệ thống những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về ĐT, BD CBCX, đồng thời qua khảo sát thực tế, nghiên cứu thực tiễn công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL để thực hiện tốt đề tài “công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay”. 1.3.2. Những vấn đề cần tập trung nghiên cứu Một là, nghiên cứu có hệ thống những luận cứ khoa học, những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cấp Trung ương, chủ trương của các cấp ủy đảng, chính quyền ở ĐBCSL về công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
  • 33. 28 Hai là, nghiên cứu các khái niệm, vị trí, vai trò của CBCX, của công tác ĐT, BD CBCX. Trong đó, tập trung hệ thống hóa chương trình, nội dung, hình thức ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. Ba là, chỉ ra đặc điểm của cấp xã ở ĐBSCL, đánh giá đúng thực trạng công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL, phân tích nguyên nhân và rút ra các kinh nghiệm về công tác này. Bốn là, chỉ ra những yếu tố tác động đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL qua đó đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu góp phần tăng cường công tác ĐT, BD CBCX xã ở ĐBSCL trong thời gian tới. Những nội dung tiếp cận nghiên cứu của luận án hoàn toàn không trình lặp với các công trình nghiên cứu trước đó.
  • 34. 29 Chương 2 CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG; CÁC XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN VÀ CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 2.1.1. Khái quát về các tỉnh, thành phố ở đồng bằng sông Cửu Long 2.1.1.1. Về đặc điểm tự nhiên ĐBSCL là vùng đất nằm ở phần cuối của bán đảo Đông Dương, ở tây cực Nam của Tổ quốc và được thường gọi là miền Tây Nam bộ, gồm 12 tỉnh và 01 thành phố trực thuộc Trung ương. ĐBSCL có diện tích tự nhiên 40.816 km2 , chiếm 12,2% diện tích tự nhiên của cả nước. ĐBSCL nằm ở hạ lưu sông Mê kông, có đường bờ biển dài trên 740 km với khoảng 100 đảo lớn nhỏ, có 360.000 km² khu vực đặc quyền kinh tế. Phía Tây Bắc giáp Campuchia, phía Đông Bắc tiếp giáp thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh, phía Đông giáp biển Đông, phía Nam giáp Thái Bình Dương, phía Tây giáp vịnh Thái Lan. Đây là vị trí thuận lợi trong việc phát triển kinh tế biển, khai thác và nuôi trồng thủy sản phục vụ cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Nằm trong tiểu vùng sông Mêkông và tiếp giáp với biển, ĐBSCL ở vị trí trung tâm của khu vực ASEAN, thuận lợi cho giao thương quốc tế, trước hết là với đất liền và trên biển. Vị trí địa lý thuận lợi này cùng với sự ưu đãi của thiên nhiên đã biến BĐSCL thành vùng kinh tế nông nghiệp, vựa lúa và nông sản lớn nhất nước. ĐBSCL là một vùng đất mang đặc điểm sinh thái đặc thù, với hệ thống sông ngòi, kinh rạch chằng chịt, có tổng chiều đài khoảng 28.000 km, trong đó 13.000km có khả năng khai thác vận tải, chiếm 70% chiều dài đường thủy nội địa, tạo ra một ưu thế lớn về giao thông thủy và một ưu thế, tiềm năng trong xây dựng và phát triển các đô thị xanh, sinh thái. ĐBSCL là khu vực có nông - lâm nghiệp - thủy sản trù phú nhất trong hệ thống các vùng sinh thái của đất nước ta. ĐBSCL được xem là vùng sản xuất nông nghiệp, thủy sản lớn nhất nước, với khoảng 3,5 triệu ha chuyên canh sản xuất nông nghiệp đang được sử dụng, chiếm 35% đất nông nghiệp cả nuớc và 1.100.000 ha có khả năng
  • 35. 30 nuôi trồng thủy sản, chiếm 55% diện tích này của nước ta, nên ĐBSCL có tầm quan trọng chiến lược bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, hằng năm đóng góp khoảng 90% sản lượng gạo và trên 60% kim ngạch xuất khẩu thủysản của Việt Nam ra thị trường quốc tế. Ngoài vai trò là vựa lúa lớn nhất của nước ta, ĐBSCL còn có thế mạnh về nhiều loại nông sản khác, 70% sản lượng trái cây có giá trị xuất khẩu mang lợi nhuận kinh tế cao như các loại cây ăn quả: bưởi, cam, quít, sầu riêng, xoài, nhãn, dừa, chôm chôm, măng cụt, thanh long... Bên cạnh đó, ĐBSCL còn giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh, với 202,6 km biên giới trên bộ giáp Campuchia, vùng hải phận rộng lớn tiếp giáp nhiều nước trong khu vực, kết hợp với thành phố Hồ Chí Minh, miền Đông Nam Bộ, cực Nam Trung bộ, Nam Tây Nguyên cùng hệ thống vòng cung đảo vả quần đảo tiền tiêu như Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du, Bà Lụa, Hải Tặc, Côn Đảo, Trường Sa... tạo cho ĐBSCL có một vị trí chiến lược quốc phòng trong thế thuận lợi và trọng yếu. Với đặc điểm này, sự phát triển KT-XH ở ĐBSCL là điều kiện quan trọng đảm bảo an ninh biên giới và chủ quyền quốc gia, nâng cao tiềm lực quốc phòng, giữ vững ổn định xã hội. 2.1.1.2. Về đặc điểm kinh tế - xã hội và dân cư Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân toàn vùng giai đoạn 2006-2016 đạt 8,1%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển địch theo hướng tích cực, năm 2016 tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp trong GDP của vùng là 36,7%; công nghiệp, xây dựng 30,4%; dịch vụ 32,9%; xuất khẩu khoảng 6-7 triệu tấn gạo/năm. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân giai đoạn 2006 -2016 đạt 12,3%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt hơn 17,2 tỷ USD; tổng vốn đầu tư toàn xã hội gần 300.000 tỷ đồng; tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ đạt trên 600.000 tỷ đồng; thu ngân sách trên 40.000 tỷ đồng. Tốc độ đổi mới công nghệ đạt bình quân 8-10%/năm; thu nhập bình quân đầu người năm 2016 đạt 42,5 triệu đồng, tương đương 1.950 USD. Toàn vùng hiện có 20 khu công nghiệp và 177 cụm công nghiệp đang hoạt động. Ðến nay, vùng ÐBSCL có hơn 53.000 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên lĩnh vực chế biến nông, thủy sản, phát triển đô thị, giao thông vận tải, thương mại - dịch vụ - du lịch..., giải quyết việc làm cho hơn 2 triệu người lao động. Những năm gần đây, tốc độ thu hút các dự án FDI ở ÐBSCL tăng khá nhanh, tính đến đầu năm 2017 toàn vùng thu hút 1.205 dự án FDI với tổng vốn đăng ký khoảng 18 tỷ USD. Thương mại, dịch vụ, du lịch, thông tin và truyền thông phát triển mạnh, đáp ứng
  • 36. 31 nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt hằng ngày của người dân. Kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, chi phối, các mặt hàng chiến lược như: ximăng, xăng dầu, phân bón... Hạ tầng thương mại dịch vụ được các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL rất quan tâm đầu tư: hệ thống dịch vụ bản lẻ, vận tải, du lịch; đầu tư xây dựng các chợ xã, phường, thị trấn (1.800 chợ, chiếm 21,7% tổng số chợ cả nước), các chợ đầu mối (21 chợ), 65 siêu thị và 10 trung tâm thương mại. Đã hình thành được trung tâm thương mại cấp vùng ở thành phố Cần Thơ. Về du dịch, các tỉnh, thành phố đã chú trọng phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng tỉnh, thực hiện tốt sự liên kết chặt chẽ với thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong việc khai thác, phát huy lợi thế vùng sông nước, phát triển đa dạng, phong phú các loại hình du lịch sinh thái, sông nước miệt vườn; đầu tư tạo ra nhiều tuyến, điểm du lịch mới, thực hiện liên kết tỉnh, thành để phát triển du lịch cũng như các dịch vụ thương mại, kinh tế khác. Những địa điểm du lịch được đầu tư phát triển như: Ninh Kiều (thành phố Cần Thơ); Phú Quốc, Hà Tiên (Kiên Giang); Đất Mũi, Hòn Đá Bạc (Cà Mau); Điện Gió, Nhà Mát (Bạc Liêu); Chùa Dơi, Chùa Đất Sét, Chùa Chén Kiểu (Sóc Trăng); tuyến du lịch Sóc Trăng - Côn Đảo... đã góp phần làm thay đổi nhanh chóng cơ cấu du lịch, dịch vụ trong vùng. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng có bước phát triển. Toàn vùng cơ bản hoàn thành mục tiêu xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lụt, các đô thị được đầu tư, nâng cấp ngày càng khang trang, hiện đại. Hạ tầng giao thông có nhiều chuyển biến rõ nét đã góp phần giảm ách tắc giao thông liên vùng, liên tỉnh. Hệ thống giao thông quanh đảo, xuyên đảo, tuyến quốc lộ 1A - trục chính Bắc - Nam, sân bay Cần Thơ, sân bay Phú Quốc (Kiên Giang), cảng Cần Thơ, cảng biển Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang đều được tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp ngày càng hiện đại, đáp ứng bước đầu phát triển và ổn định kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh toàn vùng. ĐBSCL có số dân 17,66 triệu người, chiếm gần 22% dân số cả nước, trong đó có khoảng 1,3 triệu người dân tộc Khmer. Ở vùng này hình thành rõ nét các cộng đồng dân cư, trong đó dân tộc Kinh chiếm số đông, cùng với dân tôc Khmer, Hoa, Chăm sinh sống lâu đời, hình thành cộng đồng các dân tộc với những nét văn hóa đặc thù của vùng sông nước. Đồng thời, đồng bào các dân tộc ở BĐSCL cùng chung sống lâu đời, nên có sự giao thoa về văn hóa, có sự lai chủng về dân tộc, vay mượn và sử dụng lẫn nhau về tiếng nói. Ở ĐBSCL có các tôn giáo như: Đạo Phật (Nam
  • 37. 32 Tông và Bắc Tông); Công giáo, Tin Lành, Islam, ngoài ra còn có nhiều tôn giáo khác như: Cao Đài, Hòa Hảo... và nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian khác. Ở ĐBSCL, các tập tục, lễ hội, lễ nghi tôn giáo, tín ngưỡng không ảnh hưởng, tác động bất lợi tới việc tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, nhân dân có ý thức tôn trọng pháp luật cao. Nhân dân trong vùng có truyền thống cách mạng kiên cường qua các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực ĐBSCL cao, năm 2006 là 18,2%. Được sự quan tâm của Trung ương, các tỉnh, thành phố trong khu vực đã thực hiện rất thành công chiến lược xóa đói, giảm nghèo: năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 8,9%, đến cuối năm 2014 còn 5,48%, đến cuối năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng giảm còn khoảng 3,54% (cả nước còn dưới 4,5%). Trong đó, có 8/13 tỉnh, thành phố trong vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp (dưới 5%); một số tỉnh có mức giảm tỷ lệ hộ nghèo đạt cao như Sóc Trăng (khoảng 4,5%), Bạc Liêu (khoảng 4,5%), Trà Vinh (khoảng 3,3%). Đồng bào các dân tộc ở ĐBSCL có truyền thống văn hóa đặc sắc, độc đáo, hình thành nên cốt cách, phong cách văn hóa ứng xử đặc trưng của người dân Nam bộ. Nét nổi bật trong đời sống văn hóa của nhân dân vùng ĐBSCL là văn hóa của đồng bào Khmer. Giáo dục - đào tạo và dạy nghề là lĩnh vực có sự quan tâm đầu tư góp phần đưa trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực của vùng phát triển. Đã thành lập mới và mở rộng, nâng cấp nhiều trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, các cơ sở đào tạo nghề. Trường Đại học Cần Thơ là trường trọng điểm quốc gia cấp vùng. Cuối năm 2015 có 100% xã, phường, thị trấn đã hoàn thành xong phổ cập trung học cơ sở; xây dựng, sửa chữa mới 25.300 phòng học, không còn tình trạng học ba ca. Đối với các tỉnh, huyện có đông đồng bào Khmer điều có trường dân tộc nội trú. Công tác dạy nghề có bước tiến bộ, đặc biệt là thực hiện nghiêm túc Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ về “phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” và Quyết định 1033/QĐ-TTg ngày 30-6-2011 của Thủ tướng Chính phủ “về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2011-2015”. Trong thời gian qua, hệ thống dạy nghề vùng ĐBSCL đã hình thành mạng lưới đa dạng, với tổng số 364 cơ sở. Đặc biệt, 119/131 đơn vị cấp huyện có cơ sở dạy nghề công lập đóng trên địa bàn. Công tác xã hội hóa dạy nghề
  • 38. 33 cũng được đẩy mạnh, với 39 cơ sở dạy nghề ngoài công lập, chiếm 22,16%; có nhiều mô hình dạy nghề đa dạng, sáng tạo như dạy nghề tại các doanh nghiệp, dạy nghề tại các khu công nghiệp… Trong giai đoạn 2011-2015, tổng số tuyển sinh học nghề là 1.238.643 người, trong đó cao đẳng nghề là 29.120 người (chiếm 2%), trung cấp nghề là 58.917 người (chiếm 5%), sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng là 1.150.606 người (chiếm 93%), số lao động nông thôn học nghề là 794.147 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của vùng năm 2015 ước đạt 35,2%, đã tăng so với năm 2010 (23,5%). Năm 2016 đã giải quyết việc làm cho hơn 400.000 lao động, trong đó có 110.000 lao động nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân thời gian qua đã đạt được những kết quả rất quan trọng. Các tỉnh, thành phố trong khu vực có 92 bệnh viện đa khoa tuyến huyện, 14 bệnh viện đa khoa khu vực, 17 bệnh viện đa khoa tỉnh, 37 bệnh viện chuyên khoa, trong đó có 21 bệnh viện phục vụ các chuyên ngành hiếm gồm: lao, phong, tâm thần, giải phẫu bệnh và pháp y. Riêng khối y tế dự phòng, cả vùng có 135 trung tâm y tế huyện; 103 trung tâm y tế trực thuộc tỉnh và các tỉnh, thành phố trong vùng đều có trung tâm giám định pháp y và pháp y tâm thần. Đến 2016, tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ, y tác phục vụ đạt 100%. Hộ nghèo, gia đình có công, người dân sống vùng khó khăn, xã bãi ngang, xã nghèo, xã đảo đều được hỗ trợ 100% bảo hiểm y tế. Có thể khẳng định rằng: giáo dục - đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày được chú trọng, đời sống nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số Khmer, Chăm, được cải thiện rõ nét. Các hoạt động văn hóa - xã hội được tổ chức với nhiều hình thức, nội dung phong phú. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư”, cuộc vận động “Toàn dân tham gia thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới” ngày càng thiết thực, hiệu quả. Công tác đền ơn, đáp nghĩa, thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng, các chính sách an sinh xã hội được chú trọng thực hiện và đem đến kết quả rất tốt. Thông qua nhiều hình thức vận động khác nhau, các tỉnh, thành phố như: Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp... đã huy động nguồn lực từ xã hội đóng góp hàng chục nghìn tỷ đồng để giải quyết các vấn đề an sinh xã hội. HTCT ở các địa phương trong vùng ĐBSCL được củng cố và có sự đổi mới trong nội dung, phương thức hoạt động, góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH, giữ
  • 39. 34 vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh. Bên cạnh những thành tựu đạt được, ĐBSCL vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần khắc phục: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp, yếu tố rủi ro còn cao, chưa tương xứng tiềm năng của vùng. Nông nghiệp có lợi thế, nhưng công tác quy hoạch cụ thể các vùng chuyên canh sản xuất lúa cao sản, chất lượng cao, nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn trái, các mặt hàng nông sản... thực hiện còn chậm; chưa khai thác tốt tiềm năng thế mạnh của vùng về mặt hàng nông, thủy sản, chưa tạo được nhiều thương hiệu. Nền nông nghiệp chưa thật sự chuyển sản sản xuất lớn, điều đó rủi ro cao, bị sự đe dọa của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Quy mô công nghiệp nhỏ, giá trị gia tăng thấp; công nghiệp chế tác cơ khí phục vụ nông nghiệp và công nghiệp công nghệ cao chưa phát triển. Các doanh nghiệp trong vùng hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP của khu vực còn thấp. Thu hút đầu tư chưa nhiều, nhất là đầu tư nước ngoài... Về thương mại, dịch vụ, du lịch, hệ thống các trung tâm thương mại hiện đại còn hạn chế, hệ thống phân phối, bán lẻ hiện đại chỉ mới đáp ứng 25% nhu cầu tiêu dùng của người dân ở ĐBSCL. Kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi vẫn còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Một số công trình trọng điểm về giao thông, bến cảng, sân bay như: tuyến cao tốc Trung Lương (Tiềng Giang) - Cần Thơ; tuyến đường sắt thành phố Hồ Chí Minh - Mỹ Tho (Tiền Giang); cầu Đại Ngãi vượt sông Hậu nối liền quốc lộ 60, giữa hai tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng; cảng biển Đại Ngãi, Hòn Chông; nâng cấp sân bay quốc tế Cần Thơ... chưa được tập trung đầu tư xây dựng đúng mức và kịp thời. Giáo dục - đào tạo, dạy nghề, văn hóa - xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém so với các vùng, miền khác. Chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo ở ĐBSCL vẫn còn nhiều yếu kém, chất lượng nguồn nhân lực chưa đạt yêu cầu. Tỷ lệ đầu tư cho giáo dục - đào tạo và dạy nghề còn thấp, nếu bình quân cả nước hơn 570 nghìn dân có một trường đại học thì ở ÐBSCL hơn 1,5 triệu dân mới có một trường đại học. Cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, giảng viên ở một số trường đại học, cao đẳng mới thành lập không bảo đảm, chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo. Có tới 45% số người từ 15 tuổi trở lên ở địa bàn nông thôn vùng ÐBSCL không hoàn thành cấp học nào, 32,87% tốt nghiệp tiểu học, 13,51% tốt nghiệp trung học cơ sở và 5,43% tốt nghiệp trung học
  • 40. 35 phổ thông. Sinh viên đại học và sau đại học của toàn vùng cũng chỉ chiếm hơn 4% dân số ở độ tuổi từ 20 đến 24. Trang thiết bị đầu tư cho dạy nghề thiếu thốn, lạc hậu, giáo viên thiếu về số lượng, chất lượng chưa cao, chủ yếu dạy nghề ngắn hạn. Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm 83,25%, trong khi đó tỷ lệ chung cả nước 74,6% và ÐBSCL xếp thứ bảy trong số tám vùng, miền. Xuất khẩu lao động chưa đạt kế hoạch cả về số lượng và thu nhập. Xây dựng HTCT còn nhiều hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng ở ĐBSCL còn yếu kém; công tác lãnh đạo ở một số nơi còn lúng túng về phương thức và nội dung, chỉ đạo thiếu tập trung, dàn trải, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, nhất là công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Hiệu lực và hiệu quả QLNN chưa cao; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan và cơ sở từng lúc, từng nơi còn hình thức. Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp không cao, vẫn còn tình trạng hẫng hụt cán bộ. HTCT cơ sở ở ĐBSCL nhìn chung còn một số yếu kém. Việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số trong HTCT còn một số bất cập. 2.1.2. Quan niệm, đặc điểm cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long * Quan niệm về cấp xã Khoản 1, Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định: Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập [Error! Reference source not found., tr. 36]. Điều 2 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: 1. Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); 2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện); 3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
  • 41. 36 4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt [136, tr. 7-8]. Theo phân cấp hành chính thì cấp xã (bao gồm xã, phường, thị trấn) là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp (Trung ương, tỉnh, huyện, xã). Cấp xã được xác định là cấp cơ sở, chính vì thế, khi nói đến cấp cơ sở ở địa phương là muốn nói đến cấp xã. Tương ứng với mỗi đơn vị hành chính ở địa phương được quy định như trên là một cấp chính quyền (gọi là chính quyền địa phương) được thành lập nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước ở địa phương; thực hiện chức năng cai quản và phục vụ của Nhà nước ở một vùng lãnh thổ nhất định. Cấp xã là đơn vị hành chính cuối cùng gần dân nhất, trực tiếp quản lý các mặt đời sống của xã hội. * Đặc điểm của cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long Các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL có 134 đơn vị hành chính cấp huyện (102 huyện, 13 thị xã, 14 thành phố thuộc tỉnh và 5 quận), có 1.624 đơn vị hành chính cấp xã (1.293 xã, 211 phường, 120 thị trấn). Trong số đó có 36 xã, 05 thị trấn, 44 phường thuộc 05 quận; 52 xã, 95 phường thuộc 14 thành phố thuộc tỉnh; 74 xã, 43 phường thuộc thị xã; 119 thị trấn, 1.143 xã thuộc huyện. Trong số xã hiện có 93 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, 50 xã giáp biên giới Campuchia. Một là, cấp xã ở ĐBSCL được hình thành qua nhiều giai đoạn lịch sử, có sự pha trộn tính dòng tộc. Sau năm 1945, danh xưng cấp hành chính kỳ được đổi thành bộ. Như vậy, Nam Kỳ chính thức được đổi thành Nam Bộ cho đến nay và lúc bấy giờ được chia thành 3 khu vực nhỏ hơn: Đông Nam bộ, Trung Nam bộ và Tây Nam bộ (vùng ĐBSCL). Sau năm 1956, các làng được gọi là xã, khi đó các đơn vị hành chính trực thuộc trong một tỉnh được phân chia, sắp xếp như sau: dưới tỉnh là quận, dưới quận là tổng, dưới tổng là xã, dưới xã là ấp. Sự phân chia, sắp xếp này được duy trì, thực hiện ở cả vùng nông thôn lẫn thành thị. Từ năm 1962, chính quyền bỏ dần, đến năm 1965 thì bỏ hẳn cấp tổng, các xã trực tiếp thuộc các quận. Sau ngày 30-4-1975, bỏ tên gọi đơn vị hành chính quận, gọi là huyện (quận và phường dành cho các đơn vị hành chính là thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh). Sự hình thành khóm, khu dân cư (trừ ấp trước đây đã có) thuộc xã, phường, thị trấn trong thời kỳ đổi mới đất nước, trong khi đó các tỉnh miền Trung và miền Bắc gọi
  • 42. 37 là làng, thôn, bản, tổ, khu. Sau năm 1954, việc di dân từ miền Bắc vào miền Nam rất nhiều. Trong khi đó, ĐBSCL là vùng đất trù phú, giàu tiềm năng thuận lợi cho làm ăn kinh tế, trong giai đoạn mới đã không ít người ở miền Bắc, miền Trung vào làm ăn kinh tế. Điều đó đã hình thành sự pha trộn, tính chặt chẽ dòng tộc của người dân ở ĐBSCL không như trước. Chính vì thế, sự ảnh hưởng của tính dòng tộc trong đội ngũ CBCX ở ĐBSCL ít so với ở những vùng khác. Hai là, quá trình CNH, HĐH ở ĐBSCL diễn ra chậm, tính chuyên canh nông nghiệp vẫn là chủ đạo. So với các vùng miền khác trong cả nước, ở khu vực ĐBSCL quá trình CNH, HĐH, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi diễn ra còn chậm. Tỷ lệ hộ gia đình ở ĐBSCL mang tính chuyên canh nông nghiệp vẫn lớn, canh tác hộ gia đình là phổ biến, gắn liền tài sản là ruộng, vườn, ao, hồ để hoạt động nông nghiệp, thủy sản. Làm ăn kinh tế nông nghiệp, thủy sản mang tính rủi ro cao, không ổn định, giá cả bấp bênh, nhất là trong cơ chế thị trường. Tình trạng “được mùa rớt giá” diễn ra trong nhiều năm. Ba là, cấp xã ở ĐBSCL là cấp cuối cùng trong HTCT 4 cấp của Đảng và Nhà nước, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức đảng, chính quyền cấp xã là cấp gần dân nhất, sát dân, trực tiếp lãnh đạo, quản lý, chăm lo, giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích chính của nhân dân. Mặc dù hiện nay dưới cấp xã có tổ chức khóm, ấp, tổ dân phố, khu dân cư…, song đây không phải là một cấp hành chính độc lập, hoàn chỉnh, có ngân sách, con dấu cũng như tư cách pháp nhân riêng, mà chỉ là tổ chức tự quản trong cộng đồng dân cư; các trưởng khóm, ấp, tổ dân phố là cầu nối giữa Đảng, chính quyền, đoàn thể với người dân. Cấp xã là nơi tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển KT-XH, giữ vững ổn định chính trị. Đồng thời, đây là nơi bắt nguồn cung cấp các sáng kiến, kinh nghiệm góp phần điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách; phát hiện rõ nét nhất cái đúng, cái sai, sự thành công hay thất bại của mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Bốn là, CBCX ở ĐBSCL chịu tác động mạnh mẽ của các yếu tố dân tộc, tôn giáo. Đây là nét đặc thù ở ĐBSCL - nơi có nhiều đơn vị xã, phường, thị trấn có đông đồng bào Khmer (như ở Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang); đông đồng bào Hoa (Sóc
  • 43. 38 Trăng, Kiên Giang); nơi có nhiều người theo đạo (An Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng, Trà Vinh). Vì vậy, phải căn cứ tình hình cụ thể của từng địa phương mà xây dựng đội ngũ CBCX cho phù hợp về cơ cấu dân tộc, tôn giáo, tạo được sức mạnh tổng hợp, hoạt động có hiệu quả của HTCT cấp xã. Năm là, ở ĐBSCL còn nhiều địa phương cấp xã thuộc diện khó khăn. Hiện tại, toàn vùng vẫn còn 93 xã khó khăn, 50 xã giáp biên giới. Những xã này thiếu thốn về nhiều mặt, nhất là đường giao thông, bị thâm nhập mặn, sạt lở đất, ngập nước… Vì thế, việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh gắn liền với củng cố HTCT, xây dựng đội ngũ CBCX gặp không ít trở ngại. Sáu là, cấp xã ở ĐBSCL chịu ảnh hưởng rất lớn hậu quả của chiến tranh để lại. Nơi đây kẻ thù xây dựng hệ thống bộ máy cai trị chặt chẽ, đồ sộ, trở thành lực lượng đối lập với nhân dân ta. Sống trong vùng địch kiểm soát hoặc đan xen giữa ta và địch trong thời gian dài, nên có một bộ phận nhân dân tham gia hoặc ít hoặc nhiều với chế độ cũ, thậm chí trong một dòng họ, gia đình vừa có người tham gia cách mạng, vừa có người tham gia bộ máy ngụy quân, ngụy quyền. Sau ngày miền Nam được giải phóng, công tác cán bộ cấp xã ở ĐBSCL gặp không ít khó khăn về vấn đề lịch sử chính trị của cán bộ. 2.1.3. Cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long 2.1.3.1. Quan niệm về cán bộ cấp xã Từ “cán bộ” được du nhập vào nước ta từ Trung Quốc và được dùng phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Lúc đầu, từ cán bộ được dùng nhiều trong quân đội để phân biệt với chiến sĩ. Từ cán bộ dùng để chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó trở trên. Dần dần, từ cán bộ được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kháng chiến thoát ly gia đình để phân biệt với nhân dân. Theo Từ điển Từ Hải của Trung Quốc, từ cán bộ được giải thích là: xuất phát từ một từ tiếng Pháp được dịch sang tiếng Nhật… (như vậy, từ này do người Nhật sử dụng đầu tiên, chuyển sang Trung Quốc rồi vào Việt Nam). Trong Từ điển Nhật - Việt, từ cán bộ cũng được dùng tương tự như ở Trung Quốc, có nghĩa là ở hạng cao (trong một đoàn thể), là yếu nhân (nhân vật quan trọng)..., nghĩa là từ cán bộ ở Nhật trung thành nhiều hơn với từ gốc mà nó được dịch ra (cadre). Trong tiếng Pháp cũng như tiếng Anh, từ này có nhiều nghĩa. Tựu trung có hai nghĩa chủ yếu được chuyển vào từ cán bộ của Nhật, Trung Quốc và Việt Nam: nghĩa thứ nhất là cái khung (ảnh),
  • 44. 39 cái khuôn; nghĩa thứ hai là người nòng cốt, những người chỉ huy trong quân đội, trong một tổ chức làm thành một nòng cốt. Cũng như hiện tượng chung của ngôn ngữ, từ cán bộ khi du nhập vào nước ta đã được áp dụng theo thực tiễn tâm lý - văn hóa Việt Nam, nên đã biến đổi không còn nguyên như nghĩa gốc, tuy nhiên cái hàm nghĩa “bộ khung”, “người làm nòng cốt”, “người chỉ huy” vẫn được lưu giữ. Ở nước ta, theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất cả những người làm việc trong bộ máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể, lực lượng vũ trang. Trong Từ điển Tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là: người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan đảng, nhà nước và đoàn thể; người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ. Cho đến nay, từ cán bộ đã được dùng nhiều nghĩa khác nhau: Trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa: một là, dùng để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, quản lý, chỉ huy từ cấp cơ sở đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt đảng viên thường, đoàn viên, hội viên; hai là, những người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ chức đảng, nhà nước và đoàn thể. Trong hệ thống cơ quan nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản là trùng với từ công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc lĩnh vực hành chính, tư pháp, kinh tế, văn hóa - xã hội… Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó phòng, ban, vụ, cục…). Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có khác nhau, nhưng về cơ bản, từ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó: là nòng cốt, là chỉ huy. Như vậy, có thể quan niệm một cách chung nhất, “cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức” [158, tr. 20]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX “về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn” nêu rõ: Hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách: Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm:
  • 45. 40 - Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử gồm: cán bộ chủ chốt của cấp ủy đảng, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, những người đứng đầu ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. - Cán bộ chuyên môn được ủy ban nhân dân tuyển chọn gồm: công an trưởng, xã đội trưởng, cán bộ văn phòng, địa chính, tài chính - kế toán, tư pháp, văn hóa - xã hội. Số lượng cán bộ chuyên trách do Chính phủ quy định. Cán bộ không chuyên trách là những người chỉ tham gia việc công trong một phần thời gian lao động [62, tr.178]. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 xác định: Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó bí thư đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội [134, tr. 3]. Chức vụ, chức danh và số lượng của CBCX được Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22-10-2009 của Chính phủ quy định cụ thể như sau: - CBCX có các chức danh, chức vụ sau đây: + Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; + Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; + Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; + Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; + Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; + Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; + Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam); + Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam. - Số lượng cán bộ, công chức cấp xã được bố trí theo loại đơn vị hành chính cấp xã; cụ thể như sau: + Cấp xã loại 1: không quá 25 người; + Cấp xã loại 2: không quá 23 người; + Cấp xã loại 3: không quá 21 người [47, tr.2]. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân xã.
  • 46. 41 + Ủy ban nhân dân xã gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an. + Ủy ban nhân dân xã loại I có không quá hai Phó Chủ tịch; xã loại II và loại III có một Phó Chủ tịch [136, tr. 3]. Do trên thực tế, thường bí thư hoặc phó bí thư đảng ủy cấp xã đồng thời là chủ tịch HĐND cấp xã, nên CBCX có 11 chức danh. Tùy đặc điểm của từng xã, nếu là xã loại 2 hoặc loại 3 thì số lượng CBCX giữ các chức danh trên có khác nhau. 2.1.3.2. Vai trò của cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long Thứ nhất, CBCX là người giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng và hoạt động của HTCT cấp xã. CBCX là người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và tổ chức chính trị - xã hội cấp xã. CBCX là người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có vai trò ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức bộ máy, làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy, có vai trò tham gia định hướng lớn, điều khiển hoạt động của bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về lĩnh vực công tác được giao. Chất lượng hiệu quả hoạt động của các tổ chức này phụ thuộc rất lớn vào việc phát huy phẩm chất, năng lực của CBCX. Thứ hai, CBCX là người trực tiếp thực hiện và vận hành cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” ở cơ sở. CBCX xã là người trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng; trực tiếp tổ chức thực hiện QLNN trên các lĩnh vực đời sống xã hội ở cơ sở về kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, quốc phòng, an ninh; trực tiếp thực hiện dân chủ ở cơ sở xã phường, thị trấn, phát huy dân chủ trực tiếp của nhân dân; phối hợp hoạt động của các tổ chức trong HTCT ở cấp xã để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. CBCX là những người tiên phong trong các phong trào cách mạng, là hình mẫu, tấm gương sáng lôi cuốn nhân dân, cổ vũ, động viên nhân dân tham gia các phong trào cách mạng. Đội ngũ CBCX là nơi tin cậy, chỗ dựa vững chắc để nhân dân an tâm tăng gia sản xuất, vì vậy họ là những người nòng cốt gương mẫu trong việc xây dựng HTCT ở cơ sở; Thứ ba, CBCX là “cầu nối” giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội cấp trên.
  • 47. 42 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cấp xã là gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi. Các CBCX trực tiếp tuyên truyền, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, đồng thời họ cũng là chủ thể trực tiếp nắm bắt và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với Đảng. Các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước có đi vào cuộc sống của nhân dân hay không phần rất lớn và quyết định nhờ vào đội ngũ CBCX. Các CBCX là người trực tiếp chăm lo đời sống nhân dân. Trực tiếp và thông qua đội ngũ cán bộ không chuyên trách (bí thư chi bộ, trưởng ấp, tổ trưởng dân phố, công an viên khóm, ấp, tổ dân phố), CBCX nắm được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện chính sách xã hội ở địa phương. Thứ tư, CBCX là người đại diện cho ý chí, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân ở địa phương. Hơn ai hết, CBCX là người có lợi thế am tường các hoạt động và cuộc sống của người dân nhất. Phần đông CBCX là những người cùng địa phương, được sinh ra và lớn lên trên quê hương mình, là người có cùng tiếng nói, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo với người dân. Là những người con của nhân dân, nên CBCX nắm được sâu sắc những tâm tư, tình cảm, lối sống, ý chí, nguyện vọng và tập tục của người dân. Hơn nữa, các CBCX là những người có uy tín, năng lực giỏi được tổ chức đảng, nhân dân lựa chọn, giới thiệu, bầu ra để đại diện cho ý chí và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân. Thứ năm, CBCX ở ĐBSCL có vai trò to lớn trong việc xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc ở địa phương. Các CBCX là hiện thân của các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, các lứa tuổi, các giới, của các hoạt động văn hóa - xã hội, hoạt động tương thân, tương ái, tương trợ giúp đỡ nhau trong cộng đồng các dân tộc cùng chung sống, tạo nên một khối đoàn kết vững chắc ở các địa phương có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống. 2.1.3.3. Đặc điểm của cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long Tổng số xã, phường, thị trấn ở ĐBSCL là 1.624. Thực hiện theo quy định về việc cơ cấu đội ngũ cán bộ ở cấp xã, đồng thời tùy theo đặc điểm của từng loại đơn vị xã, phường, thị trấn cũng như việc bố trí, sắp xếp vị trí các chức danh, mà mỗi đơn vị có số lượng, cơ cấu không giống hệt nhau.
  • 48. 43 Tổng số đội ngũ CBCX ở ĐBSCL là 16.984 người, trong đó có 1.611 bí thư đảng ủy, 1.664 phó bí thư đảng ủy, 290 chủ tịch HĐND, 1.437 phó chủ tịch HĐND, 1.482 chủ tịch UBND, 2.601 phó chủ tịch UBND; 1.609 chủ tịch ủy ban MTTQ, 1.611 bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, 1.615 chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ, 1.564 chủ tịch Hội Nông dân, 1.500 chủ tịch Hội Cựu chiến binh. Có 3.713 cán bộ nữ, 697 cán bộ là người dân tộc thiểu số, tuổi đời bình quân: 18-35 có 5.435 người, chiếm 32%; 36-55 có 9.511 người, chiếm 56%; 56-60 có 2.039 người, chiếm 12%. Có 95% CBCX có trình độ học vấn tốt nghiệp trung học phổ thông. Về trình độ chuyên môn, có 89% đạt trình độ cao đẳng, đại học, có 2,6% đạt trình độ sau đại học, số còn lại có trình độ trung cấp hoặc sơ cấp. Về trình độ LLCT, có 7,1% trình độ sơ cấp, 77,1% trình độ trung cấp và 15,8% trình độ cao cấp. Có 82% CBCX có chứng chỉ tin học, có 76% có chứng chỉ ngoại ngữ. Nhìn tổng thể đội ngũ CBCX ở ĐBSCL, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, nhất là dân tộc Khmer, so với tổng số CBCX còn ít. Vẫn còn có cán bộ chưa tốt nghiệp phổ thông trung học (chiếm khoảng 5%), 8,4% cán bộ còn ở trình độ chuyên môn trung cấp, sơ cấp. Trên thực tế, nhiều cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ đạt chuẩn, nhưng được bố trí chưa đúng ngành nghề. Ngoài những đặc điểm chung của CBCX ở các địa phương khác trong cả nước, CBCX ở ĐBSCL có một số đặc điểm đáng chú ý. Một là, CBCX ở ĐBSCL giàu truyền thống cách mạng, nhưng tâm lý, phong cách, lề lối làm việc chưa ổn định. Cấp xã ở ĐBSCL giàu truyền thống cách mạng, đây là cái nôi của tinh thần chống giặc bất khuất, nhân dân cần cù, chịu khó. Phần lớn đội ngũ CBCX ở ĐBSCL là người địa phương ít nhiều ảnh hưởng giá trị tốt đẹp này, có một số ít CBCX hiện tại đã được tôi luyện và trưởng thành trong kháng chiến, đây là một trong những yếu tố thuận lợi đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của CBCX. Là người địa phương, nên CBCX nắm chắc các điều kiện tự nhiên, KT-XH, văn hóa, phong tục tập quán ở địa bàn, thuận lợi trong công tác, từ việc nắm bắt tình hình tư tưởng và tiến hành công tác tư tưởng, tiến hành công tác dân vận đến các công tác khác góp phần quan trọng thay đổi mọi mặt đời sống của người dân sở tại. Song, là người địa phương, nên trong công việc có lúc, có nơi những quan hệ làng xóm, họ hàng còn chi phối nhất định, làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công việc của CBCX. Bên cạnh đó, nhiều CBCX còn chịu những tác động về tâm lý, cách tư duy,
  • 49. 44 phong cách, lề lối làm việc của tiểu nông. Đa số CBCX ở ĐBSCL sinh ra và lớn lên ở một vùng sản xuất nhỏ, manh mún, đã dần dần hình thành trong cư dân vùng ĐBSCL cách nghĩ, tầm nhìn và phong cách làm việc của người sản xuất nhỏ, nặng về kinh nghiệm, thủ công. Đã qua hơn 30 năm đổi mới, nhưng tư duy, tầm nhìn, phong cách làm việc của phần đông CBCX vẫn chưa thay đổi cho phù hơp với tình hình mới. Hai là, trình độ, năng lực của đội ngũ CBCX ở ĐBSCL còn hạn chế so với yêu cầu chuẩn hóa cán bộ, một số còn biểu hiện tâm lý ngại học tập, nâng cao trình độ. Đội ngũ CBCX ở ĐBSCL được đánh giá là “vùng trũng” về trình độ LLCT, chuyên môn nghiệp vụ so với các vùng khác của cả nước. Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu, rộng, thời kỳ hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, thời kỳ thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ sang nền công nghiệp 4.0, nhưng đội ngũ CBCX ở ĐBSCL chưa có sự chuyển biến để tiếp cận, bổ sung tri thức, nâng tầm tư duy. Hoàn cảnh tự nhiên, xã hội đã tạo cho con người ở ĐBSCL những tính cách riêng như sự ôn hòa, ổn định, an phận..., vì thế CBCX nơi đây còn tâm lý thỏa mãn với vốn kiến thức kinh nghiệm, ngại học tập, tiếp cận tri thức, kỹ năng mới. Về năng lực thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn còn thấp, chưa có tính chuyên nghiệp, phần lớn thiếu khả năng độc lập, quyết đoán trong giải quyết công việc, thụ động trong thực thi các nhiệm vụ; thiếu khả năng bao quát tình hình, đồng thời chậm thích ứng với nhiệm vụ mới. Đa số cán bộ, công chức cơ sở chưa có khả năng tư duy, dự báo, xây dựng chương trình kế hoạch, thiếu khả năng nghiên cứu, tổng hợp tình hình, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; tinh thần hợp tác, phối hợp công việc còn nhiều hạn chế, nên hiệu quả công tác không cao. Ba là, ngoài hoạt động công vụ, CBCX ở ĐBSCL còn gắn chặt với hoạt động làm ăn kinh tế gia đình. Đa số CBCX ở ĐBSCL đều có gắn chặt với kinh tế gia đình, trong đó phần đông làm nông nghiệp, thủy sản. Họ vừa là người cán bộ lãnh đạo, quản lý của HTCT cơ sở, quyết định đến hiệu quả hoạt động của hệ thống, nhưng họ cũng là ông chủ giữ vai trò quyết định đến kết quả làm ăn kinh tế của gia đình. Xét mặt thành quả, một bộ phận CBCX có kinh tế gia đình tương đối ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để họ an tâm công tác, hoàn thành tốt vai trò, chức trách, nhiệm vụ của mình. Mặt khác, việc tập trung nhiều vào làm ăn kinh tế của gia đình cũng ảnh hướng không ít đến công tác của họ. Tuy nhiên, trong điều kiện làm ăn kinh tế, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, tuy có nhiều thành công, nhưng thất bại cũng không ít, do giá cả bấp bênh, thua lỗ, mất
  • 50. 45 mùa, thậm chí mất trắng (nhất là nuôi trồng thủy sản). Điều đó tác động không nhỏ đến hoạt động công vụ hằng ngày của CBCX, có những CBCX nợ nần, thậm chí bỏ việc. 2.2. ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG VÀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - KHÁI NIỆM, CHƯƠNG TRÌNH, NỘI DUNG, HÌNH THỨC VÀ VAI TRÒ 2.2.1. Khái niệm, chương trình, nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long 2.2.1.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ * Khái niệm đào tạo cán bộ Đào tạo là khái niệm được xác định là quá trình biến đổi hành vi con người một cách có hệ thống thông qua việc học tập và rèn luyện. Việc học tập này có được là kết quả của việc giáo dục, hướng dẫn, phát triển và lĩnh hội kinh nghiệm một cách có kế hoạch. Đào tạo là quá trình cung cấp và tạo dựng khả năng làm việc cho người học, hoặc - nói cách khác - là huấn luyện và giáo dục một cách có kế hoạch, có sự kết hợp trong các lĩnh vực khoa học chuyên ngành như: chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, hành chính hay các lĩnh vực khác, nhằm nâng cao kết quả thực hiện công việc của cá nhân, tổ chức và giúp họ hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu công tác. Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên định nghĩa: Đào tạo là “dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp, đào tạo thành người có tri thức, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ” [203, tr. 593]. Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Từ điển ngôn ngữ Hà Nội, “đào tạo” được hiểu là “dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp” [162, tr. 593]. Từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học chủ biên, định nghĩa đào tạo là: “làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định” [195, tr. 289]. Điều 5, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ về ĐT, BD CB, CC định nghĩa: “Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học” [48, tr. 2]. Dưới góc độ giáo dục học, đào tạo là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp đến tâm lý, nhân cách con người, nhằm giáo dục, rèn luyện những phẩm chất nhân cách đảm bảo cho con người có khả năng thực hiện hiệu quả những hoạt động nghề nghiệp nhất định. Đào tạo là trang bị những những kiến thức cơ bản, kỹ năng mới và có tính hệ thống cho đối tượng đào tạo.
  • 51. 46 Đào tạo cán bộ là một công việc đào tạo con người chuyên biệt. Đó là quá trình tác động đến những người đang làm việc cho một cơ quan, tổ chức, nhằm làm cho họ lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng cần thiết một cách có hệ thống, chú trọng về phương pháp luận đảm bảo cho người đó có thể đảm nhận và hoàn thành tốt những nhiệm vụ, công vụ được cơ quan, tổ chức giao phó. Ở Việt Nam, ĐT, BD cán bộ được xác định là một trong những công cụ đặc biệt quan trọng, một khâu trong công tác cán bộ của Đảng. Đảng ta xác định công tác ĐT, BD cán bộ là một trong những giải pháp đặc biệt quan trọng trong chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới. Đào tạo là quá trình trang bị một cách có hệ thống kiến thức cơ bản theo một chương trình có mục tiêu nhất định, nhằm hình thành và phát triển các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, nghề nghiệp của mỗi cá nhân. Đào tạo được xem là quá trình làm cho người ta trở thành có năng lực theo tiêu chuẩn nhất định và có khả năng nhận được một sự phân công lao động. Quá trình đào tạo, tùy theo mỗi cấp học và mục tiêu đào tạo, phải có một chương trình, nội dung và thời gian tương ứng, cuối khóa học, nếu người được học đáp ứng những yêu cầu thì được cấp bằng tốt nghiệp. Đào tạo cán bộ một cách cơ bản thường được thực hiện một lần, với thời gian ít nhất phải tương xứng với một năm học và thường được tổ chức chặt chẽ, tập trung. Đối tượng là những cán bộ chưa được đào tạo cơ bản. Chương trình đào tạo phải đảm bảo cho người được đào tạo có được kiến thức một cách cơ bản, hệ thống để sau đó có thể tiếp tục bổ sung, cập nhật các kiến thức chuyên sâu hơn ở các khóa bồi dưỡng. Văn bản chứng minh hoàn thành khóa học là văn bằng (sơ cấp, trung cấp, cao cấp, cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ). * Bồi dưỡng cán bộ Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý (chủ biên) định nghĩa: Bồi dưỡng: 1. Làm khỏe thêm, mạnh thêm, bồi dưỡng sức khỏe. 2. Làm cho tốt hơn, giỏi hơn, bồi dưỡng đạo đức, bồi dưỡng nghiệp vụ [203, tr. 191]. Theo Đại từ điển tiếng Việt, bồi dưỡng là: “làm cho tốt hơn, giỏi hơn” [162, tr. 191]. Theo Từ điển tiếng Việt, “bồi dưỡng” được hiểu là: “làm cho tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất” [195, tr. 82]. Điều 5 Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ về ĐT, BD CB, CC đã nêu rõ: “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”; “bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt động theo chương trình quy định cho ngạch công chức”; “bồi dưỡng theo
  • 52. 47 vị trí việc làm là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao” [48, tr. 2]. Như vậy, giống như đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ cũng là quá trình tác động đến tâm lý, nhân cách của người cán bộ, làm cho họ tốt hơn về đạo đức và giỏi hơn về năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Xét một cách tổng quát thì khái niệm “đào tạo cán bộ” bao hàm cả ý nghĩa “bồi dưỡng cán bộ”, vì vậy cụm từ “ĐT, BD cán bộ” thường được sử dụng trong thực tế. Tuy nhiên, bồi dưỡng cán bộ có những đặc điểm cơ bản khác với đào tạo: bồi dưỡng cán bộ chủ yếu là bổ sung, cập nhật kiến thức, thông tin vào những tri thức mà cán bộ đã có. Nội dung bồi dưỡng chủ yếu hướng vào những quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, cập nhật nhưng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ. Hình thức bồi dưỡng đa dạng, linh hoạt: có bồi dưỡng nâng cao, cập nhật, chuyên sâu theo chức danh; có bồi dưỡng nhiều lần, hằng năm và khi hoàn thành được cấp chứng nhận. Thời gian bồi dưỡng cán bộ trong thực tế thường trong khoảng một vài tuần đến một vài tháng. Hình thức bồi dưỡng cán bộ có thể được tổ chức một cách mềm dẻo hơn, thậm chí trong một số hoàn cảnh không nhất thiết phải tập trung (ví dụ như thông qua việc cung cấp tài liệu, sách vở hoặc những lời chỉ dẫn… cho người được bồi dưỡng). Có thể nói, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, tuy là hai khái niệm khác nhau, nhưng nó cùng một mục đích chung là làm cho cán bộ có phẩm chất, năng lực công tác tốt. Tóm lại, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là quá trình nhằm trang bị cho đội ngũ cán bộ những phẩm chất, kiến thức, kỹ năng, hành vi cần thiết để thực hiện tốt nhất chức trách, nhiệm vụ được giao. Đối với đội ngũ CB, CC, ĐT, BD được xác định là một nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng, góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, chất lượng và hiệu quả làm việc của CB, CC; hướng tới mục tiêu tạo được sự thay đổi về chất trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn. Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ về ĐT, BD CB, CC nhấn mạnh: “đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp làm việc theo chương trình quy định cho từng chức vụ lãnh đạo, quản lý” [48, tr. 2]. Mục tiêu ĐT, BD cán bộ là trang bị những kiến thức và kỹ năng cơ bản, bổ sung kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý theo yêu cầu cụ thể của từng chức
  • 53. 48 danh trong từng thời kỳ phát triển xã hội, nhằm nâng cao năng lực của cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; trung thành với chế độ XHCN, tận tụy với công vụ; có trình độ quản lý tốt, đáp ứng yêu cầu của việc kiện toàn và nâng cao hiệu quả của bộ máy QLNN; tiếp tục thực hiện một cách có chất lượng và hiệu quả chương trình cải cách hành chính nhà nước. Đồng thời, ĐT, BD cán bộ phải theo tiêu chuẩn của từng ngạch công chức và chức danh cán bộ quản lý đã được Nhà nước ban hành, nhằm khắc phục về cơ bản những hạn chế, hẫng hụt hiện nay để thực thi công vụ, bảo đảm yêu cầu công việc và tạo nguồn nhân lực thường xuyên cho các cơ quan nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu cơ bản của công tác ĐT, BD cán bộ là: “Trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Góp phần xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp có đủ năng lực xây dựng nền hành chính tiên tiến, hiện đại” [48, tr. 1]. Việc ĐT, BD cán bộ cần được tiến hành trên cơ sở khoa học, trước hết là cơ sở khoa học tâm lý và giáo dục. Do vậy, bồi dưỡng có thể áp dụng với mọi đối tượng cán bộ, nhưng đào tạo diễn ra thuận lợi, hiệu quả hơn nếu cán bộ ở độ tuổi dưới 40. Từ các khái niệm nêu trên có thể quan niệm: ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL là quá trình trang bị kiến thức cơ bản và cập nhật, bổ sung những kiến thức mới về LLCT, quản lý hành chính nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tác nghiệp cho những CBCX nhằm nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành và thực thi công vụ, hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, từng bước xây dựng đội ngũ CBCX chuyên nghiệp, có phẩm chất và năng lực đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của địa phương. 2.2.1.2. Chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long * Chương trình ĐT, BD CBCX Đặc trưng của ĐT, BD là thường được tổ chức học tập theo hệ thống chương trình nhất định theo quy định, nhằm làm cho người học nắm được một cách cơ bản, hệ thống những vấn đề cốt lõi kiến thức về LLCT; về QLNN; về kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ. Các chương trình ĐT, BD cho đội ngũ CBCX hiện nay gồm: Chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền cấp trên cơ sở (hệ cao cấp lý luận LLCT - HC). Chương trình này chỉ dành cho chức danh bí thư, phó bí thư đảng ủy, chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp xã trở lên.
  • 54. 49 Chương trình đào tạo, cán bộ lãnh đạo quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (hệ trung cấp LLCT - HC). Các chương trình bồi dưỡng cho các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở (bồi dưỡng các chức danh: bí thư, phó bí thư đảng ủy; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND; chủ tịch, phó chủ tịch UBND; chủ tịch ủy ban MTTQ, trưởng người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã). Chương trình bồi dưỡng LLCT theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý. Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước để thực hiện tiêu chuẩn hóa CB, CC. Chương trình bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ công tác đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội. Chương trình bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới. Chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đối tượng 3, 4. * Nội dung ĐT, BD CBCX Tùy theo đối tượng, nhu cầu thực tế của cơ sở mà nội dung ĐT, BD sẽ được cụ thể đối với từng loại cán bộ, với chương trình cụ thể, nhằm trang bị những kiến thức phù hợp vị trí, chức năng, nhiệm vụ và phương thức công tác của cán bộ đảm bảo tính thiết thực, phù hợp, đồng thời chú trọng cả bồi dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức cán bộ, tạo thành mối liên hệ mật thiết giữa lý luận và thực tiễn, bồi dưỡng kiến thức cơ bản và kỹ năng thực hành. Ví dụ: đối cán bộ lãnh đạo, quản lý cần trang bị những kiến thức về quan điểm, đường lối, chính sách chung của Nhà nước và của cấp ủy đảng ở các tỉnh ĐBSCL, những kiến thức chung về QLNN, pháp luật, kinh tế, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh, các kỹ năng quản lý… Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác đoàn thể cần thường xuyên được bồi dưỡng về kỹ năng thực hành, cách thức vận động nhân dân, giữ vai trò hạt nhân đoàn kết… Theo Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án ĐT, BDCB, CC, viên chức giai đoạn 2016-2025, nội dung ĐT, BD CBCX được cụ thể như sau: Nội dung đào tạo Đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học cho CB, CC cấp xã phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển của từng vùng, miền [153, tr. 4 - 5]. Đào tạo trình độ LLCT hệ trung cấp theo khung chương trình do Học viện CTQG Hồ Chí Minh ban hành. Theo Quyết định số 484/2002/QĐ-HVCTQG ngày
  • 55. 50 11-12-2002 của Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh về chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo Đảng, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở, thời gian đào tạo là 12 tháng, khi đó tên gọi là chương trình đào tạo trung cấp LLCT. Thực hiện Quyết định số 184- QĐ/TW ngày 03-9-2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Thông báo Kết luận số 181-TB/TW ngày 03-9-2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của trường chính trị cấp tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện CTQG Hồ Chí Minh) đã ban hành Quyết định số 1845/QĐ-HVCT-HCQG ngày 29-7-2009 về việc ban hành Chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (gọi là chương trình trung cấp LLCT-HC) thời gian thực học là 8 tháng, với 1756 tiết. Ngày 21-4-2014 Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh ký Quyết định số 1479/QĐ-HVCTQG về việc ban hành chương trình đào tạo trung cấp LLCT-HC, thời gian thực học là 6 tháng, với 1.056 tiết. Sau đó, ngày 14-7-2016 Giám đốc Học viện CTQG ban hành Quyết định số 3136/QĐ-HVCTQG điều chỉnh bổ sung chương trình đào tạo trung cấp LLCT-HC, tăng thêm 100 tiết. Chương trình đào tạo trung cấp LLCT về sau được mở rộng hơn so với trước đó, các môn học, các chuyên đề hướng đến nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở và chương trình mới, trong đó đưa thêm cả mảng kiến thức lý luận, quan điểm đường lối, về kỹ năng công tác đảng, chính quyền, đoàn thể, kỹ năng lãnh đạo quản lý ở cơ sở. Chương trình đào tạo cao cấp LLCT do Học viện CTQG Hồ Chí Minh ban hành và thực hiện. Việc đào tạo cao cấp LLCT khu vực ĐBSCL từ năm 2006 đến nay do Học viện Chính trị khu vực II và Học viện Chính trị khu vực IV đảm nhiệm. Các tỉnh ủy ở ĐBSCL đã thực hiện quy trình quy hoạch các bộ các cấp để đào tạo đạt trình độ cao cấp LLCT. Đối với CBCX được đưa đi đào tạo cao cấp LLCT gồm có học tập trung và học tại chức là những cán bộ giữ chức vụ bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch UBND. Chương trình đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng, trung cấp là khung chương trình đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, gắn liền với chuyên ngành phù hợp. Khi tiến hành đào tạo, đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải tuân thủ nội dung và khung chương trình.
  • 56. 51 Nội dung bồi dưỡng Theo Nghị định số 101/2007/NĐ-CP, ngày 01-9-2017 của Chính phủ, nội dung bồi dưỡng gồm: “1. Lý luận chính trị; 2. Kiến thức quốc phòng và an ninh; 3. Kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước; 4. Kiến thức quản lý chuyên ngành, chuyên môn, nghiệp vụ; đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; kiến thức hội nhập quốc tế; 5. Tiếng dân tộc, tin học, ngoại ngữ” [52, tr. 5]. Bồi dưỡng LLCT: bồi dưỡng trình độ LLCT theo tiêu chuẩn quy định cho CB, CC cấp xã; cập nhật nội dung các văn kiện, nghị quyết của Đảng; cập nhật, nâng cao trình độ LLCT theo quy định. Bồi dưỡng kiến thức QLNN: bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng QLNN theo tiêu chuẩn chức danh công chức; tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp quản lý chuyên ngành; kiến thức, phương pháp thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao; cập nhật kiến thức pháp luật, văn hóa công sở, nâng cao ý thức đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh theo các chương trình quy định cho CB, CC, viên chức; cập nhật và nâng cao kiến thức, năng lực hội nhập quốc tế. Bồi dưỡng kiến thức tin học, ngoại ngữ theo tiêu chuẩn quy định; tiếng dân tộc cho CB, CC, viên chức công tác tại vùng có đồng bào DTTS sinh sống. Tóm lại, nội dung ĐT, BD CBCX đã được xác định; khi tiến hành công tác ĐT, BD, các cơ sở ĐT, BD phải sát với thực tiễn, cụ thể; phải phù hợp với vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng chức danh, chú trọng kết hợp ĐT, BD theo mục tiêu, chương trình cần ĐT, BD với từng nhóm chức danh CBCX theo đúng tiêu chuẩn chức danh đề ra. 2.2.1.3. Hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã Để phù hợp với điều kiện khách quan và yêu cầu chủ quan, các khóa ĐT, BD cần được tổ chức theo các hình thức khác nhau, phù hợp với yêu cầu, tính chất, độ tuổi, trình độ yêu cầu công việc và chuẩn hóa của từng nhóm đối tượng CBCX, cơ sở vật chất của mỗi địa phương, đảm bảo tiến độ, chất lượng, hiệu quả của công tác ĐT, BD CBCX. * Các hình thức đào tạo CBCX Một là, đào tạo tập trung. Đây là hình thức mà theo đó các học viên phải đến học tập trung tại cơ sở đào tạo; thực hiện đầy đủ các nội quy, quy định của trường, thực hiện chế độ học tập không phải tham gia bất kỳ hoạt động chuyên môn nào tại
  • 57. 52 cơ sở. Hình thức đào tạo này thường được áp dụng cho các lớp bồi dưỡng là chủ yếu và áp dụng đối với các lớp đào tạo trung cấp LLCT, trung cấp LLCT - HC, trung cấp LLCT - HC và nghiệp vụ. Hai là, đào tạo vừa làm, vừa học. Đây là quá trình học tập gắn liền với quá trình làm việc tại cơ sở như ngày đi làm, tối đi học hoặc sáng đi làm, chiều đi học, một tháng tập trung một đợt. Hình thức này thường được áp dụng ở các đại học phối hợp với các cơ sở đào tạo mở tại tỉnh, thành phố, các lớp cao cấp LLCT, trung cấp LLCT- HC; các lớp trung cấp LLCT - HC gắn với các trung cấp nghiệp vụ. Bên cạnh đó với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện nay đã xuất hiện các hình thức mở lớp đào tạo từ xa. Tuy nhiên với các hình thức học tập từ xa không được các cấp ủy chú trọng cử CBCX đi học, vì chất lượng không cao. Gần đây, việc đào tạo sau đại học đối với CBCX được chú trọng, góp phần nâng cao kiến thức, tầm tư duy, rèn luyện kỹ năng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn ở cơ sở. Tuy nhiên, CBCX phải hội đủ các điều kiện mới tham gia các lớp đào tạo như: thời gian công tác, độ tuổi, cam kết, đào tạo đúng vị trí việc làm. * Các hình thức và loại hình bồi dưỡng CBCX Hình thức bồi dưỡng CBCX Điều 15 Nghị định số 101/2017/NĐ-CP quy định: 1. Tập sự 2. Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức. 3. Bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý. 4. Bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành bắt buộc hàng năm (thời gian thực hiện tối thiểu là 01 tuần/01 năm; một tuần được tính bằng 05 ngày học, một ngày học 08 tiết) [52, tr. 5]. Loại hình bồi dưỡng CBCX Một là, bồi dưỡng tập trung. Thông thường là các lớp ngắn ngày, có thời gian từ 1 đến 5 ngày. Đó là các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng; các lớp cập nhật kiến thức, các lớp học tập triển khai nghị quyết, dự án, chương trình… Ngoài ra còn có các lớp bồi dưỡng tập trung dài ngày (5 đến 10 ngày). Đây là những lớp bồi dưỡng bổ sung, cập nhật các kiến thức mới, chương trình mới như: các lớp bồi dưỡng theo chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở; bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng, chính quyền, đoàn thể…
  • 58. 53 Hai là, bồi dưỡng bán tập trung, thời gian trên 10 ngày cho đến 3 tháng. Đó là những lớp bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở; bồi dưỡng chương trình chuyên viên, chuyên viên chính; kiến thức quốc phòng và an ninh dành cho đối tượng 3... để chuẩn hóa cán bộ. * Về phương pháp ĐT, BD CBCX ĐT, BD CBCX là một hoạt động giáo dục mang tính đặc thù. Về đối tượng, ĐT, BD chủ yếu cho các cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức, đã kinh qua những công việc nhất định, có trình độ, kiến thức, có kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Nội dung chương trình rất rộng, dành cho nhiều đối tượng CBCX: đào tạo LLCT - HC, quản lý hành chính nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ; bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới, quản lý hành chính nhà nước, kiến thức quốc phòng, an ninh, các nghiệp vụ chuyên môn. Do vậy, phương pháp ĐT, BD CBCX cũng mang tính đặc thù, mang tính tích cực: kết hợp linh hoạt các phương pháp giảng dạy, tiếp tục phát huy những ưu điểm của pháp giảng dạy truyền thống kết hợp với “phương pháp tích cực, phát huy tính tự giác, chủ động và tư duy sáng tạo của người học, tăng cường trao đổi thông tin, kiến thức và kinh nghiệm giữa giảng viên với học viên và giữa các học viên” [52, tr. 11]. Nếu ĐT, BD theo hệ đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo được coi là đào tạo cơ bản, yêu cầu đặt ra là phải học nhiều về lý thuyết cơ sở, thì ĐT, BD CBCX đòi hỏi phải tăng cường việc hướng dẫn học viên tự học, tự nghiên cứu, tự đọc giáo trình trước khi lên lớp nghe giảng; phải viết thu hoạch, tiểu luận, khóa luận như một trong những nội dung bắt buộc trong hoạt động ĐT, BD. Hoạt động này diễn ra ở các lớp đào tạo chuyên môn, LLCT - HC và các lớp bồi dưỡng. Các chủ đề là những vấn đề thực tiễn, những tình huống trong lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Thông qua viết thu hoạch, tiểu luận, khóa luận rèn luyện cho các học viên các kỹ năng viết báo cáo, cách tổng hợp, phân tích, đánh giá, đề xuất các phương án giải quyết một vấn đề cụ thể của thực tiễn công tác đặt ra. Đối với CBCX, phương pháp ĐT, BD phải gắn chặt lý thuyết, quan điểm lý luận với hoạt động thực tiễn ở cơ sở, phương pháp và kỹ năng giải quyết các tình huống cụ thể trong lãnh đạo, quản lý, điều hành. Khích lệ học viên tích cực tham gia trao đổi, thảo luận, nhưng cũng phải dành thời gian nhất định để họ suy ngẫm, không áp đặt, nóng vội. Phương pháp giảng dạy, dẫn dắt vấn đề chậm rãi, rõ ràng, kết hợp giảng dạy trên lớp với khảo sát thực tế, trao đổi kinh nghiệm từ cơ sở. Đây cũng chính là quan điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: học phải đi đôi với hành, lý
  • 59. 54 luận phải gắn liền với thực tiễn. Người nói: “Học lý luận không phải để nói mép, nhưng biết lý luận mà không thực hành là lý luận suông. Học là để áp dụng vào làm. Làm mà không áp dụng thì khác nào đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp, vừa vấp váp. Có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho đúng” [124, tr. 357]. Ngoài ra, việc ĐT, BD CBCX còn gồm việc tự đào tạo, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện thông qua việc tự nghiên cứu, tự suy ngẫm, tự tìm hiểu học tập ở chính những người chung quanh, ở những cán bộ lão thành có nhiều kinh nghiệm, từ những tình huống xảy ra trong thực tiễn. 2.2.2. Khái niệm, nội dung và vị trí vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long 2.2.2.1. Khái niệm, mục tiêu, chủ thể, đối tượng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long * Khái niệm công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL Công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL là toàn bộ hoạt động của các cấp ủy đảng, các tổ chức trong HTCT, các đơn vị ĐT, BD và cá nhân có liên quan tham gia vào các hoạt động trong lĩnh vực ĐT, BD nhằm nâng cao trình độ LLCT, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý, phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách công tác của CBCX đáp ứng tốt nhất yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cấp xã. * Mục tiêu của công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ xác định mục tiêu chung của ĐT, BD CB, CC, VC là: Trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước [52, tr. 2]. Theo đó, mục tiêu ĐT, BD cho đội ngũ CBCX ở ĐBSCL là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả ĐT, BD, góp phần xây dựng đội ngũ CBCX chuyên nghiệp, có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của địa phương, đất nước và hội nhập quốc tế. Cụ thể là: xây dựng hệ thống thể chế thống nhất, đồng bộ cho công tác ĐT, BD CBCX phù hợp với điều kiện ở ĐBSCL và yêu cầu của đất nước; hệ thống cơ chế khuyến khích CBCX học tập và tự
  • 60. 55 học để không ngừng nâng cao trình độ, năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao. Tổ chức hệ thống quản lý và các cơ sở ĐT, BD CBCX khoa học, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ ĐT, BD. Tổ chức ĐT, BD nâng cao năng lực hoạt động thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ CBCX. * Chủ thể công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL Chủ thể lãnh đạo: Các tỉnh ủy, thành ủy ở ĐBSCL - căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, thực tiễn đội ngũ CBCX - xây dựng nghị quyết, chương trình, đề án…; chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, các cấp ủy cấp huyện trong tỉnh, thành phố triển khai các bước tiếp theo trong công tác ĐT, BD cán bộ: khảo sát, xác định nhu cầu, đối tượng CBCX cần ĐT, BD; nắm vững năng lực tổ chức ĐT, BD của các TCT tỉnh, thành phố; xác định nguồn kinh phí phục vụ, hỗ trợ... Các huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy ở ĐBSCL cụ thể hóa nghị quyết của các tỉnh ủy, thành ủy mình trực thuộc, chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành có liên quan ở cấp huyện và các cấp ủy cấp xã xây dựng kế hoạch ĐT, BD CBCX. Cấp ủy xã, phường, thị trấn xem xét nhu cầu, xét duyệt đối tượng cán bộ cần ĐT, BD báo cáp cấp ủy cấp trên và trực tiếp tham gia ĐT, BD CBCX, đồng thời động viên, quản lý cán bộ thực hiện nhiệm vụ ĐT, BD. Chủ thể thực hiện là các cơ quan, tổ chức, ban, ngành các cấp tham gia công tác ĐT, BD cán bộ dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, gồm: Ban tuyên giáo; các cơ sở ĐT, BD (TCT tỉnh, thành phố); TTBDCT và ban tuyên giáo huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong việc xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên; tổ chức các lớp học theo chương trình, nội dung, kế hoạch ĐT, BD hằng năm đã đề ra. Ban tổ chức, ban tuyên giáo cấp ủy các cấp, sở nội vụ, phòng nội vụ tham mưu cho cấp ủy, UBND cấp mình trong việc ban hành các quyết định lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác ĐT, BD, đồng thời hướng dẫn cấp ủy cấp dưới triển khai các quyết định về công tác này của cấp trên. Đảng ủy xã, phường, thị trấn trực tiếp cử cán bộ tham gia ĐT, BD theo yêu cầu để cấp ủy cấp huyện quyết định. Chủ thể tham gia gián tiếp: BCHTW, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng - căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn cụ thể - để ra các nghị quyết, chỉ thị, kết
  • 61. 56 luận chuyên đề về công tác xây dựng đội ngũ CB, CC, trong đó có công tác ĐT, BD CBCX. Nghị quyết, chỉ thị xác định quan điểm, phương hướng, mục tiêu cũng như trách nhiệm của các cấp, các ngành trong HTCT đối với công tác này. Thủ tướng Chính phủ, chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện - với sự tham mưu của cơ quan nội vụ các cấp (bộ, sở, phòng) - cụ thể hóa nghị quyết của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện thành các đề án, chương trình, kế hoạch ĐT, BD cụ thể, trong đó có mục tiêu, đối tượng, nội dung, loại hình, số lớp, kinh phí… Học viện CTQG Hồ Chí Minh - căn cứ đối tượng đào tạo - xây dựng chương trình, nội dung ĐT, BD LLCT; định kỳ từng giai đoạn có tổng kết, đánh giá và sửa đổi, bổ sung chương trình, nội dung ĐT, BD cho phù hợp với thực tiễn và phù hợp với từng loại hình đối tượng cần ĐT, BD; tổ chức biên soạn giáo trình trung cấp LLCT, bồi dưỡng giảng viên các TCT tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Cán bộ Ủy ban MTTQ và ban chấp hành các tổ chức chính trị - xã hội các cấp ở địa phương tham gia bồi dưỡng cho CBCX. * Đối tượng công tác ĐT, BD Đối tượng đào tạo là những CBCX đương chức nhưng chưa đạt chuẩn trình độ về LLCT - HC và những cán bộ diện quy hoạch CBCX và cấp cao hơn. Đối với trường hợp cán bộ diện quy hoạch CBCX và cấp cao hơn tiến hành đào tạo khung chương trình trung cấp LLCT - HC và cao cấp LLCT. Đào tạo chuyên môn nghiệp vụ đối với những cán bộ chưa có bằng cấp đạt chuẩn, hoặc đào tạo bổ sung đối với những cán bộ đã có bằng cấp, nhưng chuyên môn không đúng vị trí việc làm. Việc đào tạo CB, CC thực hiện theo quy định của pháp luật về giáo dục và đào tạo, phù hợp với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đáp ứng quy hoạch nguồn nhân lực của đơn vị. Chú trọng đào tạo CBCX “là người dân tộc thiểu số hoặc công tác tại các xã miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” [52, tr. 2]. Đối tượng bồi dưỡng là mọi đối tượng CBCX đã đạt chuẩn hay chưa đạt chuẩn theo quy định, nhưng cần được bổ sung, cập nhật các kiến thức mới, các kỹ năng cụ thể trong thực tiễn làm việc. Thực hiện tốt công tác ĐT, BD các chức danh CBCX theo Quy định số 164-QĐ/TW ngày 01-02-2013 của Bộ Chính trị, quy định về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và Quyết
  • 62. 57 định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt đề án ĐT, BD CB, CC, viên chức giai đoạn 2016 - 2025. 2.2.2.2. Nội dung công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long Một là, xây dựng chủ trương, kế hoạch ĐT, BD CBCX. Xây dựng chủ trương, kế hoạch ĐT, BD là một trong những nội dung quan trọng, mang tính chất quyết định trong công tác ĐT, BD. Xây dựng chủ trương, kế hoạch chính là thiết kế cho một tương lai mong muốn và cách thức có hiệu quả để thực hiện; là sự phát họa cách sử dụng các nguồn lực, thời gian và sự cố gắng thực hiện những gì mong muốn. Xây dựng kế hoạch là sự tìm tòi, nghiên cứu, dự đoán trước những gì sẽ xảy ra và tập trung mọi biện pháp cố gắng tiếp cận hợp lý tới mục tiêu đã đề ra từ trước. Đó là việc quyết định xem mỗi tổ chức, cơ quan, cá nhân phải làm gì, làm như thế nào, làm ở đâu và bao giờ thì hoàn thành. Chủ trương ĐT, BD cán bộ là những những quyết định của Đảng, Nhà nước về phương hướng hoạt động ĐT, BD cán bộ. Kế hoạch ĐT, BD cán bộ là việc Đảng, Nhà nước và các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xác định phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu, biện pháp tiến hành ĐT, BD cán bộ. Kế hoạch ĐT, BD cán bộ chính là sự cụ thể hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước trong chủ trương về ĐT, BD cán bộ phù hợp về thời gian, đặc điểm tình hình cụ thể của từng địa phương, cơ quan đơn vị. Kế hoạch ĐT, BD cán bộ thường được xây dựng cho từng thời gian nhất định theo niên hạn như: kế hoạch dài hạn (5 năm, 10 năm, 20 năm…); kế hoạch trung hạn (2-3 năm), kế hoạch ngắn hạn (1 năm, 6 tháng, quý). Thông thường, xây dựng kế hoạch ĐT, BD có các nội dung: xác định mục đích, mục tiêu; xác định các nguồn lực; xác định các hoạt động, các chương trình, các khóa ĐT, BD; xác định thời gian thực hiện; xác định kinh phí và điều kiện vật chất. Theo nguyên tắc, kế hoạch ĐT, BD khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì bắt buộc các cơ quan, đơn vị hữu quan triển khai thực hiện và hoàn thành đúng thời hạn. Kế hoạch đề ra (hoặc được giao) có được hoàn thành tốt và đúng thời hạn hay không là căn cứ chủ yếu để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao của một cơ quan, đơn vị. Để đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới của đất nước, trong thời gian qua Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương thể hiện rõ sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với công tác ĐT, BD cán bộ, trong đó có CBCX. Trên cơ sở những quan điểm chỉ đạo của Đảng về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cơ sở, trong đó chú trọng tập trung
  • 63. 58 công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản triển khai thực hiện. Trên cơ sở chỉ đạo của Trung ương về công tác ĐT, BD cán bộ, Bộ Nội vụ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, các đơn vị bộ, ngành trực thuộc Trung ương, tỉnh ủy, các UBND tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã cụ thể hóa thành những chủ trương, kế hoạch ĐT, BD cán bộ phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, từng địa phương, từng đối tượng cán bộ. Trong xây dựng chủ trương, kế hoạch ĐT, BD CBCX, các cấp ủy, chính quyền địa phương ở ĐBSCL lưu ý một số vấn đề sau: một là, thực hiện nghiêm túc việc nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, tỉnh ủy về công tác ĐT, BD CB, CC đến toàn thể đảng viên, CB, CC, viên chức; hai là, chỉ đạo rà soát đội ngũ CBCX đương chức và trong quy hoạch, xác định nhu cầu, lập kế hoạch ĐT, BD đối với đội ngũ CBCX; ba là, chỉ đạo việc ra soát các văn bản của Trung ương, bộ, ngành có liên quan đến công tác ĐT, BD, nhất là văn bản về cơ chế, chính sách, đồng thời đánh giá sự hợp lý nguồn ngân sách cho ĐT, BC CB, CC, viên chức của từng tỉnh, thành phố ở ĐBSCL; bốn là, chỉ đạo hình thành cơ chế phối hợp chặt chẽ thực hiện công tác ĐT, BD CBCX. Hai là, xây dựng và thực hiện chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp ĐT, BD CBCX. Xây dựng chương trình ĐT, BD CBCX là cơ sở để tổ chức các khóa ĐT, BD, nội dung ĐT, BD CBCX bảo đảm phù hợp với mục tiêu, đối tượng ĐT, BD. Quá trình xây dựng chương trình, nội dung ĐT, BD CBCX cần thực hiện theo các bước và quy định về phân cấp của Đảng, Nhà nước và cơ quan có thẩm quyền. Cốt lõi của việc xây dựng chương trình ĐT, BD CBCX là việc xác định được: mục tiêu ĐT, BD, đối tượng cụ thể trong đội ngũ CBCX được ĐT, BD; thời gian, số lượng ĐT, BD; giảng viên và phương pháp ĐT, BD, cụ thể: Ba là, việc tuyển chọn và cử CBCX dự học các khóa ĐT, BD. Chọn cử CBCX đi ĐT, BD là một khâu quan trọng của công tác quy hoạch CBCX và kế hoạch ĐT, BD CBCX. Việc xây dựng quy hoạch CBCX là một trong những nhiệm vụ của hoạt động lãnh đạo, quản lý, là cơ sở quan trọng để thể hiện sự lãnh đạo của Đảng, QLNN về công tác ĐT, BD CBCX. Việc xây dựng kế hoạch ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL là việc hoạch định, kế hoạch hóa một cách cụ thể, chi tiết đối tượng, số lượng, thời gian, khối lượng công việc, giải pháp thực hiện theo tiến độ, để đạt được mục tiêu của công tác ĐT, BD CBCX đã đề ra. Có quy hoạch thì công tác ĐT, BD mới khắc phục được tình trạng hẫng hụt, bị động trong công tác cán bộ; có
  • 64. 59 được kế hoạch ĐT, BD hợp lý, cụ thể, thì việc ĐT, BD mới chủ động, tránh phân tán, tự phát, tùy tiện, lãng phí tiền bạc, thời gian của CB, CC cũng như của Đảng, Nhà nước. Việc chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD cần được tiến hành nghiêm túc, nhằm đáp ứng đúng, đủ kế hoạch ĐT, BD CBCX. Trên cơ sở kế hoạch ĐT, BD CB, CC dài hạn hoặc hằng năm, các tổ chức, cơ quan, đơn vị cử CBCX tham gia các lớp ĐT, BD cần làm tốt công tác đánh giá năng lực, rà soát, thống kê những CBCX còn thiếu chuẩn, hạn chế về chuyên môn, về chính trị để lựa chọn, đề xuất vào danh sách cử tham gia ĐT, BD hợp lý, đúng thời điểm, đúng chủ trương. Việc chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD phải bám sát quy hoạch CBCX và kế hoạch ĐT, BD, không để xảy ra tình trạng nhiều CBCX được bầu cử, bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo, quản lý không đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, nợ bằng cấp, chưa đủ điều kiện, tiêu chuẩn. Đối với các cơ quan có trách nhiệm (ban tổ chức tỉnh ủy, sở nội vụ, TCT tỉnh) thực hiện nghiêm việc rà soát danh sách chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD của các cấp ủy cấp huyện. Bốn là, xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, lực lượng quản lý và chuẩn bị cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động ĐT, BD CBCX. * Xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên Đội ngũ giảng viên, báo cáo viên có vai trò to lớn đối với việc nâng cao chất lượng ĐT, BD, đặc biệt là đối với việc định hướng về chính trị, tư tưởng cho người học. V.I. Lênin cho rằng: “Trong bất kỳ một trường học nào, điều quan trọng nhất là phương hướng chính trị và tư tưởng của các giáo trình. Cái gì quyết định phương hướng đó? Hoàn toàn và chỉ là thành phần các giảng viên mà thôi” [194, tr. 248]. Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm và đề cao công tác ĐT, BD cán bộ, trong đó Người yêu cầu: “người huấn luyện của Đoàn thể phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc” [124, tr. 356]. Đội ngũ giảng viên tham gia ĐT, BD CBCX phải bảo đảm các tiêu chuẩn chung: (1) Có bản lĩnh chính trị vững vàng, phấm chất đạo đức tốt, có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; (2) Có trình độ lý luận Mác - Lênin, tư tướng Hồ Chí Minh hoặc khoa học xã hội và nhân văn ó' bậc đại học trở lên, hệ tập trung; (3) Có thái độ trung thực, khiêm tốn, giản dị; tâm huyết với sự nghiệp giáo
  • 65. 60 dục và đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước; (4) Có khả năng và nghiệp vụ sư phạm; (5) Có đủ sức khỏe hoàn thành nhiệm vụ; (6) Lý lịch bản thân rõ ràng [98, tr. 34]. Ngoài ra, giảng viên còn phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn cụ thể cho từng ngạch giảng viên, giảng viên chính hoặc giảng viên cao cấp. Xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên đóng vai trò quan trọng trong quyết định chất lượng của công tác ĐT, BD. Họ là đội ngũ trực tiếp truyền tải kiến thức, kỹ năng cho đối tượng được ĐT, BD. Để đảm bảo chủ trọng trong việc tổ chức các khóa ĐT, BD cần xây dựng hệ thống giảng viên, báo cáo viên tương đối ổn định tham gia ĐT, BD một cách có hiệu quả. Yêu cầu đối với giảng viên, báo cáo viên tham gia ĐT, BD cán bộ phải là người có năng lực chuyên môn, có kiến thức thực tế, có kỹ năng sư phạm. Các nội dung cần thực hiện để lựa chọn, xây dựng đội ngũ giảng viên: lựa chọn những cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ tốt, kinh nghiệm qua các công việc liên quan đến nội dung giảng dạy; chú trong bồi dưỡng kỹ năng sự phạm cho giảng viên đáp ứng yêu cầu giảng dạy; lựa chọn giảng viên có kinh nghiệm lâu năm. Chất lượng, hiệu quả của công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX không chỉ phụ thuộc vào chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên, báo cáo viên mà còn phụ thuộc vào khâu phục vụ. Lực lượng phục vụ các hoạt động ĐT, BD là một bộ phận rất quan trọng trong các cơ sở ĐT, BD và trong các cơ quan đơn vị quản lý CB, CC, viên chức. Căn cứ yêu cầu, cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ sở ĐT, BD và của các cơ quan quản lý đội ngũ CB, CC, viên chức mà xây dựng lực lượng phù hợp. Yêu cầu chung là đội ngũ này phải đạt chuẩn, có kỹ năng tốt, nhạy bén trong các tình huống, phải chuyên nghiệp, chịu khó... * Công tác quản lý Công tác quản lý công tác ĐT, BD CBCX có vai trò quan trọng trong triển khai hoạt động ĐT, BD. Quản lý công tác ĐT, BD CBCX bao gồm các hoạt động: xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và quy phạm nội bộ về ĐT, BD; xây dựng kế hoạch ĐT, BD; quản lý tổ chức thực hiện chương trình ĐT, BD theo kế hoạch; kiểm tra, đánh giá hiệu quả công tác ĐT, BD theo từng giai đoạn nhất định. Đội ngũ cán bộ quản lý công tác ĐT, BD là những người phải có trách nhiệm, năng lực, hiểu biết, nắm chắc quy định về các hoạt động ĐT, BD. Trong giai đoạn mới hiện nay, đội ngũ cán bộ quản lý công tác ĐT, BD cán bộ cần được bồi dưỡng thường
  • 66. 61 xuyên để cập nhật thông tin mới, kỹ năng mới, qua đó nâng cao năng lực chuyên môn, tham gia quản lý và triển khai công tác ĐT, BD có hiệu quả; đồng thời, phải chú trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, tránh tiêu cực. Đối với hoạt động quản lý công tác ĐT, BD CBCX, Nghị định số 101/2017/NĐ- CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính. Riêng UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quy định: 1. Xây dựng, ban hành chế độ khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực công tác; bố trí kinh phí bảo đảm thực hiện có hiệu quả chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định. 2. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện đề án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý. 3. Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định. 4. Cử cán bộ, công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng theo thẩm quyền. 5. Quản lý và biên soạn các chương trình, tài liệu bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức theo thẩm quyền. 6. Quản lý cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và đội ngũ giảng viên theo thẩm quyền. 7. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng theo thẩm quyền. [52, tr. 22]. Về trách nhiệm của đơn vị sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, Nghị định quy định: 1. Thực hiện các quyđịnh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. 2. Đề xuất biên soạn và lựa chọn chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với yêu cầu vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức. 3. Tạo điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định. [52, tr. 22]. * Đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ công tác ĐT, BD Cơ sở vật chất phục vụ công tác ĐT, BD chủ yếu là phục vụ cho hoạt động học tập, giảng dạy, bao gồm trường, lớp và các phương tiện vật chất khác được trực tiếp sử dụng trong quá trình ĐT, BD. Cơ sở vật chất phục vụ cho ĐT, BD thực chất là những phương tiện giúp cơ quan lãnh đạo, quản lý, giảng viên và học viên thực hiện tốt công việc của mình trong quá trình ĐT, BD. Do đó, có phương tiên tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho lãnh đạo, quản lý, giảng dạy và học tập đạt hiệu quả, chất
  • 67. 62 lượng cao. Ngược lại, nếu không quan tâm đúng mức đến vấn đề này, hiệu quả ĐT, BD sẽ hạn chế, cho dù năng lực lãnh đạo, quản lý tốt, đội ngũ giảng viên giỏi, sự cố gắng vượt bậc của học viên. Ngày nay, đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ mới, để nâng cao chất lượng ĐT, BD CBCX, việc hiện đại hóa những điều kiện vật chất, những phương tiện phục vụ cho công tác ĐT, BD là rất quan trọng và cấp thiết. Chỉ có như vậy CBCX mới có điều kiện nắm vững các kiến thức mới về LLCT, về chuyên môn nghiệp vụ trong môi trường ĐT, BD hiện đại. Mặt khác, trước những yêu cầu mới trong ĐT, BD cán bộ hiện nay, để CBCX được ĐT, BD hình thành được tư duy độc lập trong học tập, nghiên cứu càng phải đầu tư cho phương tiện học tập nhiều hơn, giúp cho người học được tiếp cận hơn với thực tiễn, phát huy được tính độc lập, sáng tạo của mình. Việc trang bị những phương tiện ngày càng hoàn chỉnh, hiện đại phục vụ cho công tác ĐT, BD cán bộ hiện nay là công việc của tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố, các đơn vị ĐT, BD cán bộ trong đó có đội ngũ CBCX. Trong xây dựng cơ sở vật chất phục vụ hoạt động trung tâm của ĐT, BD là dạy và học thì việc chuẩn bị tài liệu, giáo trình là vấn đề quan trọng, phải được trang bị đầy đủ, phù hợp với nội dung học tập, được trình bày rõ ràng, dễ hiểu và gửi kịp thời đến người học. Ngoài tài liệu giáo trình học tập chính khóa, cần chuẩn bị thêm các tài liệu tham khảo phù hợp với nội dung, chương trình của khóa ĐT, BD. Ngoài ra, cơ sở vật chất phục vụ công tác ĐT, BD còn là những điều kiện về ăn, nghỉ, sinh hoạt, vật chất và tinh thần. Đó là những điều kiện không thể thiếu đối với CBCX tham gia ĐT, BD tại các cơ sở ĐT, BD cán bộ, nhất là đối với CBCX tham gia các khóa ĐT, BD tập trung. Tất cả những điều kiện đó sẽ tạo môi trường thuận lợi giúp người học phấn khởi, tự tin, yên tâm học tập. Năm là, kiểm tra, giám sát hoạt động ĐT, BD CBCX. Kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động ĐT, BD CBCX là công việc vô cùng quan trọng trong chuỗi quá trình ĐT, BD CBCX, là một khâu quan trọng, xuyên suốt quá trình thực hiện công tác ĐT, BD. Kiểm tra, giám sát là để bảo đảm cho toàn bộ các nội dung trong công tác ĐT, BD được thực hiện đúng, đủ, hiệu quả, đồng thời ngăn ngừa các thiếu sót, sai phạm. Kiểm tra, giám sát cũng để xem có đạt mục tiêu đề ra không, chương trình, nội dung có phù hợp không, học viên áp dụng được gì sau ĐT, BD. Các cấp lãnh đạo, quản lý phải tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát và kết hợp cả thanh tra, để bảo đảm các hoạt động trong công tác ĐT, BD thực hiện nghiêm
  • 68. 63 túc, đúng chủ trương, quan điểm, quy trình. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL chính là việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Thanh tra Sở Bộ Nội vụ, kiểm tra, giám sát của cấp ủy đảng cấp tỉnh, cấp huyện, lãnh đạo các đơn vị ĐT, BD thuộc các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL. Nội dung tiến hành kiểm tra, giám sát hoạt động ĐT, BD CBCX: một là, việc thực hiện khung chương trình ĐT, BD CBCX có bảo đảm đúng quy định về mặt thời gian, đối tượng không; hai là, chủ thể tiến hành ĐT, BD CBCX có đúng theo quy định phân cấp, đúng chức năng trong hoạt động ĐT, BD không, hoặc xem các cơ sở, đội ngũ giảng viên, báo cáo viên tham gia ĐT, BD CBCX có đủ năng lực thực hiện các nội dung chương trình; ba là, kiểm tra, giám sát quá trình diễn ra hoạt động ĐT, BD: điều kiện vật chất, trường, lớp có bảo đảm không, số lượng học viên học tập có đầy đủ không, công tác phục vụ học viên trong học tập, ăn nghỉ có tốt không...; bốn là, kiểm tra, giám sát việc đánh giá kết quả học tập của CBCX thông qua bài kiểm tra, bài thi, bài thu hoạch, khóa luận có nghiêm túc, đúng theo quy định hay không. Sáu là, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác ĐT, BD CBCX. Sơ kết, tổng kết, rút ra những kinh nghiệm là khâu cuối trong công tác ĐT, BD CBCX. Tổ chức hoạt động này là để đánh giá kết quả ĐT, BD CBCX, xác định mức độ đạt được các mục tiêu đã đề ra từ trước, giúp cho các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đơn vị tham gia vào công tác ĐT, BD CBCX ở địa phương và Trung ương đưa ra các quyết định phù hợp tiếp theo cho công tác ĐT, BD CBCX, nhất là phát hiện những lỗ hổng, sự bất hợp lý, phi thực tế của công tác ĐT, BD. Nội dung đánh giá kết quả ĐT, BD CBCX cần làm rõ bốn vấn đề chính: một là, khóa học đã đạt mục tiêu ĐT, BD ở mức độ nào; hai là, các vấn đề xác định trong chương trình, nội dung học tập đã được giải quyết thông qua ĐT, BD ở mực độ nào; ba là, những nội dung gì cần hoàn thiện trong những khóa ĐT, BD tiếp theo; bốn là, công tác lãnh đạo, quản lý cần điều chỉnh gì. Sau mỗi khóa ĐT, BD thực hiện sơ kết, tổng kết đánh giá chương trình ĐT, BD như: đánh giá phản ứng của người học về nội dung, chương trình, giảng viên, cách tổ chức…; đánh giá kết quả học tập thông qua những bài kiểm tra để biết học viên tiếp thu được gì từ khóa ĐT, BD. Đây là việc đánh giá kết quả ĐT, BD theo phương pháp truyền thống. Cách thức đánh giá này có ưu điểm: dễ đánh giá vì chỉ cần căn cứ vào kết quả điểm học tập và nhận xét của cơ sở, đơn vị ĐT, BD. Tuy
  • 69. 64 nhiên, ở một mức độ nhất định, cách thức đánh giá này chưa phản ánh chính xác kết quả học tập của người học thông qua nhận thức và vận dụng các kiến thức đã được ĐT, BD vào thực tế, thậm chí có trường hợp kết quả học tập được đánh giá, nhận xét cao nhưng thực chất nhận thức của người học chưa phản ánh đúng kết quả đó. Hiện nay, cách thức đánh giá kết quả, hiệu quả ĐT, BD đã có sự thay đổi, hướng đánh giá kết quả sau ĐT, BD, nghĩa là đánh giá kết quả “đầu ra”. Cần đánh giá xem việc vận dụng kiến thức đã học vào thực tế công tác để giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành công vụ của CBCX được ĐT, BD, những thay đổi đối với việc thực hiện công việc như thế nào. Từ đó, đánh giá tác động, hiệu quả của tổ chức xem việc ĐT, BD cán bộ có tác động, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của tổ chức hay không. Có thể đánh giá kết quả ĐT, BD với từng mức độ cụ thể như sau: Mức độ 1 - phản ứng: đánh giá CBCX có hài lòng về chương trình ĐT, BD hay không (mức độ hài lòng, ấn tượng, cảm nhận…) thông qua khảo sát bằng bảng câu hỏi hoặc phỏng vấn. Mức độ 2 - tiếp thu: đánh giá CBCX có tiếp thu chương trình, nội dung ĐT, BD (sự thay đổi kiến thức, kỹ năng, thái độ của CBCX sau ĐT, BD) thông qua kết quả bài kiểm tra, bài thi, đề án, tiểu luận, bài thu hoạch trong khóa học và thông qua việc khảo sát bằng phỏng vấn, trắc nghiệm, quan sát, hoặc kết hợp tổng thể các phương pháp khảo sát này. Mức độ 3 - hành vi: đánh giá CBCX có áp dụng được những gì đã học không (đánh giá mức độ mà người học có thể áp dụng những kiến thức, kỹ năng đã học vào công việc). Sau khi CBCX hoàn thành nhiệm vụ học tập, căn cứ vào công việc mà họ đang đảm nhận và nội dung đã được ĐT, BD, lãnh đạo cấp xã giao việc với yêu cầu cao hơn. Thông qua kết quả công việc đã thực hiện để đánh giá chất lượng và kết quả ĐT, BD. Mức độ 4 - kết quả: đánh giá tác động nhất định đến kết quả hoạt động của tổ chức nơi CBCX công tác. Đây là mức độ cao nhất đánh giá chất lượng của ĐT, BD thông qua việc phân tích dữ liệu, đánh giá kết quả hoạt động, thực hiện nhiệm vụ được giao của tổ chức nơi CBCX công tác (hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian; hiệu quả công việc nâng cao; giảm tỷ lệ sai sót….). Đối với các mức độ 3 và 4, hằng năm cơ sở, đơn vị ĐT, BD nên thu thập kết quả làm việc của CBCX đã được ĐT, BD thông qua nhận xét, đánh giá của cấp ủy đảng trực tiếp sử dụng cán bộ. Căn cứ những nhận xét, đánh giá đó, cơ sở, đơn vị ĐT,
  • 70. 65 BD xem xét, nghiên cứu để điều chỉnh nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy và phương pháp tổ chức quản lý ĐT, BD. Cơ sở pháp lý cho hoạt động đánh giá chất lượng bồi dưỡng được Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chín phủ quy định rõ như sau: 1. Đánh giá chất lượng bồi dưỡng nhằm cung cấp thông tin về mức độ nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức sau khi được bồi dưỡng. 2. Đánh giá chất lượng bồi dưỡng phải bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan, trung thực. 3. Nội dung đánh giá chất lượng bồi dưỡng gồm: a) Đánh giá chất lượng chương trình bồi dưỡng; b) Đánh giá chất lượng học viên tham gia khóa bồi dưỡng; c) Đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên tham gia khóa bồi dưỡng; d) Đánh giá chất lượng cơ sở vật chất phục vụ khóa bồi dưỡng; đ) Đánh giá chất lượng khóa bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; e) Đánh giá hiệu quả sau bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. 4. Việc đánh giá chất lượng bồi dưỡng do cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng cán bộ, công chức, viên chức; cơ sở đào tạo, bồi dưỡng; cơ sở đào tạo, nghiên cứu tổ chức thực hiện hoặc thuê cơ quan đánh giá độc lập. 5. Bộ Nội vụ hướng dẫn cụ thể về đánh giá chất lượng bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức [52 tr. 15-16]. 2.2.2.3. Vị trí, vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long Một là, công tác ĐT, BD cho CBCX ở ĐBSCL là công việc, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của các cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các tỉnh ở ĐBSCL. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng công tác ĐT, BD cán bộ. Người khẳng định:“Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [123, tr. 309]. Người đã nêu phương châm của công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ là: Huấn luyện ai, ai huấn luyện, huấn luyện như thế nào, phải kiểm tra ra sao và bài học cần áp dụng là gì? Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: nếu có văn hóa, giỏi chuyên môn, “có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” [123, tr. 274]. Sự yếu kém về chính trị đẻ ra những khuynh hướng sai lầm hoặc “tả” hoặc “hữu”.
  • 71. 66 Từ những chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể thấy, công tác ĐT, BD CBCX góp phần nâng cao trình độ mọi mặt của CBCX, từ LLCT đến chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, tác phong công tác..., từ đó sẽ chuẩn hóa cán bộ, tạo sự đồng bộ trong bộ máy của Đảng, Nhà nước và cả HTCT cơ sở. Theo quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, các cấp ủy đảng phải quan tâm, thống nhất lãnh đạo công tác ĐT, BD cán bộ. Hai là, công tác ĐT, BD cho CBCX là nhiệm vụ trọng yếu góp phần chuẩn hóa, trẻ hóa đội ngũ CBCX. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã khẳng định: CB, CC “được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ” [134, tr. 5]. Vì vậy, CBCX phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, được giao, phải có trình độ học vấn, LLCT - HC, chuyên môn nghiệp vụ để được xếp lương theo chức vụ, ngạch bậc. Trên thực tế, phần lớn CBCX hiện nay chưa có đủ các điều kiện về trình độ, nhất là về chuyên môn, đúng vị trí việc làm để đáp ứng tiêu chuẩn của CB, CC cấp xã, họ chủ yếu là những người lớn tuổi, công tác lâu năm, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, được nhân dân tín nhiệm và giữ vai trò quan trọng ở cơ sở. Do đó, cần chú trọng ĐT, BD cho đội ngũ này để thực hiện chuẩn hóa cán bộ, mặt khác chú trọng quy hoạch CBCX trẻ đưa đi ĐT, BD xây dựng lực lượng kế tục góp phần trẻ hóa đội ngũ CBCX trong thời gian tới. Đây là yêu cầu bắt buộc nhằm đảm bảo tiêu chuẩn của cán bộ theo quy định tại Quyết định số 163/2016/QĐ-TTg ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch ĐT, BD CBCC giai đoạn 2016-2020 và cũng là để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực hiệu quả QLNN ở cơ sở. Ba là, công tác ĐT, BD CBCX góp phần nâng cao trình độ giác ngộ, bồi dưỡng phẩm chất chính trị đạo đức, lối sống, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ CBCX đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCHTW khóa XII. Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…” [70, tr. 19]... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống là căn bệnh nguy hiểm hàng đầu, là căn nguyên gây ra nhiều căn bệnh khác. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra những giải pháp cơ bản khắc phục tình trạng suy
  • 72. 67 thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, trong đó yêu cầu: Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị [71, tr. 36-37]. Với đội ngũ CBCX, việc ĐT, BD sẽ là một con đường hết sức quan trọng trong việc nâng cao kiến thức LLCT, bồi dưỡng, giác ngộ về bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, nâng cao kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ, góp phần làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, của cả HTCT cơ sở, đem lại niềm tin và sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân, quyết tâm xây dựng cuộc sống mới dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bốn là, công tác ĐT, BDCBCX là cơ sở, nền tảng để nâng cao năng lực hiệu quả thực thi công vụ của CBCX trước mắt và chuẩn bị đội ngũ cán bộ cấp trên trong tương lai. Công tác ĐT, BD giúp người CBCX có khả năng xem xét và giải quyết các tình huống lãnh đạo, quản lý ở địa phương một cách khoa học, phù hợp với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước; làm cho người cán bộ lãnh đạo phát huy tốt hơn năng lực công tác và hoạt động có hiệu quả cao hơn; khắc phục được lối làm việc theo kinh nghiệm, quản lý thủ công, sự vụ, luộm thuộm… Nội dung ĐT, BD giúp cho người CBCX cập nhật thường xuyên những kiến thức mới về lý luận, những chủ trương, đường lối, chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước qua từng giai đoạn cách mạng khác nhau; những kiến thức mới về chuyên môn nghiệp vụ cho từng vị trí việc làm, từ đó cán bộ biết cách vận dụng các kiến thức mới, phù hợp hơn với điều kiện hoàn cảnh cụ thể ở từng địa phương mình, công việc mình đảm trách, sẵn sàng đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý cao hơn. Đồng thời, thông qua các lớp ĐT, BD sẽ giúp các CBCX, các đơn vị khác nhau có điều kiện gặp gỡ, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, để xử lý những tình huống cụ thể trong lãnh đạo, quản lý ở cơ sở.
  • 73. 68 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ĐBSCL là khu vực có vị trí địa - chính trị đặc biệt quan trọng về an ninh, quốc phòng của nước ta, đồng thời là vùng có nhiều đặc thù về địa hình, dân cư, kinh tế, văn hóa, xã hội chi phối hoạt động ĐT, BD đội ngũ CBCX. Đội ngũ CBCX nơi đây là một tất yếu khách quan. Mặc dù có những đặc điểm riêng, mang tính đặc thù về điều kiện xã hội và con người, nhưng công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL cũng phải tuân thủ những quan điểm mang tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta. Công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX gồm hai công việc chính là công tác đào tạo và công tác bồi dưỡng. Đào tạo là hoạt động dành cho những CBCX chưa được đào tạo cơ bản về LLCT, chuyên môn nghiệp vụ, chưa đủ quy định theo tiêu chuẩn Đảng, Nhà nước đã đề ra. Bồi dưỡng là hoạt động đưa các CBCX đã được trang bị kiến thức lý luận cơ bản đi học tập ở những lớp ngắn hạn để bổ sung những kiến thức mới, học tập, trao đổi những kinh nghiệm hoạt động cụ thể. Cả hai công tác này đều nhằm đảm bảo cho các CBCX hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Tùy từng đối tượng mà có các hình thức, phương pháp ĐT, BD cụ thể, phù hợp. Công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL là toàn bộ hoạt động của các cấp ủy đảng, các tổ chức trong HTCT, các đơn vị ĐT, BD và cá nhân có liên quan tham gia vào các hoạt động trong lĩnh vực ĐT, BD nhằm nâng cao trình độ LLCT, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý, phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách công tác của CBCX đáp ứng tốt nhất yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cấp xã. Công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL bao gồm các nội dung chủ yếu: xây dựng chủ trương, kế hoạch ĐT, BD CBCX; xây dựng và thực hiện chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp ĐT, BD CBCX; tuyển chọn và cử CBCX dự học các khóa ĐT, BD; xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, lực lượng quản lý và chuẩn bị cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động ĐT, BD CBCX; kiểm tra, giám sát hoạt động ĐT, BD CBCX; sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác ĐT, BD CBCX.
  • 74. 69 Chương 3 CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM 3.1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 3.1.1. Những ưu điểm trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua 3.1.1.1. Trong xây dựng chủ trương, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã Trên cơ sở văn bản chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành và các cơ quan trực thuộc Trung ương về công tác ĐT, BD cán bộ, các tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã cụ thể hóa cho phù hợp với đặc điểm tình hình của từng tỉnh, thành về công tác ĐT, BD cán bộ cơ sở như sau: Tỉnh Bạc Liêu: Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 19/CT-TU ngày 31-12- 2012 “về tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị”. Từ chủ trương này, Tỉnh ủy đã triển khai nhiều kế hoạch để thực hiện cụ thể như: Kế hoạch số 21-KH/TU “về đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và bố trí, sắp xếp cán bộ trong quy hoạch cấp ủy tỉnh và huyện, thành phố nhiệm kỳ 2015 - 2020” và Kế hoạch số 20- KH/TU “về đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sắp xếp nguồn cán bộ kế cận từ nay đến năm 2015 và những năm tiếp theo”. Trong các kế hoạch đó đã đề ra các biện pháp cụ thể về ĐT, BD cán bộ trong quy hoạch cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và lựa chọn 150 cán bộ trẻ để đưa đi đào tạo, luân chuyển, từng bước bố trí, sắp xếp vào các chức danh cán bộ chủ chốt cấp xã. UBND tỉnh đã ra Quyết định số 32/2006/QĐ-UBND ngày 06-12-2006 “về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006-2010”; Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 11-8-2008 “ban hành đề án đào tạo nguồn nhân lực tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2008-2010 và định hướng 2020”; Quyết định số 4107/QĐ-UBND ngày 28-12-2011 “về việc ban hành Kế hoạch ĐT, BD cán bộ, công chức, viên chức nhà nước tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2011-2015”. Thành phố Cần Thơ: Thành ủy ban hành Kế hoạch số 10-KH/TU ngày 22-01- 2007 “về quy hoạch và đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
  • 75. 70 hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2006-2020”; Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 18- 5-2012 “về đào tạo cán bộ cơ sở, quận, huyện và thành phố đạt chuẩn”; Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 27-12-2016 “về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thành phố Cần Thơ đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. UBND thành phố đã ban hành Kế hoạch số 68/KH-UBND ngày 28-12-2012 “về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015”; Kế hoạch số 08/KH-UBND ngày 22-01-2013 “về việc triển khai đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg, giai đoạn 2013 - 2015” ... Tỉnh Tiền Giang: Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 27-6-2011 “Về nâng cao chất lượng công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Tỉnh ủy đã xây dựng các đề án, kế hoạch thực hiện đề án đào tạo và bổ nhiệm 100 phó chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn từ nguồn sinh viên mới tốt nghiệp đại học; Quy chế thu hút nhân tài, tạo nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo; xây dựng cơ chế phát huy tính năng động, sáng tạo trong đội ngũ cán bộ... UBND tỉnh ban hành và thực hiện Chỉ thị 07/2006/CT-UBND ngày 08-3-2006 “về tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức xã”; Quyết định 22/2009/QĐ-UBND ngày 25-8-2009 “về chính sách đào tạo, bồi dưỡng và thu hút cán bộ, công chức hành chính, viên chức sự nghiệp giai đoạn 2009-2015”; Quyết định 26/2011/QĐ-UBND ngày 19-9-2011 “về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã”; Quyết định 01/2012/QĐ-UBND ngày 02-02-2012 “về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và thu hút nguồn nhân lực”. Cũng trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Trung ương, các Tỉnh ủy Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang... ban hành nhiều văn bản về công tác ĐT, BD cán bộ theo từng giai đoạn, HĐND tỉnh ra nghị quyết, UBND tỉnh đã cụ thể hóa thành các quyết định, quy định, quy chế cụ thể thực hiện các văn bản chỉ đạo của tỉnh ủy và HĐND tỉnh về ĐT, BD CB, CC, viên chức theo giai đoạn, hoặc kế hoạch cụ thể hằng năm. Các văn bản chỉ đạo trên của các tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố ở ĐBSCL được xây dựng dựa trên những nghiên cứu, khảo sát, đánh giá sát thực trạng đội ngũ CBCX, xác định rõ đối tượng, thời gian, nội dung, kinh phí cho ĐT, BD đội ngũ CBCX qua từng giai đoạn; trên cơ sở đó ban tổ chức, sở nội vụ, đơn vị chức năng, TCT tỉnh và các TTBDCT huyện, thị, thành phố đã xây dựng và thực hiện theo kế hoạch cụ thể, gắn ĐT, BD với vấn đề quy hoạch và bố trí sử dụng cán bộ, triển
  • 76. 71 khai thực hiện kế hoạch ĐT, BD theo ba nội dung chủ yếu là: ĐT, BD CBCX theo chức danh; ĐT, BD CBCX theo vùng (vùng đô thị gồm phường, thị trấn riêng và vùng nông thôn - xã); ĐT, BD nguồn CBCX. TCT ở các tỉnh, thành ĐBSCL được giao nhiệm vụ chính trong việc thực hiện kế hoạch ĐT, BD đội ngũ CBCX. TCT thực hiện sự phối hợp chặt chẽ với các TTBDCT huyện, thị, thành phố của tỉnh, thành phố. Hằng năm, các TCT đều chủ động xây dựng kế hoạch ĐT, BD cán bộ của tỉnh trên cơ sở phối hợp với sở nội vụ, ban tổ chức tỉnh, thành ủy, các huyện, thị, thành ủy, các ngành của tỉnh, thành phố để khảo sát nhu cầu ĐT, BD và tiếp nhận ý kiến tư vấn về đối tượng và nội dung ĐT, BD, thời gian, địa điểm, kinh phí. Trên cơ sở đó, kế hoạch ĐT, BD được xây dựng và trình HĐND tỉnh, thành phố để phê duyệt và sau đó được giao cho UBND tỉnh, thành phố ban hành quyết định hoặc phê duyệt đề án, giao chỉ tiêu kế hoạch ngay từ đầu năm. Nhờ vậy, các TCT tỉnh, thành phố có điều kiện thuận lợi để sớm triển khai công tác ĐT, BD từ đầu năm, chủ động bố trí kế hoạch giảng dạy các lớp, các môn học, giúp các giảng viên có nhiều thời gian nghiên cứu, soạn giáo án đồng thời bảo đảm tiến độ mở lớp ở tại trường và các TTBDCT huyện, thị xã, thành phố. Qua 10 năm (2006 - 2016) tiến hành công tác ĐT, BD CBCX, tổng số cán bộ được ĐT, BD CBCX là: 203.404 lượt. Đào tạo trình độ LLCT cho 11.045 lượt, trong đó: cao cấp LLCT là 3.154, trung cấp LLCT - HC là 6.321, sơ cấp LLCT 1.570 lượt người. Đào tạo chuyên môn cho 13.434 lượt người, trong đó: sau đại học là 158, đại học là 6.892, cao đẳng là 302, trung cấp là 6.082 lượt người. Bồi dưỡng cho 178.925 lượt người [9, tr 5-7]. Bằng biện pháp đồng bộ trong xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể trong từng năm mà công tác ĐT, BD cho đội ngũ CBCX ở ĐBSCL trong những năm qua luôn được tiến hành một cách chủ động, thuận lợi. Qua khảo sát có 332/500 phiếu hỏi (chiếm 66,4%) cho rằng chủ trương, chính sách, quy định, quy chế của Đảng, Nhà nước các cấp quan tâm đến công tác ĐT, BD CBCX đáp ứng được yêu cầu. 3.1.1.2. Trong chỉ đạo xây dựng và thực hiện chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã Chủ thể xây dựng chương trình, nội dung ĐT, BD LLCT cho CBCX là Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương, tỉnh ủy, thành ủy. Chủ thể xây dựng chương trình, nội dung ĐT, BD chuyên môn gồm: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ. Riêng chương trình, nội dung bồi dưỡng CBCX ngoài các chủ thể trên còn có
  • 77. 72 Bộ Quốc phòng chủ trì hướng dẫn cụ thể về chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, UBND cấp tỉnh quản lý các chương trình bồi dưỡng theo yêu cầu của vị trí việc làm, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành cho cán bộ, công chức, thuộc thẩm quyền quản lý. Chủ thể thực hiện chương trình, nội dung ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL rất da dạng. Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị khu vực IV thực hiện đào tạo chương trình và cấp bằng cao cấp LLCT. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Hành chính (chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh), Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam (Phân viện miền Nam), Học viện Phụ nữ Việt Nam (Phân hiệu miền Nam), các trường đại học, cao đẳng trong và ngoài khu vực ĐBSCL thực hiện đào tạo chương trình đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng, trung cấp và bồi dưỡng nghiệp vụ. Các TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL tiến hành đào tạo chương trình trung cấp LLCT-HC, đào tạo trung cấp hành chính, đào tạo nguồn CBCX, đồng thời tiến hành bồi dưỡng theo chức danh, bồi dưỡng cập nhật kiến thức, bồi dưỡng thi công chức, bồi dưỡng thi nâng ngạch, bồi dưỡng kiến thức nhà nước ngạch cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính. Các TTBDCT cấp huyện tiến hành bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật kiến thức, đào tạo sơ cấp LLCT-HC. Ngoài ra, các đơn vị sở, ngành, cơ quan cấp tỉnh, các huyện ủy, UBND cấp huyện cũng tiến hành mở và phối hợp mở các lớp bồi dưỡng CBCX theo yêu cầu, nhiệm vụ với tính chất là chuyển giao, nâng cao năng lực hoạt động và phối hợp có liên quan đến ngành, lĩnh vực. Trong hoạt động của các cơ sở ĐT, BD nêu trên, hoạt động của TCT tỉnh, thành phố và TTBDCT cấp huyện là chủ yếu, liên quan trực tiếp đến công tác ĐT, BD CBCX. Thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, các TCT tỉnh, thành phố, các TTBDCT cấp huyện ở ĐBSCL đã thực hiện đa dạng hóa các hình thức tổ chức ĐT, BD phù hợp với yêu cầu thực tiễn địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của đội ngũ CBCX. Đi đôi với công tác quản lý, ĐT, BD các cơ sở ĐT, BD luôn chú trọng việc xây dựng đội ngũ giảng viên có chất ngày được nâng lên. Chú trọng việc đổi mới phương pháp giảng dạy; đổi mới hình thức ra đề thi hết môn theo hướng mở gắn lý luận với thực tiễn; đổi mới cách thức hướng dẫn viết và chấm tiểu luận cuối khóa; đổi mới cách thức quản lý lớp, kết hợp giữa chủ nhiệm, giảng viên lên lớp với ban cán sự trong quá trình học tập, cuối khóa học trong phiếu nhận xét đánh giá
  • 78. 73 kết quả học tập và rèn luyện của học viên ghi cụ thể số buổi nghỉ của học viên trong khóa học; đổi mới quá trình nhận xét, công nhận học viên các lớp bồi dưỡng… Việc đổi mới nêu trên góp phần nâng cao chất lượng ĐT, BD CBCX. TCT là đơn vị chủ động đề xuất với tỉnh ủy, UBND tỉnh, thành phố về nhu cầu đào tạo trung cấp LLCT-HC, các đại học chuyên ngành, cao cấp LLCT, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn sâu cho đội ngũ cán bộ của tỉnh, thành ở ĐBSCL nhất là đội ngũ CBCX. Đồng thời, TCT tỉnh, thành phố cũng là đơn vị tiến hành thực hiện các hoạt động phối hợp với các đơn vị ĐT, BD khác trong và ngoài khu vực ĐBSCL để tiến hành ĐT, BD cho CBCX. * Về đào tạo LLCT: Đào tạo cao cấp LLCT: đơn vị đào tạo là Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị khu vực IV. Đào tạo trung cấp LLCT-HC: đơn vị đào tạo là TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL. Đào tạo sơ cấp LLCT: đơn vị đào tạo là các TTBDCT huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố ở ĐBSCL. Hình thức đào tạo gồm có tập trung và không tập trung (vừa làm, vừa học). * Về đào tạo chuyên môn: Học viện Báo chí và Tuyên truyền đào tạo đại học các chuyên ngành: kinh tế chính trị, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, báo chí, triết học, xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, chính trị học... Học viện Hành chính (chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh) đào tạo đại học, cao đẳng các chuyên ngành: QLNN, luật, hành chính công... Các trường đại học Cần Thơ, Trà Vinh, An Giang, Đồng Tháp... và các đại học khác ngoài khu vực đào tạo đại học, cao đẳng các chuyên ngành: quản lý đất đai, nông nghiệp, tài chính - kế toán, kinh tế, quản trị kinh doanh... Đào tạo trung cấp nghiệp vụ có hai hình thức tập trung và không tập trung (vừa làm, vừa học), gồm: trung cấp nghiệp vụ công tác hội phụ nữ, công tác đoàn thanh niên, công tác hội nông dân; luật, quản lý hành chính nhà nước... Đơn vị đào tạo là TCT, Trường Quân sự tỉnh, thành phố, các trường đại học, cao đẳng trong và ngoài khu vực ĐBSCL. Đối với đào tạo nguồn CBCX thực hiện theo đề án được phê duyệt, cơ sở đào tạo là TCT tỉnh, thành phố. * Về bồi dưỡng: Trên cơ sở quyết định của UBND tỉnh, thành phố ban hành kế hoạch ĐT, BD CB, CC, viên chức theo từng năm, từng giai đoạn (2006-2010, 2011-2015, 2016-
  • 79. 74 2020), sở nội vụ, ban tổ chức tỉnh ủy, thành ủy, TCT, các đơn vị có liên quan rà soát, xác định nhu cầu, nội dung, hình thức, đối tượng tham gia bồi dưỡng. Về nội dung bồi dưỡng cho CBCX gồm: Bồi dưỡng các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch HĐND và UBND cấp xã về: kiến thức cơ bản về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và tổ chức, hoạt động của HTCT ở xã, phường, thị trấn; kiến thức và kỹ năng trong hoạt động của HĐND và UBND. Bồi dưỡng các chức danh phụ trách công tác đảng, đoàn thể về: kiến thức, kỹ năng cơ bản về tổ chức, hoạt động của HTCT ở cấp xã trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; nghiệp vụ và các kỹ năng cần thiết trong công tác đảng và các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã; Bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng các đối tượng 3, 4; bồi dưỡng cập nhật kiến thức; bồi dưỡng các chức danh theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ. Sau thời gian ngắn tham gia bồi dưỡng, đội ngũ CBCX ở ĐBSCL được nâng cao trình độ lý luận, kiến thức và năng lực công tác, đặc biệt là sự vận dụng kiến thức học tập vào thực tiễn cơ sở, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương. Kết quả một số tỉnh như sau: Tỉnh Sóc Trăng, từ năm 2006 đến năm 2016 đã mở các lớp đào tạo có số lượng CBCX tham dự như sau: cao cấp LLCT: 165; trung cấp LLCT-HC: 1.090; trung cấp LLCT - HC và trung cấp nghiệp vụ: 762; đại học chuyên ngành: 895 người. Các lớp bồi dưỡng có số lượng CBCX tham dự như sau: bồi dưỡng kiến thức QLNN: 250, bồi dưỡng chức danh: 9.075, bồi dưỡng nghiệp vụ: 11.123, bồi dưỡng cập nhật kiến thức: 15.798 lượt người; Tỉnh Long An từ năm 2006 đến năm 2016 đã mở các lớp đào tạo có số lượng CBCX tham dự: cao cấp LLCT: 275, trung cấp LLCT-HC: 1.709, trung cấp LLCT-HC và trung cấp nghiệp vụ: 986, đại học chuyên ngành: 1.176. Các lớp bồi dưỡng: bồi dưỡng kiến thức QLNN: 345, bồi dưỡng chức danh: 12.045, bồi dưỡng nghiệp vụ: 15.980, bồi dưỡng cập nhật kiến thức: 18.907 lượt người [9, tr15-21]. 3.1.1.3. Trong việc chọn cử, bố trí cán bộ cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng Đối tượng được xác định đưa vào quy hoạch, chọn cử đưa đi ĐT, BD CBCX là những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong HTCT cơ sở (bí thư, phó bí thư đảng ủy; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND; chủ tịch, phó chủ tịch UBND; chủ
  • 80. 75 tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam; chủ tịch Hội Nông dân; bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ; chủ tịch Hội Cựu chiến binh), những người đưa vào quy hoạch dự kiến nguồn cho những chức vụ CBCX. Quy hoạch ĐT, BD CBCX chú ý đến điều kiện, đặc điểm cụ thể của từng vùng, như vùng các xã đồng bằng, biên giới, hải đảo; các phường, thị trấn; vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện các nghị quyết, hướng dẫn của Đảng về công tác quy hoạch cán bộ và các văn bản của Nhà nước về công tác quy hoạch ĐT, BD cán bộ nói chung, CBCX nói riêng, những năm qua, các cấp ủy đảng, chính quyền và các cơ quan chức năng của từng địa phương ở ĐBSCL đã tổ chức quán triệt mục đích, ý nghĩa, vai trò tầm quan trọng của việc rà soát, quy hoạch ĐT, BD đội ngũ CBCX. Một số tỉnh đã cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo công tác quy hoạch ĐT, BD CBCX. Thành ủy thành phố Cần Thơ có Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 18-5-2012 “về đào tạo cán bộ cơ sở, quận, huyện và thành phố đạt chuẩn”. Tỉnh ủy Bến Tre có Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 22-9-2006 “về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2006- 2010 và định hướng đến 2015”. UBND tỉnh Sóc Trăng có Kế hoạch số 08/KH-UBND ngày 31-8-2006 về “đào tạo cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2006-2010”, Quyết định số 48/2012/QĐ-UBND ngày 15-11-2012 “ban hành quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng”, Kế hoạch số 39/KH-UBND ngày 05-12-2011 về “đào tạo cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2011-2015”. UBND tỉnh Hậu Giang ra Quyết định số 30/2014/QĐ-UBND ngày 22-10-2014 “ban hành quy định về chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng và chính sách thu hút nhân lực tỉnh Hậu Giang”. UBND tỉnh Cà Mau ra Quyết định số 440/QĐ-UBND, ngày 01-4-2013 “ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chúc giai đoạn 2013-2015 và định hướng đến năm 2020”; Quyết định số 20/2014/QĐ-UBND, ngày 30-7-2014 “ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh Cà Mau”. UBND tỉnh Vĩnh Long có Quyết định số 1157/QĐ-UBND, ngày 24-5-2016 “phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2016- 2020 theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg và Quyết định số 971/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ”. Mặc dù chưa xây dựng được quy hoạch riêng cho đội ngũ CBCX, nhưng trong kế hoạch ĐT, BD cán bộ các tỉnh, thành phố hằng năm, hoặc một giai đoạn, CBCX cũng được quy hoạch ĐT, BD chung trong toàn bội đội ngũ CB, CC, viên chức của
  • 81. 76 từng địa phương cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh. Do đó, việc chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD khá thuận lợi, việc lựa chọn, cử CBCX để ĐT, BD bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu ĐT, BD CBCX. Khảo sát có 262/500 phiếu (52,4%) cho rằng khâu quy hoạch, chọn cử cán bộ cấp xã đi ĐT, BD kịp thời, bảo đảm đúng quy trình. 3.1.1.4. Trong xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên; công tác quản lý và chuẩn bị cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã * Về xây dựng đội ngũ giảng viên Trong những năm qua, các cấp ủy, chính quyền và các cơ sở ĐT, BD của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL luôn quan tâm xây dựng đội ngũ giảng viên, phát triển cả về số lượng và chất lượng, họ là những người có tinh thần trách nhiệm và tâm huyết với nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Hoạt động xây dựng đội ngũ giảng viên của các tỉnh, thành ở ĐBSCL đạt được những kết quả như sau: Về công tác tuyển chọn giảng viên. Công tác tuyển chọn giảng viên được các cơ sở ĐT, BD và ban tổ chức tỉnh, thành ủy thực hiện theo tiêu chuẩn quy định, công khai, minh bạch nhằm chọn được những người có đủ phẩm chất và năng lực. Phần đông đội ngũ giảng viên ở các cơ sở ĐT, BD, nhất là của các TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL, được tuyển chọn khá kỹ từ nhiều nguồn khác nhau. Việc tuyển dụng giảng viên (nhất là giảng viên ở TCT), ngoài trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thì tiêu chuẩn chính trị được đặc biệt coi trọng. Các ứng viên phải có lịch sử chính trị rõ ràng, có lập trường, tư tưởng chính trị vững vàng, đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh và phải có khả năng phát triển trở thành đảng viên đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Về đào tạo, bồi dưỡng giảng viên. ĐT, BD LLCT cho đội ngũ giảng viên được các cơ sở đào tạo rất coi trọng. Đối với các giảng viên giảng dạy LLCT - HC ở các TCT đều được trang bị trình độ LLCT tương xứng. Hầu hết giảng viên của TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL mới được tuyển dụng chưa đủ tiêu chuẩn trình độ LLCT, chưa có nền tảng kiến thức về LLCT, do đó thông qua hoạt động này giúp giảng viên nâng cao nhận thức lý luận, giữ vững quan điểm, lập trường, tính đảng, tính chiến đấu, thống nhất sự gắn kết lý luận với thực tiễn.
  • 82. 77 Số lượng giảng viên các TCT ở các tỉnh ĐBSCL được cử đi đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ không ngừng được tăng lên qua các năm. Từ năm 2010 đến nay, giảng viên ở TCT và các cơ sở ĐT, BD khác ở ĐBSCL được cử đi học khá đông, chủ yếu đi học đại học bằng 2 và sau đại học ở cơ sở đào tạo là Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện CTQG Hồ Chí Minh và một số cơ sở đào tạo có uy tín khác. Việc cử giảng viên đi đào tạo cao học, nghiên cứu sinh được coi trọng hơn, số lượng tăng lên đáng kể so với trước đây. Trong năm 2016, chỉ tính riêng các TCT ở ĐBSCL đã có 57 giảng viên đang học cao học và 20 giảng viên học nghiên cứu sinh. Theo báo cáo của TCT tỉnh Hậu Giang, trong nhiệm kỳ qua đã tuyển chọn đưa đi đào tạo tập trung 25 lượt giảng viên; đào tạo không tập trung 06 lượt giảng viên; đưa 08 lượt giảng viên dự thi và học sau đại học, 02 lượt giảng viên học nghiên cứu sinh. TCT tỉnh Đồng Tháp có 06 giảng viên đang học cao học và 05 giảng viên đang học nghiên cứu sinh [9, tr 7-8]. Việc ĐT, BD đội ngũ giảng viên có xem xét cân đối các chuyên ngành, khắc phục tình trạng có chuyên ngành thừa giảng viên có chuyên ngành thiếu. Ngoài ra, đội ngũ giảng viên còn được bồi dưỡng thông qua các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ nâng cao kỹ năng, bổ sung kiến thức; bồi dưỡng giảng viên thông qua công tác giáo dục chính trị - tư tưởng; học tập nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; bồi dưỡng phương pháp giảng dạy tích cực thông qua các lớp tập huấn, hoạt động thao giảng, dự giờ; bồi dưỡng giảng viên thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế; bồi dưỡng ngạch, bậc để nâng ngạch cho đội ngũ giảng viên. Kết quả ĐT, BD đội ngũ giảng viên: Trình độ chuyên môn, kỹ năng được nâng lên, lập trường, tư tưởng vững vàng, nâng cao tính chiến đấu trong giảng dạy, tính mô phạm, tác phong, phẩm chất đạo đức người giảng viên ngày càng được hoàn thiện; hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đội ngũ giảng viên tham gia tích cực, có hiệu quả hơn nhiều so với trước. Các hoạt động nâng cao chất lượng giảng dạy luôn được giảng viên quan tâm, thực hiện tốt khâu thao giảng, dự giờ, kiểm tra, đánh giá giáo án, giờ giảng. Tính từ năm 2007 đến năm 2017, ở ĐBSCL có 90 giảng viên của các TCT được công nhận giảng viên dạy giỏi LLCT toàn quốc [9, tr 8]. Quy hoạch, đánh giá, bố trí, sử dụng giảng viên Các TCT ở ĐBSCL đã quan tâm đến công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ giảng viên các khoa, phòng trên cơ sở cơ cấu, số lượng, tiêu
  • 83. 78 chuẩn, chất lượng và xu hướng phát triển. Hằng năm, TCT đều có nhận xét, đánh giá, rà soát đánh giá, bổ sung quy hoạch cho phù hợp với tình hình thực tế. Điều này đã kích thích đội ngũ giảng viên phấn đấu học tập, rèn luyện và an tâm công tác. Công tác đánh giá giảng viên được thực hiện trên cơ sở tiêu chí cụ thể, căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ theo đề án vị trí việc làm. Quá trình đánh giá được tiến hành khoa học, công khai, dân chủ, minh bạch, đảm bảo công bằng, khách quan. Các cơ sở ĐT, BD đã chú trọng đến việc bố trí, sử dụng giảng viên phù hợp với năng lực, sở trường. Phần lớn giảng viên được bố trí, sử dụng ở các khoa theo đúng chuyên ngành, phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo; từ đó phát huy trí tuệ, năng lực, sở trường của giảng viên. Quản lý giảng viên, thực hiện chế độ chính sách và tạo điều kiện làm việc đối với giảng viên Trong thời gian qua, việc đổi mới thực hiện cơ chế quản lý đối với giảng viên được quan tâm đúng mức. Một số TCT đổi mới cơ chế quản lý giảng viên, thay vì quản lý giảng viên theo giờ hành chính, nay mạnh dạn chuyển đổi theo quản lý hiệu quả công việc, không bắt buộc ngày phải 8 giờ đến cơ quan làm việc (trừ những ngày được phân công trực). Chế độ chính sách đối với giảng viên được các TCT thực hiện khá tốt, bảo đảm đúng và đủ các chế độ, chính sách cho giảng viên theo quy định như: hưởng 45% phụ cấp đứng lớp và mỗi năm được hưởng thêm 1% thâm niên nghề nghiệp; chi trả lương; chế độ thi đua, khen thưởng. Ngoài ra, các TCT hỗ trợ kinh phí cho giảng viên tham gia các lớp ĐT, BD; đi dạy ở các quận, huyện, nghiên cứu thực tế; ốm đau, thai sản; xét nâng lương trước thời hạn. Các trường thường xuyên quan tâm cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ giảng viên; tạo điều kiện để đội ngũ giảng viên nâng cao thu nhập, ổn định đời sống, an tâm công tác. Công tác khen thưởng, đánh giá giảng viên hằng năm được coi trọng, từ đó động viên, khích lệ giảng viên phấn đấu. Điều kiện và môi trường làm việc ở các TCT ở ĐBSCL đã được cải thiện đáng kể. Về cơ sở vật chất phòng làm việc và trang thiết phục vụ cho giảng viên giảng dạy, nghiên cứu tương đối đầy đủ, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Môi trường làm việc của giảng viên rất được quan tâm, xây dựng một môi trường sư phạm, công bằng, dân chủ, đoàn kết, thân ái. Một số TCT ở ĐBSCL đã và đang thực hiện quản lý chất lượng ĐT, BD, quản lý các hoạt động của giảng viên theo tiêu chuẩn ISO
  • 84. 79 (4/13 trường), có quy trình, quy định cụ thể, rõ ràng, khoa học, tạo sự đồng thuận cao của cán bộ, giảng viên và học viên. * Xây dựng đội ngũ báo cáo viên Ngoài lực lượng tham gia chủ yếu trong ĐT, BD là đội ngũ giảng viên của các cơ sở ĐT, BD, đội ngũ báo cáo viên cũng là một lực lượng rất quan trọng tham gia vào công tác này. Đội ngũ báo cáo viên được chia thành: báo cáo viên Trung ương, báo cáo viên cấp tỉnh, báo cáo viên cấp huyện và báo cáo viên cấp xã. Đội ngũ báo cáo viên tham gia ĐT, BD gồm hai nhóm: một là, nhóm đội ngũ báo cáo viên được các cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Nhà nước công nhận, họ hoạt động và hưởng chế theo quy định của Đảng, Nhà nước về chế độ của báo cáo viên; hai là, nhóm đội ngũ báo cáo viên không thuộc nhóm trên, nhưng có phẩm chất, trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm tham gia báo cáo, giảng dạy, được các cơ sở ĐT, BD mời tham gia vào công tác ĐT, BD CB, CC. Đội ngũ báo cáo viên thuộc nhóm này thường là những người giữ cương vị lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, đơn vị, có thể là đương chức hoặc đã nghỉ hưu. Trong thời gian qua, đội ngũ báo cáo viên đã đóng góp rất đáng kể vào hoạt động ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL, trong đó hoạt động bồi dưỡng CBCX là đóng góp nhiều nhất. Cụ thể: họ tham gia vào việc báo cáo nghị quyết, bồi dưỡng cấp ủy, các chức danh, bồi dưỡng nâng ngạch, cập nhật kiến thức mới... Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của báo cáo viên, trong thời gian qua các cấp ủy các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL không ngừng tập trung xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ này, quá trình xây dựng đội ngũ báo cáo viên đã chú ý vào những vấn đề như: Một là, lựa chọn những báo cáo viên là người có lập trường, quan điểm đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với mục tiêu lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng; bản thân và gia đình chấp hành tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có tính đảng cao, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình, ý thức tổ chức kỷ luật cao, đặc biệt là kỷ luật phát ngôn; có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình, tâm huyết với chuyên môn, nghiệp vụ, khiêm tốn học hỏi, gương mẫu về đạo đức và lối sống, có mối quan hệ gần gũi, sâu sát, gắn bó với nhân dân. Hai là, chú trọng về trình độ LLCT, trình độ chuyên môn, có hiểu biết thực tiễn, có năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin, biết vận dụng tâm lý học, phương pháp sư phạm và nghiệp vụ tuyên truyền miệng vào hoạt động của mình.
  • 85. 80 Ba là, các cấp ủy đảng chủ động đánh giá năng lực của đội ngũ cán bộ thuộc cấp mình quản lý, căn cứ vào các tiêu chuẩn do Ban Tuyên giáo Trung ương quy định để xem xét công nhận và đề nghị công nhận kịp thời bổ sung vào đội ngũ báo cáo viên. Bốn là, các cơ sở ĐT, BD nghiên cứu, lựa chọn, xây dựng cho được một đội ngũ báo cáo viên là đối tác ổn định, tham gia tích cực vào hoạt động ĐT, BD CBCX. Đến nay, các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã có một lực lượng báo cáo viên tương đối lớn mạnh, chất lượng được nâng hơn nhiều so với trước. Môi trường, điều kiện hoạt động của báo cáo viên ngày càng đa dạng hơn, đặc biệt là họ tham gia rất nhiều hoạt động ĐT, BD, trong đó ĐT, BD CBCX là chủ yếu. Qua khảo sát có 383/500 phiếu (chiếm 76,6%) cho rằng chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên làm nhiệm vụ ĐT, BD CBCX hiện nay đáp ứng nhiệm vụ tốt và khá. * Công tác tổ chức, quản lý ĐT, BD CBCX Các tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố, sở nội vụ tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã xây dựng các quy trình cụ thể nhằm quản lý các khóa học ĐT, BD CBCX một cách chặt chẽ, khoa học. Trên cơ sở quy định về quy chế hoạt động của các TCT tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các TCT tỉnh, thành phố đều đã cụ thể hóa được “Quy chế học viên”, “Quy chế công tác chủ nhiệm lớp”, “Quy chế giảng viên”… làm cơ sở cho việc đánh giá chất lượng giảng viên và học viên trong toàn khóa học. Cùng với bộ quy chế là những văn bản quy định về quy trình, thủ tục mở lớp, khai giảng, bế giảng, quy định về văn bằng, quản lý và cấp phát văn bằng, chứng chỉ các hệ ĐT, BD. Cụ thể, tại các tỉnh Sóc Trăng, Cà Mau, An Giang, Hậu Giang..., trước mỗi khóa ĐT, BD CBCX, các sở nội vụ, ban tổ chức, TCT đều tiến hành duyệt hồ sơ, danh sách, kiểm tra văn bằng, chứng chỉ của tất cả các CBCX được cử đi tham gia ĐT, BD nhằm đảm bảo đúng mục tiêu, đối tượng chiêu sinh. Trước khi khai giảng các khóa ĐT, BD, đơn vị trực tiếp hoặc và đơn vị phối hợp triển khai hoạt động ĐT, BD đã gửi cho các đơn vị cử CBCX đi ĐT, BD và đơn vị lãnh đạo, quản lý hoạt động ĐT, BD biết rõ về: quyết định mở lớp, kế hoạch toàn khóa, lịch giảng dạy… để các cơ sở trực tiếp quản lý quá trình ĐT, BD, đồng thời làm cơ sở theo dõi, nắm bắt tình hình và chỉ đạo lớp học kịp thời. Những việc làm này hiện nay đã trở thành hoạt động có nền nếp của trường và được các cơ quan chức năng phối hợp thực hiện đầy đủ, có hiệu quả cao. Bên cạnh đó, các TCT thường xuyên trao đổi và định kỳ họp ban chỉ đạo khóa học (gồm: cấp ủy cơ sở có cán bộ gửi đi đào tạo, cơ quan quản lý và cơ sở đào tạo) để
  • 86. 81 đánh giá chính xác tình hình hoạt động và thống nhất kế hoạch ĐT, BD đợt tiếp theo, đảm bảo tính chủ động trong điều hành hoạt động chuyên môn. Nhìn chung, sự phối hợp triển khai công tác quản lý ĐT, BD CBCX đã được các TCT tỉnh, thành và các đơn vị phối hợp thực hiện chặt chẽ và có hiệu quả tốt. Trong nhiều năm qua, sau khi được UBND tỉnh giao chỉ tiêu kế hoạch ĐT, BD CB, CC, viên chức hằng năm, các TCT tỉnh, thành ở ĐBSCL đã tiến hành tổ chức hội nghị phối hợp sở nội vụ, ban tổ chức tỉnh ủy, các sở, ngành có liên quan, các đơn vị huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố triển khai công tác ĐT, BD. Thông qua hội nghị này, lãnh đạo tỉnh, thành phố nắm bắt và đánh giá được công tác phối hợp quản lý ĐT, BD trong năm trước và bàn các giải pháp để phối hợp triển khai tốt kế hoạch ĐT, BD CB, CC, viên chức cho năm tiếp theo. Ngoài ra, các đơn vị lãnh đạo, quản lý hoạt động ĐT, BD CBCX và TCT các tỉnh, thành ở ĐBSCL còn thực hiện tốt công tác phối hợp tiến hành kiểm tra, thanh tra môn học để nâng cao chất lượng dạy và học thông qua những hình thức như: kiểm tra các điều kiện học tập, kiểm tra đột xuất các giờ giảng của giảng viên, tổ chức lấy phiếu đóng góp của học viên, kiểm tra qua sổ đầu bài, lịch giảng dạy… Đồng thời, các cơ sở đào tạo, nhất là TCT, còn thường xuyên quan tâm đến việc thanh tra, kiểm tra việc chuẩn bị giáo án của giảng viên; thực hiện kiểm tra học viên như kiểm tra nơi ở, kiểm tra thời gian tự nghiên cứu của học viên, nhất là đối với học viên học tập trung thuộc chương trình đào tạo LLCT - HC... để đảm bảo quy chế và kịp thơi uốn nắn những vi phạm của học viên. Sau các đợt thanh tra, kiểm tra, cùng với việc lấy phiếu thăm dò ý kiến của học viên, các ý kiến đóng góp của các đơn vị tổ chức lớp ĐT, BD ở các huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, lãnh đạo các TCT đều có các buổi làm việc rút kinh nghiệm cho giảng viên, gặp gỡ từng giảng viên, thông báo kết quả đánh giá của học viên, ý kiến của ban chỉ đạo, ban thanh tra để giảng viên, học viên rút kinh nghiệm và nâng cao được chất lượng công tác giảng dạy. * Bảo đảm các điều kiện kinh phí, tài liệu, cơ sở vật chất, kỹ thuật.. trong ĐT, BD CBCX Mặc dù các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL còn gặp nhiều khó khăn, song được sự quan tâm của các cấp ủy đảng, hệ thống các cơ ĐT, BD được củng cố và đầu tư nâng cấp. Các trường cơ bản đều có cơ sở vật chất ngày càng khang trang. Một số cơ sở ĐT, BD, TCT tỉnh đã được đầu tư xây dựng phòng học hiện đại, trang bị các thiết bị giảng dạy hiện đại như máy chiếu, bảng từ, bảng lật, máy điều hòa… như TCT Đồng
  • 87. 82 Tháp, TCT Cà Mau, TCT Kiên Giang, TCT Long An... Một số trường đang được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp như: TCT Cần Thơ, TCT Sóc Trăng, TCT An Giang. Điều kiện ăn, ở, sinh hoạt của học viên cũng được nhiều địa phương quan tâm. Nhiều khu ký túc xá của học viên được nâng cấp, xây dựng khép kín, nhiều cơ sở ĐT, BD có nơi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, như: TCT Châu Văn Đặng tỉnh Bạc Liêu; TCT tỉnh Sóc Trăng, TCT tỉnh Đồng Tháp... Sự quan tâm đầu tư cơ sở vật chất như trên đã góp phần quan trọng vào thành công của công tác ĐT, BD CBCX các tỉnh, thành ở ĐBSCL trong những năm qua. Thực hiện chính sách ĐT, BD đối với CBCX Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác ĐT, BD CBCX, nghiên cứu các quy định của Đảng, Nhà nước về chính sách ĐT, BD, đánh giá điều kiện thực tế từng tỉnh, thành và nghiên cứu các tỉnh, thành khác ngoài khu vực, trong những năm qua, các tỉnh ủy, thành ủy và UBND tỉnh, thành phố ở ĐBSCL rất cọi trọng việc thực hiện các chính sách trong công tác ĐT, BD CB, CC, viên chức nói chung, CBCX nói riêng. Trách nhiệm của CBCX là phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ lý luận; kiến thức, kỹ năng hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và các kiến thức bổ trợ khác theo quy định. Đối với CB, CC đang giữ chức vụ và thuộc ngạch, chức danh nào phải ĐT, BD đáp ứng các tiêu chuẩn trình độ kiến thức quy định cho chức vụ và ngạch, chức danh đó. CBCX sau khi đã được ĐT, BD mà tự ý bỏ việc hoặc chuyển công tác khỏi khu vực nhà nước vì lý do cá nhân thì phải bồi thường cho cơ quan, tổ chức sử dụng CB, CC các chi phí ĐT, BD theo quy định của Nhà nước. Bên cạnh trách nhiệm, CBCX có quyền lợi như: khi được cử đi ĐT, BD được cơ quan bố trí thời gian và kinh phí theo chế độ quy định; trong trường hợp CB, CC theo nguyện vọng cá nhân mà được cơ quan có thẩm quyền cử đi ĐT, BD thì được cơ quan hỗ trợ về thời gian và kinh phí tùy theo khả năng và điều kiện cho phép; trong thời gian được cử đi dự các khóa ĐT, BD CBCX được hưởng nguyên lương và các chế độ khác theo quy định. Từ những quy định chung của Trung ương về tiêu chuẩn cán bộ, định hướng quy hoạch ĐT, BD CB, CC trong những năm 2011-2015 và 2016-2025 do Thủ tướng phê duyệt, tỉnh ủy, thành ủy từng tỉnh, thành phố đã thực hiện đổi mới và quản lý chặt chẽ việc đào tạo cán bộ, từ việc ban hành đề án, chương trình, kế hoạch ĐT, BD, phân bổ, cơ cấu nguồn kinh phí đi đôi với việc phân công, phân cấp trong công tác ĐT, BD bảo đảm phù hợp giữa các cơ quan, đơn vị làm công tác ĐT, BD. Cụ thể: Kế hoạch số
  • 88. 83 68/KH-UBND ngày 28-12-2012 của UBND thành phố Cần Thơ “về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011 - 2015”; Quyết định số 28/2010/QĐ-UBND ngày 25-5-2010 của UBND tỉnh An Giang “về việc ban hành Quy định chế độ trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và chính sách thu hút, khuyết khích người có trình độ cao trên địa bàn tỉnh An Giang”; Quyết định số 4107/QĐ-UBND ngày 28- 12-2011 của UBND tỉnh Bạc Liêu “về việc ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2011 2015”; Quyết định số 440/QĐ-UBND, ngày 01-4-2013. UBND tỉnh Cà Mau ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chúc giai đoạn 2013-2015 và định hướng đến năm 2020; Quyết định 01/2012/QĐ-UBND ngày 02-02-2012 của UBND tỉnh Tiền Giang về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và thu hút nguồn nhân lực; Quyết định số 1163/QĐ-UBND, ngày 24-5-2016 của UBND tỉnh Vĩnh Long về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2016 - 2025. Nhìn chung, các đề án, chương trình, quy định, kế hoạch ĐT, BD có tính chiến lược, đưa công tác ĐT, BD cán bộ vào nghị quyết và lãnh đạo thể chế hóa về mặt nhà nước làm cho các cấp ủy, chính quyền, các đơn vị tham gia thực hiện ĐT, BD thấy đúng tầm quan trọng của ĐT, BD CBCX. Các đơn vị ĐT, BD ở ĐBSCL đã chủ động tham mưu, đề xuất với tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố mở các lớp ĐT, BD CBCX với nhiều hình thức khác nhau, trên cơ sở kế hoạch đã được phê duyệt. Nhiều tỉnh, thành phố đã tạo điều kiện tốt nhất về mặt chính sách: lợi ích vật chất, tinh thần và quyền lợi chính trị để CBCX yên tâm tham gia học tập. Việc thực hiện chính sách hỗ trợ ĐT, BD cho CBCX được các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL rất quan tâm. Đối với chế độ ĐT, BD CBCX tham gia học tập, tùy theo đặc điểm, điều kiện từng tỉnh, thành có quy định cụ thể, chẳng hạn: Tỉnh Kiên Giang quy định: về đào tạo, CB, CC, viên chức trong thời gian tập trung học tập được hỗ trợ một phần tiền ăn, mức hỗ trợ tối đa 30.000 đồng/người/ngày (học các lớp mở tại cơ sở đào tạo ở địa bàn thành phố Rạch Giá và ngoài tỉnh), 25.000 đồng/người/ngày học các lớp mở tại cơ sở đào tạo ở địa bàn các huyện, thị xã, thành phố (gọi chung là cấp huyện). Học phí được thanh toán theo thông báo thu của cơ sở đào tạo. Tài liệu học tập, thanh toán tối đa không quá 800.000 đồng/năm (thời gian tập trung học tập một năm từ 4 tháng trở lên), đối với các lớp ngắn hạn không quá 100.000 đồng/đợt. Tiền ở trong những ngày học tập trung tại cơ sở đào tạo (trong
  • 89. 84 trường hợp cơ sở đào tạo xác nhận không bố trí được chỗ nghỉ) được hỗ trợ một phần, cụ thể như sau: học ngoài tỉnh mức hỗ trợ tối đa là 30.000 đồng/người/ngày; học trong tỉnh mức hỗ trợ tối đa là 20.000 đồng/người/ngày. Ngoài các mức trợ cấp nêu trên, nếu học viên là nữ được trợ cấp thêm 50.000 đồng/người/tháng; là người dân tộc thiểu số trợ cấp thêm 50.000 đồng/người/tháng. Đối với người học nghiên cứu sinh, cao học được khoán kinh phí viết và bảo vệ luận án, luận văn tốt nghiệp sau khi có bằng với mức: tiến sĩ 30.000.000 đồng, thạc sĩ 20.000.000 đồng. Về bồi dưỡng, đối với các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn theo yêu cầu của ngành (không kể các lớp tập huấn hội, đoàn thể; QLNN, chính trị, ngoại ngữ, tin học, tiếng dân tộc): ngắn hạn dưới 01 tháng áp dụng theo chế độ công tác phí hiện hành của tỉnh; từ 01 tháng trở lên hỗ trợ cho đối tượng được cử đi bồi dưỡng, tập huấn tối đa không quá về tiền ăn 60.000đồng/người/ngày, tiền ở 80.000 đồng/người/ngày (nếu đơn vị tổ chức tập huấn không bố trí chỗ ăn, ở) [104, tr 3-7]. Tỉnh Cà Mau: CBCX được cử đi đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học thì được hỗ trợ tiền học phí theo thông báo của cơ sở đào tạo (nếu có); hỗ trợ bằng 0,03 mức lương tối thiểu chung/người/ngày thực học (theo thông báo của cơ sở đào tạo) đối với các lớp học tại tỉnh Cà Mau; hỗ trợ bằng 0,04 mức lương tối thiểu chung/người/ngày thực học đối với lớp học ngoài tỉnh Cà Mau. Học viên nữ được hỗ trợ thêm bằng 10% so với mức hỗ trợ tương ứng nêu trên. CBCX được cử đi đào tạo sau đại học ở trong nước được hỗ trợ tiền học phí theo quy định của cơ sở đào tạo và hỗ trợ chi phí học tập của toàn khóa học: tiến sĩ bằng 100 lần mức lương tối thiểu chung, thạc sĩ bằng 60 lần mức lương tối thiểu chung [103, tr 3-5]. Tỉnh Long An, CBCX đi học tập được hỗ trợ như sau: tiền ăn, nếu học ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh hỗ trợ 50.000 đồng/người/ngày, ở các tỉnh, thành phố khác 40.000 đồng/người/ngày, trong tỉnh 30.000 đồng/người/ngày; Tiền học phí, lệ phí thi tuyển, thi cuối khóa được thanh toán theo biên lai thu tiền của nhà trường. Tài liệu học tập được thanh toán tiền tài liệu học tập theo chương trình chính khóa, có phiếu thu của nhà trường, không thanh toán tiền tài liệu cho việc tham khảo của học viên. Tiền nghỉ trọ, nếu có phiếu thu của nhà trường, cơ sở đào tạo hoặc có giấy xác nhận nơi thuê chỗ trọ, học ngoài tỉnh mức hỗ trợ 600.000 đồng/tháng/người, học trong tỉnh (áp dụng đối với khoảng cách từ cơ quan đến nơi học từ 15 km trở lên) mức hỗ trợ là 300.000 đồng/người/tháng. Ngoài ra, tỉnh còn hỗ trợ tiền tàu, xe đối với các đối tượng ĐT, BD trong và ngoài tỉnh [182, tr 2-5].
  • 90. 85 Việc thực hiện chế độ chính sách ĐT, BD cho CBCX ở các tỉnh ĐBSCL hoàn toàn không giống nhau, mỗi tỉnh, thành phố một mức hỗ trợ cụ thể riêng biệt. Tuy nhiên, dù ít, dù nhiều, nó cũng thể hiện rõ sự quan tâm của tỉnh, thành ủy, HĐND, UBND của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL. Chế độ chính sách ĐT, BD là động lực giúp cho CBCX hoàn thành hiệu quả chương trình ĐT, BD. 3.1.1.5. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã Công tác kiểm tra, giám sát trong hoạt động ĐT, BD CBCX là một trong những chức năng quan trọng của các cấp ủy đảng, chính quyền và các cơ quan có thẩm quyền trong lãnh đạo, quản lý và của cơ sở ĐT, BD, để công tác ĐT, BD CB, CC nói chung và CBCX nói riêng diễn ra theo đúng quy định. Trong thời gian qua, căn cứ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, lãnh đạo các đơn vị ở các cấp đã tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra công tác ĐT, BD CB, CC, trong đó có ĐT, BD đội ngũ CBCX: Học viện CTQG Hồ Chí Minh đã tiến hành kiểm tra, giám sát, thanh tra các hoạt động ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL gồm: kiểm tra, giám sát, thanh tra hoạt động ĐT, BD cao cấp LLCT của Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị khu vực IV; tiến hành kiểm tra, giám sát trực tiếp các hoạt động ĐT, BD của TCT ở một số tỉnh, thành phố (Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang), trong đó tập trung nhiều vào việc kiểm tra, giám sát hoạt động đào tạo trung cấp LLCT - HC, các điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo cho ĐT, BD.... Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ cũng đã thường xuyên kiểm tra, giám sát công tác ĐT, BD CB, CC của các tỉnh, thành, các cơ sở ĐT, BD ở ĐBSCL. Các tỉnh ủy, thành ủy ở ĐBSCL cũng đã chủ động thành lập hội đồng giáo dục - đào tạo của tỉnh, thành phố. Người đứng đầu hội đồng là chủ tịch UBND hoặc phó chủ tịch UBND tỉnh, thành phố phụ trách văn hóa, xã hội. Hội đồng giao nhiệm vụ cho một số thành viên theo dõi, giám sát hoạt động giáo dục - đào tạo và báo cáo trực trực tiếp, thường xuyên cho tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố về hoạt động ĐT, BD CB, CC. Các cấp ủy cấp tỉnh, huyện cũng đã chỉ đạo các đơn vị, cán bộ lãnh đạo đơn vị, cơ sở ĐT, BD CB, CC chủ động kiểm tra, giám sát các hoạt động có liên quan đến công tác ĐT, BD. Một là, giao UBKT của cấp ủy cấp trên trực tiếp tổ chức đảng của các cơ sở ĐT, BD có kế hoạch thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Hai là, chỉ đạo Thanh tra nhà nước cấp tỉnh, cấp huyện theo dõi, hỗ trợ,
  • 91. 86 đồng thời tiến hành thanh tra các hoạt động của cơ sở ĐT, BD, chủ yếu về mặt tài chính. Ba là, ủy viên ban thường vụ - trưởng ban tuyên giáo cấp ủy cấp tỉnh, huyện được giao nhiệm vụ theo dõi, lãnh đạo trực tiếp hoạt động ĐT, BD của TCT có kế hoạch kiểm tra, giám sát về nội dung, chương trình, giảng dạy, quản lý. Bốn là, ban tổ chức cấp ủy cấp tỉnh, huyện, sở nội vụ, phòng nội vụ thực hiện kiểm tra, giám sát việc quy hoạch, chọn cử CBCX đi ĐT, BD, theo dõi cán bộ tham gia ĐT, BD. Năm là, các cơ sở ĐT, BD ở tỉnh, thành phố ĐBSCL, trong đó chủ yếu là TCT, đều thành lập ban thanh tra giáo dục. Ban giám hiệu TCT đã chủ động thực hiện công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà trường, chỉ đạo cho thanh tra giáo dục thực hiện tốt nhiệm vụ thanh tra các hoạt động như: giảng dạy của giảng viên, báo cáo viên, hoạt động coi kiểm tra, thi, hoạt động chấm bài... Sáu là, từng khóa ĐT, BD đều có thành lập ban chỉ đạo lớp học, ban này đã thực hiện nhiệm vụ theo dõi quá trình học tập, tiến độ học tập, việc chấp hành quy định, quy chế của người dạy, người học và người quản lý lớp học, nắm bắt kịp thời những phản ảnh có liên quan trực tiếp đến lớp học, qua đó phối hợp, chỉ đạo giải quyết, đảm bảo hoạt động ĐT, BD diễn ra đúng kế hoạch, đạt hiệu quả cao. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra ĐT, BD CBCX đã có những tác động thay đổi rất lớn đến các hoạt động trong công tác ĐT, BD CBCX như: một là, công tác quy hoạch, chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD được tốt hơn, đúng đối tượng hơn; hai là, chương trình, nội dung, hoạt động giảng dạy, học tập, việc thực hiện quy định, quy chế, nội quy nghiêm túc hơn, chất lượng được nâng lên; ba là, những phản ảnh, vướng mắc trong công tác ĐT, BD CBCX đã được chỉ đạo giải quyết kịp thời; bốn là, các chế độ chính sách được bảo đảm thực hiện đúng theo quy định. 3.1.1.6. Việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã Việc sơ kết, tổng kết để đánh giá lại quá trình tiến hành công tác ĐT, BD CBCX được chú trọng. Qua sơ kết, tổng kết công tác ĐT, BD CBCX, các chủ thể lãnh đạo, quản lý và tiến hành ĐT, BD CBCX có cái nhìn tổng quát, nắm lại quy trình, thực tế ĐT, BD CBCX, từ đó rút ra những kinh nghiệm quý báu trong công tác ĐT, BD CBCX, có những chỉ đạo kịp thời đối với công tác ĐT, BD CBCX, giúp cho công tác này đạt được mục tiêu đề ra. Hằng năm, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, các cơ quan, bộ, ngành Trung ương đều có tổ chức sơ kết, tổng kết công tác ĐT, BD CB, CC. Hoạt động này có sự tham gia
  • 92. 87 của các cán bộ lãnh đạo, quản lý hoạt động ĐT, BD CBCC ở địa phương. Các cơ sở phối hợp thực hiện công tác ĐT, BD CBCX cũng đã chủ động cùng với cấp ủy địa phương tiến hành sơ kết, đánh giá công tác ĐT, BD. Các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các cơ quan có thẩm quyền và cơ sở ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL đã rất chú trọng việc tổ chức sơ kết, tổng kết công tác ĐT, BD CBCX. Hoạt động này được diễn ra thường xuyên theo định kỳ gắn với kế hoạch ĐT, BD, đồng thời qua các cuộc họp hằng quý, sáu tháng, tổng kết năm hoặc tổng kết chương trình, đề án ĐT, BD CBCX. Trong sơ kết, tổng kết, các cơ sở ĐT, BD CBCX đã phối hợp cùng với các đơn vị có liên quan đánh giá kết quả đạt được và chưa đạt được ở các nội dung như: việc triển khai kế hoạch ĐT, BD; việc tổ chức thực hiện ĐT, BD; những thuận lợi, khó khăn đặt ra trong giảng dạy, học tập, quản lý; các chế độ chính sách để thực hiện ĐT, BD. Đó là những cơ sở quan trọng để định hướng tiếp theo cho hoạt động ĐT, BD CBCX. Các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL tổ chức tổng kết công tác ĐT, BD CBCX không chỉ khi kết thúc khóa học, mà sau đó một thời gian, các cơ quan quản lý CBCX cùng cơ sở ĐT, BD phối hợp tổng kết, đánh giá hiệu quả ĐT, BC CBCX trên thực tế, xem CBCX sau ĐT, BD đã vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn lãnh đạo, quản lý hiệu quả như thế nào. Việc này giúp chủ thể lãnh đạo, quản lý, tiến hành công tác ĐT, BC CBCX có cái nhìn toàn diện hơn, đặc biệt xem xét nội dung ĐT, BD có đáp ứng được nhu cầu ĐT, BD của CBCX hay không, đáp ứng đến đâu. 3.1.2. Những hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long 3.1.2.1. Về xây dựng chủ trương, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã Việc đề ra chủ trương về công tác ĐT, BC CBCX của các tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố ở ĐBSCL còn chậm so với yêu cầu, nhất là những nghị quyết chuyên đề về công tác ĐT, BD CB, CC. Những chủ trương về ĐT, BC CBCX của cấp ủy các cấp ở ĐBSCL thường mới chỉ lồng ghép trong nghị quyết đại hội nhiệm kỳ, chương trình hành động thực hiện nghị quyết của Trung ương. Chính vì thế, có những nghị quyết, quan điểm chỉ đạo về công tác ĐT, BD CB, CC của các cấp ủy đảng, chính quyền ở ĐBSCL đã đề ra rất lâu, nhưng đến nay chưa được bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới cho phù hợp quan điểm của Đảng, Nhà nước và tình hình mới. Qua nghiên cứu các văn bản của các cấp ủy, chính quyền ở ĐBSCL, đến nay chưa thấy địa phương nào có một nghị quyết, quy định riêng về công tác ĐT, BD CBCX.
  • 93. 88 Công tác lập kế hoạch ĐT, BD cho đội ngũ CB, CC, trong đó có đội ngũ CBCX, hằng năm của tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố, các cơ quan chức năng, các TCT ở ĐBSCL mới chỉ dựa vào thực tế con số ở cơ sở, chưa có tầm nhìn chiến lược dài hạn, mang tính khoa học. Do vậy, đến nay vẫn chưa đạt được một số chỉ tiêu theo Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ “về phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025”. Vẫn còn hiện tượng các tỉnh chờ từ nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước để xây dựng kế hoạch ĐT, BD dẫn đến tình trạng lập và triển khai kế hoạch các lớp chậm, đáng lẽ ngay từ đầu năm sau khi thẩm định của hội đồng giáo dục - đào tạo, thì UBND tiến hành phê duyệt và triển khai kế hoạch ĐT, BD cán bộ chậm, triển khai thực hiện có khi tới qua hết quý II mới tiến hành. Còn tình trạng cán bộ xây dựng kế hoạch ĐT, BD chưa nắm, bám sát đối tượng và nhu cầu ĐT, BD, dẫn đến thực tế có năm xây dựng và triển khai kế hoạch ĐT, BD rất nhiều lớp, những đối tượng được chọn cử không tham gia đủ, đúng tiêu chuẩn hoặc có năm nhu cầu CBCX phải được đào tạo, đặc biệt là bồi dưỡng nhiều, nhưng trong kế hoạch không đáp ứng được. Thời gian thực hiện trong kế hoạch ĐT, BD thường từ quý III đến cuối năm, việc tập trung CBCX tham gia ĐT, BD cùng một lúc nhiều cũng ảnh hưởng tới các hoạt động ở cơ sở, ngoài ra tập trung cùng lúc tại cơ sở đào tạo cũng làm quá tải về điều kiện lớp học phục vụ cho hoạt động ĐT, BD. Hiện nay, một số tỉnh ở ĐBSCL vẫn còn tình trạng xây dựng kế hoạch ĐT, BD chưa xuất phát từ nhu cầu, đòi hỏi thực tiễn trong công tác cán bộ. Với mỗi nhóm đối tượng (chức danh) của CBCX, chưa xác định rõ cần ĐT, BD nội dung nào, bằng phương thức nào cho thích hợp, nên việc ĐT, BD còn chung chung cho tất cả CBCX, chưa có sự bóc tách theo đối tượng để ĐT, BD theo nhu cầu bảo đảm tính chuyên sâu về từng mảng kiến thức, kỹ năng. Mặc dù cũng có nơi, có lúc các tỉnh đã hình thành việc mở một số lớp bồi dưỡng theo chuyên đề, theo đối tượng, song chương trình, nội dung không mới, không cập nhật kịp thời, không thiết thực, nhất là việc bồi dưỡng chức danh theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ. Vì vậy, nhiều CBCX có bằng cấp, chứng chỉ, nhưng không vận dụng có hiệu quả kiến thức trong thực hiện nhiệm vụ. Qua khảo sát có 92/500 phiếu (18,4%) các chủ trương, chính sách, quy chế, quy định về ĐT, BD CBCX chỉ đáp ứng một phần; có 74/500 (4,8%) chưa đáp ứng yêu cầu.
  • 94. 89 3.1.2.2. Về chỉ đạo xây dựng và thực hiện chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã Trong thời gian qua, tuy có mở rộng, đa dạng hóa về quy mô, hình thức ĐT, BD CBCX, song công tác ĐT, BD lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội nói chung, CBCX nói riêng, vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ cách mạng mới hiện nay. Xét về quy mô, tốc độ, chất lượng ĐT, BD CBCX vẫn còn khoảng cách xa so với yêu cầu bức thiết về nâng cao chất lượng đội ngũ CBCX hiện nay. Nhìn chung, các cơ sở ĐT, BD như Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Hành chính quốc gia (chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh), Học viện Chính trị khu vực IV, các trường đại học, các cơ sở ĐT, BD ở khu vực và ngoài ĐBSCL đảm bảo tốt các khâu trong công tác ĐT, BD cán bộ. Riêng Học viện Chính trị khu vực IV là đơn vị chủ yếu thực hiện đào tạo LLCT chương trình cao cấp, nhưng do điều kiện cơ sở vật chất chưa được đầu tư kịp thời, công tác đào tạo LLCT, nhất là hình thức đào tạo tập trung, vẫn còn đặt các lớp ở các tỉnh, thành phố. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu của cán bộ. Sự quan tâm chỉ đạo, phối hợp của các ngành, đơn vị đối với công tác ĐT, BD CBCX còn hạn chế. Nhiều địa phương chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác ĐT, BD cán bộ, vì thế quan tâm chưa đúng mức. Hoạt động phối hợp giữa các cơ sở ĐT, BD cán bộ trong thời gian gần đây cũng bị hạn chế rất nhiều, nhất là hoạt động đào tạo chuyên môn, đại học, cao đẳng. Việc chiêu sinh không bảo đảm yêu cầu, số lượng để tiến hành mở lớp so với trước, một số cán bộ không có điều kiện tham gia đào tạo. Một số chính sách hỗ trợ cho cán bộ tham gia đào tạo, cao đẳng, đại học của nhiều tỉnh ở ĐBSCL không còn như trước, thậm chí gần đây không hỗ trợ chính sách cho cán bộ tham gia học tập nâng cao trình độ ở chương trình cao học (như ở Sóc Trăng, Cần Thơ). Chính vì thế, việc mở các lớp đại học chuyên ngành như trước diễn ra rất ít. Hoạt động ĐT, BD CBCX ở một số TCT tỉnh, thành phố chưa thực hiện đúng các quy định của Trung ương, chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Chẳng hạn, việc sắp xếp cơ cấu tổ chức bộ máy gắn với phân bổ nguồn nhân lực giảng dạy ở nhiều TCT không theo đúng Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03-9-2008 của Ban Bí thư “về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực
  • 95. 90 thuộc Trung ương”. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ ĐT, BD cán bộ chưa có đủ nguồn nhân lực tham gia ĐT, BD, nhất là việc bồi dưỡng về kỹ năng lãnh đạo, chuyên môn, nghiệp vụ cho các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp, đào tạo tiền công vụ đối với công chức dự bị; bồi dưỡng chuyên viên, chuyên viên chính và các chức danh tương đương theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Việc thực hiện nội dung bồi dưỡng của nhiều tỉnh, thành phố ở ĐBSCL do sở nội vụ phối hợp với các cơ sở ĐT, BD khác thực hiện, nên tính chủ động trong công tác bồi dưỡng chưa tốt. Công tác phối hợp giữa đơn vị ĐT, BD và các cơ quan chức năng tham gia công tác ĐT, BD CBCX để tiến hành trong xây dựng kế hoạch, trong kiểm tra, giám sát quá trình ĐT, BD chưa thật sự tốt. 3.1.2.3. Việc chọn cử, bố trí cán bộ cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng Việc chọn cử CBCX đi ĐT, BD còn bị động, đôi lúc chọn cử không chuẩn xác với CBCX cần được ĐT, BD để nâng cao trình độ chính trị hay chuyên môn nghiệp vụ. Có những cán bộ đã được ĐT, BD cơ bản, nhưng vẫn tiếp tục được cử tham gia đào tạo, nội dung tiếp nhận của CBCX đó bị trùng lắp. Bên cạnh đó, có những cán bộ rất cần kiến thức bổ sung để thực hiện tốt hơn cho nhiệm vụ của mình thì ít được quan tâm chọn cử, nhất là việc chọn cử đi bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Ví dụ: việc bồi dưỡng kiến thức xây dựng Đảng dành cho cấp ủy viên cơ sở, thường chỉ chọn cử bí thư, phó bí thư phụ trách công tác đảng, còn những cấp ủy viên khác ít được tham gia, trong khi đó họ chưa am tường về công tác đảng, về hoạt động cấp ủy. Đa số CBCX đã có trình độ chuyên môn ở bậc cao đẳng, đại học, nhưng lại không phù hợp với vị trí việc làm, nhưng chưa được chú ý chọn cử tham gia những khóa đào tạo bổ sung chuyên môn cho phù hợp. Việc chọn cử CBCX đưa đi bồi dưỡng thường thiếu sự kiểm tra, giám sát của đơn vị chủ trì, nên có những CBCX không thuộc đối tượng vẫn được cử đi bồi dưỡng. Hiện nay, chương trình, nội dung ĐT, BD CBCX rất phong phú, đa dạng, nhưng do yêu cầu nhiệm vụ phải thường xuyên trực tiếp giải quyết công việc, có những vị trí quan trọng như bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND, hoặc bí thư đồng thời chủ tịch UBND, việc cử họ đi ĐT, BD nhiều ngày sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động ở cơ sở. Vì thế, những cán bộ này thường khó bố trí tham gia các khóa ĐT, BD. Cũng có những chương trình, nội dung bồi dưỡng dành cho nhiều đối tượng như: bồi dưỡng kiến thức hội nhập quốc tế, kiến thức về QLNN, bồi dưỡng cập nhật kiến thức
  • 96. 91 về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... nhưng do điều kiện kinh phí hạn chế, việc chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD bị giới hạn. Kết quả điều tra cho thấy, có 132/500 người được hỏi (chiếm 26,4%) cho rằng khâu quy hoạch, chọn cử CBCX đi ĐT, BD còn bị động; có 60/500 ngươi được hỏi (chiếm 12,0%) cho rằng tuy có thực hiện quy hoạch nhưng không gắn chặt với ĐT, BD; có 40/500 người được hỏi (chiếm 8,0%) cho rằng công tác này còn nhiều hạn chế, bỏ ngõ. 3.1.2.4. Về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, công tác quản lý và chuẩn bị cơ sở vật chất, đầu tư kinh phí cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã * Công tác xây dựng đội ngũ giảng viên Trong tuyển chọn giảng viên chưa có lộ trình, quy trình chặt chẽ, chưa đúng đối tượng, tiêu chuẩn, còn biểu hiện nể nang, cảm tính, hình thức, chưa xuất phát từ nhu cầu thực tế của đơn vị, thiếu tính kế thừa theo độ tuổi. Do đặc điểm ở ĐBSCL ít có cơ sở đào tạochuyênngànhLLCT,nên việc tuyểnchọn giảngviênLLCTgặpnhiều khó khăn.Nhiều người được tuyển làm giảng viên từ các ngành khác nhau như cử nhân sư phạm lịch sử, cử nhân sư phạm ngữ văn, cử nhân ngữ văn, tiếng Anh, địa lý, nông nghiệp, thủy sản... ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ giảng viên. Việc tuyển dụng giảng viên từ nguồn các sở, ban, ngành có năng lực sư phạm tham gia giảng dạy được chú trọng, nhưng rất khó, vì cán bộ đã có vị trí công việc ổn định. Do chưa chú trọng đúng mức đến yếu tố năng khiếu, trình độ, kỹ năng…, nên vẫn còn tình trạng sau khi được ĐT, BD trở về để làm giảng viên, nhiều người không phát triển được thành giảng viên, buộc phải chuyển sang các bộ phận chuyên môn khác, thậm chí phải nghỉ việc. * Công tác ĐT, BD giảng viên Công tác đào tạo đội ngũ giảng viên ở một số TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL chưa được quan tâm đúng mức, chưa có kế hoạch dài hạn và liên tục, có trường hợp giảng viên được cử đào tạo không phù hợp chuyên môn giảng dạy. Việc cử giảng viên đi đào tạo tập trung còn khó khăn, giảng viên thích được học gần hơn đi xa, thích học không tập trung hơn học tập trung. Công tác bồi dưỡng, tập huấn đội ngũ giảng viên ở một số TCT còn hạn chế, số lượng giảng viên được cử đi bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn còn ít, một số giảng viên do chi phối nhiều việc nên chưa chú tâm học tập. Công tác bồi dưỡng ngạch, bậc vẫn một số bất cập. Số lượng giảng viên đạt trình độ giảng viên chính,
  • 97. 92 giảng viên cao cấp chưa nhiều, trong khi đòi hỏi của học viên ngày càng cao. Cụ thể: giảng viên cao cấp, giảng viên chính mới chỉ chiếm 35,6% trên tổng số giảng viên của các TCT ở ĐBSCL (trong đó giảng viên cao cấp chỉ chiếm khoảng 3,61%). Công tác bồi dưỡng, giáo dục chính trị - tư tưởng, đạo đức, lối sống cho đội ngũ giảng viên ở một vài tỉnh, thành phố ở ĐBSCL còn những mặt hạn chế nhất định như: hình thức triển khai chủ yếu truyền đạt một chiều từ trên xuống, chưa phát huy việc thảo luận, tranh luận trong sinh hoạt đảng; công tác nắm bắt dư luận, giải thích và định hướng tư tưởng cho giảng viên chưa được chú trọng. Ở một số TCT, công tác giáo dục chính trị - tư tưởng hiệu quả chưa cao, một số giảng viên chưa nghiêm túc trong học tập, nghiên cứu nghị quyết. TCT Sóc Trăng đã chỉ ra: một số cấp ủy, chi bộ việc triển khai, quán triệt, đôi lúc thiếu chủ động, chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao; việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tuy có chuyển biến tích cực, nhưng thiếu chiều sâu, việc làm theo tấm gương của Bác chưa nhiều. TCT Tiền Giang đánh giá: việc xây dựng tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến để nhân rộng còn lúng túng về phương pháp, cách làm theo tấm gương phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh. Một số TCT chưa đầu tư thích đáng cho việc bồi dưỡng về sử dụng phương pháp giảng dạy tích cực và trang bị dụng cụ hỗ trợ giảng dạy, nên hiệu quả của vận dụng phương pháp giảng dạy tích cực chưa cao. Vẫn còn một số giảng viên ngại thay đổi phương pháp giảng dạy, tiếp cận công nghệ thông tin, các phương tiện hỗ trợ giảng dạy hiện đại hạn chế, nên chất lượng, hiệu quả giảng dạy chưa cao. Hoạt động thao giảng, dự giờ ở một số trường chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức, ảnh hưởng đến đổi mới phương pháp giảng dạy. Hoạt động dự giờ ít được chú ý, chưa tạo nên phong trào rộng khắp. Công tác thao giảng ở một số trường còn tổ chức theo phong trào, chỉ tập trung vào những năm có hội thi giảng viên dạy giỏi toàn quốc để tuyển chọn giảng viên dự thi, chưa thực hiện được thường xuyên hằng năm theo nền nếp, kế hoạch. Công tác nghiên cứu khoa học ở các TCT ở ĐBSCL vẫn còn những khó khăn, vướng mắc nhất định. Các hoạt động khoa học như tổ chức hội thảo, tọa đàm khoa học hiệu quả chưa cao. Số lượng các đề tài khoa học các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh, thành phố, còn ít và kết quả loại giỏi, loại xuất sắc chưa nhiều. Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành trong nước và quốc tế còn hạn chế về số lượng. Điều này cho thấy, năng lực tổ chức, tư duy khoa học, phương pháp nghiên cứu và triển khai đề tài khoa học của đội ngũ giảng viên ở các TCT còn nhiều bất cập.
  • 98. 93 Công tác nghiên cứu thực tế của giảng viên tuy được quan tâm, nhưng hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn giảng dạy. Hầu hết giảng viên LLCT các TCT đều được ĐT, BD khá bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ. Tuy nhiên, khả năng liên hệ lý luận với thực tiễn trong các bài giảng của giảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, nhất là đối với giảng viên trẻ. Một số tỉnh ở ĐBSCL chưa coi trọng đúng mức việc bồi dưỡng kiến thức thực tế cho giảng viên. Khảo sát các TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL cho thấy, vấn đề trải nghiệm thực tế của giảng viên còn nhiều hạn chế. Thời gian các giảng viên đi nghiên cứu còn ít, đôi khi chưa đảm bảo theo quy chế, chất lượng, hiệu quả của các đợt nghiên cứu chưa cao. * Công tác quy hoạch, đánh giá, bố trí, sử dụng giảng viên Một số tỉnh, thành phố ở ĐBSCL chưa có quy hoạch, kế hoạch tổng thể và lâu dài xây dựng đọi ngũ giảng viên, chủ yếu theo nhiệm kỳ, đôi khi số lượng, chất lượng và cơ cấu vẫn chưa đảm bảo theo quy định. Công tác này chủ yếu thực hiện ở cấp khoa, phòng, tập trung vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, chưa làm tốt quy hoạch giảng viên gắn với đề án vị trí việc làm dẫn đến đội ngũ cán bộ, giảng viên vừa thừa, vừa thiếu. Công tác đánh giá giảng viên ở một số cơ sở ĐT, BD còn chung chung, có tình trạng nể nang, hình thức, cào bằng. Đánh giá giảng viên ở một số nơi còn có biểu hiện chưa được công tâm, khách quan, chưa đánh giá được đúng người, đúng việc, phẩm chất và năng lực. Công tác bố trí, sử dụng giảng viên có lúc, có nơi chưa đúng người, đúng việc, thậm chí tham gia giảng dạy các phần học chưa đúng chuyên ngành được đào tạo. Thực tế cho thấy, hầu hết giảng viên khoa dân vận ở các TCT đều không được học chuyên ngành công tác dân vận, vì chuyên ngành này mới được mở ở trình độ đại học vào năm 2016 ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Có trường ở khoa Xây dựng Đảng nhưng chưa có giảng viên chuyên ngành Xây dựng Đảng mà phải bố trí các chuyên ngành khác về giảng dạy. * Quản lý giảng viên và chính sách và điều kiện làm việc đối với giảng viên. Cơ chế quản lý giảng viên ở một số trường còn cứng nhắc, thiên về quản lý hành chính, chưa phát huy được năng lực của giảng viên. Cơ sở vật chất trang thiết bị không đồng bộ chưa bảo đảm cho quá trình dạy học, nghiên cứu. Về môi trường làm việc của giảng viên, ở một số nơi tính dân chủ, công bằng chưa tốt. Chế độ, chính sách đối với đội ngũ giảng viên vẫn còn nhiều bất cập, việc hỗ trợ kinh phí cho giảng viên thực hiện các nhiệm vụ như giảng dạy, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế và các công tác khác gặp nhiều khó khăn; chế độ, chính sách khuyến khích tham gia
  • 99. 94 các ĐT, BD chưa đảm bảo để giảng viên an tâm học tập; công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho giảng viên có nhiều hạn chế. * Công tác xây dựng đội ngũ báo cáo viên Ở các tỉnh, thành phố ĐBSCL công tác lựa chọn để bổ sung vào đội ngũ báo cáo viên bảo đảm đúng tiêu chuẩn quy định, để các cơ quan có thẩm quyền quyết định công nhận báo cáo viên gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ báo cáo viên chuyên nghiệp, báo cáo viên trải nghiệm thực tiễn, có nhiều kinh nghiệm tham gia ĐT, BD đội ngũ CBXC ngày càng ít đi, không tương xứng với yêu cầu ĐT, BD CBCX. Đội ngũ báo cáo viên đạt chuẩn, giữ chuẩn không nhiều. Có những người được công nhận báo cáo viên, nhưng không có kỹ năng và khả năng giảng dạy. Cũng có những báo cáo viên được công nhận, kể cả báo cáo viên Trung ương, nhưng rất ít, thậm chí không tham gia vào công tác ĐT, BD. Công tác quản lý hoạt động của đội ngũ báo cáo viên còn nhiều bất cập. Một số ban tuyên giáo tỉnh, thành phố ở ĐBSCL chưa thống kê, đánh giá kịp thời và đầy đủ kết quả hoạt động của các báo cáo viên; chưa duy trì sinh hoạt định kỳ đội ngũ báo cáo viên để đánh giá tình hình. Việc cung cấp tài liệu, thông tin tình hình, nắm bắt những vấn đề xã hội quan tâm cho báo cáo viên có mặt còn hạn chế. Số lượng báo cáo viên đông, nhưng chưa được khai thác hết năng lực của mỗi cá nhân. Phương thức hoạt động, nội dung thông tin định hướng còn mang nặng tính một chiều, chưa chú trọng đúng mức tính phản biện, lắng nghe, giải đáp thỏa đáng. Số báo cáo viên tham gia các hội nghị định kỳ chưa bảo đảm. Đội ngũ báo cáo viên phối hợp với cơ sở ĐT, BD ngày càng ít đi. Chất lượng không được nâng lên. Mặt khác, họ cũng e ngại tham gia ĐT, BD, vì không phải là sở trưởng của họ. Chế độ chính sách dành cho báo cáo viên còn nhều bất cập. Qua khảo sát về chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, có 93/500 người hỏi (chiếm 18,6%) cho rằng đáp ứng nhiệm vụ ở mức trung bình; có 23/500 người (chiếm 4,6%) cho rằng chưa đáp ứng nhiệm vụ ĐT, BD. * Công tác tổ chức, quản lý ĐT, BD CBCX Việc quản lý, theo dõi quá trình ĐT, BD CBCX, bám sát lớp học vẫn còn có lúc, có nơi buông lỏng; chưa có biện pháp hữu hiệu để quản lý học viên, các tiêu chí kiểm tra, đánh giá học viên chưa phản ánh đúng thực tế chất lượng đào tạo. Đối với các lớp đào tạo đại học, cao cấp LLCT thực hiện phối hợp với các học viện, các trường đại học, thì công tác quản lý còn buông lỏng, giảng viên được phân công chủ nhiệm lớp thiếu kiểm tra, uốn nắn đối với học viên. Các giảng viên tham
  • 100. 95 gia giảng dạy cũng ít tiến hành kiểm tra sĩ số lớp học. Hoạt động kiểm tra, thi cử thực hiện chưa nghiêm túc. Đối với các lớp đào tạo trung cấp lý LLCT - HC, các lớp đào tạo lồng ghép chính trị với nghiệp vụ, công tác quản lý đôi lúc thực hiện chưa nghiêm quy chế đào tạo. Chính vì thế, một số cán bộ tham gia học tập còn mang tính đối phó. Đặc biệt, đối với các lớp bồi dưỡng, hoạt động quản lý quá trình giảng dạy. học tập rất ít được quan tâm, số lượng cán bộ thực học so với danh sách tham gia bồi dưỡng thường không bảo đảm. Sự phối hợp giữa cơ sở ĐT, BD với đơn vị chọn cử CBCX đi ĐT, BD để quản lý quá trình học tập của CBCX chưa được thực hiện thường xuyên. Hoạt động quản lý nội dung, chương trình, đội ngũ giảng dạy còn yếu. Trong nội dung ĐT, BD vẫn còn sự trùng lắp, vẫn còn việc bồi dưỡng những nội dung kiến thức cũ không đáp ứng được kỳ vọng của CBCX cũng như mục tiêu ĐT, BD CBCX. Công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm trong công tác ĐT, BD của ban chỉ đạo, của các cấp ủy, cơ quan chức năng tuy có được quan tâm, nhưng vẫn còn hình thức. Việc nhận định thực chất hạn chế, thiếu sót từ khâu tổ chức, quản lý, khâu giảng dạy, khâu học tập còn dừng lại mức độ chung chung, chưa mạnh dạn chỉ ra hạn chế, thiếu sót do đâu, ai chịu trách nhiệm, tinh thần, thái độ học tập của CBCX chưa tốt cũng không kiểm điểm, xử lý. * Sự chuẩn bị cơ sở vật chất, đầu tư kinh phí cho công tác ĐT, BD CBCX Mặc dù các đơn vị ĐT, BD ở ĐBSCL đã có sự đầu tư đáng kể về cơ sở vật chất phục vụ hoạt động ĐT, BD cán bộ, nhưng chưa đồng bộ và còn nhiều hạn chế. Các TCT tỉnh, thành phố đều được đầu tư xây dựng phòng học với quy mô giảng đường, phục vụ cho phương pháp hiện đại, nhưng lại không được trang bị một số phương tiện giảng dạy đồng bộ; các phòng học, giảng đường mới chỉ dùng lại ở mô hình dùng cho báo cáo nghị quyết. Số lượng phòng học hiện đại hiện vẫn còn rất ít, có TCT tỉnh chỉ có vài phòng; hầu hết các TTBDCT cấp huyện chưa có phòng học hiện đại. Hiện nay, cơ sở vật chất của hệ thống cơ sở ĐT, BD cán bộ của nhiều các tỉnh ĐTSCL đều đang xuống cấp, nhất là ở các TTBDCT cấp huyện: thiếu các phòng học, phương tiện học tập như ghế, bàn, bảng; phòng ở của học viên chất lượng kém; phương tiện kỹ thuật cho học tập, giảng dạy còn đơn sơ, lạc hậu; hệ thống thư viện chưa được đầu tư tương xứng. Qua khảo sát 11 TTBDCT cấp huyện ở tỉnh Sóc Trăng, có 06 đơn vị phòng học, bàn ghế, nơi nghỉ quá cũ kỹ; 04 đơn vị không có đầy đủ các phương tiện phục
  • 101. 96 vụ ĐT, BD; 02 đơn vị không có nơi nghỉ cho học viên… TCT thành phố Cần Thơ đang trong giai đoạn quy hoạch xây dựng mới, nên điều kiện vật chất hiện tại phục vụ hoạt động ĐT, BD gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều TCT, TTBDCT cấp huyện các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đều đang trong quá trình đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, do vậy vẫn còn xảy ra hiện tượng thiếu nơi ăn, chốn nghỉ cho học viên trong quá trình tổ chức các khóa ĐT, BD, nhất là các khóa bồi dưỡng có số lượng người học đông từ trên 100 người trở lên. Tài liệu học tập, công tác phục vụ ở những lớp bồi dưỡng đôi lúc không đáp ứng kịp, có những lớp bồi dưỡng không có tài liệu. Một số cơ sở ĐT, BD không có khu thể dục, thể thao. Chính sách ĐT, BD các bộ đều được các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL chú trọng ban hành, nhưng chưa đồng bộ, thống nhất, còn có sự bất hợp lý so với sự thay đổi về kinh tế, xã hội. Do chưa được chi tiết hóa, chưa nhất quán giữa các địa phương và trong từng địa phương, nên chính sách còn có sự vận dụng khác nhau. Cùng một quy định, nhưng mỗi địa phương thực hiện một cách, thậm chí trong cùng một tỉnh, một thành phố, có những hoạt động tương tự nhau, nhưng áp dụng chính sách để giải quyết lại rất khác nhau. Chẳng hạn, về hỗ trợ tiền ăn, nghỉ về ĐT, BD: Tỉnh Hậu Giang: đi học trong tỉnh 25.000 đồng/người/ngày, đi học ngoài tỉnh 30.000 đồng/người/ngày, tại Hà Hội và thành phố Hồ Chí Minh 35.000 đồng/người/ngày, đối với cán bộ là nữ hỗ trợ thêm 200.000 đồng/người/tháng [180, tr 3]. Tỉnh Đồng Tháp: đi học trong tỉnh 25.000 đồng/người/ngày, đi học ngoài tỉnh 50.000 đồng/người/ngày, tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh 60.000 đồng/người/ngày [179, tr 4-5]. Tỉnh Kiên Giang: đi học trong tỉnh 20.000 đồng/người/ngày, đi học ngoài tỉnh 30.000 đồng/người/ngày; cán bộ nữ, dân tộc thiểu số được trợ cấp thêm 50.000 đồng/người/tháng [104, tr 3-4]. Nhìn chung, nhiều chính sách ban hành đã cách đây khá lâu (Cần Thơ, Kiên Giang), trong khi vật giá, giá dịch vụ ngày càng tăng. Mặt khác, điều kiện tài chính, thu nhập từ lương của CBCX còn rất hạn chế, các chế độ chính sách hỗ trợ như trên chưa tạo động lực, khuyến khích cán bộ tham gia ĐT, BD. Nhiều tỉnh có chủ trương, chính sách khuyến khích tự học tập, các cơ quan quản lý cán bộ tạo điều kiện về mặt thời gian, nhưng không hỗ trợ về kinh phí học tập, do đó động lực tham gia học tập của cán bộ bị giới hạn. Một bộ phận CBCX thấy tuổi đã cao, nên từ chối không tham gia các lớp ĐT, BD.
  • 102. 97 3.1.2.5. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động ĐT, BD tuy được các chủ thể ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL chú trọng, nhưng chưa kịp thời, chưa thường xuyên, chưa đúng kế hoạch đề ra. Các nội dung tiến hành kiểm tra, giám sát, thanh tra chưa bao trùm hết, mới chỉ dừng lại ở một vài hoạt động trong công tác ĐT, BD CBCX. Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Bộ Nội vụ chưa chủ động và phối hợp kiểm tra, thanh tra công tác ĐT, BD các cơ các cơ sở ĐT, BD, còn bỏ ngỏ thời gian dài đối với các cơ sở ĐT, BD ở các tỉnh, thành phố ĐBSCL. Vì thế, trong thực hiện chương trình, nội dung, một số TCT còn cắt xén, có khi tự xây dựng ra khung chương trình đào tạo không đúng quy định, thẩm quyền. Các các cơ quan tham mưu cho tỉnh ủy, thành ủy ở ĐBSCL thiếu kiểm tra, giám sát khâu quy hoạch, tuyển chọn đối tượng CBCX đưa ĐT, BD, dẫn đến có những cán bộ được quy hoạch thì không được tham gia, có cán bộ không quy hoạch lại được tham gia học tập. Mặt khác, một số tỉnh ủy, thành ủy ở ĐBSCL thiếu kiểm tra, giám sát việc xây dựng nguồn nhân lực ở các cơ sở ĐT, BD, dẫn đến đội ngũ giảng viên vừa thừa, vừa thiếu, nhiều TCT đội ngũ giảng viên chưa đảm bảo đúng quy định của Trung ương là phải 2/3 trên tổng số biên chế, trong khi bộ phận phục vụ, quản lý lại nhiều hơn đội ngũ giảng viên. Các cấp ủy cử CBCX đi ĐT, BD thiếu sự chủ động theo dõi, nắm bắt tình hình học tập của cán bộ cấp mình. Các cơ sở ĐT, BD thiếu chú trọng công tác kiểm tra, giám sát và thanh tra hoạt động ĐT, BD của đơn vị. Cụ thể như: không giám sát thường xuyên hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên, báo cáo viên về giáo án, giờ giấc lên lớp, về chất lượng giờ giảng. Lãnh đạo cơ sở ĐT, BD tiến hành kiểm tra trong việc coi thi, kiểm tra, quản lý học viên không, các cơ sở vật chất, các khâu phục vục ĐT, BD chưa thường xuyên, dẫn đền còn nhiều sai sót, yếu kém xảy ra. Hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra tài chính của thanh tra nhà nước, ủy ban kiểm tra tỉnh, thành ủy ở ĐBSCL đối với hoạt động ĐT, BD CBCX của các cơ sở ĐT, BD chưa thường xuyên, có những đơn vị từ trước cho đến nay chưa thanh tra, kiểm tra lần nào. Vì thế, có đơn vị khi tiến hành kiểm tra, thanh tra tài chính thì phát hiện có nhiều sai phạm, buộc phải xử lý. Kết luận của kiểm tra, giám sát, thanh tra công tác ĐT, BD CBCX đã phát hiện có những sai sót, bất hợp lý, nhưng chưa được xử lý kịp thời.
  • 103. 98 3.1.2.6. Việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã Việc chỉ đạo hoạt động sơ kết, tổng kết công tác ĐT, BD chưa thực sự được chú trọng, chưa diễn ra thường xuyên, thậm chí không tiến hành. Điều này ảnh hướng rất lớn đến việc đánh giá công tác ĐT, BD CBCX để có những chỉ đạo hiệu quả hơn cho công tác ĐT, BD CBCX trong thời gian tiếp theo. Nhiệm vụ của ban chỉ đạo ở các khóa ĐT, BD CBCX có nhiệm vụ là tiến hành sở kết, tổng kết hoạt động ĐT, BD, nhưng trên thực tế nhiệm vụ này còn rất hình thức, mới dừng lại ở việc báo cáo đánh giá chung chung, chưa đánh giá sâu sắc, đúng thực chất các mặt trong công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. Qua sơ kết, tổng kết cũng chưa biểu dương, khen thưởng kịp thời cho các cá nhân, tổ chức thực hiện tốt công tác ĐT, BD. Hoạt động đánh giá hiệu quả sau ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL rất ít chú trọng. Do đó, sau khi được ĐT, BD, quan điểm, lập trường, bản lĩnh của CBCX có được nâng lên so với trước hay không; việc vận dụng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ đã được ĐT, BD vào hoạt động thực tiễn lãnh đạo, quản lý hiệu quả như thế nào thì các chủ thể quản lý cán bộ và cơ sở ĐT, BD chưa nắm được. 3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM 3.2.1. Nguyên nhân của ưu điểm Một là, những chủ trương và chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước; quy định của Học viện CTQG Hồ Chí Minh và các nghị quyết, chủ trương của các tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố ở ĐBSCL về ĐT, BD CBCX là nhân tố quan trọng hàng đầu để công tác này đạt ưu điểm và kết quả. Trong thời gian qua, BCHTW Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác ĐT, BD cán bộ, trong đó có đội ngũ CBCX. Các văn bản của Trung ương gồm: Kết luận số 37-KL/TW ngày 02-02-2009 của Hội nghị Trung ương 9 khóa X về “Tiếp tục đẩy mạnh chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Quy định số 164-QĐ/TW ngày 01-02-2013 của Bộ Chính trị “về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”; Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 của BCHTW khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-
  • 104. 99 2014 của Bộ Chính trị “về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý”; Kết luận số 117-KL/TW ngày 20-11-2015 của Ban Bí thư “về công tác đào tạo, bồi dưỡng tại các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2016 của BCHTW khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”... Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương đã ban hành: Kế hoạch số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15-02-2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc “phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006- 2010”; Quyết định số 03/QĐ-TTg ngày 01-7-2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc “phê duyệt định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn đến năm 2010”; Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ về “phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ “về đào tạo, bồi dưỡng công chức”; Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12-8-2011 của Thủ tướng Chính phủ “phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011- 2015”; Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13-6-2012 của Thủ tướng Chính phủ về “phê duyệt chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020”; Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01- 2016 của Thủ tướng Chính phủ “phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025”; Thông tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21-9- 2010 của Bộ Tài chính “quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức”; Thông tư số 03/2011/TT-BNV ngày 25-01-2011 của Bộ Nội vụ “hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức”, quy định cụ thể về việc thực hiện chế độ ĐT, BD và biên soạn, thẩm định chương trình, tài liệu ĐT, BD, tổ chức ĐT, BD và quản lý chứng chỉ ĐT, BD; Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06-6-2011 của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và Đào tạo “quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”; Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC ngày 08-3-2013 của liên Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính “hướng dẫn thực hiện chế độ trả
  • 105. 100 lương dạy thêm giờ đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập”; Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 “về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức”; Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08-01-2018 của Bộ Nội vụ về “hướng dẫn một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức”; v.v.. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện CTQG Hồ Chí Minh) đã ban hành các văn bản như: Quyết định số 1845/QĐ-HVCT- HCQG ngày 29-7-2009 “về việc ban hành chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (hệ Trung cấp lý luận chính trị - hành chính)”; Quyết định số 1479/QĐ-HVCTQG ngày 21-4-2014 “về việc ban hành chương trình đào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành chính”. Quyết định số 1855/QĐ-HVCTQG ngày 21-4-2016 “về việc ban hành Bộ quy chế quản lý đào tạo của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”; Quyết định số 3136/QĐ -HVCTQG ngày 14-7-2016 “về việc điều chỉnh chương trình đào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành chính ban hành kèm theo Quyết định số 1479/QĐ- HVCTQG ngày 21-4-2014 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh”; v.v.. Trên cơ sở các nghị quyết, quyết định, hướng dẫn của Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố và cấp ủy đảng, chính quyền các cấp ở ĐBSCL đã có những quyết sách đúng và phù hợp với hoàn cảnh của mỗi địa phương, như Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 22-9-2006 của Tỉnh ủy Bến Tre “về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2015”; Kế hoạch số 39/KH-UBND, ngày 05-12-2011 của UBND tỉnh Sóc Trăng “về đào tạo cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2011-2015”; Quyết định số 20/2014/QĐ-UBND ngày 30-7-2014 của UBND tỉnh Cà Mau “ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh Cà Mau”... Những chủ trương này đã góp phần quan trọng trong công tác ĐT, BD, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCX của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL trong thời gian qua. Hai là, các cấp ủy, ban ngành, các cơ quan chức năng, các cấp và các cơ sở ĐT, BD cán bộ có sự phối hợp chặt chẽ trong thực hiện nhiệm vụ ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. Các tỉnh ủy, thành ủy, cấp ủy cấp huyện ở ĐBSCL rất quan tâm đến công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX, đã lãnh đạo các cơ quan (ban tổ chức, sở nội vụ, TCT) tiến hành phối hợp rà soát nhu cầu ĐT, BD CBCX, chủ động đề xuất bổ sung kế hoạch
  • 106. 101 hằng năm để tiến hành ĐT, BD kịp thời. Bên cạnh đó, cấp ủy đảng ở cấp xã đã có nhiều chủ trương, giải pháp cụ thể để chăm lo, kiện toàn củng cố đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCX, thường xuyên theo dõi, đề xuất, đôn đốc việc thực hiện công tác ĐT, BD cho đội ngũ CBCX. Do vậy, về cơ bản, nhiều tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã đạt được chỉ tiêu theo Quyết định 163/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các kế hoạch cụ thể về ĐT, BD hằng năm cho CBCX của các tỉnh, thành phố đã đặt ra. Ba là, các cấp ủy, đơn vị chức năng, các cơ sở ĐT, BD đã xây dựng được kế hoạch cụ thể về ĐT, BD cán bộ tương đối hợp lý, bước đầu đã có chiến lược ĐT, BD CBCX lâu dài. Trên cơ sở các văn bản quy định, hướng dẫn của Trung ương và của tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố, các TCT, trung tâm bồi dưỡng huyện, quận, thị xã, thành phố ở ĐBSCL - đơn vị trực tiếp được giao nhiệm vụ ĐT, BD đội ngũ CBCX - đã xây dựng, kế hoạch và triển khai cụ thể từng năm. Các TCT tỉnh, thành phố đều chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể và được thông báo kịp thời đến tất cả các cơ quan quản lý cán bộ của tỉnh, các cấp ủy cấp huyện, ban tổ chức, phòng nội vụ cấp huyện. Qua đó, các cơ quan có thẩm quyền rà soát, đánh giá quy hoạch, chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD phù hợp. Cách làm đó đã giúp công tác ĐT, BD được diễn ra cơ bản đúng kế hoạch, đảm bảo cả về số lượng, tiến độ và chất lượng. Bốn là, các tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ của TCT tỉnh và các sở, ngành của tỉnh, thành phố trong việc chủ động phối hợp với các cơ sở đào tạo khác đa dạng hóa loại hình ĐT, BD cho đội ngũ CBCX. Đây là thế mạnh của các đơn vị tham gia ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. Trong nhiều năm qua, TCT tỉnh, ban tổ chức, sở nội vụ đã chủ động tham mưu với tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố về mở rộng loại hình đào tạo, chủ động phối hợp với Học viện Báo chí và Tuyên truyền mở nhiều loại lớp đại học chính trị, đại học chuyên ngành (trong đó có cấp chứng nhận trình độ cao cấp LLCT); phối hợp với Học viện Hành chính quốc gia (chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh); các trường đại học Cần Thơ, An Giang, Trà Vinh... mở nhiều lớp đại học hành chính, luật, quản lý đất đai, mở loại hình kết hợp đại học văn bằng 2 với trung cấp LLCT-HC... Nhờ đó, đã mở rộng được phạm vi ĐT, BD, đáp ứng các yêu cầu đặt ra về ĐT, BD cho đội ngũ CBCX ở ĐBSCL.
  • 107. 102 Năm là, các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các đơn vị sử dụng CBCX đã có những cơ chế, quy định phù hợp hỗ trợ, khuyến khích CBCX tham gia ĐT, BD. Tuy còn những hạn chế về chế độ, chính sách, nhưng trong những năm qua các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã có những cố gắng lớn trong việc hỗ trợ về tài chính nhằm khuyến khích, động viên CBCX tham gia học tập, bồi dưỡng và cả chính sách dành cho các giảng viên tham gia ĐT, BD cán bộ. UBND tỉnh An Giang đã ban hành Quyết định số 28/2010/QĐ-UBND ngày 25-5-2010 “về việc ban hành Quy định chế độ trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và chính sách thu hút, khuyết khích người có trình độ cao trên địa bàn tỉnh An Giang”. UBND tỉnh Hậu Giang ban hành Quyết định số 30/2014/QĐ-UBND ngày 22-10-2014 quy định “về chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng và chính sách thu hút nhân lực tỉnh Hậu Giang”. UBND tỉnh Long An ban hành Quyết định số 21/2011/QĐ-UBND ngày 13-7-2011 “về việc quy định chế độ đi học đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và mức thù lao đối với giảng viên, báo cáo viên trên địa bàn tỉnh Long An”. UBND tỉnh Tiền Giang ban hành Quyết định số 22/2009/QĐ-UBND ngày 25-8-2009 “về chính sách đào tạo, bồi dưỡng và thu hút cán bộ, công chức hành chính, viên chức sự nghiệp giai đoạn 2009-2015”. Bên cạnh đó, nhiều CBCX đã xây dựng được ý thức tự giác, ham học, tích cực, chủ động tham gia các khóa ĐT, BD tích cực học tập, tự tìm hiểu, nghiên cứu qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các buổi tổng kết, đi tham quan thực tế ở các đơn vị khác… 3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế Một là, một số cấp ủy, chính quyền địa phương và đội ngũ CBCX do hạn chế về trình độ chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác ĐT, BD CBCX đối với sự phát triển KT-XH ở ĐBSCL; do không chú trọng công tác quy hoạch CBCX để ĐT, BD cho nên việc chọn cử cán bộ đi ĐT, BD gặp nhiều khó khăn, ĐT, BD chưa gắn chặt việc sử dụng cán bộ. Ở nhiều nơi, các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương chưa thật sự quan tâm đầu tư và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác quy hoạch, tạo nguồn, xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX dẫn đến chất lượng của đội ngũ cán bộ này còn thiếu và yếu. Cụ thể là, một số địa phương cử CBCX tham gia ĐT, BD không đúng đối tượng, ảnh hưởng lớn đến việc đạt mục tiêu của ĐT, BD. Bên cạnh đó, một bộ phận CBCX còn tâm lý sợ khó, ngại thay đổi, nên chưa tích cực tìm tòi phương pháp học tập phù hợp. Một bộ phận CBCX chưa nhận thức
  • 108. 103 đúng đắn mục tiêu của ĐT, BD mà cho rằng học “cốt để lấy bằng”, “để chuẩn hóa”, nên chưa tích cực chủ động trong việc tiếp thu kiến thức. Nhiều địa phương chưa thực hiện nghiêm túc xây dựng quy hoạch ĐT, BD CBCX, nên việc chọn cử cán bộ tham gia ĐT, BD chưa gắn với quy hoạch. Cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa được quan tâm đúng mứ. Vẫn còn trường hợp cán bộ sau khi đi ĐT, BD không được bố trí sử dụng đúng chuyên ngành đã học, đúng năng lực, sở trường nên không có điều kiện để phát huy những kiến thức đã học. Việc học tập để nâng cao trình độ, vươn lên đảm bảo đủ tiêu chuẩn CBCX theo quy định của Nhà nước chưa được hình thành rõ nét trong đa số CBCX. Hai là, thiếu sự phối hợp nên chương trình, nội dung ĐT, BD CBCX còn có những bất hợp lý, trùng lắp, nặng về lý luận, thiếu thực tiễn và kỹ năng thực hành; đội ngũ giảng viên, báo cáo viên hạn chế về trình độ, kỹ năng truyền thụ. Các cơ quan, tổ chức chưa cùng bàn bạc về nội dung ĐT, BD CBCX, nên vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp, nhất là nội dung bồi dưỡng các chức danh. Việc đổi mới chương trình, nội dung chưa đồng bộ, nhiều lúc coi nhẹ mục tiêu bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới, kỹ năng chuyên môn, rèn luyện phẩm chất đạo đức, phong cách. Giảng viên, báo cáo viên và CBCX tham gia ĐT, BD chưa mạnh dạn chủ động, tích cực trong tự nghiên cứu, học tập. Giảng viên đã quen với việc sử dụng phương pháp thuyết trình, nay chuyển sang phương pháp giảng mới đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức, dành nhiều thời gian hơn cho từng bài giảng, nên dễ nảy sinh tâm lý ngại, nhất là đối với những giảng viên lớn tuổi. Việc đổi mới phương pháp dạy và học chưa được quan tâm triển khai nghiêm túc tới học viên. Việc tự nghiên cứu chuẩn bị bài trước khi lên lớp của học viên còn hạn chế, cộng với một phần tính tự ti, e ngại, nên cơ bản học viên vẫn bị thụ động trước phương pháp giảng dạy tích cực của giảng viên, báo cáo viên làm giảm hiệu quả của công tác ĐT, BD. Ba là, việc xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, lực lượng phục vụ cho hoạt động ĐT, BD chưa được chú trọng đúng mức. Một số cơ sở ĐT, BD ở ĐBSCL hiện nay đang bị hẫng hụt về nhân lực giảng dạy, việc xây dựng đội ngũ giảng viên cơ hữu còn nhiều bất cập, còn biểu hiện sự chắp vá, chưa có TCT nào đạt tỷ lệ 2/3 là giảng viên trên tổng số biên chế chung của đơn vị. Đời sống của một bộ phận giảng viên còn gặp nhiều khó khăn. Việc tuyển dụng giảng viên chưa thu hút được nhiều người có đức, có tài. Công tác ĐT, BD giảng viên ở một
  • 109. 104 số trường chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao. Công tác đánh giá, bố trí, sử dụng giảng viên còn nể nang. Cơ chế, chính sách đối với giảng viên chưa tạo được động lực kích thích giảng viên toàn tâm, toàn ý với nghề. Một bộ phận giảng viên của các cơ sở ĐT, BD ở ĐBSCL chưa nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn để học tập, rèn luyện về chuyên môn, nghiệp vụ: một số giảng viên ngại đi học xa nhà, ngại học tập trung; chưa quan tâm đúng mức đến công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế cũng như ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phương pháp giảng dạy; chưa cập nhật kiến thức mới để cải thiện chất lượng bài giảng. Giảng viên đầu tư thời gian cho việc tự học ngoại ngữ, tin học và các kiến thức xã hội khác để hỗ trợ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn chưa nhiều. Một số ít trường hợp thiếu tu dưỡng về đạo đức, lối sống. Việc tham gia vào các hoạt động chính trị, đoàn thể tại địa phương còn hạn chế. Lực lượng tham gia quản lý còn thiếu hiểu biết, kỹ năng, còn dựa dẫm, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu kiên quyết, lơ là trong thực hiện nhiệm vụ được phân công. Bốn là, kinh phí, cơ sở vật chất và chế độ chính sách cho công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL chưa phù hợp, chưa tạo động lực cho người học và cũng chưa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ĐT, BD. Kinh phí dành ĐT, BD cho đội ngũ CBCX còn ít và thấp, chưa tương xứng với quy mô và yêu cầu, nhất là kinh phí phục vụ cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Các tỉnh ủy, thành ủy luôn mong muốn nâng cao hiệu quả công tác ĐT, BD cán bộ, nhưng việc giao, cấp kinh phí không đồng bộ, ít hơn rất nhiều so với nhu cầu ĐT, BD. Ngoài ra, việc cấp kinh phí đầu tư sửa chữa các cơ sở ĐT, BD rất chậm, nhỏ giọt so với phương án đã được phê duyệt. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ ĐT, BD chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn hoạt động của công tác này, nhất là ở các TTBDCT huyện, quận, thị xã và thành phố. Việc thiếu giảng đường, lớp học đã dẫn đến tình trạng số lượng học viên mỗi lớp thường rất đông, có lớp lên tới hơn 100 người, thiếu trang thiết bị phục vụ dạy và học. Tài liệu học tập cho học viên không đầy đủ. Chế độ chính sách đối với CBCX được cử đi ĐT, BD còn rất hạn chế: mức hỗ trợ CBCX trong ĐT, BD hiện nay còn quá thấp, nhiều chính sách ĐT, BD trước đây có, nhưng nay không còn, như việc hỗ trợ đào tạo đại học, thậm chí cả cao học. Một số chính sách hỗ trợ ĐT, BD ở các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL không thực hiện đúng như hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương. Chẳng hạn, Thông tư số 139/2010/TT- BTC ngày 21-9-2010 quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân
  • 110. 105 sách nhà nước dành cho công tác ĐT, BD CB, CC đã quy định mức hỗ trợ tối đa cho mỗi học viên là 50.000 đồng/người/ngày, nhưng các tỉnh Kiên Giang, Vĩnh Long quy định mức tối hỗ trợ tối đa cho cán bộ ĐT, BD tại tỉnh chỉ là 20.000 đồng/người/ngày; các tỉnh Hậu Giang, Đồng Tháp là 25.000đ/người/ngày. 3.2.3. Những kinh nghiệm Thứ nhất, phải xây dựng được quy hoạch cán bộ, kế hoạch ĐT, BD CBCX cụ thể, sát với điều kiện thực tế từng tỉnh, thành phố ở ĐBSCL. Cần có quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD CBCX cụ thể, căn cứ vào những nghiên cứu, khảo sát khoa học và chi tiết, hướng đến những mục tiêu trước mắt và lâu dài, với hoàn cảnh, điều kiện đặc thù của địa phương theo phương châm ĐT, BD CBCX sát với quy hoạch, rõ địa chỉ sử dụng (của chính cơ sở cử cán bộ đi ĐT, BD), đáp ứng đúng yêu cầu thực tiễn phát triển của cơ sở. Để đảm bảo hoạt động của HTCT cơ sở luôn thông suốt, công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ mới chỉ đảm bảo cho HTCT cơ sở hoạt động liên tục, có tính kế thừa, không thực sự đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của hệ thống - yếu tố phụ thuộc vào trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ. Vì vậy, để bảo đảm cả tính liên tục và hiệu quả của HTCT cơ sở, cần kết hợp làm tốt cả công tác quy hoạch, tạo nguồn và ĐT, BD đội ngũ CBCX. Yếu tố “đầu vào” có tác động rất lớn đến chất lượng ĐT, BD đội ngũ CBCX, đồng thời công tác chiêu sinh, tuyển sinh phải đúng đối tượng, đúng tiêu chuẩn quy định. Để có thể ĐT, BD cho một số lượng lớn CBCX ở ĐBSCL đạt chuẩn, cần đẩy mạnh việc tạo nguồn và ĐT, BD cán bộ. Khi xây dựng kế hoạch ĐT, BD cần chú ý thực hiện các nội dung được quy định trong từng loại chương trình ĐT, BD cho đội ngũ CBCX theo hệ thống chung, song cũng cần hướng vào việc thực hiện các chiến lược, kế hoạch phát triển đã được nêu trong nghị quyết của đảng bộ các cấp tỉnh, huyện, xã. Có như vậy mới có thể xây dựng được những chương trình ĐT, BD có nội dung phù hợp, hữu ích với công việc thực tiễn của CBCX, giải quyết được mối quan hệ giữa công tác ĐT, BD CBCX với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở các địa phương trong từng giai đoạn. Thứ hai, tăng cường chỉ đạo sát sao và sự phối hợp nhịp nhàng của các cấp lãnh đạo, các đơn vị chức năng, giữa đơn vị sử dụng cán bộ và cơ sở đào tạo trong cả quá trình ĐT, BD CBCX.
  • 111. 106 Khi đã có kế hoạch ĐT, BD CBCX với những mục tiêu rõ ràng, cần tập trung chỉ đạo và phối hợp tổ chức thực hiện cho tốt giữa các cơ quan chức năng với các cơ sở đào tạo về chế độ chính sách với giảng viên và học viên, cụ thể bao gồm các cơ quan quản lý tài chính, các đơn vị có cán bộ đi học và nhà trường. Đặc biệt, sự phối hợp này không được gián đoạn, không chỉ trong một thời gian ngắn, mà là cả suốt quá trình cần ĐT, BD. Đồng thời, cần xác định cơ chế phối hợp, có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng cơ quan, tổ chức có liên quan và có sự đôn đốc, kiểm tra thường xuyên việc thực hiện. Phải tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố đối với các đơn vị ĐT, BD trong tỉnh, nhất là TCT và các TTBDCT cấp huyện; phải có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của ban tổ chức, sở nội vụ, của đơn vị cử cán bộ đi ĐT, BD. Phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng ĐT, BD. Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa các địa phương, các cơ quan trong việc tuyển chọn, quản lý, sử dụng CBCX sau ĐT, BD. Thứ ba, coi trọng xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên có trình độ, chuyên môn vững vàng, am hiểu thực tiễn. Đội ngũ giảng viên, báo cáo viên đóng vai trò quan trọng, quyết định chất lượng của quá trình ĐT, BD, do đó cần chú trọng công tác ĐT, BD giảng viên, báo cáo viên. Các giảng viên, báo cáo viên phải có trình độ chuyên môn vững vàng, nắm vững và quán triệt các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và tình hình nhiệm vụ cụ thể của địa phương; phải thường xuyên cập nhật những thông tin mới, các tình huống cụ thể để kịp thời giải đáp các vướng mắc của học viên. Đồng thời, người giảng viên, báo cáo viên phải luôn gương mẫu trong hành động, lời nói, giữ vững phẩm chất chính trị, quan điểm lập trường, đạo đức cách mạng, có phong cách làm việc khoa học theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị, để học viên không chỉ học kiến thức, mà còn học và rèn luyện cả phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách từ người thày. Quan tâm xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên giải quyết kịp thời, thỏa đáng các chế độ, chính sách để giảng viên, báo cáo viên yên tâm, yêu nghề. Thứ tư, nắm chắc đặc điểm của từng loại lớp ĐT, BD, từng loại đối tượng học viên để có phương pháp giảng dạy, quản lý phù hợp.
  • 112. 107 Do đối tượng ĐT, BD là đội ngũ CBCX - những người đã, đang và sẽ tiếp tục thực thi các chức trách, công vụ gắn với tri thức mà họ đang hoặc sẽ được truyền đạt, việc xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch ĐT, BD cho CBCX cần chú ý đến tính chất, đặc điểm của từng loại đối tượng học viên để áp dụng các phương pháp giảng dạy, quản lý khác nhau cho phù hợp như: học viên đã lớn tuổi, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn phải áp dụng phương pháp giảng dạy, quản lý khác với các học viên là cán bộ còn trẻ tuổi (bí thư đoàn thanh niên), cán bộ nữ (chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ)… Chương trình ĐT, BD tập trung phải khác chương trình ĐT, BD vừa làm, vừa học. Chương trình đào tạo phải khác với chương trình bồi dưỡng. Mỗi loại đối tượng CBCX có một chương trình, nội dung bồi dưỡng phù hợp… Đương nhiên, với bất cứ đối tượng CBCX nào, việc ĐT, BD cũng đều phải đảm bảo tính nghiêm túc, thực hiện đúng các yêu cầu của quy chế ĐT, BD đã đề ra. Phải quan tâm đến nhu cầu thực tế của địa phương và nhu cầu của chính CBCX, từ đó xác định rõ cần ĐT, BD những gì người học và xã hội cần, chứ không phải xuất phát từ những gì mà cơ sở đào tạo có. Phải đa dạng hóa chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp ĐT, BD để thích ứng với nhu cầu, đặc điểm, chức trách, chức danh của từng CBCX. Thứ năm, không ngừng quan tâm đầu tư vật chất phục vụ công tác ĐT, BD gắn liền với thực hiện tốt các chế độ, chính sách ĐT, BD CBCX. Việc đầu tư tốt các điều kiện vật chất phục vụ ĐT, BD trong thời gian qua ở các tỉnh, thành ĐBSCL rất được chú trọng. Điều kiện trường, lớp, nơi nghiên cứu, nghỉ ngơi, ăn, ở, các chế độ hỗ trợ học tập được thực hiện tốt giúp cho chất lượng ĐT, BD được nâng lên đáng kể. Hoạt động ĐT, BD diễn ra thuận lợi hơn, hoạt động giảng dạy với đổi mới phương pháp tích cực gắn liền với công cụ, phương tiện hiện đại có điều kiện được thực hiện tốt hơn. Chính sách hỗ trợ cho người học, người dạy, người quản lý được quan tâm đúng mức sẽ là nguồn động viên khích lệ họ tham gia hiệu quả hơn trong công tác ĐT, BD CBCX. Những tỉnh, thành phố ở ĐBSCL có chính sách hỗ trợ cho CB, CC, viên chức nâng cao trình độ học tập sau đại học, như chính sách hỗ trợ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ (Hậu Giang hỗ trợ đào tạo thạc sĩ 70 triệu đồng/người, tiến sĩ 100 triệu đồng/người; Cà Mau hỗ trợ thạc sĩ 60 lần, tiến sĩ 100 lần mức lương tối thiểu chung; Vĩnh Long hỗ trợ thạc sĩ 30 triệu đồng/người, tiến sĩ 50 triệu đồng/người) đem lại hiệu ứng rất tích cực.
  • 113. 108 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 Trong những năm qua các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã xây dựng được đội ngũ CBCX có đạo đức cách mạng, có trình độ LLCT, có năng lực thực tiễn về cơ bản đáp ứng được yêu cầu, thực hiện nhiệm vụ chính trị đặt ra. Có được một đội ngũ CBCX như vậy là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng là sự đóng góp rất tích cực của công tác ĐT, BD, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp ủy đảng, các cơ quan, ban, ngành, cơ sở đào tạo trong xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung ĐT, BD; sự trưởng thành về trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên; sự cải tiến, đổi mới về chương trình, nội dung cách tổ chức, quản lý hệ thống trường, lớp; sự chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết rút kinh nghiệm… Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, công tác ĐT, BD CBCX ở các tỉnh ĐBSCL vẫn còn hạn chế như: chương trình, nội dung thường chậm đổi mới; phương pháp truyền thụ kiến thức chưa phù hợp; cơ sở vật chất, chế độ cho học viên, giảng viên còn nhiều bất cập; sự mất cân đối giữa đào tạo và bồi dưỡng; chất lượng ĐT, BD chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Phân tích, đánh giá cụ thể thực trạng công tác ĐT, BD CBCX của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL trong những năm qua cho thấy đang nổi lên những mâu thuẫn nội tại cần giải quyết. Một là, mâu thuẫn giữa nhu cầu chuẩn hóa trình độ cán bộ cơ sở của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL theo Quyết định số 163/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với năng lực ĐT, BD của các cơ sở đào tạo. Hai là, mâu thuẫn giữa yêu cầu về kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ công tác ĐT, BD CBCX với khả năng hạn hẹp của ngân sách và các ché độ chính sách. Ba là, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao chất lượng nội dung ĐT, BD CBCX với thực trạng hạn chế về trình độ, năng lực của đội ngũ giảng viên. Bốn là, mâu thuẫn giữa yêu cầu học tập thực chất với tâm lý học mang tính đối phó, cốt để có bằng cấp của một số CBCX ở ĐBSCL hiện nay.
  • 114. 109 Chương 4 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN NĂM 2030 4.1. DỰ BÁO CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG 4.1.1. Dự báo các yếu tố tác động đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long Thứ nhất, thành tựu và khó khăn trong công cuộc đổi mới của đất nước và các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL những năm tới tác động sâu sắc đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. Trong những năm tới, đất nước và các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL sẽ có nhiều thay đổi do sự tác động của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, với quyết tâm triển khai thực hiện đổi mới của toàn Đảng, toàn dân, quyết tâm tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, chắc chắn sự nghiệp đổi mới sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực đời sống xã hội; hoạt động CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thành công bước đầu thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới tác động rõ nét đến sự thay đổi đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, nhân dân ở ĐBSCL. Tất cả những thành tựu đó sẽ là cơ sở thuận lợi để củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, trong đó có đội ngũ CBCX ở ĐBSCL; tạo sự phấn khởi, cổ vũ, động viên đội ngũ CBCX tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao năng lực hoạt động và phẩm chất đạo đức cách mạng, tạo nên tính chủ động, năng động, sáng tạo trong công việc cụ thể… Đan xen với những thuận lợi là những khó khăn, thách thức lớn đối với công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX ở ĐBSCL trong thời gian tới. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang vận hành ở Việt Nam hiện nay đã đem lại nhiều thành tựu quan trọng, nhưng cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp đòi hỏi HTCT và đội ngũ CBCX phải giải quyết như: công tác quản lý đô thị và dân cư, quản lý xây dựng, quản lý đất đai, quản lý môi trường, giải quyết việc làm, chống buôn lậu, truyền đạo trái
  • 115. 110 phép, các dịch vụ văn hóa, công tác giữ vững an ninh, trật tự, chống các tệ nạn xã hội... Ngoài ra, mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động tiêu cực đến phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Những thách thức này là những khó khăn lớn đối với công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX ở ĐBSCL, đặc biệt là về trình độ, năng lực quản lý, điều hành, nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, phong cách công tác... Thứ hai, quá trình hội nhập quốc tế và của cách mạng khoa học - công nghệ tác động mạnh mẽ đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. Trong giai đoạn 2016-2021, tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực dự báo có nhiều thời cơ, thuận lợi thúc đẩy Việt Nam hội nhập và phát triển. Ngày nay, trên thế giới cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, đang phát triển mạnh mẽ, tác động đến nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH, Việt Nam đã và đang tiếp thu được những thành tựu khoa học - công nghệ mới, tạo nhiều thuận lợi cho phát triển đất nước. Trong qua trình hội nhập, trao đổi có các chương trình ĐT, BD nguồn nhân lực của các tổ chức quốc tế đã được triển khai; các dự án của các nước phát triển trong lĩnh vực ĐT, BD nguồn nhân lực, cải cách hành chính, QLNN… đang được triển khai ở ĐBSCL; các dự án về phương pháp giảng dạy tích cực đã và đang được áp dụng ngày càng phổ biến ở các TCT tỉnh, các TTBDCT huyện, thị, thành phố… là cơ sở để thúc đẩy, nâng cao chất lượng công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX ở ĐBSCL. Tuy sự tác động mạnh của hội nhập kinh tế quốc tế và các thành tựu của khoa học - công nghệ đem đến cơ hội, nhưng cũng đặt ra thách thức đối với công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL trong thời gian tới. Bên cạnh việc tạo cơ sở, điều kiện thuận lợi cho đội ngũ CBCX tiếp thu các tri thức mới, đổi mới tư duy, có nhiều phương pháp, cách thức khác nhau để tiếp cận và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, việc hội nhập kinh tế quốc tế cũng đòi hỏi CBCX phải thường xuyên tự học, tự rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt, trong đó có học tập công nghệ hiện đại; có bản lĩnh trước những cám dỗ vật chất và có quyết tâm chính trị cao; am hiểu sâu sắc và biết vận dụng sáng tạo chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chủ động, sáng tạo, năng động, nhạy bén, có tầm nhìn xa, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không sợ hy sinh lợi ích cá nhân; biết điều hành công việc một cách khoa học và nghệ thuật; biết đề cao hiệu quả công việc. Tuy nhiên, yêu cầu này mâu thuẫn gay gắt với thực
  • 116. 111 trạng còn một bộ phận không nhỏ đội ngũ CBCX còn có trình độ hạn chế về phẩm chất, năng lực, về trình độ, thiếu quyết tâm vươn lên… Do đó, bộ phận cán bộ này sẽ không theo kịp yêu cầu của sự phát triển, không đủ khả năng gánh vác công việc, dẫn tới tình trạng lúng túng, làm ẩu, làm liều, giáo điều, áp dụng máy móc mô hình, cách làm của nước ngoài. Thứ ba, các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về ĐT, BD cán bộ tác động nhiều mặt đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. Trong giai đoạn cách mạng mới, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, nghị định quan trọng với nhiều quan điểm chỉ đạo tác động sâu sắc đến công tác ĐT, BD, cụ thể như: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…” [70, tr. 205]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng khẳng định nhiệm vụ: “Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp với từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương” [71, tr. 36-37]. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương khóa XII về “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản: Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ “phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025”; Nghị định số 101//2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ “về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức”; Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08-01-2018 “hướng dẫn một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức”; v.v.. Đây là những cơ sở mang tính pháp lý quan trọng để các cấp ủy đảng ở các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL xây dựng mục tiêu, phương hướng và đề ra những giải pháp cụ thể cho công tác ĐT, BDCBCX của địa phương mình. Các nghị quyết Đại hội đại biểu nhiệm kỳ 2015-2020 của các đảng bộ tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đều khẳng định chú trọng đến công tác ĐT, BD cán bộ cơ sở, tiếp tục thực hiện các quyết định về ĐT, BD cán bộ đã và đang triển khai như: quy hoạch nguồn cán bộ, kết hợp chặt chẽ với ĐT, BD để đảm bảo tính kế thừa và liên tục trong bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý; việc bố trí, sử dụng cán bộ chú trọng cơ cấu độ tuổi, trẻ hóa cán bộ, cơ cấu dân tộc, tỷ lệ cán bộ nữ… Đến nay đã hơn hai năm
  • 117. 112 đại hội Đảng các cấp, đội ngũ CBCX ở ĐBSCL đã được củng cố, kiện toàn, là cơ sở để những cán bộ đương chức tiếp tục vươn lên, hoàn thiện bản thân; những cán bộ dự nguồn, cán bộ trong quy hoạch đội ngũ CBCX phấn khởi, tự phấn đấu rèn luyện và học tập thông qua các chương trình ĐT, BD. Những cơ sở thực tiễn này sẽ rất bổ ích cho các tỉnh ủy, huyện ủy, đảng ủy cấp xã cùng với các đơn vị chức năng rút kinh nghiệm, tạo thuận lợi cơ bản để phát huy những ưu điểm, đồng thời khắc phục những khuyết điểm, vướng mắc và đề ra phương hướng, giải pháp cụ thể, phù hợp hơn trong công tác ĐT, BD CBCX trong thời gian tới. Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, thực tế vẫn còn nhiều vấn đề về công tác ĐT, BD chậm được sửa đổi, bổ sung như: có văn bản nghị quyết, chủ trương, chính sách cho đội ngũ CBCX ra đời đã quá lâu, không còn phù hợp với điều kiện thực tế, nhưng chậm được điều chỉnh hoặc thay đổi; có những văn bản ban hành nội dung chồng chéo, khó triển khai thực hiện trên thực tế... Hiện nay, mức lương, chế độ chính sách hỗ trợ cho CBCX còn rất thấp, chưa tương xứng với nhiệm vụ họ đang thực hiện. Cho nên, có nhiều thanh niên sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng không muốn làm việc ở HTCT cấp xã. Thực tế này là một thách thức trong công tác tuyển chọn, quy hoạch, tạo nguồn cho ĐT, BD đội ngũ CBCX ở ĐBSCL trong thời gian tới. Ở các tỉnh ĐBSCL đã có một số CBCX tự nguyện xin thôi công tác, vì thu nhập quá thấp. Thứ tư, việc đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục triển khai cả về chiều rộng và chiều sâu; thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, Trung ương 6 khóa XII sẽ tác động mạnh đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. Đại hội XII của Đảng tiếp tục xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đại hội đã xác định các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản, toàn diện, có hệ thống thể hiện quyết tâm của Đảng nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã phát “hiệu lệnh”, ”thông điệp” mạnh mẽ đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên về quyết tâm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
  • 118. 113 Các cấp ủy đảng của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL trong thời gian tới sẽ tiếp tục cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng, đề ra những chủ trương, giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của địa phương và quyết tâm tổ chức thực hiện. Đưa các chủ trương trên vào công tác ĐT, BD CBCX là cơ sở để bổ sung, đổi mới công tác ĐT, BD CBCX (nhất là khâu đánh giá, quy hoạch, chọn cử, nội dung các chương trình bồi dưỡng cấp ủy, bồi dưỡng theo chức danh..), giúp các chủ thể tiến hành công tác ĐT, BD thực hiện nghiêm túc và triển khai có hiệu quả. Những vấn đề trên vừa là những thuận lợi, nhưng cũng là một áp lực rất lớn đối với các cấp ủy, các đơn vị chức năng trong triển khai thực hiện để đảm bảo nghị quyết đi vào cuộc sống, đem lại những hiệu quả thiết thực trong công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL trong thời gian tới. Thứ năm, các điều kiện địa lý tự nhiên, phong tục, tập quán, truyền thống, tâm lý của nhân dân các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL; vấn đề dân tộc, tôn giáo; âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống lại Đảng, Nhà nước ta còn diễn biến phức tạp sẽ tác động không nhỏ đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. Các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL điều kiện phát triển KT-XH không đồng đều, trình độ dân trí thấp, vấn đề dân tộc, tôn giáo vẫn là những vấn đề nóng… đòi hỏi các cấp, các ngành, đặc biệt là cấp xã, phải năng động sáng tạo, có những chủ trương, biện pháp phù hợp và những nỗ lực bền bỉ, to lớn mới có thể ĐT, BD CBCX đạt các tiêu chuẩn theo như quy định. Những mặt tích cực của phong tục, tập quán, truyền thống, tâm lý của nhân dân các dân tộc ở ĐBSCL luôn được khẳng định như: giàu lòng yêu nước, luôn tin theo Đảng, khắc phục khó khăn, gian khổ, quyết tâm đi theo Đảng xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; không thích phô trương, nói ít, làm nhiều, thật thà, chất phác... sẽ tiếp tục tác động tích cực đến công tác ĐT, BD, đến việc hình thành phong cách, tác phong lãnh đạo gần dân, sát dân, được dân tin tưởng đi theo. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều tập quán, thói quen tiêu cực như: còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại; sống thiếu căn cơ, không lo xa, tiêu xài lãng phí, cách nghĩ giản đơn… Đại bộ phận CBCX xuất thân từ nông dân, một bộ phận là người đồng bào Khmer, nên còn chịu ảnh hưởng nặng nề của những tập quán, thói quen khó thay đổi. Những hạn chế đó sẽ cản trở không nhỏ đến quá trình hình thành và phát triển phong cách của một bộ phận CBCX. Nó không dễ dàng được loại bỏ trong một thời
  • 119. 114 gian ngắn, luôn ngự trị trong chính bản thân những CBCX, ngay cả trong những người tham gia công tác ĐT, BD cho đội ngũ. Vấn đề dân tộc và tôn giáo ở ĐBSCL hiện nay và trong thời gian tới còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch và các phần tử xấu còn tiếp tục lợi dụng các vấn đề dân tộc và tôn giáo để chống phá Đảng và Nhà nước ta, gây mất ổn định chính trị, KT- XH, gây khó khăn cho các cấp ủy, chính quyền địa phương như: kích động đồng bào Khmer đòi đất, khiếu kiện đông người vượt cấp, đòi thành lập “Nhà nước Đềga”, truyền đạo trái phép, xúi giục tín đồ không chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước… Điều này đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền và đội ngũ CBCX ở ĐBSCL phải nắm vững các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về dân tộc và tôn giáo, làm tốt công tác vận động đồng bào dân tộc và tín đồ tôn giáo; kiên trì, khéo léo, linh hoạt trong xử lý tình huống. Chương trình, nội dung ĐT, BD CBCX cũng cần quân tâm đến những vấn đề này. Thứ sáu, những thành tựu và hạn chế trong công tác ĐT, BD đội ngũ CBCTCX ở ĐBSCL thời gian qua cung cấp những kinh nghiệm quý báu trong việc đẩy mạnh hơn nữa công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX trong thời gian tới. Các cấp ủy đảng, các TCT tỉnh, thành phố, các TTBDCT cấp huyện ở ĐBSCL đã có nhiều kinh nghiệm tổ chức thực hiện, đã và đang hình thành đội ngũ giảng viên, báo cáo viên có chất lượng khá cao, chuyên sâu về từng lĩnh vực; cơ sở vật chất cũng đã được chú trọng đầu tư; nhiều nội dung, chương trình đã và đang được cập nhật mới, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Đây là cơ sở, nhân tố quan trọng để tiếp tục đẩy mạnh công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL trong những năm tới đạt kết quả tốt. Hiện nay, đội ngũ CBCX ở ĐBSCL vẫn còn hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; trình độ của số cán bộ trong diện quy hoạch còn thấp, đội ngũ cán bộ dự nguồn cả trước mắt và lâu dài còn thiếu, điều kiện nâng cao trình độ mọi mặt gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, CBCX là cán bộ chủ chốt của HTCT ở cơ sở, được hình thành do bầu cử, nên thường biến động nhất là trong các kỳ đại hội Đảng, đoàn thể cơ sở và sau khi bầu cử HĐND cấp cơ sở, nhiều cán bộ đã được đào tạo lại chuyển công tác hoặc không còn tiếp tục công việc; trong khi đó, nhiều cán bộ được bổ sung lại chưa qua ĐT, BD. Vì vậy, việc tập trung thực hiện có hiệu quả công tác ĐT, BD đã và đang là một yêu cầu tất yếu của đội ngũ CBCX hiện nay và chính là điều kiện, là cơ sở để đảm bảo cho công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL tiếp tục được đẩy mạnh trong thời gian tới.
  • 120. 115 Công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL thời gian qua tuy đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, nhưng vẫn bộc lộ những yếu kém cả về chương trình, nội dung ĐT, BD cũng như khâu đánh giá, quy hoạch, chọn cử, khâu tổ chức thực hiện, quản lý và cơ sở vật chất, khâu kiểm tra, giám sát, đánh giá rút kinh nghiệm. Những yếu kém đó ảnh hưởng không nhỏ đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL trong thời gian tới. Do vậy, cần có sự đánh giá đúng đắn khách quan về vấn đề này, phát huy những ưu điểm, những kinh nghiệm và vượt qua được những hạn chế, yếu kém thúc đẩy công tác ĐT, BD đạt được mục tiêu, hiệu quả cao. Thứ bảy, nhu cầu CBCX cần được ĐT, BD, nhất là bồi dưỡng rất lớn, nhưng kinh phí ĐT, BD hạn hẹp; chưa tách bạch hình thức đào tạo và chương trình, nội dung giữa tập trung và không tập trung; khâu giảng dạy, quản lý ĐT, BD các lớp không tập trung gặp không ít khó khăn. Trên thực tế, do yêu cầu nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ CB, CC cơ sở trong giai đoạn mới, nhu cầu ĐT, BD CBCX là rất lớn. Tuy nhiên, kinh phí bảo đảm, hỗ trợ công tác ĐT, BD CB, CC, viên chức của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL có giới hạn, ngày càng bị thu hẹp lại. Chương trình, nội dung ĐT, BD giữa tập trung và không tập trung không có gì khác biệt, đội ngũ giảng viên, báo cáo viên cũng khó tách bạch rõ nội dung, phương pháp truyền thụ cho phù hợp với đối tượng và hình thức ĐT, BD này. Công tác quản lý đối với các lớp ĐT, BD không tập trung còn đặt ra nhiều thách thức, nhất là số lượng, giờ giấc, sự phối hợp giữa các chủ thể, ý thức tự quản của người học... Điều đó đặt ra phải tìm phương thức hợp lý nhất cho công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL trong thời gian tới. 4.1.2. Mục tiêu 4.1.2.1. Mục tiêu tổng quát Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa X đã chỉ rõ mục tiêu cần đạt được của Chiến lược cán bộ đến năm 2020 là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới” [65, tr. 241]. Muốn đạt được mục tiêu đó, cần quan tâm đến công tác ĐT, BD cán bộ cơ sở, phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực, quan tâm đến cán bộ là người dân tộc thiểu số, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ tại chỗ, có phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu của địa phương.
  • 121. 116 Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức đã xác định mục tiêu ĐT, BD nhằm: Trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước [52, tr. 2]. Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp” [66, tr. 261]. Từ những mục tiêu định hướng trên và từ thực tế của địa phương các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL có thể xác định mục tiêu chung nâng cao chất lượng công tác ĐT, CBCX ở ĐBSCL từ nay đến năm 2030 là: Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực trong công tác ĐT, BD CBCX nhằm nâng cao trình độ LLCT-HC, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực tổ chức thực tiễn cho CBCX các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL, giúp CBCX hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, có uy tín với nhân dân, có đủ tiêu chuẩn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển KT-XH, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. 4.1.2.2. Mục tiêu cụ thể Từ nay đến năm 2030, các cấp ủy cơ sở sẽ qua hai lần đại hội (vào năm 2020 và năm 2025), các cán bộ nhiều tuổi sẽ về hưu, do đó sẽ có sự thay đổi lớn về nhân sự cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở cấp xã… Để đảm bảo thay thế từ 30% đến 40% số cán bộ đương nhiệm, thực hiện được mục tiêu chung, ngay từ thời điểm này, các cấp ủy đảng phải làm tốt công tác chuẩn bị nhân sự, trong đó ĐT, BD cho đội ngũ CBCX ở ĐBSCL cần tập trung phấn đấu đạt được những mục tiêu cụ thể sau: Về số lượng: 98% CBCX đạt trình độ LLCT - HC từ trung cấp trở lên. Trong đó, cần phấn đấu đạt các chỉ tiêu cụ thể: 100% bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND xã có trình độ trung cấp LLCT - HC trở lên (trong đó có 70% có trình độ cao cấp); 100% CBCX được đưa đi bồi dưỡng theo chức danh ít nhất mỗi năm 1 lần. 100% CBCX phải được đi bồi dưỡng theo nghiệp vụ chuyên môn, bồi dưỡng cập nhật kiến thức, mỗi năm ít nhất một lần.
  • 122. 117 Đối với các đối tượng là CBCX dự nguồn, cần thường xuyên mở các lớp đào tạo trung cấp LLCT-HC kết hợp với một nghề nghiệp vụ cụ thể như cử nhân hành chính, trung cấp văn thư, trung cấp kế toán, địa chính, luật… Về chất lượng: từ nay đến năm 2030 phải đảm bảo CBCX đạt chuẩn về LLCT, chuyên môn nghiệp vụ, được rèn luyện và nâng cao đạo đức cách mạng, có phong cách làm việc tốt, lối sống giản dị, chan hòa gắn bó với nhân dân, tôn trọng kỷ luật, nghiêm túc tự phê bình và phê bình. CBCX phải có bản lĩnh chính trị vững vàng; có phong cách lãnh đạo tự chủ, sáng tạo; biết thu nhận và xử lý thông tin nhanh chóng, chính xác; làm việc khoa học, nhiệt tình, luôn gắn lý luận với thực tiễn; đề cao trách nhiệm cá nhân, thống nhất giữa nói và làm; thường xuyên gắn bó với nhân dân, gương mẫu về mọi mặt. CBCX phải có kiến thức sâu về chuyên môn trên lĩnh vực công việc được phân công, nắm vững nghiệp vụ QLNN, luật, linh hoạt xử lý các tình huống, làm tốt công tác dân vận, khéo léo trong hành vi ứng xử hằng ngày với nhân dân. Về cơ cấu: cần thực hiện tốt việc ĐT, BD đội ngũ CBCX ở ĐBSCL đến năm 2030 với tinh thần xác định đúng đối tượng cần ĐT, BD. Đồng thời, đảm bảo tỷ lệ cơ cấu về độ tuổi, giới tính, chú trọng cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. 4.1.3. Phương hướng 4.1.3.1. Phương hướng chung Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ ĐT, BD CBCX trong thời gian tới, trên cơ sở nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và CBCX về vai trò, tầm quan trọng của hoạt động ĐT, BD cán bộ, tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, tập trung tháo gỡ những vướng mắc, khắc phục có kết quả những hạn chế, bất cập trong công tác ĐT, BD CBCX, nhằm nâng cao kiến thức, năng lực quản lý hành chính, quản lý KT-XH, đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành và thực thi công vụ của các CBCX, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển KT-XH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở địa phương. 4.1.3.2. Phương hướng cụ thể Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, việc đẩy mạnh công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL cần tập trung vào các hướng chủ yếu sau: Một là, tuân thủ chặt chẽ yêu cầu về tiêu chuẩn cán bộ; ĐT, BD cán bộ phải vừa đảm bảo hiệu quả KT-XH, vừa chống chủ nghĩa hình thức, mở lớp tràn lan, chạy theo
  • 123. 118 bằng cấp, không chú trọng chất lượng, hiệu quả ĐT, BD; kết hợp chặt chẽ giữa đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ chính trị ở cơ sở với nhu cầu của cá nhân cán bộ, động viên được cử đi học tập; bảo đảm cán bộ trước khi bố trí vào vị trí chủ chốt đã được đào tạo những kiến thức cơ bản về LLCT - HC và về chuyên môn nghiệp vụ. Hai là, dự báo tốt nhu cầu ĐT, BD CBCX trong thời gian tới, ít nhất là từ nay đến năm 2025 định hướng tới năm 2030, trên cơ sở đó chủ động xây dựng kế hoạch, xác định các giải pháp lớn phù hợp, có tính khả thi. Đảm bảo ĐT, BD đúng đối tượng: nguồn cán bộ trong quy hoạch trước mắt và lâu dài, chú trọng con em gia đình có công cách mạng, người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ. Ba là, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, đổi mới chương trình, nội dung ĐT, BD theo hướng thiết thực, phù hợp với yêu cầu từng loại cán bộ; chú trọng việc rèn luyện phẩm chất đạo đức và kiến thức, cả lý luận và thực tiễn, tăng cường bồi dưỡng kỹ năng thực hành. Chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để mở rộng chương trình ĐT, BD đạt chất lượng tốt. Bốn là, củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của các cơ sở ĐT, BD cán bộ. Rà soát, đánh giá lại số lượng, cơ cấu, chất lượng đội ngũ giảng viên, kể cả giảng viên cơ hữu và giảng viên kiêm chức, giảng viên thỉnh giảng. Từ đó, có kế hoạch đảm bảo đủ về số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên nhằm thực hiện tốt yêu cầu ĐT, BD trong thời gian tới. Năm là, đổi mới mạnh mẽ phương pháp giảng dạy, chú trọng nâng cao chất lượng giảng dạy theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy ở các cơ sở ĐT, BD cán bộ; củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý về công tác ĐT, BD; có cơ chế quản lý phù hợp, đáp ứng tốt yêu cầu ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL do thực tiễn đặt ra. Sáu là, mở rộng hoạt động phối hợp giữa cơ sở ĐT, BD với các cấp ủy, đơn vị chức năng trong tỉnh, thành phố ở ĐBSCL và có mối quan hệ phối hợp, chỉ đạo chặt chẽ về chuyên môn của Học viện CTQG Hồ Chí Minh để thực hiện tốt các chương trình, nội dung, các đợt nghiên cứu thực tế cho học viên nhằm gắn lý luận với thực tiễn công tác ở cơ sở; thực hiện tốt phương châm “học đi đôi với hành” và rèn luyện năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy các địa phương, cơ sở có người đi học để quản lý, rèn luyện học viên. Bảy là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, vai trò quản lý của chính quyền địa phương và sự phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể Trung ương đối với công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL.
  • 124. 119 4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN NĂM 2030 4.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã Chỉ có nhận thức đúng về công tác ĐT, BD cho đội ngũ CBCX thì mới có sự đầu tư đúng và trúng cho công tác này và đáp ứng được yêu cầu và mục tiêu đề ra. Nhận thức đúng đắn về công tác ĐT, BD không chỉ đối với cán bộ làm công tác quản lý mà cả đối với cán bộ thuộc đối tượng cần ĐT, BD. Để thực hiện có hiệu quả công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL thời gian tới cần sử dụng biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và các biện pháp hành chính khác cụ thể là: Một là, các cấp ủy đảng, các tổ chức trong HTCT từ cấp tỉnh đến cấp xã cần hiểu đúng vị trí, vai trò tầm quan trọng của công tác ĐT, BD cán bộ, từ đó nghiêm túc thực hiện một cách đầy đủ các nghị quyết của Đảng, chính sách, quy định của Nhà nước về hoạt động ĐT, BD CBCX. Tập trung thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 của BCHTW khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2006 của BCHTW khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thóai về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03-9-2008 của Bộ Chính trị “về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”; Kết luận số 37-KL/TW ngày 02-02-2009 của Hội nghị Trung ương 9 khóa X “về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020”; Quy định số 164-QĐ/TW ngày 01-02-2013 của Bộ Chính trị “về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”; Kết luận số 57-KL/TW ngày 08-3-2013 của Ban Bí thư “về tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”; Kết luận số 117-KL/TW ngày 20-11-2015 của Ban Bí thư “về công tác đào tạo, bồi dưỡng tại các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”; Quyết định số
  • 125. 120 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ về “phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”; Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 của Chính phủ “về đào tạo, bồi dưỡng công chức”; Quyết định số 163/QĐ- TTg ngày 25-01-2016 của Thủ tướng Chính phủ “phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025” và các văn bản khác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan, bộ, ngành Trung ương có liên quan chỉ đạo thực hiện công tác ĐT, BD CBCX. Các tỉnh ủy, thành ủy cần ban hành các nghị quyết chuyên đề, chương trình hành động, thành lập ban chỉ đạo về công tác ĐT, BD cán bộ; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và có các biện pháp chế tài khi các nội dung cụ thể đã đề ra được không thực hiện. Hai là, khắc phục nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của cấp xã và đội ngũ CBCX. Đến nay vẫn còn quan điểm cho rằng, cấp xã là cấp trực tiếp làm việc cụ thể, nên CBCX chỉ cần là những người có uy tín, có kinh nghiệm thực tế trong xã, phường, thị trấn; hoặc có suy nghĩ chỉ có cái bằng, không nhất thiết là bằng chuyên môn gì đều có thể làm được tất cả các vị trí mà không cần phải ĐT, BD. Thực tế đòi hỏi phải nhận thức thức rõ: cùng với sự đổi thay, phát triển của toàn xã hội, yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt hoạt động của HTCT, rất cần những cán bộ trực tiếp ở cấp cơ sở làm việc có kiến thức sâu rộng, có trình độ và bản lĩnh chính trị vững vàng, dám nghĩ, dám làm và làm đúng theo định hướng của Đảng đề ra. Cần đưa những nhận thức này vào các chủ trương, nhiệm vụ và thông qua các biện pháp tuyên truyền chính thống, qua các kênh truyền hình địa phương, sách, báo, đài, tuyên truyền miệng... một cách thường xuyên để cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, CBCX hiểu và nhận thức đúng, suy nghĩ đúng và từ đó thực hiện đúng. Ba là, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp ở ĐBSCL cần xây dựng chiến lược cán bộ của địa phương trong thời kỳ mới. Xác định rõ sự cần thiết phải đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của HTCT cấp xã; không nên chỉ vì nhiệm vụ trước mắt cần cán bộ làm việc cụ thể, hằng ngày mà không đề ra chiến lược, kế hoạch cho cán bộ đi ĐT, BD nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn và LLCT để từ đó xây dựng được đội ngũ CBCX lâu dài, bảo đảm sự kế thừa và phát triển theo hướng ngày càng trẻ hóa cán bộ, bảo đảm chuẩn hóa theo quy định của Đảng với từng chức danh cán bộ ở cơ sở. Từ quy hoạch cán bộ mà lập kế hoạch ĐT, BD CBCX.
  • 126. 121 Bốn là, bản thân mỗi CBCX phải nhận thức được rằng, được cấp ủy đảng và chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện lựa chọn đưa đi ĐT, BD về LLCT, chuyên môn nghiệp vụ là một cơ hội, một điều kiện tốt để học tập nâng cao trình độ, năng lực; phải coi đó vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ. Cần khắc phục tình trạng CBCX thường cho rằng, cứ làm cán bộ rồi thì không cần học tập nữa, vì đã đủ chuẩn rồi, cũng khó thay thế hoặc không dễ bị thay thế hoặc không có ai thay thế được mình; rằng chỉ công tác có một hoặc nhiều lắm là hai nhiệm kỳ, không cần phải học nhiều. Chỉ khi CBCX nhận thức đúng về sự cần thiết, tầm quan trọng của công tác ĐT, BD thì bản thân CBCX mới tích cực, tự giác học tập nâng cao trình độ. 4.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể cùng cấp và của cơ quan hữu quan có liên quan cấp trên đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã Đảng ta đã khẳng định quan điểm: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Theo đó, công tác ĐT, BD phải đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp ủy đảng địa phương và các cấp ủy đảng cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác ĐT, BD cán bộ. Một là, cần thực hiện nghiêm túc việc lựa chọn, quy hoạch làm cơ sở cho ĐT, BD CBCX một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn ở địa phương. Lựa chọn CBCX theo hướng trọng dụng những người đã được đào tạo cơ bản, trọng dụng nhân tài, chú trọng những người có tâm huyết, có khả năng hoàn thành tốt công việc. Để làm được như vậy, phải xuất phát từ khả năng, yêu cầu nhiệm vụ và tiêu chuẩn cán bộ và tiêu chuẩn chức danh để lựa chọn; có biện pháp khoa học trên quan điểm toàn diện và lịch sử - cụ thể để đánh giá đúng thực chất năng lực cán bộ, tránh phiến diện và hình thức; cần loại bỏ quan niệm lựa chọn cán bộ theo kiểu: “sống lâu lên lão làng” hay “con em lãnh đạo”, “đưa đi đào tạo để trống ghế”. Muốn thực hiện tốt việc này cần: Việc xây dựng quy hoạch CBCX phải được tiến hành một cách công khai, dân chủ, trên quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể. Đối với CBCX vùng sâu, vùng biên giới (ở các tỉnh Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Long An), vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số Khmer (ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang), vùng có xã đảo (ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau) cần chú ý những đặc điểm đặc thù (điều kiện tự nhiên, KT-XH, đặc điểm tâm lý dân tộc...) để tiến hành quy hoạch
  • 127. 122 cán bộ phù hợp. Đồng thời, căn cứ tiêu chuẩn chức danh cán bộ theo quy định của Trung ương, kiên quyết không đưa những người không đủ tiêu chuẩn vào quy hoạch cán bộ, vì như thế sẽ không khuyến khích được cán bộ tham gia ĐT, BD, nâng cao trình độ, năng lực. Trong hoạt động bầu cử và sử dụng CBCX, chỉ nên bầu những cán bộ có đủ tiêu chuẩn theo quy định, kiên quyết đưa ra khỏi các chức vụ chủ chốt những cán bộ không đủ tiêu chuẩn về trình độ LLCT, chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định hoặc cố tình chây lười không chịu tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ. Có như vậy mới chấm dứt được tình trạng “có thầy mà không có trò” ở các lớp ĐT, BD CBCX. Khi đó, nhiệm vụ ĐT, BD CBCX mới được thực hiện tốt và chất lượng của đội ngũ cán bộ này ở ĐBSCL mới được nâng lên. Hằng năm cần đánh giá đúng thực chất năng lực của CBCX, để sử dụng cán bộ đúng, hiệu quả từ đó có cơ sở để xây dựng kế hoạch ĐT, BD CBCX phù hợp. Hai là, nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện các khâu của công tác ĐT, BD CBCX Để ĐT, BD cho đội ngũ CBCX đạt hiệu quả, trước hết phải có được đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác này có năng lực, như được đào tạo hệ thống, có kinh nghiệm và am hiểu, có tầm nhìn về công tác này để tham mưu cho các cấp ủy, các lãnh đạo tỉnh, huyện, xã về công tác ĐT, BD cán bộ, từ đó giúp các cơ quan lãnh đạo, các đơn vị chức năng ban hành được quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD; chế độ chính sách đúng với quy định chung và phù hợp với địa phương cũng như khả năng học tập của CBCX ở từng địa bàn, từng khóa học, từng lớp học… Cần trang bị cho cán bộ phụ trách công tác ĐT, BD ở các cấp ủy cấp xã các kỹ năng phân tích, đánh giá đúng thực trạng CBCX, đưa ra nhu cầu đào tạo chuẩn xác trên cơ sở quy hoạch cán bộ; đối với cán bộ cấp huyện, cần nâng cao kỹ năng phân tích, tổng hợp, xử lý dữ liệu nhu cầu đào tạo từ cơ sở; đối với cán bộ cấp tỉnh, cần biết tổng hợp, hoạch định nội dung quy hoạch ĐT, BD mang tính chiến lược, thiết kế những bước đi cụ thể, cách thức sử dụng những nguồn lực trong kế hoạch ĐT, BD, đề xuất các giải pháp hữu hiệu để đạt được mục tiêu. Cuối cùng, cần đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL cần rà soát, củng cố lại đội ngũ cán bộ tham mưu để tăng cường đủ về số lượng và nâng cao chất lượng cán bộ
  • 128. 123 theo hướng: ở cấp tỉnh, cấp xã cần tiếp tục cử đi đào tạo đối với những cán bộ có tuổi đời còn trẻ và có trình độ đại học, cử đi bồi dưỡng những kỹ năng, nghiệp vụ tham mưu đối với những cán bộ đã cao tuổi nhưng còn sức khỏe và khả năng làm việc để công tác đạt hiệu quả cao hơn. Đối với cấp huyện, cần bố trí cán bộ chuyên trách về ĐT, BD, có trình độ, kinh nghiệm tham mưu cho cấp ủy, UBND cấp huyện và làm cầu nối giữa cấp xã với cấp tỉnh trong thực hiện công tác ĐT, BD CBCX. Ba là, nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả QLNN trong công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX. Khắc phục những thiếu sót, yếu kém trong công tác QLNN đối với ĐT, BD đội ngũ CBCX trong thời gian vừa qua, các cấp ủy đảng, đơn vị chức năng nên thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch ĐT, BD đội ngũ CBCX; việc xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát cần sát với thực tế để tổ chức thực hiện có hiệu quả những chỉ tiêu đã đề ra. Các cán bộ được phân công nhiệm vụ này phải bám sát quy hoạch và kế hoạch ĐT, BD cán bộ của cấp tỉnh, cấp huyện và của từng xã, phường, thị trấn để theo dõi, giám sát ngay từ đầu công tác này như theo dõi ngay từ khâu giao chỉ tiêu, kế hoạch, lựa chọn đối tượng để ĐT, BD cho TCT tỉnh, hay thực hiện sự phối hợp với cơ sở ĐT, BD khác, các TTBDCT cấp huyện bảo đảm đúng đối tượng, loại hình và địa chỉ đào tạo. Lãnh đạo, quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí ĐT, BD có ý nghĩa rất quan trọng. Cần tách nguồn kinh phí ĐT, BD cán bộ ra khỏi nguồn kinh phí hành chính để thuận lợi cho việc quản lý và đánh giá hiệu quả của kinh phí ĐT, BD. Từ trước đến nay vẫn còn nhiều tỉnh, thành phố ở ĐBSCL, nguồn kinh phí này vẫn để nằm trong kinh phí hành chính tỉnh chia về cho các huyện; huyện có thể chi cho ĐT, BD CBCX hay chi cho các mục khác, không ai quản lý hoặc quản lý chung chung không rõ ràng, cụ thể, chi tiết. Với cách quản lý như vậy, hằng năm sở tài chính khó nắm được chính xác tổng số tiền chi cho ĐT, BD, dẫn tới không quản lý sát và không đánh giá được quy mô, hiệu quả của ĐT, BD đội ngũ CBCX. Vì vậy, cần tách riêng khoản kinh phí cho ĐT, BD CBCX mới phù hợp. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, theo dõi, nắm bắt tình hình hoạt động ĐT, BD đội ngũ CBCX của các cơ sở đào tạo ở tất cả các khâu. Để làm được việc này, cần định kỳ sơ kết, tổng kết nhằm kịp thời phát hiện những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc, đúc rút những kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện để có những quyết định đúng đắn, kịp thời trong chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện.
  • 129. 124 Bốn là, xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác tổ chức, quản lý ĐT, BD CBCX giữa các địa phương, các cơ quan hữu quan, các TTBDCT cấp huyện, liên kết giữa các TCT tỉnh và các đơn vị ĐT, BD khác. Để nâng cao năng lực hoạt động của các TCT tỉnh, thành phố và các TTBDCT huyện, quận, thị, thành cùng các đơn vị ĐT, BD trong khu vực, cần xây dựng cơ chế phối hợp, chỉ đạo thống nhất, thông suốt giữa tỉnh, thành ủy và UBND tỉnh, thành phố đối với các cơ sở này; phải phân định hợp lý những nội dung nào do tỉnh, thành ủy trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, nội dung nào giao cho UBND tỉnh, thành quản lý; xác định rõ mối quan hệ phối hợp giữa ban tổ chức, sở nội vụ cấp tỉnh với các TCT và các cơ sở ĐT, BD khác của tỉnh, thành phố và ngoài khu vực ĐBSCL. Một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của các TCT tỉnh, thành phố là ĐT, BD cho CBCX, nhưng theo phân cấp quản lý CBCX không thuộc phạm vi quản lý trực tiếp của tỉnh, thành ủy, mà việc quản lý CBCX là do UBND tỉnh, thành phố thực hiện. Trong khi đó, ĐT, BD là nội dung không thể tách rời công tác quản lý cán bộ. Thật khó phối hợp và gây nên sự chồng chéo khi tỉnh, thành ủy lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và phê duyệt kế hoạch ĐT, BD CBCC, viên chức hằng năm của TCT tỉnh, trong khi đó UBND tỉnh quản lý đội ngũ cán bộ này theo quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD CBCX theo định kỳ năm. Tiếp cận theo xu hướng cải cách hành chính, cần xác định rõ TCT tỉnh là đơn vị sự nghiệp cung ứng một loại dịch vụ công - công tác ĐT, BD cán bộ ở địa phương. Ở một số nước trên thế giới, công tác ĐT, BD cho đội ngũ cán bộ được xã hội hóa cao, nhà nước không trực tiếp quản lý các cơ sở đào tạo mà chỉ hỗ trợ, khi cần thiết thì ký hợp đồng mở lớp với cơ sở đào tạo. Chương trình ĐT, BD - theo đó - cần được xây dựng theo nhu cầu của khách hàng là nhà nước. Để đổi mới, tạo cơ chế quản lý, hoạt động thuận lợi cho các TCT tỉnh, thành phố, TTBDCT cấp huyện đảm bảo thực hiện công tác ĐT, BD đạt hiệu quả, cần thực hiện tốt Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03-9-2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X, trong đó nêu rõ: - Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là đơn vị sự nghiệp trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy. - Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở,
  • 130. 125 cán bộ, công chức ở địa phương về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác [4, tr.1]. Như vậy, các chế độ, chính sách cho CBCX đi ĐT, BD; các quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD CBCX sẽ do UBND tỉnh, thành thống nhất quyết định và tổ chức triển khai thực hiện. Kế hoạch ĐT, BD CBCX hằng năm của TCT tỉnh là một bộ phận trong kế hoạch chung của tỉnh. Tỉnh ủy, thành ủy chỉ lãnh đạo công tác quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD CBCX thông qua các chủ trương, nghị quyết, chỉ đạo UBND tỉnh, thành phố triển khai thực hiện. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố là yếu tố quyết định đến chất lượng hoạt động của các TCT tỉnh, thành phố. Vì vậy, các TCT ở ĐBSCL cần tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện của cấp trên. Các trường này cũng cần thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương, phương hướng, chỉ tiêu, kế hoạch do cấp trên giao, đồng thời kịp thời thông tin, báo cáo tình hình hoạt động với tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố. Ngoài ra, các trường cần chủ động tham mưu ý kiến, đề xuất phương án khả thi về ĐT, BD cán bộ cho tỉnh, thành ủy, UBND các tỉnh, thà phố. Ngược lại, tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố nên tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của đối với hoạt động của các TCT. ĐT, BD cán bộ là sự nghiệp chung của cả HTCT, TCT tỉnh, thành phố và các TTBDCT các huyện, quận, thị, thành phố thuộc tỉnh là cơ sở đào tạo, trong đó TCT giữ vai trò trung tâm thực hiện nhiệm vụ này. Do đó, TCT tỉnh, thành phố cần chủ động phối hợp với ban tổ chức tỉnh, thành ủy, sở nội vụ trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD; tích cực làm việc với sở tài chính để giải quyếtkịp thời, dứt điểm những vướng mắc trong việc áp dụng chế độ, chính sách cho giảng viên; giữ mối liên hệ thường xuyên với các địa phương, các cơ quan có cán bộ đi học ngay từ khâu chiêu sinh, trong quá trình ĐT, BD và cả sau khi ĐT, BD. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, trường nên mở rộng quan hệ, tranh thủ sự phối hợp, giúp đỡ của các cơ quan hữu quan, tạo điều kiện thuận lợi cho trường thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao. Việc mở các lớp đào tạo trung cấp LLCT-HC tại chức tại các huyện, quận, thị xã, thành phố của các tỉnh, thành ở ĐBSCL hiện nay chủ yếu được đặt tại các TTBDCT. TTBDCT cấp huyện không phải là cơ quan trực thuộc cấp dưới của TCT
  • 131. 126 tỉnh theo hệ thống dọc. Vì vậy, khi thực hiện nhiệm vụ tại các huyện, quận, thị xã, thành phố, các TCT cần phối hợp chặt chẽ với các TTBDCT trong việc tổ chức và quản lý lớp học, bố trí nơi ăn nghỉ cho giảng viên. Trong trường hợp cần thiết, các trường có thể khai thác, sử dụng đội ngũ giảng viên do các trung tâm quản lý và các báo cáo viên ở tại các huyện, quận, thị, thành phố khi mở lớp. 4.2.3. Đổi mới chương trình, nội dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã 4.2.3.1. Đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng Thứ nhất, Học viện CTQG Hồ Chí Minh khẩn trương bổ sung, cập nhật kiến thức, quan điểm mới của Đảng, Nhà nước vào nội dung, chương trình trung cấp LLCT-HC và triển khai thực hiện thống nhất trong cả trong cả nước. Để phù hợp với điều kiện mới hiện nay của đất nước và khu vực ĐBSCL, Học viện và các tỉnh, thành ủy, UBND các tỉnh, thành phố nên rà soát, xây dựng lại các chương trình, nội dung các lớp bồi dưỡng đã và đang triển khai thực hiện (như các lớp: bồi dưỡng cập nhật kiến thức, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đối tượng 3, 4; bồi dưỡng cấp ủy cơ sở; bồi dưỡng kỹ năng kiểm tra, giám sát của Đảng...; bồi dưỡng cho chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp xã; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND cấp xã; bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đoàn, hội...). Để thực hiện tốt giải pháp này, ban tổ chức tỉnh ủy, sở nội vụ, các TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL cần nắm rõ nhu cầu ĐT, BD hằng năm trong thực tế, tham mưu cho tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch, chương trình ĐT, BD sát với thực tế; các TCT tỉnh cần tham mưu cho tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh ủy, thành quy định cơ cấu, tổ chức biên soạn, thẩm định và quyết định ban hành các tài liệu bồi dưỡng, hoặc xác định nguồn tài liệu bồi dưỡng. Nội dung của các chuyên đề bồi dưỡng nên triển khai theo hướng “cầm tay chỉ việc”, thiết thực, cụ thể, dưới dạng hỏi - đáp, có nhiều ví dụ, bài tập thực hành, tình huống sát thực tế, chú trọng rèn luyện kỹ năng, theo chức trách, chức danh cho từng loại cán bộ; loại bỏ những nội dung lý luận giống nhau ở các lớp học, tập trung xây dựng chương trình học phù hợp, sát thực cho phù hợp với đặc điểm, trình độ, khả năng nhận thức của từng nhóm đối tượng người học. Cách thể hiện trong tài liệu cần đơn giản, dễ hiểu, chú trọng mô hình hóa, phù hợp đối tượng, có tính gợi mở hướng vận dụng thực tế cho học viên. Thời gian khóa bồi dưỡng khoảng 5-7 ngày, chú ý đến mở lớp bồi dưỡng tại cấp huyện, cụm xã, phường, thị trấn.
  • 132. 127 Thứ hai, xuất phát từ đặc thù của khu vực ĐBSCL, để cải tiến, hoàn thiện, hợp lý hóa các chương trình đào tạo phù hợp với đặc điểm, trình độ, khả năng tiếp nhận kiến thức của từng nhóm, từng đối tượng người học. Cần nắm vững quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: huấn luyện chính trị môn nào cũng có, nhưng phải tùy theo mỗi đối tượng mà định ít hay nhiều. Vì thế, đối với chương trình đào tạo trung cấp LLCT - HC cũng cần nghiên cứu điều chỉnh (thực tế có những CBCX bằng đại học, thậm chí là thạc sĩ, cũng có những cán bộ mới chỉ là trung cấp, hoặc cao đẳng) cho phù hợp đối tượng, vừa sức, thiết thực và hiệu quả với người học. Trong chương trình cũng cần chú trọng đưa vào đào tạo kỹ năng, nghiệp vụ nhiều hơn; chương trình bồi dưỡng kiến thức QLNN cho cán bộ cơ sở cũng cần sửa đổi, cập nhật kiến thức mới cho phù hợp với sự phát triển của xã hội… Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện lồng ghép các chương trình nhằm nâng cao tính hiệu quả các lớp đào tạo, khắc phục các nội dung trùng lặp, tiết kiệm thời gian, chi phí. Ví dụ, có thể lồng ghép đào tạo chuyên môn nghiệp vụ với trung cấp LLCT - HC (trung cấp nghiệp vụ thanh vận và trung cấp LLCT - HC; trung cấp nghiệp vụ phụ nữ và trung cấp lý LLCT - HC; trung cấp nghiệp vụ nông dân và trung cấp LLCT - HC); hoặc đào tạo đại học gắn với trung cấp LLCT - HC; hoặc đào tạo LLCT - HC gắn với chương trình bồi dưỡng kiến thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, dân số, chương trình kiến thức chuyên môn về nông nghiệp. Thứ ba, định kỳ hằng năm, Học viện CTQG Hồ Chí Minh nên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho giảng viên của các TCT tỉnh, các TTBDCT cấp huyện để qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng này đội ngũ giảng viên sẽ được cập nhật những quan điểm chỉ đạo, nhận xét, đánh giá, nắm được yêu cầu nhiệm vụ và phương hướng công tác ĐT, BD cán bộ trong thời gian tới của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, mỗi giảng viên sẽ thu nhận được những kiến thức và kinh nghiệm nhất định, qua trao đổi, thảo luận giữa các giảng viên sẽ rút ra được những kinh nghiệm trong công tác giảng dạy. Hiện nay, việc tổ chức các lớp này đã được triển khai nhưng chưa thường xuyên mới chỉ áp dụng đối với giảng viên ở các TCT, chưa áp dụng cho đối tượng là các giảng viên của các TTBDCT cấp huyện. Việc tổ chức các lớp bồi dưỡng này vẫn còn chưa đáp ứng tốt về các nội dung nêu trên. Đối với các báo cáo viên cấp tỉnh, cấp huyện cần thực hiện đúng quy định chế độ báo cáo viên được cập nhật kiến thức thường xuyên do Ban Tuyên giáo Trung ương, ban tuyên giáo tỉnh ủy, thành ủy tổ chức. Tỉnh ủy, thành ủy, UBND tỉnh, thành
  • 133. 128 phố cũng nên phối hợp với Học viện CTQG Hồ Chí Minh mở những lớp tại tỉnh bồi dưỡng phương pháp giảng đạy tích cực, phương pháp giáo dục, bồi dưỡng cán bộ hiệu quả cho đội ngũ giảng viên kiêm chức, báo cáo viên của các tỉnh, thành ĐBSCL. Thứ tư, các cấp ủy cấp huyện có cán bộ đưa đi ĐT, BD nên quan tâm chỉ đạo sát sao việc bố trí sử dụng phù hợp, có hiệu quả đối với các CBCX sau ĐT, BD, đảm bảo trở về công tác theo đúng trình độ, chuyên môn được ĐT, BD có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu công việc đặt ra. 4.2.3.2. Đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng Yêu cầu ĐT, BD cho mỗi chức danh của đội ngũ CBCX là không giống nhau và không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc. Vì vậy, các cấp ủy quản lý CBCX cần thống kê, phân loại các chức vụ CBCX để nắm được số lượng, nhu cầu ĐT, BD từ đó xây dựng kế hoạch mở lớp, xác định thời gian; từ đối tượng cụ thể để bố trí giảng viên, tài liệu học tập, chế độ chính sách cho phù hợp. Làm được điều này sẽ giúp cho cấp ủy và lãnh đạo các địa phương chủ động trong việc cử cán bộ đi học mà vẫn đảm bảo duy trì công việc hằng ngày - đây cũng chính là một bước gắn ĐT, BD với quy hoạch cán bộ, khắc phục tình trạng tùy tiện, chắp vá ở cơ sở để quản lý cán bộ, đánh giá đúng và sát hơn. Đồng thời, việc ĐT, BD cán bộ theo chức danh còn giúp cho việc mở lớp đúng đối tượng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà trường trong giảng dạy và quản lý học viên, giúp cho học viên tiếp thu tốt hơn, từ đó góp phần nâng cao chất ĐT, BD. Đẩy mạnh việc đa dạng hóa các hình thức ĐT, BD. Hiện nay, ở các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL, nhu cầu ĐT, BD cho đội ngũ cán bộ, nhất là cấp xã, ngày càng tăng, không chỉ ĐT, BD cho cán bộ đương chức, mà còn phải ĐT, BD đối tượng tạo nguồn, quy hoạch. Do đó, cần đa dạng hóa các hình thức ĐT, BD theo hướng: kết hợp đào tạo chính quy, dài hạn, tập trung với đào tạo tại chức, ngắn hạn; đổi mới, mở rộng hình thức bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ CBCX. Để thực hiện được điều này, các TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL cần mạnh dạn liên kết với các cơ sở đào tạo khác mở lớp tại trường, cụ thể như phối hợp với Học viện Chính trị khu vực IV mở lớp cao cấp LLCT, phối hợp với Học viện Hành chính mở lớp đại học hành chính; Học viện Báo chí và Truyên truyền, Học viện Phụ nữ, các trường đại học khác ngoài khu vực và trong khu vực mở các đại học chuyên ngành tập trung, tại chức, hoặc lồng ghép. Cần đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng, hiện nay nhu cầu bồi dưỡng CBCX rất lớn. Tuy nhiên, để thực hiện tốt nhiệm vụ bồi dưỡng CBCX, các tỉnh, thành phố ĐBSCL cần chú trọng phát huy cơ sở ĐT, BD tại chỗ như: TCT, trường cao đẳng,
  • 134. 129 trường đại học, trường quân sự của tỉnh, thành, khu vực, các TTBDCT cấp huyện. Ngoài ra, cũng do khung chương trình, nội dung bồi dưỡng khác phong phú, cần chủ động phối hợp với các cơ sở ĐT, BD mời các chuyên gia, báo cáo viên, giảng viên có kinh nghiệm để bồi dưỡng: Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị khu vực IV bồi dưỡng cập nhật kiến thức, phương pháp; Học viện Hành chính, Trường Đại học Nội vụ, Trường Đại học Cần Thơ bồi dưỡng kiến thức QLNN, bồi dưỡng chức danh; Phân hiệu miền Nam Học viện Phụ nữ; Phân viện miền Nam của Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam... Hằng năm, các tỉnh, thành phố ĐBSCL cần dành một khoản kinh phí cho đội ngũ CBCX đi tham quan học tập, nghiên cứu trong nước để học tập, trao đổi kinh nghiệm cách thức làm việc cụ thể, kỹ năng xử lý các tình huống trong thực tế của các tỉnh bạn, các địa phương khác… Nội dung học tập nên tập trung đi sâu ba vấn đề: những kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng Đảng, xây dựng HTCT, quản lý kính tế, văn hóa, xã hội, an ninh trật tự, kinh nghiệm hoạt động các đoàn thể; những mô hình kinh doanh, sản xuất có hiệu quả; tham quan những di tích văn hóa lịch sử và tham quan tiếp xúc các loại hình công nghiệp có dây chuyền công nghệ cao để từ đó giúp cho đội ngũ CBCX có nhận thức toàn diện phục vụ công việc của họ. Cần đẩy mạnh việc tổ chức các hội thảo, hội nghị tổng kết trao đổi kinh nghiệm làm việc của các CBCX giữa các xã, các huyện, các tỉnh trong và ngoài khu vực ĐBSCL - đây thực chất cũng là một trong những hình thức bồi dưỡng rất bổ ích, thiết thực. Đổi mới phương pháp ĐT, BD theo hướng: ĐT, BD theo nhu cầu, kỹ năng, giảng viên lấy người học là trung tâm, gắn lý thuyết với thực hành, lý luận với thực tiễn, quan tâm đến “đầu ra” của quá trình đào tạo, lấy chất lượng, hiệu quả làm mục tiêu chính. Trong điều kiện các TCT tỉnh ở ĐBSCL còn hạn hẹp về kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị còn nhiều thiếu thốn, trình độ học vấn và khả năng tiếp thu của đội ngũ CBCX còn nhiều bất cập, việc đổi mới phương pháp giảng dạy không có nghĩa là phải sử dụng các phương tiện giảng dạy hiện đại như máy chiếu, dùng phần mềm powerpoint.., mà điều quan trọng là phải đổi mới cách dạy học, cách truyền thụ hướng vào rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo, phát huy trí tuệ và sự chủ động, năng động của học viên. Cần tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm giữa giảng viên với học viên và giữa các học viên với nhau. Dạy và học theo cách nêu vấn đề, đặt ra tình huống, dẫn dắt, gợi ý học viên phân tích, đánh giá, suy nghĩ tìm tòi nguyên nhân, cách thức giải quyết, liên hệ nội dung bài giảng với thực tế. Việc đi
  • 135. 130 nghiên cứu thực tế của học viên cần xác định mục đích, yêu cầu cụ thể, sau chuyến đi thực tế phải có bài viết thu hoạch. Các phương pháp thích hợp cần sử dụng ở đây có thể là: tăng cường thời gian thảo luận nhóm, dạy học theo cách nêu vấn đề, ra các bài tập xử lý tình huống và gợi ý các phương án xử lý, tăng cường thời gian nghiên cứu thực tế ở các địa phương, cơ sở, tổng kết thực tiễn, tiếp cận với các mô hình điển hình tiên tiến; mời các cán bộ lãnh đạo, quản lý có kinh nghiệm ở các địa phương, cơ sở về báo cáo, giảng dạy (đối với cán bộ giữ chức vụ trưởng các đoàn thể cần chú trọng phương thức ĐT, BD này)… Những phương pháp này nếu được thực hiện tích cực, sáng tạo sẽ có tác dụng nâng cao hiệu quả, ĐT, BD giúp người học khắc sâu những kiến thức đã được truyền thụ, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng và điều quan trọng hơn là giúp cho học viên phương pháp tư duy, biết cách phân tích và xử lý những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Có cơ chế bắt buộc, động viên, khuyến khích giảng viên, báo cáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy, báo cáo xác định đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong những tiêu chí để đánh giá kết quả công tác của giảng viên, báo cáo viên, thường xuyên tổ chức trao đổi, thảo luận chuyên môn, thao giảng, giảng mẫu trong phạm vi khoa, trường. Đồng thời, cần giúp học viên thay đổi cách học, cách nghĩ chuyển từ lối “học vẹt”, thụ động sang cách học chủ động, tự giác, tự học, sáng tạo trong xử lý, giải quyết vấn đề. Để thực hiện được yêu cầu trên, cần cung cấp đủ giáo trình, tài liệu bổ trợ cho học viên tự nghiên cứu, tìm hiểu, dành thời gian suy ngẫm, thảo luận các vấn đề nêu ra, tạo điều kiện cho học viên không chỉ nghe mà còn trực tiếp trải nghiệm qua thực tiễn, qua bài tập và vận dụng vào các tình huống cụ thể. Cần cải tiến mạnh mẽ nội dung, cách thức kiểm tra, thi và viết tiểu luận, bài thu hoạch cuối khóa. 4.2.4. Đổi mới cách thức tổ chức, quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã 4.2.4.1. Đổi mới cơ chế quản lý Quản lý tốt sẽ đưa hoạt động ĐT, BD của các TCT tỉnh, các TTBDCT cấp huyện đi vào nền nếp và có hiệu quả. Trong thời gian tới, công tác quản lý ĐT, BD nên điều chỉnh, rút kinh nghiệm theo hướng: Cấp ủy cấp xã (nơi có cán bộ được cử đi ĐT, BD) và cấp ủy cấp trên trực tiếp (cấp huyện nắm về đội ngũ CBCX) phải phối hợp chặt chẽ với cơ sở ĐT, BD (TCT
  • 136. 131 tỉnh hoặc TTBDCT cấp huyện) trong suốt toàn quá trình ĐT, BD; cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho học viên tham gia học tập theo đúng tiến độ, thời gian, chương trình lớp học. Không phân công công việc cho cán bộ trong thời gian theo học nhất đối với hình thức đào tạo tập trung; đối với những địa phương mở lớp riêng cho CBCX, cử cán bộ cùng tham gia theo dõi, quản lý lớp học cùng cơ sở đào tạo. Ngoài ra, thành lập ban chỉ đạo lớp học, để theo dõi nắm bắt tình hình học tập của cán bộ, có sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình đào tạo, chủ yếu là đào tạo LLCT - HC. Về việc quản lý giờ làm việc của giảng viên, ngoài các buổi lên lớp không nhất thiết phải máy móc đúng 8 giờ trong một ngày như công chức hành chính mà nên quản lý linh hoạt hơn dựa trên kế hoạch làm việc của cá nhân đã được thông qua và hiệu quả công việc. Việc cấp phát văn phòng phẩm, các chế độ của giảng viên có thể chuyển sang khoán chi thay cho cơ chế “xin - cho” như ở một số nơi hiện nay. Cán bộ lãnh đạo quản lý các khoa của TCT tỉnh, thành nên dành thời gian cho việc quản lý chất lượng bài giảng của giảng viên trong khoa, duy trì chế độ thông qua bài giảng, nhất là đối với những giảng viên mới, giảng viên chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy, để giúp giảng viên mới sớm trưởng thành, sớm có bài giảng chất lượng, cán bộ lãnh đạo quản lý các khoa cần cử giảng viên có kinh nghiệm kèm, hướng dẫn giảng viên mới tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đối với các báo cáo viên (không là giảng viên cơ hữu của TCT) cũng phải chú trọng việc nâng cao chất lượng báo cáo. Các lớp bồi dưỡng đều có kế hoạch trước, báo cáo viên mời có được biết trước yêu cầu về nội dụng, đối tượng, thời gian, địa điểm báo cáo. Vì thế, cần đầu tư nhiều hơn vào nội dung nâng cao chất lượng bài giảng, đồng thời cũng chú trọng rèn luyện kỹ năng thuyết trình, phương pháp báo cáo cho khoa học, sinh động. Công tác chủ nhiệm lớp không được “khoán trắng” cho giáo viên chủ nhiệm mà nên có sự phối hợp chặt chẽ với các khoa, phòng trong trường và phối hợp chặt chẽ với đơn vị mở các lớp ĐT, BD để quản lý chặt chẽ học viên. Quán triệt sâu sắc các yêu cầu về nội quy, quy chế ĐT, BD thực hiện nghiêm túc việc học lại, cấm thi đối với những học viên không đảm bảo số giờ, số buổi lên lớp theo quy định. Thường xuyên liên hệ với cơ quan, địa phương cán bộ đi học, kịp thời có thông báo định kỳ kết quả học tập, rèn luyện của học viên cho cơ quan quản lý cán bộ. 4.2.4.2. Đổi mới cách thức xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã
  • 137. 132 Xây dựng kế hoạch ĐT, BD là khâu không thể tách rời trong công tác ĐT, BD cán bộ. Xây dựng kế hoạch ĐT, BD được tiến hành trên cơ sở quy hoạch cán bộ, nhằm hỗ trợ, phục vụ cho công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ. Điều này đòi hỏi quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD cần có địa chỉ, theo đơn đặt hàng, phù hợp với nhu cầu thực tế của cơ sở, không ĐT, BD một cách ồ ạt, tràn lan, hình thức. Vì vậy, cần đưa công tác xây dựng kế hoạch ĐT, BD cán bộ trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy đảng và chính quyền. Để thực hiện quy trình xây dựng kế hoạch ĐT, BD một cách khoa học và thống nhất thì việc lập kế hoạch ĐT, BD CBCX phải được xây dựng từ chính cấp xã đưa lên, dựa trên nhu cầu thực tế, yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ của từng chức danh. Xây dựng kế hoạch sát thực tiễn có tính khả thi, có định hướng rõ ràng sẽ tạo cơ sở tổ chức thực hiện hoạt động ĐT, BD cán bộ đạt được mục tiêu đề ra. Khi kế hoạch đã được phê duyệt phải được tuân thủ nghiêm, trở thành chỉ tiêu mang tính pháp lý. Việc cấp phát, quản lý, sử dụng kinh phí đào tạo, tổ chức các hoạt động ĐT, BD nhất thiết phải trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD. Đổi mới việc xây dựng kế hoạch quản lý công tác ĐT, BD đội ngũ CBCX ở ĐBSCL trong thời gian tới nên tập trung vào một số nội dung cơ bản sau đây: Trước hết, cấp ủy ở cấp xã và cấp huyện cần xác định được nhu cầu ĐT, BD CBCX về số lượng, đối tượng, nội dung cần ĐT, BD cho từng loại cán bộ nhất là cán bộ thuộc diện quy hoạch và cán bộ mới được bổ nhiệm hay trúng cử. Thứ hai, ban tổ chức tỉnh ủy, sở nội vụ và TCT tỉnh nên có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong xây dựng kế hoạch ĐT, BD cán bộ mang tầm chiến lược, định hướng lâu dài, gắn với quy hoạch cán bộ, tránh đào tạo bị động, ồ ạt, tràn lan, hình thức. Bên cạnh đó, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch để kịp thời điều chỉnh, bổ sung khi có thay đổi. Đồng thời, thường xuyên tổ chức đánh giá sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm khi thực hiện kế hoạch. Thứ ba, chủ động tạo nguồn CBCX để đảm bảo nguồn ĐT, BD về LLCT, về chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật kiến thức theo đúng kế hoạch. Tạo nguồn cán bộ là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, các đảng ủy cấp xã có trách nhiệm phát hiện, bồi dưỡng, giúp đỡ cán bộ nguồn phấn đấu; cấp ủy cấp huyện, cấp tỉnh có trách nhiệm kiểm tra, giám sát, phân bổ chỉ tiêu, tạo điều kiện mở trường lớp ĐT, BD nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, LLCT…
  • 138. 133 Để có được nguồn cán bộ trong ĐT, BD nên tập trung vào các nguồn sau: Nguồn từ các CBCX đương chức chưa đủ điều kiện tiêu chuẩn theo quy định chung cần phải học tập về LLCT - HC, về chuyên môn nghiệp vụ cho đúng vị trí việc làm. Để nắm được chính xác số lượng đội ngũ cán bộ này, hàng năm cần rà sóat, thống kê lại từng đối tượng cán bộ, tránh trường hợp cán bộ đã được cử đi ĐT, BD lớp trước cũng cử đi học, lớp sau lại cử đi tiếp hoặc bỏ sót cán bộ chưa được bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới… Từ các đối tượng dự nguồn là sinh viên đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng về địa phương công tác, hoặc sinh viên đã tốt nghiệp các trường đại học từ nơi khác tình nguyện về công tác tại xã, phường, thị trấn đang trong diện hợp đồng, công chức dự bị, thanh niên con em đồng bào Khmer và đồng bào các dân tộc khác ở địa phương đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự tình nguyện về công tác tại quê hương, thanh niên, cán bộ trẻ ở địa phương chưa phải là công chức có quá trình tu dưỡng, rèn luyện và sản xuất tốt ở địa phương và đã tốt trung học phổ thông. Thứ tư, đẩy mạnh việc hướng dẫn và thực hiện công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ cơ sở theo đúng các quy định, hướng dẫn của Trung ương. Chú trọng tạo nguồn cơ sở là cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc Khmer. Đối với một số xã đảo, biên giới đặc thù có thể lựa chọn một số con, em của những người có uy tín, gia đình cách mạng có quá trình phấn đấu, tu dưỡng tốt cho đi đào tạo tập trung để trở về bổ sung, thay thế cán bộ cơ sở. 4.2.4.3. Hoàn thiện tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cán bộ cấp xã Nguyên tắc đánh giá phải công khai, minh bạch, khách quan, trung thực. Nội dung tiêu chí đánh giá gồm: một là, mức độ phù hợp giữa nội dung chương trình với yêu cầu tiêu chuẩn ngạch, chức vụ lãnh đạo, quản lý và yêu cầu vị trí việc làm; hai là, năng lực của giảng viên và sự phù hợp của phương pháp ĐT, BD với nội dung chương trình và người học; ba là, năng lực tổ chức ĐT, BD của cơ sở ĐT, BD; bốn là, mức độ tiếp thu kiến thức, kỹ năng của công chức và thực tế áp dụng vào việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Nội dung đánh giá trên cần được cụ thể hóa, lượng hóa một cách chi tiết. Hiện nay, TCT ở các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã xây dựng được một số mẫu phiếu đánh giá nhưng chưa đồng bộ, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Nên tiếp tục sử dụng
  • 139. 134 phiếu đánh giá giáo án, phiếu đánh giá bài giảng. Chỉnh lý, hoàn thiện phiếu lấy ý kiến của học viên về bài giảng và đưa vào làm tiêu chí đánh giá chính thức chứ không chỉ có giá trị tham khảo như hiện nay. Làm tốt khâu kiểm định hồ sơ, đánh giá, phân loại, sàng lọc ngay từ đầu chất lượng đầu vào của học viên. Kiên quyết không tiếp nhận những học viên không đúng đối tượng, không đạt chuẩn yêu cầu. Số lượng học viên tuỳ vào từng lớp ĐT, BD mà bố trí cho phù hợp. Đối với lớp đào tạo trình độ LLCT - HC “mỗi lớp hệ tập trung không quá 50 học viên, mỗi lớp hệ không tập trung không quá 70 học viên” [98, tr. 9]. Đối với các lớp đào tạo chuyên môn trình độ đại học, trung cấp nghiệp vụ tuỳ vào chỉ tiêu mà tổ chức lớp học và kết quả trúng tuyển. Các lớp bồi dưỡng phụ thuộc vào từng nội dung, chương trình bồi dưỡng mà bố trí số lượng học viên, đối với các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng tổ chức lớp học vừa phải từ 50 đến 70 học viên là hợp lý. Việc bố trí lớp học với số lượng học viên cân đối giúp cho quá trình ĐT, BD đạt hiệu quả cao hơn. Đồng thời, cũng chú trọng việc xác định đúng đắn mục tiêu, động cơ, mục đích học tập cho toàn khóa ĐT, BD và mỗi học viên. Đổi mới đồng bộ công tác thi, kiểm tra, viết khóa luận, thu hoạch để đánh giá đúng, thực chất kết quả học tập, rèn luyện của học viên. Xây dựng tiêu chí đánh giá khả năng vận dụng kiến thức đã được trang bị vào thực tiễn công tác của cán bộ sau khi được ĐT, BD. Đối tượng lấy ý kiến có thể là cán bộ được ĐT, BD hoặc người sử dụng cán bộ sau ĐT, BD. Nội dung đánh giá chủ yếu trên các khía cạnh: nhận thức, kỹ năng vận dụng lý luận vào thực tiễn công tác, phẩm chất, đạo đức, hiệu quả công tác, mức độ đạt được của mục tiêu đề ra. Hoàn thiện quy trình ĐT, BD, định ra tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá đối với các công việc liên quan trong quá trình đào tạo để làm căn cứ đánh giá chất lượng, như: yêu cầu của một kế hoạch học tập trong một khóa học, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng một chương trình, tiêu chí để xác định một phòng học chuẩn, tiêu chuẩn đối với giảng viên... Hoạt động đánh giá chất lượng ĐT, BD cán bộ cần được tiến hành thường xuyên theo môn học, khóa học, năm học và công bố công khai kết quả đánh giá. Bên cạnh đó, Trường nên có biện pháp động viên, khuyến khích, khen thưởng kịp thời đối với các giảng viên có sáng kiến, chất lượng giảng dạy tốt; có kế hoạch giúp đỡ đối với giảng viên chất lượng giảng dạy ở mức trung bình hoặc chưa đạt yêu cầu.
  • 140. 135 4.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên làm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã Chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên là yếu tố quyết định đến chất lượng ĐT, BD nên trong thời gian tới nên tập trung vào những nội dung sau: Một là, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu thực tế của đội ngũ giảng viên, báo cáo viên trong đó, cần tăng cường thời gian xuống cơ sở. Hằng năm cần cử giảng viên đi nghiên cứu thực tế tại cơ sở trong thời gian ít nhất là một tháng. Cần đảm bảo các giảng viên xuống cơ sở không phải chỉ “xem”, thu thập tài liệu, số liệu, giảng viên cần chủ động thâm nhập vào thực tiễn quản lý, điều hành của cơ quan, địa phương, nghiên cứu đúc rút kinh nghiệm từ thực tế, xây dựng các tình huống cho giảng dạy “đóng vai” vào các vị trí công tác, học làm cán bộ trước khi dạy cán bộ. Với giảng viên trẻ, có năng lực, triển vọng phát triển, thực hiện điều động, luân chuyển về cơ sở trong khoảng 1 đến 2 năm để rèn luyện bồi dưỡng kiến thức thực tiễn. Tạo điều kiện cho giảng viên đi nghiên cứu thực tế ở các địa phương khác trong nước và ngoài nước. Hai là, tăng thêm kinh phí cho biên soạn bài giảng, viết giáo trình, biên soạn tài liệu tham khảo, từ đó bổ sung nguồn tư liệu giảng dạy cho cán bộ cơ sở; bổ sung nguồn kinh phí cho giảng viên, học viên đi tham quan, nghiên cứu thực tế. Cần tăng thêm kinh phí đi nghiên cứu thực tế cho các khóa ĐT, BD kể cả dài hạn và ngắn hạn. Ba là, đổi mới chế độ chính sách đối với giảng viên, báo cáo viên thực hiện nhiệm vụ ĐT, BD để khuyến khích giảng viên, báo cáo viên nâng cao chất lượng giảng dạy. Tùy điều kiện cụ thể, các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL cần có cơ chế giúp họ ổn định đời sống, an tâm với nghề nghiệp, dành thời gian đầu tư cho chuyên môn như tạo điều kiện về nơi ăn, chốn ở, sinh hoạt; đảm bảo chế độ lương, phụ cấp giảng dạy, chế độ thanh toán giờ giảng, chế độ tham quan, đi thực tế, nghỉ mát, nghỉ theo chế độ, chữa bệnh, nghiên cứu khoa học, trao đổi nghiệp vụ, cập nhật thông tin… Bốn là, các giảng viên phải là người thật sự tâm huyết với nghề và thường xuyên rèn nghề, chú trọng việc khơi dậy cho học viên sự say mê nhận thức và vận dụng kiến thức được ĐT, BD. Cần thay đổi, điều chỉnh chương trình, nội dung ĐT, BD, bao gồm việc điều chỉnh lại giáo án, nội dung báo cáo sao cho gọn, nhẹ, mạch lạc, không ôm đồm nhiều vấn đề, nội dung; điều chỉnh phương pháp giảng dạy, giảm thuyết trình, tăng cường trao đổi, gợi mở vấn đề cho học viên cùng thảo luận, tăng cường tự nghiên cứu; áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực, các bài giảng phải
  • 141. 136 thường xuyên cập nhật những kiến thức mới, kiến thức thực tiễn, đặt ra nhiều tình huống, giả thuyết để học viên trao đổi, tự tìm ra phương án giải quyết vấn đề. Người giảng viên cũng cần thực hiện nghiêm túc, khách quan và công bằng nhiều biện pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên. Năm là, dành kinh phí thỏa đáng cho việc đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ giảng viên kiêm nhiệm là các cán bộ lãnh đạo địa phương có kinh nghiệm, có trình độ sư phạm và giáo viên mời giảng ở các nơi khác, các báo cáo viên đương chức. Cũng cần xây dựng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ giảng viên kiêm chức, tạo nguồn giảng viên kiêm chức có kinh nghiệm thực tiễn bằng cách phối hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh để tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương, những người thuộc các ngạch chuyên viên chính trở lên, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn khả năng truyền đạt và tâm huyết, sau đó lập danh sách đề nghị tỉnh ủy, thành ủy hoặc UBND tỉnh, thành phố phê duyệt. Sáu là, quy định rõ quyền lợi, trách nhiệm của giảng viên kiêm chức, báo cáo viên và tổ chức bồi dưỡng phương pháp giảng dạy tích cực cho họ, nhằm giúp họ khắc phục điểm yếu về kỹ năng sư phạm. Hằng năm, cơ sở ĐT, BD cần có những nhận xét, đánh giá về hoạt động của đội ngũ giảng viên kiêm chức, báo cáo viên. Nếu thực hiện được các biện pháp đã nêu sẽ khuyến khích, động viên được những giảng viên kiêm chức, báo cáo viên tham gia giảng dạy và tâm huyết với công tác ĐT, BD cán bộ cơ sở. Trong quá trình sử dụng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên các cơ sở ĐT, BD cũng cần thực hiện việc sàng lọc để lựa chọn những giảng viên, bảo cáo viên giỏi, có tâm huyết với nghề. Những người có khả năng giảng dạy tốt cần có chính sách ĐT, BD để họ có trình độ cao hơn, những người không đáp ứng được yêu cầu công việc thì phải được chuyển sang hoạt động ở lĩnh vực khác phù hợp hơn. Bảy là, đội ngũ giảng viên trong hệ thống TCT nhất thiết phải bảo đảm có đủ tiêu chuẩn theo quy định, đúng chuyên môn đã được đào tạo, khắc phục thực trạng được đào tạo ở chuyên ngành này nhưng lại được bố trí giảng dạy ở chuyên ngành khác, lĩnh vực khác. Dù là giảng viên chính hay giảng viên kiêm chức, giảng viên thỉnh giảng, báo cáo viên đều đòi hỏi phải có đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị và tâm huyết với nghề. Điều đó thể hiện ở việc khi đã lên lớp giảng, người giảng viên, báo cáo viên phải có trách nhiệm với bài giảng, phải truyền đạt những kiến thức mà học viên cần, để vận dụng trong công việc và cố gắng tạo niềm cảm hứng từ phía người học. Làm
  • 142. 137 nhiệm vụ giảng dạy, báo cáo bài đòi hỏi giữa lời nói, việc làm phải hài hòa. Nói và làm phải đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Do vậy, người giảng viên, báo cáo viên phải rèn luyện, trau dồi về mọi mặt, phải khắc phục việc giảng đường lối, chính sách, pháp luật rất hay, nhưng làm thì ngược lại, gây ra hiệu ứng phản tác dụng trong giáo dục với học viên, tạo ra sự hoài nghi, thiếu tin tưởng của người học. Phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp không phải tự nhiên mà có, mà là sự tổng hợp của nhiều yếu tố trong đó cơ bản nhất là sự tự rèn luyện, học tập phấn đấu và quyết tâm của từng người. Giảng bài là việc khó, nhưng giảng cho học viên là những cán bộ vừa là nhà lãnh đạo quản lý vừa là những người làm các công việc cụ thể ở cấp xã lại càng khó hơn, vì vậy càng đòi hỏi phải có sự sắc sảo trong từng bài giảng và những tri thức thực tiễn phong phú. Chỉ có như vậy mới thuyết phục được người học. Để có được những bài giảng, bài cáo cáo hay, có chất lượng cao, từng giảng viên, báo cáo viên phải được bồi dưỡng thường xuyên hàng năm, nhất là những vấn đề mới về lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm dạy học. Do vậy, cần có chính sách rõ ràng, dành thời gian thỏa đáng, có sự phân công công việc phù hợp cho đội ngũ giảng viên, báo cáo viên để họ sắp xếp công việc phù hợp, có thời gian cho việc rèn luyện, học tập nâng cao trình độ, đi nghiên cứu thực tế, tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học ở địa phương và trong nước để tích lũy, nâng cao kiến thức thực tế đưa vào bài giảng và tích lũy kinh nghiệm giảng dạy. Cần có những chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với giảng viên, báo cáo viên có ý thức tự học tập, bồi dưỡng. Đồng thời, cần theo dõi quá trình học tập và làm việc của đội ngũ giảng viên, báo cáo viên để động viên, khuyến khích những giảng viên, báo cáo viên mẫn cán làm việc và say mê học tập, có chí tiến thủ. Đối với những giảng viên, báo cáo viên nào nào tự có ý thức học tập, bồi dưỡng mà vẫn đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cần phải có sự động viên, khen thưởng kịp thời như tăng lương, thưởng thêm, hỗ trợ tài chính cho việc học, bổ nhiệm vào chức vụ phù hợp với trình độ, năng lực và yêu cầu công việc. 4.2.6. Bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã 4.2.6.1. Chú trọng nguồn kinh phí và đầu tư cơ sở vật chất Quyết định 184-QĐ/TW ngày 03-9-2008 của Ban Bí thư khẳng định:
  • 143. 138 Các tỉnh ủy, thành ủy trực tiếp lãnh đạo thực hiện nội dung, chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức; về tổ chức bộ máy và biên chế; về chế độ, chính sách đối với cán bộ, giảng viên và học viên của trường chính trị tỉnh, thành phố. ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện quy chế quản lý đào tạo; đầu tư, cấp kinh phí hoạt động và quản lý cơ sở vật chất của trường chính trị tỉnh, thành phố [4, tr. 3]. Qua quá trình triển khai thực hiện quyết định trên, đến ngày 20-11-2015 Ban Bí thư ra Kết luận số 117-KL/TW yêu cầu: Các tỉnh ủy, thành ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo đối với các trường chính trị trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, giảng viên đủ năng lực; tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ lãnh đạo, quản lý, giảng viên của trường chính trị đi thực tế ở cơ sở. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và các điều kiện phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học [6, tr. 2]. Theo tinh thần trên, Nhà nước cần có quy định thực hiện nghiêm túc về việc trích tỉ lệ thoả đáng trong tổng chi ngân sách hằng năm cho hoạt động ĐT, BD thường xuyên cho CBCX, trong đó cần tập trung giải quyết những vấn đề sau: Một là, phân định rõ ràng nguồn kinh phí cho công tác ĐT, BD CBCX với các mục chi khác trong nguồn kinh phí hành chính của các đơn vị, phải quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí chi cho công tác ĐT, BD CBCX. Tập trung kinh phí về một đơn vị quản lý nhằm thống nhất, đồng bộ trong công tác ĐT, BD cán bộ theo kế hoạch; tránh tình trạng mạnh đơn vị nào thì đơn vị đó làm, ngành nào cũng có thể tự tổ chức ĐT, BD, làm thất thoát kinh phí, hiệu quả ĐT, BD không cao. TCT và TTBDCT cấp huyện ở các tỉnh, thành ĐBSCL là những địa chỉ chính để ĐT, BD cán bộ cơ sở. Vì vậy, cần tăng cường đầu tư, bổ sung, nâng cấp và xây dựng mới cơ sở vật chất, trang thiết bị, phục vụ cho giảng dạy và học tập tại các TCT tỉnh, thành phố, các TTBDCT cấp huyện nhằm đáp ứng yêu cầu công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL. Hai là, huy động khai thác mọi nguồn lực xã hội, phục vụ công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL như: tranh thủ sự ủng hộ và hỗ trợ về vật chất của Trung ương, của các dự án từ bên ngoài, các nguồn kinh phí của nước ngoài tài trợ về ĐT, BD; từ các
  • 144. 139 cán bộ lão thành cách mạng còn sức khỏe, có nhiều kinh nghiệm về phương pháp, kỹ năng lãnh đạo, quản lý ở cơ sở… Để đổi mới đẩy mạnh và nâng cao chất lượng ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL cần đầu tư mạnh hơn nữa cho TCT và TTBDCT cấp huyện. Ba là, đầu tư các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để phục vụ cho công tác giảng dạy, tiến tới hiện đại hóa các phương tiện kỹ thuật dạy học. Trong thời gian trước mắt, các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL cần đẩy mạnh việc đầu tư kinh phí mua sắm mới thay thế cơ bản các trang thiết bị đã lạc hậu ở một số TCT như hệ thống ấm thanh, bảng từ, hệ thống chiếu sáng, quạt, bàn ghế, nơi nào có điều kiện gắn máy điều hoà… Tạo môi trường, không gian học tập thông thóang, thuận tiện (điều này đã được làm khá tốt ở các TCT tỉnh Kiên Giang, Đồng Tháp, Bạc Liêu). Đối với một số TCT như thành phố Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang… đang trong giai đoạn xây mới, nâng cấp, sửa chữa. Bốn là, quan tâm đầu tư những thiết bị làm việc cơ bản cho cán bộ, giảng viên, báo cáo viên. Cần cung cấp cho giảng viên, báo cáo viên các trang thiết bị phục vụ đổi mới phương pháp giảng dạy như bút dạ, bìa, giấy, gim, máy vi tính, máy projector... đảm bảo phục vụ tốt cho việc giảng dạy theo phương pháp tích cực. Nâng cấp, mở rộng thư viện phục vụ tốt cho công tác giảng dạy và học tập. Thư viện cần có đủ giáo trình, phong phú về tài liệu bổ trợ, sách tham khảo, báo, tạp chí, có phòng đọc, phòng internet tạo ra môi trường tự học tập cho giảng viên và học viên. Đối với CBCX nói chung cần cấp phát giáo trình, tài liệu học tập, bồi dưỡng đầy đủ, kịp thời để họ thường xuyên nghiên cứu, sử dụng trong quá trình học tập cũng như sau khi đã kết thúc khóa học trở về cơ sở công tác (hiện nay ở nhiều nơi giáo trình đào tạo vẫn còn thiếu, đối với tài liệu bồi dưỡng có lớp có, lớp không). Thư viện cần được tổ chức khoa học, thuận tiện, có phòng đọc riêng rộng rãi, thoáng mát thu hút cán bộ, học viên đến nghiên cứu, tìm hiểu thông tin; từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong tra cứu và quản lý tài liệu. 4.2.6.2. Thực hiện đồng bộ các chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ cấp xã Chính sách đối với đội ngũ CBCX bao gồm: thu hút, thúc đẩy đầu tư cho công tác tạo nguồn, quy hoạch, ĐT, BD nhận xét, đánh giá, bố trí sử dụng tạo điều kiện vươn lên và đãi ngộ CBCX. Trong thời gian tới, cần có phương pháp và chính sách đầy đủ hơn nữa trong công tác cán bộ đối với CBCX vùng sâu, vùng biên giới, hải đảo, là người đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là đồng bào Khmer. Cụ thể là, cần có cách tiếp
  • 145. 140 cận dân chủ, dễ hiểu, làm cho họ hiểu và tin tưởng vào công việc tạo nguồn quy hoạch, ĐT, BD CBCX; khắc phục tình trạng quy hoạch cán bộ mang tính hình thức, không đúng quy trình hoặc thiếu công bằng. Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới, các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL cần tiếp tục xây dựng hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách: nhìn chung, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ CBCX ở các tỉnh, thành ĐBSCL trong thực tế còn nhiều vấn đề bất cập cần được xem xét và bổ sung. Cần có các chế độ, chính sách ưu tiên, hỗ trợ của Nhà nước phù hợp và thỏa đáng đối với CBCX ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng hải đảo, vùng đông đồng bào dân tộc hơn. Các tỉnh, thành phố cũng cần xây dựng và thực hiện nhất quán chế độ hỗ trợ kinh phí ĐT, BD đối với CBCX theo Thông tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21-9-2010 của Bộ Tài chính về “quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách Nhà nước dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức”, đồng thời có chính sách, biện pháp khuyến khích và bắt buộc CBCX phải thường xuyên học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị và chuyên môn, cụ thể như với những CBCX đi học đạt kết quả cao trong học tập cần có chính sách động viên, khen thưởng thỏa đáng như bố trí, sử dụng hợp lý, có thể xem xét tăng lương hoặc bổ nhiệm sớm; cán bộ lười học tập, trốn tránh việc cử đi học, không chấp hành nghiêm quy chế đào tạo trong thời gian đi học… cần có hình thức xử lý thích đáng, chí ít là chưa đưa vào danh sách bầu cử, bổ nhiệm, không bổ nhiệm lại. 4.2.7. Phát huy tính tự giác trong tự học tập và rèn luyện của cán bộ cấp xã gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng Thực tế ở đã chứng minh, những CBCX thực sự có tài, được nhân dân tin tưởng đều có phẩm chất đạo đức cách mạng, có trình độ, kiến thức chuyên môn, trong đó, một phần phẩm chất, trình độ của những cán bộ có được là trong quá trình học tập ở nhà trường, còn phần lớn là do chính họ tự rèn luyện trong môi trường công tác và tự học tập, tu dưỡng. Để xây dựng thái độ, động cơ tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện đúng đắn cho đội ngũ CBCX, trước hết các cấp ủy đảng, nhất là cấp ủy cấp trên trực tiếp và các sở, ban, ngành có liên quan cần phải tăng cường công tác giáo dục thường xuyên cho đội ngũ cán bộ này nâng cao nhận thức về vai trò, tác dụng của việc tự học tập, tự tu dưỡng và rèn luyện, thấy rõ những yêu cầu, đòi hỏi khách quan về tiêu chuẩn của
  • 146. 141 CBCX, giúp họ nhận thức sâu sắc rằng phẩm chất, đạo đức cách mạng và trình độ năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, phần lớn phải trải qua quá trình học tập, rèn luyện thường xuyên, liên tục, nghiêm túc và bền bỉ, như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ, đảng viên trước lúc đi xa: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [125, tr. 612]. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tạo ra môi trường, những điều kiện,hoàn cảnh thuận lợi, thiết thực nhất để cán bộ nhận thấy được nhu cầu và có động cơ học tập, tu dưỡng, rèn luyện đúng đắn; đồng thời, phân công, giao nhiệm vụ cho cán bộ, đặc biệt là những cán bộ trẻ, tham gia vào các hoạt động thực tiễn để họ có điều kiện cọ sát, rèn luyện, thử thách. Đẩy mạnh hơn nữa phong trào tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ cán bộ, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đi vào chiều sâu, biểu hiện qua những việc làm cụ thể, thiết thực. Những chuyển biến trong nhận thức của mỗi CBCX về mục đích, ý nghĩa, nội dung chủ trương của Đảng về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là cơ sở quan trọng để bản thân mỗi người tự học tập, phấn đấu rèn luyện phong cách, tu dưỡng đạo đức và chủ yếu là “làm theo” Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành hành động tự giác, tự nguyện, tự thân trong mỗi người, vì vậy nên coi việc rèn luyện đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của mỗi cán bộ mỗi CBCX. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta là: học tập, rèn luyện là công việc suốt đời của cán bộ, đảng viên. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, mỗi CBCX ở ĐBSCL phải xây dựng cho mình kế hoạch thường xuyên tự học tập, nâng cao trình độ chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Học tập vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy định thành nền nếp, chế độ. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự là một tấm gương sáng, mẫu mực trong học tập, công tác cũng như trong cuộc sống để cho cán bộ, nhân dân học tập và noi theo; cần phát huy cao độ vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ là lãnh đạo chủ chốt, lão thành cách mạng về ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, về ý thức thường xuyên tự học nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và sáng tạo trong các hoạt động để các cán bộ, đảng viên trẻ noi theo. Đặc biệt, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa
  • 147. 142 việc tự học tập, rèn luyện của cán bộ, đảng viên với việc nghiêm túc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã khẳng định nếu cán bộ “nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập LLCT; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước” [71, tr. 28] là biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị. Cấp ủy đảng các cấp phải thường xuyên và kịp thời nêu gương, biểu dương, khen thưởng, tuyên truyền và nhân rộng những tấm gương điển hình về cán bộ trẻ tiêu biểu trong quá trình tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện nhằm kích thích tính tích cực, tự giác và khơi dậy sự say mê, hứng thú, lòng nhiệt huyết vươn lên phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện phát triển không ngừng của họ, đồng thời cần phê phán những cán bộ thiếu cố gắng, dựa dẫm, ỷ lại, lười học tập, không chịu tu dưỡng, rèn luyện phong cách, đạo đức cách mạng… Trong giai đoạn mới của cách mạng, việc tự học tập, tu dưỡng rèn luyện phải trở thành nhu cầu trực tiếp, thói quen, hành vi hàng ngày của mỗi cán bộ. Cán bộ nào lười học, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp cận, cập nhật những thông tin mới, những tri thức mới cũng là một biểu hiện suy thóai. Các cán bộ trẻ chính là nguồn nhân lực lãnh đạo quan trọng trong thời kỳ hội nhập và phát triển của đất nước. Do đó, mỗi cán bộ phải thường xuyên tự phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện không ngừng, vừa làm vừa học để có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức chính trị, lập trường quan điểm vững vàng, trình độ chuyên môn giỏi, xung kích, năng động, sáng tạo; đồng thời phải có tinh thần học hỏi, khiêm tốn, cầu thị, tận tâm, tận lực đem trí tuệ của mình phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. 4.2.8. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chú trọng hoạt động sơ, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm công đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã Kiểm tra, giám sát là hoạt động không thể thiếu trong công tác ĐT, BD cán bộ, công chức nói chung, CBCX nói riêng. Kiểm tra, giám sát là để bảo đảm cho toàn bộ các nội dung trong công tác ĐT, BD được thực hiện đúng, đủ, hiệu quả, đồng thời ngăn ngừa các thiếu sót, sai phạm. Để hoạt động kiểm tra, giám sát công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL có hiệu quả, cần chú trọng thực hiện tốt các vấn đề sau:
  • 148. 143 Một là, đối với các tỉnh ủy, thành ủy, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để bảo đảm các hoạt động trong công tác ĐT, BD thực hiện nghiêm túc, đúng chủ trương, quan điểm, quy trình. Cần tập trung kiểm tra, giám sát các khâu trong công tác ĐT, BD CBCX như: thực hiện việc chỉ đạo đánh giá, rà soát cán bộ sau quy hoạch, xây dựng đề án, kế hoạch ĐT, BD CBCX; việc đảm bảo kinh phí cho ĐT, BD... Chú trọng giám sát việc phê duyệt kế hoạch và kinh phí ĐT, BD cán bộ, công chức, viên chức hằng năm (trong đó có đội ngũ CBCX, bảo đảm kịp thời, đúng đối tượng, kinh phí và thời gian thực hiện. Kiểm tra đánh giá nguồn nhân lực, khâu phối hợp giữa các cơ quan, các điều kiện, cơ sở vật chất bảo đảm cho thực hiện công tác ĐT, BD CBCX. Phân công cán bộ phụ trách công tác ĐT, BD cán bộ của ban tổ chức tỉnh ủy, thành ủy, của sở nội vụ tỉnh, thành và cán bộ của tổ chức, nội vụ cấp huyện theo dõi chặt chẽ hoạt động ĐT, BD CBCX để kịp thời báo cáo, phản ảnh để cấp ủy và các cơ quan chức năng có thẩm quyền để có sự chỉ đạo đạt hiệu quả cao nhất. Hai là, đối với Thanh tra của Học viện CTQG Hồ Chí Minh chủ động, thường xuyên có kế hoạch thanh tra hoạt động ĐT, BD CBCX đối với các cơ sở đào tạo trong hệ thống, cụ thể là TCT tỉnh, thành phố ở ĐBSCL. Nội dung thanh tra cần tập trung vào việc thực hiện quy chế của học viện về ĐT, BD cán bộ theo sự phân cấp như: việc thực hiện khung chương trình, nội dung; đối tượng cán bộ tham gia ĐT, BD; đội ngũ giảng viên và khâu tổ chức giảng dạy, quản lý; khâu thi, kiểm tra, viết thu hoạch, thi tốt nghiệp, viết khóa luận tốt nghiệp; khâu cấp phát bằng, giấy chứng nhận; khâu quản lý và lưu trữ hồ sơ... Ba là, đối với thanh tra nhà nước tỉnh, ủy ban kiểm tra cấp ủy cấp tỉnh và cấp huyện cần chú trọng việc phối kết hợp để thanh tra, kiểm tra hoạt động có liên quan đến công tác ĐT, BD CBCX như: việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ sở ĐT, BD; việc thực hiện các kinh phí ĐT, BD, các chế độ chính sách có bảo đảm đúng nguyên tắc tài chính không, nhất là khoản kinh phí cấp, các khoản thu, chi; việc thực hiện các quy định, quy chế đối với công tác ĐT, BD có thực hiện đúng, đủ không... Bốn là, đối với các cơ sở đào tạo, chủ yếu là ban giám hiệu, lãnh đạo đơn vị cần đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát phạm vi đơn vị mình trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị: kiểm tra thường xuyên và kết hợp với đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên; kiểm tra các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho ĐT, BD để kịp thời bổ sung, sửa chữa, kiến nghị xây cất mới; kiểm tra khâu tổ chức ĐT, BD (giảng dạy, quản lý, chấp hành giờ giấc học tập của học viên, tổ thi, kiểm tra...);
  • 149. 144 thường xuyên kiểm tra giáo án, kết hợp chặt chẽ với khâu thao giảng, dự giờ để đánh giá tiết giảng, buổi giảng; kiểm tra khâu phối kết hợp giữa các đầu mối trong đơn vị về thực hiện nhiệm vụ ĐT, BD CBCX tạo sự nhịp nhàng, phát huy sự cộng đồng trách nhiệm cao. Qua kiểm tra, thanh tra nếu phát hiện có những sai phạm cần chấn chỉnh kịp thời, hoặc đến mức xử lý kỷ luật thì căn cứ vào mức độ sai phạm của từng cá nhân và tổ chức mà xử lý để bảo đảm quy định, quy chế của Đảng, Nhà nước về ĐT, BD CBCX được thực hiện nghiệm túc. Hoạt động sơ kết, tổng kết, rút ra kinh nghiệm là khâu cuối trong công tác ĐT, BD CBCX. Sau mỗi khóa ĐT, BD, cấp ủy cấp tỉnh, huyện và cơ quan chức năng cần tổ chức sơ, tổng kết đánh giá kết quả ĐT, BD CBCX đạt được những gì và chưa đạt những gì từ mục tiêu, nội dung chương trình, chất lượng giảng dạy, công tác quản lý, chế độ chính sách...chỉ ra những tổ chức, cán nhân có liên quan góp phần đem đến chất lượng, hiệu quả ĐT, BD, hoặc những yếu kém, hạn chế. Qua đó có sự lãnh, chỉ đạo kịp thời cho hoạt động này tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn. Hoặc đề xuất kiến nghị giúp cho các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đơn vị tham gia vào công tác ĐT, BD CBCX ở địa phương và Trung ương đưa ra các quyết định phù hợp tiếp theo cho công tác ĐT, BD CBCX, nhất là phát hiện những lỗ hổng, sự bất hợp lý, phi thực tế của công tác ĐT, BD. Phát huy tốt vai trò của ban chỉ đạo lớp học trong việc tổ chức sơ kết giữa khóa học để kịp thời đánh giá, chấn chỉnh. Cuối khóa cần có nhận định xác thực, nội dung đánh giá hợp lý về kết quả ĐT, BD. Cần có định hướng tốt cho việc sử dụng CBCX sau ĐT, BD. Công tác sơ tổng kết phải kết hợp với khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích tốt trong ĐT, BD CBCX. Học viện CTQG Hồ Chí Minh, các cơ quan Trung ương định kỳ tổ chức tổng kết, đánh giá kết quả ĐT, BD cán bộ, trong đó nên dành thời lượng, nội dung cho đánh giá hoạt động ĐT, BD CBCX. Cần lưu ý đến chương trình, nội dung, cách thức bồi dưỡng CBCX, nhất là bồi dưỡng chức danh, bồi dưỡng cập nhật kiến thức. Tổng kết công tác ĐT, BD CBCX cần phải đánh giá được hiệu quả sự dụng cán bộ CBCX sau khi được ĐT, BD và đánh giá xem CBCX đã vận dụng và phát huy tốt kiến thức, kỹ năng sau khi được ĐT, BD như thế nào. Để từ đó các chủ thể trong công tác ĐT, BD CBCX có những phương thức phù hợp hơn trong thời gian tới.
  • 150. 145 KẾT LUẬN Công tác ĐT, BD CBCX là một trong những giải pháp quan trọng để xây dựng đội ngũ CBCX chuyên nghiệp, vững vàng về chính trị, tinh thông nghiệp vụ. Hoạt động ĐT, BD CBCX đạt hiệu quả thì mới đạt được mục tiêu xây dựng đội ngũ CBCX vừa có chuyên môn, năng lực, vừa có kỹ năng nghề nghiệp cao trong hoạt động thực tiễn, phục vụ sự nghiệp phát triển KT-XH tại địa phương. Muốn đạt được điều đó, phải nắm chắc và thực hiện tốt tất cả các nội dung có liên quan đến công tác ĐT, BD CBCX. Việc thực hiện các nội dung của công tác ĐT, BD không phải là nhiệm vụ của một vài cá nhân, cơ quan có liên quan đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL mà đó là nhiệm vụ chung của cả HTCT từ Trung ương đến cơ sở, trực tiếp các các tỉnh, thành ủy, UBND tỉnh, thành ĐBSCL, các cơ sở ĐT, BD. Trong những năm qua, công tác ĐT, BD CBCX của các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL đã đạt được những thành tựu và có những đổi mới đáng ghi nhận như: đã cụ thể hóa các văn bản của Trung ương, triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình, nội dung, hình thức ĐT, BD; khâu lập kế hoạch, chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD khoa học hơn trước; chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên được nâng lên; khâu quản lý, phục vụ ngày càng chuyên nghiệp, chặt chẽ; chế độ chính sách, cơ sở vật chất phục vụ cho ĐT, BD được quan tâm; ý thức học tập của CBCX được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn bộc lộ những hạn chế: việc xây dưng chủ trương, kế hoạch ĐT, BD đội ngũ CBCX chưa thật khoa học, không đồng bộ, còn chậm trễ; trong chỉ đạo xây dựng và thực hiện chương trình, nội dung ĐT, BD CBCX còn lúng túng, thậm chí buông lỏng; việc chọn cử CBCX tham gia ĐT, BD có nhiều trường hợp chưa đáng; chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên, bảo cáo viên chưa được nâng lên, còn yếu kém nhiều mặt; công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác ĐT, BD chưa thường xuyên. Những hạn chế đó ảnh hưởng rất lớn đến công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL thời gian qua, làm cho chất lượng, hiệu quả ĐT, BD CBCX còn chưa đạt yêu cầu. Nguyên nhân của hạn chế trên là do: một số cấp ủy, chính quyền địa phương và đội ngũ CBCX chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác ĐT, BD CBCX; chưa chú trọng công tác quy hoạch CBCX và lập kế hoạch ĐT, BD cán bộ cụ thể; thiếu sự phối hợp giữa các tổ chức, cơ quan; đội ngũ giảng viên, báo cáo viên chưa chịu khó nâng cao tay nghề, kỹ năng
  • 151. 146 truyền thụ; việc xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, lực lượng phục vụ cho hoạt động ĐT, BD chưa được chú trọng đúng mức; kinh phí, cơ sở vật chất và chế độ chính sách cho công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL chưa phù hợp, chưa tạo động lực cho người học và cũng chưa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ĐT, BD. Qua thực hiện công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau: Thứ nhất, phải xây dựng được quy hoạch, kế hoạch ĐT, BD CBCX cụ thể, sát với điều kiện thực tế từng tỉnh, thành phố ở ĐBSCL. Thứ hai, tăng cường chỉ đạo sát sao và sự phối hợp nhịp nhàng của các cấp lãnh đạo, các đơn vị chức năng, giữa đơn vị sử dụng cán bộ và cơ sở đào tạo trong cả quá trình ĐT, BD CBCX. Thứ ba, coi trọng xây dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên có trình độ, chuyên môn vững vàng, am hiểu thực tiễn. Thứ tư, nắm chắc đặc điểm của loại lớp ĐT, BD, từng loại đối tượng học viên để có phương pháp giảng dạy, quản lý phù hợp. Thứ năm, không ngừng quan tâm đầu tư vật chất phục vụ công tác ĐT, BD gắn liền với thực hiện tốt các chế độ, chính sách ĐT, BD CBCX. Để tăng cường công tác ĐT, BD CBCX ở ĐBSCL đạt được mục tiêu ĐT, BD CBCX phải nghiên cứu và thực hiện đồng bộ các giải pháp: một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và CBCX ở ĐBSCL về công tác ĐT, BD cho đội ngũ CBCX; hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và tạo điều kiện thuận lợi của cơ quan cấp trên đối với công tác ĐT, BD cho CBCX; ba là, đổi mới chương trình, nội dung, phương thức ĐT, BD CBCX; bốn là, đổi mới cách thức tổ chức, quản lý ĐT, BD CBCX; năm là, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên làm nhiệm vụ ĐT, BDCBCX; sáu là, bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ công tác ĐT, BDCBCX; bảy là, phát huy tính tự giác của CBCX trong tự học tập và rèn luyện gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng; tám là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chú trọng hoạt động sơ, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm công ĐT, BD CBCX.
  • 152. 147 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Trần Thanh Sang (2014), “Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ bí thư đảng ủy cấp xã ở Sóc Trăng”, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, ngày 11-5. 2. Trần Thanh Sang (2017), “Thực hiện nghiêm kỷ luật phát ngôn của đảng viên, công chức, viên chức nhân viên các trường chính trị”, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, ngày 13-9. 3. Trần Thanh Sang (2017), “Chủ trương, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã và quá trình triển khai ở các tỉnh, thành đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, ngày 18-9. 4. Trần Thanh Sang (2017), “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị, (9). 5. Trần Thanh Sang (2017), “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Châu Á - Thái Bình Dương, (9).
  • 153. 148 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Ngọc Am (2009), Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy lý luận chính trị, Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội. 2. Hoàng Anh (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Ban Bí thư (2008), Thông báo số 181-TB/TW ngày 03-9-2008 về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của trường chính trị cấp tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, Hà Nội. 4. Ban Bí thư (2008), Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03-9-2008 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 5. Ban Bí thư (2013), Kết luận số 57-KL/TW ngày 08-3-2013 về tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, Hà Nội. 6. Ban Bí thư (2015), Kết luận số 117-KL/TW ngày 20-11-2015 về công tác đào tạo, bồi dưỡng tại các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội. 7. Ban chỉ đạo Tây nam Bộ (2005), Đề án số 37-BC/BCĐ ngày 25-5-2005 về Công tác đào tạo, bồi duỡng đội ngũ cán bộ hệ thống chính trị cơ sở vùng Tây Nam Bộ, Cần Thơ. 8. Ban chỉ đạo Tây nam Bộ (2016), Báo cáo số 125-BC/BCĐ ngày 31-12-2016 về xây dựng hệ thống chính trị khu vực Tây nam Bộ, Cần Thơ. 9. Ban chỉ đạo Tây nam Bộ (2017), Báo cáo số 278-BC/BCĐ ngày 01-02-2017 về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức khu vực Tây nam Bộ, Cần Thơ. 10. Ban chỉ đạo Tây nam Bộ (2017), Báo cáo số 167-BC/BCĐ ngày 25-12-2017 tổng kết 15 năm hoạt động của Ban chỉ đạo Tây nam Bộ, Cần Thơ. 11. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bạc Liêu (2012), Chỉ thị số 19/CT-TU ngày 31-12- 2012 về tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị, Bạc Liêu. 12. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tiền Giang (2011), Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 27- 6-2011 về nâng cao chất lượng công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tiền Giang.
  • 154. 149 13. Ban Tổ chức Trung ương (2008), Hướng dẫn số 22-HD/BTCTW ngày 21-10- 2008 về thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội. 14. Ban Tổ chức Trung ương (2009), Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW ngày 26-9-2007 thực hiện quy định về phân cấp quản lý cán bộ, quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử, Hà Nội. 15. Ban Tổ chức Trung ương (2012), Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW ngày 05-11- 2012 về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tinh thần Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30-11-2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) và Kết luận số 24- KL/TW ngày 05-6-2012 của Bộ Chính trị (khóa XI), Hà Nội. 16. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 17. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục Dạy nghề và Viện Nghiên cứu phát triển phương Đông (2012), Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Ban Tuyên giáo Trung ương - Bộ Giáo dục và Đào tạo - Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2015), Hội thảo khoa học quốc gia “Nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay”, Hà Nội. 19. Tần Xuân Bảo (2015), Đào tạo cán bộ lãnh đạo và quản lý: Kinh nghiệm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Nguyễn Văn Biết (2014), “Vượt qua thách thức, trở ngại đối với giảng viên trường chính trị”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (8). 21. Vũ Thanh Bình (2012), Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên các môn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 22. Bộ Chính trị (1999), Quy định số 54-QĐ/TW ngày 12-5-1999 về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng, Hà Nội. 23. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30-11-2004 về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
  • 155. 150 24. Bộ Chính trị (2007), Quyết định số 67-QĐ/TW ngày 04-7-200 quy định về phân cấp quản lý cán bộ, Hà Nội. 25. Bộ Chính trị (2012), Kết luận số 24-KL/TW ngày 05-6-2012 về đẩy mạnh công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ đến năm 2020 và những năm tiếp theo, Hà Nội. 26. Bộ Chính trị (2013), Quy định số 164-QĐ/TW ngày 01-02-2013 về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, Hà Nội. 27. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-2014 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, Hà Nội. 28. Bộ Chính trị (2015), Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17-4-2015 về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội. 29. Bộ Chính trị (2016), Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Hà Nội. 30. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI - Kinh nghiệm của các quốc gia (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính (2013), Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC ngày 08-3-2013 hướng dẫn thực hiện chế độ trả lương dạy thêm giờ đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập, Hà Nội. 32. Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT- BNV-BGDĐT ngày 06-6-2011 quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan nganh bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội. 33. Bộ Nội vụ (2013), Quyết định số 900/QĐ-BNV ngày 06-8-2013 ban hành tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên, Hà Nội. 34. Bộ Nội vụ (2013), Quyết định số 975/QĐ-BNV ngày 28-8-2013 ban hành tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính, Hà Nội. 35. Bộ Nội vụ (2018), Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08-01-2018 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội. 36. Bộ Quốc phòng (2011), Thông tư số 176/2011/TT-BQP ngày 15-9-2011 ban hành chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh, Hà Nội.
  • 156. 151 37. Bộ Tài chính (2010), Thông tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21-9-2010 quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Hà Nội. 38. Ngô Thành Can (2002), Những giải pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Giáo dục học, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. 39. Trịnh Quang Cảnh (2005), Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. Trịnh Quang Cảnh (2009), “Kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc”, Tạp chí Dân tộc, (6). 41. Nguyễn Hữu Cát, Mai Hoàng Anh (2002), “Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị chủ chốt trong hệ thống trường đảng ở Trung Quốc hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (3). 42. Charlotte P. Lee (2015), “Training the Party: Party adaptation and elite training in reform-era China” (tạm dịch: “Đào tạo Đảng: Sự chỉnh đốn Đảng và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đứng đầu ở Trung Quốc thời kỳ cải cách”), Nxb Đại học Cambridge. 43. Mai Quốc Chánh (chủ biên) (1998), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Nguyễn Thị Châu (2015), “Nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng viên các trường chính trị”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11). 45. Chính phủ (2006), Quyết định số 31/2006/QĐ-TTg ngày 06-02-2006 về việc phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn giai đoạn 2006-2010, Hà Nội. 46. Chính phủ (2006), Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15-02-2006 về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006-2010, Hà Nội. 47. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22-10-2009 về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Hà Nội. 48. Chính phủ (2010), Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Hà Nội.
  • 157. 152 49. Chính phủ (2011), Nghị định số112/2011/NĐ-CP ngày 05-12-2011 quy định về công chức xã, phường, thị trấn, Hà Nội. 50. Chính phủ (2011), Nghị định số 57/2011/NĐ-CP ngày 07-7-2011 về chế độ phụ cấp công vụ, Hà Nội. 51. Chính phủ (2011), Quyết định số 170/QĐ-TTg ngày 26-01-2011 Quyết định phê duyệt Dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức ưu tú có trình độ đại học tăng cường về làm Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thuộc 62 huyện nghèo, Hà Nội. 52. Chính phủ (2017), Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội. 53. Hoàng Đình Cúc (Chủ nhiệm) (2008), Đào tạo giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội. 54. Trịnh Cư, Nguyễn Duy Hùng, Lê Văn Yên (2009), Kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ ở Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. Đỗ Minh Cương (2014), “Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (5). 56. Denommé, J. M. và Roy, M. (2009), Sư phạm tương tác: một tiếp cận khoa học thần kinh hoạt động dạy - học (Trịnh Văn Minh - Đặng Hoàng Minh - Nguyễn Chí Thanh dịch và Nguyễn Thị Mỹ Lộc hiệu đính). Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 57. Thành Duy (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 58. Trần Thị Anh Đào (chủ biên) (2014), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 59. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Lý luận chính trị (2014), Tổng kết thực hiên Nghị quyết 01-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 60. Đại học Sư phạm Hà Nội (2016), Nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị trong xu thế toàn cầu hóa, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 61. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 62. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  • 158. 153 63. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương - Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận (2005), Báo cáo tổng kết những vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 64. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 65. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 66. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 68. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 69. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 70. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 71. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 72. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 73. Nguyễn Văn Đệ (2010), Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học, Luận án tiến sĩ Quản lý giáo dục, Đại học Giáo dục, Hà Nội. 74. Huỳnh Minh Đoàn (2007), “Phương hướng xây dựng trường chính trị tỉnh ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (01). 75. Phạm Văn Đồng (1999), Về vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 76. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 77. Đinh Ngọc Giang (2010), Chuẩn hóa chủ tịch ủy ban nhân dân xã các tỉnh đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  • 159. 154 78. Đinh Ngọc Giang, Vũ Khánh Hoàn (2016), “Công tác tuyển dụng, đào tạo cán bộ, công chức, viên chức hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (8). 79. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 80. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 81. Nguyễn Mạnh Hải (2012), “Phát triển đội ngũ giảng viên trường chính trị - nhân tố quan trọng trong công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng ta”, Tạp chí Lý luận & Truyền thông, (12). 82. Nguyễn Mạnh Hải (2015), Phát triển đội ngũ giảng viên trường chính trị các tỉnh miền núi phía Bắc đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục, Hà Nội. 83. Nguyễn Đức Hạt (chủ biên) (2009), Năng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 84. Phạm Thị Hạnh (2015), “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (105). 85. Trần Ngọc Hiên (2015), Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị - những vấn đề cần đổi mới, Bản tin Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo), (1). 86. Diêm Kiệt Hoa - Học viện Chính trị, Đại học Quảng Tây, Trung Quốc (2013), “Nghiên cứu tiến trình phát triển giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (5). 87. Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu (2008), Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 88. Hoàng Ngọc Hòa (2000), “Công tác giáo dục đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học ở các trường đảng Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (2) 89. Nguyễn Thái Hòa (2008), Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer ở cơ sở xã, phường, thị trấn khu vực Tây Nam bộ, Đề tài khoa học Ban Đảng, Vụ Địa phương III Ban Tổ chức Trung ương, Hà Nội. 90. Nguyễn Tiến Hoàng (2014) Tài liệu tham khảo bồi dưỡng, cấp nhận kiến thức lý luận chính trị cho cán bộ các cấp ở địa phương, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội. 91. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Quyết định số 1845/QĐ-HVCT-HCQG ngày 29-7-2009 về việc ban hành chương trình đào
  • 160. 155 tạo, cán bộ lãnh đạo quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (hệ trung cấp lý luận chính trị- hành chính), Hà Nội. 92. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Thành ủy Cần Thơ (2008), Hội thảo khoa học “Hệ thống chính trị cấp cơ sở các tỉnh, thành khu vực Tây Nam bộ - thực trạng và giải pháp”, ngày 25-11-2008, Cần Thơ. 93. Học viện Chính trị khu vực IV (2006), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Cần Thơ. 94. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000-2001), Phương thức đào tạo cán bộ ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trong thời kỳ mới, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội. 95. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Quyết định số 484/2002/QĐ- HVCT-HCQG ngày 11-12-2002 về việc ban hành chương trình đào tạo, cán bộ lãnh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở, Hà Nội. 96. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Quyết định số 1479/QĐ - HVCTQG ngày 21-4-2014 về việc ban hành chương trình đào tạotrung cấp lý luận chính trị - hành chính, Hà Nội. 97. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Quyết định số 3842/QĐ - HVCTQG ngày 17-9-2015 ban hành quy chế đào tạo cao cấp lý luận chính trị, Hà Nội. 98. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Quyết định số 1855/QĐ- HVCTQG ngày 21-4-2016 về việc ban hành Bộ quy chế quản lý đào tạo của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội. 99. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Kế hoạch số 19/KH-HVCTQG ngày 17-02-2016 của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về việc thực hiện Kết luận số 117-KL/TW ngày 20-11-2015 của Ban Bí thư về công tác đào tạo, bồi dưỡng tại các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội. 100. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Quyết định số 3136/QĐ - HVCTQG ngày 14-7-2016 về việc điều chỉnh chương trình đào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành chính ban hành kèm theo Quyết địnhsố 1479/QĐ - HVCTQG ngày 21-4-2014 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 101. Học viện Hành chính quốc gia (2005), Tài liệu bồi dưỡng cán bộ chính quyền cấp xã về quản lý nhà nước, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 102. Vũ Đình Hòe (1998), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  • 161. 156 103. Hội đồng nhân dân tỉnh Cà Mau (2012), Quyết định số 01/2012/NQ-HĐND ngày 12-7-2014 về chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo và thu hút nguồn nhân lực của tỉnh Cà Mau, Cà Mau. 104. Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang (2014), Quyết định số 88/2014/NQ-HĐND ngày 04-12-2014 về quy định chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và thu hút nguồn nhân lực tỉnh Kiên Giang, Kiên Giang. 105. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc (2004), Xây dựng đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc. 106. Đoàn Minh Huấn(2005), Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 107. Phạm Phi Hùng (2013), Cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở thành phố Cần Thơ - thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp tỉnh, Cần Thơ. 108. Lê Đình Huy (2012), Đảng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng ngũ công chức từ năm 2001 đến năm 2010, Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 109. Kham Bay Malasing (2012), Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ sở và những người có uy tín ở thôn bản trong phát triển cộng đồng ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Xã hội học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 110. Phạm Công Khâm (2000), Xây dựng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 111. Khăm Phăn Phôm Ma Thắt (2005), Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 112. Khăm Phăn Vông Pha Chăn (2011), Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  • 162. 157 113. Nguyễn Khôi và các cộng sự (2000), Việc thực hiện chính sách dân tộc trên lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội. 114. Nguyễn Huy Kiệm (2008), “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (7). 115. Kouyang Sisomblong (2016), Chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy ở các trường chinh trị - hành chính tỉnh Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 116. Phạm Huy Kỳ (chủ biên) (2010), Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 117. Cầm Thị Lai (2012), Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị - hành chính cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 118. Huỳnh Văn Long (2003),Xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân huyện ở đồng bằng sông Cửu Long ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 119. Tô Văn Lộc (2011), Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 120. Lê Đình Lung (2012), Đảng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức từ năm 2001 đến năm 2010, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 121. Lê Đình Lý (2012), Chính sách tạo động lực cho cán bộ, công chức cấp xã (nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Nghệ An), Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 122. M. I. Calinin (1983), Về giáo dục cộng sản chủ nghĩa, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 123. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 124. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 125. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 126. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  • 163. 158 127. Phùng Đại Minh (2002), Quản lý hiệu năng và quản lý tự chủ trong nhà trường - một cơ chế để phát triển, Nxb Giáo dục Thượng Hải, Trung Quốc. 128. Đinh Văn Mậu (2005), Tài liệu bồi dưỡng cán bộ chính quyền cấp xã về quản lý nhà nước, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 129. Hoài Nhân (2002), “Nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (12). 130. Nhiều tác giả (2015), Bàn về giáo dục, Nxb Tri thức, Hà Nội. 131. Đỗ Thị Ngọc Oanh (2013), Quản lý bồi dưỡng nghiệp vụ hành chính cho cán bộ chính quyền cấp xã trong bối cảnh hiện nay, Luận án tiến sĩ quản lý giáo dục, Trường Đại học Giáo dục, Hà Nội. 132. Huỳnh Thanh Quang (2008), “Đào tạo cán bộ người dân tộc Khmer ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (12). 133. Thân Minh Quế (2016), “Vai trò và trách nhiệm người thầy giáo dục lý luận chính trị”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11). 134. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Cán bộ, công chức, Hà Nội. 135. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 136. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Hà Nội. 137. Lê Công Quyền (2009), “Nên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo nhu cầu công tác”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9). 138. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (đồng chủ biên) (2009), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 139. Sai Kham Moun Na Ni Vong (2014), Vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho học viên hệ cao cấp ở các trường chính trị và hành chính nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 140. Nguyễn Minh Sản (2009), Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
  • 164. 159 141. Nguyễn Văn Sáu (chủ biên) (2005), Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 142. Trịnh Thanh Tâm (2012), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ của hệ thống chính trị các xã ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay. Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 143. Nguyễn Huy Thám (2014), “Một số kinh nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11). 144. Trần Hậu Thành (2004), Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (qua khảo sát ở một số tỉnh, thành phố phía Bắc nước ta), Đề tài khoa học cấp bộ, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 145. Thành ủy Cần Thơ (2007), Kế hoạch số 10-KH/TU ngày 22-01-2007 về quy hoạch và đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2006 - 2020, Cần Thơ. 146. Thành ủy Cần Thơ (2016), Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 27-12-2016 về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thành phố Cần Thơ đến năm 2020 và những năm tiếp theo, Cần Thơ. 147. Lê Thị Phương Thảo, Nguyễn Cúc và Doãn Hùng (đồng chủ biên) (2005), Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - luận cứ và giải pháp, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 148. Hồ Bá Thâm (1994), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 149. Lê Hanh Thông (2003), Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ (qua khảo sát một số trường chính trị trong khu vực), Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 150. Lê Minh Thông - Nguyễn Danh Châu (2009), Kinh nghiệm công tác nhân sự của một số nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 151. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12-8-2011 phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011 - 2015, Hà Nội.
  • 165. 160 152. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13-6-2012 phê duyệt “chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020”, Hà Nội. 153. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25-01-2016, phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 -2025, Hà Nội. 154. Tỉnh ủy Bến Tre (2006), Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 22-9-2006 về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2015, Bến Tre. 155. Nguyễn Minh Toản (2009), Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay: những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 156. Lô Quốc Toản (2010), Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 157. Tổng cục Thống kê (2017), Niên giám thống kê 2016, Nxb Thống kê, Hà Nội. 158. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 159. Đặng Văn Trọng (2012), Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng bộ Bộ đội biên phòng từ năm 1996 đến năm 2006, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 160. Vĩnh Trọng (2009), “Sóc Trăng quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ người dân tộc Khmer”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9). 161. Dương Thành Trung (2016), Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 162. Trung tâm Từ điển ngôn ngữ Hà Nội (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin. 163. Hồ Ngọc Trường (2012), Xây dựng phong cách chủ tịch ủy ban nhân dân xã ở đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 164. Nguyễn Minh Tuấn (2010), “Đảng Cộng sản Trung Quốc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ”, Tạp chí Lý luận chính trị, (9).
  • 166. 161 165. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên) (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 166. Trần Minh Tuấn (chủ nhiệm) (2011), Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 167. Bùi Công Tường (2009), “Mấy suy nghĩ và kiến nghị về đội ngũ cán bộ cơ sở”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (12). 168. Trần Ngọc Uẩn (chủ nhiệm) (2001), Phương thức đào tạo cán bộ ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trong thời kỳ mới, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 169. Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ (2012), Kế hoạch số 68/KH-UBND ngày 28-12-2012 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015, Cần Thơ. 170. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2006), Quyết định số 1356/QĐ-UB ngày 07-7- 2006 về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh An Giang giai đoạn 2006-2010, An Giang. 171. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2008), Quyết định số 42/2008/QĐ-UBND ngày 17-11-2008 về việc ban hành Quy định chế độ trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và chính sách thu hút, khuyết khích người có trình độ cao trên địa bàn tỉnh An Giang, An Giang. 172. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2010), Quyết định số 28/2010/QĐ-UBND ngày 25-5-2010 về việc ban hành Quy định chế độ trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và chính sách thu hút, khuyết khích người có trình độ cao trên địa bàn tỉnh An Giang (thay thế Quyết định số: 42/2008/QĐ- UBND ngày 17-11-2008), An Giang. 173. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2011), Quyết định số 2415/QĐ-UBND ngày 30-12-2011 về việc ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011 - 2015, An Giang. 174. Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu (2006), Quyết định số 32/2006/QĐ-UBND ngày 06-12-2006 về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức giai đoạn 2006-2010, Bạc Liêu.
  • 167. 162 175. Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu (2008), Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 11-8- 2008 ban hành đề án đào tạo nguồn nhân lực tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2008- 2010 và định hướng đến năm 2020, Bạc Liêu. 176. Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu (2011), Quyết định số 4107/QĐ-UBND ngày 28- 12-2011 về việc ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2011-2015, Bạc Liêu. 177. Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau (2013), Quyết định số 440/QĐ-UBND ngày 01- 4-2013 ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2013-2015 và định hướng đến năm 2020, Cà Mau. 178. Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau (2014), Quyết định số 20/2014/QĐ-UBND, ngày 30-7-2014 ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh Cà Mau, Cà Mau. 179. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp (2013), Quyết định số 05/2013/QĐ-UBND, ngày 31-01-2013 ban hành quy định chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, Đồng Tháp. 180. Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang (2014), Quyết định số 30/2014/QĐ-UBND, ngày 22-10-2014 ban hành quy định về chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng và chính sách thu hút nhân lực tỉnh Hậu Giang, Hậu Giang. 181. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An (2011), Quyết định số 21/2011/QĐ-UBND ngày 13-7-2011 về việc quy định chế độ đi học đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và mức thù lao đối với giảng viên, báo cáo viên trên địa bàn tỉnh Long An, Long An. 182. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An (2012), Quyết định số 06/2012/QĐ-UBND ngày 10-02-2012 về việc ban hành quy định chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh Long An, Long An. 183. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An (2014), Quyết định số 11/2014/QĐ-UBND ngày 08-02-2014 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 21/2011/QĐ-UBND ngày 13-7-2011 của UBND tỉnh về việc quy định chế độ đi học đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và mức thù lao đối với giảng viên, báo cáo viên trên địa bàn tỉnh Long An, Long An. 184. Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng (2006), Kế hoạch số 08/KH-UBND ngày 31-8- 2006 về đào tạo cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2006 - 2010, Sóc Trăng.
  • 168. 163 185. Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng (2012), Quyết định số 48/2012/QĐ-UBND ngày 15-11-2012 ban hành quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, Sóc Trăng. 186. Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng (2011), Kế hoạch số 39/KH-UBND, ngày 05- 12-2011 về đào tạo cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2011-2015, Sóc Trăng. 187. Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang (2009), Quyết định số 22/2009/QĐ-UBND ngày 25-8-2009 về chính sách đào tạo, bồi dưỡng và thu hút cán bộ, công chức hành chính, viên chức sự nghiệp giai đoạn 2009-2015, Tiền Giang. 188. Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang (2010), Quyết định 01/2012/QĐ-UBND ngày 02- 02-2012 về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và thu hút nguồn nhân lực, Tiền Giang. 189. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định số 53/QĐ-UBND ngày 08- 01-2013 về việc ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011-2020, Vĩnh Long. 190. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2013), Quyết định số 1706/QĐ-UBND ngày 22-10-2013 phê duyệt kế hoạch thực hiện đề án quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ tri thức tỉnh đến năm 2020, Vĩnh Long. 191. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (2016), Quyết định số 1163/QĐ-UBND ngày 24-5-2016 về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2016 - 2025, Vĩnh Long. 192. Phan Thị Thúy Vân (2013), Thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị phường ở khu vực Tây Nam bộ giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chínhquốc gia Hồ Chí Minh. 193. Nguyễn Hoài Văn, Đặng Duy Thìn (đồng chủ biên) (2012), Chính sách đào tạo, sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông và công tác cán bộ hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 194. V. I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 47, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 195. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt (2000), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 196. Vilay Philavong (2017),Giáo dục pháp luật cho công chức hành chinh ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  • 169. 164 197. Lương Ngọc Vĩnh (2016), “Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ tư tưởng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (8). 198. Nguyễn Thế Vịnh, Đinh Ngọc Giang (đồng chủ biên) (2009), Tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 199. Nguyễn Hữu Vui (chủ nhiệm) (2002), Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở Việt Nam - những vấn đề chung, Đề tài KX. 10-08, Hà Nội. 200. Lại Đức Vượng (2009), Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ quản lý hành chính công, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 201. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 202. Xỉnh Khăm Phom Ma Xay (2003), Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 203. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 204. Trương Thị Bạch Yến (2013), Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
  • 170. 165 PHỤ LỤC 1 THỐNG KÊ ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN THÁNG 12-2016 TT Tỉnh, Thành phố Đơn vị hành chính cấp huyện Đơn vị hành chính cấp xã Tổng số Huyện Quận TP thuộc tỉnh Thị xã Tổng số Xã Phường Thị trấn 01 An Giang 11 08 02 01 156 119 21 16 02 Bạc Liêu 07 05 01 01 64 49 10 05 03 Bến Tre 09 08 01 164 147 10 07 04 Cà Mau 09 08 01 101 82 10 09 05 Cần Thơ 09 04 05 85 36 44 05 06 Đồng Tháp 12 09 02 01 144 119 17 08 07 Hậu Giang 08 05 01 02 76 54 12 10 08 Kiên Giang 15 13 01 01 145 118 15 12 09 Long An 15 13 01 01 192 166 12 14 10 Sóc Trăng 11 08 01 02 109 80 17 12 11 Tiền Giang 11 08 01 02 173 144 22 07 12 Trà Vinh 09 07 01 01 106 85 11 10 13 Vĩnh Long 08 06 01 01 109 94 10 05 Toàn vùng 134 102 05 14 13 1.624 1.293 211 120 Nguồn: [157]
  • 171. 166 PHỤ LỤC 2 TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN THÁNG 12-2016 TT Tỉnh, thành Đối tượng Tổng số AnGiang BạcLiêu BếnTre CàMau CầnThơ ĐồngTháp HậuGiang KiênGiang LongAn SócTrăng TiềnGiang TràVinh VĩnhLong Ghi chú 1 Bí thư Đảng ủy 1611 156 64 164 98 85 144 73 145 187 109 173 106 107 2 Phó Bí thư Đảng ủy 1664 156 64 164 108 101 160 73 143 189 112 189 102 103 3 Chủ tịch HĐND 290 52 10 77 15 6 28 14 59 5 5 0 2 17 4 Phó CT.HĐND 1437 154 49 98 100 83 119 55 102 192 108 171 105 101 5 Chủ tịch UBND 1482 137 64 154 89 75 128 56 127 188 101 156 105 102 6 Phó CT.UBND 2601 278 101 302 159 132 260 102 270 240 177 219 159 202 7 Chủ tịch UB MTTQ 1609 155 64 164 99 81 144 73 145 190 109 172 106 107 8 Bí thư Đoàn TN 1611 155 64 164 101 83 144 73 144 191 108 171 105 107 9 Chủ tịch Hội LHPN 1615 156 64 164 100 85 144 73 145 192 109 171 105 107 10 Chủ tịch Hội ND 1564 151 64 159 99 71 142 72 140 188 107 166 101 104 11 Chủ tịch Hội CCB 1500 156 64 164 97 85 144 71 145 190 109 173 104 107 Tổng số 16984 1706 672 1754 1066 887 1557 735 1583 1952 1154 1761 1173 1164 Nguồn: [8]; [10]
  • 172. 167 PHỤ LỤC 3 THỐNG KÊ TÌNH HÌNH VĂN HÓA - XÃ HỘI CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Nội dung ĐVT An Giang Bạc Liêu Bến Tre Cà Mau Cần Thơ Đồng Tháp Hậu Giang Kiên Giang Long An Sóc Trăng Tiền Giang Trà Vinh Vĩnh Long Toàn vùng Dân số Người 2.169.971 886.297 1.265.274 1.222.682 1.282.926 1.687.382 782.589 1.776.788 1.449.691 1.312.599 1.740.295 1.040.572 1.048.688 17.665.754 Tỷ lệ hộ nghèo (TC mới) % 4 10 9 11 5 4,5 10 4,5 8 10,23 7,03 11.9 5,6 8,01 Số lao động có việc làm Người 35.000 15.000 30.000 30.000 50.000 40.000 23.000 28.000 30.000 20.300 22.500 15.000 27.500 366.300 Tỷ lệ lao động qua đào tạo % 34 31 40 30 42 40 16 30 50 40 35 22 34 34,15 Số xã chưa có đường ôtô đến trung tâm xã 49 5 2 0 5 0 11 41 0 21 0 8 4 146 Số và tỷ lệ tốt nghiệp THPT học sinh 43.195 14.175 30.700 23.447 25.068 38.254 15.941 33.268 37.040 26.081 38.115 17.914 27.598 370.836 % 99,64 98.74 99,69 98.27 99.72 99,53 99.89 99.29 98.21 99.6 99.22 99.78 99.05 99,27 Tỷ lệ hộ dùng điện % 98 97 96,5 93 99,6 99 95 95 98 102,58 99,67 94 99 97,41 Tỷ lệ hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh % 61 55 30 84 83 96 90 90 97,25 91,5 95,5 90 64,4 79,05 Tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ % 100 100 98 80 97,56 100 70 85 98 75,5 100 100 100 92,62 Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi % 16,2 17 17 16 16,1 18 18 17,8 18 17 17 19,4 20 17,46 Nguồn: [157]
  • 173. 168 PHỤ LỤC 4 THỐNG KÊ SỐ LIỆU VỀ DÂN TỘC CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Đvt: người Tỉnh Nội dung An Giang Bạc Liêu Bến Tre Cà Mau Cần Thơ Đồng Tháp Hậu Giang Kiên Giang Long An Sóc Trăng Tiền Giang Trà Vinh Vĩnh Long Toàn vùng Dân tộc Kinh 2.053.150 791.351 1.260.475 1.179.109 1.245.630 1.684.326 753.573 1.525.535 1.444.869 770.254 1.735.383 663.209 1.020.773 16.127.637 Dân tộc Khmer 94.271 74.667 678 33.845 22.414 857 22.169 219.899 1.595 477.014 844 369.203 22.820 1.340.276 Dân tộc Hoa 8.075 20.082 3.918 9.311 14.299 1.955 6.563 30.250 2.690 64.910 3.863 7.690 4.679 178.285 Dân tộc Chăm 14.209 69 49 106 179 97 86 440 218 106 72 163 91 15.885 Dân tộc thiểu số khác 266 128 154 311 404 147 198 664 319 315 133 307 325 3.671 Tổng 2.169.971 886.297 1.265.274 1.222.682 1.282.926 1.687.382 782.589 1.776.788 1.449.691 1.312.599 1.740.295 1.040.572 1.048.688 17.665.754 Nguồn: [8]; [10]
  • 174. 169 PHỤ LỤC 5 THỐNG KÊ SỐ LIỆU TÍN ĐỒ TÔN GIÁO Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Đvt: người Tỉnh Nội dung An Giang Bạc Liêu Bến Tre Cà Mau Cần Thơ Đồng Tháp Hậu Giang Kiên Giang Long An Sóc Trăng Tiền Giang Trà Vinh Vĩnh Long Toàn vùng Phật giáo Bắc tông 69.094 144.673 56.687 277.420 243.369 164.375 107.926 53.307 230.000 29.393 103.177 621.091 98.116 2.198.628 Phật giáo Nam tông Khmer 25.634 304.845 0 25.056 0 7.625 0 0 52.816 22.294 340.823 62.903 210.899 1.052.895 Công giáo 39.143 65.800 43.973 22.334 36.970 38.000 76.000 49.263 19.432 95.000 62.669 64.306 102.164 715.054 Tin lành 3.366 1.286 8.658 4.532 5.773 7.399 5.300 7.284 961 10.979 3.695 2.195 6.209 67.637 Hồi giáo 0 175 34 0 99 24 0 0 0 0 0 14.389 301 15.022 Nam Tông Minh sư đạo 421 0 366 0 90 79 103 23 0 33 0 0 40 1.155 Baha' i 241 0 0 0 0 0 0 32 0 239 77 0 271 860 Cao đài 12.831 16.609 41.713 21.943 60.621 44.974 30.651 50.190 9.790 18.433 8.439 63.693 22.250 402.137 Hòa Hảo 2.337 38 1.145 776 2.079 27.067 2.666 173.253 17 252.362 975 678.352 7.247 1.148.314 Tịnh độ cư sĩ 41.581 4.098 2.022 13.393 1.564 46.710 1.801 4.743 41.682 7.475 48.633 1.777 2.880 218.359 Tứ ân hiếu nghĩa 1.095 90 1.184 0 0 44 641 1.579 0 0 350 36.086 923 41.992 Bửu sơn kỳ hương 0 257 0 0 250 0 468 815 0 0 50 2.100 0 3.940 Nguồn: [8]; [10]
  • 175. 170 PHỤ LỤC 6 TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH AN GIANG ĐẾN THÁNG 12-2016 Đvt: người TT Nội dung Đối tượng Tổng số Dân tộc thiểu số Nữ Trình độ hiện có Ghi chú Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước THCS THPT Sơcấp Trungcấp, Caođẳng Đạihọc Sauđạihọc Sơcấp Trungcấp Cửnhân, caocấp Đãquabồi dưỡng Chuyên viên Chuyên viênchính 1 Bí thư Đảng ủy 156 4 19 156 6 146 6 2 24 130 100 45 39 2 Phó Bí thư Đảng ủy 156 4 27 156 11 145 11 45 67 39 2 3 Chủ tịch HĐND 52 2 5 52 10 42 2 12 8 5 4 1 4 Phó CT.HĐND 154 6 43 154 44 110 5 148 1 42 16 5 Chủ tịch UBND 137 11 137 7 127 3 1 80 53 73 48 3 6 Phó CT.UBND 278 10 73 278 53 219 6 7 255 16 100 46 2 7 Chủ tịch UB MTTQ 155 5 33 155 52 103 4 144 7 37 9 8 Bí thư Đoàn TN 155 1 67 155 53 102 36 112 7 32 2 9 Chủ tịch Hội PN 156 5 156 156 74 82 13 138 5 34 6 10 Chủ tịch Hội ND 151 5 9 6 145 8 62 81 15 132 4 32 1 1 11 Chủ tịch Hội CCB 156 3 54 102 64 71 21 52 83 17 28 1 Tổng số 1706 45 443 60 1646 72 443 1176 15 137 1239 293 552 218 Nguồn: [8]; [9]; [10]
  • 176. 171 PHỤ LỤC 7 TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH CÀ MAU ĐẾN THÁNG 12-2016 Đvt: người TT Nội dung Đối tượng Tổng số Dân tộc thiểu số Nữ Trình độ hiện có Ghi chú Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước THCS THPT Sơcấp Trungcấp Caođẳng, Đạihọc Sauđạihọc Sơcấp Trungcấp Cửnhân, caocấp Đãqua bồidưỡng, cánsự Chuyên viên Chuyên viênchính 1 Bí thư Đảng ủy 98 1 8 98 4 84 8 13 82 7 65 17 Có 1 chủ tịch HND, 10 chủ tịch HCCB học vấn là tiểu học 2 Phó Bí thư Đảng ủy 108 8 1 107 3 17 81 5 62 38 2 67 1 3 Chủ tịch HĐND 15 2 15 1 14 8 7 2 8 4 Phó CT.HĐND 100 20 1 99 5 26 9 2 78 16 5 62 5 Chủ tịch UBND 89 1 5 89 1 2 85 1 2 30 55 1 72 1 6 Phó CT.UBND 159 1 17 159 24 133 4 115 31 4 114 7 Chủ tịch UB MTTQ 99 2 9 6 93 7 26 51 3 71 17 3 50 8 Bí thư Đoàn TN 101 1 24 101 5 36 54 15 58 9 6 45 9 Chủ tịch Hội LHPN 100 100 5 95 7 27 57 9 77 3 2 49 10 Chủ tịch Hội ND 99 2 14 84 13 35 29 13 77 4 5 32 11 Chủ tịch Hội CCB 97 1 51 36 24 20 5 37 41 3 6 Tổng số 1.066 7 193 78 976 65 218 602 9 90 630 262 40 570 19 Nguồn: [8]; [9]; [10]
  • 177. 172 PHỤC LỤC 8 TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ ĐẾN THÁNG 12-2016 Đvt: người TT Nội dung Đối tượng Tổng số Dân tộc thiểu số Nữ Trình độ hiện có Ghi chú Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước THCS THPT Sơcấp Trungcấp Caođẳng, Đạihọc Sauđạihọc Sơcấp Trungcấp Cửnhân, caocấp Đãquabồi dưỡng Chuyên viên Chuyên viênchính 1 Bí thư Đảng ủy 85 2 15 85 6 64 15 1 20 64 1 51 8 2 Phó Bí thư ĐU 101 15 2 99 7 14 74 3 1 78 22 2 40 1 3 Chủ tịch HĐND 6 6 1 3 6 6 4 Phó CT.HĐND 83 3 19 83 5 21 52 6 3 73 6 8 24 1 5 Chủ tịch UBND 75 1 8 75 5 63 1 44 30 4 50 1 6 Phó CT.UBND 132 23 132 3 15 104 4 119 7 7 58 7 Chủ tịch UB MTTQ 81 2 9 4 77 9 27 31 5 69 6 5 18 8 Bí thư Đoàn TN 83 1 24 1 82 3 17 55 1 25 47 1 4 8 1 9 Chủ tịch Hội PN 85 1 82 85 5 24 45 15 65 2 5 16 10 Chủ tịch Hội ND 71 4 4 67 6 24 15 16 51 1 5 6 11 Chủ tịch Hội CCB 85 1 3 25 59 18 13 12 32 39 3 2 1 Tổng số 887 11 80 36 517 56 167 518 31 103 611 142 43 272 12 Nguồn: [8]; [9]; [10]
  • 178. 173 PHỤC LỤC 9 TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH ĐỒNG THÁP ĐẾN THÁNG 12-2016 Đvt: người TT Nội dung Đối tượng Tổng số Dân tộc thiểu số Nữ Trình độ hiện có Ghi chú Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước THCS THPT Sơcấp Trungcấp Caođẳng, Đạihọc Sauđạihọc Sơcấp Trungcấp Cửnhân, caocấp Đãquabồi dưỡng Chuyênviên Chuyênviên chính 1 Bí thư Đảng ủy 143 2 19 143 5 121 17 13 128 16 32 34 2 Phó Bí thư ĐU 141 5 22 141 27 110 3 2 92 44 5 49 31 3 Chủ tịch HĐND 3 3 2 1 1 2 4 Phó CT.HĐND 142 13 33 142 1 45 93 4 119 18 5 57 9 5 Chủ tịch UBND 138 7 138 16 121 1 1 78 59 7 49 34 6 Phó CT.UBND 212 37 212 30 180 3 168 35 7 57 51 7 Chủ tịch MTTQ 143 5 26 143 57 72 3 125 12 2 49 8 Bí thư Đoàn TN 143 45 143 42 101 14 77 40 37 9 Chủ tịch Hội PN 143 2 143 143 3 52 82 11 91 25 29 10 Chủ tịch Hội ND 142 7 7 142 9 81 46 18 105 13 2 51 11 Chủ tịch Hội CCB 143 3 2 15 128 33 49 22 52 76 6 1 22 Tổng số 1.493 37 341 15 1.478 46 404 950 22 108 945 382 46 432 159 Nguồn: [8]; [9]; [10]
  • 179. 174 PHỤC LỤC 10 TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH HẬU GIANG ĐẾN THÁNG 12-2016 Đvt: người TT Nội dung Đối tượng Tổng số Dân tộc thiểu số Nữ Trình độ hiện có Ghi chú Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước THCS THPT Sơcấp Trungcấp Caođẳng, Đạihọc Sauđạihọc Sơcấp Trungcấp Cửnhân, caocấp Đãquabồi dưỡng Chuyênviên Chuyênviên chính 1 Bí thư Đảng ủy 76 1 6 76 1 72 3 10 66 15 2 15 2 Phó Bí thư ĐU 76 3 6 76 8 67 1 42 34 8 11 4 3 Chủ tịch HĐND 32 0 3 32 0 32 12 20 2 0 1 4 Phó CT.HĐND 76 1 11 76 26 50 55 21 11 4 1 5 Chủ tịch UBND 75 1 0 75 2 71 2 1 25 50 8 1 15 6 Phó CT.UBND 99 0 6 99 27 72 2 75 22 7 21 2 7 Chủ tịch UB MTTQ 76 2 7 76 23 49 7 55 14 3 8 1 8 Bí thư Đoàn TN 76 24 26 76 25 49 5 68 0 6 13 3 9 Chủ tịch Hội PN 76 24 76 76 31 40 5 69 0 5 11 0 10 Chủ tịch Hội ND 76 1 1 4 72 11 28 26 12 61 2 11 8 0 11 Chủ tịch Hội CCB 76 0 0 13 63 10 32 18 15 55 0 8 8 0 Tổng số 814 57 23 17 797 21 203 546 6 47 527 229 84 87 42 Nguồn: [8]; [9]; [10]
  • 180. 175 PHỤC LỤC 11 TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH KIÊN GIANG ĐẾN THÁNG 12-2016 Đvt: người TT Nội dung Đối tượng Tổng số Dân tộc thiểu số Nữ Trình độ hiện có Ghi chú Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước THCS THPT Sơcấp Trungcấp Caođẳng, Đạihọc Sauđạihọc Sơcấp Trungcấp Cửnhân, caocấp Đãquabồi dưỡng Chuyênviên Chuyênviên chính 1 Bí thư Đảng ủy 145 8 12 145 9 119 17 3 25 117 28 75 10 2 Phó Bí thư ĐU 157 8 24 157 1 45 111 0 15 70 72 23 45 1 3 Chủ tịch HĐND 5 0 1 5 3 2 0 0 4 1 1 1 4 Phó CT.HĐND 145 7 43 145 58 87 0 20 107 18 28 16 5 Chủ tịch UBND 132 3 11 132 25 107 6 4 59 69 14 40 1 6 Phó CT.UBND 234 12 39 234 1 79 154 2 26 170 38 41 45 7 Chủ tịch UB MTTQ 142 14 25 142 1 67 74 0 14 108 20 22 20 8 Bí thư Đoàn TN 143 5 45 143 1 71 71 26 115 2 30 12 9 Chủ tịch Hội PN 143 10 143 143 65 78 23 110 10 27 23 10 Chủ tịch Hội ND 142 12 6 142 7 71 64 30 107 5 33 6 11 Chủ tịch Hội CCB 144 7 0 21 123 5 126 13 82 57 5 23 4 Tổng số 1.533 86 349 21 1,511 11 619 880 25 234 932 357 270 287 12 Nguồn: [8]; [9]; [10]
  • 181. 176 PHỤ LỤC 12 TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH LONG AN ĐẾN THÁNG 12-2016 Đvt: người TT Nội dung Đối tượng Tổng số Dân tộc thiểu số Nữ Trình độ hiện có Ghi chú Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước THCS THPT Sơcấp Trungcấp Caođẳng, Đạihọc Sauđạihọc Sơcấp Trungcấp Cửnhân, caocấp Đãquabồi dưỡng Chuyênviên Chuyênviên chính 1 Bí thư Đảng ủy 187 0 18 187 0 6 170 7 1 96 90 45 37 5 2 Phó Bí thư Đảng ủy 189 0 46 189 2 43 128 0 3 160 25 37 7 1 3 Chủ tịch HĐND 5 0 1 5 0 1 4 0 0 5 0 2 0 0 4 Phó CT.HĐND 192 0 55 192 0 57 126 0 7 168 15 41 5 0 5 Chủ tịch UBND 188 0 11 188 0 28 157 1 7 152 29 47 22 1 6 Phó CT.UBND 240 0 55 240 1 56 171 1 7 217 10 50 20 1 7 Chủ tịch UB MTTQ 190 0 40 190 10 48 94 0 18 156 5 30 8 1 8 Bí thư Đoàn TN 191 0 66 1 190 6 62 84 0 31 131 1 13 2 0 9 Chủ tịch Hội PN 192 0 190 2 190 7 48 86 0 28 128 3 14 4 0 10 Chủ tịch Hội ND 188 0 13 15 173 11 42 66 0 36 112 3 13 2 1 11 Chủ tịch Hội CCB 190 0 0 59 125 16 28 28 0 49 78 3 15 1 0 6 cấp 1 Tổng số 1.952 0 495 77 1.869 53 419 1114 9 187 1403 184 307 108 10 Nguồn: [8]; [9]; [10]
  • 182. 177 PHỤ LỤC 13 TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH SÓC TRĂNG ĐẾN THÁNG 12-2016 Đvt: người TT Nội dung Đối tượng Tổng số Dân tộc thiểu số Nữ Trình độ hiện có Ghi chú Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước THCS THPT Sơcấp Trungcấp,Cao đẳng Đạihọc Sauđạihọc Sơcấp Trungcấp Cửnhân, caocấp Đãquabồi dưỡng Chuyênviên Chuyênviên chính 1 Bí thư Đảng ủy 109 13 7 0 109 1 7 101 4 16 93 79 82 30 2 Phó Bí thư Đảng ủy 112 11 15 0 111 9 25 77 1 67 44 67 72 11 3 Chủ tịch HĐND 5 1 1 0 4 0 3 1 4 1 5 5 2 4 Phó CT.HĐND 108 17 19 0 108 17 51 40 5 94 9 69 67 5 Chủ tịch UBND 101 12 6 0 103 4 21 78 3 57 43 92 65 15 6 Phó CT.UBND 177 20 16 0 179 8 65 106 1 9 139 29 112 42 7 Chủ tịch UB MTTQ 109 21 16 2 107 34 47 27 4 97 8 37 33 8 Bí thư Đoàn TN 108 18 42 0 107 13 52 42 10 85 7 68 15 9 Chủ tịch Hội PN 109 14 98 0 107 18 57 32 6 92 7 77 9 10 Chủ tịch Hội ND 107 11 3 6 100 36 52 18 9 93 5 50 4 11 Chủ tịch Hội CCB 109 5 2 15 93 58 34 12 19 78 8 47 6 Tổng số 1.154 143 225 23 1.128 198 198 414 8 63 822 254 703 400 58 Nguồn: [8]; [9]; [10]
  • 183. 178 PHỤC LỤC 14 TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH TIỀN GIANG ĐẾN THÁNG 12-2016 Đvt: người TT Nội dung Đối tượng Tổng số Dân tộc thiểu số Nữ Trình độ hiện có Ghi chú Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước THCS THPT Sơcấp Trungcấp Caođẳng, Đạihọc Sauđạihọc Sơcấp Trungcấp Cửnhân, caocấp Đãquabồi dưỡng Chuyênviên Chuyênviên chính 1 Bí thư Đảng ủy 173 1 17 173 1 35 103 6 1 99 73 22 58 8 2 Phó Bí thư ĐU 189 34 1 188 3 57 96 3 152 25 6 73 1 3 Chủ tịch HĐND 4 Phó CT.HĐND 171 40 171 4 60 84 7 148 8 2 43 5 Chủ tịch UBND 156 18 156 3 40 98 4 126 26 6 79 7 6 Phó CT.UBND 219 44 219 1 63 143 8 183 19 5 87 7 Chủ tịch UB MTTQ 172 44 27 145 17 55 34 7 149 13 30 8 Bí thư Đoàn TN 171 64 1 170 1 85 74 31 104 2 25 9 Chủ tịch Hội LHPN 171 171 2 169 4 80 64 26 122 5 15 10 Chủ tịch Hội ND 166 10 28 138 16 53 24 18 134 5 19 11 Chủ tịch Hội CCB 173 5 64 109 37 15 10 48 91 6 1 20 Tổng số 1.761 1 447 121 1.638 87 544 728 6 153 1.308 182 42 449 16 Nguồn: [8]; [9]; [10]
  • 184. 179 PHỤC LỤC 15 TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở TỈNH TRÀ VINH ĐẾN THÁNG 12-2016 Đvt: người TT Nội dung Đối tượng Tổng số Dân tộc thiểu số Nữ Trình độ hiện có Ghi chú Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước THCS THPT Sơcấp Trungcấp Caođẳng, Đạihọc Sauđạihọc Sơcấp Trungcấp Cửnhân, caocấp Đãquabồi dưỡng Chuyênviên Chuyênviên chính 1 Bí thư Đảng ủy 106 5 7 106 6 97 3 24 82 82 57 25 2 Phó Bí thư ĐU 102 15 17 102 12 90 73 29 26 23 3 3 Chủ tịch HĐND 2 2 2 2 2 2 4 Phó CT.HĐND 105 20 30 105 17 88 97 8 20 20 5 Chủ tịch UBND 105 11 11 105 4 101 62 43 102 70 32 6 Phó CT.UBND 159 21 31 159 22 136 1 130 29 68 68 7 Chủ tịch UB MTTQ 106 25 26 106 1 28 77 95 11 9 9 8 Bí thư Đoàn TN 105 17 31 105 2 27 74 2 23 77 5 4 4 9 Chủ tịch Hội PN 105 18 105 105 17 88 12 89 4 2 2 10 Chủ tịch Hội ND 101 16 11 1 100 4 30 67 14 76 11 1 1 11 Chủ tịch Hội CCB 104 16 4 14 90 35 39 30 33 69 2 1 1 Tổng số 1.173 155 259 15 1.085 42 202 850 6 82 792 226 317 257 60 Nguồn: [8]; [9]; [10]
  • 185. 180 PHỤ LỤC 16 BẢNG THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG, TRÌNH ĐỘ CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC CỦA CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN THÁNG 12-2016 Đvt: người TT Tên trường Tổng số công chức, viên chức Số lượng, cơ cấu ban giám hiệu Trình độ ban giám hiệu Tổng số giảng viên Trình độ chung Tổng Nam Nữ Tỉnh ủy viên Phó hiệu trưởng Tiến sĩ Thạc sĩ Cử nhân Tiến sĩ Thạc sĩ Cử nhân Khác 1 Bến Tre 44 24 20 1 3 4 24 16 20 8 2 Cà Mau 57 38 19 1 3 1 2 1 30 1 20 12 24 3 Cần Thơ 60 30 30 3 1 3 0 38 1 23 30 6 4 Châu Văn Đặng (Bạc Liêu) 50 31 19 1 3 3 1 29 22 14 14 5 Đồng Tháp 50 29 21 1 3 1 3 25 1 27 19 3 6 Hậu Giang 56 34 22 1 3 3 1 32 14 38 4 7 Phạm Hùng (Vĩnh Long) 40 22 18 2 2 1 29 16 19 5 8 Kiên Giang 70 36 34 1 3 1 2 1 40 1 30 23 16 9 Long An 56 29 27 1 3 3 1 23 19 21 16 10 Sóc Trăng 51 29 22 1 2 2 1 24 17 30 4 11 Tôn Đức Thắng (An Giang) 65 40 25 1 3 2 1 1 35 3 24 25 13 12 Tiền Giang 48 28 20 3 1 3 26 1 16 22 9 13 Trà Vinh 53 26 27 1 3 2 2 32 2 12 35 4 Tổng 700 396 304 10 37 9 31 10 387 10 256 308 126 Nguồn: [8]; [9]
  • 186. 181 181 PHỤ LỤC 17 Nguồn: [8]; [9] 77,1% 15,8% 7,1% TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN NĂM 2016 Trung cấp 77,1% Cao cấp 15,8% Sơ cấp 7,1%
  • 187. 182 182 PHỤ LỤC 18 Nguồn: [8]; [9] 89 % 2,6% 8,4% TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN NĂM 2016 Cao đẳng, đại học 89% Sau đại học 2,6% Trung, sơ cấp 8,4%
  • 188. 183 PHỤ LỤC 19 THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐÃ THAM GIA ĐÀO TẠO TỪ NĂM 2010 ĐẾN 2016 Đvt: người TT Tỉnh, thành Đối tượng AnGiang BạcLiêu BếnTre CàMau CầnThơ ĐồngTháp HậuGiang KiênGiang LongAn SócTrăng TiềnGiang TràVinh VĩnhLong Tổng số 1 Bí thư Đảng ủy 98 49 151 88 81 142 69 136 177 102 167 98 95 1,453 2 Phó Bí thư Đảng ủy 123 52 153 103 89 152 71 137 168 103 178 99 97 1,525 3 Chủ tịch HĐND 17 7 57 11 5 24 9 54 2 3 0 2 18 209 4 Phó CT.HĐND 131 49 81 89 82 111 50 98 178 101 168 102 89 1,329 5 Chủ tịch UBND 126 53 131 87 73 118 51 120 171 92 140 91 88 1,341 6 Phó CT.UBND 216 89 287 152 127 242 89 261 221 154 189 146 189 2,362 7 Chủ tịch UB MTTQ 121 59 153 76 70 121 62 120 162 96 154 89 81 1,364 8 Bí thư Đoàn TN 132 55 151 87 72 132 67 121 160 89 160 99 89 1,414 9 Chủ tịch Hội LHPN 131 52 142 79 69 126 60 132 151 91 149 87 93 1,362 10 Chủ tịch Hội ND 92 43 103 81 56 111 50 102 135 79 120 79 67 1,118 11 Chủ tịch Hội CCB 78 38 94 64 68 97 45 97 121 63 98 77 71 1,011 Tổng số 1,265 546 1,503 917 792 1,376 623 1,378 1,646 973 1,523 969 977 14,488 Nguồn: [8]; [9]; [10]
  • 189. 184 PHỤ LỤC 20 THỐNG KÊ SỐ LƯỢT CÁN BỘ CẤP XÃ THAM GIA CÁC LỚP BỒI DƯỠNG Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2016 Đvt: người TT Tỉnh, thành Đối tượng AnGiang BạcLiêu BếnTre CàMau CầnThơ ĐồngTháp HậuGiang KiênGiang LongAn SócTrăng TiềnGiang TràVinh VĩnhLong Tổng số 1 Bí thư Đảng ủy 1212 512 1232 784 464 1152 581 1154 1495 980 1382 847 855 12,650 2 Phó Bí thư Đảng ủy 1010 576 1351 876 817 1438 671 1302 1638 893 1700 917 923 14,112 3 Chủ tịch HĐND 472 101 547 105 56 216 112 413 37 40 0 14 118 2,231 4 Phó CT.HĐND 1163 343 756 750 664 833 432 714 1342 862 1195 734 807 10,595 5 Chủ tịch UBND 1096 832 1232 657 675 1152 501 1142 1692 1009 1559 943 917 13,407 6 Phó CT.UBND 1668 702 2416 1241 1056 2080 805 2156 1917 1414 1751 1271 1816 20,293 7 Chủ tịch UB MTTQ 1198 381 1450 635 567 1001 510 1014 1325 871 1203 847 745 11,747 8 Bí thư Đoàn TN 1395 832 1425 903 747 1293 654 1294 1718 971 1538 944 1067 14,781 9 Chủ tịch Hội LHPN 1872 901 1652 897 654 1134 656 1447 1919 1085 1709 1047 1165 16,138 10 Chủ tịch Hội ND 1057 514 1231 645 487 1008 501 979 1502 856 1326 802 831 11,739 11 Chủ tịch Hội CCB 998 443 1038 597 510 864 425 837 1327 760 1200 723 727 10,449 Tổng số 13,141 6,137 14,330 8,090 6,697 12,171 5,848 12,452 15,912 9,741 14,563 9,089 9,971 138,142 Nguồn: [8]; [9]; [10]
  • 190. 185 PHỤ LỤC 21 TỔNG HỢP CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐƯỢC ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TỪ 2006 - 2016 Nguồn: [8]; [9]; [10] 3154 6321 1570 0 1000 2000 3000 4000 5000 6000 7000 Cao cấp lý luận chính trị Trung cấp lý luận CT-HC Sơ cấp lý luận chính trị
  • 191. 186 PHỤ LỤC 22 TỔNG HỢP CÁN BỘ CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐƯỢC ĐÀO TẠO CHUYÊN MÔN TỪ 2006 - 2016 Nguồn: [8]; [9]; [10] 158 6892 320 6082 0 1000 2000 3000 4000 5000 6000 7000 8000 Sau đại học Đại học Cao đẳng Trung cấp
  • 192. 187 PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN (Dùng cho cán bộ cấp xã, cán bộ của các cơ quan chức năng có liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long) Để nghiên cứu thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay làm cơ sở đề xuất những giải pháp khả thi góp phần nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới. Xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về một số vấn đề dưới đây. Đồng ý với phương án nào, xin ông/bà hãy đánh dấu chéo (x) vào ô vuông bên phải hoặc ghi thêm ý kiến khác vào phần chấm chấm (...). Câu 1: Ông/bà nhận định như thế nào về chủ trương, chính sách, các quy định, quy chế của Đảng, Nhà nước các cấp quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã. 1- Đáp ứng đầy đủ yêu cầu  2- Chỉ đáp ứng một phần  3- Chưa đáp ứng  4- Ý kiến khác: ......................................................................................... ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Câu 2: Ông/bà nhận định về vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã. 1- Thể hiện vai trò, trách nhiệm tốt  2- Thể hiện vai trò, trách nhiệm khá  3- Thể hiện vai trò, trách nhiệm trung bình  4- Thể hiện vai trò, trách nhiệm chưa tốt  5- Ý kiến khác: ......................................................................................... ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Câu 3: Ông/bà đánh giá như thế nào về khâu quy hoạch, chọn cử cán bộ cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng 1- Kịp thời, đảm bảo đúng quy trình 
  • 193. 188 2- Còn bị động  3- Có thực hiện nhưng chưa đảm bảo  4- Còn nhiều hạn chế  5- Ý kiến khác: ......................................................................................... ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Câu 4: Ông/bà đánh giá như thế nào về cách thức tổ chức, quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã 1- Rất phù hợp  2- Phù hợp nhưng chưa sáng tạo  3- Còn chồng chéo  4- Còn yếu kém  5- Ý kiến khác: ......................................................................................... ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Câu 5: Ông/bà nhận định như thế nào về nội dung, chương trình đào tạo cán bộ cấp xã hiện nay. 1- Rất phù hợp  2- Phù hợp  3- Chỉ phù hợp một phần  4- Còn nhiều hạn chế  5- Ý kiến khác: ......................................................................................... ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Câu 6: Ông/bà nhận định như thế nào về nội dung, chương trình bồi dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay. 1- Rất phù hợp  2- Phù hợp  3- Chỉ phù hợp một phần  4- Còn nhiều hạn chế  5- Ý kiến khác: ......................................................................................... ............................................................................................................................. .............................................................................................................................
  • 194. 189 Câu 7: Ông/bà nhận định về phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay. 1- Rất phù hợp  2- Chỉ phù hợp một phần  3- Chưa phù hợp  4- Phải đổi mới  5- Ý kiến khác: ......................................................................................... ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Câu 8: Ông/bà đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên làm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay. 1- Đáp ứng nhiệm vụ tốt  2- Đáp ứng nhiệm vụ khá  3- Đáp ứng nhiệm vụ trung bình  4- Chưa đáp ứng nhiệm vụ  5- Ý kiến khác: ......................................................................................... ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Câu 9: Ông/bà đánh giá như thế nào về điều kiện vật chất phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay. 1- Rất tốt  2- Khá  3- Trung bình  4- Chưa tốt  5- Ý kiến khác: ......................................................................................... ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Câu 10: Ông/bà nhận định về chính sách hỗ trợ cán bộ cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng. 1- Rất tốt  2- Mức độ khá  3- Mức trung bình  4- Chưa đáp ứng 
  • 195. 190 5- Ý kiến khác: ......................................................................................... ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Câu 11: Ông/bà nhận định về ý thức, tính tự giác, tính hiệu quả trong học tập khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng của cán bộ cấp xã hiện nay. 1- Rất tốt  2- Mức độ khá  3- Mức trung bình  4- Chưa cao  5- Ý kiến khác: ......................................................................................... ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Câu 12: Ông/bà nhận định khâu đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ cấp xã sau khi đào tạo, bồi dưỡng. 1- Rất hợp lý  2- Chỉ hợp lý một phần  3- Không chú trọng  4- Còn nhiều hạn chế  5- Ý kiến khác: ......................................................................................... ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. Xin cảm ơn ông, bà!
  • 196. 191 TỔNG HỢP PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN Qua phát 500 phiếu cho cán bộ cấp xã, cán bộ phòng nội vụ, ban tổ chức cấp huyện và giảng viên trường chính trị của các tỉnh, thành phố ở đồng bằng sông Cửu Long, kết quả thu về như sau: Câu 1: Ông/bà nhận định như thế nào về chủ trương, chính sách, các quy định, quy chế của Đảng, Nhà nước các cấp quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã. 1- Đáp ứng đầy đủ yêu cầu 332 66,4% 2- Chỉ đáp ứng một phần 92 18,4% 3- Chưa đáp ứng 74 14,8% 4- Ý kiến khác: 2 0,4% Câu 2: Ông/bà nhận định về vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã. 1- Thể hiện vai trò, trách nhiệm tốt 298 59,6% 2- Thể hiện vai trò, trách nhiệm khá 97 19,4% 3- Thể hiện vai trò, trách nhiệm trung bình 81 16,2% 4- Thể hiện vai trò, trách nhiệm chưa tốt 19 3,8% 5- Ý kiến khác: 5 1,0% Câu 3: Ông/bà đánh giá như thế nào về khâu quy hoạch, chọn cử cán bộ cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng. 1- Kịp thời, đảm bảo đúng quy trình 262 52,4% 2- Còn bị động 132 26,4% 3- Có thực hiện nhưng chưa đảm bảo 60 12,0% 4- Còn nhiều hạn chế 40 8,0% 5- Ý kiến khác: 6 1,2% Câu 4: Ông/bà đánh giá như thế nào về cách thức tổ chức, quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã. 1- Rất phù hợp 249 49,8% 2- Phù hợp nhưng chưa sáng tạo 125 25,0% 3- Còn chồng chéo 75 15,0% 4- Còn yếu kém 45 9,0% 5- Ý kiến khác: 5 1,0%
  • 197. 192 Câu 5: Ông/bà nhận định như thế nào về nội dung, chương trình đào tạo cán bộ cấp xã hiện nay. 1- Rất phù hợp 315 63,0% 2- Phù hợp 95 19,0% 3- Chỉ phù hợp một phần 51 10,2% 4- Còn nhiều hạn chế 36 7,2% 5- Ý kiến khác: 3 0,6% Câu 6: Ông/bà nhận định như thế nào về nội dung, chương trình bồi dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay. 1- Rất phù hợp 298 59,6% 2- Phù hợp 92 18,4% 3- Chỉ phù hợp một phần 81 16,2% 4- Còn nhiều hạn chế 28 5,6% 5- Ý kiến khác: 1 0,2% Câu 7: Ông/bà nhận định về phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay. 1- Rất phù hợp 261 52,2% 2- Chỉ phù hợp một phần 88 17,6% 3- Chưa phù hợp 79 15,8% 4- Còn chồng chéo 63 12,6% 5- Ý kiến khác: 9 1,8% Câu 8: Ông/bà đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên làm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay. 1- Đáp ứng nhiệm vụ tốt 275 55,0% 2- Đáp ứng nhiệm vụ khá 108 21,6% 3- Đáp ứng nhiệm vụ trung bình 93 18,6% 4- Chưa đáp ứng nhiệm vụ 23 4,6% 5- Ý kiến khác: 1 0,2% Câu 9: Ông/bà đánh giá như thế nào về điều kiện vật chất phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã hiện nay. 1- Rất tốt 201 40,2% 2- Khá 112 22,6% 3- Trung bình 108 21,6%
  • 198. 193 4- Chưa tốt 76 15,2% 5- Ý kiến khác: 3 0,6% Câu 10: Ông/bà nhận định về chính sách hỗ trợ cán bộ cấp xã đi đào tạo, bồi dưỡng. 1- Rất tốt 91 18,2% 2- Mức độ khá 170 34,0% 3- Mức trung bình 31 6,2% 4- Chưa đáp ứng 193 38,6% 5- Ý kiến khác: 15 3,0% Câu 11: Ông/bà nhận định về ý thức, tính tự giác, tính hiệu quả trong học tập khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng của cán bộ cấp xã hiện nay. 1- Rất tốt 263 52,6% 2- Mức độ khá 137 27,4% 3- Mức trung bình 67 13,4% 4- Chưa cao 32 6,4% 5- Ý kiến khác: 1 0,2% Câu 12: Ông/bà nhận định khâu đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ cấp xã sau khi đào tạo, bồi dưỡng. 1- Rất hợp lý 247 49,4% 2- Chỉ hợp lý một phần 165 33,0% 3- Không chú trọng 52 10,4% 4- Còn nhiều hạn chế 33 6,6% 5- Ý kiến khác: 3 0,6%