BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THỊ DIỆU KHÁNH
CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG PHÁP LỆNH
THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN –
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI,
TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THỊ DIỆU KHÁNH
CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG PHÁP LỆNH
THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN –
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI,
TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ ĐỨC ĐÁN
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn “Công khai, minh bạch trong pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn – từ thực tiễn thành
phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình ” là công trình nghiên cứu của bản
thân tôi và chưa từng công bố ở bất kỳ nơi nào. Mọi sự giúp đỡ để hoàn
thiện đề tài này đã được cảm ơn đầy đủ, các thông tin trích dẫn trong đề
tài nghiên cứu này điều đã được chỉ rõ nguồn gốc, trung thực.
Thừa Thiên Huế, ngày 28 tháng 12 năm 2017
Học viên
Lê Thị Diệu Khánh
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành đề tài luận văn này ngoài sự nổ lực,cố
gắng của bản thân tôi đã nhận được nhiều sự hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện
của thầy cô, các cơ quan, đồng nghiệp, bạn bè và người thân.
Trước hết tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến thầy giáo
PGS.TS Vũ Đức Đán người hướng dẫn khoa học trực tiếp, đã tận tình hướng
dẫn, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Cơ sở học viện hành chính quốc gia khu vực
miền Trung, Khoa sau đại học – Học viện Hành chính quốc gia cùng toàn thể
các thầy, cô giáo đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu và giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo và cán bộ, đồng
nghiệp cơ quan Thành ủy Đồng Hới đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá
trình hoàn thiện luận văn này
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể lớp cao học Quản lý công
HC20.T5- Cơ sở Học viện Hành chính quốc gia khu vực miền Trung, các
đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ, cổ vũ và
động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tuy đã nhiều cố gắng, nhưng trong luận văn này không tránh khỏi
những tồn tại, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và
những người quan tâm để đề tài được hoàn thiện hơn./.
Trân trọng cảm ơn!
Học viên
Lê Thị Diệu Khánh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG
THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN..................................9
1.1. Cơ sở lý luận về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn...........................................................................................9
1.1.1. Những khái niệm liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài........9
1.1.2. Sự cần thiết phải công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ
sở..............................................................................................................16
1.2. Cơ sở pháp lý về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn.........................................................................................18
1.2.1. Căn cứ pháp lý thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ................18
1.2.2. Nội dung công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền cấp
xã theo pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.......................22
1.2.3. Hình thức công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền cấp
xã theo pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.......................24
1.3. Những yếu tố tác động đến công khai, minh bạch trong thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn .........................................................................26
1.3.1. Trình độ chuyên môn, phẩm chất, năng lực, ý thức trách nhiệm của
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong thực hiện pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn. ........................................................................27
1.3.2. Công tác tuyên truyền và tổ chức thực hiện của chính quyền và các tổ
chức chính trị xã hội cấp xã ......................................................................28
1.3.3. Hệ thống pháp luật, chế tài xử lý.....................................................29
1.3.4. Địa bàn dân cư, trình độ dân trí, nhận thức của người dân..............30
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 32
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG KHAI, MINH BẠCH
TRONG PHÁP LỆNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ
TRẤN TẠI THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH.................... 33
2.1. Các yếu tố tác động đến quá trình thực hiện công khai, minh bạch trong
pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới,
tỉnh Quảng Bình........................................................................................33
2.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý, tự nhiên........................................................33
2.1.2. Đặc điểm kinh tế- xã hội .................................................................34
2.1.3. Về đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ..............................................36
2.1.4. Tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước ở địa phương - chủ thể thực
hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn ......................................................................................................38
2.2. Tổ chức triển khai và kết quả thực hiện công khai, minh bạch trong
pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới,
tỉnh Quảng Bình........................................................................................ 43
2.2.1. Tổ chức chỉ đạo triển khai thực hiện pháp lệnh ...............................43
2.2.2. Hình thức tổ chức thực hiện..............................................................46
2.2.3. Nội dung thực hiện..........................................................................50
2.3. Đánh giá kết quả thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng
Bình .......................................................................................................... 77
2.3.1. Ưu điểm ..........................................................................................77
2.3.2. Hạn chế...........................................................................................82
2.3.3. Nguyên nhân của những kết quả đạt được.......................................85
2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế.....................................................85
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 89
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN
CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG PHÁP LỆNH THỰC HIỆN DÂN
CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN.................................................................. 90
3.1. Phương hướng thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn ............................................................90
3.1.1. Phương hướng chung ......................................................................90
3.1.2. Phương hướng tăng cường sự công khai, minh bạch trong thực hiện
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của địa phương..........93
3.2. Giải pháp đẩy mạnh thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn ....................................................94
3.2.1. Giải pháp chung ..............................................................................94
3.2.2. Giải pháp cho thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình .................. 109
Kết luận chương 3 ............................................................................................... 111
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
MTTQ : Mặt trận Tổ quốc
Nxb : Nhà xuất bản
UBTVQH : Ủy ban Thường vụ Quốc hội
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình đội ngũ cán bộ, công chức các xã, phường trên địa bàn thành
phố Đồng Hới theo độ tuổi...................................................................................... 36
Bảng 2.2: Đánh giá về mức độ công khai 11 nội dung cần phải công khai cho
nhân dân biết theo quy định của pháp lệnh 34 ....................................................... 69
Bảng 2.3. Đánh giá mức độ minh bạch của chính quyền cấp xã trong thực hiện
pháp lệnh 34............................................................................................................. 76
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, là mục tiêu và động lực phát
triển xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng đó mà Đảng và Nhà nước ta luôn
coi trọng việc thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là
mục tiêu cao nhất, đồng thời là động lực to lớn của cách mạng nước ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, chúng
ta phải phát huy nội lực là chính, đồng thời hợp tác quốc tế có hiệu quả để
tiến hành thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nội lực
quan trọng nhất là con người, là nhân dân với tất cả sức mạnh vật chất và ý
chí, trí tuệ của mình. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là tạo ra nguồn
lực dồi dào vô tận ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Thực hành dân chủ là cái
chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” [24, tr.249].
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng
định “Tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng
của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện
đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để
nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định
liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân...Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ
ở cơ sở ”[13, tr.169].
Trong hệ thống chính quyền địa phương, chính quyền cấp xã (phường,
thị trấn) giữ một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng vì đây là nơi trực tiếp tổ
chức, vận động nhân dân thi hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao. Xã là cấp hành chính
2
gần dân nhất và làm việc thường xuyên với người dân nhất. Đây cũng chính là
cấp chính quyền trực tiếp chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu nối giữa
nhân dân và nhà nước.
Phát huy những kết quả đạt được của các chỉ thị, kết luận của Đảng, nghị
định của Chính phủ trước đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XI đã ban
hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH, ngày 20/4/2007 về thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn, đây là văn bản pháp luật quan trọng thể chế hoá
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhằm phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ngay từ cơ sở. Quá trình triển khai thực hiện đến
nay đã tạo được sự chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực. Nhân dân quan
tâm hơn đến công việc của chính quyền, nhiều thắc mắc, bức xúc trong nhân
dân được các cấp, các ngành giải quyết tốt hơn, nhân dân cũng nhận thức đầy
đủ hơn về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp được phát huy. Từ đó tạo được không khí dân chủ, khơi dậy
và phát huy tốt các nguồn lực trong nhân dân tham gia phát triển kinh tế góp
phần giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Tuy vậy, việc triển khai thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn mà nhất là công khai, minh bạch trong thực hiện Pháp lệnh
trên địa bàn thành phố Đồng Hới trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế,
một số nơi những việc mà chính quyền phải công khai, minh bạch với nhân
dân chưa được thực hiện đầy đủ, còn hình thức, thiếu cụ thể; việc công khai,
minh bạch trong sử dụng nguồn vốn huy động từ nhân dân, mức giá đền bù,
thu hồi giải phóng mặt bằng, công khai một số thủ tục hành chính mới chỉ tập
trung tại nơi đón tiếp công dân, dẫn đến tình trạng người dân không biết các
quy trình thủ tục liên quan, một số cán bộ, công chức còn nhũng nhiễu, gây
phiền hà hoặc lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân để làm sai, trục lợi cá
nhân, UBND các xã, phường chưa làm báo cáo HĐND cùng cấp về quá trình
3
và kết quả thực hiện các nội dung công khai…vì thế phần nào làm ảnh hưởng
đến quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân trong các hoạt động ở cơ sở.
Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh xây dựng và từng
bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thì tính
công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý là lẽ đương nhiên, cũng có thể
coi là lẽ sống, nguồn sức mạnh của bộ máy công quyền. Công khai, minh
bạch trước hết là nhằm bảo đảm bản chất dân chủ của xã hội, thể hiện quyền
của người dân trong việc tham gia quản lý nhà nước. Công khai, minh bạch
cũng là một giải pháp rất quan trọng để khắc phục tệ quan liêu tham nhũng,
làm trong sạch bộ máy quản lý và cũng là điều kiện không thể thiếu để bộ
máy nhà nước tiếp thu trí tuệ của dân đóng góp cho các hoạt động quản lý.
Hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh cải cách hành chính, hướng đến một nền
hành chính gần dân hơn phục vụ tốt yêu cầu của nhân dân, chúng ta đang có
nhiều biện pháp để huy động sự tham gia của người dân vào hoạt động quản
lý của các cơ quan hành chính nhà nước, đẩy mạnh phân quyền cho chính
quyền địa phương, tiếp tục công khai, minh bạch trong quản lý hành chính
nhà nước. Thực hiện tốt việc công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở
cơ sở không những góp phần củng cố kiện toàn tổ chức đảng, chính quyền,
các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, không chỉ là giải pháp để hạn chế sự tha hoá
quyền lực, chống lại tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước mà nó
còn khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của quần chúng lao động, phát huy cao độ
mọi tiềm năng, trí tuệ của toàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Công khai, minh bạch trong pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn - từ thực tiễn thành phố Đồng
4
Hới, tỉnh Quảng Bình” làm nội dung nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp bậc
cao học của mình là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề dân chủ nói chung và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
nói riêng là chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa đột phá
để giải quyết nhiều vấn đề bức xúc liên quan đến quyền làm chủ của nhân
dân, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở. Xuất phát từ tầm quan trọng đó mà từ
trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những cấp độ khác nhau
được công bố thể hiện qua sách chuyên khảo, bài báo khoa học, luận án…Một
số nghiên cứu tiêu biểu như:
- GS, TS. Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn
trong tiến trình đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nội dung của cuốn
sách nêu bật tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là dân
chủ cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay; quan hệ giữa thể chế chính thống và
phi chính thống trong việc củng cố, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở nông
thôn; tác động của quy chế dân chủ ở cơ sở đối với việc thực hiện xóa đói
giảm nghèo ở nông thôn từ góc nhìn đánh giá chính sách; tâm lý làng xã trong
việc thực hiện dân chủ ở cơ sở và tăng cường văn hóa pháp luật ở nông thôn
đồng bằng bắc bộ; những hạn chế, yếu kém trong quá trình thực hiện dân chủ
ở cơ sở trong thời gian qua, đồng thời đề xuất những giải pháp khắc phục
nhằm góp phần thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn việc phát huy dân chủ
trong đời sống xã hội.
- Nguyễn Phú Trọng (2011), Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb.
Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội. Cuốn sách bao gồm một số bài nói, bài
viết, trả lời phỏng vấn báo chí,... được chọn lọc của đồng chí liên quan đến
chủ đề này. Nhiều bài nói và viết của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc
5
hội Nguyễn Phú Trọng đi sâu đánh giá, phân tích nguyên nhân và bài học
kinh nghiệm trong quá trình phát huy dân chủ, đổi mới hoạt động của Quốc
hội, hoạt động lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh, quốc phòng, các tổ chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, công đoàn,
phụ nữ, thanh thiếu niên,… trong hệ thống chính trị, đối ngoại, nhằm xây
dựng Nhà nước Việt Nam ngày càng trong sạch, vững mạnh.
- PGS, TS.Lê Minh Quân (2011), Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, cuốn
sách gồm có 9 chương. Trên cơ sở tìm hiểu các quan niệm và khái niệm lý
thuyết và mô hình dân chủ hóa, những yếu tố tác động và quá trình dân chủ
hóa trên thế giới, cuốn sách phân tích nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của
quá trình dân chủ hóa XHCN ở nước ta hiện nay. Tác giả đã phân tích làm rõ
dân chủ luôn là ước vọng của con người trong mọi thời đại. Nó cần như cơm
ăn, áo mặc, nước uống hằng ngày. Dân chủ là thước đo chất lượng cuộc sống
văn minh xã hội và năng lực quản lý của một nhà nước và trở thành mục tiêu
và động lực của công cuộc đổi mới.
- TS. Nguyễn Minh Tuấn, “Các hình thức dân chủ và việc mở rộng
dân chủ ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2014. Bài viết
đã phân tích làm rõ hai hình thức dân chủ cơ bản là dân chủ trực tiếp, dân
chủ đại diện, những ưu điểm và hạn chế của những hình thức này, đồng
thời đánh giá thực trạng cũng như chỉ ra phương hướng mở rộng dân chủ ở
Việt Nam hiện nay.
- Bên cạnh đó, trong những năm gần đây có một số luận văn cao học
chuyên ngành Quản lý hành chính công nghiên cứu về vấn đề này ở địa bàn
cấp huyện và cấp tỉnh như: “Thực hiện dân chủ cơ sở ở tỉnh Bắc Giang -Thực
trạng và giải pháp” của tác giả Bùi Thị Hạnh (khóa 11, năm 2009); “ Tổ chức
thực hiện dân chủ ở cấp xã – Từ thực tiễn huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh”
6
của tác giả Vũ Thị Nhung (khóa 13, năm 2011); “Thực hiện nội dung công
khai theo pháp lệnh về dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại Huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên Huế” của tác giả Hoàng Văn Thái (khóa 17, năm 2015).
Dưới góc độ khoa học, có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu nêu
trên là hết sức có giá trị vì đã cố gắng làm rõ bản chất, nội dung, tính chất và
cơ chế thực hiện dân chủ và dân chủ ở cơ sở. Các tác giả cũng đã chỉ ra
phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trong
giai đoạn hiện nay. Tuy vậy, đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có công trình
nghiên cứu một cách chuyên biệt và toàn diện về “công khai, minh bạch trong
pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn - từ thực tiễn thành phố
Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình” dưới góc độ khoa học quản lý công. Với kết quả
nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm
về dân chủ và thực hiện tốt hơn vấn đề công khai, minh bạch trong thực hiện
dân chủ ở cấp xã đáp ứng với yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn phân tích, đánh giá làm rõ việc thực hiện
công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn - từ thực tiễn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; từ đó đề xuất
phương hướng và các giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện nội dung công
khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
trong giai đoạn hiện nay.
3.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý về công khai, minh bạch trong thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
+ Nghiên cứu, khảo sát, điều tra xã hội học việc thực hiện công khai,
minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa
7
bàn 16 xã, phường thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình từ đó làm
sáng tỏ, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại và nguyên
nhân của thực trạng thực hiện công khai, minh bạch trên địa bàn thành phố
thời gian qua.
+ Đề xuất phương hướng và một số giải pháp đẩy mạnh thực hiện nội
dung công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình nói riêng và cả nước nói
chung trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là việc thực hiện công
khai, minh bạch của chính quyền cơ sở trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu kết quả việc thực hiện các nội dung mà chính
quyền cấp xã phải công khai, minh bạch trước nhân dân trong Pháp lệnh thực
hiện dân chủ xã, phường, thị trấn tại 16 xã, phường trên địa bàn thành phố
Đồng Hới từ năm 2008 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1 Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân chủ cũng như các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước liên quan đến việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
8
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp
nghiên cứu, tham khảo tài liệu, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp
phân tích-tổng hợp, phương pháp thống kê - so sánh, phương pháp tổng kết
kinh nghiệm. Đồng thời, sử dụng số liệu của một số báo cáo có liên quan đến
đề tài luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về công khai, minh bạch trong thực
hiện dân chủ ở cơ sở trọng tâm là việc thực hiện công khai, minh bạch trong
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học cho việc hoàn
thiện và nâng cao chất lượng việc thực hiện công khai, minh bạch trong
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; khắc phục những hạn
chế, tồn tại trong thời gian qua. Đồng thời, có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn liên quan đến
công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước và Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Nội dung của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp lý về công khai, minh bạch trong thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Chương 2: Thực trạng việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh thực hiện nội dung
công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn.
9
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CÔNG KHAI, MINH BẠCH
TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
1.1. Cơ sở lý luận về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn
1.1.1. Những khái niệm liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài
1.1.1.1.Khái niệm dân chủ
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị có
nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “demos”, nghĩa là nhân dân và người “kratos” -
chính quyền, quyền lực. “DemoKratia” có nghĩa là quyền lực của nhân dân,
chính quyền của nhân dân. Dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách
quan của con người. Tư tưởng về dân chủ đã hình thành từ thời cổ đại, bắt
đầu phát triển khi xã hội có giai cấp và có hiện tượng áp bức bóc lột giữa các
giai cấp, đồng thời với việc xuất hiện nhà nước.
Khi bàn về dân chủ có rất nhiều định nghĩa khác nhau, do cách thức tiếp
cận, mục đích tiếp cận khác nhau:
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: "Dân chủ là hình thức tổ
chức thiết chế chính trị xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc
của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được
vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị
nhất định"[44, tr. 653].
Theo Hồ Chủ tịch: Dân chủ có nghĩa dân là chủ và dân làm chủ. Là chủ
biểu hiện vị thế xã hội, tính tích cực chính trị và địa vị pháp lý của người dân.
Làm chủ, đó là hành động của dân, biểu hiện năng lực thực hành dân chủ,
thước đó về trình độ phát triển ý thức của người dân với tư cách là chủ thể của
10
quyền lực, thực hiện sự ủy quyền chân chính của mình vào thể chế chính trị
và thể chế nhà nước.
Khái niệm dân chủ một cách chung nhất: “dân chủ là một hình thức
chính trị - nhà nước của xã hội”, mà đặc trưng của nó là chính quyền nhà
nước thuộc về nhân dân, biểu hiện bằng việc tuyên bố chính thức nguyên tắc
thiểu số phải phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do bình đẳng của công dân,
thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực, chủ thể của quyền lực và nhà
nước dân chủ là nhà nước thừa nhận và bảo đảm các quyền tự do, bình đẳng
của công dân, các quyền này phải được quy định cụ thể trong Hiến pháp và
pháp luật của nhà nước.
Dân chủ là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, có nội dung rộng lớn và luôn
luôn mới, gắn với những tiến bộ về lịch sử và văn hóa của loài người. Để hiểu
rõ bản chất, nội dung và tính chất của dân chủ, phải xem xét nó dưới nhiều
góc độ, khía cạnh: là phương thức của phong trào chính trị xã hội của quần
chúng; là hình thức nhà nước, hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực xã
hội; là một hệ thống quyền hành, tự do và trách nhiệm của công dân được quy
định bởi hiến pháp và pháp luật; là nguyên tắc tổ chức toàn thể xã hội và với
tư cách là một chế độ chính trị. Dân chủ có vị thế quan trọng trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, dân chủ chỉ có thể được xác lập và thể
chế hóa trong điều kiện lịch sử nhất định. Hiệu quả phát huy dân chủ là tùy
thuộc vào những điều kiện cụ thể, chịu tác động bởi tính giai cấp, tính lịch sử,
đặc điểm truyền thống dân tộc, tính chất thời đại, v.v…
Quá trình phát triển của dân chủ diễn ra như là một dòng chảy liên tục
trong lịch sử, rất sinh động và phức tạp. Qua mỗi thời đại, mỗi hình thái kinh
tế - xã hội, khái niệm “dân chủ” ngày càng được triển khai phong phú hơn cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu, từ quy mô đến nhận thức, hành vi con người, các
cộng đồng xã hội và hoạt động của nhà nước. Quá trình ấy đã được khái quát
11
thành những hình thức và được biểu đạt bằng các khái niệm khoa học, như:
dân chủ đại diện (representative democracy), dân chủ gián tiếp (lndirect
democracy), dân chủ trực tiếp (direct democracy), dân chủ tham gia
(participatory democracy), dân chủ thảo luận (deliberative democracy), dân
chủ cơ sở (grassroots democracy)…
1.1.1.2. Khái niệm dân chủ cơ sở và thực hiện dân chủ ở cơ sở
Cơ sở là thành tố, là đơn vị nhỏ nhất trong cấu trúc của một hệ thống các
sự vật, hiện tượng. Theo nghĩa rộng cơ sở là các đơn vị xã hội nhỏ nhất mà
nhân dân tổ chức nên. Theo nghĩa hẹp cơ sở là cấp chính quyền cuối cùng
trong hệ thống chính quyền nhà nước.
Hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, được
tổ chức thành 4 cấp: cấp trung ương, tỉnh, huyện và cấp xã (xã, phường, thị
trấn) hay còn gọi là cấp cơ sở. Như vậy, cơ sở (xã, phường, thị trấn) là cấp
chính quyền thấp nhất trong hệ thống chính quyền nhà nước, nhưng có vị trí
và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta vì cơ sở là nơi
trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà
nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và
rộng rãi nhất. Đặc biệt chính quyền cơ sở là nền tảng hành chính, sát dân, gần
dân nhất, cấp chính quyền này ở ngay trong lòng dân, là địa chỉ quan trọng
nhất của đường lối, chính sách và pháp luật để Đảng và Nhà nước có thể kiểm
nghiệm các chính sách, đường lối, chủ trương của mình một cách nhanh nhất,
hiệu quả nhất, sát với tình hình thực tế để khắc phục được bệnh chủ quan, duy
ý chí, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa chính quyền với nhân dân. Cấp
cơ sở còn là nơi cung cấp nguồn lao động cho xã hội, nơi thực hiện một cách
rộng rãi và trực tiếp nhất quyền làm chủ của nhân dân; vừa là cầu nối giữa
dân với Đảng với Nhà nước, vừa là nơi quyết định trực tiếp việc thực hiện các
12
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; đồng
thời cơ sở còn là nơi trực tiếp giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống
của dân tộc.
Xuất phát từ vị trí và vai trò quan trọng của cơ sở, do đó Đảng ta chủ
trương tiếp tục phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, trước hết là ở cơ sở.
Từ đó rút ra, dân chủ cơ sở là quá trình hiện thực hóa các quy định của
pháp luật về dân chủ trong đời sống xã hội nhằm đảm bảo cho các quyền cơ
bản của công dân được thực thi trong thực tế.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là việc thừa nhận và thực hiện thường xuyên
các quyền làm chủ của công dân; tăng cường tính cộng đồng trách nhiệm
giữa nhà nước và công dân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của công dân ở cấp cơ sở.
Thực tế cho thấy dân chủ ở cơ sở không phải là một hình thức dân chủ
mà là cấp độ thực hiện dân chủ thông qua hai hình thức dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp. Nhà nước là cơ quan đại diện cho quyền làm chủ của nhân
dân trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Song Nhà
nước không thể hiểu hết được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân ở các vùng
miền địa phương với những đặc điểm về điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục,
tập quán khác nhau. Do đó, phát huy và mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân
dân đến tận cơ sở nhằm đảm bảo quyền tham gia quản lý nhà nước của công
dân, vừa phát huy tính sáng tạo, trí tuệ của nhân dân trong xây dựng và thực
hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Đồng thời, phát huy và mở rộng việc thực hiện dân chủ ở cơ sở là góp phần
khắc phục bệnh quan liêu, chống lại những hiện tường và hành vi phản dân
chủ phát sinh trong quá trình hoạt động của bộ máy công quyền.
13
1.1.1.3. Khái niệm công khai trong thực hiện dân chủ cơ sở
Công khai là một khái niệm có tính lịch sử mà sự ra đời, phát triển của
nó là tiền đề, là điều kiện tiên quyết của sự dân chủ trong các hoạt động của
xã hội loài người. Trong tiếng Anh, công khai là “Transparency”. Theo sách
Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản ĐHQG
thành phố Hồ Chí Minh thì công khai là "không giấu diếm, bí mật mà cho mọi
người cùng biết" [57, tr.346].
Trong hoạt động quản lý nhà nước, công khai nghĩa là mọi hoạt động
của nhà nước phải được công bố hoặc phổ biến, truyền tải trên các phương
tiện thông tin đại chúng, làm cho mọi người dân có thể tiếp cận được các
quyết định của nhà nước một cách dễ dàng. Trên tinh thần đó, Luật Phòng,
chống tham nhũng năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2012) đưa
ra khái niệm: “Công khai là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị công bố, cung cấp
thông tin chính thức về văn bản, hoạt động hoặc về nội dung nhất định” (Điều
2, khoản 2).
Công khai trong thực hiện dân chủ cơ sở là việc chính quyền địa phương
(các xã, phường, thị trấn) có trách nhiệm công bố, cung cấp thông tin chính
thức, kịp thời trước nhân dân các quy định về trình tự, thủ tục hành chính, các
văn bản liên quan đến các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa
phương.... theo quy định của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn.
1.1.1.4. Khái niệm minh bạch trong thực hiện dân chủ cơ sở
Minh bạch là một khái niệm khá trừu tượng. Để đo lường tính minh bạch
của một công việc hết sức khó khăn. Nhiều người vẫn thường hiểu minh bạch
đồng nghĩa với công khai. Thực ra khái niệm minh bạch là một khái niệm
rộng hơn, nó bao gồm cả cơ hội, tính bình đẳng trong tiếp cận thông tin, tính
tin cậy, nhất quán của thông tin, tính dự đoán trước được và sự cởi mở của cơ
14
quan cung cấp thông tin. Ẩn chứa trong khái niệm ‘minh bạch’ là sự thoáng
đạt, tự do thông tin và trách nhiệm giải trình. Một tổ chức có thể được mô tả
là “minh bạch” nếu quản lý chủ trương truyền đạt thông tin chuẩn xác về tổ
chức của họ cho công chúng. Theo sách Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn
Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh thì minh bạch
là "sáng rõ, rành mạch" [57, tr.1037].
Minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước nghĩa là không những phải
công khai mà còn phải trong sáng, không khuất tất, không rắc rối, không gây
khó khăn cho công dân trong tiếp cận thông tin. Trong quản lý nhà nước tính
minh bạch là điều kiện tiên quyết để hành chính nhà nước thực sự trước nhân
dân và nâng cao khả năng dự báo của người dân. Nếu không minh bạch sẽ
dẫn đến sự tùy tiện hoặc sai lầm, dẫn đến quan liêu, tham nhũng. Minh bạch
là nhằm đảm bảo dân chủ trong xã hội, là quyền của người dân trong tham gia
quản lý tổ chức, nhà nước, đồng thời cũng là yếu tố cần thiết để xây dựng một
nền hành chính cởi mở, có trách nhiệm và là một giải pháp quan trọng để
ngăn chặn được tham nhũng, quan liêu. Quá trình thực hiện minh bạch và
trách nhiệm giải trình không hề dễ dàng và gặp nhiều trở ngại nhưng nếu nhà
nước, tổ chức và mỗi công dân hiểu rõ sự cần thiết của minh bạch thì sẽ tìm ra
giải pháp để thực hiện.
Minh bạch trong thực hiện dân chủ cơ sở là việc chính quyền địa phương
(xã, phường, thị trấn) phải cung cấp thông tin một cách rõ ràng, rành mạch,
không khuất tất trước nhân dân về những vấn đề liên quan đến quyền và lợi
ích của người dân được quy định trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn và có trách nhiệm giải trình trước nhân dân về những vấn đề
mà nhân dân quan tâm
15
1.1.1.5. Mối quan hệ giữa công khai, minh bạch và dân chủ trong thực
hiện dân chủ cơ sở.
Công khai, minh bạch và dân chủ là những phạm trù khác nhau, nhưng
có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau và phải được thực hiện dựa trên
cơ sở chấp hành đúng quy định của pháp luật. Dân chủ tốt là cơ sở và là điều
kiện để công khai, minh bạch. Công khai, minh bạch là biện pháp quan trọng
để thực hiện dân chủ. Trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Đảng ta
đã khẳng định dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Theo đó, người dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không
cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ
quan nhà nước và cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho
phép. Mọi quyết định quản lý của Nhà nước đều phải công khai, minh bạch.
Công khai đúng nguyên tắc trong hoạt động quản lý nhà nước đảm bảo
cho các hoạt động quản lý nhà nước diễn ra đúng trong khuôn khổ pháp luật,
cơ quan nhà nước nắm được các ý kiến nguyện vọng của nhân dân để xem xét
giải quyết kịp thời. Đồng thời, tạo điều kiện để nhân dân hiểu hơn các chính
sách, vụ việc liên quan đến công vụ của các cơ quan nhà nước hoặc cá nhân
cán bộ, công chức; những quyền của mình được làm, được bàn, được quyết
định và những việc không được làm từ đó ý thức pháp quyền của nhân dân
được nâng cao, nhân dân hiểu và tôn trọng pháp luật hơn, tích cực đấu tranh
khắc phục những hiện tượng tiêu cực, mất dân chủ, vi phạm pháp luật của cán
bộ, đảng viên và chính quyền cơ sở. Bên cạnh đó nó còn phát huy dân chủ
động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia ý kiến vào việc chuyển đổi
cơ cấu kinh tế, khai thác tiềm năng, huy động trí tuệ và các nguồn lực cho đầu
tư, phát triển tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để nhân dân bàn việc, giải
quyết những mâu thuẫn nội bộ. Nhiều vụ việc bức xúc được đưa ra thảo luận,
16
giải quyết ổn thỏa, xây dựng địa bàn không có tội phạm, đẩy lùi các tệ nạn
tiêu cực, giữ vững kỷ cương, an ninh, trật tự.
Ngược lại nếu không thực hiện tốt công khai, minh bạch trong hoạt động
của chính quyền chắc chắn sẽ dẫn đến hệ quả đội ngũ cán bộ, công chức quan
liêu, mất dân chủ, tham nhũng, vi phạm pháp luật, xâm hại lợi ích chính đáng
của nhân dân. Sẽ làm phát sinh những điểm nóng, xảy ra những tranh chấp,
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữa một bộ phận dân cư này với một bộ
phận dân cư khác, hoặc giữa nhân dân với chính quyền cơ sở.
1.1.2. Sự cần thiết phải công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở
Công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước xuất phát từ
một trong những quan điểm quan trọng có tính nguyên tắc của nhà nước pháp
quyền là làm cho nhà nước ta trở thành nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Yêu cầu này bắt nguồn từ nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Nguyên tắc này yêu cầu những quy trình, phương thức, tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong hệ thống các cơ quan nhà nước
cần hướng tới phục vụ nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của
nhân dân. Tại Điều 2, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức”.
Để đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, việc xây
dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi hoạt động của bộ máy nhà nước phải được
công khai, minh bạch để “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, trong
hoạt động của bộ máy nhà nước bao gồm Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan
tư pháp và chính quyền địa phương: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
17
các cấp phải đáp ứng những yêu cầu là chống lại tác phong quan liêu, cửa
quyền, sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân; chống lại mọi biểu hiện của tệ
hối lộ, tham nhũng; thực hiện công vụ đúng với thẩm quyền và chức vụ được
trao; bảo đảm và tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào các công việc quản
lý nhà nước; bảo đảm điều kiện để nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo
đối với cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước.
Công khai, minh bạch là yêu cầu của nền dân chủ và được coi là một
trong bốn nguyên tắc “cột trụ” để đảm bảo hoạt động quản lý nhà nước tốt
[38, tr.638]. Theo đó người dân có quyền được biết về các chủ trương, chính
sách và pháp luật của Nhà nước. Hiệu quả quản lý nhà nước thể hiện thông
qua các chính sách ở tầm vĩ mô và sự điều hành cụ thể của hệ thống các cơ
quan nhà nước.
Tính công khai, minh bạch của hệ thống các cơ quan nhà nước là yêu
cầu hàng đầu trong hoạt động quản lý nhà nước trong bối cảnh xã hội thông
tin. Trong thời đại ngày nay cho phép khả năng truy cập và trao đổi giữa các
cá nhân với nhau trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn bao giờ hết và là động
lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa. Trong tình hình đó, nhà nước không thể
khép kín phạm vi hoạt động của mình trong nội bộ các cơ quan mà phải mở
rộng phạm vi thông tin đến các đối tượng có liên quan, đối tượng chịu sự điều
chỉnh trực tiếp của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Công khai, minh bạch tất cả các hoạt động của nhà nước là một xu
hướng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Từ năm 2003 Việt Nam đã tham
gia ký Công ước quốc tế về phòng chống tham nhũng. Công ước có nhiều quy
định về nghĩa vụ minh bạch hóa của các quốc gia thành viên, như nghĩa vụ
ban hành, duy trì và củng cố chế độ tuyển dụng, thuê, sử dụng công chức trên
các nguyên tắc hiệu quả, minh bạch và tiêu chí khách quan (Điều 7); nghĩa vụ
công khai, minh bạch trong thủ tục mua sắm công và quản lý tài chính công
18
(Điều 9); nghĩa vụ báo cáo công khai và tăng cường minh bạch trong quản lý
hành chính công (Điều 10); nghĩa vụ tăng cường tính minh bạch trong các
quy trình ra quyết định, đảm bảo cho công chúng được tiếp cận thông tin
(Điều 13) [55]. Chính phủ mở, công khai đã làm cho công dân có điều kiện để
biết được những công việc nhà nước làm. Xu hướng này phản ảnh một sự
thay đổi quan trọng mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Sự thay đổi này
không chỉ về vai trò của nhà nước đối với sự vận động phát triển kinh tế - xã
hội, đặc biệt là vai trò của nhà nước trong hoạt động cung cấp dịch vụ mà còn
thể hiện vai trò của công dân đối với các loại hoạt động của nhà nước.
Công khai, minh bạch là giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả quản lý
của các cơ quan nhà nước nói chung và chính quyền cấp cơ sở nói riêng, là
công cụ để nhân dân tham gia vào các hoạt động quản lý của nhà nước và là
cơ sở để đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, là điều kiện cần thiết
để mở rộng và phát huy dân chủ
1.2. Cơ sở pháp lý về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn
1.2.1. Căn cứ pháp lý thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Dân chủ và thực hiện dân chủ là khát vọng lớn lao, là đòi hỏi bức xúc
của con người, là một nhu cầu đặc biệt quan trọng mà con người mong muốn
vươn tới; đồng thời, dân chủ cũng là một động lực quan trọng thúc đẩy xã hội
phát triển. Sự phát triển của dân chủ đánh dấu những nấc thang tiến bộ của xã
hội loài người. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của dân
chủ, ngay từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề
dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là một vấn đề hệ
trọng, có ý nghĩa chiến lược sâu sắc đối với sự phát triển của đất nước. Ngay
sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ quan
điểm về dân chủ trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam là “nước ta là nước
19
dân chủ, bao nhiêu lợi ich đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công
việc đổi mới và xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân” [HCM, toàn tập,
Nxb Chính trị quốc gia, 1996, t5, tr 698]. Đồng thời, Bác luôn đề cao vai trò
quyết định của nhân dân đối với vận mệnh của đất nước, bởi dân là gốc của
nước, của cách mạng. Người khẳng định: "Cho nên việc gì có quần chúng
tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt" [Hồ Chí
Minh: Sđd, t 12, tr 212]. Trên cơ sở quan điểm của Hồ Chủ tịch, trong bản
Hiến pháp đầu tiên do Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946 đã khẳng định
“Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không
phân biệt nòi giống, gái, trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn giáo” [1].
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng định: việc
mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là
mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của
công cuộc đổi mới. Để dân chủ đi vào thực tế của đời sống xã hội, Đảng ta đã
chỉ rõ: muốn phát huy sức mạnh và sự sáng tạo vô địch của quần chúng nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải tạo ra được những thể
chế, chủ trương, chính sách thích hợp để phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi quyền làm chủ của người dân
được tôn trọng và bảo đảm, sẽ tạo nên nền tảng, cơ sở vững chắc để các chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực
hiện có hiệu quả trong thực tế. Muốn thực hiện được điều đó, việc dân chủ
hóa mọi hoạt động của Đảng và của cả hệ thống chính trị nhằm tập hợp được
đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia quản lý các công việc của Nhà nước
và xã hội, đóng góp trí tuệ và vật chất để xây dựng, bảo vệ đất nước sẽ là một
quan điểm hết sức đúng đắn, sáng suốt. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra" đã được thể hiện trong nhiều văn kiện, chỉ thị, nghị quyết
của Đảng và được thể chế thành pháp luật của Nhà nước.
20
Đồng thời, Đảng và Nhà nước cũng nhìn nhận thấy thực trạng yếu kém
của hệ thống chính trị ở cơ sở và vấn đề mất dân chủ ở cơ sở diễn ra nghiêm
trọng ở nhiều nơi, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước, gây nên tình trạng mất an ninh và trật tự xã hội ở nhiều địa phương, vì
vậy, ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW về việc xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta có
một văn bản riêng về vấn đề này. Việc ban hành Chỉ thị số 30/CT-TW nhằm
mục đích tiếp tục mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước; thực hiện tốt phương
châm "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", phát huy quyền
làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý, kiểm soát Nhà nước,
khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng
đang xảy ra ở nhiều nơi trên đất nước ta. Qua đó, nhằm xây dựng bộ máy
chính quyền cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả; góp phần to lớn vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Chỉ thị đã nêu rõ nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trước mắt
là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở; bởi đó là nơi trực tiếp thực
hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước, là nơi thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng
rãi nhất. Trên cơ sở đó, ngay trong năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 29/1998/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn. Ngày 7/7/2003, Chính phủ ra Nghị định số 79/NĐ-CP, ban
hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, thay thế Nghị định số 29/1998/NĐ-CP.
Ngày 18/4/2005 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ban
hành Quy chế Giám sát đầu tư của cộng đồng. Ngày 20/4/2007, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Theo đó, Pháp lệnh quy định những nội
21
dung phải công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết
định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính
quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, của cán bộ thôn, làng, ấp, bản,
phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Như vậy, từ Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được cụ thể bằng Nghị định 29/NĐ-CP ngày
1/15/1998 và Nghị định số 79/NĐ-CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ, đến
Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội là những bước phát triển trong nhận thức về dân chủ cơ sở và
quá trình thể chế hóa quan điểm đúng đắn, tư tưởng chiến lược của Đảng về
thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Từ khi triển khai thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn đến nay đã đạt được những kết quả rất tích cực, điều kiện tiếp cận
thông tin của người dân được cải thiện; việc thực hiện dân chủ rộng rãi trên
tất cả các lĩnh vực đã tạo điều kiện khuyến khích người dân tham gia thảo
luận, góp ý kiến vào việc quyết định cũng như quá trình thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, kế hoạch xây
dựng và phát triển ở địa phương; thúc đẩy những nỗ lực của mọi tầng lớp
nhân dân tham gia tích cực các phong trào hoạt động của địa phương như
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây
dựng quỹ vì người nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, phong trào xóa đói giảm
nghèo và chống tái nghèo, chương trình xóa nhà tạm, phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh tổ quốc; tích cực thực hiện các chủ trương xã hội hóa trên nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong các lĩnh vực xây dựng kết cấu
hạ tầng, giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe cộng đồng...Quá trình thực
22
hiện dân chủ cơ sở giúp cho chất lượng dân chủ tại các hội nghị nhân dân
được nâng lên với các nội dung thiết thực; đem lại hiệu quả rõ rệt trong giải
quyết khiếu nại tố cáo của công dân; động viên người dân tích cực tham gia
phòng chống tội phạm và bài trừ tệ nạn xã hội…góp phần củng cố hệ thống
chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh, thúc đẩy nhanh tiến trình đổi mới,
phát triển đất nước.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu, tình trạng vi phạm
dân chủ, hay dân chủ hình thức còn diễn ra ở không ít nơi. Việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở nhiều cơ sở làm thiếu nền nếp, hiệu quả chưa cao. Một số
nơi hiện tượng vi phạm quyền dân chủ của người dân rất nghiêm trọng, gây
bất bình trong nhân dân, làm giảm sút lòng tin đối với Đảng và Nhà nước.
Vẫn còn những cán bộ hách dịch, cửa quyền, vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân, sống xa dân, tham ô, tham nhũng, lãng phí.
1.2.2. Nội dung công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền cấp
xã theo pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Điều 5 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở quy định 11 nội dung chính
quyền cấp xã phải công khai cho nhân dân biết, đây là những nội dung liên
quan trực tiếp đến người dân, gắn liền với quyền và lợi ích của nhân dân,
được nhân dân quan tâm, bao gồm những nhóm nội dung chính sau:
+ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của cấp xã.
+ Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương
án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công
trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương
án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết
các công việc của nhân dân.
23
+ Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo
chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.
+ Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xóa
đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn
phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo
hiểm y tế.
+ Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới
hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.
+ Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham
nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy
phiếu tín nhiệm chủ tịch và phó chủ tịch HĐND, chủ tịch và phó chủ tịch
UBND cấp xã.
+ Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề
thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý
kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này.
+ Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do
chính quyền cấp xã trực tiếp thu.
+ Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công
việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
+ Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
Song song với quy định những nội dung mà chính quyền cấp xã cần
phải công khai cho dân biết, pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn cũng yêu cầu chính quyền cần phải minh bạch trước nhân dân trong triển
khai thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở thể hiện việc pháp lệnh quy định rõ
chính quyền cấp xã cần minh bạch trong thu, chi ngân sách, nhất là việc sử
dụng các nguồn ngân sách nhà nước và nguồn vốn huy động từ sự đóng góp
24
của người dân để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế xã hội,
minh bạch trong giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến quyền và lợi
ích của người dân; minh bạch trong việc thực hiện dự toán, quyết toán ngân
sách hàng năm của cấp xã; trong đền bù giải phóng mặt bằng... Đồng thời
pháp lệnh cũng nêu rõ nhân dân được quyền giám sát đối với chính quyền
dưới 2 hình thức gián tiếp (thông qua Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát
đầu tư cộng đồng) và trực tiếp (thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Mặt trận Tổ
quốc cấp xã, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng) về
tất cả những nội dung phải công khai để nhân dân biết, những nội dung nhân
dân bàn và quyết định, những nội dung cơ quan có thẩm quyền phải đưa ra
lấy ý kiến nhân dân nhằm đảm bảo sự minh bạch của chính quyền trong thực
hiện các công việc liên quan đến lợi ích chung của nhà nước và nhân dân.
1.2.3. Hình thức công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền
cấp xã theo pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
- Điều 6 Pháp lệnh quy định rõ các hình thức công khai gồm: Niêm yết
công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã; công khai
trên hệ thống truyền thanh của cấp xã; công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ
trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân.
Ngoài ra, nhằm tạo ra nhiều kênh thông tin để nhân dân nắm bắt rõ hơn
việc công khai, Pháp lệnh còn quy định chính quyền cấp xã có thể áp dụng
đồng thời nhiều hình thức công khai cho cùng một nội dung; thực hiện việc
cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 32 của Luật phòng, chống tham
nhũng: "Công dân có quyền yêu cầu Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn nơi
mình cư trú cung cấp thông tin về hoạt động của UBND xã, phường, thị trấn
đó. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, người được yêu
cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đã
25
được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn
phẩm hoặc niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung
cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu biết và nêu rõ lý
do".
Đối với những nội dung được nhân dân quan tâm nhất, liên quan trực
tiếp nhất đến quyền lợi của nhân dân thì Pháp lệnh còn quy định bắt buộc phải
được công khai bằng hình thức niêm yết tại trụ sở Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân cấp xã trong thời gian chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày văn bản
được thông qua, ký ban hành đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của
chính quyền cấp xã hoặc kể từ ngày nhận được văn bản đối với những việc thuộc
thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên, bao gồm:
+ Các dự án, công trình đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu
dân cư trên địa bàn cấp xã; Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa
vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu. Đối với các nội dung
này, thời gian niêm yết là 30 ngày liên tục kể từ ngày niêm yết.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết
các công việc của nhân dân; Các quy định của pháp luật về thủ tục hành
chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã
trực tiếp thực hiện. Đối với các nội dung này, thời gian niêm yết phải thường
xuyên, liên tục.
Ngoài ra, Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định cụ thể về công
khai, minh bạch trong một số lĩnh vực mà thực tế cho thấy xảy ra nhiều hành
vi tham nhũng, gây thất thoát lớn về tiền, tài sản của Nhà nước cũng như tồn
tại nhiều sự phiền hà, sách nhiễu, đòi hối lộ từ phía công chức nhà nước như:
Mua sắm công và xây dựng cơ bản (Điều 13); quản lý dự án đầu tư xây dựng
26
(Điều 14); tài chính và ngân sách nhà nước (Điều 15); huy động và sử dụng
các khoản đóng góp của nhân dân (Điều 16); quản lý, sử dụng các khoản hỗ
trợ, viện trợ (Điều 17); quản lý doanh nghiệp nhà nước (Điều 18); cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nước (Điều 19); kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài
sản của Nhà nước (Điều 20); lĩnh vực tài nguyên và môi trường (Điều 21);
quản lý và sử dụng nhà ở (Điều 22); lĩnh vực giáo dục (Điều 23); lĩnh vực y tế
(Điều 24); lĩnh vực khoa học – công nghệ (Điều 25); lĩnh vực thể dục, thể
thao (Điều 26); lĩnh vực văn hoá thông tin, truyền thông (Điều 26a: được bổ
sung năm 2012); lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn (Điều 26b:
được bổ sung năm 2012); chính sách an sinh xã hội, chính sách dân tộc (Điều
26c, Điều 26d: được bổ sung năm 2012); thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiểm toán nhà nước (Điều 27); giải quyết các công việc của cơ quan, tổ
chức, cá nhân: nhà đất, xây dựng, đăng ký kinh doanh , xét duyệt dự án, cấp
vốn ngân sách, tín dụng, ngân hàng, xuất khẩu, nhập khẩu, nhập cảnh, quản lý
hộ khẩu, thuế, hải quan, bảo hiểm và một số lĩnh vực khác (Điều 28); lĩnh vực
tư pháp (Điều 29) và công tác tổ chức cán bộ (Điều 30).
Đồng thời, nhằm đảm bảo thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đi vào thực chất hơn và tăng cường tính
liêm chính trong hoạt động công vụ Chính phủ đã ban hành Nghị định
90/2013/NĐ-CP ngày 08/8/2013 quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan
Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Nhân dân giám sát hoạt động của chính quyền cấp xã thông qua các đại
biểu dân cử, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng.
1.3. Những yếu tố tác động đến công khai, minh bạch trong thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
27
1.3.1. Trình độ chuyên môn, phẩm chất, năng lực, ý thức trách nhiệm của
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong thực hiện pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là những người giác ngộ và trực tiếp
tuyên truyền đầy đủ, sâu sắc nội dung, mục đích, ý nghĩa của việc thực hiện
công khai, minh bạch trong tất cả các hoạt động của nhà nước theo quy định
của pháp luật nói chung và theo quy định của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn và các văn bản liên quan đến công tác phòng, chống tham
nhũng nói riêng đến với người dân; đồng thời, đội ngũ cán bộ, công chức
cũng chính là người trực tiếp thực hiện các nội dung cần phải công khai, minh
bạch của chính quyền cấp xã trước nhân dân theo quy định của pháp luật. Do
vậy, để đảm bảo tất cả các thủ tục hành chính, các hoạt động trên các lĩnh vực
của chính quyền cấp xã liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân
đều được công khai, minh bạch thì đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
phải có trình độ chuyên môn vững vàng, nhất là đối với cán bộ, công chức
làm việc ở những lĩnh vực dễ phát sinh sai phạm, tham ô, tham nhũng, lãng
phí của công; đồng thời phải có năng lực thực tiễn, sâu sát với công việc được
giao, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, công tâm, có ý thức trách nhiệm
cao đối với công việc được giao. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn phải nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện công
khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và trong thực
hiện dân chủ ở cơ sở nói riêng từ đó sẽ có hành động đúng. Tuy nhiên, trên
thực tế nhận thức của một số cán bộ, công chức, nhất là cán bộ cấp cơ sở về
vấn đề thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước
chưa đúng, hoặc có suy nghĩ lệch lạc về chức năng, nhiệm vụ của mình (coi
mình là quan phụ mẫu, đứng trên nhân dân, nhân dân phải phục tùng, phải
làm theo từ đó dẫn đến suy nghĩ việc mình mình làm cần gì công khai cho dân
28
biết...). Một số cán bộ, công chức lại xem nhẹ vai trò của chính quyền cấp xã
trong thực hiện và phát huy quyền dân chủ của công dân.
Những suy nghĩ trái chiều như vậy đã tác động đến việc thực hiện công
khai, minh bạch, tạo điều kiện cho một bộ phận cán bộ, công chức có điều
kiện để nhũng nhiễu, hạch sách dân, tham ô, tham nhũng lộng hành, lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước bị suy giảm. Đây chính là một trong
những yếu tố quan trọng nhất tác động đến việc thực hiện công khai, minh
bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.
1.3.2. Công tác tuyên truyền và tổ chức thực hiện của chính quyền và các tổ
chức chính trị xã hội cấp xã
HĐND, UBND xã, phường, thị trấn là những cơ quan thuộc bộ máy
chính quyền địa phương, gần gũi nhất và trực tiếp liên hệ với nhân dân.
Những quyết định do chính quyền cấp xã ban hành đều có tác động ngay đối
với đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của nhân dân ở cơ sở. Vì vậy
chính quyền cấp xã có thể được coi là tuyến đầu của việc thực thi quyền dân
chủ của nhân dân. Có thể thấy rằng, dân chủ ở cơ sở thực hiện tốt hay không,
chất lượng, hiệu quả ra sao tùy thuộc vào công tác tuyên truyền và tổ chức
thực hiện của chính quyền cấp xã. Do vậy công tác tuyên truyền và tổ chức
thực hiện tốt hay không tốt là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới việc thực
hiện công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước.
Nhà nước giữ vai trò chính yếu trong quản lý và điều hành xã hội, bên
cạnh đó hoạt động của các tổ chức quần chúng như MTTQ, Hội nông dân,
Hội LHPN, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng sản HCM và các tổ
chức nghề nghiệp khác có vai trò quan trọng góp phần thúc đẩy xã hội. Đây là
các tổ chức không thuộc hệ thống các cơ quan chính quyền nhưng thuộc hệ
thống chính trị cơ sở. Nhân dân với tư cách là thành viên của các tổ chức này
có thể thực hiện quyền dân chủ của minh trong khuôn khổ hoạt động của tổ
29
chức. Tiếng nói của tổ chức này được coi là tiếng nói của một tập thể các
thành viên.
MTTQ và các tổ chức quần chúng ở cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng
trong thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở. Đó là giáo dục cho nhân dân và các
đoàn viên, hội viên hiểu rõ nội dung, ý nghĩa, quyền và nghĩa vụ thực hiện
pháp luật, thực hiện quyền đại diện của tổ chức mình, phối hợp với chính
quyền xã, phường, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố thực hiện dân chủ ở cơ
sở và giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách ở địa phương, phản
ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đoàn viên, hội viên, động
viên nhân dân, hội viên, đoàn viên tích cực thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, các chương trình phát triển kinh tế-
xã hội.
Với vai trò quan trọng đó, chúng ta cầng thấy rõ hơn sự ảnh hưởng của
công tác tuyên truyền và tổ chức thực hiện của chính quyền, MTTQ và đoàn
thể nhân dân ở cơ sở đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.
1.3.3. Hệ thống pháp luật, chế tài xử lý
Bản chất của Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN " của dân, do
dân và vì dân" do đó tính công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý là lẽ
đương nhiên, cũng có thể coi là lẽ sống, nguồn sức mạnh của bộ máy công
quyền. Công khai, minh bạch trước hết là nhằm bảo đảm bản chất dân chủ của
xã hội, thể hiện quyền của người dân trong việc tham gia quản lý nhà nước;
đồng thời công khai, minh bạch trong quản lý cũng là điều kiện không thể
thiếu để bộ máy nhà nước tiếp thu trí tuệ của nhân dân đóng góp cho hoạt
động quản lý ngày càng có hiệu quả. Tuy nhiên để các cơ quan nhà nước thực
hiện tốt việc công khai, minh bạch rất cần có một hệ thống pháp luật với
những chế tài đủ mạnh để hỗ trợ nhà nước cũng như nhân dân trong việc kiểm
tra, giám sát việc thực hiện của bộ máy công quyền trong hoạt động quản lý
30
nhà nước. Những văn bản quy phạm pháp luật với chế tài xử phạt càng
nghiêm minh đối với những hành vi không trung thực, quan liêu, tham nhũng
trong thực hiện những thủ tục hành chính, trong đầu tư xây dựng...càng hạn
chế được tối đa những hành vi vi phạm, đảm bảo thực hiện và phát huy được
quyền dân chủ của công dân trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ
máy nhà nước.
Vậy một hệ thống pháp luật có đủ sức mạnh, đủ chế tài để quản lý các
vấn đề của xã hội là điều quan trọng đối với mỗi quốc gia. Qua đó, người dân
có thể hiểu được những vấn đề mà Đảng và nhà nước ban hành, tự nguyện
làm theo những yêu cầu của đảng và nhà nước vì lợi ích của bản thân cũng
như của cả cộng đồng và bản thân những cán bộ, công chức nghiêm chỉnh
thực hiện theo quy định là hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống pháp luật và chế
tài xử lý của nhà nước.
1.3.4. Địa bàn dân cư, trình độ dân trí, nhận thức của người dân
Sự nghiệp thúc đẩy nền dân chủ là sự nghiệp của toàn dân. Bài học thực
tiễn cho thấy các quyền dân chủ không thể tự phát sinh và đương nhiên thực
hiện được. Để đạt được việc thực hiện các quyền dân chủ, ngoài những điều
kiện nêu trên, đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của mỗi người dân trong
quá trình hoạt động quản lý nhà nước, mà trước hết là trong việc thực hiện
Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Sự công khai, minh bạch sẽ không
được thực hiện nếu như mỗi người dân không thể thực hiện được những
quyền được biết, nếu bản thân mỗi người dân không biết mình cần biết gì, làm
thế nào để được biết. Sẽ không thực hiện được quyền bàn bạc, nếu nhân dân
không tích cực đòi hỏi thông tin, nỗ lực tham gia bàn bạc những công việc,
quyết định liên quan, ảnh hưởng đến lợi ích của mình. Sẽ không thực hiện
được quyền quyết định, nếu như nhân dân không tích cực cùng nhau bàn bạc
và lựa chọn phương án để đi đến những quyết định riêng của mình. Sẽ không
31
thực hiện được quyền thanh tra, giám sát, nếu nhân dân e ngại, sợ đụng chạm
với cán bộ, chính quyền.
Bên cạnh đó, trình độ dân trí, nhận thức của người dân cũng là một trong
những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện công khai, minh bạch trong thực
hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn. Bởi trên thực tế nếu trình
độ dân trí thấp, bản thân người dân không đủ nhận thức để nhận thức được
vấn đề nào chính quyền các cấp cần phải công khai, minh bạch cho dân biết,
dẫn đến hậu quả không nhận thức được đâu là hành vi quan liêu, nhũng nhiễu
của quan chức công quyền thì các quyền dân chủ được pháp luật bảo vệ
không được thực thi, thậm chí còn tạo kẽ hở cho việc hợp thức hóa các thủ tục
“chui”, tình trạng lót tay cho cán bộ để thực hiện các thủ tục hành chính
nhanh hơn... gây khó khăn cho nhà nước, cơ quan điều tra trong cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng. Trình độ dân trí thấp, nhận thức vấn đề
không đúng, dễ bị các phần tử “phản động” xúi giục, kích động dẫn đến các
hành động quá khích, gây mất trật tự, khiếu kiện vượt cấp. Đây chính là một
trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện công khai, minh bạch trong
hoạt động quản lý nhà nước, mà trong đó có việc thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở.
32
Kết luận chương 1
Nội dung Chương 1 đã tập trung làm rõ những vấn đề chung về công
khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn như các khái
niệm về dân chủ, dân chủ cơ sở, thực hiện dân chủ ở cơ sở, công khai, minh
bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở; Mối quan hệ giữa công khai, minh bạch
và dân chủ và sự cần thiết phải thực hiện công khai, minh bạch trong thực
hiện pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở. Ngoài ra, trong Chương 1 cũng trình
bày những quy định của pháp luật về công khai, minh bạch trong thực hiện
dân chủ ở cơ sở theo Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
những yếu tố tác động đến quá trình thực hiện công khai, minh bạch trong
thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Việc nghiên cứu những vấn đề cơ sở lý luận ở Chương 1 đặt nền tảng,
khung lý luận vững chắc để nghiên cứu Chương 2 và Chương 3 của Luận văn.
33
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG
PHÁP LỆNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
TẠI THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Các yếu tố tác động đến quá trình thực hiện công khai, minh bạch
trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố
Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
2.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý, tự nhiên
Thành phố Đồng Hới là trung tâm chính trị- kinh tế- văn hóa, khoa học
kỹ thuật của tỉnh Quảng Bình. Trên bản đồ địa lý Việt Nam, Đồng Hới có toạ
độ 17,21 độ vĩ Bắc và 106,10 độ kinh Đông, ở vào đoạn hẹp nhất của dãi đất
miền Trung. Phía Bắc giáp huyện Bố Trạch, phía Tây và phía Nam giáp
huyện Quảng Ninh, phía Đông giáp Biển Đông với đường bờ biển dài
15,7km. Diện tích tự nhiên toàn thành phố là 1.557,1 km2
, dân số 130.636
người; gồm 16 đơn vị hành chính (10 phường và 06 xã) với 55 thôn, 100 tổ dân
phố. Đảng bộ thành phố Đồng Hới có 59 tổ chức cơ sơ sở Đảng trực thuộc, với
9.534 đảng viên. Hệ thống tổ chức Mặt trận, Đoàn thể từ thành phố đến cơ sở
được xây dựng, củng cố hoàn chỉnh.
Đồng Hới là một thành phố có cảnh quan tự nhiên, môi trường sinh thái
rất tốt, có địa hình đa dạng bao gồm vùng đồi, vùng đồng bằng, vùng cát ven
biển. Bên cạnh đó, thành phố còn là đầu mối giao thông quan trọng từ Bắc
vào Nam và từ Nam ra Bắc, nằm trên quốc lộ 1A, có đường sắt thống nhất
Bắc Nam, đường Hồ Chí Minh đi qua và cảng hàng không Đồng Hới; nằm ở
vị trí trung độ của tỉnh Quảng Bình, dọc theo bờ biển với chiều dài 12km về
phía Đông thành phố, có sông Nhật Lệ chảy giữa lòng thành phố và hệ thống
34
sông, suối, hồ, rừng nguyên sinh ở phía Tây thành phố rất thích hợp cho phát
triển du lịch.
Với vị trí địa lý thuận lợi cả về đường sông, đường bộ và đường sắt, cùng
với sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên với nhiều cảnh quan đẹp, có môi
trường sinh thái trong lành...là tiềm năng đa dạng để Đồng Hới phát triển kinh tế
toàn diện. Khi các hoạt động kinh tế phát triển thì những đòi hỏi về dân chủ nói
chung và công khai, minh bạch trong thực hiện quy chế dân chủ là điều tất yếu
vì chỉ có thực hiện dân chủ rộng rãi, nhất là công khai, minh bạch những vấn đề
mà nhân dân quan tâm mới tạo được lòng tin của nhân dân đối với Đảng và nhà
nước và đó cũng chính là yếu tố quan trọng, là nội lực thúc đẩy kinh tế phát
triển. Và vị trí địa lý, tự nhiên là một trong những yếu tố hình thành nên phong
tục, tập quán, lối sống cũng như tác phong trong công việc của người dân Đồng
Hới. Chính điều này đã ảnh hưởng đến việc thực hiện dân chủ cơ sở nói chung
và thực hiện công khai, minh bạch trong thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã,
phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới nói riêng.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế- xã hội
Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới của đất nước, thành phố
Đồng Hới đã từng bước khẳng định được vai trò trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hoá, khoa học của tỉnh, thể hiện sức vươn lên của một đô thị trẻ, năng
động, hiệu quả. Kinh tế liên tục đạt mức tăng trưởng với tốc độ khá cao, bình
quân 14% năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng dịch vụ
và CN- TTCN, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Sản xuất CN - TTCN thành phố
phát triển mạnh và đúng hướng, khai thác tích cực tiềm năng của địa phương.
Dịch vụ thương mại phát triển nhanh, mạng lưới kinh doanh được mở rộng,
hệ thống siêu thị, chợ, trung tâm thương mại được đầu tư nâng cấp hiện đại.
Du lịch phát triển mạnh, hình thành các tua du lịch, tham quan các danh lam
thắng cảnh và nghỉ ngơi, tắm biển. Nông nghiệp phát triển theo hướng sản
35
xuất hàng hóa tập trung, cơ cấu nội bộ ngành chuyển dịch tích cực theo hướng
nông nghiệp đô thị, năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế tăng trưởng khá.
Đặc biệt là chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã
được nhân dân đồng tình ủng hộ, chung tay, chung sức cùng thành phố, đến
nay 6/6 xã đã hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, đưa thành phố
trở thành địa phương đầu tiên trong tỉnh có 100% xã đạt chuẩn nông thôn
mới.
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo, văn hóa, xây dựng văn minh đô thị, công
tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và thực hiện các chính sách xã hội được
tập trung chỉ đạo có hiệu quả. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá” tiếp tục phát triển sâu rộng, chất lượng, hiệu quả được nâng
lên.
Hoạt động của chính quyền có nhiều tiến bộ, năng lực quản lý, chỉ đạo
điều hành được nâng dần lên, bước đầu thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước ở cấp thành phố. Quy chế dân chủ ở cơ sở được phát huy rộng rãi với
phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Những đặc điểm về kinh tế - xã hội của thành phố nêu trên cho thấy
thành phố Đồng Hới đang trên đà phát triển với nhiều tiềm năng, đa dạng về
ngành nghề và đặc biệt trong những năm gần đây Đồng Hới thu hút được rất
nhiều các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư và cũng là địa bàn thu
hút nhiều lao động từ các huyện khác đến sinh sống và làm việc. Do đó vấn
đề dân chủ, mở rộng dân chủ nói chung và công khai, minh bạch trong thực
hiện dân chủ ở cơ sở càng được quan tâm, nhằm tạo được sự đồng thuận cao
trong toàn thể nhân dân để huy động các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế -
xã hội của thành phố.
36
2.1.3. Về đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
Thành phố Đồng Hới được phân chia thành 16 đơn vị hành chính, gồm
10 phường và 6 xã, cùng với sự phát triển của thành phố, đội ngũ cán bộ,
công chức các xã, phường trên địa bàn đã có sự chuyển biến tích cực cả về số
lượng và chất lượng.
Theo số liệu của Phòng Nội vụ thành phố Đồng Hới, tính đến ngày
31/12/2016 đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố có 325
người/341 tổng biên chế giao, trong đó cán bộ 159 người, công chức 181
người (235 nam và 90 nữ).
Bảng 2.1: Tình hình đội ngũ cán bộ, công chức các xã, phường
trên địa bàn thành phố Đồng Hới theo độ tuổi
TT Độ tuổi Số lượng cán bộ, công chức Tỷ lệ
1 Dưới 30 32 9,5%
2 Từ 31 đến 45 203 62,5%
3 Từ 46 trở lên 90 28%
(Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Đồng Hới)
Về trình độ chuyên môn: có 06 cán bộ chưa qua đào tạo (tập trung ở các
chức danh Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội phụ nữ, Chủ tịch Hội nông
dân, Chủ tịch Hội CCB) (chiếm 1,85%); 54 cán bộ, công chức có trình độ
trung cấp (chiếm 16,6%); 01 cán bộ có trình độ cao đẳng (chiếm 0,25%); 256
cán bộ, công chức có trình độ đại học (chiếm 78,8%); 8 cán bộ, công chức có
trình độ thạc sỹ (chiếm 2,5%). Về trình độ lý luận chính trị: 86 cán bộ, công
chức chưa qua đào tạo (chiếm 26,5%); 52 cán bộ, công chức có trình độ sơ
cấp (chiếm 16%); 184 cán bộ, công chức có trình độ trung cấp (chiếm
56,6%); 3 cán bộ có trình độ cao cấp (chiếm 0,9%). Về quản lý hành chính
nhà nước: có 294 cán bộ, công chức đã qua các lớp bồi dưỡng (chiếm 90,5%).
37
Qua số liệu thống kê cho thấy, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa
bàn thành phố đang được trẻ hóa; trình độ trên các mặt của đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã đã được nâng lên rõ rệt, nhất là từ khi có nghị định
92/2009/NĐCP, ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một
số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã thì trình độ chuyên môn
của cán bộ, công chức cấp xã ngày càng được chuẩn hóa với hơn 80% cán
bộ, công chức có trình độ chuyên môn Đại học trở lên; hơn 57% cán bộ,
công chức có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên. Như vậy, so với
mặt bằng chung của các huyện, thị trấn trong toàn tỉnh thì trình độ trên các
mặt của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Đồng Hới
cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong quá trình thực thi công vụ.
Tuy nhiên, bên cạnh đó với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay
và thực tế số lượng sinh viên tốt nghiệp đại học, được đào tạo cơ bản thì
không được tuyển dụng, thì số lượng 06 cán bộ chưa qua đào tạo chuyên môn,
nghiệp vụ, 55 cán bộ, công chức có trình độ trung cấp, cao đẳng trên tổng số
325 cán bộ, công chức cấp xã, là quá lớn, nhất là đối với địa bàn thành phố
Đồng Hới- trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của tỉnh Quảng
Bình. Sự yếu kém, thiếu tri thức ở các lĩnh vực của một số cán bộ, công chức
có thể dẫn đến nguyên nhân sai phạm trong xử lý và giải quyết các thủ tục
hành chính liên quan đến người dân, hoặc tham mưu cho lãnh đạo địa phương
đối với lĩnh vực phụ trách yếu và thiếu, gây ra nhiều hệ lụy khác.
Về phẩm chất, đạo đức lối sống: Đa số cán bộ, công chức cấp xã có bản
lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và con
đường đi lên CNXH, giữ được lối sống lành mạnh, có tâm huyết với công
việc và thường xuyên giữ mối liên hệ làm việc gần gũi với nhân dân trong quá
trình thực thi công vụ. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số cán bộ, công
38
chức chưa thực sự cầu thị, còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại, thái độ phục vụ
nhân dân chưa cao, còn nhũng nhiễu, hạch sách nhân dân.
2.1.4. Tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước ở địa phương - chủ thể thực
hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn
Trong công cuộc đổi mới hệ thống chính trị đất nước, thực hiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, đặc biệt từ khi
pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn được ban hành và áp dụng
rộng rãi cho đến nay, Đảng bộ và chính quyền thành phố Đồng Hới – tỉnh
Quảng Bình đã không ngừng thực hiện đổi mới, tổ chức, xây dựng chính
quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
nói chung và địa phương nói riêng. Chính quyền 2 cấp từ thành phố đến cơ sở
đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản chỉ đạo tổ chức quán triệt và tích cực
triển khai thực hiện Pháp lệnh 34 đạt kết quả thiết thực.
Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành Kế hoạch số 54/KH- UBND
ngày 22/06/2007 về việc học tập, quán triệt, triển khai thực hiện Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt toàn
thành phố, đồng thời chỉ đạo UBND các xã, phường tổ chức quán triệt, triển
khai thực hiện đến toàn thể cán bộ, công chức, hội viên các tổ chức đoàn thể
chính trị- xã hội ở xã, phường, thôn, tổ dân phố và toàn thể nhân dân trên địa
bàn thành phố Đồng Hới. Đồng thời, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo tổ chức
quán triệt và tích cực triển khai thực hiện Pháp lệnh 34 như: Ban hành Chỉ thị
số 02/2010/CT-UBND ngày 09/3/2010 về tăng cường công tác phối hợp phổ
biến giáo dục pháp luật giai đoạn 2010 đến năm 2015 trên địa bàn thành phố
Đồng Hới; Kế hoạch số 77/KH- UBND ngày 22/11/2010 về triển khai tuyên
truyền phổ biến pháp lệnh về dân chủ cơ sở và việc lấy phiếu tín nhiệm đối với
chức danh chủ chốt cấp xã; Kế hoạch số 10/KH- HĐPBGDPL ngày 23/2/2011
39
về triển khai thực hiện công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật giai
đoạn 2011-2015; Kế hoạch số 49/KH-UBND ngày 18/4/2013 về tập huấn
nghiệp vụ chi Tổ trưởng Tổ hòa giải và Hòa giải viên; Kế hoạch số 90/KH-
UBND ngày 19/8/2013 về thực hiện Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng đối với công tác Dân vận chính quyền giai đoạn 2013 - 2015”;
Công văn số 1106/UBND-NV ngày 9/10/2013 về việc triển khai thực hiện Kế
hoạch số 90/KH-UBND ngày 19/8/2013
Hội đồng nhân dân thành phố đã có nhiều đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động, chất lượng các kỳ họp HĐND được nâng lên, phương pháp
thảo luận, chất vấn tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, những vấn đề bức
xúc trong nhân dân; Công tác tiếp xúc cử tri được cải tiến, thiết thực, hiệu quả
hơn; đã bố trí các điểm tiếp xúc cử tri về tận thôn, tổ dân phố để đại biểu
HĐND, nhất là các đại biểu giữ các cương vị chủ chốt của thành phố, xã,
phường luân phiên địa bàn tiếp xúc cử tri để trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng nhân dân. Các ý kiến của cử tri được tập hợp, xem xét
giải quyết; những công việc quan trọng, thiết thực, gắn với lợi ích của nhân
dân đều được công khai, bàn bạc, dân chủ trước khi quyết định và triển khai
thực hiện. Các kỳ họp HĐND thành phố và nhiều xã, phường được truyền
thanh trực tiếp, tạo điều kiện cho nhân dân theo dõi, giám sát hoạt động của
HĐND tại kỳ họp.
UBND thành phố đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát huy
quyền làm chủ của mình. Tổ chức tiếp dân chu đáo và đúng lịch, quan tâm
đúng mức việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân, trong thời gian qua,
UBND 2 cấp đã tiếp hơn 9.000 lượt công dân, nhận hơn 1.000 đơn thư. Các ý
kiến của công dân, đơn thư tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực đất đai, chế độ
chính sách, đền bù giải phóng mặt bằng, kết quả giải quyết vụ việc hành
40
chính...đều được UBND từ cơ sở đến thành phố chỉ đạo giải quyết thấu tình,
đạt lý, tạo niềm tin cho nhân dân.
Chỉ đạo các địa phương, cơ quan, đơn vị đẩy mạnh thực hiện cải cách
hành chính và niêm yết công khai thủ tục hành chính, thực hiện tốt Đề án cải
cách hành chính theo mô hình "Một cửa liên thông hiện đại", đây là một bước
đột phá của UBND thành phố và các xã, phường về cải cách thủ tục hành
chính, góp phần thực hiện tốt việc công khai, minh bạch trong giải quyết các
thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho nhân dân, được nhân dân đồng tình,
ủng hộ cao.
UBND thành phố đã tích cực triển khai thực hiện Pháp lệnh cán bộ
công chức; Luật phòng chống tham nhũng; Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí; chỉ đạo các xã, phường xây dựng Quy ước, Hương ước; phối hợp
với Mặt trận, các Đoàn thể chính trị xã hội phát động nhiều phong trào thi đua
sôi nổi trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, góp phần hoàn
thành nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Đặc biệt đã có nhiều đổi mới trong
quản lý, điều hành, hướng mạnh các hoạt động quản lý Nhà nước về cơ sở,
quan tâm nhiều vấn đề dân sinh. Xây dựng và ban hành nhiều chủ trương, Đề
án, Chương trình phát triển kinh tế, xã hội như: Chủ trương Dồn diền đổi
thửa, Chương trình phát triển CN- TTCN, dịch vụ- du lịch, Đề án nâng cấp và
chỉnh trang Đô thị, xã hội hóa vỉa hè; xã hội hóa thu gom, quản lý, xử lý rác
thải; Đề án phát triển cây xanh đường phố, Xây dựng đường giao thông qui
mô nhỏ....Các Đề án, Chương trình nói trên đều hợp lòng dân, được nhân dân
tham gia ý kiến, đồng tình hưởng ứng và tích cực triển khai thực hiện.
Chỉ đạo các xã, phường tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân tham
gia bàn bạc các chương trình, dự án; đồng thời tổ chức các hội nghị lòng ghép
tuyên truyền các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến người dân. Các
chuyên mục phát thanh trên hệ thống truyền thanh, truyền hình thành phố, các
41
hội thi tìm hiểu pháp luật; nói chuyện chuyên đề ... thu hút được đông đảo
người dân đến nghe và tìm hiểu.
UBND các cấp tích cực phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân trong việc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân những
chủ trương của Đảng, quy định của Nhà nước về công khai, minh bạch trong
Pháp lênh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; phối hợp với Trưởng
thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố quán triệt pháp lệnh 34 và các văn bản của cấp
uỷ, chính quyền về những nội dung nhân dân được biết, được bàn và quyết
định, được giám sát, kiểm tra; đồng thời tích cực vận động nhân dân thực hiện
QCDC ở cơ sở.
MTTQVN thành phố và các đoàn thể nhân dân đã ban hành quy chế
phối hợp hoạt động giữa UBMT, đoàn thể với chính quyền các cấp nhằm thực
hiện có hiệu quả Pháp lệnh 34. Tổ chức ký kết chương trình phối hợp với
Thường trực HĐND, UBND cùng cấp. Triển khai việc giám sát và phản biện
xã hội, tạo điều kiện cho nhân dân được tham gia góp ý xây dựng Đảng; xây
dựng chính quyền theo Quyết định 217, 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị. Đã coi
trọng vận động nhân dân thực hiện quyền giám sát trực tiếp trong thực hiện
QCDC thông qua các buổi tiếp xúc cử tri, tiếp dân, họp thôn, tổ dân phố...
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tình hình triển khai và tổ chức
thực hiện pháp lệnh 34 nói chung và công khai, minh bạch trong thực hiện
pháp lệnh 34 nói riêng. Trong 10 năm từ 2005-2015 đã tổ chức 217 cuộc kiểm
tra, giám sát việc thực hiện pháp lệnh 34.
Tóm lại, chính quyền các cấp thành phố thông qua việc ban hành các
văn bản, thông qua các cuộc kiểm tra, giám sát và công tác phối kết hợp với
Mặt trận và các tổ chức đoàn thể đã cơ bản thực hiện tốt việc quản lý nhà
nước đối với việc thực hiện Pháp lệnh 34 nói chung và công khai, minh bạch
trong thực hiện pháp lệnh 34 nói riêng. Tuy nhiên, nhận thức của một số cán
42
bộ, công chức về ý nghĩa, vai trò của việc thực hiện công khai, minh bạch
trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn chưa đầy đủ; công
tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp lệnh còn thiếu thường xuyên...
Có thể nói những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, đội
ngũ cán bộ công chức cấp xã và quản lý nhà nước đối với việc thực hiện công
khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên
địa bàn thành phố Đồng Hới nêu trên là những điều kiện thuận lợi cho thành
phố Đồng Hới trong quá trình phát triển nói chung và thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở nói riêng. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những khó khăn nhất
định như khi hậu khắc nghiệt, thiên tai, bão lũ thường xuyên xảy ra. Kinh tế
phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh, công tác quy hoạch và
quản lý đô thị còn nhiều bất cập; việc huy động các nguồn lực, nhất là nguồn
đóng góp từ nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng chưa mạnh. Chất lượng đội
ngũ cán bộ cốt cán, nhất là ở các phường, xã chưa cao, một số cán bộ còn lợi
dung chức vụ để tham ô, tham nhũng, tư lợi cá nhân, một số cán bộ thái độ
phục vụ nhân dân chưa tốt, còn hạch sách, nhũng nhiễu, chưa tận tâm, tận tụy
trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; chính quyền một số xã phường có lực
còn buông lỏng công tác quản lý...làm mất lòng tin của nhân dân đối với
Đảng và Nhà nước. Việc thực hiện công khai, minh bạch trong thực hiện quy
chế dân chủ nói riêng và trong các hoạt động nói chung ở một số địa phương
còn mang tính hình thức, đối phó với các quy định của pháp luật. Công tác
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí hiệu quả chưa cao. Tệ nạn xã
hội và các loại tội phạm diễn biến phức tạp. Vì vậy, việc nắm bắt đầy đủ,
đúng đắn đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội và đội ngũ cán bộ sẽ giúp
chúng ta nghiên cứu và nhìn nhận một cách đúng đắn việc thực hiện công
khai, minh bạch trong thực hiện pháp lệnh dân chủ ở cơ sở.
43
2.2. Tổ chức triển khai và kết quả thực hiện công khai, minh bạch trong
pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Tổ chức chỉ đạo triển khai thực hiện pháp lệnh
2.2.1.1. Xây dựng kế hoạch triển khai ở thành phố
Ngay sau khi có Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11, ngày 20/4/2007
của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) về thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn; Kế hoạch số 36-KH/TU ngày 5/7/2007 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Quảng Bình, Ban Thường vụ Thành ủy Đồng Hới đã ban hành kế
hoạch số 29-KH/TU ngày 10/7/2007 chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh và chỉ đạo
Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở thành phố tổ chức hội nghị
quán triệt, triển khai Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 và các văn bản về
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở cho đội ngũ cán bộ chủ chốt toàn thành phố.
Chỉ đạo các phường, xã quán triệt, triển khai nội dung của Pháp lệnh, các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về thực hiện QCDC cơ sở đến toàn
thể cán bộ, đảng viên và nhân dân tại địa phương, đơn vị mình nhằm phát huy
tốt vai trò của nhân dân trong việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở.
Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền Pháp lệnh và các văn bản
của Đảng và Nhà nước về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong nhân dân
qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm từng bước nâng cao nhận thức
về ý nghĩa, trách nhiệm, quyền lợi của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện
Pháp lệnh 34 nói riêng và quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung
Ban Thường vụ Thành ủy đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện quy chế
dân chủ cơ sở thành phố do đồng chí Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND
thành phố làm Trưởng Ban, các thành viên là các đồng chí đại diện Thường
trực HĐND, UBND, lãnh đạo các ban ngành, đoàn thể thành phố để lãnh đạo,
chỉ đạo việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, trong đó có Pháp lệnh về
44
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Định kỳ mỗi năm 2 lần, BCĐ QCDC
thành phố họp để báo cáo kết quả thực hiện QCDC ở cơ sở, kịp thời rút kinh
nghiệm tiếp tục chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới. Việc củng cố, kiện toàn
Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ cơ sở từ thành phố đến xã, phường
được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm thực hiện tốt. Thực hiện tốt việc
sơ kết, tổng kết về xây dựng và thực hiện QCDC từ thành phố đến cơ sở; hàng
năm đều xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát tình hình triển khai, tổ chức
thực hiện QCDC ở các địa phương, đơn vị, sau khi kiểm tra có thông báo kết
luận đến từng cơ sở để rút kinh nghiệm. Đưa việc thực hiện QCDC vào
chương trình công tác hàng năm, xem đây là một tiêu chuẩn để đánh giá, xét
thi đua, công nhận danh hiệu đơn vị trong sạch vững mạnh; gắn việc thực hiện
QCDC với nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở. Tập
trung chỉ đạo đổi mới phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo theo hướng
gần dân, tăng cường tiếp xúc với dân, giải đáp những vấn đề vướng mắc của
cán bộ, nhân dân; Thành ủy đã ban hành Kế hoạch số 31-KH/TU ngày
17/7/2010; Quyết định số 51- QĐ/TU ngày 22/02/2011 về thực hiện Quy chế
công tác dân vận của hệ thống chính trị; Đề án lãnh đạo các cấp đối thoại trực
tiếp với nhân dân; Quyết định 972-QĐ/TU ngày 07/8/2015 về việc ban hành
Quy định người đứng đầu Cấp ủy, chính quyền, các cơ quan nhà nước đối
thoại trực tiếp với nhân dân và các văn bản chỉ đạo đổi mới phong cách làm
việc của cán bộ lãnh đạo theo hướng gần dân, tăng cường tiếp xúc với dân,
giải đáp những vấn đề vướng mắc của cán bộ, nhân dân. Chỉ đạo chính quyền
các cấp tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện tốt phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; phát huy quyền làm chủ của cử tri tham
gia ý kiến với đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp.
45
Trong quá trình chỉ đạo, từ năm 2007 đến nay thành phố đã ban hành
3.670 văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc xây dựng và thực
hiện QCDC ở cơ sở trong đó có Pháp lệnh về thực hiện dân chủ cơ sở.
Ngoài ra, để góp phần thực hiện tốt những quy định về nội dung “Dân
kiểm tra, giám sát” theo nội dung Pháp lệnh, Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở thành phố đã phối hợp Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố,
Trung tâm bồi dưỡng chính trị thành phố và các cơ quan có liên quan để tuyên
truyền, tổ chức tập huấn cho cán bộ, thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban
giám sát đầu tư của cộng đồng và tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về
Luật Thanh tra, Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng và
Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-KH&ĐT-UBTWMTTQVN-TC, ngày
04/12/2006 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam - Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định 80/2005/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ về giám sát đầu tư cộng đồng.
2.2.1.2. Tổ chức triển khai thực hiện ở cấp xã
Thực hiện Kế hoạch số 29-KH/TU của Ban Thường vụ Thành ủy, ngay
sau hội nghị cán bộ chủ chốt quán triệt, triển khai thực hiện Pháp lệnh và các
văn bản về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại thành phố, Cấp ủy, chính
quyền các phường, xã, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn thành phố đã tổ chức
hội nghị quán triệt, triển khai cho toàn thể cán bộ, đảng viên và thông qua Ủy
ban MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội để triển khai rộng rãi đến hội
viên, đoàn viên và quần chúng nhân dân. Hiện nay, 100% các phường, xã, các
Đảng bộ trực thuộc và các cơ quan, đơn vị đều thành lập Ban chỉ đạo thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền việc thực
hiện Pháp lệnh trên hệ thống loa phát thanh của các phường, xã. Trên cơ sở
nội dung của Pháp lệnh 34 và kế hoạch hoạt động của Ban chỉ đạo, UBND
46
các phường, xã đã phối hợp với UBMTTQ Việt Nam cùng cấp tổ chức thực
hiện tốt, đưa ra bàn bạc và biểu quyết các vấn đề như bầu trưởng thôn, tổ
trưởng dân phố, Ban giám sát đầu tư cộng đồng, Ban thanh tra nhân dân và
xây dựng quy ước thôn, tổ dân phố văn hóa.
Các phường, xã tổ chức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân giám sát thông
qua Mặt trận, các tổ chức đoàn thể nhân dân, Ban thanh tra nhân dân, Ban
giám sát đầu tư cộng đồng nhằm kịp thời nắm tình hình, phát hiện và uốn
nắn những sai phạm ở các thôn, tổ dân phố trong quản lý đất đai, xây dựng
các công trình công cộng ở địa phương, trong việc thu, chi ngân sách. Ngoài
ra, để thực hiện quyền giám sát của nhân dân nhiều địa phương đã lập sổ
theo dõi sự đóng góp của nhân dân, đảm bảo công khai việc thực hiện quyền
lợi và nghĩa vụ của dân, góp phần hạn chế tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt
cấp, tạo sự đồng thuận trong nhân dân trong thực hiện các chương trình, đề
án thành phố đề ra, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và
thành phố.
2.2.2. Hình thức tổ chức thực hiện
Trên cơ sở những quy định về hình thức tổ chức thực hiện công khai,
minh bạch theo Pháp lệnh, Cấp ủy, chính quyền thành phố Đồng Hới đã chỉ
đạo tổ chức thực hiện cơ bản tốt. Tại trụ sở UBND các xã, phường trên địa
bàn đều thực hiện niêm yết công khai tại bảng niêm yết được đặt ở Trung tâm
một cửa hoặc trung tâm một cửa liên thông các xã, phường toàn bộ thủ tục
hành chính, với 127 thủ tục liên quan đến 13 lĩnh vực được áp dụng tại cấp
xã, các chủ trương, chính sách mới ban hành trên các lĩnh vực, các Nghị quyết
của HĐND, quyết định của UBND về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, quốc
phòng-an ninh, nhất là các chủ trương mới có liên quan đến chính sách an
sinh xã hội, tạo thuận lợi cho nhân dân tìm hiểu và thực hiện có hiệu quả.
47
Tại nhà văn hóa của thôn, tổ dân phố thực hiện niêm yết công khai số
tiền huy động từ nhân dân để thực hiện các đề án xã hội hóa xây dựng đường
giao thông quy mô nhỏ, điện chiếu sáng trong khu dân cư, lát vĩa hè...xây
dựng nông thôn mới; các khoản đóng góp của nhân dân, ủng hộ của các
doanh nghiệp cho các hoạt động của thôn, tổ dân phố, danh sách bình xét hộ
nghèo, cận nghèo, hỗ trợ của thành phố do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương. Một số đơn vị thực hiện tốt việc niêm yết công khai, minh
bạch TTHC như: Trung tâm một cửa liên thông thành phố, UBND phường
Bắc Lý, UBND phường Hải Đình, UBND phường Đồng Phú, UBND phường
Nam Lý, UBND xã Quang Phú, UBND xã Bảo Ninh.
Song song với việc thực hiện niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã,
phường, các địa phương còn thực hiện công khai qua hệ thống loa phát thanh
của các xã, phường. Hiện nay, toàn thành phố có 01 đài truyền thanh-truyền
hình của thành phố, 16/16 xã, phường có trạm truyền thanh và 155 đài truyền
thanh không dây của các thôn, tổ dân phố. Hệ thống truyền thanh của thành
phố là một kênh thông tin quan trọng, cần thiết để chuyển tải các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như các chủ trương, chương trình, đề
án của tỉnh, thành phố đến với người dân, đây cũng là phương tiện góp phần
tăng tính minh bạch trong quản lý hành chính nhà nước tại địa phương, việc
thông tin qua hệ thống truyền thanh có nhiều thuận lợi là khi làm gì, ở đâu
người dân có thể nghe được thông tin mà không nhất thiết phải đi đến các điểm
niêm yết công khai tại Trung tâm một cửa liên thông thành phố, trụ sở UBND
xã, phường hay nhà văn hóa của thôn, tổ dân phố để xem. Đồng thời, thông qua
hệ thống đài truyền thanh nội dung các kỳ họp HĐND tỉnh, thành phố, xã,
phường đều được truyền thanh trực tiếp, qua đó để người dân có thể nắm được
tình hình chính trị - kinh tế- văn hóa- xã hội, nghị quyết HĐND về những chủ
trương phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh, thành phố cũng như địa
48
phương mình. Thành phố đã chỉ đạo Đài phát thanh - truyền hình thành phố
xây dựng chuyên mục phát thanh về Quy chế dân chủ cơ sở trên hệ thống
truyền thanh thành phố với thời lượng 15 phút/chuyên mục/tháng và phát trên
Đài truyền hình tỉnh; xây dựng 26 phóng sự truyền hình về thực hiện quy chế
dân chủ cơ sở. Ngoài ra, một số xã, phường của thành phố đã xây dựng được
trang thông tin điện tử như phường Bắc Lý, Đồng Mỹ, Hải Đình, Nam Lý, xã
Bảo Ninh, thông qua trang thông tin điện tử giúp nhân dân của các địa phương
nắm bắt được các hoạt động cấp ủy đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể
của thành phố nói chung và của địa phương nói riêng, các thông tin thời sự
trong tỉnh và cả nước, đồng thời, trên Website của thành phố và các địa phương
còn niêm yết công khai các thủ tục hành chính qua đó tạo điều kiện thuận lợi
cho nhân dân và doanh nghiệp trong giao dịch công việc.
Ngoài hệ thống truyền thanh thì thông qua đội ngũ trưởng thôn, tổ
trưởng tổ dân phố để thông tin công khai đến nhân dân cũng được chú trọng.
Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố là những người đại diện cho cộng đồng
thôn, tổ dân phố, chịu sự quản lý, chỉ đạo của UBND xã, phường do nhân dân
của thôn, tổ dân phố bầu (với nhiệm kỳ hai năm rưỡi) và do UBND xã công
nhận. Tổ trưởng có những nhiệm vụ rất quan trọng trong tổ chức và thực hiện
quyền lực của nhân dân nằm đảm bảo dân chủ. Hiện nay trên địa bàn thành
phố có 55 trưởng thôn và 100 tổ trưởng tổ dân phố, đây là đội ngũ rất quan
trọng để giúp cho chính quyền cấp xã, phường quản lý tốt tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội ngay từ cơ sở và thông qua đội ngũ này cũng là
kênh thông tin để chính quyền cấp xã, phường thông báo công khai đến người
dân về tình hình phát triển kinh tế- xã hội của xã, phường, về chủ trương vận
động một số loại quỹ, công khai một số công trình đầu tư xây dựng trên địa
bàn của các thôn, tổ dân phố. Thời gian qua các thôn, tổ dân phố đã làm tốt
công tác công khai các quỹ vận động của xã, phường để thực hiện các đề án
49
xã hội hóa, đền ơn đáp nghĩa, khuyến học, quỹ hoạt động quốc phòng -an
ninh...về tổng mức vận động và chi cho các hoạt động cụ thể như tổ chức các
lễ hội, các ngày lễ lớn hàng năm, các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục
thể thao…nhờ làm tốt việc công khai nên thời gian qua tại các thôn, tổ dân
phố chưa xảy ra các vụ việc tiêu cực, tỷ lệ huy động sự đóng góp của người
dân đạt chỉ tiêu đề ra.
Ngoài ra các hình thức công khai trên, các xã, phường còn thực hiện
công khai các nội dung theo quy định của Pháp lệnh qua các cuộc họp UBND
xã, phường và thôn, tổ dân phố.
Bên cạnh đó thành phố còn chỉ đạo đẩy mạnh và tiếp tục triển khai thực
hiện tốt đề án lãnh đạo các cấp trực tiếp đối thoại với nhân dân. 16/16 xã,
phường có bố trí nơi tiếp công dân và có hòm thư góp ý. Từ năm 2009 đến
nay các cấp, các ngành thành phố đã tổ chức được hơn 209 cuộc đối thoại,
qua đó đã giải quyết được những vấn đề nổi lên, những vướng mắc trong thực
hiện nhiệm vụ chính trị của các địa phương, những vấn đề nhân dân bức xúc,
góp phần ổn định tình hình ở cơ sở, phát huy được khả năng, trí tuệ, công sức
của các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận và thống nhất cao trong toàn thể
nhân dân tham gia xây dựng và phát triển thành phố.
Song song với việc thực hiện công khai, cấp ủy, chính quyền các cấp
thành phố còn thực hiện tốt việc minh bạch trong thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở ở xã, phường, thị trấn dưới nhiều hình thức như: đẩy mạnh thực hiện cải
cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, niêm yết công khai các
quy định, quy trình, thời gian giải quyết các thủ tục hành chính, thực hiện việc
tiếp nhận hồ sơ và giải quyết các thủ tục hành chính qua Trung tâm một cửa
liên thông thành phố và các xã, phường (hiện nay trên địa bàn thành phố có 1
trung tâm một cửa liên thông thành phố, 2 trung tâm một cửa liên thông của
phường Bắc Lý và xã Bảo Ninh, 14 xã, phường còn lại thực hiện mô hình một
50
cửa). Hiện nay, thành phố đang triển khai thực hiện phần mềm một cửa điện
tử liên thông tiến tới xây dựng hệ thống chính quyền điện tử. Hàng năm chính
quyền các xã, phường trên địa bàn thành phố thông qua các cuộc họp dân, họp
tổng kết năm để công khai cho cán bộ, đảng viên và nhân dân biết về tình
hình thực hiện thu, chi ngân sách của địa phương, về sử dụng vốn huy động từ
nhân dân để thực hiện các công trình, dự án của địa phương....Bên cạnh đó,
chính quyền các cấp tạo điều kiện cho nhân dân và các tổ chức chính trị xã
hội giám sát, tham gia ý kiến, bàn bạc đối với những vấn đề liên quan đến lợi
ích của nhà nước và người dân.
2.2.3. Nội dung thực hiện
Để đánh giá thực trạng thực hiện các nội dung công khai, minh bạch
trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn - từ thực tiễn thành
phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình bên cạnh cơ sở lý luận thì cần phải có những
luận cứ thực tiễn giúp đánh giá đúng thực trạng vấn đề đảm bảo tính khách quan
và khoa học, tránh suy diễn chủ quan. Theo nguyên tắc đó, học viên đã sử dụng
phương pháp điều tra xã hội học thông qua việc tiến hành xây dựng, phát ra, thu
vào và xử lý tổng hợp các Phiếu xin ý kiến đối với nhân dân trên địa bàn 16 xã,
phường. Với tổng số phiếu phát ra là 250 phiếu, số phiếu thu về là 250 phiếu, về
thông tin trên phiếu khảo sát tập trung vào 4 hình thức đánh giá là: Đạt tốt so với
yêu cầu, đạt so với yêu cầu, chưa đạt so với yêu cầu, khó đánh giá.
2.2.3.1. Thực trạng thực hiện nội dung công khai trong pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới.
* Thực hiện công khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của
cấp xã.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương là một công cụ quản
lý điều hành vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội của địa phương, là sự cụ thể
51
hoá các mục tiêu, chiến lược, quy hoạch phát triển theo từng thời kỳ qua hệ
thống các mục tiêu, biện pháp định hướng phát triển và các chương trình, đề
án thực hiện kế hoạch. Việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng
năm của các xã, phường trên địa bàn thành phố Đồng Hới luôn căn cứ vào
quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành, lĩnh vực đã được tỉnh, thành phố phê
duyệt và bám sát kế hoạch kinh tế - xã hội của của thành phố, đồng thời bảo
đảm tính khách quan dân chủ có sự tham gia của nhân dân để phù hợp với
tình hình thực tế của từng địa phương, đơn vị. Trong bản kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội hằng năm của các xã, phường đều có đánh giá tình hình thuận
lợi, khó khăn, đề ra các chỉ tiêu trên các mặt kinh tế - xã hội để phấn đấu và
các giải pháp khá cụ thể để tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó trong bản số liệu
quyết toán thu, chi ngân sách ngoài báo cáo kết quả đạt được, khuyết điểm,
hạn chế, còn có một bản phụ lục chi tiết các khoản thu và khoản chi đính kèm.
Theo đó HĐND, UBND thành phố và các xã, phường trên địa bàn đã
làm tốt việc công khai cho nhân dân biết về các chủ trương phát triển kinh tế -
xã hội hằng năm của địa phương mình. Trước hết, việc công khai các nội
dung nêu trên được thực hiện thông qua các kỳ họp HĐND thành phố và các
xã, phường. Theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương (2015)
thì HĐND các cấp họp ít nhất mỗi năm hai kỳ để đánh giá về tình hình kinh tế
-xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương trong 6 tháng hoặc một năm, đề
ra các chỉ tiêu, nhiệm vụ cho 6 tháng hoặc năm tiếp theo; Báo cáo về kết quả
thực hiện dự toán ngân sách nhà nước trong năm và dự toán thu, chi ngân
sách của năm tới. Thông qua các nội dung quan trọng trên tất cả các lĩnh vực
của địa phương...người đứng đầu các cơ quan chức năng trả lời chất vấn của
các đại biểu HĐND xã, phường về những vấn đề mà nhân dân quan tâm, bức
xúc. Nội dung các kỳ họp được phát trực tiếp trên đài phát thanh của thành
phố và các xã, phường; trên hệ thống truyền thanh không dây của các thôn, tổ
52
dân phố và đưa tin trên trang thông tin điện tử của thành phố và một số xã,
phường và bản tin Đồng Hới...Sau kỳ họp HĐND thành phố và các xã,
phường ban hành Nghị quyết về những nội dung đã được trên 50% tổng số
đại biểu thông qua; các nghị quyết, nhất là các nghị quyết về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết
toán ngân sách hằng năm của địa phương được niêm yết công khai tại trụ sở
UBND xã, phường, đăng tải trên trang thông tin điện tử (đối với một số địa
phương có trang thông tin điện tử) và được thông báo trong các cuộc họp của
UBND xã, phường, thôn, tổ dân phố
Bên cạnh đó, việc công khai các nội dung về tình hình phát triển kinh tế,
văn hóa- xã hội, quốc phòng -an ninh, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
phương án dịch chuyển cơ cấu kinh tế, dự toán, quyết toán ngân sách hằng
năm của các địa phương trên địa bàn thành phố còn được thực hiện công khai
thông qua các cuộc tiếp xúc cử tri. Theo quy định trước các kỳ họp HĐND
(giữa năm và cuối năm) của thành phố và các xã, phường, các đại biểu HĐND
báo cáo về tình hình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh với cử tri thông qua tiếp xúc cử tri tại địa bàn nơi mình ứng cử
và lắng nghe ý kiến, những phản ánh, cũng như tâm tư nguyện vọng của cử
tri, sau đó các tổ đại biểu HĐND sẽ tổng hợp chung các ý kiến để chuyển đến
các cơ quan chức năng theo thẩm quyết xem xét, giải quyết. Sau mỗi kỳ họp,
các vị đại biểu HĐND thành phố và các xã, phường phải có trách nhiệm báo
cáo với cử tri nơi mình ra ứng cử về kết quả nội dung của kỳ họp để nhân dân
biết. Đây là việc làm thường xuyên, thông qua đó nhân dân có điều kiện để
tiếp thu các chủ trương, định hướng của xã, phường về phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, tình hình công tác thu, chi ngân sách hàng
năm và biết được các ý kiến của phản ánh của mình được các cơ quan chức
năng giải quyết như thế nào.
53
Tuy nhiên, việc tiến hành công khai quyết toán thu chi ngân sách hằng
năm của các xã, phường theo Quyết định số 192/2004/QĐ-TTg ngày
16/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế công khai tài chính
đối với các cấp ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ, các
dự án đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng vốn ngân sách nhà nước, các doanh
nghiệp nhà nước, các quỹ có nguồn từ ngân sách nhà nước và các quỹ có
nguồn từ các khoản đóng góp của nhân dân còn những hạn chế như: công
khai chi tiết số liệu dự toán, quyết toán ngân sách cấp xã chủ yếu thông qua
hội nghị tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND, phương tiện truyền thanh của xã,
phường và cũng chỉ nêu lên tỷ lệ phần trăm hoặc nêu chung chung ngân sách
năm nay cao hơn năm trước, còn thực hiện bằng hình niêm yết công khai tại
trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phường; thông báo bằng văn bản cho các trưởng
thôn, tổ dân phố còn hạn chế, một số xã, phường có tiến hành niêm yết công
khai nhưng chưa đủ thời hạn 60 ngày theo quy định.
* Thực hiện công khai các dự án, công trình đầu tư, phương án đền bù,
hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên
địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều
chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã
Thành phố Đồng Hới với đặc điểm là một thành phố trẻ, vì vậy nhu cầu
về xây dựng cơ bản là rất lớn, nhất là các công trình phục vụ nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng, an ninh quốc phòng... Trong những
năm qua, cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố
đã có nhiều công trình, dự án được tổ chức triển khai xây dựng, đồng thời đi
đôi với đó nhiều hộ dân trong phạm vi thực hiện các công trình, dự án phải di
dời theo phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Theo đó, chỉ tính
riêng từ tháng 01/2008 đến tháng 12/2016 đã có 185 dự án giải phóng mặt
bằng, bồi thường, hỗ trợ tái định cư với tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái
54
định cư là hơn 2.375 tỷ đồng, số đối tượng bị ảnh hưởng là 1.237 hộ, diện tích
đất bị thu hồi là 15.645.820 m2
và số hộ được bố trí tái định cư là 107 hộ,
trọng điểm là các dự án: Cầu Nhật Lệ, Cầu Nhật Lệ II, Dự án mở rộng Quốc
lộ 1A đoạn qua địa phận thành phố Đồng Hới, Dự án mở rộng khu du lịch Mỹ
Cảnh- Bảo Ninh, Dự án Quần thể resort, biệt thự nghỉ dưỡng và giải trí cao
cấp FLC Quảng Bình, đường Võ Nguyên Giáp, Quảng trường biển Bảo Ninh,
sân bay Đồng Hới, khu công nghiệp Tây Bắc Đồng Hới, Trung tâm thương
mại, khách sạn và khu nhà phố thương mại Shophouse, đường tránh thành
phố Đồng Hới, Trạm xử lý nước thải Đức Ninh, dự án san lấp mặt bằng khu
Bắc Lê Lợi, phía Nam đường Trần Hưng Đạo, Tây Cầu Rào, Khu 525... Đa số
các dự án đều triển khai đúng trình tự thủ tục theo các quy định hiện hành của
Nhà nước. Công tác giải phóng mặt bằng được đảm bảo đúng quy trình thủ
tục quy định của nhà nước, của tỉnh, thành phố. Tất các các dự án trước khi
trình phê duyệt đều được công khai ít nhất 20 ngày tại trụ sở UBND các xã,
phường và nhà văn hóa của các thôn, tổ dân phố nơi có đất bị thu hồi để
người dân biết và tiếp thu phản ánh của người dân, kịp thời giải thích, điều
chỉnh các nội dung cho đúng các quy định trước khi trình UBND thành phố
phê duyệt. Thực hiện công khai niêm yết các nội dung liên quan đến việc thu
hồi đất, giải phóng mặt bằng; bản vẽ quy hoạch chi tiết, bản đồ hiện trạng khi
đất bị thu hồi, quyết định phê duyệt dự án đầu tư, quyết định thu hồi đất,
nguồn gốc đất, biên bản điều tra hiện trạng, phương án dự thảo cho các hộ dân
bị thu hồi được biết và tham gia ý kiến.
Thực hiện nghiêm túc việc công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi
tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn thành phố và
các xã, phường. Thành phố và các xã, phường đã tổ chức các hội nghị lấy ý
kiến của nhân dân trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất chi tiết của địa phương mình. Thực hiện công khai bản đồ
55
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại trụ sở UBND thành phố và các xã,
phường ngay sau khi quy hoạch được phê duyệt để người dân biết và thực
hiện.
Tuy nhiên, bên cạnh đó trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất trong một số trường hợp còn những bất cập. Việc
xem xét tính pháp lý đất đai khi giải phóng mặt bằng chủ yếu căn cứ vào giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất tuy nhiên trên thực tế vẫn còn một số trường
hợp cấp thiếu chính xác, cá biệt có trường hợp trên cùng 01 thửa đất có 02
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc áp giá để đền bù các loại đất trên cơ
sở giá quy định của Nhà nước có lúc không phù hợp với giá chuyển nhượng
thực tế nên trong một số trường hợp người dân không tự giác di dời làm chậm
tiến độ thi công một số công trình, dự án, công tác đền bù không thỏa đáng
dẫn đến đơn thư khiếu kiện, gây mất trật tự. Kết quả khảo sát cho thấy,
98/250 ý kiến (chiếm 39,2%) đánh giá đạt tốt so với yêu cầu, 125/250 ý kiến
(chiếm 50%) đánh giá đạt so với yêu cầu, bên cạnh đó có 18/250 ý kiến
(chiếm 7,2%) đánh giá chưa đạt yêu cầu.
* Công khai nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp
giải quyết các công việc của nhân dân
Việc thực hiện công khai nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức
cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân được các xã, phường
thực hiện khá tốt. 16/16 xã, phường trên địa bàn đều có Quy chế làm việc,
trong đó quy định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của từng bộ phận và
cán bộ, công chức làm việc trong các bộ phận đó. Quy chế làm việc của
UBND các xã, phường được niêm yết công khai tại Trụ sở của UBND
phường và trên trang thông tin điện tử của thành phố và một số xã, phường.
Đồng thời, quy định cán bộ, công chức trong giờ hành chính, trong lúc làm
nhiệm vụ phải đeo thẻ cán bộ, công chức. Việc thực hiện công khai nhiệm vụ,
56
quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã đảm bảo mỗi cán bộ, công chức của
xã, phường trên địa bàn trong quá trình thực thi công vụ thực hiện đúng
nhiệm vụ, quyền hạn được giao tránh tình trạng vượt quyền, lạm quyền,
nhũng nhiễu người dân, đảm bảo cho người dân, doanh nghiệp khi đến làm
việc, giao dịch đều có thể giám sát cán bộ, công chức và có phản ánh với cơ
quan có thẩm quyền nếu phát hiện cán bộ, công chức làm sai, có thái độ hạch
sách, nhũng nhiễu.
Tuy nhiên, bên cạnh một số xã, phường làm tốt như phường Hải Đình,
Đồng Mỹ, Nam lý, xã Bảo Ninh, Lộc Ninh thì một số xã, phường trên địa bàn
vẫn thực hiện niêm yết công khai nhưng mang tính hình thức, cố tình niêm
yết ở những vị trí người dân khó tiếp cận; việc đeo thẻ cán bộ, công chức
mang hình thức chiếu lệ, đối phó. Vì vậy, vẫn xảy ra tình trạng cán bộ, công
chức một số xã, phường bị nhân dân tố cáo làm sai, vượt quyền, lạm quyền,
nhũng nhiễu đối với nhân dân khi đến trụ sở giao dịch. Kết quả khảo sát cho
thấy, 132/250 ý kiến (chiếm 52,8%) đánh giá đạt tốt so với yêu cầu, 98/250 ý
kiến (chiếm 39,2%) đánh giá đạt so với yêu cầu, bên cạnh đó có 18/250 ý kiến
(chiếm 7,2%) đánh giá chưa đạt yêu cầu.
* Công khai việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ
theo chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng
góp.
Trong thời gian qua trên địa bàn các xã, phường ngoài nguồn vốn đầu tư
của nhà nước, các địa phương còn huy động nguồn vốn trong nhân dân theo
phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm để xây dựng cơ sở hạ tầng,
phát triển kinh tế - xã hội. Về cơ bản việc thu, quản lý và sử dụng các loại quỹ
phục vụ cho mục đích khuyến khích phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục,
thể thao, môi trường, nhân đạo và các mục đích phát triển cộng đồng do nhân
dân đóng góp trên địa bàn thành phố và các xã, phường được thực hiện đúng
57
quy định của Nhà nước, nhất là tại Điều 16 của Luật Phòng, chống tham nhũng
và Thông tư số 19/2005/TT-BTC, 11 tháng 3 năm 2005 của Bộ Tài chính về
Hướng dẫn việc công khai tài chính đối với các quỹ có nguồn từ ngân sách nhà
nước và các quỹ có nguồn từ các khoản đóng góp của nhân dân.
Việc hỗ trợ cho các đối tượng được thụ hưởng bảo đảm kịp thời, đúng
mục đích, đúng đối tượng, công khai và minh bạch; việc quyết toán quỹ và
các khoản đóng góp của nhân dân được thực hiện đúng quy định. Một số loại
quỹ như: Quỹ vì người nghèo, Quỹ đền ơn đáp nghĩa, Quỹ quốc phòng an
ninh, Quỹ khuyến học, khuyến tài...khi thu đều có biên lai và được chính
quyền các xã, phường công khai trong quá trình sử dụng. Vì vậy, không có
tình trạng huy động đóng góp tùy tiện, tràn lan, quá khả năng thực tế của nhân
dân. Nhân dân biết được và giám sát các hoạt động chi tiêu, quản lý nguồn tài
chính mà mình đóng góp. Trong xây dựng cơ bản, thực hiện công khai, minh
bạch từ khâu làm thủ tục thi công, thanh quyết toán, giám sát chất lượng công
trình thông qua Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng nhờ
đó đã ngăn chặn và hạn chế tiêu cực. Nhiều xã, phường còn thành thành lập
“sổ vàng” để ghi nhận các cá nhân, tổ chức có sự hỗ trợ và đóng góp tiền cho
các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng các công trình phúc lợi của
địa phương.
Chính nhờ làm tốt việc công khai, minh bạch trong việc quản lý và sử
dụng các loại quỹ, các nguồn vốn huy động trong nhân dân nên đã tạo được
sự đồng tình hưởng ứng cao từ nhân dân trong thực hiện các đề án xã hội hóa
với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, đưa lại hiệu quả cao như:
đề án xây dựng đường giao thông quy mô nhỏ từ 2008 đến nay thành phố đã
đầu tư được 166,04 km đường bê tông với tổng kinh phí đầu tư 159,09 tỷ
đồng, trong đó nguồn vốn huy động từ sự đóng góp của nhân dân là 30,86 tỷ
đồng. Xây dựng được 154.768,97 m2 vỉa hè với tổng kinh phí 87.385 triệu
58
đồng, trong đó nguồn vốn huy động từ sự đóng góp của nhân dân là 12.630
triệu đồng. Xây dựng 48 tuyến điện chiếu sáng các tuyến đường vừa và nhỏ
trong khu dân cư với tổng chiều dài 49,56 km với kinh phí 11.998 triệu đồng,
trong đó vốn đóng góp của nhân dân 6.977 triệu đồng. Nguồn vốn đóng góp
cho chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới 207,25 tỷ
đồng, trong đó nguồn vốn huy động từ nhân dân là 50.746 triệu đồng Ngoài
ra chương trình xây dựng nông thôn mới còn huy động được 1.789 ngày công
lao động của nhân dân...
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn có một số xã, phường Ban thanh tra
nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng chưa phát huy tốt chức năng kiểm
tra, giám sát của mình do đó dẫn đến còn có nhiều công trình xây dựng chưa
đảm bảo chất lượng, hiệu quả đầu tư và sử dụng nguồn vốn của nhân dân
trong xây dựng các công trình dân sinh chưa cao, làm mất lòng tin của nhân
dân vào sự lãnh đạo của chính quyền, cũng như tính minh bạch của chính
quyền trong đầu tư xây dựng các công trình trên địa bàn. Kết quả khảo sát
cho thấy, 119/250 ý kiến (chiếm 47,6%) đánh giá đạt tốt so với yêu cầu,
116/250 ý kiến (chiếm 46,4%) đánh giá đạt so với yêu cầu, bên cạnh đó có
11/250 ý kiến (chiếm 4,4%) đánh giá chưa đạt yêu cầu.
* Công khai các chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát
triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ
nghèo được vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình
thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế
Để giúp cho nhân dân tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi của nhà nước
cũng như của các chương trình, dự án của các tổ chức phi chính phủ, thời gian
qua UBND các xã, phường trên địa bàn thành phố Đồng Hới đã phối hợp tốt
với các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp để tuyên truyền sâu rộng trong các
tầng lớp nhân dân về các chương trình vay vốn ưu đãi của nhà nước để phát
59
triển sản xuất, kinh doanh, nhất là nguồn vốn vay ưu đãi qua Ngân hàng
Chính sách xã hội với các chương trình cho vay như: Chương trình cho vay
hộ nghèo, hộ mới thoát nghèo; học sinh, sinh viên; xuất khẩu lao động; giải
quyết việc làm; cho vay theo quyết định 48 của Chính Phủ; cho vay sản xuất,
kinh doanh; cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.... Chính nhờ
làm tốt công tác tuyên truyền nên tổng dư nợ vốn vay tại Ngân hàng chính
sách xã hội thành phố (đến ngày 31/12/2016) là 148,2 tỷ đồng với 6.037 hộ
hộ còn dư nợ, trong đó ủy thác qua các Hội đoàn thể 146,4 tỷ đồng, chiếm
98,8% tổng dư nợ. Thông qua tiếp vận nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi mà
nhiều hộ dân trên địa bàn các xã, phường, nhất là các xã khó khăn như Nghĩa
Ninh, Thuận Đức có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh làm kinh
tế vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 2,61% năm 2010 xuống còn
1% năm 2016. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, nâng cao.
Về phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển
sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế
được thực hiện chặt chẽ đảm bảo dân chủ, công khai, đúng đối tượng. Hiện
nay 16/16 xã, phường trên địa bàn thành phố đều có thành lập Ban giảm
nghèo do đồng chí Phó Chủ tịch UBND xã, phường làm Trưởng ban. Ban
giảm nghèo thực hiện chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa
phương trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách giảm nghèo trên địa
bàn xã, phường. Đến tháng 12/2016 số dư nợ chương trình cho vay hộ nghèo,
hộ mới thoát nghèo tại Ngân hàng chính sách xã hội thành phố đạt 12,4 tỷ
đồng với 310 hộ vay.
Đối với các hộ nghèo, cận nghèo ngoài việc quan tâm tạo điều kiện vay
vốn phát triển sản xuất, đây cũng là đối tượng luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm trên nhiều mặt. Là địa bàn có nhiều xã, phường tiếp giáp với vùng
ven biển, vùng trũng nên thường xuyên phải gánh chịu những thiệt hại nặng
60
nề từ các đợt thiên tai, lụt bão. Sau mỗi đợt thiên tai, lụt bão đi qua, công tác
cứu trợ khắc phục hậu quả được quan tâm thực hiện, ngoài những hộ gia đình
bị thiệt hại nặng thì những đối tượng hộ nghèo, cận nghèo là những đối tượng
được ưu tiên cứu trợ, hay trong các dịp lễ, tết các nguồn tiền, hàng của nhà
nước hỗ trợ cho hộ nghèo, cận nghèo cũng được chuyển đến tận tay. Nhờ làm
tốt công tác bình xét hộ nghèo nên thời gian qua trên địa bàn các xã, phường
hạn chế được tình trạng khiếu kiện, khiếu nại về vay vốn hoặc cứu trợ cho các
đối tượng hộ nghèo, cận nghèo. Chương trình xóa nhà tạm cho hộ nghèo theo
Quyết định 167/2008/QĐ-TTg, ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ
được thành phố, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội, cũng như các xã,
phường quan tâm triển khai thực hiện, toàn thành phố đã hỗ trợ sửa chữa, xây
mới 358 nhà tình thương, tình nghĩa với vốn đầu tư hơn 18 tỷ đồng, thành phố
cơ bản hoàn thành việc xóa nhà tạm cho hộ nghèo trên địa bàn. 100% hộ
nghèo trên địa bàn thành phố theo kết quả bình xét được cấp giấy chứng nhận
hàng năm và được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí theo Nghị định số
62/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo hiểm y tế và Thông tư số
09/2009/TTLT-BYT-BTC ngày 14/8/2009 của liên Bộ Y tế - Bộ Tài chính
hướng dẫn về thực hiện bảo hiểm y tế. Kết quả khảo sát cho thấy, 160/250 ý
kiến (chiếm 64%) đánh giá đạt tốt so với yêu cầu, 81/250 ý kiến (chiếm
32,4%) đánh giá đạt so với yêu cầu.
* Công khai đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều
chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã
Từ 2008 đến nay, về đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn thành phố
không có sự thay đổi (6 xã, 10 phường), chỉ có chia tách và thành lập mới 01
thôn thuộc địa bàn xã Bảo Ninh là thôn Mỹ Cảnh chia tách từ thôn Sa Động
(xã Bảo Ninh) quá trình thành lập đã bám sát quy định tại Quy chế tổ chức và
61
hoạt động của thôn và tổ dân phố (ban hành kèm theo Quyết định số
13/2002/QĐ-BNV, ngày 06/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ) và sau này là
Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 31/8/2012 của Bộ Nội vụ Hướng dẫn về
tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố theo đó Ủy ban nhân dân thành
phố giao Ủy ban nhân dân xã Bảo Ninh xây dựng Đề án chia tách và thành
lập thôn mới, trong đề án đã nêu rõ: Sự cần thiết thành lập thôn mới, tên gọi
của thôn mới, vị trí địa lý, ranh giới của thôn mới, dân số (số hộ gia đình, số
nhân khẩu) của thôn mới, diện tích tự nhiên của thôn mới. Sau đó UBND xã
đã tổ chức lấy ý kiến của đại diện hộ gia đình trong khu vực thành lập thôn
mới và đã được đa số (trên 50%) cử tri đại diện hộ gia đình trong khu vực
thành lập thôn mới tán thành, UBND xã hoàn chỉnh hồ sơ (kèm theo biên bản
lấy ý kiến) trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua Nghị quyết, sau khi
có Nghị quyết HĐND xã, Ủy ban nhân dân xã hoàn chỉnh hồ sơ trình Ủy ban
nhân dân thành phố. Ủy ban nhân dân thành phố có Tờ trình (kèm hồ sơ thành
lập thôn mới của Ủy ban nhân dân xã) gửi Sở Nội vụ để thẩm định trình Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, sau khi thẩm định đạt các yêu cầu Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét ban hành Nghị quyết
thành lập thôn mới. Sau khi có Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành Quyết định thành lập thôn mới.
* Công khai kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực,
tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết
quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và Phó
Chủ tịch UBND cấp xã
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò hết sức quan trọng trong xây
dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt động thi hành công
vụ. Đây là những người trực tiếp thực hiện và đưa chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân, tuyên
62
truyền, vận động và tổ chức nhân dân thực hiện. Hiện nay, đa số các cán bộ,
công chức cấp xã có tinh thần trách nhiệm trong công việc được giao, tuy
nhiên bên cạnh đó có một bộ phận cán bộ, công chức cấp xã còn thiếu tinh
thần trách nhiệm với nhân dân, chưa thật sự tâm huyết với công việc, một số
ít có biểu hiện suy thoái đạo đức, vun vén lợi ích cá nhân, gây mất đoàn kết,
cơ hội, bè phái, cục bộ gia đình, dòng họ đã làm giảm lòng tin của cán bộ và
nhân dân. Thời gian gần đây nhiều vụ việc liên quan đến cán bộ, công chức
cấp xã được báo chí phanh phui làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân
như: 1.250 con gà đáng lẽ cấp cho người nghèo trong chương trình hỗ trợ
Nông thôn mới, không hiểu vì sao lại “chạy thẳng” vào chuồng nhà ông Bí
thư và Chủ tịch cùng cán bộ xã Quế Anh (Quế Sơn, Quảng Nam), số 24 con
dê của thị xã Bỉm Sơn (Thanh Hóa) dành hỗ trợ các hộ nghèo xã Thành Yên
(huyện Thạch Thành, Thanh Hóa) đến tay đúng đối tượng, 12 con còn lại
được đưa thẳng vào trang trại của... ông Bí thư Huyện uỷ huyện Thạch Thành.
Hay đầu năm 2015, các cán bộ thôn và xã Ninh Tây (thị xã Ninh Hòa, Khánh
Hòa) đã “dồn” thẳng đàn bò 10 con mà Nhà nước hỗ trợ dân nghèo về nhà
người thân của mình và nhiều vụ việc tương tự khác [54]. Chính vì vậy công
khai kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng
của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố là hết sức cần thiết.
Trong thời gian, qua kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc
tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân
phố trên địa bàn thành phố được quan tâm thực hiện nhằm đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn xảy ra một số vụ việc cán bộ,
công chức thành phố và một số xã, phường lợi dụng chức vụ làm trái các quy
định của nhà nước gây dư luận không tốt trong nhân dân như: Kế toán phòng
lao động, thương binh - xã hội thành phố tham ô số tiền hơn 50 triệu đồng từ
nguồn trợ cấp hàng tháng và tiền quà tết của các đối tượng chính sách, bị các
63
cơ quan điều tra truy tố và đưa ra Tòa án nhân dân thành phố xét xử; vụ rút
ruột công trình, nghiệm thu khống trong XDCB đường vào trạm Y tế TK7-
phường Đồng Sơn - Đồng Hới làm thất thoát số tiền lên tới hơn 180 triệu
đồng của Chủ tịch UBND phường Đồng Sơn (năm 2010), vụ đồng chí Bí thư,
Chủ tịch HĐND phường và một số cán bộ phường Đồng Sơn, thành phố
Đồng Hới lợi dụng chức vụ, quyền hạn mua bán trái phép đất lăng mộ nhằm
thu lợi; vụ đồng chí Chủ tịch UBND phường Phú Hải bị thi hành kỷ luật vì vi
phạm chính sách đất đai... Để củng cố lòng tin của nhân dân, thành phố đã chỉ
đạo cấp ủy, chính quyền các địa phương thực hiện công khai, minh bạch các
kết luận kiểm tra, thanh tra về giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng
của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố trên địa bàn, qua
đó tạo sự đồng thuận trong nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị và đảm
bảo phát huy dân chủ.
Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh Chủ tịch và Phó Chủ tịch
HĐND, Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND xã, phường được Ủy ban MTTQ
Việt Nam các xã, phường phối hợp HĐND và UBND cùng cấp đảm bảo đúng
nguyên tắc, thời gian, trình tự, thủ tục và thành phần tham gia lấy phiếu tín
nhiệm theo quy định tại Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-
UBTWMTTQVN; theo đó, Trưởng Ban công tác Mặt trận thôn, tổ dân phố đã
phối hợp với Trưởng thôn, tổ dân phố tổ chức hội nghị để nhân dân tham gia
góp ý kiến vào bản tự kiểm điểm của những người được đưa ra lấy phiếu tín
nhiệm trước khi Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam các xã, phường tổ
chức hội nghị lấy phiếu tín nhiệm. Việc làm này là một trong những nội dung
nhằm phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân trên lĩnh vực chính trị,
được nhân dân đồng tình ủng hộ, với nhiều ý kiến đóng góp xây dựng, chân
tình, thẳng thắn của nhân dân và Mặt trận cơ sở đã giúp cho các cấp ủy Đảng
và chính quyền nắm rõ hơn, cụ thể hơn về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
64
sống, năng lực quản lý, điều hành và trách nhiệm đối với nhân dân của đội
ngũ cán bộ chủ chốt các xã, phường; đồng thời thông qua kết quả lấy phiếu
tín nhiệm giúp cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các xã, phường tự nhìn nhận đánh
giá đúng hơn về bản thân mình, phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, khuyết
điểm, nhằm xây dựng cho bản thân phong cách, lề lối làm việc thật sự gần
dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt hơn.
* Công khai kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề
thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã
Cấp ủy, chính quyền các xã, phường trên địa bàn thành phố đã thực hiện
khá tốt việc công khai kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn
đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã như: xin ý kiến hội nghị cử tri
vào dự thảo báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết HĐND, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, dự thảo quy hoạch kế hoạch sử dụng đất
chi tiết, các phương án phát triển sản xuất, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi…
bằng hình thức thông qua hội nghị tiếp xúc cử tri trước các kỳ họp HĐND xã,
phường, trong kỳ họp HĐND xã, phường để xin ý kiến. Sau các cuộc họp,
trên cơ sở các ý kiến tham gia đóng góp của nhân dân và các đại biểu HĐND
tại kỳ họp, HĐND, UBND tổng hợp bổ sung, chỉnh sửa ban hành nghị quyết
và tổ chức triển khai thực hiện. Thời gian qua, thực hiện chủ trương của Đảng
và Nhà nước về chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, các
xã đã làm tốt công tác họp thôn để lấy ý kiến của nhân dân về đề án quy
hoạch xây dựng nông thôn mới trước khi trình UBND thành phố xem xét phê
duyệt theo thẩm quyền, sau khi có quyết định phê duyệt, các xã tiến hành làm
lễ công bố công khai quy hoạch đến các thôn và tiến hành cắm mốc quy
hoạch các tuyến đường liên thôn, liên xã. Hoặc việc thực hiện chủ trương,
định hướng phát triển kinh tế - xã hội của thành phố qua các nhiệm kỳ đại hội
Đảng bộ thành phố, theo đó HĐND, UBND thành phố đã ban hành nhiều nghị
65
quyết, đề án nhằm phát huy lợi thế của từng địa phương trong phát triển kinh
tế - xã hội như: Đề án phát triển kinh tế vùng gò đồi phía Tây thành phố; đề
án phát triển rau an toàn theo tiêu chuẩn Vietgap; Đề án xã hội hóa xây dựng
đường giao thông quy mô nhỏ; Đề án xã hội hóa xây dựng vĩa hè; Đề án phát
triển cây xanh đường phố; chương trình phát triển dịch vụ- thương mại, Đề
án về xây dựng và phát triển các Cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố.. tất
các các đề án nêu trên trước khi đi vào tổ chức thực hiện có tổ chức lấy ý rộng
rãi của trong nhân dân, nhất là đối với những hộ dân có khả năng tham gia và
trong phạm vi thực hiện đề án, chính nhờ làm tốt công tác này mà các đề án
triển khai đến nay cơ bản đem lại hiệu quả thiết thực, phát huy được lợi thế
của từng địa phương, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và đời
sống cho nhân dân ở nhiều xã, phường trên địa bàn thành phố.
* Công khai đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính
khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu
Trên cơ sở dự toán thu, chi ngân sách do UBND thành phố giao hằng
năm, UBND các xã, phường xây dựng dự toán thu, chi ngân sách tại địa
phương để trình HĐND cùng cấp xem xét, thông qua vào kỳ họp cuối năm.
Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước 2002, thu ngân sách xã, phường
gồm 03 nguồn thu chủ yếu là: Các khoản thu 100% bao gồm phí và lệ phí, phí
chợ, phí chứng thực, phí vệ sinh môi trường, hoa lợi công sản, thu từ qũy đất
công ích, thu đóng góp tự nguyện và thu khác…; các khoản thu theo tỷ lệ
như: Thuế môn bài từ hộ cá thể, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, doanh nghiệp tư nhân, thuế VAT, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá
nhân, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thu tiền sử dụng đất, lệ phí trước
bạ…và nguồn thu bổ sung từ ngân sách cấp trên (thu bổ sung thường xuyên,
thu bổ sung mục tiêu quốc gia, thu bổ sung môi trường). Về quy định đối
tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền
66
cấp xã trực tiếp thu được niêm yết tại địa điểm thu hoặc thông báo công khai
về tên phí, lệ phí, mức thu, phương thức thu và cơ quan quy định thu, đặc biệt
nhiều xã, phường đã thực hiện việc thông báo trước 10 ngày để người dân có
sự chuẩn bị trước. Nhờ làm tốt công khai đối tượng, mức thu các loại phí, lệ
phí, cũng như khai thác và quản lý tốt nguồn thu nên hàng năm UBND các xã,
phường cơ bản hoàn thành các khoản thu ngân sách tại địa phương mình trong
đó có các khoản thu liên quan đến phí và lệ phí, một số xã, phường có kết quả
thu đạt cao như phường Bắc Lý, Nam Lý, Hải Đình, Đồng Mỹ, Đồng Phú, xã
Bảo Ninh...góp phần hoàn thành chỉ tiêu thu ngân sách của thành phố qua
hàng năm cụ thể như: năm 2011 tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn
thành phố là 308 tỷ đồng đạt 103% so với dự toán tỉnh giao; năm 2012 thu
ngân sách đạt 92,4% dự toán Tỉnh giao; ; năm 2013 đạt 380 tỷ đồng, đạt 64%
dự toán; năm 2014 là 550 tỷ đồng, tăng 22,4% so với dự toán tỉnh giao, năm
2015 là 678 tỷ đồng, đạt 120% dự toán thành phố giao, 121,2% dự toán tỉnh
giao; năm 2016 là 1.062, đạt 128% so với dự toán tỉnh giao.
* Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công
việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã thực hiện
Thủ tục hành chính đang là vấn đề được toàn xã hội quan tâm, không chỉ
là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước mà còn là nghĩa vụ và quyền lợi
của mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp. Cải cách thủ tục hành chính là một
trong những nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ
đạo, trong đó trọng tâm là việc thực thực Quyết định số 30/QĐ-TTg,
10/01/200 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án đơn giản hoá thủ tục
hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 – 2010; Quyết
định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm 2007 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên
thông tại cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương.
67
Trên cơ sở đó, cùng với sự chỉ đạo của UBND tỉnh, UBND thành phố và
16 xã, phường trên địa bàn đều triển khai thực hiện tiếp nhận và trả kết quả theo
quy định, thống nhất về lĩnh vực, trình tự tiếp nhận, giải quyết hồ sơ thủ tục hành
chính theo cơ chế một cửa, nhất là việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước trên địa bàn thành phố được đẩy mạnh và đạt được những kết
quả khả quan, như đã xây dựng được các quy trình giải quyết công việc một
cách khoa học; từng bước cải tiến phương pháp làm việc, tạo điều kiện thuận
lợi cho từng cán bộ, công chức giải quyết công việc thông suốt, kịp thời,
hiệu quả; đơn giản hóa quy trình và rút ngắn thời gian giải quyết công việc
của doanh nghiệp, địa phương, cơ sở; đồng thời thực hiện niêm yết công
khai tại trụ sở UBND xã, phường 127 thủ tục liên quan đến 13 lĩnh vực được
áp dụng tại cấp xã, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân khi đến làm
việc. Việc giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa và một cửa liên
thông tại các xã, phường đảm bảo thời gian theo quy định, đáp ứng được yêu
cầu của người dân và doanh nghiệp khi đến giao dịch tại các cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh đó do trụ sở làm việc của một số xã, phường còn
chật hẹp, nên hầu hết các xã, phường mới chỉ niêm yết công khai được các
TTHC có tần suất thực hiện lớn như các TTHC về lĩnh vực hộ tịch, địa chính
còn TTHC thuộc các lĩnh vực khác mới chỉ được tập hợp thành quyển để
phục vụ cho việc tra cứu thực hiện của cán bộ trực tiếp tiếp nhận, giải quyết
TTHC. Bên cạnh đó việc niêm yết thiếu danh mục TTHC từng lĩnh vực, dẫn
đến gây khó khăn cho người dân trong việc tra cứu và tìm kiếm, vì mất rất
nhiều thời gian để xác định được thủ tục mình cần tìm nằm ở ô niêm yết nào
hoặc nằm ở trang nào trong số thủ tục đang niêm yết. Việc đơn giản hóa
TTHC chưa được thực hiện thường xuyên, triệt để; một số cán bộ giải quyết
68
công việc còn chậm, vẫn còn hồ sơ trễ hẹn, nhất là các hô sơ thủ tục liên quan
đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhận thức của một số cán
bộ, công chức chưa đầy đủ, chưa thấy hết ý nghĩa của công tác niêm yết công
khai các TTHC nên không chú trọng thực hiện hết trách nhiệm đối với công
tác này; đồng thời các tổ chức, cá nhân khi đến giao dịch chưa phát huy quyền
phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính, TTHC trong đó có cả việc phản
ánh, kiến nghị về các hành vi gây phiền hà, nhũng nhiễu trong quá trình giải
quyết TTHC của công chức nhà nước, ngoài ra còn có quyền giám sát việc
giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước... do vậy khi các cơ quan, đơn vị
trực tiếp tiếp nhận, giải quyết TTHC có thực hiện niêm yết công khai TTHC
đầy đủ, đúng yêu cầu hay không đều không có bất cứ phản ứng nào của các
đối tượng thực hiện TTHC.
* Công khai những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu
cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần
thiết
Việc thực hiện công khai những nội dung khác theo quy định của pháp
luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được thực hiện theo
đúng quy định. Thành phố và các xã, phường đã thông qua các kỳ họp HĐND
các cấp, qua tiếp xúc cử tri, thông qua các cuộc họp dân để lấy ý kiến tham
gia đóng góp của các cơ quan, tổ chức và đại diện cộng đồng dân cư có liên
quan vào các chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
và vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích thiết thân của người dân, những vấn
đề mà nhân dân quan tâm và theo quy định của pháp luật cần phải công khai
cho dân biết, đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định, tạo được sự đồng
thuận cao của các cơ quan, tổ chức và toàn thể nhân dân trong quá trình tổ
chức thực hiện, góp phần quan trọng thúc đẩy thành phố phát triển.
69
Bảng 2.2: Đánh giá về mức độ công khai 11 nội dung cần phải công
khai cho nhân dân biết theo quy định của pháp lệnh 34
TT Nội dung
Đạt tốt so
với yêu cầu
Đạt so với yêu
cầu
Chưa đạt so
với yêu cầu
Khó đánh giá
Số
phiếu
khảo
sát
Tỷ
lệ
(%)
Số phiếu
khảo sát
Tỷ lệ
(%)
Số
phiếu
khảo
sát
Tỷ lệ
(%)
Số
phiếu
khảo
sát
Tỷ
lệ
(%)
1
Công khai kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, phư-
ơng án chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và dự toán, quyết
toán ngân sách hằng năm
của cấp xã.
140 56 86 34,4 18 7,2 6 2,4
2
Công khai dự án, công trình
đầu tư và thứ tự ưu tiên,
tiến độ thực hiện, phương
án đền bù, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng, tái định cư liên
quan đến dự án, công trình
trên địa bàn cấp xã; quy
hoạch, kế hoạch sử dụng
đất chi tiết và phương án
điều chỉnh, quy hoạch dân
cư trên địa bàn cấp xã
98 39,2 125 50 18 7,2 9 3,6
3
Công khai nhiệm vụ, quyền
hạn của cán bộ, công chức
cấp xã trực tiếp giải quyết
các công việc của nhân dân
132 52,8 98 39,2 18 7,2 2 0,8
4
Công khai việc quản lý và
sử dụng các loại quỹ, khoản
đầu tư, tài trợ theo chương
trình, dự án đối với cấp xã;
các khoản huy động nhân
dân đóng góp.
119 47,6 116 46,4 11 4,4 4 1,6
5
Công khai các chủ trương,
kế hoạch vay vốn cho nhân
dân để phát triển sản xuất,
xoá đói, giảm nghèo;
phương thức và kết quả
bình xét hộ nghèo được vay
vốn phát triển sản xuất, trợ
160 64 85 34 5 2 - -
70
cấp xã hội, xây dựng nhà
tình thương, cấp thẻ bảo
hiểm y tế
6
Công khai đề án thành lập
mới, nhập, chia đơn vị hành
chính, điều chỉnh địa giới
hành chính liên quan trực
tiếp tới cấp xã
170 68 80 32 - - - -
7
Công khai kết quả thanh tra,
kiểm tra, giải quyết các vụ
việc tiêu cực, tham nhũng
của cán bộ, công chức cấp
xã, của cán bộ thôn, tổ dân
phố; kết quả lấy phiếu tín
nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ
tịch HĐND, Chủ tịch và
Phó Chủ tịch UBND cấp xã
146 58,4 92 36,8 8 3,2 4 1,6
8
Công khai kết quả tiếp thu ý
kiến của nhân dân đối với
những vấn đề thuộc thẩm
quyền quyết định của cấp
xã
150 60 90 36 7 2,8 3 1,2
9
Công khai đối tượng, mức
thu các loại phí, lệ phí và
nghĩa vụ tài chính khác do
chính quyền cấp xã trực tiếp
thu
127 50,8 113 45,2 8 3,2 2 0,8
10
Công khai các quy định của
pháp luật về thủ tục hành
chính, giải quyết các công
việc liên quan đến nhân dân
do chính quyền cấp xã thực
hiện
146 58,4 93 37,2 11 4,4 - -
11
Công khai những nội dung
khác theo quy định của
pháp luật, theo yêu cầu của
cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc chính quyền
cấp xã thấy cần thiết
118 47,2 122 48,8 10 4 - -
(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra khảo sát của học viên)
2.2.3.2. Thực trạng việc thực hiện minh bạch trong pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới.
71
Công khai và minh bạch luôn gắn liền với nhau và là điều kiện để mọi
người dân tiếp cận được các vấn đề cần quan tâm; là điều kiện để nhân dân có
thể nhìn nhận, suy xét, đánh giá các vấn đề một cách chính xác, khách quan.
Trong hoạt động quản lý nhà nước, công khai nghĩa là mọi hoạt động của
chính quyền các cấp phải được công bố hoặc phổ biến, truyền tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng, làm cho mọi người dân có thể tiếp cận được
các quyết định của nhà nước một cách dễ dàng thì minh bạch nghĩa là không
những phải công khai mà còn phải trong sáng, không khuất tất, không rắc rối,
không gây khó khăn cho công dân trong tiếp cận thông tin, nhất là những
thông tin liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân. Nếu như công khai vừa
là nhiệm vụ, vừa là hoạt động cụ thể của các cơ quan, tổ chức, đơn vị thì minh
bạch bao hàm trạng thái mà người dân biết rõ, hiểu đúng bản chất nội dung đã
được công khai. Như vậy, công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước gắn
quyền của người dân trong việc tiếp cận những thông tin, tài liệu chính thức
của các cơ quan nhà nước. Đó là trạng thái mà những thông tin liên quan đến
hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước được công bố để công chúng biết
và khả năng giải trình, làm rõ về những thông tin đó hoặc giải thích, làm rõ về
hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật.
Trong những năm qua, các xã, phường trên địa bàn thành phố cơ bản
thực hiện tốt việc minh bạch. Thể hiện: Cấp ủy, chính quyền các cấp đã thực
hiện tốt việc cung cấp các thông tin liên quan đến quyền và lợi ích của nhân
dân theo quy định của pháp luật. Việc cung cấp các thông tin này được thực
hiện rộng rãi thông qua các cuộc họp của xã, phường, thôn, tổ dân phố, các
cuộc họp dân, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mà nhất là hệ
thống loa phát thanh ở các thôn, tổ dân phố và thông qua đội ngũ cán bộ làm
ở các bộ phận trực tiếp liên quan đến người dân và doanh nghiệp...Đã thực
hiện minh bạch trong việc sử dụng các nguồn vốn xây dựng dự án, các đề án
72
xã hội hóa trên địa bàn như xây dựng đường giao thông quy mô nhỏ, lát vĩa
hè, lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng trong các khu dân cư; minh bạch trong
thực hiện các khoản thu, chi huy động từ nhân dân hoặc do dân đóng góp vào
các mục đích như khuyến học, khuyến tài, các hoạt động phong trào văn hóa,
văn nghệ, thể dục thể thao và minh bạch trong thực hiện các chính sách an
sinh xã hội, minh bạch trong giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo, các kết
luận thanh tra, kiểm tra; công khai, minh bạch về quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất; việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, mức bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi thu hồi đất; trình tự, thủ tục, thẩm quyền và việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; quy hoạch chi tiết và việc phân lô đất ở, đối tượng
được giao đất làm nhà ở; các khoản miễn, giảm và đối tượng được miễn, giảm
tiền sử dụng đất, thuê đất; minh bạch trong lĩnh vực tài chính công, mua sắm
công; minh bạch thủ tục hành chính đối với người dân, doanh nghiệp...Những
nội dung này được thể hiện dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật,
các báo cáo, thông báo của chính quyền các cấp. Và trên thực tế các cuộc họp
HĐND của thành phố và các xã, phường đã được phát thanh, truyền hình
công khai để nhân dân theo dõi, các nội dung thảo luận ở các kỳ họp HĐND
đều được thể hiện bằng văn bản và được công khai trên Website của thành
phố và các xã, phường. Trước khi dự thảo Nghị quyết về các vấn đề liên quan
đến phát triển kinh tế xã hội của địa phương đều tổ chức họp dân để nhân dân
tham gia góp ý.
Đồng thời, chính quyền các cấp đã quan tâm đến việc thực hiện giải trình
trước HĐND về những vấn đề mà trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được
giao, có tác động đến quyền và lợi ích của nhà nước cũng như nhân dân mà
nhân dân quan tâm thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND trong
các kỳ họp, trong các buổi tiếp xúc cử tri, thông qua các buổi tiếp dân...Thực
hiện tốt Đề án “lãnh đạo các cấp thành phố đối thoại trực tiếp với nhân dân”,
73
Từ năm 2008 đến nay, thành phố đã tổ chức được 167 cuộc đối thoại trực tiếp
với các hộ dân liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng các công trình
trọng điểm trên địa bàn, công tác quy hoạch, thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất với 3.986 lượt người tham gia. Nội dung các cuộc đối thoại
chủ yếu tập trung nắm bắt và giải quyết những vấn đề phát sinh thuộc thẩm
quyền của thành phố; những vướng mắc nổi cộm, búc xúc trong nhân dân liên
quan đến các lĩnh vực: xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi phục
vụ xã hội (chợ, đường giao thông, quy hoạch, nhà văn hóa, trung tâm văn hóa,
vướng mắc trong sản xuất kinh doanh…), công tác bồi thường, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng (công trình nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1A đoạn qua địa bàn
thành phố; công trình cầu Nhật lệ 2, hạ tầng kỷ thuật các công trình tạo quỹ
đất, ô nhiễm môi trường biển...), chế độ chính sách cho người có công, việc
làm cho người lao động, vệ sinh môi trường, công tác cán bộ, vướng mắc của
hộ kinh doanh về chính sách, chế độ và nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước, hỗ
trợ, đền bù thiệt hại cho các hộ sản xuất kinh doanh do sự cố môi trường
biển...Qua đối thoại trực tiếp góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi
lên ở cơ sở, nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch trong thực hiện nhiệm
vụ được giao, tạo được sự đồng thuận cao của nhân dân trong thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Duy trì thường xuyên các
buổi tiếp công dân (theo định kỳ 1 tháng 2 lần vào ngày 1 và 15 của tháng).
Từ năm 2008 đến nay, các xã, phường đã tiếp 1.179 lượt công dân đến kiến
nghị, phản ánh với hơn 1.000 ý kiến phản ánh, kiến nghị. Nội dung công dân
đến kiến nghị, phản ánh chủ yếu là ở lĩnh vực đất đai (tranh chấp đất đai, đề
nghị cấp GCNQSD đất); lĩnh vực bồi thường giải phóng mặt bằng; chế độ
chính sách xã hội; đền bù thiệt hại do sự cố môi trường biển, vấn đề vệ sinh
môi trường…
74
Tuy nhiên, qua việc tham dự các buổi tiếp dân, các hoạt động tiếp xúc cử
tri của đại biểu HĐND các cấp, bản thân cũng nhận thấy các chính quyền các
phường, xã trên địa bàn đã có nhiều cố gắng nhưng đối với một số vấn đề
nhạy cảm liên quan đến công tác đền bù giải phóng mặt bằng, quản lý đất đai,
sử dụng ngân sách...việc trả lời chất vấn còn vòng vo, chưa tạo được sự thỏa
mãn đối với người chất vấn. Lời nói của lãnh đạo chưa đi đôi với việc làm,
nhiều vụ, việc nhân dân chất vấn từ kỳ họp này đến kỳ họp khác vẫn chưa
được giải quyết.
Minh bạch trong thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn
trên địa bàn thành phố còn thể hiện ở việc chính quyền các phường, xã tạo
điều kiện cho nhân dân tham gia vào quá trình quản lý nhà nước thông qua
hoạt động kiểm tra, giám sát của các đại biểu dân cử hoặc qua Ban Thanh tra
nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng. Phát huy vai trò của Mặt trận và
các tổ chức chính trị xã hội trong giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước
của các địa phương. Từ năm 2008 đến nay, thành phố đã tổ chức 53 cuộc
thanh tra theo kế hoạch; 01 cuộc thanh tra đột xuất. Nội dung thanh tra tập
trung chủ yếu vào công tác quản lý tài chính, ngân sách, xây dựng cơ bản và
quản lý đất đai, qua đó kịp thời phát hiện những tồn tại, hạn chế, những thiếu
sót trong công tác quản lý trên các lĩnh vực, đồng thời phát hiện sai phạm với
số tiền 2.668.219.000 đồng; kiến nghị thu hồi nộp ngân sách nhà nước với số
tiền 1.669.496.200 đồng. Các địa phương đã tiến hành 204 cuộc kiểm tra,
giám sát, phát hiện sai phạm với số tiền 345.214.000 đồng.
Tóm lại, công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn trên địa bàn thành phố trong những năm qua đã góp phần
phát huy quyền dân chủ của người dân, quy định lấy ý kiến người dân trước
khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng của tỉnh, thành phố và
địa phương, tăng cường vai trò giám sát của nhân dân đối với các hoạt động
75
của chính quyền cơ sở. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần bảo
đảm quyền tiếp cận pháp luật của nhân dân, bảo đảm sự công khai, minh bạch
của các chính sách, pháp luật. Chất lượng giải quyết thủ tục hành chính được
nâng cao rõ rệt; mở rộng được hình thức, phạm vi công khai, minh bạch hóa
thủ tục hành chính và các thông tin quản lý nhà nước. Cơ chế một cửa tiếp tục
được duy trì, mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết thủ tục hành
chính cho người dân, tổ chức theo hướng công khai, minh bạch, thuận tiện.
Đã tăng cường đánh giá mức độ hài lòng của công dân, tổ chức, lấy đó làm
thước đo về chất lượng phục vụ của cơ quan hành chính. Ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính được triển khai thực hiện
tốt, từng bước phấn đấu theo hướng xây dựng “chính quyền điện tử”, nổi bật
là hệ thống một cửa liên thông hiện đại thành phố và một số xã, phường.
Mạng lưới kết nối thông tin giữa các cơ quan đơn vị ngày càng được mở rộng,
hình thành cơ sở dữ liệu chung trong nhiều lĩnh vực quản lý. Việc triển khai
áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN 9001:2008 vào
hoạt động quản lý nhà nước đã được địa phương tích cực thực hiện nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động, giúp cho quy trình giải quyết công việc của cơ
quan, đơn vị được minh bạch, chất lượng công việc được nâng lên.
Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy ở một số địa phương việc cung cấp
thông tin nhằm đảm bảo sự minh bạch còn mang tính hình thức, qua loa,
chiếu lệ; các thông tin cung cấp quá “rối rắm”, cung cấp thông tin không đi
kèm với sự giải trình, thuyết minh về thông tin khiến cho người xem không
hiểu. Ví dụ về việc công khai, minh bạch trong thực hiện đầu tư xây dựng hệ
thống đường giao thông quy mô nhỏ trên địa bàn phường N trong năm 2016
với tổng số vốn đầu tư là 2.775.654 triệu đồng/2.098 km đường (kinh phí dự
trù cho 1km đường có mặt cắt từ 3m đến 5m là 1.323 triệu đồng), tuy nhiên
quá trình triển khai xây dựng các tuyến đường các chi phí cụ thể về nguyên
76
vật liệu, nhân công, chất lượng, nguồn gốc nguyên vật liệu không được công
khai rõ cho nhân dân; các công trình hoàn thành đưa vào sử dụng một thời
gian ngắn đã bị xuống cấp, nhà thầu hết thời gian bảo hành - không có trách
nhiệm phải sửa chữa, người dân kiến nghị với chính quyền - chính quyền trả
lời chưa có ngân sách để sửa chữa (với việc sử dụng ngân sách đầu tư và thời
gian sử dụng công trình để thấy được các nhà thầu đã không đảm bảo quy
trình cũng như chất lượng các nguồn nguyên vật liệu trong quá trình thi
công).
Việc minh bạch, nhất là trong xây dựng cơ bản, trong kê khai tài sản, thu
nhập, trong sử dụng của nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh và thành
phố, trong đền bù giải phóng mặt bằng...ở các địa phương vẫn còn mang tính
hình thức, chiếu lệ; minh bạch chưa đi đôi với trách nhiệm giải trình, hoặc có
giải trình thì thực hiện qua loa, chiếu lệ chưa tạo cho người chất vấn có được
câu trả lời thỏa mãn, vì vậy nên vẫn còn tình trạng khiếu kiện, tố cáo xảy ra
và cá biệt có địa phương do sự không minh bạch của người đứng đầu trong
thực hiện các công trình, dự án trên địa bàn, trong thu nhập và tài sản mà dẫn
đến nội bộ đấu đá nhau, mất đoàn kết, lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy,
chính quyền ở địa phương bị giảm sút.
Bảng 2.3. Đánh giá mức độ minh bạch của chính quyền cấp xã trong
thực hiện pháp lệnh 34
TT Mức độ đánh giá Số phiếu
khảo sát
Tỷ lệ %
1. Đạt tốt so với yêu cầu 80 32%
2. Đạt so với yêu cầu 79 31,6%
3. Chưa đạt so với yêu cầu 91 36,4%
4. Khó đánh giá - -
Tổng cộng: 250 100%
(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra khảo sát của học viên)
77
2.3. Đánh giá kết quả thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình
2.3.1. Ưu điểm
Việc thực hiện dân chủ cơ sở ở xã, phường nói chung và thực hiện công
khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói
riêng đã có những tác động tích cực đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội trên địa bàn thành phố Đồng Hới.
Trên lĩnh vực chính trị: việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần quan trọng trong
việc đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy Đảng, củng
cố chính quyền, xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở các phường, xã
trên địa bàn thành phố vững mạnh. Các cấp ủy Đảng đã gắn việc thực hiện
pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với triển khai thực hiện có
hiệu quả Nghị quyết Trung ương IV (khóa XI) một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội
bộ và thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, tạo
được sự chuyển biến tích cực từ nhận thức đến hành động trong việc rèn
luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống của cán bộ, đảng
viên, góp phần quan trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng quan liêu,
cửa quyền, nhũng nhiễu với nhân dân, phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Hoạt động của các cấp ủy Đảng, chính quyền được đổi mới theo hướng
gần dân, sát dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn, thư
78
khiếu nại, tố cáo của công dân được đổi mới, các xã, phường đã phân công,
bố trí lãnh đạo UBND và cán bộ phụ trách các bộ phận chuyên môn trực tiếp
tiếp công dân định kỳ vào các ngày 1 và 15 hàng tháng để giải quyết những
đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, góp phần giảm thiểu tình trạng khiếu
kiện kéo dài, vượt cấp. Một số xã, phường đã thực hiện tốt quy định người
đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan nhà nước đối thoại trực tiếp với
nhân dân, thông qua việc tổ chức các cuộc họp để lãnh đạo tiếp xúc đối thoại
trực tiếp với nhân dân tại khu dân cư; đồng thời thực hiện công khai kết quả
giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, các vấn đề phức tạp ở các phường, xã,
thôn, tổ dân phố đã có những hiệu quả tích cực, giúp cơ sở giải quyết được
những vấn đề nổi cộm, bức xúc liên quan đến quyền, lợi ích của nhà nước và
người dân, làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở...được đông đảo nhân dân đồng
tình, ủng hộ, lòng tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền được củng cố.
Bộ máy chính quyền được củng cố, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; cải cách hành chính được đẩy mạnh,
trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính gắn với thực hiện cơ chế một cửa, tạo
thuận lợi, minh bạch cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết các thủ
tục hành chính. Các xã, phường đã chủ trọng đến việc đổi mới phong cách, lề
lối làm việc của cán bộ, công chức theo hướng nâng cao trách nhiệm, năng
động, sáng tạo, tận tụy trong thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện tốt quy định về
trách nhiệm và xử lý trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao. Phương pháp quản lý hành chính dân chủ, công
khai, đã giúp cho quyền làm chủ của đảng viên, cán bộ, công chức được mở
rộng, kỷ cương pháp luật được tăng cường; nội quy, kỷ luật hành chính được
thực hiện khá tốt, nội bộ cơ quan đoàn kết, ý thức phục vụ nhân dân được
nâng cao; góp phần tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố mối
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
79
Trên lĩnh vực kinh tế: công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện
quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong việc tham gia phát triển kinh tế của địa phương. Cụ thể
các phường, xã đã thực hiện công khai những chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, của chính quyền địa phương trong phát triển kinh tế, nhất
là những vấn đề liên quan đến lợi ích của nhân dân: như luật kinh tế, luật hợp
tác xã, luật lao động hoặc các chủ trương về phát triển kinh tế của địa phương,
quy hoạch sử dụng đất đai, các khoản thuế, phương án chuyển đổi cơ cấu kinh
tế, phát triển ngành nghề, định hướng sản xuất, kinh doanh...Trên cơ sở đó
các hộ kinh doanh, sản xuất ở các phường, xã được tự do, tự chủ trong việc
lựa chọn hình thức sản xuất, kinh doanh, trong việc tìm kiếm thị trường tiêu
thụ...theo quy định của pháp luật; người lao động được tự do liên doanh liên
kết, tham gia sắp xếp lại sản xuất, tự tìm việc làm và tạo việc làm cho người
khác, tạo nên một môi trường kinh tế sôi động, đa dạng và hiệu quả hơn
trước.
Với việc triển khai thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn
nói chung và thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh nói riêng đã góp
phần quan trọng trong việc củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và
nhà nước mà nhất là với công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, từ đó tạo
được sự đồng thuận cao của nhân dân đối với các chủ trương về xây dựng và
phát triển kinh tế của thành phố nói chung và của địa phương nói riêng nhất là
đối với các chủ trương về thực hiện các đề án xã hội hóa, nhà nước và nhân
dân cùng làm trong xây dựng đường giao thông quy mô nhỏ; lát vĩa hè; lắp
đặt điện chiếu sáng ở các khu dân cư; trồng cây xanh đường phố; thu gom rác
thải, quét đường, vĩa hè; chương trình xây dựng nông thôn mới. Tính từ năm
2010 đến nay thành phố đã huy động được một nguồn lực rất lớn trong nhân
dân để thực hiện các đề án xã hội hóa trên địa bàn thành phố cụ thể đã xây
80
dựng được 665,45 km đường giao thông quy mô nhỏ; lát vĩa hè được
298,76m2 ; điện chiếu sáng tại các ngõ phố trong khu dân cư đạt trên 60%;
trồng được 15.986 cây xanh ở 136 tuyến đường, góp phần tạo ra một diện
mạo mới cho thành phố khang trang hơn, xanh hơn, sạch hơn, đẹp hơn.
Đồng thời việc công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn còn tạo điều kiện cho nhân dân tham gia kiểm tra, giám
sát hoạt động của các cấp chính quyền trong xây dựng các công trình do nhân
dân đóng góp trên địa bàn, thông qua Ban giám sát đầu tư cộng đồng, Ban
thanh tra nhân dân, góp phần ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực, tham ô, làm
thất thoát nguyên vật liệu...và phát hiện ra những trường hợp tiêu cực, báo cáo
cấp có thẩm quyền để kịp thời xử lý.
Trên lĩnh vực văn hóa-xã hội: công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực
hiện dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn góp phần quan trọng trong việc nâng
cao dân trí, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh ở cơ sở, tạo bước
chuyển biến mới tích cực về xây dựng cộng đồng dân cư trên địa bàn. Nhất là
đã tạo được sự đồng thuận và sự hưởng ứng tích cực của nhân dân thực hiện
công tác xã hội hóa trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, thể thao, hệ thống trường
lớp ngày càng khang trang, trang thiết bị dạy học đầy đủ hiện đại đáp ứng nhu
cầu dạy và học, thành phố hiện có 92,4% trường đạt chuẩn quốc gia, 100%
xã, phường có trạm y tế và đạt chuẩn quốc gia về y tế. Phong trào “toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” phát triển sâu rộng, chất lượng, hiệu quả
được nâng lên. Tỷ lệ gia đình văn hóa, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt
chuẩn văn hóa ngày càng cao. Thành phố hiện có 93,4% gia đình văn hóa,
75,5% thôn, tổ dân phố văn hóa.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, việc thực hiện pháp lệnh 34 đã có
những tác động tích cực đến việc triển khai thực hiện nếp sống văn minh đô
thị, xây dựng phường đạt chuẩn văn minh, xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn
81
mới theo nghị quyết 05-NQ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy. Đến nay,
100% tôn, tổ dân phố trên địa bàn thành phố xây dựng hương ước, quy ước;
các quy ước, hương ước này được bổ sung và sửa đổi hằng năm nhằm theo
kịp với xu thế phát triển của xã hội và phù hợp với tình hình thực tiễn của địa
phương, thông qua việc thực hiện các hương ước, quy ước nếp sống văn minh
đô thị, nhất là ở các phường trung tâm có nhiều chuyển biến tích cực, văn
minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội dần đi vào cuộc sống, được đông đảo
cán bộ đảng viên và nhân dân đồng tình, hưởng ứng. Nhiều phong tục, tập
quán tốt đẹp của dân tộc được bảo tồn và phát huy, những hủ tục lạc hậu từng
bước được đẩy lùi.
Bên cạnh đó việc thực hiện công khai, minh bạch các chủ trương của
Đảng và nhà nước về các chính sách hỗ trợ đối với hộ nghèo, hộ khó khăn
trong việc xóa nhà tạm, vay vốn sản xuất...giúp người dân tiếp cận được với
các chủ trương, từng bước thoát nghèo. Thời gian qua thành phố cùng với các
cơ quan, ban ngành và các doanh nghiệp đã làm tốt chủ trương xóa nhà tạm
cho hộ nghèo, xây nhà đại đoàn kết, trong 6 năm 2010-2016 đã xây dựng 260
nhà cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, gia đình chính sách, người có công, cơ
bản hoàn thành việc xóa nhà tạm cho hộ nghèo trên địa bàn. Các tổ chức đoàn
thể cơ sở thông qua ngân hàng chính sách đã cho các hộ nghèo, cận nghèo...
vay với mục đích phát triển sản xuất, phục vụ đời sống với số tiền 750 triệu
đồng. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 2,61% năm 2010 xuống còn 1% năm 2016.
Như vậy, việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ nói chung và công khai, minh
bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn
thành phố Đồng Hới thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng.
Điều đó minh chứng rằng việc thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp
lệnh được triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả tại các xã, phường trên
địa bàn thành phố. Đây là nền tảng và là cơ sở vững chắc cho việc phát huy
82
quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh
trên địa bàn thành phố Đồng Hới.
2.3.2. Hạn chế
Với những kết quả đạt được nêu trên đã khẳng định tính đúng đắn, tác
dụng, hiệu quả thiết thực của việc ban hành Pháp lệnh 34 trong đời sống xã
hội, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân thành phố Đồng Hới nói riêng
và cả nước nói chung trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong
thời kỳ mới. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình tổ
chức thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới còn bộc lộ một số hạn chế
nhất định:
- Nhận thức của cấp ủy, chính quyền một số xã, phường trên địa bàn về
vị trí, vai trò của việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn chưa cao, dẫn đến việc triển khai thực
hiện còn mang tính hình thức, chiếu lệ, hiệu quả thấp.
- Công tác tuyên truyền, triển khai, quán triệt các văn bản của Đảng và
Nhà nước về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung và pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng trên địa bàn thành phố Đồng Hới
còn chưa thường xuyên, chưa sâu rộng trong nhân dân do đó chưa tạo được sự
chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Một số cán bộ và quần chúng nhân dân
chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
dẫn đến ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ ở một số địa phương
trong triển khai thực hiện quy chế dân chủ chưa cao, đôi lúc còn xem nhẹ.
Công tác biểu dương, khen thưởng cũng như phê phán đối với những biểu
hiện tiêu cực vi phạm quy chế dân chủ cơ sở chưa thường xuyên, thiếu kịp
thời.
83
- Năng lực điều hành và nhận thức của người đứng đầu trong tổ chức,
triển khai thực hiện công khai, minh bạch theo Pháp lệnh 34 ở một số xã,
phường còn hạn chế, có mặt lúng túng. Hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở của một số xã, phường còn thiếu tích cực, chưa được
duy trì thường xuyên, chưa tuân thủ quy chế đề ra. Các thành viên Ban chỉ
đạo hoạt động cầm chừng, thiếu sự phối hợp, ít sâu sát địa bàn, chưa coi trọng
công tác kiểm tra, giám sát tại chỗ.
- Công tác phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân trong tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở một số xã, phường
chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ, còn mang tính hình thức, hiệu quả đem lại
không cao, cho nên tình trạng khiếu kiện vẫn còn diễn ra, tiêu cực tham
nhũng chưa được đẩy lùi; an ninh nông thôn tiềm ẩn những dấu hiệu phức
tạp.
- Công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường
nói riêng và thực hiện dân chủ ở cơ sở nói chung một trong những nội dung
cần thiết để đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành
chính, tiến tới xây dựng một nền hành chính công minh bạch, hiện đại, góp
phần quan trọng trong việc đổi mới tác phong, lề lối làm việc của cán bộ,
công chức. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức ý thức trách
nhiệm phục vụ nhân dân chưa cao, hiệu quả công tác thấp, còn có biểu hiện
gây phiền hà, sách nhiễu với nhân dân, nhất là trên lĩnh vực cấp, đổi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Hoạt động của các Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng
đồng ở một số xã, phường còn hạn chế, chưa phát huy hết chức năng, nhiệm
vụ, thường chạy theo sự vụ, sự việc, chủ yếu là tham gia cùng các ngành chức
năng giải quyết những vụ tranh chấp, khiếu nại, phát sinh ở cơ sở, chưa thể
hiện được vai trò chủ động giám sát của mình. Bên cạnh đó đa số các thành
84
viên đều là cán bộ kiêm nhiệm, không có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực
xây dựng nên việc giám sát các công trình còn hạn chế, chủ yếu là giám sát
trực quan, tổng thể bên ngoài chứ không thể giám sát chi tiết chất lượng công
trình vì vậy vẫn còn xảy ra tình trạng công trình vừa nghiệm thu đưa vào sử
dụng một thời gian ngắn đã hư hỏng, xuống cấp.
- Công khai không đầy đủ những vấn đề liên quan trực tiếp đến người
dân, nhất là công khai, minh bạch trong đền bù giải phóng mặt bằng dẫn đến
tình trạng khiếu kiện đông người, kéo dài, vượt cấp (điển hình là công tác đền
bù giải phóng mặt bằng Quốc lộ 1A đoạn qua địa phận xã Lộc Ninh, thành
phố Đồng Hới).
- Dân chủ trực tiếp ở các xã, phường đôi lúc còn mang tính áp đặt (ví dụ
như trong thực hiện quyền bầu cử). Bên cạnh đó các cơ quan đại diện và đại
biểu nhân dân thực hiện vai trò đại diện cho ý chí, tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân, có lúc, có nơi do ngại va chạm nên nhiều đại biểu dân cử cơ sở
chưa phát huy hết trách nhiệm người đại diện của nhân dân để dân có đầy đủ
điều kiện tham gia bàn bạc, thảo luận, góp ý kiến trước khi HĐND biểu
quyết, quyết định. Nhiều đại biểu HĐND chưa mạnh dạn, thẳng thắn đem
những vấn đề có tính bức xúc và những thắc mắc của người dân ra chất vấn
UBND xã, phường và thành phố tại các kỳ họp nên có những vấn đề chưa
đáp ứng được nguyện vọng của cử tri. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn
thể cấp xã còn nhiều vấn đề “phụ thuộc” vào UBND cùng cấp về các điều
kiện phương tiện làm việc và kinh phí hoạt động, vì vậy việc giám sát, phản
biện xã hội, nói lên chính kiến và phản ánh tâm tư nguyện vọng của hội
viên, đoàn viên và nhân dân chưa mạnh mẽ, có lúc thiếu tính kịp thời.
- Một bộ phận nhân dân chưa coi trọng thậm chí còn thờ ơ với việc thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở, coi đó là việc của chính quyền địa phương, chưa
phát huy quyền làm chủ của công dân trong việc kiểm tra, giám sát chính
85
quyền địa phương trong xây dựng các công trình, dự án do dân đóng góp, do
đó tạo điều kiện cho việc tham ô, tham nhũng xảy ra.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên đã ảnh hưởng đến quá trình phát triển
kinh tế xã hội của thành phố nói chung và các xã, phường trên địa bàn nói
riêng, lòng tin của một bộ phận nhân dân đối với các chủ trương, chính sách
của Đảng và nhà nước bị suy giảm, tình trạng khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt
cấp vẫn còn xảy ra và có những diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến trật tự an
toàn xã hội.
2.3.3. Nguyên nhân của những kết quả đạt được
- Việc ban hành và triển khai thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở
xã, phường nói chung và công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường nói riêng đã đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc trong
cuộc sống hàng ngày của người dân, đồng thời phát huy một cách sâu, rộng
quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, được đông đảo các tầng lớp nhân dân
đồng tình, ủng hộ và hưởng ứng cao.
- Do có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của cấp ủy Đảng, sự kiên
quyết trong chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp, sự nổ lực của Mặt
trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể từ thành phố đến cơ sở trong quá trình tổ
chức thực hiện và sự đồng thuận cao trong cán bộ, công chức, người lao động
và cộng đồng dân cư.
- Trong công tác chỉ đạo, điều hành, các cấp ủy Đảng, chính quyền các
phường, xã luôn thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao vai trò của
người đứng đầu và trách nhiệm của từng cá nhân theo sự phân công và quy
chế hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động, độc lập, sáng tạo của mỗi cá
nhân, tập thể trong công tác tham mưu, đề xuất cũng như tham gia xây dựng
chính quyền vững mạnh, phát triển toàn diện
2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế
86
- Do tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường và quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế đã làm nảy sinh những tiêu cực trong hoạt động kinh tế, trong
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân...ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế xã hội và thực hiện pháp
lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Công tác ban hành các hướng dẫn việc thực hiện pháp lệnh dân chủ ở
xã, phường, thị trấn, nhất là đối với các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến lợi ích
của người dân còn chậm, thiếu thường xuyên. Các văn bản về thực hiện pháp
lệnh còn thiếu đồng bộ, chưa quy định về các chế tài xử lý đối với các trường
hợp vi phạm quyền làm chủ của nhân dân cũng như vi phạm trong quá trình
tổ chức thực hiện pháp lệnh.
- Một số cấp ủy, chính quyền, nhất là người đứng đầu chưa nhận thức và
quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Pháp lệnh. Phương thức
lãnh đạo của một số cấp ủy chậm được đổi mới, sự phối kết hợp giữa Mặt trận
và các tổ chức đoàn thể còn chưa đồng bộ, thiếu thường xuyên. Công tác
kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên, chưa sâu sát, có nơi thiếu nghiêm túc,
nhất là công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các kết luận sau kiểm tra,
giám sát. Chưa chú trọng việc sơ kết, tổng kết thực tiễn.
Cá biệt một số xã, phường chưa làm tốt công tác cung cấp đầy đủ thông
tin liên quan đến tình hình và chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương nên nhân dân còn thiếu hiểu biết, vì vậy chưa tạo sự đồng thuận và
phát huy đầy đủ vai trò theo dõi, giám sát trong thực hiện một số chủ trương,
chính sách của chính quyền.
Mặt trận và các tổ chức đoàn thể, đại biểu HĐND ở một số xã, phường
chưa phát huy tốt vai trò người đại diện quyền làm chủ của nhân dân.
- Trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức ở các xã,
phường trên địa bàn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
87
thời kỳ mới. Một số cán bộ thoái hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng, quan
liêu, sách nhiễu dân làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân.
- Trình độ hiểu biết của người dân về pháp luật nói chung và pháp luật về
dân chủ, thực thi quyền dân chủ và bảo vệ quyền dân chủ nói riêng ở một số
xã, phường trên địa bàn thành phố, nhất là các xã khó khăn, xa trung tâm chưa
cao, tâm lý ngại yêu cầu, ngại tham gia ý kiến, kiến nghị, đặc biệt là những công
việc mang tính chất cộng đồng; tư tưởng “phép vua thua lệ làng” còn ăn sâu
trong tiềm thức, gây khó khăn trong việc triển khai các văn bản pháp luật của
nhà nước nói chung và pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói
riêng. Nhiều lĩnh vực hành chính được công khai niêm yết tại trụ sở xã, phường,
thông báo qua hệ thống truyền thanh cơ sở và đến thôn, tổ dân phố nhưng người
dân có lúc thiếu quan tâm, thờ ơ, không nắm rõ dẫn đến nhiều đơn thư khiếu nại,
tố cáo không đúng thực tế, làm mất thời gian, công sức xác minh của các cơ
quan chức năng.
- Do kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm, các chế tài xử lý còn nhẹ, chưa đủ
sức răn đe đối với các hành vi phạm của cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ
cán bộ lãnh đạo các xã, phường. Tình trạng cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để tham ô, tham nhũng, vi phạm các chính sách về đất đai vẫn còn xảy ra
nhưng xử ý chưa nghiêm, gây bất bình trong cán bộ và nhân dân là nguyên
nhân dẫn đến khiếu kiện, tố cáo, nội bộ mất đoàn kết...Tình trạng vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân của một số cán bộ vẫn còn diễn ra nhưng chưa
được ngăn chặn.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ thực hiện các nội dung công khai
xuống cấp (nhất là hệ thống phát thanh) ảnh hưởng đến quá trình thực hiện
Pháp lệnh.
- Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn không quy định rõ
88
chức năng, thẩm quyền của các cấp cao hơn trong việc theo dõi, kiểm tra đối với
chính quyền cấp xã trong quá trình triển khai thực hiện; Chưa quy định rõ trách
nhiệm của các chủ thể có liên quan đến hệ quả của việc tuân thủ hoặc không
tuân thủ Pháp lệnh; nguồn lực để tổ chức thực hiện; việc bồi dưỡng, nâng cao
nhận thức về kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ công chức cấp xã, đội ngũ
trưởng thôn, tổ dân phố là những người có vai trò quyết định trong việc thực
hiện có hiệu quả nội dung Pháp lệnh.
89
Kết luận chương 2
Trong Chương này, Luận văn đã giới thiệu tổng quát về các yếu tố tác
động đến quá trình thực hiện công khai, minh bạch trong pháp thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình như đặc
điểm vị trí địa lý, tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội, đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước địa phương, đồng thời xác
định rõ trong các yếu tố trên thì tổ chức bộ máy quản lý nhà nước địa phương
là chủ thể thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn. Đánh giá kết quả thực hiện công khai,
minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn từ hai
khía cạnh nội dung thực hiện và hình thức thực hiện.… Trên cơ sở đó, tìm ra
những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những kết quả đạt được cùng
như những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện công khai, minh bạch trong
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố
Đồng Hới trong thời gian qua. Kết quả có được từ Chương 2 là những cơ sở
để đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong thực hiện công
khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói
chung và thành phố Đồng Hới nói riêng.
90
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN
CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG PHÁP LỆNH THỰC HIỆN
DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
3.1. Phương hướng thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn
3.1.1. Phương hướng chung
3.1.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với
chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện
công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn nhằm đưa việc thực hiện Pháp lệnh trở thành nề nếp, thường xuyên.
Đây là nhiệm vụ then chốt đảm bảo các Nghị quyết, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, mà nhất là Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn đi vào cuộc sống và trở thành việc làm thường
xuyên của địa phương cũng như của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vì chính
quyền cấp xã là đơn vị trực tiếp tổ chức, quán triệt, triển khai thực hiện Pháp
lệnh, đồng thời cũng là cơ quan kiểm tra, giám sát, tổng kết, sơ kết việc thực
hiện Pháp lệnh. Do đó, cấp ủy Đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền các
phường, xã trên địa bàn tăng cường chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả
các nội dung của Pháp lệnh. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước, cải tiến lề
lối làm việc theo hướng dân chủ hóa, công khai. Gắn với đẩy mạnh cải cách
hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, tập trung giải quyết dứt
điểm những vấn đề mà nhân dân quan tâm, bức xúc về đất đai, tài chính,
chính sách xã hội để tạo niềm tin trong nhân dân. Xử lý nghiêm những hành
vi lợi dụng dân chủ để gây rối, vi phạm pháp luật, chia rẽ gây mất đoàn kết
trong nhân dân.
91
Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội cũng như toàn thể cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân về những quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về phát huy quyền làm chủ và mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân
dân ở cơ sở. Phát huy và nâng cao chất lượng hình thức dân chủ đại diện
thông qua hoạt động của HĐND, MTTQ và các đoàn thể nhân dân.
Chỉ đạo Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng
chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động
đoàn viên, hội viên và nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về thực
hiện các nội dung về công khai, minh bạch trong Pháp lệnh. Tăng cường công
tác nắm tình hình, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Củng cố tổ chức, nâng
cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đoàn thể ở khu dân cư, của Ban
thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng...ở các xã, phường.
3.1.1.2. Gắn việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn.
Phát huy dân chủ, tính chủ động sáng tạo của nhân dân, thực hiện tốt
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo điều kiện cho
nhân dân được tham gia quyết định các vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương. Chăm lo phát triển giáo dục đào tạo nhằm nâng cao trình độ
hiểu biết về mọi mặt cho nhân dân lao động, nhất là đối với các xã, phường xa
trung tâm, giúp người dân hiểu đúng bản chất của dân chủ, thực hành đúng,
tránh được tình trạng do thiếu hiểu biết để các phần tử phá hoại, phản động
xúi giục, có những hành động quá khích, vi phạm pháp luật. Quan tâm giải
quyết tốt các vấn đề xã hội như việc làm, giảm nghèo, chế độ chính sách đối
với các đối tượng chính sách...Giữ vững an ninh trật tự xã hội.
92
3.1.1.3. Tiếp tục củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của
Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ thành phố và các xã,
phường.
Phân công nhiệm vụ cụ thể, hợp lý cho các thành viên; xây dựng phương
hướng và các giải pháp công tác; chủ động xây dựng và duy trì thường xuyên
chế độ kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ nói chung, trong đó có
thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng; đề cao
vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, của HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ và các
đoàn thể chính trị - xã hội, của Ban chỉ đạo quy chế dân chủ; đồng thời nhắc nhở
kịp thời và xử lý nghiêm đối với những trường hợp vi phạm quy chế dân chủ,
những việc làm của cán bộ gây bức xúc và tạo dư luận không tốt trong nhân dân.
3.1.1.4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức các xã, phường.
Chăm lo quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ở các xã, phường đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính,
nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công, viên chức trong thực thi công vụ. Tập
trung cải tiến phong cách, lề lối làm việc, tác phong công tác của đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ,
công chức, viên chức có thái độ sách nhiễu, hách dịch, cửa quyền, tham
nhũng, lãng phí, tạo niềm tin cho nhân dân. Thực hiện tốt chính sách đãi ngộ
đối với cán bộ, công chức cơ sở, tạo động lực khuyến khích cán bố, công,
viên chức yên tâm, nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện
nhiệm vụ được giao.
3.1.1.5. Chú trọng việc sơ kết, tổng kết, biểu dương những việc làm tốt,
cách làm hay, nhân rộng các điển hình tiên tiến; đồng thời phê bình, uốn nắn
và xử lý kịp thời, nghiêm minh những trường hợp vi phạm quy chế dân chủ ở
93
cơ sở, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong cán bộ, đảng viên
và các tầng lớp nhân dân, uốn nắn khắc phục mọi nhận thức sai trái, lệch lạc
về công khai, dân chủ ở cơ sở.
3.1.2. Phương hướng tăng cường sự công khai, minh bạch trong thực hiện
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của địa phương.
Đồng Hới là một thành phố trẻ, cơ sở hạ tầng còn thiếu đồng bộ, việc thu
hút đầu từ ngày càng mạnh mẽ, nhất là huy động nguồn lực trong nhân dân để
hoàn thiện hạ tầng đô thị, vì vậy để tăng cường tính công khai, minh bạch của
chính quyền trong thực hiện các quyền và lợi ích liên quan đến người dân là
điều hết sức cần thiết nhằm tạo lòng tin cho nhân dân, huy động được nguồn
nội lực mạnh mẽ từ nhân dân để “xây dựng thành phố giàu đẹp, văn minh,
xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của tỉnh, phấn
đấu trở thành thành phố du lịch” [tr 69] như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
thành phố lần thứ XX, nhiệm kỳ 2015-2020 đã xác định. Để làm được điều
đó, thành phố xác định những nội dung cơ bản sau:
- Nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
trong việc thực hiện công khai, minh bạch trong thực hiện pháp lệnh dân chủ
ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố, nhất là trách nhiệm giải trình
của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền đối với những vấn đề mà nhân dân
quan tâm, bức xúc - Đây là nhiệm vụ then chốt để tăng cường tính công khai,
minh bạch.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành
chính, thực hiện rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính trên hầu hết các lĩnh
vực, rút ngắn thời gian giải quyết công việc, nâng cao chất lượng thực thi
công vụ của cán bộ, công chức.
94
- Nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã, xây dựng bộ máy chính quyền ngày càng tinh gọn, hiệu quả, đội ngũ
cán bộ ngày càng chuẩn hóa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám
sát đầu tư cộng đồng và Mặt trận và các tổ chức đoàn thể ở địa phương trong
việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư, xây dựng trên địa bàn.
3.2. Giải pháp đẩy mạnh thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn
3.2.1. Giải pháp chung
3.2.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, sự
phối hợp của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể cấp xã đối với việc triển khai
thực hiện Pháp lệnh nói chung và công khai, minh bạch trong thực hiện Pháp
lệnh nói riêng.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc triển khai thực hiện
Pháp lệnh nói chung và công khai, minh bạch trong Pháp lệnh nói riêng còn
nhiều hạn chế là do cấp ủy một số xã, phường trên địa bàn thành phố chưa
nhận thức đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của việc triển khai thực hiện
pháp lệnh đối với phát huy quyền làm chủ của nhân dân nên dẫn đến chưa quan
tâm đúng mức đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; Chính quyền một số
xã, phường còn buông lỏng trong công tác quản lý; Mặt trận và các tổ chức
đoàn thể chưa phát huy hết vai trò và chức năng của mình trong việc tuyên
truyền, vận động nhân dân triển khai, thực hiện. Vì vậy để nâng cao hiệu quả
việc công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn trên địa bàn thành phố cần phải thực hiện tốt các nội dung sau:
Thứ nhất là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thông qua việc ban hành các
văn bản chỉ đạo, hướng dẫn chính quyền tổ chức thực hiện các nội dung về
công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
95
Chỉ đạo đẩy mạnh việc tuyên truyền một cách sâu rộng các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đến với người dân. Tăng cường công
tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của đội
ngũ cán bộ, đảng viên thành phố nói chung và cán bộ, đảng viên cấp xã nói
riêng. Thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện tốt đề án lãnh đạo các cấp trực tiếp đối thoại với nhân dân. Đổi mới
phương thức lãnh đạo theo hướng giảm hội họp, sâu sát cơ sở, quan tâm giải
quyết những vấn đề nhân dân bức xúc. Phát huy rộng rãi dân chủ trong Đảng;
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng nhằm phát hiện kịp thời và xử
lý nghiêm minh các hành vi vi phạm quyền dân chủ của nhân dân.
Thứ hai là đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của chính quyền cơ sở
đối với việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn. Phát huy mạnh mẽ vai trò của hệ thống chính quyền cấp
xã trong việc thực hiện công khai, minh bạch, mở rộng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật, bảo đảm để nhân dân
tham gia giám sát các hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn
thể một cách thiết thực; thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”. Chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền cấp xã,
xây dựng đội ngũ cán bộ trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, phẩm chất
đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao.
Thứ ba là tiếp tục phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và
nhân dân thực hiện công khai, minh bạch nói riêng và pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn nói chung. Mặt trận và các đoàn thể đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò dân chủ đại diện của từng tổ
chức; bảo vệ quyền và lợi ích cho đoàn viên, hội viên và nhân dân. Tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Quy chế giám sát và phản biện xã hội của
96
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội; Quy định về việc
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân tham
gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Thực hiện tốt cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng “Cơ quan
đạt chuẩn văn hóa”; phát huy dân chủ của cán bộ, nhân dân trong xây dựng
nông thôn mới, xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị; tham gia xây dựng
các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh,
các dự án, đề án, các công trình phục vụ dân sinh trước lúc các cấp có thẩm
quyền quyết định. Mặt trận và các tổ chức đoàn thể thường xuyên đổi mới
phương thức hoạt động nhằm tập hợp đông đảo đoàn viên, hội viên tham gia,
thông qua đó tạo điều kiện để người dân phát huy quyền làm chủ của mình. Phát
huy tinh thần thi đua yêu nước, đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, tích cực
tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả quy chế phối hợp công tác giữa HĐND,
UBND với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong thực
hiện pháp lệnh 34; tích cực phối hợp với các cơ quan, ban ngành trong công
tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt dân chủ cơ sở thông qua
các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động lớn, các chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, tạo điều kiện cho nhân
dân tham gia xây dựng Đảng, Chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Nâng cao vai trò đại diện của các đại biểu HĐND, vai trò của Ban Thanh
tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng nhằm tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát ở cơ sở. Phối hợp tổ chức có hiệu quả công tác tiếp dân, trả lời ý
kiến cử tri, giải quyết kịp thời các kiến nghị của cử tri; giữ vững ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
97
3.2.1.2. Hoàn thiện cơ chế để mở rộng sự tham gia của nhân dân vào
hoạt động quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho nhân dân tiếp cận được yếu tố
công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền, đảm bảo dân chủ xã
hội
Phát huy dân chủ, mở rộng sự tham gia của người dân vào công việc
quản lý nhà nước, nhằm bảo đảm cho Nhà nước giữ vững bản chất là nhà
nước của dân, do dân và vì dân, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của các chính
sách, pháp luật được ban hành.
Việc mở rộng sự tham gia của người dân vào công việc quản lý nhà
nước, xây dựng các chính sách, pháp luật ở nước ta tiếp tục được đề cao. Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định
"Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân..." (Điều 2). "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước" (Điều 6). “Công dân
có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến
nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.
Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công
khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”
(Điều 28).
Để đẩy mạnh sự tham gia của người dân vào hoạt quản lý của Nhà nước
trong thời gian tới, cần phải làm tốt các công việc chủ yếu sau:
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, có cơ chế huy động người dân
tham gia vào quá trình quản lý của Nhà nước. Thực hiện có hiệu quả Luật bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân sao cho những người
được bầu phải gắn bó với người dân, phản ánh được ý chí nguyện vọng của
98
người dân, không còn đại diện chung chung, hình thức. Họ phải chịu sự giám
sát của nhân dân, gắn trách nhiệm, lợi ích với sự tín nhiệm của nhân dân, khi
không hoàn thành được vai trò đại diện quyền lợi và nguyện vọng của cử tri
bầu cho thì họ phải bị bãi miễn. Nói cách khác, để sự tham gia quản lý nhà
nước qua các cơ quan đại diện của dân có hiệu quả, cần chuyển các đại biểu
được bầu của dân sang chế độ hoạt động chính trị chuyên nghiệp. Tách bạch,
không để vai trò lập pháp, đại biểu nhân dân và vai trò hành chính do cùng
một cá nhân thực hiện. Xây dựng và ban hành Luật Trưng cầu ý dân nhằm
tạo cơ sở pháp lý để mở rộng quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân được tham
gia quản lý xã hội, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, trong đó
quy định rõ nội dung trưng cầu ý dân, quyền quyết định trưng cầu ý dân, trách
nhiệm tổ chức trưng cầu ý dân, thủ tục xem xét ý kiến, kiến nghị của nhân dân
và đánh giá sử dụng kết quả trưng cầu ý dân. Đồng thời nghiên cứu xây dựng
và ban hành Luật Giám sát của nhân dân làm cơ sở pháp lý để hiện thực hóa
sự giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
- Tạo cơ chế nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trong từng chiến
lược, chính sách phát triển, từng dự án cũng như hoạt động của bộ máy chính
quyền, đảm bảo nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đặc
biệt là những vấn đề “nhạy cảm” mang tính đặc thù của địa phương, tránh để
kẻ xấu và các thế lực thù địch lợi dụng, kích động gây mất niềm tin của quần
chúng nhân dân đối với đảng bộ và chính quyền cơ sở. Cơ chế thực hiện công
khai, minh bạch và dân chủ không chỉ được đảm bảo trên hoạt động của bộ
máy chính quyền và còn đưa bộ máy chính quyền đứng gần nhân dân, trong
lòng dân, lấy dân làm gốc, giúp nhân dân thấu hiểu được tính đặc thù địa
phương, nhiệm vụ chính trị của địa phương cũng như vai trò của cá nhân
trong việc thực hiện công khai, minh bạch, phát huy vai trò dân chủ.
99
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước. Đổi mới cơ cấu
tổ chức, phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước, mở rộng sự công
khai, minh bạch, tạo cơ hội cho người dân nắm được các công việc của Nhà
nước để tham gia một cách chủ động, thiết thực, có hiệu quả. Nâng cao trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước và của công chức trong việc tiếp thu các ý
kiến và nguyện vọng của nhân dân.
- Mở rộng khả năng tiếp cận của công dân với các cơ quan quản lý hành
chính nhà nước cả về thời gian lẫn nội dung. Đơn giản hóa và đa dạng hóa các
hình thức tham gia của công dân; Mở rộng hình thức tư vấn nhân dân và phản
biện xã hội; Thông báo công khai các ý kiến phản ánh của nhân dân và phản
biện xã hội; Thông báo công khai các ý kiến của nhân dân mà hành chính nhà
nước đã nhận được.
3.2.1.3. Nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chỉ đạo thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở của thành phố và các xã, phường
Thời gian qua, mặc dù Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ
thành phố đến cơ sở đã làm được khá nhiều việc, nhất là giúp cấp uỷ tổ chức
kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Quy chế dân chủ và Pháp
lệnh về dân chủ ở xã, phường, thị trấn nhưng nghiêm túc nhìn nhận thì hoạt
động của Ban chỉ đạo các cấp cũng còn nhiều mặt hạn chế; việc phân công
trách nhiệm và phối hợp hành động giữa các thành viên trong Ban chỉ đạo
chưa chặt chẽ; một số thành viên chưa thật gắn công việc của mình vào nhiệm
vụ của cấp uỷ giao. Thậm chí ở một số xã, phường hằng năm không xây dựng
được một chương trình kiểm tra, giám sát nào ở địa phương mình, báo cáo
tình hình hoạt động của một số Ban chỉ đạo xã, phường trong năm phần hạn
chế, tồn tại còn giống nhau, chưa phản ảnh đúng thực trạng về thực hiện dân
chủ ở địa phương mình. Chất lượng kiểm tra, giám sát về thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở nói chung và Pháp lệnh nói riêng có mặt đạt kết quả chuyển
100
biến chưa cao. Vì vậy, trong thời gian tới để nâng cao hơn vai trò của Ban chỉ
đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
- Thường xuyên kiện toàn, củng cố ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở khi có sự biến động, phân công trách nhiệm và cử cán bộ phụ trách
theo giỏi, giúp đỡ cơ sở, thường xuyên bám sát địa bàn để theo giỏi phong trào. Tổ
chức sơ kết, tổng kết đúng định kỳ, biểu dương khen thưởng kịp thời những gương
điển hình tiên tiến làm đòn bẩy, động lực cho phong trào thi đua trong thời gian tiếp
theo.
- Xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát; tích cực kiểm tra, giám sát đối
với những trường hợp có dấu hiệu vi phạm Quy chế dân chủ, những nội dung
mà chính quyền cấp xã chưa công khai đầy đủ cho nhân dân biết hoặc những
vấn đề gây bức xúc và dư luận không tốt trong xã hội. Tích cực kiểm tra,
giám sát việc thực hiên các kết luận sau thanh tra, kiểm tra, tránh việc làm
theo kiểu “đánh trống bỏ dùi”
Bên cạnh đó cần củng cố và tăng cường hiệu quả hoạt động của Ban
thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng về thực hiện các nội dung
công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn.
3.2.1.4. Thực hiện công khai, minh bạch gắn với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương
Dân chủ và kinh tế là hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết với nhau. Kinh
tế tạo điều kiện để xây dựng dân chủ, nhưng dân chủ cũng tạo điều kiện cho
phát triển kinh tế. Kinh tế càng phát triển, năng suất lao động cao, cơ sở hạ
tầng của xã hội ngày càng phát triển hoàn thiện sẽ bảo đảm thực hiện tốt hơn
quyền công dân và quyền con người. Sự phát triển kinh tế bảo đảm cho triển
vọng của nền dân chủ, sự phát triển kinh tế sẽ tạo ra được một tầng lớp trung
lưu và sẽ tạo điều kiện cho dân chúng có học thức cao hơn trước và đó là môi
101
trường mới thuận lợi cho dân chủ hoá. Cũng cần thấy rằng dân chủ đã tạo
điều kiện phân phối công bằng hơn phúc lợi xã hội, nhờ vậy kích thích sự
phát triển kinh tế.
Thực hiện Pháp lệnh về dân chủ nói chung trong đó có các nội dung phải
công khai cho dân biết không thể tách rời thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở, nâng cao
đời sống nhân dân. Chúng ta không thể có dân chủ trong điều kiện đói nghèo,
xã hội không lành mạnh bởi những tiêu cực, tệ nạn, bất ổn định. Người dân
không thể đi họp, nghe những lời thuyết giảng chính trị khi gia đình họ, con
cái họ còn chưa có cái ăn, còn đói nghèo, thất nghiệp. Dân chúng quan tâm
đến chính trị, tới các vấn đề xã hội nói chung, một khi họ cảm nhận thực tế
mà thấy rằng, đó là chính trị thiết thực, có ích đối với họ. Không nên hiểu
phát huy công khai dân chủ chỉ là tổ chức những cuộc hội họp để công bố, lấy
ý kiến của nhân dân một cách hình thức, hoặc sự bàn bạc không gắn với chăm
lo giải quyết những vấn đề thiết thực đến lợi ích và cuộc sống nhân dân tại cơ
sở. Trái lại, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân được cải thiện, đó là tiêu chuẩn cao nhất, là thước đo kết quả thực hiện dân
chủ đối với nhân dân. Thực tế đã cho thấy xã, phường nào quan tâm thực hiện
tốt quy chế dân chủ nói chung và những nội dung công khai theo Pháp lệnh nói
riêng cùng với nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo
thì khả năng huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và quần chúng
nhân dân vào thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế ở địa phương
cao hơn, tạo được lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tình hình an ninh
chính trị - trật tự an toàn xã hội của địa phương được củng cố và giữ vững.
3.2.1.5. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao năng lực, ý thức
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
102
Cán bộ là vấn đề liên quan đến vận mệnh của Đảng, của đất nước, của
chế độ, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Theo tư tưởng Hồ
Chí Minh: cán bộ là tiền vốn của đoàn thể, cán bộ là gốc của cách mạng. Có
cán bộ tốt thì việc gì cũng thành công. “Muôn việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay xấu”[12, tr.240], điều đó chứng tỏ đội ngũ cán bộ, công
chức có vai trò quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong đó đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Cán bộ, công chức cấp xã là
cán bộ cơ sở, quan hệ trực tiếp với dân, gắn bó thường xuyên với dân, sống và
làm việc trong cộng đồng dân cư, họ cũng chính là người trực tiếp tuyên
truyền, giác ngộ một cách sâu rộng cho nhân dân về mục đích, ý nghĩa, nội
dung của Pháp lệnh, tiếp đến là tổ chức thực hiện các nội dung công khai theo
quy định, tiến hành kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện Pháp lệnh, chỉ
đạo sơ kết, tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực
hiện, để từ đó khắc phục những vấn đề còn tồn tại, hạn chế nhằm chỉ đạo thực
hiện tốt hơn. Vì vậy, cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó
có đội ngũ cán bộ cơ sở, có đủ phẩm chất, năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ, tận tâm, tận lực vì nhân dân, có ý thức trách nhiệm cao, nhiệt tình
với công việc, không nhũng nhiễu, gây phiền hà với tổ chức, công dân; không
vi phạm pháp luật, kỷ luật, kỷ cương hành chính.
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và ở cấp xã nói
riêng thực sự là công bộc của dân, làm việc vì lợi ích của nhân dân và nhà
nước, thành phố và các xã, phường cần phải:
Nâng cao chất lượng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá giá bố trí,
sử dụng cán bộ, công chức. Cán bộ đưa vào quy hoạch các vị trí chủ chốt của
xã, phường phải có trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ vững
103
vàng, có đạo đức trong sáng, có ý thức trách nhiệm trước công việc được giao
và trước nhân dân. Trên cơ sở quy hoạch, hàng năm có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức. Căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ từng lĩnh vực để có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng thích hợp, theo phương châm "làm việc gì học việc
ấy". Đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ kết hợp đào tạo về lý luận chính
trị và các kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức phải gắn với việc sử dụng và phải kết hợp các hình thức đào tạo phù hợp
với đặc thù của cán bộ, công chức cơ sở. Chú trọng công tác đánh giá cán bộ,
công chức hàng năm (kể cả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do HĐND
bầu), lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo năng lực, phẩm chất cán
bộ tránh dĩ hòa vi quý, hình thức qua loa chiếu lệ, những trường hợp năng lực
yếu, thiếu tinh thần trách nhiệm, tham nhũng, gây mất đoàn kết nội bộ kéo
dài, không còn uy tín trong nhân dân, hai năm được đánh giá không hoàn
thành nhiệm vụ, nên xem xét kỷ luật, giải quyết cho thôi việc. Quá trình bổ
nhiệm, đề bạt cán bộ phải dựa vào nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân
để đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, công chức, đảm bảo những cán bộ, công chức
được đề bạt là những cán bộ thực sự công tâm, thạo việc, dám làm, dám chịu
trách nhiệm vì nhân dân, không tham nhũng, lãng phí. Đội ngũ cán bộ chủ
chốt của hệ thống chính trị cơ sở phải có phong cách làm việc gần dân, sát
dân, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân, hiểu được những việc
dân cần, biết được những việc dân đang mong đợi; cùng nhân dân giải quyết
kịp thời những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất đời sống.
Tăng cường công tác giáo dục rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Tiếp tục triển khai thực
hiện tốt Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về "đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" gắn với thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XII) về "tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
104
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ"
Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 18-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Quảng Bình về tăng cường kỷ luật, xiết chặt kỷ cương hành chính, nâng cao
trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, tạo chuyển biến
thực sự về ý thức, trách nhiệm, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức, người lao động trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được
giao cũng như trong sinh hoạt hằng ngày. Tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát, xử lý nghiêm những cán bộ công chức, viên chức, người lao động thiếu
tinh thần trách nhiệm trong thực thi công vụ, có thái độ hạch sách, nhũng
nhiễu nhân dân.
3.2.1.6. Quan tâm đầu tư điều kiện vật chất cho chính quyền cấp xã để
thực hiện tốt các vấn đề phải công khai theo quy định
Cùng với việc quan tâm về công tác cán bộ, đổi mới cơ chế hoạt động và
phương pháp quản lý thì vấn đến quan tâm đầu tư các điều kiện về cơ sở vật
chất cho chính quyền cấp xã thực hiện tốt hơn việc công khai, minh bạch
trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng và phục vụ
các công việc chung ở cơ sở là hết sức cần thiết.
So với các địa phương trong tỉnh thì hiện nay cơ sở vật chất phục vụ cho
việc thực hiện pháp lệnh cơ bản được trang bị đầy đủ. 16/16 xã, phường có trụ
sở khang trang, đảm bảo đủ để bố trí phòng làm việc của Đảng ủy, HĐND,
UBND, Mặt trận và các đoàn thể, công chức chuyên môn, phòng tiếp dân,
phòng tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả (Trung tâm một cửa). 152/155 thôn, tổ
dân phố có nhà văn hóa. Hệ thống trạm truyền thanh, đài truyền thành không
dây được trang bị đầy đủ...
Tuy nhiên, một số xã, phường trụ sở làm việc của Đảng ủy, HĐND,
UBND, Ủy ban MTTQ do xây dựng đã lâu nên hệ thống các phòng làm việc,
105
nhất là phòng giao dịch một cửa, phòng tiếp công dân quá chật hẹp, nhiều xã,
phường bố trí 02 đến 03 đoàn thể vào một phòng làm việc; vẫn còn 3 tổ dân
phố chưa có nhà văn hóa (trên địa bàn đã hết đất không có đất để xây dựng);
hệ thống truyền thanh của nhiều thôn, tổ dân phố xuống cấp không thể hoạt
động được. Chính những yếu tố đó đã có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả
hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức trong việc triển khai các nội dung
công khai theo Pháp lệnh.Vì vậy chính quyền các địa phương cần:
- Bằng nhiều nguồn lực để quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,
phương tiện làm việc cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đảm bảo các điều
cần thiết hoàn thành nhiệm vụ.
- Cần có giải pháp để đầu tư xây dựng nhà văn hóa của các tổ dân phố
còn lại đảm bảo nhân dân có chỗ sinh hoạt, hội họp, đồng thời để thực hiện tốt
việc công khai các nội dung theo Pháp lệnh.
- Đầu tư kinh phí thay mới, sửa chữa hệ thống truyền thanh của thôn, tổ
dân phố bị hư hỏng, bên cạnh đó đài phát thanh - truyền hình thành phố và
trạm truyền thanh các xã, phường nên tăng cường các hoạt động đánh giá
nhanh và định kỳ nhu cầu thông tin của người dân hoặc các vấn đề cấp bách
tại địa phương để đưa thông tin đến với người dân một cách kịp thời, hiệu
quả, tránh kiểu cung cấp thông tin một chiều, áp đặt; Đa dạng hóa chương
trình phát thanh, đan xen nhiều chương trình khác nhau để thu hút sự quan
tâm hơn của người dân.
- Với sự phát triển của công nghệ thông tin hiện nay và theo yêu cầu của
công tác cải cách hành chính nhà nước, thiết nghĩ cần có sự đầu tư, hướng dẫn
UBND các xã, phường thành lập trang thông tin điện tử, hoặc hộp thư công
vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả điều hành của chính quyền, kịp thời
chuyển tải những thông tin về tình hình kinh tế - xã hội của xã, phường và
thực hiện tốt hơn về các nội dung công khai theo Pháp lệnh đến với nhân dân.
106
3.2.1.7. Thực hiện công khai, minh bạch gắn với đẩy mạnh cải cách
hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính.
Về hiện đại hóa nền hành chính trong chương trình tổng thể cải hành
chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 là “Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động
của Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước để đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính
thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng
điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư
điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt
động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch của các cơ quan hành chính nhà
nước được thực hiện trên môi trường điện tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các
ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết các dịch vụ công được cung
cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ ở mức
độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi
lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau”
Nền hành chính nhà nước hiện đại theo kinh nghiệm của các nước ở khu
vực và trên thế giới là nền hành chính áp dụng tiêu chuẩn ISO trong quản lý
hành chính nhà nước và phải xây dựng được nền hành chính điện tử, chính
phủ điện tử, phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước kịp thời và thông suốt, làm
cho quan hệ giữa nhà nước với công dân được cấp thiết, thông suốt, tác động
đến ý thức phục vụ của công dân.
Thực hiện cải cách hành chính và dân chủ ở cơ sở đều hướng tới một
mục tiêu chung nhất là: Xây dựng nhà nước ta dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả và thật sự là nhà nước của dân, do dân,
vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Yêu cầu trước tiên của thực hiện cải cách
hành chính và Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn chủ là công khai,
107
minh bạch, công bằng, dân chủ trong mọi hoạt động của cơ quan nhà nước;
tập hợp được sức mạnh, trí tuệ của tập thể cán bộ, công chức, viên chức, mọi
tầng lớp nhân dân lao động trong xây dựng cơ quan, đơn vị và chính quyền
các cấp; mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước đều hướng tới phục vụ tốt
cuộc sống của nhân dân. Do đó, thực hiện cải cách hành chính không thể tách
rời thực hiện dân chủ ở cơ sở mà phải thực hiện đồng thời và có sự gắn kết
chặt chẽ với nhau. Thực tế cho thấy ở đâu thực hiện tốt dân chủ cơ sở thì ở đó
thực hiện tốt công tác cải cách hành chính và ngược lại, điều này chúng ta dễ
nhận thấy trong thực tế hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như trong
sinh hoạt ở cộng đồng dân cư.
Trong thời gian qua, trên địa bàn thành phố quá trình thực hiện cải cách
hành chính gắn với việc thực hiện công khai theo Pháp lệnh dân chủ ở xã,
phường, thị trấn được tiến hành đồng bộ, rộng rãi. Ngoài việc thực hiện cải
cách hành chính theo cơ chế "một cửa", các xã, phường thực hiện niêm yết
công khai các thủ tục hành chính, các khoản phí, lệ phí, đóng góp của dân,
công khai các phương án sản xuất, việc giải quyết các thủ tục hành chính như
cấp giấy phép xây dựng, đăng ký kinh doanh, địa chính, hộ tịch, hộ khẩu,
công chứng; chế độ cho các đối tượng chính sách. Nhờ áp dụng hệ thống quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008 đã góp phần rút gọn các
thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục hành chính tại
bộ phận “một cửa” góp phần hạn chế tình trạng vi phạm, quy trình giải quyết
hồ sơ và hoàn trả hồ sơ đúng hẹn, không để tồn đọng hồ sơ, giảm bớt phiền hà
cho nhân dân, được nhân dân đồng tình.
Bên cạnh đó có một số xã, phường thực hiện quy chế dân chủ gắn với cải
cách thủ tục hành chính chậm, thiếu đồng bộ. Nhiều thủ tục hành chính còn
rườm rà, bệnh giấy tờ chưa giảm, làm phiền hà cho dân phải đi lại nhiều lần
tạo điều kiện cho một số cán bộ, công chức nhũng nhiễu, hạch sách dân.
108
Để nâng cao chất lượng công tác cải cách hành chính gắn với thực hiện các
nội dung công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Quan tâm chỉ đạo Phòng Nội vụ tổ chức khảo sát ý kiến về mức độ hài
lòng của tổ chức, công dân đối với việc thực hiện cải cách hành chính theo cơ
chế một cửa, một cửa liên thông tại UBND các xã, phường và tại bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả của UBND thành phố để có sự đánh giá khách quan nhận
xét tổ chức, công dân về là thái độ phục vụ của công chức trực tiếp làm việc
tại bộ phận tiếp nhận và trả kết, chấn chỉnh kịp thời những công chức có biểu
hiện quan liêu, sách nhiễu nhân dân.
- Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện cải cách hành chính đối
với các xã, phường. Qua đó kịp thời hướng dẫn, chấn chỉnh khắc phục những
tồn tại, hạn chế và góp phần nâng cao công tác cải cách hành chính các xã,
phường trên địa bàn.
- UBND xã, phường cần xem xét lựa chọn cán bộ phụ trách tại bộ phận
một cửa là những cán bộ, công chức có trách nhiệm, nhiệt tình tâm huyết, có
năng lực chuyên môn để tiếp nhận, phân loại, xác minh hồ sơ và đề nghị xử lý
đúng quy định. Bên cạnh đó Phòng Nội vụ thành phố cần phối hợp với các cơ
quan chức năng tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ, bồi dưỡng
những vấn đề mới trong công tác cải cách hành chính cho cán bộ, công chức
cấp xã. Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Quy định 01-QĐ/TU của Ban Thường
vụ Thành ủy về trách nhiệm và xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu và
cấp phó người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Xây
dựng các chế tài xử lý nghiêm đối với các cán bộ, công chức có thái độ hạch
sách, nhũng nhiễu đối với người dân và doanh nghiệp trong quá trình giải
quyết công việc
109
- Quan tâm đầu tư nâng cấp trang thiết bị tại “Bộ phận tiếp nhận và trả
hồ sơ”, phòng làm việc đảm bảo thông thoáng, tiện lợi cho việc giải quyết
công việc trên từng lĩnh vực khi công dân đến giao dịch.
3.2.2. Giải pháp cho thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
Để đẩy mạnh công khai, minh bạch trong thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở
xã, phường, thị trấn bên cạnh việc thực hiện các giải pháp trên, thành phố
Đồng Hới cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp cơ sở
trong thực hiện pháp lệnh, nhất là thực hiện việc công khai, minh bạch trong
hoạt động của chính quyền trước nhân dân. Thể chế hóa trách nhiệm giải trình
trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền các cấp. Đây là một
trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để thực hiện tốt công khai, minh
bạch. Vì trong hoạt động quản lý nhà nước, trách nhiệm giải trình là biểu hiện
của cơ chế kiểm soát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước. Thông qua quy
định về trách nhiệm báo cáo của các cơ quan công quyền, công chức nhà
nước về những hoạt động của mình trước các chủ thể theo quy định của pháp
luật, họ sẽ chịu trách nhiệm tốt hơn đối với nhiệm vụ được giao và là cách
thức để đo lường hiệu quả hoạt động. Trách nhiệm giải trình ở đây thể hiện ở
việc không chỉ là giải trình với cơ quan cấp trên, đối với cơ quan dân cử mà
còn có trách nhiệm giải trình đối với người dân, các tổ chức xã hội và các bên
liên quan đến các mọi vấn đề theo quy định. Để làm được điều đó cần phải:
+ Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Quy định 01-QĐ/TU của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy và 119-QĐ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về trách
nhiệm và xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu và cấp phó người đứng
đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
+ Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án lãnh đạo các cấp thành phố trực
tiếp đối thoại với nhân dân. Thông qua đó nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện
110
vọng của nhân dân, đồng thời có giải pháp tháo gỡ kịp thời những vướng
mắc, khó khăn, bức xúc của nhân dân ngay từ cơ sở và hướng dẫn họ thực
hiện đúng các quy định của pháp luật, không để những mâu thuẫn nhỏ tích tụ
lâu ngày thành điểm nóng.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở. Đây là giải
pháp hết sức quan trọng. Bởi trên thực tế thành phố Đồng Hới là một thành
phố còn rất trẻ, quá trình xây dựng và phát triển thành phố, nhất là về công tác
cán bộ mà nói thì đội ngũ cán bộ ở các phường, xã đều là những cán bộ có
kinh nghiệm nhưng còn có sự hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ (tỷ
lệ cán bộ, công chức các phường, xã có trình độ đào tạo tại chức, từ xa còn
nhiều), nên trong xử lý, điều hành công việc còn có những hạn chế, nhất là
những vụ, việc nhạy cảm.. Vì vậy, cần phải đổi mới nội dung, phương pháp
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở, nhất là trang bị những kiến thức
cơ bản về quản lý Nhà nước, quản lý đất đai, vấn đề dân tộc, tôn giáo… cho
đội ngũ cán bộ cơ sở. Chú trọng bồi dưỡng theo chức danh và kỹ năng xử lý
tình huống ở cơ sở.
- Đẩy mạnh cơ chế giám sát của nhân dân và công luận trong thực hiện
công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn trên địa bàn thành phố. Đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao chất
lượng các kỳ họp HĐND cấp xã, phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối
với chính quyền ở cơ sở; nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri, kịp thời phản
ánh những vấn đề tồn tại ở cơ sở để đề nghị cấp có thẩm quyền giải quyết;
Tiếp tục triển khai thực hiện tốt “quy chế giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội”
111
Kết luận chương 3
Trong Chương này, căn cứ vào quan điểm và định hướng của Đảng và
Nhà nước về thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, trên cơ sở kết quả phân
tích các hạn chế ở Chương 2, Luận văn đã đưa ra được các phương hướng và
giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, nâng cao việc thực hiện công khai, minh
bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở nói chung và thành phố Đồng
Hới nói riêng.
112
KẾT LUẬN
Công khai, minh bạch là những thước đo giá trị phổ quát của loại người,
vừa là đích phấn đấu và là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Trong hoạt
động quản lý hành chính nhà nước, công khai, minh bạch là làm cho mọi
người dân có thể biết và hiểu cơ quan hành chính nhà nước có chức năng,
nhiệm vụ gì, hoạt động như thế nào trong khuôn khổ phù hợp với thực tiễn và
các quy định của pháp luật. Trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn công khai là việc chính quyền địa phương có trách nhiệm công bố,
cung cấp thông tin chính thức, kịp thời trước nhân dân các quy định về trình
tự, thủ tục hành chính, các văn bản liên quan đến các hoạt động phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.... theo quy định của Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Minh bạch là việc chính quyền địa
phương phải cung cấp thông tin một cách rõ ràng, rành mạch, không khuất tất
trước nhân dân về những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của người dân
được quy định trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và có
trách nhiệm giải trình trước nhân dân về những vấn đề mà nhân dân quan tâm.
Công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn nhằm thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”. Thực tiễn đã chứng minh, mỗi khi lòng dân đồng thuận, tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước thì sẽ tạo nên động lực và sức mạnh,
khuyến khích, động viên mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các hoạt
động quản lý nhà nước, cống hiến của cải và sức lực của mình để xây dựng
chính quyền, xây dựng địa phương giàu, đẹp.
Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, thời gian qua việc
triển khai thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, nhất
là nội dung công khai, minh bạch trong Pháp lệnh trên địa bàn thành phố
113
Đồng Hới đã được chính quyền các địa phương quan tâm thực hiện có hiệu
quả. Tuy nhiên, việc thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn còn nhiều bất cập, tình trạng tham ô, tham
nhũng, quản lý lỏng lẻo làm thất thoát ngân sách nhà nước vẫn còn xảy ra;
thái độ, phong cách làm việc của một số cán bộ chậm được đổi mới, vẫn còn
tình trạng hạch sách, nhũng nhiễu nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện nội dung
công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp cơ sở, củng cố lòng tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước, phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận của nhân
dân đối với việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển
kinh tế, văn hóa xã hội của địa phương, góp phần quan trọng vào quá trình
xây dựng và phát triển thành phố Đồng Hới.
Luận văn đã đạt được những kết quả chính sau đây:
1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp lý về công khai, minh bạch trong
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Theo đó, luận văn đã phân tích các
khái niệm: khái niệm dân chủ, dân chủ cơ sở, thực hiện dân chủ ở cơ sở, công
khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ cơ sở; sự cần thiết phải công khai,
minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở; Nội dung và hình thức công khai,
minh bạch trong hoạt động của chính quyền cấp xã; các yếu tố tác động đến
công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.
2. Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện nội dung công khai,
minh bạch trong pháp lênh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành
phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Từ đó rút ra những ưu điểm, hạn chế và tìm
ra những nguyên nhân.
3. Đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh thực hiện nội dung
công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
114
trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới, qua đó góp phần nâng cao tính công
khai, minh bạch trong việc thực hiện Pháp lệnh.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn liên quan đến công
khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước và Pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thọ Ánh (2012), Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong
tiến trình đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Lương Gia Ban (chủ biên) (2003), Dân chủ và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Ban đại diện Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Đồng Hới
(2016), Báo cáo hoạt động Ban đại diện hội đồng quản trị Ngân hàng chính
sách xã hội thành phố năm 2016.
8 Nguyễn Hồng Chuyên (2015), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp
xã theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội.
9. Nguyễn Hồng Chương (2012), Một số vấn đề về dân chủ và công khai
trong xây dựng nông thôn mới, Tạp chí Dân vận, số 7(60), tr.23-25.
10. Vũ Hoàng Công (2009), Xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
11. Nguyễn Bá Dương, Trần Hậu Thành, Lê Thị Hoài Thanh (đồng chủ
biên) (2010), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
12. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội.
18. Đoàn kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Bình (2014), Báo cáo kết quả kiểm tra
việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại thành
phố Đồng Hới năm 2014.
19. Bùi Thị Hải (03/04/2014), Công khai, minh bạch trong quản lý hành
chính nhà nước - Kinh nghiệm của một số nước Châu Mỹ,
http://www.moj.gov.vn/
20. Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên) (2014), Cơ sở lý luận và thực tiễn về
hành chính nhà nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Trương Hồ Hải, (2015), Hoàn thiện pháp luật về thực hành dân chủ
cơ sở theo Hiến pháp năm 2013, http://nguoibaovequyenloi.com/
22. Vũ Hòe (2011), Một số vấn đề cần quan tâm trong thực hiện cơ chế
một cửa hiện nay, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 1, tr. 47.
23. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
24. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
25. Hội đồng nhân dân thành phố Đồng Hới (2016), báo cáo tổng kết 10
năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về nội dung tăng cường
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố đối với công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí từ năm 2007-6/2016
26. Hoàng Minh Hội (2014), Thực trạng pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với cơ quan hành chính Nhà nước ở Việt Nam hiện nay và một số kiến
nghị, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30, Số 2, tr. 42-50.
27. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Vũ Văn Hiền (chủ biên) (2004), Quy chế dân chủ ở cơ sở - vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Hoàng Thị Hoài Hương (2012), Tăng cường trách nhiệm người đứng
đầu cơ quan hành chính các cấp trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,
Tạp chí Dân vận, số 7(60), tr.37-39.
30. Mai Quỳnh Nam (2003), Công khai để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, Tạp chí cộng sản, số 20(683), tr. 48.
31. Ngân hàng Thế giới (2014), Nghiên cứu Công khai Thông tin Đất
đai, công bố ngày 12/12/2014.
32. Ngọc Chí (10/12/2014), Trung Quốc công khai, minh bạch thu chi
ngân sách, http://vtv.vn
33. Nguyễn Phú Trọng (2011), Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Phòng Nội vụ thành phố Đồng Hới (2016), Báo cáo về tình hình cán
bộ, công chức xã, phường chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, chưa qua
đào tạo lý luận chính trị và những giải pháp.
35. Lê Minh Quân (2011), Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Lê Công Quyền (3/10/2013), Tiếp tục thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, http://www.xaydungdang.org.vn/
37. S.Chiavo-Campo và P.S.A. Sudaram (2003), Phục vụ và duy trì: Cải thiện
hành chính công trong một thế giới cạnh tranh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Võ Kim Sơn (2008), Xây dựng nền hành chính công theo yêu cầu
phát triển, hội nhập trong môi trường khoa học và công nghệ hiện đại, Đề tài
khoa học cấp bộ.
39. Thành ủy Đồng Hới (2015), báo cáo tổng kết thực hiện Chỉ thị số 30-
CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở.
40. Thành ủy Đồng Hới (2016) quy định về xử lý trách nhiệm người
đứng đầu và cấp phó người đứng đầu trong thực hiện chức trách nhiệm vụ
được giao.
41. Thành ủy Đồng Hới (2015) Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần
thứ XX, nhiệm kỳ 2015-2020
42. Tổ chức Minh bạch Quốc tế (2014), Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng
2014, công bố ngày 03/12/2014.
43. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg, ngày
18/4/2004 về việc ban hành Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng, Hà Nội.
44. Trung tâm thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa học (Văn Phòng
Quốc Hội) và Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (Dự án STAR Việt Nam)
(2006), Công khai, minh bạch hóa ở Việt Nam so sánh tham chiếu với hiệp
định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và các quy định của Tổ chức thương mại
thế giới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
45. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), tập 1, Trung tâm từ điển Bách
khoa Việt Nam, Hà Nội.
46. UBND thành phố Đồng Hới (2015) Báo cáo tổng kết thi hành pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Pháp lệnh số 34/2007/PL-
UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XI)
(2015)
47. UBND tỉnh Quảng Bình (2015) Báo cáo tổng kết thi hành pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Pháp lệnh số 34/2007/PL-
UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XI)
(2015)
48. UBND thành phố Đồng Hới (2014), Báo cáo tổng hợp điều chỉnh quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2020.
49. UBND huyện Phong Điền (2015), Báo cáo tổng kết tình hình thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông mới thành phố Đồng
Hới.
50. Đào Trí Úc (chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với
hoạt động của Bộ máy Đảng và Nhà nước - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
51. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh số 34/2007/PL-
UBTVQH11 ngày 20 tháng 4 năm 2007 về thực hiện quy chế dân
chủ ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội.
52. Văn Chương - Vũ Phương - Trinh Phúc (11/4/2015), Thấy gì qua các
vụ cán bộ xã liên tiếp dính tiêu cực, http://www.nguoiduatin.vn/
53. Viện khoa học Thanh tra Chính phủ (2004), Việt Nam với Công ước
Liên hợp quốc về chống tham nhũng, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
54. Đặng Hùng Võ (03/04/2014), Bàn về chuyện công khai và minh bạch
ở Việt Nam http://tcnn.vn/
55. Nguyễn Như Ý (2007), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. ĐHQG TP.
Hồ Chí Minh.

More Related Content

PDF
Luận văn:Công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ
PDF
Luận văn: Năng lực thực hiện pháp luật của cán bộ xã, phường
PDF
Luận văn thạc sĩ: Thực thi chính sách đối với người có công
PDF
Luận văn: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai, HOT
PDF
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
PDF
Đề tài: Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng ở Hà Nội
PDF
Luận văn: Thực hiện chính sách đối với người có công tại Quảng Ngãi
PDF
Chăm sóc sức khỏe người có công với cách mạng tại Bắc Ninh, 9đ
Luận văn:Công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ
Luận văn: Năng lực thực hiện pháp luật của cán bộ xã, phường
Luận văn thạc sĩ: Thực thi chính sách đối với người có công
Luận văn: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai, HOT
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
Đề tài: Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng ở Hà Nội
Luận văn: Thực hiện chính sách đối với người có công tại Quảng Ngãi
Chăm sóc sức khỏe người có công với cách mạng tại Bắc Ninh, 9đ

What's hot (20)

PDF
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên ở đô thị
PDF
Luận văn: Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã tỉnh Kiên Giang
PDF
Đề tài: Đánh giá chất lượng cán bộ quản lý công ty bao bì, HAY
PDF
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Ban Tiếp công dân, HOT
PDF
Luận văn: Hoạt động của Văn phòng UBND TP Vinh, HAY
DOC
Đề tài: Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại Xã Iakrel, Đức Cơ, Gia...
PDF
LV: Hoạt động công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe người có công, HAY!
PDF
Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của người nộp thuế
PDF
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tư pháp
PDF
Luận văn: Việc làm cho thanh niên nông thôn Hà Nội, HOT
PDF
Luận văn: Lao động và việc làm trong thời kì công nghiệp hóa
DOCX
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã tại huyện Phù Cát
PDF
Luận văn: Quản lý Nhà nước đối với người có công với cách mạng
PDF
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể tại tp HCM
PDF
Luận văn: Pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ, HAY
DOC
Báo cáo: Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại xã Bu khánh
PDF
Luận văn:Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông
PDF
Luận văn: Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới, HAY
PDF
Luận văn: Hoạt động công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần người có...
PDF
Luận văn: Giải quyết khiếu nại tại TP Quảng Ngãi, HOT
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên ở đô thị
Luận văn: Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã tỉnh Kiên Giang
Đề tài: Đánh giá chất lượng cán bộ quản lý công ty bao bì, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Ban Tiếp công dân, HOT
Luận văn: Hoạt động của Văn phòng UBND TP Vinh, HAY
Đề tài: Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại Xã Iakrel, Đức Cơ, Gia...
LV: Hoạt động công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe người có công, HAY!
Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của người nộp thuế
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tư pháp
Luận văn: Việc làm cho thanh niên nông thôn Hà Nội, HOT
Luận văn: Lao động và việc làm trong thời kì công nghiệp hóa
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã tại huyện Phù Cát
Luận văn: Quản lý Nhà nước đối với người có công với cách mạng
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể tại tp HCM
Luận văn: Pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ, HAY
Báo cáo: Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại xã Bu khánh
Luận văn:Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông
Luận văn: Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới, HAY
Luận văn: Hoạt động công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần người có...
Luận văn: Giải quyết khiếu nại tại TP Quảng Ngãi, HOT
Ad

Similar to Đề tài: Công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ (20)

DOCX
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng ở đô thị - từ thực tiễn Qu...
PDF
Đề tài: Quản lý về công tác thanh niên tỉnh Thừa Thiên Huế, HOT
PDF
Luận văn: Pháp luật về quản lý công chức cấp xã tại Huế, HAY
PDF
VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG TRỢ GIÚP NGƯỜI NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN...
PDF
Luận văn: Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang
PDF
Đề tài: Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã tại Kiên Giang, HOT
PDF
Luận văn: Dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi, HAY
PDF
Chăm sóc sức khỏe người có công với cách mạng tại huyện Chiêm Hòa
PDF
Đề tài: Năng lực thực hiện pháp luật của cán bộ xã tỉnh Phú Yên
PDF
Luận văn: Hoạt động của Ban Tiếp công dân tỉnh Bình Thuận, HAY
PDF
Đề tài: Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông tại Ủy ban...
PDF
Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông, HAY
DOCX
Thể chế đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp huyện - từ thực tiễn huyện Phú Xuyên...
PDF
Luận văn: Năng lực thực thi công vụ công chức tại Huế, HOT
PDF
Luận văn:Nguồn nhân lực chất lượng cao cho cơ quan chuyên môn
DOCX
Dịch vụ công tác xã hội với người cao tuổi tại trung tâm công tác xã hội
PDF
Đề tài: Chính sách phát triển nguồn nhân lực CHDCND Lào, HAY
DOCX
Thể chế đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp huyện - từ thực tiễn huyện Phú Xuyên...
PDF
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi
PDF
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng ở đô thị - từ thực tiễn Qu...
Đề tài: Quản lý về công tác thanh niên tỉnh Thừa Thiên Huế, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản lý công chức cấp xã tại Huế, HAY
VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG TRỢ GIÚP NGƯỜI NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN...
Luận văn: Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang
Đề tài: Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã tại Kiên Giang, HOT
Luận văn: Dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi, HAY
Chăm sóc sức khỏe người có công với cách mạng tại huyện Chiêm Hòa
Đề tài: Năng lực thực hiện pháp luật của cán bộ xã tỉnh Phú Yên
Luận văn: Hoạt động của Ban Tiếp công dân tỉnh Bình Thuận, HAY
Đề tài: Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông tại Ủy ban...
Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông, HAY
Thể chế đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp huyện - từ thực tiễn huyện Phú Xuyên...
Luận văn: Năng lực thực thi công vụ công chức tại Huế, HOT
Luận văn:Nguồn nhân lực chất lượng cao cho cơ quan chuyên môn
Dịch vụ công tác xã hội với người cao tuổi tại trung tâm công tác xã hội
Đề tài: Chính sách phát triển nguồn nhân lực CHDCND Lào, HAY
Thể chế đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp huyện - từ thực tiễn huyện Phú Xuyên...
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Ad

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

DOC
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
DOC
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
DOC
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
DOC
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
DOC
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
DOC
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
DOC
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
DOC
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
DOC
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
DOC
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
DOC
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
DOC
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
DOC
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
DOC
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
DOC
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
DOC
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
DOC
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
DOC
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
DOC
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
DOC
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...

Recently uploaded (20)

PDF
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 5 năm 2025 - 2026 theo 10 chủ điểm
PPTX
Bài 02. bệnh da do nhiễm ký sinh trùng .pptx
PPTX
Hoc-thuyet-Am-Duong-Triet-ly-and-Ung-dung-trong-djoi-songá1.pptx
PDF
HỆ THỐNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM LỊCH SỬ 12 THEO TỪNG CHUYÊN ĐỀ NĂM 2026 (BẢN HS+...
DOC
Sáng kiến Sử dụng phần mền Kahoot để dạy học môn Toán 8 nhằm phát triển năng ...
PPTX
Bản có thể hoàn thiện - sửa gần xong.pptx
PPTX
bai thuyet trinh Presentation-PPNCKH.pptx
PDF
BỆNH VẨY NẾN do tổn thương cơ bản -2025.pdf
DOCX
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PDF
module_tieuhoa_Xét nghiệm hoá sinh ganp4_3XlS2ps.pdf
PDF
Suy tim y khoa, dược, y học cổ truyền mới
PDF
1. BỆNH VI NẤM CẠN do nhiễm ký sinh .pdf
PDF
CHUONG 3. KỸ THUẬT THIẾT KẾ THÔNG ĐIỆP QUẢNG CÁO
PPTX
Chương 4: Vận dụng tư tưởng HCM Vào công tác xây dựng Đảng và Nhà nước
PPTX
843357982-Nhom-8-Điển-Cố-Trong-Thơ-Chữ-Han-Của-Nguyễn-Khuyến.pptx
PDF
VIOLYMPIC TOÁN LỚP 5 NĂM 2025 - 2026 TỪ VÒNG 1 ĐẾN VÒNG 10
PPTX
Hóa-polyme cao su dại học bách khoa hà nội
PDF
Bệnh nhiễm ký sinh trùng LẬU ca-2025.pdf
PPTX
CHƯƠNG MỞ ĐẦU Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
PPTX
Biện-pháp-tránh-thai _ tiền lâm sàng sản khoa
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 5 năm 2025 - 2026 theo 10 chủ điểm
Bài 02. bệnh da do nhiễm ký sinh trùng .pptx
Hoc-thuyet-Am-Duong-Triet-ly-and-Ung-dung-trong-djoi-songá1.pptx
HỆ THỐNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM LỊCH SỬ 12 THEO TỪNG CHUYÊN ĐỀ NĂM 2026 (BẢN HS+...
Sáng kiến Sử dụng phần mền Kahoot để dạy học môn Toán 8 nhằm phát triển năng ...
Bản có thể hoàn thiện - sửa gần xong.pptx
bai thuyet trinh Presentation-PPNCKH.pptx
BỆNH VẨY NẾN do tổn thương cơ bản -2025.pdf
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
module_tieuhoa_Xét nghiệm hoá sinh ganp4_3XlS2ps.pdf
Suy tim y khoa, dược, y học cổ truyền mới
1. BỆNH VI NẤM CẠN do nhiễm ký sinh .pdf
CHUONG 3. KỸ THUẬT THIẾT KẾ THÔNG ĐIỆP QUẢNG CÁO
Chương 4: Vận dụng tư tưởng HCM Vào công tác xây dựng Đảng và Nhà nước
843357982-Nhom-8-Điển-Cố-Trong-Thơ-Chữ-Han-Của-Nguyễn-Khuyến.pptx
VIOLYMPIC TOÁN LỚP 5 NĂM 2025 - 2026 TỪ VÒNG 1 ĐẾN VÒNG 10
Hóa-polyme cao su dại học bách khoa hà nội
Bệnh nhiễm ký sinh trùng LẬU ca-2025.pdf
CHƯƠNG MỞ ĐẦU Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
Biện-pháp-tránh-thai _ tiền lâm sàng sản khoa

Đề tài: Công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ THỊ DIỆU KHÁNH CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG PHÁP LỆNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN – TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ THỊ DIỆU KHÁNH CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG PHÁP LỆNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN – TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG Mã số: 60 34 04 03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ ĐỨC ĐÁN THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận văn “Công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn – từ thực tiễn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình ” là công trình nghiên cứu của bản thân tôi và chưa từng công bố ở bất kỳ nơi nào. Mọi sự giúp đỡ để hoàn thiện đề tài này đã được cảm ơn đầy đủ, các thông tin trích dẫn trong đề tài nghiên cứu này điều đã được chỉ rõ nguồn gốc, trung thực. Thừa Thiên Huế, ngày 28 tháng 12 năm 2017 Học viên Lê Thị Diệu Khánh
  • 4. LỜI CẢM ƠN Để thực hiện và hoàn thành đề tài luận văn này ngoài sự nổ lực,cố gắng của bản thân tôi đã nhận được nhiều sự hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện của thầy cô, các cơ quan, đồng nghiệp, bạn bè và người thân. Trước hết tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS Vũ Đức Đán người hướng dẫn khoa học trực tiếp, đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Tôi xin trân trọng cảm ơn Cơ sở học viện hành chính quốc gia khu vực miền Trung, Khoa sau đại học – Học viện Hành chính quốc gia cùng toàn thể các thầy, cô giáo đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập tại trường. Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo và cán bộ, đồng nghiệp cơ quan Thành ủy Đồng Hới đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thiện luận văn này Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể lớp cao học Quản lý công HC20.T5- Cơ sở Học viện Hành chính quốc gia khu vực miền Trung, các đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ, cổ vũ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tuy đã nhiều cố gắng, nhưng trong luận văn này không tránh khỏi những tồn tại, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và những người quan tâm để đề tài được hoàn thiện hơn./. Trân trọng cảm ơn! Học viên Lê Thị Diệu Khánh
  • 5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU....................................................................................................................1 Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN..................................9 1.1. Cơ sở lý luận về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn...........................................................................................9 1.1.1. Những khái niệm liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài........9 1.1.2. Sự cần thiết phải công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở..............................................................................................................16 1.2. Cơ sở pháp lý về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.........................................................................................18 1.2.1. Căn cứ pháp lý thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ................18 1.2.2. Nội dung công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền cấp xã theo pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.......................22 1.2.3. Hình thức công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền cấp xã theo pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.......................24 1.3. Những yếu tố tác động đến công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn .........................................................................26 1.3.1. Trình độ chuyên môn, phẩm chất, năng lực, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong thực hiện pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. ........................................................................27 1.3.2. Công tác tuyên truyền và tổ chức thực hiện của chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội cấp xã ......................................................................28 1.3.3. Hệ thống pháp luật, chế tài xử lý.....................................................29 1.3.4. Địa bàn dân cư, trình độ dân trí, nhận thức của người dân..............30
  • 6. Kết luận chương 1 ................................................................................................. 32 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG PHÁP LỆNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TẠI THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH.................... 33 2.1. Các yếu tố tác động đến quá trình thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình........................................................................................33 2.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý, tự nhiên........................................................33 2.1.2. Đặc điểm kinh tế- xã hội .................................................................34 2.1.3. Về đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ..............................................36 2.1.4. Tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước ở địa phương - chủ thể thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ......................................................................................................38 2.2. Tổ chức triển khai và kết quả thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình........................................................................................ 43 2.2.1. Tổ chức chỉ đạo triển khai thực hiện pháp lệnh ...............................43 2.2.2. Hình thức tổ chức thực hiện..............................................................46 2.2.3. Nội dung thực hiện..........................................................................50 2.3. Đánh giá kết quả thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình .......................................................................................................... 77 2.3.1. Ưu điểm ..........................................................................................77 2.3.2. Hạn chế...........................................................................................82 2.3.3. Nguyên nhân của những kết quả đạt được.......................................85 2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế.....................................................85 Kết luận chương 2 ................................................................................................. 89
  • 7. Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG PHÁP LỆNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN.................................................................. 90 3.1. Phương hướng thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn ............................................................90 3.1.1. Phương hướng chung ......................................................................90 3.1.2. Phương hướng tăng cường sự công khai, minh bạch trong thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của địa phương..........93 3.2. Giải pháp đẩy mạnh thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn ....................................................94 3.2.1. Giải pháp chung ..............................................................................94 3.2.2. Giải pháp cho thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình .................. 109 Kết luận chương 3 ............................................................................................... 111 KẾT LUẬN.......................................................................................................... 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 8. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CNXH : Chủ nghĩa xã hội MTTQ : Mặt trận Tổ quốc Nxb : Nhà xuất bản UBTVQH : Ủy ban Thường vụ Quốc hội XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 9. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Tình hình đội ngũ cán bộ, công chức các xã, phường trên địa bàn thành phố Đồng Hới theo độ tuổi...................................................................................... 36 Bảng 2.2: Đánh giá về mức độ công khai 11 nội dung cần phải công khai cho nhân dân biết theo quy định của pháp lệnh 34 ....................................................... 69 Bảng 2.3. Đánh giá mức độ minh bạch của chính quyền cấp xã trong thực hiện pháp lệnh 34............................................................................................................. 76
  • 10. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận văn Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, là mục tiêu và động lực phát triển xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng đó mà Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu cao nhất, đồng thời là động lực to lớn của cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, chúng ta phải phát huy nội lực là chính, đồng thời hợp tác quốc tế có hiệu quả để tiến hành thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nội lực quan trọng nhất là con người, là nhân dân với tất cả sức mạnh vật chất và ý chí, trí tuệ của mình. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là tạo ra nguồn lực dồi dào vô tận ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” [24, tr.249]. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định “Tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân...Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở ”[13, tr.169]. Trong hệ thống chính quyền địa phương, chính quyền cấp xã (phường, thị trấn) giữ một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng vì đây là nơi trực tiếp tổ chức, vận động nhân dân thi hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao. Xã là cấp hành chính
  • 11. 2 gần dân nhất và làm việc thường xuyên với người dân nhất. Đây cũng chính là cấp chính quyền trực tiếp chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân và nhà nước. Phát huy những kết quả đạt được của các chỉ thị, kết luận của Đảng, nghị định của Chính phủ trước đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XI đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH, ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, đây là văn bản pháp luật quan trọng thể chế hoá phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngay từ cơ sở. Quá trình triển khai thực hiện đến nay đã tạo được sự chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực. Nhân dân quan tâm hơn đến công việc của chính quyền, nhiều thắc mắc, bức xúc trong nhân dân được các cấp, các ngành giải quyết tốt hơn, nhân dân cũng nhận thức đầy đủ hơn về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp được phát huy. Từ đó tạo được không khí dân chủ, khơi dậy và phát huy tốt các nguồn lực trong nhân dân tham gia phát triển kinh tế góp phần giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Tuy vậy, việc triển khai thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn mà nhất là công khai, minh bạch trong thực hiện Pháp lệnh trên địa bàn thành phố Đồng Hới trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế, một số nơi những việc mà chính quyền phải công khai, minh bạch với nhân dân chưa được thực hiện đầy đủ, còn hình thức, thiếu cụ thể; việc công khai, minh bạch trong sử dụng nguồn vốn huy động từ nhân dân, mức giá đền bù, thu hồi giải phóng mặt bằng, công khai một số thủ tục hành chính mới chỉ tập trung tại nơi đón tiếp công dân, dẫn đến tình trạng người dân không biết các quy trình thủ tục liên quan, một số cán bộ, công chức còn nhũng nhiễu, gây phiền hà hoặc lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân để làm sai, trục lợi cá nhân, UBND các xã, phường chưa làm báo cáo HĐND cùng cấp về quá trình
  • 12. 3 và kết quả thực hiện các nội dung công khai…vì thế phần nào làm ảnh hưởng đến quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân trong các hoạt động ở cơ sở. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thì tính công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý là lẽ đương nhiên, cũng có thể coi là lẽ sống, nguồn sức mạnh của bộ máy công quyền. Công khai, minh bạch trước hết là nhằm bảo đảm bản chất dân chủ của xã hội, thể hiện quyền của người dân trong việc tham gia quản lý nhà nước. Công khai, minh bạch cũng là một giải pháp rất quan trọng để khắc phục tệ quan liêu tham nhũng, làm trong sạch bộ máy quản lý và cũng là điều kiện không thể thiếu để bộ máy nhà nước tiếp thu trí tuệ của dân đóng góp cho các hoạt động quản lý. Hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh cải cách hành chính, hướng đến một nền hành chính gần dân hơn phục vụ tốt yêu cầu của nhân dân, chúng ta đang có nhiều biện pháp để huy động sự tham gia của người dân vào hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, đẩy mạnh phân quyền cho chính quyền địa phương, tiếp tục công khai, minh bạch trong quản lý hành chính nhà nước. Thực hiện tốt việc công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở không những góp phần củng cố kiện toàn tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, không chỉ là giải pháp để hạn chế sự tha hoá quyền lực, chống lại tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước mà nó còn khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của quần chúng lao động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của toàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn - từ thực tiễn thành phố Đồng
  • 13. 4 Hới, tỉnh Quảng Bình” làm nội dung nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp bậc cao học của mình là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Vấn đề dân chủ nói chung và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng là chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa đột phá để giải quyết nhiều vấn đề bức xúc liên quan đến quyền làm chủ của nhân dân, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở. Xuất phát từ tầm quan trọng đó mà từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những cấp độ khác nhau được công bố thể hiện qua sách chuyên khảo, bài báo khoa học, luận án…Một số nghiên cứu tiêu biểu như: - GS, TS. Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tiến trình đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nội dung của cuốn sách nêu bật tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là dân chủ cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay; quan hệ giữa thể chế chính thống và phi chính thống trong việc củng cố, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn; tác động của quy chế dân chủ ở cơ sở đối với việc thực hiện xóa đói giảm nghèo ở nông thôn từ góc nhìn đánh giá chính sách; tâm lý làng xã trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở và tăng cường văn hóa pháp luật ở nông thôn đồng bằng bắc bộ; những hạn chế, yếu kém trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở trong thời gian qua, đồng thời đề xuất những giải pháp khắc phục nhằm góp phần thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội. - Nguyễn Phú Trọng (2011), Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội. Cuốn sách bao gồm một số bài nói, bài viết, trả lời phỏng vấn báo chí,... được chọn lọc của đồng chí liên quan đến chủ đề này. Nhiều bài nói và viết của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc
  • 14. 5 hội Nguyễn Phú Trọng đi sâu đánh giá, phân tích nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá trình phát huy dân chủ, đổi mới hoạt động của Quốc hội, hoạt động lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, các tổ chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, công đoàn, phụ nữ, thanh thiếu niên,… trong hệ thống chính trị, đối ngoại, nhằm xây dựng Nhà nước Việt Nam ngày càng trong sạch, vững mạnh. - PGS, TS.Lê Minh Quân (2011), Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, cuốn sách gồm có 9 chương. Trên cơ sở tìm hiểu các quan niệm và khái niệm lý thuyết và mô hình dân chủ hóa, những yếu tố tác động và quá trình dân chủ hóa trên thế giới, cuốn sách phân tích nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình dân chủ hóa XHCN ở nước ta hiện nay. Tác giả đã phân tích làm rõ dân chủ luôn là ước vọng của con người trong mọi thời đại. Nó cần như cơm ăn, áo mặc, nước uống hằng ngày. Dân chủ là thước đo chất lượng cuộc sống văn minh xã hội và năng lực quản lý của một nhà nước và trở thành mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới. - TS. Nguyễn Minh Tuấn, “Các hình thức dân chủ và việc mở rộng dân chủ ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2014. Bài viết đã phân tích làm rõ hai hình thức dân chủ cơ bản là dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, những ưu điểm và hạn chế của những hình thức này, đồng thời đánh giá thực trạng cũng như chỉ ra phương hướng mở rộng dân chủ ở Việt Nam hiện nay. - Bên cạnh đó, trong những năm gần đây có một số luận văn cao học chuyên ngành Quản lý hành chính công nghiên cứu về vấn đề này ở địa bàn cấp huyện và cấp tỉnh như: “Thực hiện dân chủ cơ sở ở tỉnh Bắc Giang -Thực trạng và giải pháp” của tác giả Bùi Thị Hạnh (khóa 11, năm 2009); “ Tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã – Từ thực tiễn huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh”
  • 15. 6 của tác giả Vũ Thị Nhung (khóa 13, năm 2011); “Thực hiện nội dung công khai theo pháp lệnh về dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại Huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế” của tác giả Hoàng Văn Thái (khóa 17, năm 2015). Dưới góc độ khoa học, có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu nêu trên là hết sức có giá trị vì đã cố gắng làm rõ bản chất, nội dung, tính chất và cơ chế thực hiện dân chủ và dân chủ ở cơ sở. Các tác giả cũng đã chỉ ra phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay. Tuy vậy, đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu một cách chuyên biệt và toàn diện về “công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn - từ thực tiễn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình” dưới góc độ khoa học quản lý công. Với kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm về dân chủ và thực hiện tốt hơn vấn đề công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cấp xã đáp ứng với yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận và thực tiễn phân tích, đánh giá làm rõ việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn - từ thực tiễn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; từ đó đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện nội dung công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong giai đoạn hiện nay. 3.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu + Nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. + Nghiên cứu, khảo sát, điều tra xã hội học việc thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa
  • 16. 7 bàn 16 xã, phường thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình từ đó làm sáng tỏ, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng thực hiện công khai, minh bạch trên địa bàn thành phố thời gian qua. + Đề xuất phương hướng và một số giải pháp đẩy mạnh thực hiện nội dung công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là việc thực hiện công khai, minh bạch của chính quyền cơ sở trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu kết quả việc thực hiện các nội dung mà chính quyền cấp xã phải công khai, minh bạch trước nhân dân trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ xã, phường, thị trấn tại 16 xã, phường trên địa bàn thành phố Đồng Hới từ năm 2008 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1 Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ cũng như các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. 5.2. Phương pháp nghiên cứu
  • 17. 8 Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp nghiên cứu, tham khảo tài liệu, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp phân tích-tổng hợp, phương pháp thống kê - so sánh, phương pháp tổng kết kinh nghiệm. Đồng thời, sử dụng số liệu của một số báo cáo có liên quan đến đề tài luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở trọng tâm là việc thực hiện công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. - Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng việc thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; khắc phục những hạn chế, tồn tại trong thời gian qua. Đồng thời, có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn liên quan đến công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Nội dung của luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp lý về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Chương 2: Thực trạng việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Chương 3: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh thực hiện nội dung công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
  • 18. 9 Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN 1.1. Cơ sở lý luận về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn 1.1.1. Những khái niệm liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài 1.1.1.1.Khái niệm dân chủ Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “demos”, nghĩa là nhân dân và người “kratos” - chính quyền, quyền lực. “DemoKratia” có nghĩa là quyền lực của nhân dân, chính quyền của nhân dân. Dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách quan của con người. Tư tưởng về dân chủ đã hình thành từ thời cổ đại, bắt đầu phát triển khi xã hội có giai cấp và có hiện tượng áp bức bóc lột giữa các giai cấp, đồng thời với việc xuất hiện nhà nước. Khi bàn về dân chủ có rất nhiều định nghĩa khác nhau, do cách thức tiếp cận, mục đích tiếp cận khác nhau: Theo từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: "Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định"[44, tr. 653]. Theo Hồ Chủ tịch: Dân chủ có nghĩa dân là chủ và dân làm chủ. Là chủ biểu hiện vị thế xã hội, tính tích cực chính trị và địa vị pháp lý của người dân. Làm chủ, đó là hành động của dân, biểu hiện năng lực thực hành dân chủ, thước đó về trình độ phát triển ý thức của người dân với tư cách là chủ thể của
  • 19. 10 quyền lực, thực hiện sự ủy quyền chân chính của mình vào thể chế chính trị và thể chế nhà nước. Khái niệm dân chủ một cách chung nhất: “dân chủ là một hình thức chính trị - nhà nước của xã hội”, mà đặc trưng của nó là chính quyền nhà nước thuộc về nhân dân, biểu hiện bằng việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực, chủ thể của quyền lực và nhà nước dân chủ là nhà nước thừa nhận và bảo đảm các quyền tự do, bình đẳng của công dân, các quyền này phải được quy định cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật của nhà nước. Dân chủ là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, có nội dung rộng lớn và luôn luôn mới, gắn với những tiến bộ về lịch sử và văn hóa của loài người. Để hiểu rõ bản chất, nội dung và tính chất của dân chủ, phải xem xét nó dưới nhiều góc độ, khía cạnh: là phương thức của phong trào chính trị xã hội của quần chúng; là hình thức nhà nước, hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực xã hội; là một hệ thống quyền hành, tự do và trách nhiệm của công dân được quy định bởi hiến pháp và pháp luật; là nguyên tắc tổ chức toàn thể xã hội và với tư cách là một chế độ chính trị. Dân chủ có vị thế quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, dân chủ chỉ có thể được xác lập và thể chế hóa trong điều kiện lịch sử nhất định. Hiệu quả phát huy dân chủ là tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể, chịu tác động bởi tính giai cấp, tính lịch sử, đặc điểm truyền thống dân tộc, tính chất thời đại, v.v… Quá trình phát triển của dân chủ diễn ra như là một dòng chảy liên tục trong lịch sử, rất sinh động và phức tạp. Qua mỗi thời đại, mỗi hình thái kinh tế - xã hội, khái niệm “dân chủ” ngày càng được triển khai phong phú hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, từ quy mô đến nhận thức, hành vi con người, các cộng đồng xã hội và hoạt động của nhà nước. Quá trình ấy đã được khái quát
  • 20. 11 thành những hình thức và được biểu đạt bằng các khái niệm khoa học, như: dân chủ đại diện (representative democracy), dân chủ gián tiếp (lndirect democracy), dân chủ trực tiếp (direct democracy), dân chủ tham gia (participatory democracy), dân chủ thảo luận (deliberative democracy), dân chủ cơ sở (grassroots democracy)… 1.1.1.2. Khái niệm dân chủ cơ sở và thực hiện dân chủ ở cơ sở Cơ sở là thành tố, là đơn vị nhỏ nhất trong cấu trúc của một hệ thống các sự vật, hiện tượng. Theo nghĩa rộng cơ sở là các đơn vị xã hội nhỏ nhất mà nhân dân tổ chức nên. Theo nghĩa hẹp cơ sở là cấp chính quyền cuối cùng trong hệ thống chính quyền nhà nước. Hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, được tổ chức thành 4 cấp: cấp trung ương, tỉnh, huyện và cấp xã (xã, phường, thị trấn) hay còn gọi là cấp cơ sở. Như vậy, cơ sở (xã, phường, thị trấn) là cấp chính quyền thấp nhất trong hệ thống chính quyền nhà nước, nhưng có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta vì cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Đặc biệt chính quyền cơ sở là nền tảng hành chính, sát dân, gần dân nhất, cấp chính quyền này ở ngay trong lòng dân, là địa chỉ quan trọng nhất của đường lối, chính sách và pháp luật để Đảng và Nhà nước có thể kiểm nghiệm các chính sách, đường lối, chủ trương của mình một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất, sát với tình hình thực tế để khắc phục được bệnh chủ quan, duy ý chí, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa chính quyền với nhân dân. Cấp cơ sở còn là nơi cung cấp nguồn lao động cho xã hội, nơi thực hiện một cách rộng rãi và trực tiếp nhất quyền làm chủ của nhân dân; vừa là cầu nối giữa dân với Đảng với Nhà nước, vừa là nơi quyết định trực tiếp việc thực hiện các
  • 21. 12 chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; đồng thời cơ sở còn là nơi trực tiếp giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc. Xuất phát từ vị trí và vai trò quan trọng của cơ sở, do đó Đảng ta chủ trương tiếp tục phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là ở cơ sở. Từ đó rút ra, dân chủ cơ sở là quá trình hiện thực hóa các quy định của pháp luật về dân chủ trong đời sống xã hội nhằm đảm bảo cho các quyền cơ bản của công dân được thực thi trong thực tế. Thực hiện dân chủ ở cơ sở là việc thừa nhận và thực hiện thường xuyên các quyền làm chủ của công dân; tăng cường tính cộng đồng trách nhiệm giữa nhà nước và công dân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân ở cấp cơ sở. Thực tế cho thấy dân chủ ở cơ sở không phải là một hình thức dân chủ mà là cấp độ thực hiện dân chủ thông qua hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Nhà nước là cơ quan đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Song Nhà nước không thể hiểu hết được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân ở các vùng miền địa phương với những đặc điểm về điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán khác nhau. Do đó, phát huy và mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân đến tận cơ sở nhằm đảm bảo quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân, vừa phát huy tính sáng tạo, trí tuệ của nhân dân trong xây dựng và thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, phát huy và mở rộng việc thực hiện dân chủ ở cơ sở là góp phần khắc phục bệnh quan liêu, chống lại những hiện tường và hành vi phản dân chủ phát sinh trong quá trình hoạt động của bộ máy công quyền.
  • 22. 13 1.1.1.3. Khái niệm công khai trong thực hiện dân chủ cơ sở Công khai là một khái niệm có tính lịch sử mà sự ra đời, phát triển của nó là tiền đề, là điều kiện tiên quyết của sự dân chủ trong các hoạt động của xã hội loài người. Trong tiếng Anh, công khai là “Transparency”. Theo sách Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh thì công khai là "không giấu diếm, bí mật mà cho mọi người cùng biết" [57, tr.346]. Trong hoạt động quản lý nhà nước, công khai nghĩa là mọi hoạt động của nhà nước phải được công bố hoặc phổ biến, truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm cho mọi người dân có thể tiếp cận được các quyết định của nhà nước một cách dễ dàng. Trên tinh thần đó, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2012) đưa ra khái niệm: “Công khai là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị công bố, cung cấp thông tin chính thức về văn bản, hoạt động hoặc về nội dung nhất định” (Điều 2, khoản 2). Công khai trong thực hiện dân chủ cơ sở là việc chính quyền địa phương (các xã, phường, thị trấn) có trách nhiệm công bố, cung cấp thông tin chính thức, kịp thời trước nhân dân các quy định về trình tự, thủ tục hành chính, các văn bản liên quan đến các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.... theo quy định của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. 1.1.1.4. Khái niệm minh bạch trong thực hiện dân chủ cơ sở Minh bạch là một khái niệm khá trừu tượng. Để đo lường tính minh bạch của một công việc hết sức khó khăn. Nhiều người vẫn thường hiểu minh bạch đồng nghĩa với công khai. Thực ra khái niệm minh bạch là một khái niệm rộng hơn, nó bao gồm cả cơ hội, tính bình đẳng trong tiếp cận thông tin, tính tin cậy, nhất quán của thông tin, tính dự đoán trước được và sự cởi mở của cơ
  • 23. 14 quan cung cấp thông tin. Ẩn chứa trong khái niệm ‘minh bạch’ là sự thoáng đạt, tự do thông tin và trách nhiệm giải trình. Một tổ chức có thể được mô tả là “minh bạch” nếu quản lý chủ trương truyền đạt thông tin chuẩn xác về tổ chức của họ cho công chúng. Theo sách Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh thì minh bạch là "sáng rõ, rành mạch" [57, tr.1037]. Minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước nghĩa là không những phải công khai mà còn phải trong sáng, không khuất tất, không rắc rối, không gây khó khăn cho công dân trong tiếp cận thông tin. Trong quản lý nhà nước tính minh bạch là điều kiện tiên quyết để hành chính nhà nước thực sự trước nhân dân và nâng cao khả năng dự báo của người dân. Nếu không minh bạch sẽ dẫn đến sự tùy tiện hoặc sai lầm, dẫn đến quan liêu, tham nhũng. Minh bạch là nhằm đảm bảo dân chủ trong xã hội, là quyền của người dân trong tham gia quản lý tổ chức, nhà nước, đồng thời cũng là yếu tố cần thiết để xây dựng một nền hành chính cởi mở, có trách nhiệm và là một giải pháp quan trọng để ngăn chặn được tham nhũng, quan liêu. Quá trình thực hiện minh bạch và trách nhiệm giải trình không hề dễ dàng và gặp nhiều trở ngại nhưng nếu nhà nước, tổ chức và mỗi công dân hiểu rõ sự cần thiết của minh bạch thì sẽ tìm ra giải pháp để thực hiện. Minh bạch trong thực hiện dân chủ cơ sở là việc chính quyền địa phương (xã, phường, thị trấn) phải cung cấp thông tin một cách rõ ràng, rành mạch, không khuất tất trước nhân dân về những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của người dân được quy định trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và có trách nhiệm giải trình trước nhân dân về những vấn đề mà nhân dân quan tâm
  • 24. 15 1.1.1.5. Mối quan hệ giữa công khai, minh bạch và dân chủ trong thực hiện dân chủ cơ sở. Công khai, minh bạch và dân chủ là những phạm trù khác nhau, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau và phải được thực hiện dựa trên cơ sở chấp hành đúng quy định của pháp luật. Dân chủ tốt là cơ sở và là điều kiện để công khai, minh bạch. Công khai, minh bạch là biện pháp quan trọng để thực hiện dân chủ. Trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Đảng ta đã khẳng định dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, người dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Mọi quyết định quản lý của Nhà nước đều phải công khai, minh bạch. Công khai đúng nguyên tắc trong hoạt động quản lý nhà nước đảm bảo cho các hoạt động quản lý nhà nước diễn ra đúng trong khuôn khổ pháp luật, cơ quan nhà nước nắm được các ý kiến nguyện vọng của nhân dân để xem xét giải quyết kịp thời. Đồng thời, tạo điều kiện để nhân dân hiểu hơn các chính sách, vụ việc liên quan đến công vụ của các cơ quan nhà nước hoặc cá nhân cán bộ, công chức; những quyền của mình được làm, được bàn, được quyết định và những việc không được làm từ đó ý thức pháp quyền của nhân dân được nâng cao, nhân dân hiểu và tôn trọng pháp luật hơn, tích cực đấu tranh khắc phục những hiện tượng tiêu cực, mất dân chủ, vi phạm pháp luật của cán bộ, đảng viên và chính quyền cơ sở. Bên cạnh đó nó còn phát huy dân chủ động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia ý kiến vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, khai thác tiềm năng, huy động trí tuệ và các nguồn lực cho đầu tư, phát triển tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để nhân dân bàn việc, giải quyết những mâu thuẫn nội bộ. Nhiều vụ việc bức xúc được đưa ra thảo luận,
  • 25. 16 giải quyết ổn thỏa, xây dựng địa bàn không có tội phạm, đẩy lùi các tệ nạn tiêu cực, giữ vững kỷ cương, an ninh, trật tự. Ngược lại nếu không thực hiện tốt công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền chắc chắn sẽ dẫn đến hệ quả đội ngũ cán bộ, công chức quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng, vi phạm pháp luật, xâm hại lợi ích chính đáng của nhân dân. Sẽ làm phát sinh những điểm nóng, xảy ra những tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữa một bộ phận dân cư này với một bộ phận dân cư khác, hoặc giữa nhân dân với chính quyền cơ sở. 1.1.2. Sự cần thiết phải công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở Công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước xuất phát từ một trong những quan điểm quan trọng có tính nguyên tắc của nhà nước pháp quyền là làm cho nhà nước ta trở thành nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Yêu cầu này bắt nguồn từ nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nguyên tắc này yêu cầu những quy trình, phương thức, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong hệ thống các cơ quan nhà nước cần hướng tới phục vụ nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Tại Điều 2, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Để đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, việc xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi hoạt động của bộ máy nhà nước phải được công khai, minh bạch để “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, trong hoạt động của bộ máy nhà nước bao gồm Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp và chính quyền địa phương: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
  • 26. 17 các cấp phải đáp ứng những yêu cầu là chống lại tác phong quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân; chống lại mọi biểu hiện của tệ hối lộ, tham nhũng; thực hiện công vụ đúng với thẩm quyền và chức vụ được trao; bảo đảm và tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào các công việc quản lý nhà nước; bảo đảm điều kiện để nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đối với cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước. Công khai, minh bạch là yêu cầu của nền dân chủ và được coi là một trong bốn nguyên tắc “cột trụ” để đảm bảo hoạt động quản lý nhà nước tốt [38, tr.638]. Theo đó người dân có quyền được biết về các chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Hiệu quả quản lý nhà nước thể hiện thông qua các chính sách ở tầm vĩ mô và sự điều hành cụ thể của hệ thống các cơ quan nhà nước. Tính công khai, minh bạch của hệ thống các cơ quan nhà nước là yêu cầu hàng đầu trong hoạt động quản lý nhà nước trong bối cảnh xã hội thông tin. Trong thời đại ngày nay cho phép khả năng truy cập và trao đổi giữa các cá nhân với nhau trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn bao giờ hết và là động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa. Trong tình hình đó, nhà nước không thể khép kín phạm vi hoạt động của mình trong nội bộ các cơ quan mà phải mở rộng phạm vi thông tin đến các đối tượng có liên quan, đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Công khai, minh bạch tất cả các hoạt động của nhà nước là một xu hướng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Từ năm 2003 Việt Nam đã tham gia ký Công ước quốc tế về phòng chống tham nhũng. Công ước có nhiều quy định về nghĩa vụ minh bạch hóa của các quốc gia thành viên, như nghĩa vụ ban hành, duy trì và củng cố chế độ tuyển dụng, thuê, sử dụng công chức trên các nguyên tắc hiệu quả, minh bạch và tiêu chí khách quan (Điều 7); nghĩa vụ công khai, minh bạch trong thủ tục mua sắm công và quản lý tài chính công
  • 27. 18 (Điều 9); nghĩa vụ báo cáo công khai và tăng cường minh bạch trong quản lý hành chính công (Điều 10); nghĩa vụ tăng cường tính minh bạch trong các quy trình ra quyết định, đảm bảo cho công chúng được tiếp cận thông tin (Điều 13) [55]. Chính phủ mở, công khai đã làm cho công dân có điều kiện để biết được những công việc nhà nước làm. Xu hướng này phản ảnh một sự thay đổi quan trọng mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Sự thay đổi này không chỉ về vai trò của nhà nước đối với sự vận động phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là vai trò của nhà nước trong hoạt động cung cấp dịch vụ mà còn thể hiện vai trò của công dân đối với các loại hoạt động của nhà nước. Công khai, minh bạch là giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước nói chung và chính quyền cấp cơ sở nói riêng, là công cụ để nhân dân tham gia vào các hoạt động quản lý của nhà nước và là cơ sở để đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, là điều kiện cần thiết để mở rộng và phát huy dân chủ 1.2. Cơ sở pháp lý về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn 1.2.1. Căn cứ pháp lý thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn Dân chủ và thực hiện dân chủ là khát vọng lớn lao, là đòi hỏi bức xúc của con người, là một nhu cầu đặc biệt quan trọng mà con người mong muốn vươn tới; đồng thời, dân chủ cũng là một động lực quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển. Sự phát triển của dân chủ đánh dấu những nấc thang tiến bộ của xã hội loài người. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của dân chủ, ngay từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là một vấn đề hệ trọng, có ý nghĩa chiến lược sâu sắc đối với sự phát triển của đất nước. Ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ quan điểm về dân chủ trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam là “nước ta là nước
  • 28. 19 dân chủ, bao nhiêu lợi ich đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới và xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân” [HCM, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, 1996, t5, tr 698]. Đồng thời, Bác luôn đề cao vai trò quyết định của nhân dân đối với vận mệnh của đất nước, bởi dân là gốc của nước, của cách mạng. Người khẳng định: "Cho nên việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt" [Hồ Chí Minh: Sđd, t 12, tr 212]. Trên cơ sở quan điểm của Hồ Chủ tịch, trong bản Hiến pháp đầu tiên do Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946 đã khẳng định “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái, trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn giáo” [1]. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng định: việc mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới. Để dân chủ đi vào thực tế của đời sống xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ: muốn phát huy sức mạnh và sự sáng tạo vô địch của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải tạo ra được những thể chế, chủ trương, chính sách thích hợp để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi quyền làm chủ của người dân được tôn trọng và bảo đảm, sẽ tạo nên nền tảng, cơ sở vững chắc để các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện có hiệu quả trong thực tế. Muốn thực hiện được điều đó, việc dân chủ hóa mọi hoạt động của Đảng và của cả hệ thống chính trị nhằm tập hợp được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia quản lý các công việc của Nhà nước và xã hội, đóng góp trí tuệ và vật chất để xây dựng, bảo vệ đất nước sẽ là một quan điểm hết sức đúng đắn, sáng suốt. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đã được thể hiện trong nhiều văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và được thể chế thành pháp luật của Nhà nước.
  • 29. 20 Đồng thời, Đảng và Nhà nước cũng nhìn nhận thấy thực trạng yếu kém của hệ thống chính trị ở cơ sở và vấn đề mất dân chủ ở cơ sở diễn ra nghiêm trọng ở nhiều nơi, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, gây nên tình trạng mất an ninh và trật tự xã hội ở nhiều địa phương, vì vậy, ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta có một văn bản riêng về vấn đề này. Việc ban hành Chỉ thị số 30/CT-TW nhằm mục đích tiếp tục mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước; thực hiện tốt phương châm "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý, kiểm soát Nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng đang xảy ra ở nhiều nơi trên đất nước ta. Qua đó, nhằm xây dựng bộ máy chính quyền cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; góp phần to lớn vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ thị đã nêu rõ nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở; bởi đó là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, là nơi thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Trên cơ sở đó, ngay trong năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Ngày 7/7/2003, Chính phủ ra Nghị định số 79/NĐ-CP, ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, thay thế Nghị định số 29/1998/NĐ-CP. Ngày 18/4/2005 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ban hành Quy chế Giám sát đầu tư của cộng đồng. Ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Theo đó, Pháp lệnh quy định những nội
  • 30. 21 dung phải công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã. Như vậy, từ Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được cụ thể bằng Nghị định 29/NĐ-CP ngày 1/15/1998 và Nghị định số 79/NĐ-CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ, đến Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là những bước phát triển trong nhận thức về dân chủ cơ sở và quá trình thể chế hóa quan điểm đúng đắn, tư tưởng chiến lược của Đảng về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Từ khi triển khai thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đến nay đã đạt được những kết quả rất tích cực, điều kiện tiếp cận thông tin của người dân được cải thiện; việc thực hiện dân chủ rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực đã tạo điều kiện khuyến khích người dân tham gia thảo luận, góp ý kiến vào việc quyết định cũng như quá trình thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, kế hoạch xây dựng và phát triển ở địa phương; thúc đẩy những nỗ lực của mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực các phong trào hoạt động của địa phương như phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng quỹ vì người nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, phong trào xóa đói giảm nghèo và chống tái nghèo, chương trình xóa nhà tạm, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc; tích cực thực hiện các chủ trương xã hội hóa trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe cộng đồng...Quá trình thực
  • 31. 22 hiện dân chủ cơ sở giúp cho chất lượng dân chủ tại các hội nghị nhân dân được nâng lên với các nội dung thiết thực; đem lại hiệu quả rõ rệt trong giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân; động viên người dân tích cực tham gia phòng chống tội phạm và bài trừ tệ nạn xã hội…góp phần củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh, thúc đẩy nhanh tiến trình đổi mới, phát triển đất nước. Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu, tình trạng vi phạm dân chủ, hay dân chủ hình thức còn diễn ra ở không ít nơi. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở nhiều cơ sở làm thiếu nền nếp, hiệu quả chưa cao. Một số nơi hiện tượng vi phạm quyền dân chủ của người dân rất nghiêm trọng, gây bất bình trong nhân dân, làm giảm sút lòng tin đối với Đảng và Nhà nước. Vẫn còn những cán bộ hách dịch, cửa quyền, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, sống xa dân, tham ô, tham nhũng, lãng phí. 1.2.2. Nội dung công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền cấp xã theo pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn Điều 5 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở quy định 11 nội dung chính quyền cấp xã phải công khai cho nhân dân biết, đây là những nội dung liên quan trực tiếp đến người dân, gắn liền với quyền và lợi ích của nhân dân, được nhân dân quan tâm, bao gồm những nhóm nội dung chính sau: + Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của cấp xã. + Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã. + Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân.
  • 32. 23 + Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp. + Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế. + Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã. + Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm chủ tịch và phó chủ tịch HĐND, chủ tịch và phó chủ tịch UBND cấp xã. + Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này. + Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu. + Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện. + Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết. Song song với quy định những nội dung mà chính quyền cấp xã cần phải công khai cho dân biết, pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng yêu cầu chính quyền cần phải minh bạch trước nhân dân trong triển khai thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở thể hiện việc pháp lệnh quy định rõ chính quyền cấp xã cần minh bạch trong thu, chi ngân sách, nhất là việc sử dụng các nguồn ngân sách nhà nước và nguồn vốn huy động từ sự đóng góp
  • 33. 24 của người dân để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế xã hội, minh bạch trong giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến quyền và lợi ích của người dân; minh bạch trong việc thực hiện dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của cấp xã; trong đền bù giải phóng mặt bằng... Đồng thời pháp lệnh cũng nêu rõ nhân dân được quyền giám sát đối với chính quyền dưới 2 hình thức gián tiếp (thông qua Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng) và trực tiếp (thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Mặt trận Tổ quốc cấp xã, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng) về tất cả những nội dung phải công khai để nhân dân biết, những nội dung nhân dân bàn và quyết định, những nội dung cơ quan có thẩm quyền phải đưa ra lấy ý kiến nhân dân nhằm đảm bảo sự minh bạch của chính quyền trong thực hiện các công việc liên quan đến lợi ích chung của nhà nước và nhân dân. 1.2.3. Hình thức công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền cấp xã theo pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn - Điều 6 Pháp lệnh quy định rõ các hình thức công khai gồm: Niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã; công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã; công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân. Ngoài ra, nhằm tạo ra nhiều kênh thông tin để nhân dân nắm bắt rõ hơn việc công khai, Pháp lệnh còn quy định chính quyền cấp xã có thể áp dụng đồng thời nhiều hình thức công khai cho cùng một nội dung; thực hiện việc cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 32 của Luật phòng, chống tham nhũng: "Công dân có quyền yêu cầu Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú cung cấp thông tin về hoạt động của UBND xã, phường, thị trấn đó. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, người được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đã
  • 34. 25 được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu biết và nêu rõ lý do". Đối với những nội dung được nhân dân quan tâm nhất, liên quan trực tiếp nhất đến quyền lợi của nhân dân thì Pháp lệnh còn quy định bắt buộc phải được công khai bằng hình thức niêm yết tại trụ sở Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã trong thời gian chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày văn bản được thông qua, ký ban hành đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền cấp xã hoặc kể từ ngày nhận được văn bản đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên, bao gồm: + Các dự án, công trình đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã; Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu. Đối với các nội dung này, thời gian niêm yết là 30 ngày liên tục kể từ ngày niêm yết. + Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân; Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện. Đối với các nội dung này, thời gian niêm yết phải thường xuyên, liên tục. Ngoài ra, Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định cụ thể về công khai, minh bạch trong một số lĩnh vực mà thực tế cho thấy xảy ra nhiều hành vi tham nhũng, gây thất thoát lớn về tiền, tài sản của Nhà nước cũng như tồn tại nhiều sự phiền hà, sách nhiễu, đòi hối lộ từ phía công chức nhà nước như: Mua sắm công và xây dựng cơ bản (Điều 13); quản lý dự án đầu tư xây dựng
  • 35. 26 (Điều 14); tài chính và ngân sách nhà nước (Điều 15); huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân (Điều 16); quản lý, sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ (Điều 17); quản lý doanh nghiệp nhà nước (Điều 18); cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (Điều 19); kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước (Điều 20); lĩnh vực tài nguyên và môi trường (Điều 21); quản lý và sử dụng nhà ở (Điều 22); lĩnh vực giáo dục (Điều 23); lĩnh vực y tế (Điều 24); lĩnh vực khoa học – công nghệ (Điều 25); lĩnh vực thể dục, thể thao (Điều 26); lĩnh vực văn hoá thông tin, truyền thông (Điều 26a: được bổ sung năm 2012); lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn (Điều 26b: được bổ sung năm 2012); chính sách an sinh xã hội, chính sách dân tộc (Điều 26c, Điều 26d: được bổ sung năm 2012); thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán nhà nước (Điều 27); giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân: nhà đất, xây dựng, đăng ký kinh doanh , xét duyệt dự án, cấp vốn ngân sách, tín dụng, ngân hàng, xuất khẩu, nhập khẩu, nhập cảnh, quản lý hộ khẩu, thuế, hải quan, bảo hiểm và một số lĩnh vực khác (Điều 28); lĩnh vực tư pháp (Điều 29) và công tác tổ chức cán bộ (Điều 30). Đồng thời, nhằm đảm bảo thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đi vào thực chất hơn và tăng cường tính liêm chính trong hoạt động công vụ Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2013/NĐ-CP ngày 08/8/2013 quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Nhân dân giám sát hoạt động của chính quyền cấp xã thông qua các đại biểu dân cử, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng. 1.3. Những yếu tố tác động đến công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
  • 36. 27 1.3.1. Trình độ chuyên môn, phẩm chất, năng lực, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong thực hiện pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là những người giác ngộ và trực tiếp tuyên truyền đầy đủ, sâu sắc nội dung, mục đích, ý nghĩa của việc thực hiện công khai, minh bạch trong tất cả các hoạt động của nhà nước theo quy định của pháp luật nói chung và theo quy định của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và các văn bản liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng nói riêng đến với người dân; đồng thời, đội ngũ cán bộ, công chức cũng chính là người trực tiếp thực hiện các nội dung cần phải công khai, minh bạch của chính quyền cấp xã trước nhân dân theo quy định của pháp luật. Do vậy, để đảm bảo tất cả các thủ tục hành chính, các hoạt động trên các lĩnh vực của chính quyền cấp xã liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân đều được công khai, minh bạch thì đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải có trình độ chuyên môn vững vàng, nhất là đối với cán bộ, công chức làm việc ở những lĩnh vực dễ phát sinh sai phạm, tham ô, tham nhũng, lãng phí của công; đồng thời phải có năng lực thực tiễn, sâu sát với công việc được giao, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, công tâm, có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc được giao. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn phải nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và trong thực hiện dân chủ ở cơ sở nói riêng từ đó sẽ có hành động đúng. Tuy nhiên, trên thực tế nhận thức của một số cán bộ, công chức, nhất là cán bộ cấp cơ sở về vấn đề thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước chưa đúng, hoặc có suy nghĩ lệch lạc về chức năng, nhiệm vụ của mình (coi mình là quan phụ mẫu, đứng trên nhân dân, nhân dân phải phục tùng, phải làm theo từ đó dẫn đến suy nghĩ việc mình mình làm cần gì công khai cho dân
  • 37. 28 biết...). Một số cán bộ, công chức lại xem nhẹ vai trò của chính quyền cấp xã trong thực hiện và phát huy quyền dân chủ của công dân. Những suy nghĩ trái chiều như vậy đã tác động đến việc thực hiện công khai, minh bạch, tạo điều kiện cho một bộ phận cán bộ, công chức có điều kiện để nhũng nhiễu, hạch sách dân, tham ô, tham nhũng lộng hành, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước bị suy giảm. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến việc thực hiện công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. 1.3.2. Công tác tuyên truyền và tổ chức thực hiện của chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội cấp xã HĐND, UBND xã, phường, thị trấn là những cơ quan thuộc bộ máy chính quyền địa phương, gần gũi nhất và trực tiếp liên hệ với nhân dân. Những quyết định do chính quyền cấp xã ban hành đều có tác động ngay đối với đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của nhân dân ở cơ sở. Vì vậy chính quyền cấp xã có thể được coi là tuyến đầu của việc thực thi quyền dân chủ của nhân dân. Có thể thấy rằng, dân chủ ở cơ sở thực hiện tốt hay không, chất lượng, hiệu quả ra sao tùy thuộc vào công tác tuyên truyền và tổ chức thực hiện của chính quyền cấp xã. Do vậy công tác tuyên truyền và tổ chức thực hiện tốt hay không tốt là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước. Nhà nước giữ vai trò chính yếu trong quản lý và điều hành xã hội, bên cạnh đó hoạt động của các tổ chức quần chúng như MTTQ, Hội nông dân, Hội LHPN, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng sản HCM và các tổ chức nghề nghiệp khác có vai trò quan trọng góp phần thúc đẩy xã hội. Đây là các tổ chức không thuộc hệ thống các cơ quan chính quyền nhưng thuộc hệ thống chính trị cơ sở. Nhân dân với tư cách là thành viên của các tổ chức này có thể thực hiện quyền dân chủ của minh trong khuôn khổ hoạt động của tổ
  • 38. 29 chức. Tiếng nói của tổ chức này được coi là tiếng nói của một tập thể các thành viên. MTTQ và các tổ chức quần chúng ở cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở. Đó là giáo dục cho nhân dân và các đoàn viên, hội viên hiểu rõ nội dung, ý nghĩa, quyền và nghĩa vụ thực hiện pháp luật, thực hiện quyền đại diện của tổ chức mình, phối hợp với chính quyền xã, phường, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố thực hiện dân chủ ở cơ sở và giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách ở địa phương, phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đoàn viên, hội viên, động viên nhân dân, hội viên, đoàn viên tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, các chương trình phát triển kinh tế- xã hội. Với vai trò quan trọng đó, chúng ta cầng thấy rõ hơn sự ảnh hưởng của công tác tuyên truyền và tổ chức thực hiện của chính quyền, MTTQ và đoàn thể nhân dân ở cơ sở đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. 1.3.3. Hệ thống pháp luật, chế tài xử lý Bản chất của Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN " của dân, do dân và vì dân" do đó tính công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý là lẽ đương nhiên, cũng có thể coi là lẽ sống, nguồn sức mạnh của bộ máy công quyền. Công khai, minh bạch trước hết là nhằm bảo đảm bản chất dân chủ của xã hội, thể hiện quyền của người dân trong việc tham gia quản lý nhà nước; đồng thời công khai, minh bạch trong quản lý cũng là điều kiện không thể thiếu để bộ máy nhà nước tiếp thu trí tuệ của nhân dân đóng góp cho hoạt động quản lý ngày càng có hiệu quả. Tuy nhiên để các cơ quan nhà nước thực hiện tốt việc công khai, minh bạch rất cần có một hệ thống pháp luật với những chế tài đủ mạnh để hỗ trợ nhà nước cũng như nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện của bộ máy công quyền trong hoạt động quản lý
  • 39. 30 nhà nước. Những văn bản quy phạm pháp luật với chế tài xử phạt càng nghiêm minh đối với những hành vi không trung thực, quan liêu, tham nhũng trong thực hiện những thủ tục hành chính, trong đầu tư xây dựng...càng hạn chế được tối đa những hành vi vi phạm, đảm bảo thực hiện và phát huy được quyền dân chủ của công dân trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Vậy một hệ thống pháp luật có đủ sức mạnh, đủ chế tài để quản lý các vấn đề của xã hội là điều quan trọng đối với mỗi quốc gia. Qua đó, người dân có thể hiểu được những vấn đề mà Đảng và nhà nước ban hành, tự nguyện làm theo những yêu cầu của đảng và nhà nước vì lợi ích của bản thân cũng như của cả cộng đồng và bản thân những cán bộ, công chức nghiêm chỉnh thực hiện theo quy định là hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống pháp luật và chế tài xử lý của nhà nước. 1.3.4. Địa bàn dân cư, trình độ dân trí, nhận thức của người dân Sự nghiệp thúc đẩy nền dân chủ là sự nghiệp của toàn dân. Bài học thực tiễn cho thấy các quyền dân chủ không thể tự phát sinh và đương nhiên thực hiện được. Để đạt được việc thực hiện các quyền dân chủ, ngoài những điều kiện nêu trên, đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của mỗi người dân trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước, mà trước hết là trong việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Sự công khai, minh bạch sẽ không được thực hiện nếu như mỗi người dân không thể thực hiện được những quyền được biết, nếu bản thân mỗi người dân không biết mình cần biết gì, làm thế nào để được biết. Sẽ không thực hiện được quyền bàn bạc, nếu nhân dân không tích cực đòi hỏi thông tin, nỗ lực tham gia bàn bạc những công việc, quyết định liên quan, ảnh hưởng đến lợi ích của mình. Sẽ không thực hiện được quyền quyết định, nếu như nhân dân không tích cực cùng nhau bàn bạc và lựa chọn phương án để đi đến những quyết định riêng của mình. Sẽ không
  • 40. 31 thực hiện được quyền thanh tra, giám sát, nếu nhân dân e ngại, sợ đụng chạm với cán bộ, chính quyền. Bên cạnh đó, trình độ dân trí, nhận thức của người dân cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện công khai, minh bạch trong thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn. Bởi trên thực tế nếu trình độ dân trí thấp, bản thân người dân không đủ nhận thức để nhận thức được vấn đề nào chính quyền các cấp cần phải công khai, minh bạch cho dân biết, dẫn đến hậu quả không nhận thức được đâu là hành vi quan liêu, nhũng nhiễu của quan chức công quyền thì các quyền dân chủ được pháp luật bảo vệ không được thực thi, thậm chí còn tạo kẽ hở cho việc hợp thức hóa các thủ tục “chui”, tình trạng lót tay cho cán bộ để thực hiện các thủ tục hành chính nhanh hơn... gây khó khăn cho nhà nước, cơ quan điều tra trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Trình độ dân trí thấp, nhận thức vấn đề không đúng, dễ bị các phần tử “phản động” xúi giục, kích động dẫn đến các hành động quá khích, gây mất trật tự, khiếu kiện vượt cấp. Đây chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước, mà trong đó có việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở.
  • 41. 32 Kết luận chương 1 Nội dung Chương 1 đã tập trung làm rõ những vấn đề chung về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn như các khái niệm về dân chủ, dân chủ cơ sở, thực hiện dân chủ ở cơ sở, công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở; Mối quan hệ giữa công khai, minh bạch và dân chủ và sự cần thiết phải thực hiện công khai, minh bạch trong thực hiện pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở. Ngoài ra, trong Chương 1 cũng trình bày những quy định của pháp luật về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở theo Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; những yếu tố tác động đến quá trình thực hiện công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Việc nghiên cứu những vấn đề cơ sở lý luận ở Chương 1 đặt nền tảng, khung lý luận vững chắc để nghiên cứu Chương 2 và Chương 3 của Luận văn.
  • 42. 33 Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG PHÁP LỆNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TẠI THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH 2.1. Các yếu tố tác động đến quá trình thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. 2.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý, tự nhiên Thành phố Đồng Hới là trung tâm chính trị- kinh tế- văn hóa, khoa học kỹ thuật của tỉnh Quảng Bình. Trên bản đồ địa lý Việt Nam, Đồng Hới có toạ độ 17,21 độ vĩ Bắc và 106,10 độ kinh Đông, ở vào đoạn hẹp nhất của dãi đất miền Trung. Phía Bắc giáp huyện Bố Trạch, phía Tây và phía Nam giáp huyện Quảng Ninh, phía Đông giáp Biển Đông với đường bờ biển dài 15,7km. Diện tích tự nhiên toàn thành phố là 1.557,1 km2 , dân số 130.636 người; gồm 16 đơn vị hành chính (10 phường và 06 xã) với 55 thôn, 100 tổ dân phố. Đảng bộ thành phố Đồng Hới có 59 tổ chức cơ sơ sở Đảng trực thuộc, với 9.534 đảng viên. Hệ thống tổ chức Mặt trận, Đoàn thể từ thành phố đến cơ sở được xây dựng, củng cố hoàn chỉnh. Đồng Hới là một thành phố có cảnh quan tự nhiên, môi trường sinh thái rất tốt, có địa hình đa dạng bao gồm vùng đồi, vùng đồng bằng, vùng cát ven biển. Bên cạnh đó, thành phố còn là đầu mối giao thông quan trọng từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc, nằm trên quốc lộ 1A, có đường sắt thống nhất Bắc Nam, đường Hồ Chí Minh đi qua và cảng hàng không Đồng Hới; nằm ở vị trí trung độ của tỉnh Quảng Bình, dọc theo bờ biển với chiều dài 12km về phía Đông thành phố, có sông Nhật Lệ chảy giữa lòng thành phố và hệ thống
  • 43. 34 sông, suối, hồ, rừng nguyên sinh ở phía Tây thành phố rất thích hợp cho phát triển du lịch. Với vị trí địa lý thuận lợi cả về đường sông, đường bộ và đường sắt, cùng với sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên với nhiều cảnh quan đẹp, có môi trường sinh thái trong lành...là tiềm năng đa dạng để Đồng Hới phát triển kinh tế toàn diện. Khi các hoạt động kinh tế phát triển thì những đòi hỏi về dân chủ nói chung và công khai, minh bạch trong thực hiện quy chế dân chủ là điều tất yếu vì chỉ có thực hiện dân chủ rộng rãi, nhất là công khai, minh bạch những vấn đề mà nhân dân quan tâm mới tạo được lòng tin của nhân dân đối với Đảng và nhà nước và đó cũng chính là yếu tố quan trọng, là nội lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Và vị trí địa lý, tự nhiên là một trong những yếu tố hình thành nên phong tục, tập quán, lối sống cũng như tác phong trong công việc của người dân Đồng Hới. Chính điều này đã ảnh hưởng đến việc thực hiện dân chủ cơ sở nói chung và thực hiện công khai, minh bạch trong thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới nói riêng. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế- xã hội Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới của đất nước, thành phố Đồng Hới đã từng bước khẳng định được vai trò trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học của tỉnh, thể hiện sức vươn lên của một đô thị trẻ, năng động, hiệu quả. Kinh tế liên tục đạt mức tăng trưởng với tốc độ khá cao, bình quân 14% năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng dịch vụ và CN- TTCN, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Sản xuất CN - TTCN thành phố phát triển mạnh và đúng hướng, khai thác tích cực tiềm năng của địa phương. Dịch vụ thương mại phát triển nhanh, mạng lưới kinh doanh được mở rộng, hệ thống siêu thị, chợ, trung tâm thương mại được đầu tư nâng cấp hiện đại. Du lịch phát triển mạnh, hình thành các tua du lịch, tham quan các danh lam thắng cảnh và nghỉ ngơi, tắm biển. Nông nghiệp phát triển theo hướng sản
  • 44. 35 xuất hàng hóa tập trung, cơ cấu nội bộ ngành chuyển dịch tích cực theo hướng nông nghiệp đô thị, năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế tăng trưởng khá. Đặc biệt là chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã được nhân dân đồng tình ủng hộ, chung tay, chung sức cùng thành phố, đến nay 6/6 xã đã hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, đưa thành phố trở thành địa phương đầu tiên trong tỉnh có 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo, văn hóa, xây dựng văn minh đô thị, công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và thực hiện các chính sách xã hội được tập trung chỉ đạo có hiệu quả. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục phát triển sâu rộng, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Hoạt động của chính quyền có nhiều tiến bộ, năng lực quản lý, chỉ đạo điều hành được nâng dần lên, bước đầu thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở cấp thành phố. Quy chế dân chủ ở cơ sở được phát huy rộng rãi với phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Những đặc điểm về kinh tế - xã hội của thành phố nêu trên cho thấy thành phố Đồng Hới đang trên đà phát triển với nhiều tiềm năng, đa dạng về ngành nghề và đặc biệt trong những năm gần đây Đồng Hới thu hút được rất nhiều các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư và cũng là địa bàn thu hút nhiều lao động từ các huyện khác đến sinh sống và làm việc. Do đó vấn đề dân chủ, mở rộng dân chủ nói chung và công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở càng được quan tâm, nhằm tạo được sự đồng thuận cao trong toàn thể nhân dân để huy động các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
  • 45. 36 2.1.3. Về đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã Thành phố Đồng Hới được phân chia thành 16 đơn vị hành chính, gồm 10 phường và 6 xã, cùng với sự phát triển của thành phố, đội ngũ cán bộ, công chức các xã, phường trên địa bàn đã có sự chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng. Theo số liệu của Phòng Nội vụ thành phố Đồng Hới, tính đến ngày 31/12/2016 đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố có 325 người/341 tổng biên chế giao, trong đó cán bộ 159 người, công chức 181 người (235 nam và 90 nữ). Bảng 2.1: Tình hình đội ngũ cán bộ, công chức các xã, phường trên địa bàn thành phố Đồng Hới theo độ tuổi TT Độ tuổi Số lượng cán bộ, công chức Tỷ lệ 1 Dưới 30 32 9,5% 2 Từ 31 đến 45 203 62,5% 3 Từ 46 trở lên 90 28% (Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Đồng Hới) Về trình độ chuyên môn: có 06 cán bộ chưa qua đào tạo (tập trung ở các chức danh Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội phụ nữ, Chủ tịch Hội nông dân, Chủ tịch Hội CCB) (chiếm 1,85%); 54 cán bộ, công chức có trình độ trung cấp (chiếm 16,6%); 01 cán bộ có trình độ cao đẳng (chiếm 0,25%); 256 cán bộ, công chức có trình độ đại học (chiếm 78,8%); 8 cán bộ, công chức có trình độ thạc sỹ (chiếm 2,5%). Về trình độ lý luận chính trị: 86 cán bộ, công chức chưa qua đào tạo (chiếm 26,5%); 52 cán bộ, công chức có trình độ sơ cấp (chiếm 16%); 184 cán bộ, công chức có trình độ trung cấp (chiếm 56,6%); 3 cán bộ có trình độ cao cấp (chiếm 0,9%). Về quản lý hành chính nhà nước: có 294 cán bộ, công chức đã qua các lớp bồi dưỡng (chiếm 90,5%).
  • 46. 37 Qua số liệu thống kê cho thấy, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố đang được trẻ hóa; trình độ trên các mặt của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã được nâng lên rõ rệt, nhất là từ khi có nghị định 92/2009/NĐCP, ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách cấp xã thì trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức cấp xã ngày càng được chuẩn hóa với hơn 80% cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn Đại học trở lên; hơn 57% cán bộ, công chức có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên. Như vậy, so với mặt bằng chung của các huyện, thị trấn trong toàn tỉnh thì trình độ trên các mặt của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Đồng Hới cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong quá trình thực thi công vụ. Tuy nhiên, bên cạnh đó với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay và thực tế số lượng sinh viên tốt nghiệp đại học, được đào tạo cơ bản thì không được tuyển dụng, thì số lượng 06 cán bộ chưa qua đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, 55 cán bộ, công chức có trình độ trung cấp, cao đẳng trên tổng số 325 cán bộ, công chức cấp xã, là quá lớn, nhất là đối với địa bàn thành phố Đồng Hới- trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của tỉnh Quảng Bình. Sự yếu kém, thiếu tri thức ở các lĩnh vực của một số cán bộ, công chức có thể dẫn đến nguyên nhân sai phạm trong xử lý và giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến người dân, hoặc tham mưu cho lãnh đạo địa phương đối với lĩnh vực phụ trách yếu và thiếu, gây ra nhiều hệ lụy khác. Về phẩm chất, đạo đức lối sống: Đa số cán bộ, công chức cấp xã có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và con đường đi lên CNXH, giữ được lối sống lành mạnh, có tâm huyết với công việc và thường xuyên giữ mối liên hệ làm việc gần gũi với nhân dân trong quá trình thực thi công vụ. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số cán bộ, công
  • 47. 38 chức chưa thực sự cầu thị, còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại, thái độ phục vụ nhân dân chưa cao, còn nhũng nhiễu, hạch sách nhân dân. 2.1.4. Tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước ở địa phương - chủ thể thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn Trong công cuộc đổi mới hệ thống chính trị đất nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, đặc biệt từ khi pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn được ban hành và áp dụng rộng rãi cho đến nay, Đảng bộ và chính quyền thành phố Đồng Hới – tỉnh Quảng Bình đã không ngừng thực hiện đổi mới, tổ chức, xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước nói chung và địa phương nói riêng. Chính quyền 2 cấp từ thành phố đến cơ sở đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản chỉ đạo tổ chức quán triệt và tích cực triển khai thực hiện Pháp lệnh 34 đạt kết quả thiết thực. Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành Kế hoạch số 54/KH- UBND ngày 22/06/2007 về việc học tập, quán triệt, triển khai thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt toàn thành phố, đồng thời chỉ đạo UBND các xã, phường tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện đến toàn thể cán bộ, công chức, hội viên các tổ chức đoàn thể chính trị- xã hội ở xã, phường, thôn, tổ dân phố và toàn thể nhân dân trên địa bàn thành phố Đồng Hới. Đồng thời, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo tổ chức quán triệt và tích cực triển khai thực hiện Pháp lệnh 34 như: Ban hành Chỉ thị số 02/2010/CT-UBND ngày 09/3/2010 về tăng cường công tác phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật giai đoạn 2010 đến năm 2015 trên địa bàn thành phố Đồng Hới; Kế hoạch số 77/KH- UBND ngày 22/11/2010 về triển khai tuyên truyền phổ biến pháp lệnh về dân chủ cơ sở và việc lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh chủ chốt cấp xã; Kế hoạch số 10/KH- HĐPBGDPL ngày 23/2/2011
  • 48. 39 về triển khai thực hiện công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2011-2015; Kế hoạch số 49/KH-UBND ngày 18/4/2013 về tập huấn nghiệp vụ chi Tổ trưởng Tổ hòa giải và Hòa giải viên; Kế hoạch số 90/KH- UBND ngày 19/8/2013 về thực hiện Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác Dân vận chính quyền giai đoạn 2013 - 2015”; Công văn số 1106/UBND-NV ngày 9/10/2013 về việc triển khai thực hiện Kế hoạch số 90/KH-UBND ngày 19/8/2013 Hội đồng nhân dân thành phố đã có nhiều đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, chất lượng các kỳ họp HĐND được nâng lên, phương pháp thảo luận, chất vấn tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, những vấn đề bức xúc trong nhân dân; Công tác tiếp xúc cử tri được cải tiến, thiết thực, hiệu quả hơn; đã bố trí các điểm tiếp xúc cử tri về tận thôn, tổ dân phố để đại biểu HĐND, nhất là các đại biểu giữ các cương vị chủ chốt của thành phố, xã, phường luân phiên địa bàn tiếp xúc cử tri để trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Các ý kiến của cử tri được tập hợp, xem xét giải quyết; những công việc quan trọng, thiết thực, gắn với lợi ích của nhân dân đều được công khai, bàn bạc, dân chủ trước khi quyết định và triển khai thực hiện. Các kỳ họp HĐND thành phố và nhiều xã, phường được truyền thanh trực tiếp, tạo điều kiện cho nhân dân theo dõi, giám sát hoạt động của HĐND tại kỳ họp. UBND thành phố đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình. Tổ chức tiếp dân chu đáo và đúng lịch, quan tâm đúng mức việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân, trong thời gian qua, UBND 2 cấp đã tiếp hơn 9.000 lượt công dân, nhận hơn 1.000 đơn thư. Các ý kiến của công dân, đơn thư tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực đất đai, chế độ chính sách, đền bù giải phóng mặt bằng, kết quả giải quyết vụ việc hành
  • 49. 40 chính...đều được UBND từ cơ sở đến thành phố chỉ đạo giải quyết thấu tình, đạt lý, tạo niềm tin cho nhân dân. Chỉ đạo các địa phương, cơ quan, đơn vị đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính và niêm yết công khai thủ tục hành chính, thực hiện tốt Đề án cải cách hành chính theo mô hình "Một cửa liên thông hiện đại", đây là một bước đột phá của UBND thành phố và các xã, phường về cải cách thủ tục hành chính, góp phần thực hiện tốt việc công khai, minh bạch trong giải quyết các thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho nhân dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ cao. UBND thành phố đã tích cực triển khai thực hiện Pháp lệnh cán bộ công chức; Luật phòng chống tham nhũng; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; chỉ đạo các xã, phường xây dựng Quy ước, Hương ước; phối hợp với Mặt trận, các Đoàn thể chính trị xã hội phát động nhiều phong trào thi đua sôi nổi trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Đặc biệt đã có nhiều đổi mới trong quản lý, điều hành, hướng mạnh các hoạt động quản lý Nhà nước về cơ sở, quan tâm nhiều vấn đề dân sinh. Xây dựng và ban hành nhiều chủ trương, Đề án, Chương trình phát triển kinh tế, xã hội như: Chủ trương Dồn diền đổi thửa, Chương trình phát triển CN- TTCN, dịch vụ- du lịch, Đề án nâng cấp và chỉnh trang Đô thị, xã hội hóa vỉa hè; xã hội hóa thu gom, quản lý, xử lý rác thải; Đề án phát triển cây xanh đường phố, Xây dựng đường giao thông qui mô nhỏ....Các Đề án, Chương trình nói trên đều hợp lòng dân, được nhân dân tham gia ý kiến, đồng tình hưởng ứng và tích cực triển khai thực hiện. Chỉ đạo các xã, phường tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia bàn bạc các chương trình, dự án; đồng thời tổ chức các hội nghị lòng ghép tuyên truyền các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến người dân. Các chuyên mục phát thanh trên hệ thống truyền thanh, truyền hình thành phố, các
  • 50. 41 hội thi tìm hiểu pháp luật; nói chuyện chuyên đề ... thu hút được đông đảo người dân đến nghe và tìm hiểu. UBND các cấp tích cực phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân những chủ trương của Đảng, quy định của Nhà nước về công khai, minh bạch trong Pháp lênh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; phối hợp với Trưởng thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố quán triệt pháp lệnh 34 và các văn bản của cấp uỷ, chính quyền về những nội dung nhân dân được biết, được bàn và quyết định, được giám sát, kiểm tra; đồng thời tích cực vận động nhân dân thực hiện QCDC ở cơ sở. MTTQVN thành phố và các đoàn thể nhân dân đã ban hành quy chế phối hợp hoạt động giữa UBMT, đoàn thể với chính quyền các cấp nhằm thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh 34. Tổ chức ký kết chương trình phối hợp với Thường trực HĐND, UBND cùng cấp. Triển khai việc giám sát và phản biện xã hội, tạo điều kiện cho nhân dân được tham gia góp ý xây dựng Đảng; xây dựng chính quyền theo Quyết định 217, 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị. Đã coi trọng vận động nhân dân thực hiện quyền giám sát trực tiếp trong thực hiện QCDC thông qua các buổi tiếp xúc cử tri, tiếp dân, họp thôn, tổ dân phố... Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tình hình triển khai và tổ chức thực hiện pháp lệnh 34 nói chung và công khai, minh bạch trong thực hiện pháp lệnh 34 nói riêng. Trong 10 năm từ 2005-2015 đã tổ chức 217 cuộc kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp lệnh 34. Tóm lại, chính quyền các cấp thành phố thông qua việc ban hành các văn bản, thông qua các cuộc kiểm tra, giám sát và công tác phối kết hợp với Mặt trận và các tổ chức đoàn thể đã cơ bản thực hiện tốt việc quản lý nhà nước đối với việc thực hiện Pháp lệnh 34 nói chung và công khai, minh bạch trong thực hiện pháp lệnh 34 nói riêng. Tuy nhiên, nhận thức của một số cán
  • 51. 42 bộ, công chức về ý nghĩa, vai trò của việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn chưa đầy đủ; công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp lệnh còn thiếu thường xuyên... Có thể nói những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, đội ngũ cán bộ công chức cấp xã và quản lý nhà nước đối với việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới nêu trên là những điều kiện thuận lợi cho thành phố Đồng Hới trong quá trình phát triển nói chung và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở nói riêng. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những khó khăn nhất định như khi hậu khắc nghiệt, thiên tai, bão lũ thường xuyên xảy ra. Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh, công tác quy hoạch và quản lý đô thị còn nhiều bất cập; việc huy động các nguồn lực, nhất là nguồn đóng góp từ nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng chưa mạnh. Chất lượng đội ngũ cán bộ cốt cán, nhất là ở các phường, xã chưa cao, một số cán bộ còn lợi dung chức vụ để tham ô, tham nhũng, tư lợi cá nhân, một số cán bộ thái độ phục vụ nhân dân chưa tốt, còn hạch sách, nhũng nhiễu, chưa tận tâm, tận tụy trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; chính quyền một số xã phường có lực còn buông lỏng công tác quản lý...làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Việc thực hiện công khai, minh bạch trong thực hiện quy chế dân chủ nói riêng và trong các hoạt động nói chung ở một số địa phương còn mang tính hình thức, đối phó với các quy định của pháp luật. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí hiệu quả chưa cao. Tệ nạn xã hội và các loại tội phạm diễn biến phức tạp. Vì vậy, việc nắm bắt đầy đủ, đúng đắn đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội và đội ngũ cán bộ sẽ giúp chúng ta nghiên cứu và nhìn nhận một cách đúng đắn việc thực hiện công khai, minh bạch trong thực hiện pháp lệnh dân chủ ở cơ sở.
  • 52. 43 2.2. Tổ chức triển khai và kết quả thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình 2.2.1. Tổ chức chỉ đạo triển khai thực hiện pháp lệnh 2.2.1.1. Xây dựng kế hoạch triển khai ở thành phố Ngay sau khi có Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11, ngày 20/4/2007 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Kế hoạch số 36-KH/TU ngày 5/7/2007 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình, Ban Thường vụ Thành ủy Đồng Hới đã ban hành kế hoạch số 29-KH/TU ngày 10/7/2007 chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh và chỉ đạo Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở thành phố tổ chức hội nghị quán triệt, triển khai Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 và các văn bản về thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở cho đội ngũ cán bộ chủ chốt toàn thành phố. Chỉ đạo các phường, xã quán triệt, triển khai nội dung của Pháp lệnh, các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về thực hiện QCDC cơ sở đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân tại địa phương, đơn vị mình nhằm phát huy tốt vai trò của nhân dân trong việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền Pháp lệnh và các văn bản của Đảng và Nhà nước về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm từng bước nâng cao nhận thức về ý nghĩa, trách nhiệm, quyền lợi của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện Pháp lệnh 34 nói riêng và quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung Ban Thường vụ Thành ủy đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ cơ sở thành phố do đồng chí Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố làm Trưởng Ban, các thành viên là các đồng chí đại diện Thường trực HĐND, UBND, lãnh đạo các ban ngành, đoàn thể thành phố để lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, trong đó có Pháp lệnh về
  • 53. 44 thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Định kỳ mỗi năm 2 lần, BCĐ QCDC thành phố họp để báo cáo kết quả thực hiện QCDC ở cơ sở, kịp thời rút kinh nghiệm tiếp tục chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới. Việc củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ cơ sở từ thành phố đến xã, phường được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm thực hiện tốt. Thực hiện tốt việc sơ kết, tổng kết về xây dựng và thực hiện QCDC từ thành phố đến cơ sở; hàng năm đều xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát tình hình triển khai, tổ chức thực hiện QCDC ở các địa phương, đơn vị, sau khi kiểm tra có thông báo kết luận đến từng cơ sở để rút kinh nghiệm. Đưa việc thực hiện QCDC vào chương trình công tác hàng năm, xem đây là một tiêu chuẩn để đánh giá, xét thi đua, công nhận danh hiệu đơn vị trong sạch vững mạnh; gắn việc thực hiện QCDC với nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở. Tập trung chỉ đạo đổi mới phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo theo hướng gần dân, tăng cường tiếp xúc với dân, giải đáp những vấn đề vướng mắc của cán bộ, nhân dân; Thành ủy đã ban hành Kế hoạch số 31-KH/TU ngày 17/7/2010; Quyết định số 51- QĐ/TU ngày 22/02/2011 về thực hiện Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; Đề án lãnh đạo các cấp đối thoại trực tiếp với nhân dân; Quyết định 972-QĐ/TU ngày 07/8/2015 về việc ban hành Quy định người đứng đầu Cấp ủy, chính quyền, các cơ quan nhà nước đối thoại trực tiếp với nhân dân và các văn bản chỉ đạo đổi mới phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo theo hướng gần dân, tăng cường tiếp xúc với dân, giải đáp những vấn đề vướng mắc của cán bộ, nhân dân. Chỉ đạo chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; phát huy quyền làm chủ của cử tri tham gia ý kiến với đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp.
  • 54. 45 Trong quá trình chỉ đạo, từ năm 2007 đến nay thành phố đã ban hành 3.670 văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở trong đó có Pháp lệnh về thực hiện dân chủ cơ sở. Ngoài ra, để góp phần thực hiện tốt những quy định về nội dung “Dân kiểm tra, giám sát” theo nội dung Pháp lệnh, Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở thành phố đã phối hợp Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố, Trung tâm bồi dưỡng chính trị thành phố và các cơ quan có liên quan để tuyên truyền, tổ chức tập huấn cho cán bộ, thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng và tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về Luật Thanh tra, Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng và Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-KH&ĐT-UBTWMTTQVN-TC, ngày 04/12/2006 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định 80/2005/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về giám sát đầu tư cộng đồng. 2.2.1.2. Tổ chức triển khai thực hiện ở cấp xã Thực hiện Kế hoạch số 29-KH/TU của Ban Thường vụ Thành ủy, ngay sau hội nghị cán bộ chủ chốt quán triệt, triển khai thực hiện Pháp lệnh và các văn bản về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại thành phố, Cấp ủy, chính quyền các phường, xã, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn thành phố đã tổ chức hội nghị quán triệt, triển khai cho toàn thể cán bộ, đảng viên và thông qua Ủy ban MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội để triển khai rộng rãi đến hội viên, đoàn viên và quần chúng nhân dân. Hiện nay, 100% các phường, xã, các Đảng bộ trực thuộc và các cơ quan, đơn vị đều thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền việc thực hiện Pháp lệnh trên hệ thống loa phát thanh của các phường, xã. Trên cơ sở nội dung của Pháp lệnh 34 và kế hoạch hoạt động của Ban chỉ đạo, UBND
  • 55. 46 các phường, xã đã phối hợp với UBMTTQ Việt Nam cùng cấp tổ chức thực hiện tốt, đưa ra bàn bạc và biểu quyết các vấn đề như bầu trưởng thôn, tổ trưởng dân phố, Ban giám sát đầu tư cộng đồng, Ban thanh tra nhân dân và xây dựng quy ước thôn, tổ dân phố văn hóa. Các phường, xã tổ chức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân giám sát thông qua Mặt trận, các tổ chức đoàn thể nhân dân, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng nhằm kịp thời nắm tình hình, phát hiện và uốn nắn những sai phạm ở các thôn, tổ dân phố trong quản lý đất đai, xây dựng các công trình công cộng ở địa phương, trong việc thu, chi ngân sách. Ngoài ra, để thực hiện quyền giám sát của nhân dân nhiều địa phương đã lập sổ theo dõi sự đóng góp của nhân dân, đảm bảo công khai việc thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của dân, góp phần hạn chế tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp, tạo sự đồng thuận trong nhân dân trong thực hiện các chương trình, đề án thành phố đề ra, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và thành phố. 2.2.2. Hình thức tổ chức thực hiện Trên cơ sở những quy định về hình thức tổ chức thực hiện công khai, minh bạch theo Pháp lệnh, Cấp ủy, chính quyền thành phố Đồng Hới đã chỉ đạo tổ chức thực hiện cơ bản tốt. Tại trụ sở UBND các xã, phường trên địa bàn đều thực hiện niêm yết công khai tại bảng niêm yết được đặt ở Trung tâm một cửa hoặc trung tâm một cửa liên thông các xã, phường toàn bộ thủ tục hành chính, với 127 thủ tục liên quan đến 13 lĩnh vực được áp dụng tại cấp xã, các chủ trương, chính sách mới ban hành trên các lĩnh vực, các Nghị quyết của HĐND, quyết định của UBND về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng-an ninh, nhất là các chủ trương mới có liên quan đến chính sách an sinh xã hội, tạo thuận lợi cho nhân dân tìm hiểu và thực hiện có hiệu quả.
  • 56. 47 Tại nhà văn hóa của thôn, tổ dân phố thực hiện niêm yết công khai số tiền huy động từ nhân dân để thực hiện các đề án xã hội hóa xây dựng đường giao thông quy mô nhỏ, điện chiếu sáng trong khu dân cư, lát vĩa hè...xây dựng nông thôn mới; các khoản đóng góp của nhân dân, ủng hộ của các doanh nghiệp cho các hoạt động của thôn, tổ dân phố, danh sách bình xét hộ nghèo, cận nghèo, hỗ trợ của thành phố do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Một số đơn vị thực hiện tốt việc niêm yết công khai, minh bạch TTHC như: Trung tâm một cửa liên thông thành phố, UBND phường Bắc Lý, UBND phường Hải Đình, UBND phường Đồng Phú, UBND phường Nam Lý, UBND xã Quang Phú, UBND xã Bảo Ninh. Song song với việc thực hiện niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã, phường, các địa phương còn thực hiện công khai qua hệ thống loa phát thanh của các xã, phường. Hiện nay, toàn thành phố có 01 đài truyền thanh-truyền hình của thành phố, 16/16 xã, phường có trạm truyền thanh và 155 đài truyền thanh không dây của các thôn, tổ dân phố. Hệ thống truyền thanh của thành phố là một kênh thông tin quan trọng, cần thiết để chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như các chủ trương, chương trình, đề án của tỉnh, thành phố đến với người dân, đây cũng là phương tiện góp phần tăng tính minh bạch trong quản lý hành chính nhà nước tại địa phương, việc thông tin qua hệ thống truyền thanh có nhiều thuận lợi là khi làm gì, ở đâu người dân có thể nghe được thông tin mà không nhất thiết phải đi đến các điểm niêm yết công khai tại Trung tâm một cửa liên thông thành phố, trụ sở UBND xã, phường hay nhà văn hóa của thôn, tổ dân phố để xem. Đồng thời, thông qua hệ thống đài truyền thanh nội dung các kỳ họp HĐND tỉnh, thành phố, xã, phường đều được truyền thanh trực tiếp, qua đó để người dân có thể nắm được tình hình chính trị - kinh tế- văn hóa- xã hội, nghị quyết HĐND về những chủ trương phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh, thành phố cũng như địa
  • 57. 48 phương mình. Thành phố đã chỉ đạo Đài phát thanh - truyền hình thành phố xây dựng chuyên mục phát thanh về Quy chế dân chủ cơ sở trên hệ thống truyền thanh thành phố với thời lượng 15 phút/chuyên mục/tháng và phát trên Đài truyền hình tỉnh; xây dựng 26 phóng sự truyền hình về thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Ngoài ra, một số xã, phường của thành phố đã xây dựng được trang thông tin điện tử như phường Bắc Lý, Đồng Mỹ, Hải Đình, Nam Lý, xã Bảo Ninh, thông qua trang thông tin điện tử giúp nhân dân của các địa phương nắm bắt được các hoạt động cấp ủy đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể của thành phố nói chung và của địa phương nói riêng, các thông tin thời sự trong tỉnh và cả nước, đồng thời, trên Website của thành phố và các địa phương còn niêm yết công khai các thủ tục hành chính qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân và doanh nghiệp trong giao dịch công việc. Ngoài hệ thống truyền thanh thì thông qua đội ngũ trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố để thông tin công khai đến nhân dân cũng được chú trọng. Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố là những người đại diện cho cộng đồng thôn, tổ dân phố, chịu sự quản lý, chỉ đạo của UBND xã, phường do nhân dân của thôn, tổ dân phố bầu (với nhiệm kỳ hai năm rưỡi) và do UBND xã công nhận. Tổ trưởng có những nhiệm vụ rất quan trọng trong tổ chức và thực hiện quyền lực của nhân dân nằm đảm bảo dân chủ. Hiện nay trên địa bàn thành phố có 55 trưởng thôn và 100 tổ trưởng tổ dân phố, đây là đội ngũ rất quan trọng để giúp cho chính quyền cấp xã, phường quản lý tốt tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ngay từ cơ sở và thông qua đội ngũ này cũng là kênh thông tin để chính quyền cấp xã, phường thông báo công khai đến người dân về tình hình phát triển kinh tế- xã hội của xã, phường, về chủ trương vận động một số loại quỹ, công khai một số công trình đầu tư xây dựng trên địa bàn của các thôn, tổ dân phố. Thời gian qua các thôn, tổ dân phố đã làm tốt công tác công khai các quỹ vận động của xã, phường để thực hiện các đề án
  • 58. 49 xã hội hóa, đền ơn đáp nghĩa, khuyến học, quỹ hoạt động quốc phòng -an ninh...về tổng mức vận động và chi cho các hoạt động cụ thể như tổ chức các lễ hội, các ngày lễ lớn hàng năm, các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao…nhờ làm tốt việc công khai nên thời gian qua tại các thôn, tổ dân phố chưa xảy ra các vụ việc tiêu cực, tỷ lệ huy động sự đóng góp của người dân đạt chỉ tiêu đề ra. Ngoài ra các hình thức công khai trên, các xã, phường còn thực hiện công khai các nội dung theo quy định của Pháp lệnh qua các cuộc họp UBND xã, phường và thôn, tổ dân phố. Bên cạnh đó thành phố còn chỉ đạo đẩy mạnh và tiếp tục triển khai thực hiện tốt đề án lãnh đạo các cấp trực tiếp đối thoại với nhân dân. 16/16 xã, phường có bố trí nơi tiếp công dân và có hòm thư góp ý. Từ năm 2009 đến nay các cấp, các ngành thành phố đã tổ chức được hơn 209 cuộc đối thoại, qua đó đã giải quyết được những vấn đề nổi lên, những vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của các địa phương, những vấn đề nhân dân bức xúc, góp phần ổn định tình hình ở cơ sở, phát huy được khả năng, trí tuệ, công sức của các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận và thống nhất cao trong toàn thể nhân dân tham gia xây dựng và phát triển thành phố. Song song với việc thực hiện công khai, cấp ủy, chính quyền các cấp thành phố còn thực hiện tốt việc minh bạch trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn dưới nhiều hình thức như: đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, niêm yết công khai các quy định, quy trình, thời gian giải quyết các thủ tục hành chính, thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ và giải quyết các thủ tục hành chính qua Trung tâm một cửa liên thông thành phố và các xã, phường (hiện nay trên địa bàn thành phố có 1 trung tâm một cửa liên thông thành phố, 2 trung tâm một cửa liên thông của phường Bắc Lý và xã Bảo Ninh, 14 xã, phường còn lại thực hiện mô hình một
  • 59. 50 cửa). Hiện nay, thành phố đang triển khai thực hiện phần mềm một cửa điện tử liên thông tiến tới xây dựng hệ thống chính quyền điện tử. Hàng năm chính quyền các xã, phường trên địa bàn thành phố thông qua các cuộc họp dân, họp tổng kết năm để công khai cho cán bộ, đảng viên và nhân dân biết về tình hình thực hiện thu, chi ngân sách của địa phương, về sử dụng vốn huy động từ nhân dân để thực hiện các công trình, dự án của địa phương....Bên cạnh đó, chính quyền các cấp tạo điều kiện cho nhân dân và các tổ chức chính trị xã hội giám sát, tham gia ý kiến, bàn bạc đối với những vấn đề liên quan đến lợi ích của nhà nước và người dân. 2.2.3. Nội dung thực hiện Để đánh giá thực trạng thực hiện các nội dung công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn - từ thực tiễn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình bên cạnh cơ sở lý luận thì cần phải có những luận cứ thực tiễn giúp đánh giá đúng thực trạng vấn đề đảm bảo tính khách quan và khoa học, tránh suy diễn chủ quan. Theo nguyên tắc đó, học viên đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học thông qua việc tiến hành xây dựng, phát ra, thu vào và xử lý tổng hợp các Phiếu xin ý kiến đối với nhân dân trên địa bàn 16 xã, phường. Với tổng số phiếu phát ra là 250 phiếu, số phiếu thu về là 250 phiếu, về thông tin trên phiếu khảo sát tập trung vào 4 hình thức đánh giá là: Đạt tốt so với yêu cầu, đạt so với yêu cầu, chưa đạt so với yêu cầu, khó đánh giá. 2.2.3.1. Thực trạng thực hiện nội dung công khai trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới. * Thực hiện công khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương là một công cụ quản lý điều hành vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội của địa phương, là sự cụ thể
  • 60. 51 hoá các mục tiêu, chiến lược, quy hoạch phát triển theo từng thời kỳ qua hệ thống các mục tiêu, biện pháp định hướng phát triển và các chương trình, đề án thực hiện kế hoạch. Việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm của các xã, phường trên địa bàn thành phố Đồng Hới luôn căn cứ vào quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành, lĩnh vực đã được tỉnh, thành phố phê duyệt và bám sát kế hoạch kinh tế - xã hội của của thành phố, đồng thời bảo đảm tính khách quan dân chủ có sự tham gia của nhân dân để phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương, đơn vị. Trong bản kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của các xã, phường đều có đánh giá tình hình thuận lợi, khó khăn, đề ra các chỉ tiêu trên các mặt kinh tế - xã hội để phấn đấu và các giải pháp khá cụ thể để tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó trong bản số liệu quyết toán thu, chi ngân sách ngoài báo cáo kết quả đạt được, khuyết điểm, hạn chế, còn có một bản phụ lục chi tiết các khoản thu và khoản chi đính kèm. Theo đó HĐND, UBND thành phố và các xã, phường trên địa bàn đã làm tốt việc công khai cho nhân dân biết về các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của địa phương mình. Trước hết, việc công khai các nội dung nêu trên được thực hiện thông qua các kỳ họp HĐND thành phố và các xã, phường. Theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương (2015) thì HĐND các cấp họp ít nhất mỗi năm hai kỳ để đánh giá về tình hình kinh tế -xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương trong 6 tháng hoặc một năm, đề ra các chỉ tiêu, nhiệm vụ cho 6 tháng hoặc năm tiếp theo; Báo cáo về kết quả thực hiện dự toán ngân sách nhà nước trong năm và dự toán thu, chi ngân sách của năm tới. Thông qua các nội dung quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của địa phương...người đứng đầu các cơ quan chức năng trả lời chất vấn của các đại biểu HĐND xã, phường về những vấn đề mà nhân dân quan tâm, bức xúc. Nội dung các kỳ họp được phát trực tiếp trên đài phát thanh của thành phố và các xã, phường; trên hệ thống truyền thanh không dây của các thôn, tổ
  • 61. 52 dân phố và đưa tin trên trang thông tin điện tử của thành phố và một số xã, phường và bản tin Đồng Hới...Sau kỳ họp HĐND thành phố và các xã, phường ban hành Nghị quyết về những nội dung đã được trên 50% tổng số đại biểu thông qua; các nghị quyết, nhất là các nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của địa phương được niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã, phường, đăng tải trên trang thông tin điện tử (đối với một số địa phương có trang thông tin điện tử) và được thông báo trong các cuộc họp của UBND xã, phường, thôn, tổ dân phố Bên cạnh đó, việc công khai các nội dung về tình hình phát triển kinh tế, văn hóa- xã hội, quốc phòng -an ninh, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án dịch chuyển cơ cấu kinh tế, dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của các địa phương trên địa bàn thành phố còn được thực hiện công khai thông qua các cuộc tiếp xúc cử tri. Theo quy định trước các kỳ họp HĐND (giữa năm và cuối năm) của thành phố và các xã, phường, các đại biểu HĐND báo cáo về tình hình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh với cử tri thông qua tiếp xúc cử tri tại địa bàn nơi mình ứng cử và lắng nghe ý kiến, những phản ánh, cũng như tâm tư nguyện vọng của cử tri, sau đó các tổ đại biểu HĐND sẽ tổng hợp chung các ý kiến để chuyển đến các cơ quan chức năng theo thẩm quyết xem xét, giải quyết. Sau mỗi kỳ họp, các vị đại biểu HĐND thành phố và các xã, phường phải có trách nhiệm báo cáo với cử tri nơi mình ra ứng cử về kết quả nội dung của kỳ họp để nhân dân biết. Đây là việc làm thường xuyên, thông qua đó nhân dân có điều kiện để tiếp thu các chủ trương, định hướng của xã, phường về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, tình hình công tác thu, chi ngân sách hàng năm và biết được các ý kiến của phản ánh của mình được các cơ quan chức năng giải quyết như thế nào.
  • 62. 53 Tuy nhiên, việc tiến hành công khai quyết toán thu chi ngân sách hằng năm của các xã, phường theo Quyết định số 192/2004/QĐ-TTg ngày 16/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế công khai tài chính đối với các cấp ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng vốn ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ có nguồn từ ngân sách nhà nước và các quỹ có nguồn từ các khoản đóng góp của nhân dân còn những hạn chế như: công khai chi tiết số liệu dự toán, quyết toán ngân sách cấp xã chủ yếu thông qua hội nghị tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND, phương tiện truyền thanh của xã, phường và cũng chỉ nêu lên tỷ lệ phần trăm hoặc nêu chung chung ngân sách năm nay cao hơn năm trước, còn thực hiện bằng hình niêm yết công khai tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phường; thông báo bằng văn bản cho các trưởng thôn, tổ dân phố còn hạn chế, một số xã, phường có tiến hành niêm yết công khai nhưng chưa đủ thời hạn 60 ngày theo quy định. * Thực hiện công khai các dự án, công trình đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã Thành phố Đồng Hới với đặc điểm là một thành phố trẻ, vì vậy nhu cầu về xây dựng cơ bản là rất lớn, nhất là các công trình phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng, an ninh quốc phòng... Trong những năm qua, cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố đã có nhiều công trình, dự án được tổ chức triển khai xây dựng, đồng thời đi đôi với đó nhiều hộ dân trong phạm vi thực hiện các công trình, dự án phải di dời theo phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Theo đó, chỉ tính riêng từ tháng 01/2008 đến tháng 12/2016 đã có 185 dự án giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ tái định cư với tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái
  • 63. 54 định cư là hơn 2.375 tỷ đồng, số đối tượng bị ảnh hưởng là 1.237 hộ, diện tích đất bị thu hồi là 15.645.820 m2 và số hộ được bố trí tái định cư là 107 hộ, trọng điểm là các dự án: Cầu Nhật Lệ, Cầu Nhật Lệ II, Dự án mở rộng Quốc lộ 1A đoạn qua địa phận thành phố Đồng Hới, Dự án mở rộng khu du lịch Mỹ Cảnh- Bảo Ninh, Dự án Quần thể resort, biệt thự nghỉ dưỡng và giải trí cao cấp FLC Quảng Bình, đường Võ Nguyên Giáp, Quảng trường biển Bảo Ninh, sân bay Đồng Hới, khu công nghiệp Tây Bắc Đồng Hới, Trung tâm thương mại, khách sạn và khu nhà phố thương mại Shophouse, đường tránh thành phố Đồng Hới, Trạm xử lý nước thải Đức Ninh, dự án san lấp mặt bằng khu Bắc Lê Lợi, phía Nam đường Trần Hưng Đạo, Tây Cầu Rào, Khu 525... Đa số các dự án đều triển khai đúng trình tự thủ tục theo các quy định hiện hành của Nhà nước. Công tác giải phóng mặt bằng được đảm bảo đúng quy trình thủ tục quy định của nhà nước, của tỉnh, thành phố. Tất các các dự án trước khi trình phê duyệt đều được công khai ít nhất 20 ngày tại trụ sở UBND các xã, phường và nhà văn hóa của các thôn, tổ dân phố nơi có đất bị thu hồi để người dân biết và tiếp thu phản ánh của người dân, kịp thời giải thích, điều chỉnh các nội dung cho đúng các quy định trước khi trình UBND thành phố phê duyệt. Thực hiện công khai niêm yết các nội dung liên quan đến việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng; bản vẽ quy hoạch chi tiết, bản đồ hiện trạng khi đất bị thu hồi, quyết định phê duyệt dự án đầu tư, quyết định thu hồi đất, nguồn gốc đất, biên bản điều tra hiện trạng, phương án dự thảo cho các hộ dân bị thu hồi được biết và tham gia ý kiến. Thực hiện nghiêm túc việc công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn thành phố và các xã, phường. Thành phố và các xã, phường đã tổ chức các hội nghị lấy ý kiến của nhân dân trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết của địa phương mình. Thực hiện công khai bản đồ
  • 64. 55 quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại trụ sở UBND thành phố và các xã, phường ngay sau khi quy hoạch được phê duyệt để người dân biết và thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh đó trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trong một số trường hợp còn những bất cập. Việc xem xét tính pháp lý đất đai khi giải phóng mặt bằng chủ yếu căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tuy nhiên trên thực tế vẫn còn một số trường hợp cấp thiếu chính xác, cá biệt có trường hợp trên cùng 01 thửa đất có 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc áp giá để đền bù các loại đất trên cơ sở giá quy định của Nhà nước có lúc không phù hợp với giá chuyển nhượng thực tế nên trong một số trường hợp người dân không tự giác di dời làm chậm tiến độ thi công một số công trình, dự án, công tác đền bù không thỏa đáng dẫn đến đơn thư khiếu kiện, gây mất trật tự. Kết quả khảo sát cho thấy, 98/250 ý kiến (chiếm 39,2%) đánh giá đạt tốt so với yêu cầu, 125/250 ý kiến (chiếm 50%) đánh giá đạt so với yêu cầu, bên cạnh đó có 18/250 ý kiến (chiếm 7,2%) đánh giá chưa đạt yêu cầu. * Công khai nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân Việc thực hiện công khai nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân được các xã, phường thực hiện khá tốt. 16/16 xã, phường trên địa bàn đều có Quy chế làm việc, trong đó quy định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của từng bộ phận và cán bộ, công chức làm việc trong các bộ phận đó. Quy chế làm việc của UBND các xã, phường được niêm yết công khai tại Trụ sở của UBND phường và trên trang thông tin điện tử của thành phố và một số xã, phường. Đồng thời, quy định cán bộ, công chức trong giờ hành chính, trong lúc làm nhiệm vụ phải đeo thẻ cán bộ, công chức. Việc thực hiện công khai nhiệm vụ,
  • 65. 56 quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã đảm bảo mỗi cán bộ, công chức của xã, phường trên địa bàn trong quá trình thực thi công vụ thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn được giao tránh tình trạng vượt quyền, lạm quyền, nhũng nhiễu người dân, đảm bảo cho người dân, doanh nghiệp khi đến làm việc, giao dịch đều có thể giám sát cán bộ, công chức và có phản ánh với cơ quan có thẩm quyền nếu phát hiện cán bộ, công chức làm sai, có thái độ hạch sách, nhũng nhiễu. Tuy nhiên, bên cạnh một số xã, phường làm tốt như phường Hải Đình, Đồng Mỹ, Nam lý, xã Bảo Ninh, Lộc Ninh thì một số xã, phường trên địa bàn vẫn thực hiện niêm yết công khai nhưng mang tính hình thức, cố tình niêm yết ở những vị trí người dân khó tiếp cận; việc đeo thẻ cán bộ, công chức mang hình thức chiếu lệ, đối phó. Vì vậy, vẫn xảy ra tình trạng cán bộ, công chức một số xã, phường bị nhân dân tố cáo làm sai, vượt quyền, lạm quyền, nhũng nhiễu đối với nhân dân khi đến trụ sở giao dịch. Kết quả khảo sát cho thấy, 132/250 ý kiến (chiếm 52,8%) đánh giá đạt tốt so với yêu cầu, 98/250 ý kiến (chiếm 39,2%) đánh giá đạt so với yêu cầu, bên cạnh đó có 18/250 ý kiến (chiếm 7,2%) đánh giá chưa đạt yêu cầu. * Công khai việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp. Trong thời gian qua trên địa bàn các xã, phường ngoài nguồn vốn đầu tư của nhà nước, các địa phương còn huy động nguồn vốn trong nhân dân theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội. Về cơ bản việc thu, quản lý và sử dụng các loại quỹ phục vụ cho mục đích khuyến khích phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, môi trường, nhân đạo và các mục đích phát triển cộng đồng do nhân dân đóng góp trên địa bàn thành phố và các xã, phường được thực hiện đúng
  • 66. 57 quy định của Nhà nước, nhất là tại Điều 16 của Luật Phòng, chống tham nhũng và Thông tư số 19/2005/TT-BTC, 11 tháng 3 năm 2005 của Bộ Tài chính về Hướng dẫn việc công khai tài chính đối với các quỹ có nguồn từ ngân sách nhà nước và các quỹ có nguồn từ các khoản đóng góp của nhân dân. Việc hỗ trợ cho các đối tượng được thụ hưởng bảo đảm kịp thời, đúng mục đích, đúng đối tượng, công khai và minh bạch; việc quyết toán quỹ và các khoản đóng góp của nhân dân được thực hiện đúng quy định. Một số loại quỹ như: Quỹ vì người nghèo, Quỹ đền ơn đáp nghĩa, Quỹ quốc phòng an ninh, Quỹ khuyến học, khuyến tài...khi thu đều có biên lai và được chính quyền các xã, phường công khai trong quá trình sử dụng. Vì vậy, không có tình trạng huy động đóng góp tùy tiện, tràn lan, quá khả năng thực tế của nhân dân. Nhân dân biết được và giám sát các hoạt động chi tiêu, quản lý nguồn tài chính mà mình đóng góp. Trong xây dựng cơ bản, thực hiện công khai, minh bạch từ khâu làm thủ tục thi công, thanh quyết toán, giám sát chất lượng công trình thông qua Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng nhờ đó đã ngăn chặn và hạn chế tiêu cực. Nhiều xã, phường còn thành thành lập “sổ vàng” để ghi nhận các cá nhân, tổ chức có sự hỗ trợ và đóng góp tiền cho các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng các công trình phúc lợi của địa phương. Chính nhờ làm tốt việc công khai, minh bạch trong việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, các nguồn vốn huy động trong nhân dân nên đã tạo được sự đồng tình hưởng ứng cao từ nhân dân trong thực hiện các đề án xã hội hóa với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, đưa lại hiệu quả cao như: đề án xây dựng đường giao thông quy mô nhỏ từ 2008 đến nay thành phố đã đầu tư được 166,04 km đường bê tông với tổng kinh phí đầu tư 159,09 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn huy động từ sự đóng góp của nhân dân là 30,86 tỷ đồng. Xây dựng được 154.768,97 m2 vỉa hè với tổng kinh phí 87.385 triệu
  • 67. 58 đồng, trong đó nguồn vốn huy động từ sự đóng góp của nhân dân là 12.630 triệu đồng. Xây dựng 48 tuyến điện chiếu sáng các tuyến đường vừa và nhỏ trong khu dân cư với tổng chiều dài 49,56 km với kinh phí 11.998 triệu đồng, trong đó vốn đóng góp của nhân dân 6.977 triệu đồng. Nguồn vốn đóng góp cho chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới 207,25 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn huy động từ nhân dân là 50.746 triệu đồng Ngoài ra chương trình xây dựng nông thôn mới còn huy động được 1.789 ngày công lao động của nhân dân... Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn có một số xã, phường Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng chưa phát huy tốt chức năng kiểm tra, giám sát của mình do đó dẫn đến còn có nhiều công trình xây dựng chưa đảm bảo chất lượng, hiệu quả đầu tư và sử dụng nguồn vốn của nhân dân trong xây dựng các công trình dân sinh chưa cao, làm mất lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của chính quyền, cũng như tính minh bạch của chính quyền trong đầu tư xây dựng các công trình trên địa bàn. Kết quả khảo sát cho thấy, 119/250 ý kiến (chiếm 47,6%) đánh giá đạt tốt so với yêu cầu, 116/250 ý kiến (chiếm 46,4%) đánh giá đạt so với yêu cầu, bên cạnh đó có 11/250 ý kiến (chiếm 4,4%) đánh giá chưa đạt yêu cầu. * Công khai các chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế Để giúp cho nhân dân tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi của nhà nước cũng như của các chương trình, dự án của các tổ chức phi chính phủ, thời gian qua UBND các xã, phường trên địa bàn thành phố Đồng Hới đã phối hợp tốt với các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp để tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân về các chương trình vay vốn ưu đãi của nhà nước để phát
  • 68. 59 triển sản xuất, kinh doanh, nhất là nguồn vốn vay ưu đãi qua Ngân hàng Chính sách xã hội với các chương trình cho vay như: Chương trình cho vay hộ nghèo, hộ mới thoát nghèo; học sinh, sinh viên; xuất khẩu lao động; giải quyết việc làm; cho vay theo quyết định 48 của Chính Phủ; cho vay sản xuất, kinh doanh; cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.... Chính nhờ làm tốt công tác tuyên truyền nên tổng dư nợ vốn vay tại Ngân hàng chính sách xã hội thành phố (đến ngày 31/12/2016) là 148,2 tỷ đồng với 6.037 hộ hộ còn dư nợ, trong đó ủy thác qua các Hội đoàn thể 146,4 tỷ đồng, chiếm 98,8% tổng dư nợ. Thông qua tiếp vận nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi mà nhiều hộ dân trên địa bàn các xã, phường, nhất là các xã khó khăn như Nghĩa Ninh, Thuận Đức có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh làm kinh tế vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 2,61% năm 2010 xuống còn 1% năm 2016. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, nâng cao. Về phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế được thực hiện chặt chẽ đảm bảo dân chủ, công khai, đúng đối tượng. Hiện nay 16/16 xã, phường trên địa bàn thành phố đều có thành lập Ban giảm nghèo do đồng chí Phó Chủ tịch UBND xã, phường làm Trưởng ban. Ban giảm nghèo thực hiện chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách giảm nghèo trên địa bàn xã, phường. Đến tháng 12/2016 số dư nợ chương trình cho vay hộ nghèo, hộ mới thoát nghèo tại Ngân hàng chính sách xã hội thành phố đạt 12,4 tỷ đồng với 310 hộ vay. Đối với các hộ nghèo, cận nghèo ngoài việc quan tâm tạo điều kiện vay vốn phát triển sản xuất, đây cũng là đối tượng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm trên nhiều mặt. Là địa bàn có nhiều xã, phường tiếp giáp với vùng ven biển, vùng trũng nên thường xuyên phải gánh chịu những thiệt hại nặng
  • 69. 60 nề từ các đợt thiên tai, lụt bão. Sau mỗi đợt thiên tai, lụt bão đi qua, công tác cứu trợ khắc phục hậu quả được quan tâm thực hiện, ngoài những hộ gia đình bị thiệt hại nặng thì những đối tượng hộ nghèo, cận nghèo là những đối tượng được ưu tiên cứu trợ, hay trong các dịp lễ, tết các nguồn tiền, hàng của nhà nước hỗ trợ cho hộ nghèo, cận nghèo cũng được chuyển đến tận tay. Nhờ làm tốt công tác bình xét hộ nghèo nên thời gian qua trên địa bàn các xã, phường hạn chế được tình trạng khiếu kiện, khiếu nại về vay vốn hoặc cứu trợ cho các đối tượng hộ nghèo, cận nghèo. Chương trình xóa nhà tạm cho hộ nghèo theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg, ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ được thành phố, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội, cũng như các xã, phường quan tâm triển khai thực hiện, toàn thành phố đã hỗ trợ sửa chữa, xây mới 358 nhà tình thương, tình nghĩa với vốn đầu tư hơn 18 tỷ đồng, thành phố cơ bản hoàn thành việc xóa nhà tạm cho hộ nghèo trên địa bàn. 100% hộ nghèo trên địa bàn thành phố theo kết quả bình xét được cấp giấy chứng nhận hàng năm và được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí theo Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo hiểm y tế và Thông tư số 09/2009/TTLT-BYT-BTC ngày 14/8/2009 của liên Bộ Y tế - Bộ Tài chính hướng dẫn về thực hiện bảo hiểm y tế. Kết quả khảo sát cho thấy, 160/250 ý kiến (chiếm 64%) đánh giá đạt tốt so với yêu cầu, 81/250 ý kiến (chiếm 32,4%) đánh giá đạt so với yêu cầu. * Công khai đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã Từ 2008 đến nay, về đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn thành phố không có sự thay đổi (6 xã, 10 phường), chỉ có chia tách và thành lập mới 01 thôn thuộc địa bàn xã Bảo Ninh là thôn Mỹ Cảnh chia tách từ thôn Sa Động (xã Bảo Ninh) quá trình thành lập đã bám sát quy định tại Quy chế tổ chức và
  • 70. 61 hoạt động của thôn và tổ dân phố (ban hành kèm theo Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV, ngày 06/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ) và sau này là Thông tư số 04/2012/TT-BNV ngày 31/8/2012 của Bộ Nội vụ Hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố theo đó Ủy ban nhân dân thành phố giao Ủy ban nhân dân xã Bảo Ninh xây dựng Đề án chia tách và thành lập thôn mới, trong đề án đã nêu rõ: Sự cần thiết thành lập thôn mới, tên gọi của thôn mới, vị trí địa lý, ranh giới của thôn mới, dân số (số hộ gia đình, số nhân khẩu) của thôn mới, diện tích tự nhiên của thôn mới. Sau đó UBND xã đã tổ chức lấy ý kiến của đại diện hộ gia đình trong khu vực thành lập thôn mới và đã được đa số (trên 50%) cử tri đại diện hộ gia đình trong khu vực thành lập thôn mới tán thành, UBND xã hoàn chỉnh hồ sơ (kèm theo biên bản lấy ý kiến) trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua Nghị quyết, sau khi có Nghị quyết HĐND xã, Ủy ban nhân dân xã hoàn chỉnh hồ sơ trình Ủy ban nhân dân thành phố. Ủy ban nhân dân thành phố có Tờ trình (kèm hồ sơ thành lập thôn mới của Ủy ban nhân dân xã) gửi Sở Nội vụ để thẩm định trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, sau khi thẩm định đạt các yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét ban hành Nghị quyết thành lập thôn mới. Sau khi có Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành Quyết định thành lập thôn mới. * Công khai kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND cấp xã Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt động thi hành công vụ. Đây là những người trực tiếp thực hiện và đưa chủ trương, đường lối, nghị quyết của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân, tuyên
  • 71. 62 truyền, vận động và tổ chức nhân dân thực hiện. Hiện nay, đa số các cán bộ, công chức cấp xã có tinh thần trách nhiệm trong công việc được giao, tuy nhiên bên cạnh đó có một bộ phận cán bộ, công chức cấp xã còn thiếu tinh thần trách nhiệm với nhân dân, chưa thật sự tâm huyết với công việc, một số ít có biểu hiện suy thoái đạo đức, vun vén lợi ích cá nhân, gây mất đoàn kết, cơ hội, bè phái, cục bộ gia đình, dòng họ đã làm giảm lòng tin của cán bộ và nhân dân. Thời gian gần đây nhiều vụ việc liên quan đến cán bộ, công chức cấp xã được báo chí phanh phui làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân như: 1.250 con gà đáng lẽ cấp cho người nghèo trong chương trình hỗ trợ Nông thôn mới, không hiểu vì sao lại “chạy thẳng” vào chuồng nhà ông Bí thư và Chủ tịch cùng cán bộ xã Quế Anh (Quế Sơn, Quảng Nam), số 24 con dê của thị xã Bỉm Sơn (Thanh Hóa) dành hỗ trợ các hộ nghèo xã Thành Yên (huyện Thạch Thành, Thanh Hóa) đến tay đúng đối tượng, 12 con còn lại được đưa thẳng vào trang trại của... ông Bí thư Huyện uỷ huyện Thạch Thành. Hay đầu năm 2015, các cán bộ thôn và xã Ninh Tây (thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa) đã “dồn” thẳng đàn bò 10 con mà Nhà nước hỗ trợ dân nghèo về nhà người thân của mình và nhiều vụ việc tương tự khác [54]. Chính vì vậy công khai kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố là hết sức cần thiết. Trong thời gian, qua kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố trên địa bàn thành phố được quan tâm thực hiện nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn xảy ra một số vụ việc cán bộ, công chức thành phố và một số xã, phường lợi dụng chức vụ làm trái các quy định của nhà nước gây dư luận không tốt trong nhân dân như: Kế toán phòng lao động, thương binh - xã hội thành phố tham ô số tiền hơn 50 triệu đồng từ nguồn trợ cấp hàng tháng và tiền quà tết của các đối tượng chính sách, bị các
  • 72. 63 cơ quan điều tra truy tố và đưa ra Tòa án nhân dân thành phố xét xử; vụ rút ruột công trình, nghiệm thu khống trong XDCB đường vào trạm Y tế TK7- phường Đồng Sơn - Đồng Hới làm thất thoát số tiền lên tới hơn 180 triệu đồng của Chủ tịch UBND phường Đồng Sơn (năm 2010), vụ đồng chí Bí thư, Chủ tịch HĐND phường và một số cán bộ phường Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới lợi dụng chức vụ, quyền hạn mua bán trái phép đất lăng mộ nhằm thu lợi; vụ đồng chí Chủ tịch UBND phường Phú Hải bị thi hành kỷ luật vì vi phạm chính sách đất đai... Để củng cố lòng tin của nhân dân, thành phố đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các địa phương thực hiện công khai, minh bạch các kết luận kiểm tra, thanh tra về giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố trên địa bàn, qua đó tạo sự đồng thuận trong nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị và đảm bảo phát huy dân chủ. Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND xã, phường được Ủy ban MTTQ Việt Nam các xã, phường phối hợp HĐND và UBND cùng cấp đảm bảo đúng nguyên tắc, thời gian, trình tự, thủ tục và thành phần tham gia lấy phiếu tín nhiệm theo quy định tại Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP- UBTWMTTQVN; theo đó, Trưởng Ban công tác Mặt trận thôn, tổ dân phố đã phối hợp với Trưởng thôn, tổ dân phố tổ chức hội nghị để nhân dân tham gia góp ý kiến vào bản tự kiểm điểm của những người được đưa ra lấy phiếu tín nhiệm trước khi Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam các xã, phường tổ chức hội nghị lấy phiếu tín nhiệm. Việc làm này là một trong những nội dung nhằm phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân trên lĩnh vực chính trị, được nhân dân đồng tình ủng hộ, với nhiều ý kiến đóng góp xây dựng, chân tình, thẳng thắn của nhân dân và Mặt trận cơ sở đã giúp cho các cấp ủy Đảng và chính quyền nắm rõ hơn, cụ thể hơn về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
  • 73. 64 sống, năng lực quản lý, điều hành và trách nhiệm đối với nhân dân của đội ngũ cán bộ chủ chốt các xã, phường; đồng thời thông qua kết quả lấy phiếu tín nhiệm giúp cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các xã, phường tự nhìn nhận đánh giá đúng hơn về bản thân mình, phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, khuyết điểm, nhằm xây dựng cho bản thân phong cách, lề lối làm việc thật sự gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt hơn. * Công khai kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã Cấp ủy, chính quyền các xã, phường trên địa bàn thành phố đã thực hiện khá tốt việc công khai kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã như: xin ý kiến hội nghị cử tri vào dự thảo báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết HĐND, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, dự thảo quy hoạch kế hoạch sử dụng đất chi tiết, các phương án phát triển sản xuất, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi… bằng hình thức thông qua hội nghị tiếp xúc cử tri trước các kỳ họp HĐND xã, phường, trong kỳ họp HĐND xã, phường để xin ý kiến. Sau các cuộc họp, trên cơ sở các ý kiến tham gia đóng góp của nhân dân và các đại biểu HĐND tại kỳ họp, HĐND, UBND tổng hợp bổ sung, chỉnh sửa ban hành nghị quyết và tổ chức triển khai thực hiện. Thời gian qua, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, các xã đã làm tốt công tác họp thôn để lấy ý kiến của nhân dân về đề án quy hoạch xây dựng nông thôn mới trước khi trình UBND thành phố xem xét phê duyệt theo thẩm quyền, sau khi có quyết định phê duyệt, các xã tiến hành làm lễ công bố công khai quy hoạch đến các thôn và tiến hành cắm mốc quy hoạch các tuyến đường liên thôn, liên xã. Hoặc việc thực hiện chủ trương, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của thành phố qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ thành phố, theo đó HĐND, UBND thành phố đã ban hành nhiều nghị
  • 74. 65 quyết, đề án nhằm phát huy lợi thế của từng địa phương trong phát triển kinh tế - xã hội như: Đề án phát triển kinh tế vùng gò đồi phía Tây thành phố; đề án phát triển rau an toàn theo tiêu chuẩn Vietgap; Đề án xã hội hóa xây dựng đường giao thông quy mô nhỏ; Đề án xã hội hóa xây dựng vĩa hè; Đề án phát triển cây xanh đường phố; chương trình phát triển dịch vụ- thương mại, Đề án về xây dựng và phát triển các Cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố.. tất các các đề án nêu trên trước khi đi vào tổ chức thực hiện có tổ chức lấy ý rộng rãi của trong nhân dân, nhất là đối với những hộ dân có khả năng tham gia và trong phạm vi thực hiện đề án, chính nhờ làm tốt công tác này mà các đề án triển khai đến nay cơ bản đem lại hiệu quả thiết thực, phát huy được lợi thế của từng địa phương, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho nhân dân ở nhiều xã, phường trên địa bàn thành phố. * Công khai đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu Trên cơ sở dự toán thu, chi ngân sách do UBND thành phố giao hằng năm, UBND các xã, phường xây dựng dự toán thu, chi ngân sách tại địa phương để trình HĐND cùng cấp xem xét, thông qua vào kỳ họp cuối năm. Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước 2002, thu ngân sách xã, phường gồm 03 nguồn thu chủ yếu là: Các khoản thu 100% bao gồm phí và lệ phí, phí chợ, phí chứng thực, phí vệ sinh môi trường, hoa lợi công sản, thu từ qũy đất công ích, thu đóng góp tự nguyện và thu khác…; các khoản thu theo tỷ lệ như: Thuế môn bài từ hộ cá thể, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, thuế VAT, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thu tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ…và nguồn thu bổ sung từ ngân sách cấp trên (thu bổ sung thường xuyên, thu bổ sung mục tiêu quốc gia, thu bổ sung môi trường). Về quy định đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền
  • 75. 66 cấp xã trực tiếp thu được niêm yết tại địa điểm thu hoặc thông báo công khai về tên phí, lệ phí, mức thu, phương thức thu và cơ quan quy định thu, đặc biệt nhiều xã, phường đã thực hiện việc thông báo trước 10 ngày để người dân có sự chuẩn bị trước. Nhờ làm tốt công khai đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí, cũng như khai thác và quản lý tốt nguồn thu nên hàng năm UBND các xã, phường cơ bản hoàn thành các khoản thu ngân sách tại địa phương mình trong đó có các khoản thu liên quan đến phí và lệ phí, một số xã, phường có kết quả thu đạt cao như phường Bắc Lý, Nam Lý, Hải Đình, Đồng Mỹ, Đồng Phú, xã Bảo Ninh...góp phần hoàn thành chỉ tiêu thu ngân sách của thành phố qua hàng năm cụ thể như: năm 2011 tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố là 308 tỷ đồng đạt 103% so với dự toán tỉnh giao; năm 2012 thu ngân sách đạt 92,4% dự toán Tỉnh giao; ; năm 2013 đạt 380 tỷ đồng, đạt 64% dự toán; năm 2014 là 550 tỷ đồng, tăng 22,4% so với dự toán tỉnh giao, năm 2015 là 678 tỷ đồng, đạt 120% dự toán thành phố giao, 121,2% dự toán tỉnh giao; năm 2016 là 1.062, đạt 128% so với dự toán tỉnh giao. * Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã thực hiện Thủ tục hành chính đang là vấn đề được toàn xã hội quan tâm, không chỉ là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước mà còn là nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp. Cải cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo, trong đó trọng tâm là việc thực thực Quyết định số 30/QĐ-TTg, 10/01/200 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 – 2010; Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương.
  • 76. 67 Trên cơ sở đó, cùng với sự chỉ đạo của UBND tỉnh, UBND thành phố và 16 xã, phường trên địa bàn đều triển khai thực hiện tiếp nhận và trả kết quả theo quy định, thống nhất về lĩnh vực, trình tự tiếp nhận, giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, nhất là việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố được đẩy mạnh và đạt được những kết quả khả quan, như đã xây dựng được các quy trình giải quyết công việc một cách khoa học; từng bước cải tiến phương pháp làm việc, tạo điều kiện thuận lợi cho từng cán bộ, công chức giải quyết công việc thông suốt, kịp thời, hiệu quả; đơn giản hóa quy trình và rút ngắn thời gian giải quyết công việc của doanh nghiệp, địa phương, cơ sở; đồng thời thực hiện niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã, phường 127 thủ tục liên quan đến 13 lĩnh vực được áp dụng tại cấp xã, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân khi đến làm việc. Việc giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa và một cửa liên thông tại các xã, phường đảm bảo thời gian theo quy định, đáp ứng được yêu cầu của người dân và doanh nghiệp khi đến giao dịch tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh đó do trụ sở làm việc của một số xã, phường còn chật hẹp, nên hầu hết các xã, phường mới chỉ niêm yết công khai được các TTHC có tần suất thực hiện lớn như các TTHC về lĩnh vực hộ tịch, địa chính còn TTHC thuộc các lĩnh vực khác mới chỉ được tập hợp thành quyển để phục vụ cho việc tra cứu thực hiện của cán bộ trực tiếp tiếp nhận, giải quyết TTHC. Bên cạnh đó việc niêm yết thiếu danh mục TTHC từng lĩnh vực, dẫn đến gây khó khăn cho người dân trong việc tra cứu và tìm kiếm, vì mất rất nhiều thời gian để xác định được thủ tục mình cần tìm nằm ở ô niêm yết nào hoặc nằm ở trang nào trong số thủ tục đang niêm yết. Việc đơn giản hóa TTHC chưa được thực hiện thường xuyên, triệt để; một số cán bộ giải quyết
  • 77. 68 công việc còn chậm, vẫn còn hồ sơ trễ hẹn, nhất là các hô sơ thủ tục liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhận thức của một số cán bộ, công chức chưa đầy đủ, chưa thấy hết ý nghĩa của công tác niêm yết công khai các TTHC nên không chú trọng thực hiện hết trách nhiệm đối với công tác này; đồng thời các tổ chức, cá nhân khi đến giao dịch chưa phát huy quyền phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính, TTHC trong đó có cả việc phản ánh, kiến nghị về các hành vi gây phiền hà, nhũng nhiễu trong quá trình giải quyết TTHC của công chức nhà nước, ngoài ra còn có quyền giám sát việc giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước... do vậy khi các cơ quan, đơn vị trực tiếp tiếp nhận, giải quyết TTHC có thực hiện niêm yết công khai TTHC đầy đủ, đúng yêu cầu hay không đều không có bất cứ phản ứng nào của các đối tượng thực hiện TTHC. * Công khai những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết Việc thực hiện công khai những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được thực hiện theo đúng quy định. Thành phố và các xã, phường đã thông qua các kỳ họp HĐND các cấp, qua tiếp xúc cử tri, thông qua các cuộc họp dân để lấy ý kiến tham gia đóng góp của các cơ quan, tổ chức và đại diện cộng đồng dân cư có liên quan vào các chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích thiết thân của người dân, những vấn đề mà nhân dân quan tâm và theo quy định của pháp luật cần phải công khai cho dân biết, đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định, tạo được sự đồng thuận cao của các cơ quan, tổ chức và toàn thể nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện, góp phần quan trọng thúc đẩy thành phố phát triển.
  • 78. 69 Bảng 2.2: Đánh giá về mức độ công khai 11 nội dung cần phải công khai cho nhân dân biết theo quy định của pháp lệnh 34 TT Nội dung Đạt tốt so với yêu cầu Đạt so với yêu cầu Chưa đạt so với yêu cầu Khó đánh giá Số phiếu khảo sát Tỷ lệ (%) Số phiếu khảo sát Tỷ lệ (%) Số phiếu khảo sát Tỷ lệ (%) Số phiếu khảo sát Tỷ lệ (%) 1 Công khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phư- ơng án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã. 140 56 86 34,4 18 7,2 6 2,4 2 Công khai dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch dân cư trên địa bàn cấp xã 98 39,2 125 50 18 7,2 9 3,6 3 Công khai nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân 132 52,8 98 39,2 18 7,2 2 0,8 4 Công khai việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp. 119 47,6 116 46,4 11 4,4 4 1,6 5 Công khai các chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất, trợ 160 64 85 34 5 2 - -
  • 79. 70 cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế 6 Công khai đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã 170 68 80 32 - - - - 7 Công khai kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND cấp xã 146 58,4 92 36,8 8 3,2 4 1,6 8 Công khai kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã 150 60 90 36 7 2,8 3 1,2 9 Công khai đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu 127 50,8 113 45,2 8 3,2 2 0,8 10 Công khai các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã thực hiện 146 58,4 93 37,2 11 4,4 - - 11 Công khai những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết 118 47,2 122 48,8 10 4 - - (Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra khảo sát của học viên) 2.2.3.2. Thực trạng việc thực hiện minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới.
  • 80. 71 Công khai và minh bạch luôn gắn liền với nhau và là điều kiện để mọi người dân tiếp cận được các vấn đề cần quan tâm; là điều kiện để nhân dân có thể nhìn nhận, suy xét, đánh giá các vấn đề một cách chính xác, khách quan. Trong hoạt động quản lý nhà nước, công khai nghĩa là mọi hoạt động của chính quyền các cấp phải được công bố hoặc phổ biến, truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm cho mọi người dân có thể tiếp cận được các quyết định của nhà nước một cách dễ dàng thì minh bạch nghĩa là không những phải công khai mà còn phải trong sáng, không khuất tất, không rắc rối, không gây khó khăn cho công dân trong tiếp cận thông tin, nhất là những thông tin liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân. Nếu như công khai vừa là nhiệm vụ, vừa là hoạt động cụ thể của các cơ quan, tổ chức, đơn vị thì minh bạch bao hàm trạng thái mà người dân biết rõ, hiểu đúng bản chất nội dung đã được công khai. Như vậy, công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước gắn quyền của người dân trong việc tiếp cận những thông tin, tài liệu chính thức của các cơ quan nhà nước. Đó là trạng thái mà những thông tin liên quan đến hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước được công bố để công chúng biết và khả năng giải trình, làm rõ về những thông tin đó hoặc giải thích, làm rõ về hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật. Trong những năm qua, các xã, phường trên địa bàn thành phố cơ bản thực hiện tốt việc minh bạch. Thể hiện: Cấp ủy, chính quyền các cấp đã thực hiện tốt việc cung cấp các thông tin liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân theo quy định của pháp luật. Việc cung cấp các thông tin này được thực hiện rộng rãi thông qua các cuộc họp của xã, phường, thôn, tổ dân phố, các cuộc họp dân, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mà nhất là hệ thống loa phát thanh ở các thôn, tổ dân phố và thông qua đội ngũ cán bộ làm ở các bộ phận trực tiếp liên quan đến người dân và doanh nghiệp...Đã thực hiện minh bạch trong việc sử dụng các nguồn vốn xây dựng dự án, các đề án
  • 81. 72 xã hội hóa trên địa bàn như xây dựng đường giao thông quy mô nhỏ, lát vĩa hè, lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng trong các khu dân cư; minh bạch trong thực hiện các khoản thu, chi huy động từ nhân dân hoặc do dân đóng góp vào các mục đích như khuyến học, khuyến tài, các hoạt động phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao và minh bạch trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội, minh bạch trong giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo, các kết luận thanh tra, kiểm tra; công khai, minh bạch về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, mức bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất; trình tự, thủ tục, thẩm quyền và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quy hoạch chi tiết và việc phân lô đất ở, đối tượng được giao đất làm nhà ở; các khoản miễn, giảm và đối tượng được miễn, giảm tiền sử dụng đất, thuê đất; minh bạch trong lĩnh vực tài chính công, mua sắm công; minh bạch thủ tục hành chính đối với người dân, doanh nghiệp...Những nội dung này được thể hiện dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật, các báo cáo, thông báo của chính quyền các cấp. Và trên thực tế các cuộc họp HĐND của thành phố và các xã, phường đã được phát thanh, truyền hình công khai để nhân dân theo dõi, các nội dung thảo luận ở các kỳ họp HĐND đều được thể hiện bằng văn bản và được công khai trên Website của thành phố và các xã, phường. Trước khi dự thảo Nghị quyết về các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế xã hội của địa phương đều tổ chức họp dân để nhân dân tham gia góp ý. Đồng thời, chính quyền các cấp đã quan tâm đến việc thực hiện giải trình trước HĐND về những vấn đề mà trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, có tác động đến quyền và lợi ích của nhà nước cũng như nhân dân mà nhân dân quan tâm thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND trong các kỳ họp, trong các buổi tiếp xúc cử tri, thông qua các buổi tiếp dân...Thực hiện tốt Đề án “lãnh đạo các cấp thành phố đối thoại trực tiếp với nhân dân”,
  • 82. 73 Từ năm 2008 đến nay, thành phố đã tổ chức được 167 cuộc đối thoại trực tiếp với các hộ dân liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng các công trình trọng điểm trên địa bàn, công tác quy hoạch, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với 3.986 lượt người tham gia. Nội dung các cuộc đối thoại chủ yếu tập trung nắm bắt và giải quyết những vấn đề phát sinh thuộc thẩm quyền của thành phố; những vướng mắc nổi cộm, búc xúc trong nhân dân liên quan đến các lĩnh vực: xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi phục vụ xã hội (chợ, đường giao thông, quy hoạch, nhà văn hóa, trung tâm văn hóa, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh…), công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng (công trình nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1A đoạn qua địa bàn thành phố; công trình cầu Nhật lệ 2, hạ tầng kỷ thuật các công trình tạo quỹ đất, ô nhiễm môi trường biển...), chế độ chính sách cho người có công, việc làm cho người lao động, vệ sinh môi trường, công tác cán bộ, vướng mắc của hộ kinh doanh về chính sách, chế độ và nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước, hỗ trợ, đền bù thiệt hại cho các hộ sản xuất kinh doanh do sự cố môi trường biển...Qua đối thoại trực tiếp góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi lên ở cơ sở, nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch trong thực hiện nhiệm vụ được giao, tạo được sự đồng thuận cao của nhân dân trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Duy trì thường xuyên các buổi tiếp công dân (theo định kỳ 1 tháng 2 lần vào ngày 1 và 15 của tháng). Từ năm 2008 đến nay, các xã, phường đã tiếp 1.179 lượt công dân đến kiến nghị, phản ánh với hơn 1.000 ý kiến phản ánh, kiến nghị. Nội dung công dân đến kiến nghị, phản ánh chủ yếu là ở lĩnh vực đất đai (tranh chấp đất đai, đề nghị cấp GCNQSD đất); lĩnh vực bồi thường giải phóng mặt bằng; chế độ chính sách xã hội; đền bù thiệt hại do sự cố môi trường biển, vấn đề vệ sinh môi trường…
  • 83. 74 Tuy nhiên, qua việc tham dự các buổi tiếp dân, các hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND các cấp, bản thân cũng nhận thấy các chính quyền các phường, xã trên địa bàn đã có nhiều cố gắng nhưng đối với một số vấn đề nhạy cảm liên quan đến công tác đền bù giải phóng mặt bằng, quản lý đất đai, sử dụng ngân sách...việc trả lời chất vấn còn vòng vo, chưa tạo được sự thỏa mãn đối với người chất vấn. Lời nói của lãnh đạo chưa đi đôi với việc làm, nhiều vụ, việc nhân dân chất vấn từ kỳ họp này đến kỳ họp khác vẫn chưa được giải quyết. Minh bạch trong thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố còn thể hiện ở việc chính quyền các phường, xã tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào quá trình quản lý nhà nước thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát của các đại biểu dân cử hoặc qua Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng. Phát huy vai trò của Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội trong giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước của các địa phương. Từ năm 2008 đến nay, thành phố đã tổ chức 53 cuộc thanh tra theo kế hoạch; 01 cuộc thanh tra đột xuất. Nội dung thanh tra tập trung chủ yếu vào công tác quản lý tài chính, ngân sách, xây dựng cơ bản và quản lý đất đai, qua đó kịp thời phát hiện những tồn tại, hạn chế, những thiếu sót trong công tác quản lý trên các lĩnh vực, đồng thời phát hiện sai phạm với số tiền 2.668.219.000 đồng; kiến nghị thu hồi nộp ngân sách nhà nước với số tiền 1.669.496.200 đồng. Các địa phương đã tiến hành 204 cuộc kiểm tra, giám sát, phát hiện sai phạm với số tiền 345.214.000 đồng. Tóm lại, công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố trong những năm qua đã góp phần phát huy quyền dân chủ của người dân, quy định lấy ý kiến người dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng của tỉnh, thành phố và địa phương, tăng cường vai trò giám sát của nhân dân đối với các hoạt động
  • 84. 75 của chính quyền cơ sở. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần bảo đảm quyền tiếp cận pháp luật của nhân dân, bảo đảm sự công khai, minh bạch của các chính sách, pháp luật. Chất lượng giải quyết thủ tục hành chính được nâng cao rõ rệt; mở rộng được hình thức, phạm vi công khai, minh bạch hóa thủ tục hành chính và các thông tin quản lý nhà nước. Cơ chế một cửa tiếp tục được duy trì, mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, tổ chức theo hướng công khai, minh bạch, thuận tiện. Đã tăng cường đánh giá mức độ hài lòng của công dân, tổ chức, lấy đó làm thước đo về chất lượng phục vụ của cơ quan hành chính. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính được triển khai thực hiện tốt, từng bước phấn đấu theo hướng xây dựng “chính quyền điện tử”, nổi bật là hệ thống một cửa liên thông hiện đại thành phố và một số xã, phường. Mạng lưới kết nối thông tin giữa các cơ quan đơn vị ngày càng được mở rộng, hình thành cơ sở dữ liệu chung trong nhiều lĩnh vực quản lý. Việc triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN 9001:2008 vào hoạt động quản lý nhà nước đã được địa phương tích cực thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, giúp cho quy trình giải quyết công việc của cơ quan, đơn vị được minh bạch, chất lượng công việc được nâng lên. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy ở một số địa phương việc cung cấp thông tin nhằm đảm bảo sự minh bạch còn mang tính hình thức, qua loa, chiếu lệ; các thông tin cung cấp quá “rối rắm”, cung cấp thông tin không đi kèm với sự giải trình, thuyết minh về thông tin khiến cho người xem không hiểu. Ví dụ về việc công khai, minh bạch trong thực hiện đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông quy mô nhỏ trên địa bàn phường N trong năm 2016 với tổng số vốn đầu tư là 2.775.654 triệu đồng/2.098 km đường (kinh phí dự trù cho 1km đường có mặt cắt từ 3m đến 5m là 1.323 triệu đồng), tuy nhiên quá trình triển khai xây dựng các tuyến đường các chi phí cụ thể về nguyên
  • 85. 76 vật liệu, nhân công, chất lượng, nguồn gốc nguyên vật liệu không được công khai rõ cho nhân dân; các công trình hoàn thành đưa vào sử dụng một thời gian ngắn đã bị xuống cấp, nhà thầu hết thời gian bảo hành - không có trách nhiệm phải sửa chữa, người dân kiến nghị với chính quyền - chính quyền trả lời chưa có ngân sách để sửa chữa (với việc sử dụng ngân sách đầu tư và thời gian sử dụng công trình để thấy được các nhà thầu đã không đảm bảo quy trình cũng như chất lượng các nguồn nguyên vật liệu trong quá trình thi công). Việc minh bạch, nhất là trong xây dựng cơ bản, trong kê khai tài sản, thu nhập, trong sử dụng của nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh và thành phố, trong đền bù giải phóng mặt bằng...ở các địa phương vẫn còn mang tính hình thức, chiếu lệ; minh bạch chưa đi đôi với trách nhiệm giải trình, hoặc có giải trình thì thực hiện qua loa, chiếu lệ chưa tạo cho người chất vấn có được câu trả lời thỏa mãn, vì vậy nên vẫn còn tình trạng khiếu kiện, tố cáo xảy ra và cá biệt có địa phương do sự không minh bạch của người đứng đầu trong thực hiện các công trình, dự án trên địa bàn, trong thu nhập và tài sản mà dẫn đến nội bộ đấu đá nhau, mất đoàn kết, lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền ở địa phương bị giảm sút. Bảng 2.3. Đánh giá mức độ minh bạch của chính quyền cấp xã trong thực hiện pháp lệnh 34 TT Mức độ đánh giá Số phiếu khảo sát Tỷ lệ % 1. Đạt tốt so với yêu cầu 80 32% 2. Đạt so với yêu cầu 79 31,6% 3. Chưa đạt so với yêu cầu 91 36,4% 4. Khó đánh giá - - Tổng cộng: 250 100% (Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra khảo sát của học viên)
  • 86. 77 2.3. Đánh giá kết quả thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình 2.3.1. Ưu điểm Việc thực hiện dân chủ cơ sở ở xã, phường nói chung và thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng đã có những tác động tích cực đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn thành phố Đồng Hới. Trên lĩnh vực chính trị: việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần quan trọng trong việc đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy Đảng, củng cố chính quyền, xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở các phường, xã trên địa bàn thành phố vững mạnh. Các cấp ủy Đảng đã gắn việc thực hiện pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương IV (khóa XI) một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ và thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, tạo được sự chuyển biến tích cực từ nhận thức đến hành động trong việc rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống của cán bộ, đảng viên, góp phần quan trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu với nhân dân, phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Hoạt động của các cấp ủy Đảng, chính quyền được đổi mới theo hướng gần dân, sát dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn, thư
  • 87. 78 khiếu nại, tố cáo của công dân được đổi mới, các xã, phường đã phân công, bố trí lãnh đạo UBND và cán bộ phụ trách các bộ phận chuyên môn trực tiếp tiếp công dân định kỳ vào các ngày 1 và 15 hàng tháng để giải quyết những đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, góp phần giảm thiểu tình trạng khiếu kiện kéo dài, vượt cấp. Một số xã, phường đã thực hiện tốt quy định người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan nhà nước đối thoại trực tiếp với nhân dân, thông qua việc tổ chức các cuộc họp để lãnh đạo tiếp xúc đối thoại trực tiếp với nhân dân tại khu dân cư; đồng thời thực hiện công khai kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, các vấn đề phức tạp ở các phường, xã, thôn, tổ dân phố đã có những hiệu quả tích cực, giúp cơ sở giải quyết được những vấn đề nổi cộm, bức xúc liên quan đến quyền, lợi ích của nhà nước và người dân, làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở...được đông đảo nhân dân đồng tình, ủng hộ, lòng tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền được củng cố. Bộ máy chính quyền được củng cố, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; cải cách hành chính được đẩy mạnh, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính gắn với thực hiện cơ chế một cửa, tạo thuận lợi, minh bạch cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết các thủ tục hành chính. Các xã, phường đã chủ trọng đến việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo hướng nâng cao trách nhiệm, năng động, sáng tạo, tận tụy trong thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện tốt quy định về trách nhiệm và xử lý trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Phương pháp quản lý hành chính dân chủ, công khai, đã giúp cho quyền làm chủ của đảng viên, cán bộ, công chức được mở rộng, kỷ cương pháp luật được tăng cường; nội quy, kỷ luật hành chính được thực hiện khá tốt, nội bộ cơ quan đoàn kết, ý thức phục vụ nhân dân được nâng cao; góp phần tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
  • 88. 79 Trên lĩnh vực kinh tế: công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia phát triển kinh tế của địa phương. Cụ thể các phường, xã đã thực hiện công khai những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của chính quyền địa phương trong phát triển kinh tế, nhất là những vấn đề liên quan đến lợi ích của nhân dân: như luật kinh tế, luật hợp tác xã, luật lao động hoặc các chủ trương về phát triển kinh tế của địa phương, quy hoạch sử dụng đất đai, các khoản thuế, phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển ngành nghề, định hướng sản xuất, kinh doanh...Trên cơ sở đó các hộ kinh doanh, sản xuất ở các phường, xã được tự do, tự chủ trong việc lựa chọn hình thức sản xuất, kinh doanh, trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ...theo quy định của pháp luật; người lao động được tự do liên doanh liên kết, tham gia sắp xếp lại sản xuất, tự tìm việc làm và tạo việc làm cho người khác, tạo nên một môi trường kinh tế sôi động, đa dạng và hiệu quả hơn trước. Với việc triển khai thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói chung và thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh nói riêng đã góp phần quan trọng trong việc củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và nhà nước mà nhất là với công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, từ đó tạo được sự đồng thuận cao của nhân dân đối với các chủ trương về xây dựng và phát triển kinh tế của thành phố nói chung và của địa phương nói riêng nhất là đối với các chủ trương về thực hiện các đề án xã hội hóa, nhà nước và nhân dân cùng làm trong xây dựng đường giao thông quy mô nhỏ; lát vĩa hè; lắp đặt điện chiếu sáng ở các khu dân cư; trồng cây xanh đường phố; thu gom rác thải, quét đường, vĩa hè; chương trình xây dựng nông thôn mới. Tính từ năm 2010 đến nay thành phố đã huy động được một nguồn lực rất lớn trong nhân dân để thực hiện các đề án xã hội hóa trên địa bàn thành phố cụ thể đã xây
  • 89. 80 dựng được 665,45 km đường giao thông quy mô nhỏ; lát vĩa hè được 298,76m2 ; điện chiếu sáng tại các ngõ phố trong khu dân cư đạt trên 60%; trồng được 15.986 cây xanh ở 136 tuyến đường, góp phần tạo ra một diện mạo mới cho thành phố khang trang hơn, xanh hơn, sạch hơn, đẹp hơn. Đồng thời việc công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn còn tạo điều kiện cho nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cấp chính quyền trong xây dựng các công trình do nhân dân đóng góp trên địa bàn, thông qua Ban giám sát đầu tư cộng đồng, Ban thanh tra nhân dân, góp phần ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực, tham ô, làm thất thoát nguyên vật liệu...và phát hiện ra những trường hợp tiêu cực, báo cáo cấp có thẩm quyền để kịp thời xử lý. Trên lĩnh vực văn hóa-xã hội: công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh ở cơ sở, tạo bước chuyển biến mới tích cực về xây dựng cộng đồng dân cư trên địa bàn. Nhất là đã tạo được sự đồng thuận và sự hưởng ứng tích cực của nhân dân thực hiện công tác xã hội hóa trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, thể thao, hệ thống trường lớp ngày càng khang trang, trang thiết bị dạy học đầy đủ hiện đại đáp ứng nhu cầu dạy và học, thành phố hiện có 92,4% trường đạt chuẩn quốc gia, 100% xã, phường có trạm y tế và đạt chuẩn quốc gia về y tế. Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” phát triển sâu rộng, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Tỷ lệ gia đình văn hóa, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa ngày càng cao. Thành phố hiện có 93,4% gia đình văn hóa, 75,5% thôn, tổ dân phố văn hóa. Đặc biệt, trong những năm gần đây, việc thực hiện pháp lệnh 34 đã có những tác động tích cực đến việc triển khai thực hiện nếp sống văn minh đô thị, xây dựng phường đạt chuẩn văn minh, xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn
  • 90. 81 mới theo nghị quyết 05-NQ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy. Đến nay, 100% tôn, tổ dân phố trên địa bàn thành phố xây dựng hương ước, quy ước; các quy ước, hương ước này được bổ sung và sửa đổi hằng năm nhằm theo kịp với xu thế phát triển của xã hội và phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương, thông qua việc thực hiện các hương ước, quy ước nếp sống văn minh đô thị, nhất là ở các phường trung tâm có nhiều chuyển biến tích cực, văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội dần đi vào cuộc sống, được đông đảo cán bộ đảng viên và nhân dân đồng tình, hưởng ứng. Nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc được bảo tồn và phát huy, những hủ tục lạc hậu từng bước được đẩy lùi. Bên cạnh đó việc thực hiện công khai, minh bạch các chủ trương của Đảng và nhà nước về các chính sách hỗ trợ đối với hộ nghèo, hộ khó khăn trong việc xóa nhà tạm, vay vốn sản xuất...giúp người dân tiếp cận được với các chủ trương, từng bước thoát nghèo. Thời gian qua thành phố cùng với các cơ quan, ban ngành và các doanh nghiệp đã làm tốt chủ trương xóa nhà tạm cho hộ nghèo, xây nhà đại đoàn kết, trong 6 năm 2010-2016 đã xây dựng 260 nhà cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, gia đình chính sách, người có công, cơ bản hoàn thành việc xóa nhà tạm cho hộ nghèo trên địa bàn. Các tổ chức đoàn thể cơ sở thông qua ngân hàng chính sách đã cho các hộ nghèo, cận nghèo... vay với mục đích phát triển sản xuất, phục vụ đời sống với số tiền 750 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 2,61% năm 2010 xuống còn 1% năm 2016. Như vậy, việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ nói chung và công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng. Điều đó minh chứng rằng việc thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh được triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả tại các xã, phường trên địa bàn thành phố. Đây là nền tảng và là cơ sở vững chắc cho việc phát huy
  • 91. 82 quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn thành phố Đồng Hới. 2.3.2. Hạn chế Với những kết quả đạt được nêu trên đã khẳng định tính đúng đắn, tác dụng, hiệu quả thiết thực của việc ban hành Pháp lệnh 34 trong đời sống xã hội, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân thành phố Đồng Hới nói riêng và cả nước nói chung trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình tổ chức thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới còn bộc lộ một số hạn chế nhất định: - Nhận thức của cấp ủy, chính quyền một số xã, phường trên địa bàn về vị trí, vai trò của việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn chưa cao, dẫn đến việc triển khai thực hiện còn mang tính hình thức, chiếu lệ, hiệu quả thấp. - Công tác tuyên truyền, triển khai, quán triệt các văn bản của Đảng và Nhà nước về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung và pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng trên địa bàn thành phố Đồng Hới còn chưa thường xuyên, chưa sâu rộng trong nhân dân do đó chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Một số cán bộ và quần chúng nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở dẫn đến ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ ở một số địa phương trong triển khai thực hiện quy chế dân chủ chưa cao, đôi lúc còn xem nhẹ. Công tác biểu dương, khen thưởng cũng như phê phán đối với những biểu hiện tiêu cực vi phạm quy chế dân chủ cơ sở chưa thường xuyên, thiếu kịp thời.
  • 92. 83 - Năng lực điều hành và nhận thức của người đứng đầu trong tổ chức, triển khai thực hiện công khai, minh bạch theo Pháp lệnh 34 ở một số xã, phường còn hạn chế, có mặt lúng túng. Hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của một số xã, phường còn thiếu tích cực, chưa được duy trì thường xuyên, chưa tuân thủ quy chế đề ra. Các thành viên Ban chỉ đạo hoạt động cầm chừng, thiếu sự phối hợp, ít sâu sát địa bàn, chưa coi trọng công tác kiểm tra, giám sát tại chỗ. - Công tác phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở một số xã, phường chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ, còn mang tính hình thức, hiệu quả đem lại không cao, cho nên tình trạng khiếu kiện vẫn còn diễn ra, tiêu cực tham nhũng chưa được đẩy lùi; an ninh nông thôn tiềm ẩn những dấu hiệu phức tạp. - Công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường nói riêng và thực hiện dân chủ ở cơ sở nói chung một trong những nội dung cần thiết để đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, tiến tới xây dựng một nền hành chính công minh bạch, hiện đại, góp phần quan trọng trong việc đổi mới tác phong, lề lối làm việc của cán bộ, công chức. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân chưa cao, hiệu quả công tác thấp, còn có biểu hiện gây phiền hà, sách nhiễu với nhân dân, nhất là trên lĩnh vực cấp, đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Hoạt động của các Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng ở một số xã, phường còn hạn chế, chưa phát huy hết chức năng, nhiệm vụ, thường chạy theo sự vụ, sự việc, chủ yếu là tham gia cùng các ngành chức năng giải quyết những vụ tranh chấp, khiếu nại, phát sinh ở cơ sở, chưa thể hiện được vai trò chủ động giám sát của mình. Bên cạnh đó đa số các thành
  • 93. 84 viên đều là cán bộ kiêm nhiệm, không có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực xây dựng nên việc giám sát các công trình còn hạn chế, chủ yếu là giám sát trực quan, tổng thể bên ngoài chứ không thể giám sát chi tiết chất lượng công trình vì vậy vẫn còn xảy ra tình trạng công trình vừa nghiệm thu đưa vào sử dụng một thời gian ngắn đã hư hỏng, xuống cấp. - Công khai không đầy đủ những vấn đề liên quan trực tiếp đến người dân, nhất là công khai, minh bạch trong đền bù giải phóng mặt bằng dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người, kéo dài, vượt cấp (điển hình là công tác đền bù giải phóng mặt bằng Quốc lộ 1A đoạn qua địa phận xã Lộc Ninh, thành phố Đồng Hới). - Dân chủ trực tiếp ở các xã, phường đôi lúc còn mang tính áp đặt (ví dụ như trong thực hiện quyền bầu cử). Bên cạnh đó các cơ quan đại diện và đại biểu nhân dân thực hiện vai trò đại diện cho ý chí, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, có lúc, có nơi do ngại va chạm nên nhiều đại biểu dân cử cơ sở chưa phát huy hết trách nhiệm người đại diện của nhân dân để dân có đầy đủ điều kiện tham gia bàn bạc, thảo luận, góp ý kiến trước khi HĐND biểu quyết, quyết định. Nhiều đại biểu HĐND chưa mạnh dạn, thẳng thắn đem những vấn đề có tính bức xúc và những thắc mắc của người dân ra chất vấn UBND xã, phường và thành phố tại các kỳ họp nên có những vấn đề chưa đáp ứng được nguyện vọng của cử tri. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể cấp xã còn nhiều vấn đề “phụ thuộc” vào UBND cùng cấp về các điều kiện phương tiện làm việc và kinh phí hoạt động, vì vậy việc giám sát, phản biện xã hội, nói lên chính kiến và phản ánh tâm tư nguyện vọng của hội viên, đoàn viên và nhân dân chưa mạnh mẽ, có lúc thiếu tính kịp thời. - Một bộ phận nhân dân chưa coi trọng thậm chí còn thờ ơ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, coi đó là việc của chính quyền địa phương, chưa phát huy quyền làm chủ của công dân trong việc kiểm tra, giám sát chính
  • 94. 85 quyền địa phương trong xây dựng các công trình, dự án do dân đóng góp, do đó tạo điều kiện cho việc tham ô, tham nhũng xảy ra. Những tồn tại, hạn chế nêu trên đã ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của thành phố nói chung và các xã, phường trên địa bàn nói riêng, lòng tin của một bộ phận nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước bị suy giảm, tình trạng khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp vẫn còn xảy ra và có những diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. 2.3.3. Nguyên nhân của những kết quả đạt được - Việc ban hành và triển khai thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường nói chung và công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường nói riêng đã đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc trong cuộc sống hàng ngày của người dân, đồng thời phát huy một cách sâu, rộng quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, được đông đảo các tầng lớp nhân dân đồng tình, ủng hộ và hưởng ứng cao. - Do có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của cấp ủy Đảng, sự kiên quyết trong chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp, sự nổ lực của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể từ thành phố đến cơ sở trong quá trình tổ chức thực hiện và sự đồng thuận cao trong cán bộ, công chức, người lao động và cộng đồng dân cư. - Trong công tác chỉ đạo, điều hành, các cấp ủy Đảng, chính quyền các phường, xã luôn thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao vai trò của người đứng đầu và trách nhiệm của từng cá nhân theo sự phân công và quy chế hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động, độc lập, sáng tạo của mỗi cá nhân, tập thể trong công tác tham mưu, đề xuất cũng như tham gia xây dựng chính quyền vững mạnh, phát triển toàn diện 2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế
  • 95. 86 - Do tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã làm nảy sinh những tiêu cực trong hoạt động kinh tế, trong tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân...ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế xã hội và thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn. - Công tác ban hành các hướng dẫn việc thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn, nhất là đối với các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến lợi ích của người dân còn chậm, thiếu thường xuyên. Các văn bản về thực hiện pháp lệnh còn thiếu đồng bộ, chưa quy định về các chế tài xử lý đối với các trường hợp vi phạm quyền làm chủ của nhân dân cũng như vi phạm trong quá trình tổ chức thực hiện pháp lệnh. - Một số cấp ủy, chính quyền, nhất là người đứng đầu chưa nhận thức và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Pháp lệnh. Phương thức lãnh đạo của một số cấp ủy chậm được đổi mới, sự phối kết hợp giữa Mặt trận và các tổ chức đoàn thể còn chưa đồng bộ, thiếu thường xuyên. Công tác kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên, chưa sâu sát, có nơi thiếu nghiêm túc, nhất là công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các kết luận sau kiểm tra, giám sát. Chưa chú trọng việc sơ kết, tổng kết thực tiễn. Cá biệt một số xã, phường chưa làm tốt công tác cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến tình hình và chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nên nhân dân còn thiếu hiểu biết, vì vậy chưa tạo sự đồng thuận và phát huy đầy đủ vai trò theo dõi, giám sát trong thực hiện một số chủ trương, chính sách của chính quyền. Mặt trận và các tổ chức đoàn thể, đại biểu HĐND ở một số xã, phường chưa phát huy tốt vai trò người đại diện quyền làm chủ của nhân dân. - Trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức ở các xã, phường trên địa bàn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
  • 96. 87 thời kỳ mới. Một số cán bộ thoái hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng, quan liêu, sách nhiễu dân làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. - Trình độ hiểu biết của người dân về pháp luật nói chung và pháp luật về dân chủ, thực thi quyền dân chủ và bảo vệ quyền dân chủ nói riêng ở một số xã, phường trên địa bàn thành phố, nhất là các xã khó khăn, xa trung tâm chưa cao, tâm lý ngại yêu cầu, ngại tham gia ý kiến, kiến nghị, đặc biệt là những công việc mang tính chất cộng đồng; tư tưởng “phép vua thua lệ làng” còn ăn sâu trong tiềm thức, gây khó khăn trong việc triển khai các văn bản pháp luật của nhà nước nói chung và pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng. Nhiều lĩnh vực hành chính được công khai niêm yết tại trụ sở xã, phường, thông báo qua hệ thống truyền thanh cơ sở và đến thôn, tổ dân phố nhưng người dân có lúc thiếu quan tâm, thờ ơ, không nắm rõ dẫn đến nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo không đúng thực tế, làm mất thời gian, công sức xác minh của các cơ quan chức năng. - Do kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm, các chế tài xử lý còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe đối với các hành vi phạm của cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo các xã, phường. Tình trạng cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, tham nhũng, vi phạm các chính sách về đất đai vẫn còn xảy ra nhưng xử ý chưa nghiêm, gây bất bình trong cán bộ và nhân dân là nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện, tố cáo, nội bộ mất đoàn kết...Tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân của một số cán bộ vẫn còn diễn ra nhưng chưa được ngăn chặn. - Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ thực hiện các nội dung công khai xuống cấp (nhất là hệ thống phát thanh) ảnh hưởng đến quá trình thực hiện Pháp lệnh. - Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn không quy định rõ
  • 97. 88 chức năng, thẩm quyền của các cấp cao hơn trong việc theo dõi, kiểm tra đối với chính quyền cấp xã trong quá trình triển khai thực hiện; Chưa quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể có liên quan đến hệ quả của việc tuân thủ hoặc không tuân thủ Pháp lệnh; nguồn lực để tổ chức thực hiện; việc bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ công chức cấp xã, đội ngũ trưởng thôn, tổ dân phố là những người có vai trò quyết định trong việc thực hiện có hiệu quả nội dung Pháp lệnh.
  • 98. 89 Kết luận chương 2 Trong Chương này, Luận văn đã giới thiệu tổng quát về các yếu tố tác động đến quá trình thực hiện công khai, minh bạch trong pháp thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình như đặc điểm vị trí địa lý, tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước địa phương, đồng thời xác định rõ trong các yếu tố trên thì tổ chức bộ máy quản lý nhà nước địa phương là chủ thể thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn. Đánh giá kết quả thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn từ hai khía cạnh nội dung thực hiện và hình thức thực hiện.… Trên cơ sở đó, tìm ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những kết quả đạt được cùng như những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới trong thời gian qua. Kết quả có được từ Chương 2 là những cơ sở để đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói chung và thành phố Đồng Hới nói riêng.
  • 99. 90 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CÔNG KHAI, MINH BẠCH TRONG PHÁP LỆNH THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN 3.1. Phương hướng thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn 3.1.1. Phương hướng chung 3.1.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nhằm đưa việc thực hiện Pháp lệnh trở thành nề nếp, thường xuyên. Đây là nhiệm vụ then chốt đảm bảo các Nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, mà nhất là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đi vào cuộc sống và trở thành việc làm thường xuyên của địa phương cũng như của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vì chính quyền cấp xã là đơn vị trực tiếp tổ chức, quán triệt, triển khai thực hiện Pháp lệnh, đồng thời cũng là cơ quan kiểm tra, giám sát, tổng kết, sơ kết việc thực hiện Pháp lệnh. Do đó, cấp ủy Đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền các phường, xã trên địa bàn tăng cường chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nội dung của Pháp lệnh. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước, cải tiến lề lối làm việc theo hướng dân chủ hóa, công khai. Gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, tập trung giải quyết dứt điểm những vấn đề mà nhân dân quan tâm, bức xúc về đất đai, tài chính, chính sách xã hội để tạo niềm tin trong nhân dân. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để gây rối, vi phạm pháp luật, chia rẽ gây mất đoàn kết trong nhân dân.
  • 100. 91 Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cũng như toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về những quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát huy quyền làm chủ và mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở. Phát huy và nâng cao chất lượng hình thức dân chủ đại diện thông qua hoạt động của HĐND, MTTQ và các đoàn thể nhân dân. Chỉ đạo Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về thực hiện các nội dung về công khai, minh bạch trong Pháp lệnh. Tăng cường công tác nắm tình hình, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đoàn thể ở khu dân cư, của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng...ở các xã, phường. 3.1.1.2. Gắn việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn. Phát huy dân chủ, tính chủ động sáng tạo của nhân dân, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo điều kiện cho nhân dân được tham gia quyết định các vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Chăm lo phát triển giáo dục đào tạo nhằm nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt cho nhân dân lao động, nhất là đối với các xã, phường xa trung tâm, giúp người dân hiểu đúng bản chất của dân chủ, thực hành đúng, tránh được tình trạng do thiếu hiểu biết để các phần tử phá hoại, phản động xúi giục, có những hành động quá khích, vi phạm pháp luật. Quan tâm giải quyết tốt các vấn đề xã hội như việc làm, giảm nghèo, chế độ chính sách đối với các đối tượng chính sách...Giữ vững an ninh trật tự xã hội.
  • 101. 92 3.1.1.3. Tiếp tục củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ thành phố và các xã, phường. Phân công nhiệm vụ cụ thể, hợp lý cho các thành viên; xây dựng phương hướng và các giải pháp công tác; chủ động xây dựng và duy trì thường xuyên chế độ kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ nói chung, trong đó có thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng; đề cao vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, của HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, của Ban chỉ đạo quy chế dân chủ; đồng thời nhắc nhở kịp thời và xử lý nghiêm đối với những trường hợp vi phạm quy chế dân chủ, những việc làm của cán bộ gây bức xúc và tạo dư luận không tốt trong nhân dân. 3.1.1.4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các xã, phường. Chăm lo quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ở các xã, phường đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công, viên chức trong thực thi công vụ. Tập trung cải tiến phong cách, lề lối làm việc, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ, công chức, viên chức có thái độ sách nhiễu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, tạo niềm tin cho nhân dân. Thực hiện tốt chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức cơ sở, tạo động lực khuyến khích cán bố, công, viên chức yên tâm, nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. 3.1.1.5. Chú trọng việc sơ kết, tổng kết, biểu dương những việc làm tốt, cách làm hay, nhân rộng các điển hình tiên tiến; đồng thời phê bình, uốn nắn và xử lý kịp thời, nghiêm minh những trường hợp vi phạm quy chế dân chủ ở
  • 102. 93 cơ sở, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, uốn nắn khắc phục mọi nhận thức sai trái, lệch lạc về công khai, dân chủ ở cơ sở. 3.1.2. Phương hướng tăng cường sự công khai, minh bạch trong thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của địa phương. Đồng Hới là một thành phố trẻ, cơ sở hạ tầng còn thiếu đồng bộ, việc thu hút đầu từ ngày càng mạnh mẽ, nhất là huy động nguồn lực trong nhân dân để hoàn thiện hạ tầng đô thị, vì vậy để tăng cường tính công khai, minh bạch của chính quyền trong thực hiện các quyền và lợi ích liên quan đến người dân là điều hết sức cần thiết nhằm tạo lòng tin cho nhân dân, huy động được nguồn nội lực mạnh mẽ từ nhân dân để “xây dựng thành phố giàu đẹp, văn minh, xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của tỉnh, phấn đấu trở thành thành phố du lịch” [tr 69] như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XX, nhiệm kỳ 2015-2020 đã xác định. Để làm được điều đó, thành phố xác định những nội dung cơ bản sau: - Nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong việc thực hiện công khai, minh bạch trong thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố, nhất là trách nhiệm giải trình của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền đối với những vấn đề mà nhân dân quan tâm, bức xúc - Đây là nhiệm vụ then chốt để tăng cường tính công khai, minh bạch. - Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, thực hiện rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính trên hầu hết các lĩnh vực, rút ngắn thời gian giải quyết công việc, nâng cao chất lượng thực thi công vụ của cán bộ, công chức.
  • 103. 94 - Nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, xây dựng bộ máy chính quyền ngày càng tinh gọn, hiệu quả, đội ngũ cán bộ ngày càng chuẩn hóa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. - Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng và Mặt trận và các tổ chức đoàn thể ở địa phương trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư, xây dựng trên địa bàn. 3.2. Giải pháp đẩy mạnh thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn 3.2.1. Giải pháp chung 3.2.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, sự phối hợp của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể cấp xã đối với việc triển khai thực hiện Pháp lệnh nói chung và công khai, minh bạch trong thực hiện Pháp lệnh nói riêng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc triển khai thực hiện Pháp lệnh nói chung và công khai, minh bạch trong Pháp lệnh nói riêng còn nhiều hạn chế là do cấp ủy một số xã, phường trên địa bàn thành phố chưa nhận thức đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của việc triển khai thực hiện pháp lệnh đối với phát huy quyền làm chủ của nhân dân nên dẫn đến chưa quan tâm đúng mức đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; Chính quyền một số xã, phường còn buông lỏng trong công tác quản lý; Mặt trận và các tổ chức đoàn thể chưa phát huy hết vai trò và chức năng của mình trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân triển khai, thực hiện. Vì vậy để nâng cao hiệu quả việc công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố cần phải thực hiện tốt các nội dung sau: Thứ nhất là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thông qua việc ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn chính quyền tổ chức thực hiện các nội dung về công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
  • 104. 95 Chỉ đạo đẩy mạnh việc tuyên truyền một cách sâu rộng các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đến với người dân. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên thành phố nói chung và cán bộ, đảng viên cấp xã nói riêng. Thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt đề án lãnh đạo các cấp trực tiếp đối thoại với nhân dân. Đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng giảm hội họp, sâu sát cơ sở, quan tâm giải quyết những vấn đề nhân dân bức xúc. Phát huy rộng rãi dân chủ trong Đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng nhằm phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Thứ hai là đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của chính quyền cơ sở đối với việc thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy mạnh mẽ vai trò của hệ thống chính quyền cấp xã trong việc thực hiện công khai, minh bạch, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật, bảo đảm để nhân dân tham gia giám sát các hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể một cách thiết thực; thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền cấp xã, xây dựng đội ngũ cán bộ trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao. Thứ ba là tiếp tục phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân thực hiện công khai, minh bạch nói riêng và pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói chung. Mặt trận và các đoàn thể đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò dân chủ đại diện của từng tổ chức; bảo vệ quyền và lợi ích cho đoàn viên, hội viên và nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Quy chế giám sát và phản biện xã hội của
  • 105. 96 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng “Cơ quan đạt chuẩn văn hóa”; phát huy dân chủ của cán bộ, nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị; tham gia xây dựng các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, các dự án, đề án, các công trình phục vụ dân sinh trước lúc các cấp có thẩm quyền quyết định. Mặt trận và các tổ chức đoàn thể thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động nhằm tập hợp đông đảo đoàn viên, hội viên tham gia, thông qua đó tạo điều kiện để người dân phát huy quyền làm chủ của mình. Phát huy tinh thần thi đua yêu nước, đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, tích cực tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả quy chế phối hợp công tác giữa HĐND, UBND với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong thực hiện pháp lệnh 34; tích cực phối hợp với các cơ quan, ban ngành trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt dân chủ cơ sở thông qua các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động lớn, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Chính quyền trong sạch, vững mạnh. Nâng cao vai trò đại diện của các đại biểu HĐND, vai trò của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng nhằm tăng cường công tác kiểm tra, giám sát ở cơ sở. Phối hợp tổ chức có hiệu quả công tác tiếp dân, trả lời ý kiến cử tri, giải quyết kịp thời các kiến nghị của cử tri; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
  • 106. 97 3.2.1.2. Hoàn thiện cơ chế để mở rộng sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho nhân dân tiếp cận được yếu tố công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền, đảm bảo dân chủ xã hội Phát huy dân chủ, mở rộng sự tham gia của người dân vào công việc quản lý nhà nước, nhằm bảo đảm cho Nhà nước giữ vững bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của các chính sách, pháp luật được ban hành. Việc mở rộng sự tham gia của người dân vào công việc quản lý nhà nước, xây dựng các chính sách, pháp luật ở nước ta tiếp tục được đề cao. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định "Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân..." (Điều 2). "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước" (Điều 6). “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28). Để đẩy mạnh sự tham gia của người dân vào hoạt quản lý của Nhà nước trong thời gian tới, cần phải làm tốt các công việc chủ yếu sau: - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, có cơ chế huy động người dân tham gia vào quá trình quản lý của Nhà nước. Thực hiện có hiệu quả Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân sao cho những người được bầu phải gắn bó với người dân, phản ánh được ý chí nguyện vọng của
  • 107. 98 người dân, không còn đại diện chung chung, hình thức. Họ phải chịu sự giám sát của nhân dân, gắn trách nhiệm, lợi ích với sự tín nhiệm của nhân dân, khi không hoàn thành được vai trò đại diện quyền lợi và nguyện vọng của cử tri bầu cho thì họ phải bị bãi miễn. Nói cách khác, để sự tham gia quản lý nhà nước qua các cơ quan đại diện của dân có hiệu quả, cần chuyển các đại biểu được bầu của dân sang chế độ hoạt động chính trị chuyên nghiệp. Tách bạch, không để vai trò lập pháp, đại biểu nhân dân và vai trò hành chính do cùng một cá nhân thực hiện. Xây dựng và ban hành Luật Trưng cầu ý dân nhằm tạo cơ sở pháp lý để mở rộng quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân được tham gia quản lý xã hội, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, trong đó quy định rõ nội dung trưng cầu ý dân, quyền quyết định trưng cầu ý dân, trách nhiệm tổ chức trưng cầu ý dân, thủ tục xem xét ý kiến, kiến nghị của nhân dân và đánh giá sử dụng kết quả trưng cầu ý dân. Đồng thời nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Giám sát của nhân dân làm cơ sở pháp lý để hiện thực hóa sự giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. - Tạo cơ chế nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trong từng chiến lược, chính sách phát triển, từng dự án cũng như hoạt động của bộ máy chính quyền, đảm bảo nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đặc biệt là những vấn đề “nhạy cảm” mang tính đặc thù của địa phương, tránh để kẻ xấu và các thế lực thù địch lợi dụng, kích động gây mất niềm tin của quần chúng nhân dân đối với đảng bộ và chính quyền cơ sở. Cơ chế thực hiện công khai, minh bạch và dân chủ không chỉ được đảm bảo trên hoạt động của bộ máy chính quyền và còn đưa bộ máy chính quyền đứng gần nhân dân, trong lòng dân, lấy dân làm gốc, giúp nhân dân thấu hiểu được tính đặc thù địa phương, nhiệm vụ chính trị của địa phương cũng như vai trò của cá nhân trong việc thực hiện công khai, minh bạch, phát huy vai trò dân chủ.
  • 108. 99 - Tiếp tục đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước. Đổi mới cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước, mở rộng sự công khai, minh bạch, tạo cơ hội cho người dân nắm được các công việc của Nhà nước để tham gia một cách chủ động, thiết thực, có hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và của công chức trong việc tiếp thu các ý kiến và nguyện vọng của nhân dân. - Mở rộng khả năng tiếp cận của công dân với các cơ quan quản lý hành chính nhà nước cả về thời gian lẫn nội dung. Đơn giản hóa và đa dạng hóa các hình thức tham gia của công dân; Mở rộng hình thức tư vấn nhân dân và phản biện xã hội; Thông báo công khai các ý kiến phản ánh của nhân dân và phản biện xã hội; Thông báo công khai các ý kiến của nhân dân mà hành chính nhà nước đã nhận được. 3.2.1.3. Nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của thành phố và các xã, phường Thời gian qua, mặc dù Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ thành phố đến cơ sở đã làm được khá nhiều việc, nhất là giúp cấp uỷ tổ chức kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Quy chế dân chủ và Pháp lệnh về dân chủ ở xã, phường, thị trấn nhưng nghiêm túc nhìn nhận thì hoạt động của Ban chỉ đạo các cấp cũng còn nhiều mặt hạn chế; việc phân công trách nhiệm và phối hợp hành động giữa các thành viên trong Ban chỉ đạo chưa chặt chẽ; một số thành viên chưa thật gắn công việc của mình vào nhiệm vụ của cấp uỷ giao. Thậm chí ở một số xã, phường hằng năm không xây dựng được một chương trình kiểm tra, giám sát nào ở địa phương mình, báo cáo tình hình hoạt động của một số Ban chỉ đạo xã, phường trong năm phần hạn chế, tồn tại còn giống nhau, chưa phản ảnh đúng thực trạng về thực hiện dân chủ ở địa phương mình. Chất lượng kiểm tra, giám sát về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung và Pháp lệnh nói riêng có mặt đạt kết quả chuyển
  • 109. 100 biến chưa cao. Vì vậy, trong thời gian tới để nâng cao hơn vai trò của Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cần thực hiện tốt một số vấn đề sau: - Thường xuyên kiện toàn, củng cố ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ cơ sở khi có sự biến động, phân công trách nhiệm và cử cán bộ phụ trách theo giỏi, giúp đỡ cơ sở, thường xuyên bám sát địa bàn để theo giỏi phong trào. Tổ chức sơ kết, tổng kết đúng định kỳ, biểu dương khen thưởng kịp thời những gương điển hình tiên tiến làm đòn bẩy, động lực cho phong trào thi đua trong thời gian tiếp theo. - Xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát; tích cực kiểm tra, giám sát đối với những trường hợp có dấu hiệu vi phạm Quy chế dân chủ, những nội dung mà chính quyền cấp xã chưa công khai đầy đủ cho nhân dân biết hoặc những vấn đề gây bức xúc và dư luận không tốt trong xã hội. Tích cực kiểm tra, giám sát việc thực hiên các kết luận sau thanh tra, kiểm tra, tránh việc làm theo kiểu “đánh trống bỏ dùi” Bên cạnh đó cần củng cố và tăng cường hiệu quả hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng về thực hiện các nội dung công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. 3.2.1.4. Thực hiện công khai, minh bạch gắn với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương Dân chủ và kinh tế là hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết với nhau. Kinh tế tạo điều kiện để xây dựng dân chủ, nhưng dân chủ cũng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Kinh tế càng phát triển, năng suất lao động cao, cơ sở hạ tầng của xã hội ngày càng phát triển hoàn thiện sẽ bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền công dân và quyền con người. Sự phát triển kinh tế bảo đảm cho triển vọng của nền dân chủ, sự phát triển kinh tế sẽ tạo ra được một tầng lớp trung lưu và sẽ tạo điều kiện cho dân chúng có học thức cao hơn trước và đó là môi
  • 110. 101 trường mới thuận lợi cho dân chủ hoá. Cũng cần thấy rằng dân chủ đã tạo điều kiện phân phối công bằng hơn phúc lợi xã hội, nhờ vậy kích thích sự phát triển kinh tế. Thực hiện Pháp lệnh về dân chủ nói chung trong đó có các nội dung phải công khai cho dân biết không thể tách rời thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở, nâng cao đời sống nhân dân. Chúng ta không thể có dân chủ trong điều kiện đói nghèo, xã hội không lành mạnh bởi những tiêu cực, tệ nạn, bất ổn định. Người dân không thể đi họp, nghe những lời thuyết giảng chính trị khi gia đình họ, con cái họ còn chưa có cái ăn, còn đói nghèo, thất nghiệp. Dân chúng quan tâm đến chính trị, tới các vấn đề xã hội nói chung, một khi họ cảm nhận thực tế mà thấy rằng, đó là chính trị thiết thực, có ích đối với họ. Không nên hiểu phát huy công khai dân chủ chỉ là tổ chức những cuộc hội họp để công bố, lấy ý kiến của nhân dân một cách hình thức, hoặc sự bàn bạc không gắn với chăm lo giải quyết những vấn đề thiết thực đến lợi ích và cuộc sống nhân dân tại cơ sở. Trái lại, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, đó là tiêu chuẩn cao nhất, là thước đo kết quả thực hiện dân chủ đối với nhân dân. Thực tế đã cho thấy xã, phường nào quan tâm thực hiện tốt quy chế dân chủ nói chung và những nội dung công khai theo Pháp lệnh nói riêng cùng với nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo thì khả năng huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân vào thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế ở địa phương cao hơn, tạo được lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội của địa phương được củng cố và giữ vững. 3.2.1.5. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
  • 111. 102 Cán bộ là vấn đề liên quan đến vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: cán bộ là tiền vốn của đoàn thể, cán bộ là gốc của cách mạng. Có cán bộ tốt thì việc gì cũng thành công. “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu”[12, tr.240], điều đó chứng tỏ đội ngũ cán bộ, công chức có vai trò quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong đó đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Cán bộ, công chức cấp xã là cán bộ cơ sở, quan hệ trực tiếp với dân, gắn bó thường xuyên với dân, sống và làm việc trong cộng đồng dân cư, họ cũng chính là người trực tiếp tuyên truyền, giác ngộ một cách sâu rộng cho nhân dân về mục đích, ý nghĩa, nội dung của Pháp lệnh, tiếp đến là tổ chức thực hiện các nội dung công khai theo quy định, tiến hành kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện Pháp lệnh, chỉ đạo sơ kết, tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện, để từ đó khắc phục những vấn đề còn tồn tại, hạn chế nhằm chỉ đạo thực hiện tốt hơn. Vì vậy, cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó có đội ngũ cán bộ cơ sở, có đủ phẩm chất, năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, tận tâm, tận lực vì nhân dân, có ý thức trách nhiệm cao, nhiệt tình với công việc, không nhũng nhiễu, gây phiền hà với tổ chức, công dân; không vi phạm pháp luật, kỷ luật, kỷ cương hành chính. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và ở cấp xã nói riêng thực sự là công bộc của dân, làm việc vì lợi ích của nhân dân và nhà nước, thành phố và các xã, phường cần phải: Nâng cao chất lượng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá giá bố trí, sử dụng cán bộ, công chức. Cán bộ đưa vào quy hoạch các vị trí chủ chốt của xã, phường phải có trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ vững
  • 112. 103 vàng, có đạo đức trong sáng, có ý thức trách nhiệm trước công việc được giao và trước nhân dân. Trên cơ sở quy hoạch, hàng năm có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ từng lĩnh vực để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thích hợp, theo phương châm "làm việc gì học việc ấy". Đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ kết hợp đào tạo về lý luận chính trị và các kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải gắn với việc sử dụng và phải kết hợp các hình thức đào tạo phù hợp với đặc thù của cán bộ, công chức cơ sở. Chú trọng công tác đánh giá cán bộ, công chức hàng năm (kể cả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do HĐND bầu), lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo năng lực, phẩm chất cán bộ tránh dĩ hòa vi quý, hình thức qua loa chiếu lệ, những trường hợp năng lực yếu, thiếu tinh thần trách nhiệm, tham nhũng, gây mất đoàn kết nội bộ kéo dài, không còn uy tín trong nhân dân, hai năm được đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ, nên xem xét kỷ luật, giải quyết cho thôi việc. Quá trình bổ nhiệm, đề bạt cán bộ phải dựa vào nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân để đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, công chức, đảm bảo những cán bộ, công chức được đề bạt là những cán bộ thực sự công tâm, thạo việc, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì nhân dân, không tham nhũng, lãng phí. Đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cơ sở phải có phong cách làm việc gần dân, sát dân, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân, hiểu được những việc dân cần, biết được những việc dân đang mong đợi; cùng nhân dân giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất đời sống. Tăng cường công tác giáo dục rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về "đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về "tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
  • 113. 104 ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 18-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình về tăng cường kỷ luật, xiết chặt kỷ cương hành chính, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, tạo chuyển biến thực sự về ý thức, trách nhiệm, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao cũng như trong sinh hoạt hằng ngày. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm những cán bộ công chức, viên chức, người lao động thiếu tinh thần trách nhiệm trong thực thi công vụ, có thái độ hạch sách, nhũng nhiễu nhân dân. 3.2.1.6. Quan tâm đầu tư điều kiện vật chất cho chính quyền cấp xã để thực hiện tốt các vấn đề phải công khai theo quy định Cùng với việc quan tâm về công tác cán bộ, đổi mới cơ chế hoạt động và phương pháp quản lý thì vấn đến quan tâm đầu tư các điều kiện về cơ sở vật chất cho chính quyền cấp xã thực hiện tốt hơn việc công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng và phục vụ các công việc chung ở cơ sở là hết sức cần thiết. So với các địa phương trong tỉnh thì hiện nay cơ sở vật chất phục vụ cho việc thực hiện pháp lệnh cơ bản được trang bị đầy đủ. 16/16 xã, phường có trụ sở khang trang, đảm bảo đủ để bố trí phòng làm việc của Đảng ủy, HĐND, UBND, Mặt trận và các đoàn thể, công chức chuyên môn, phòng tiếp dân, phòng tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả (Trung tâm một cửa). 152/155 thôn, tổ dân phố có nhà văn hóa. Hệ thống trạm truyền thanh, đài truyền thành không dây được trang bị đầy đủ... Tuy nhiên, một số xã, phường trụ sở làm việc của Đảng ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ do xây dựng đã lâu nên hệ thống các phòng làm việc,
  • 114. 105 nhất là phòng giao dịch một cửa, phòng tiếp công dân quá chật hẹp, nhiều xã, phường bố trí 02 đến 03 đoàn thể vào một phòng làm việc; vẫn còn 3 tổ dân phố chưa có nhà văn hóa (trên địa bàn đã hết đất không có đất để xây dựng); hệ thống truyền thanh của nhiều thôn, tổ dân phố xuống cấp không thể hoạt động được. Chính những yếu tố đó đã có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức trong việc triển khai các nội dung công khai theo Pháp lệnh.Vì vậy chính quyền các địa phương cần: - Bằng nhiều nguồn lực để quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đảm bảo các điều cần thiết hoàn thành nhiệm vụ. - Cần có giải pháp để đầu tư xây dựng nhà văn hóa của các tổ dân phố còn lại đảm bảo nhân dân có chỗ sinh hoạt, hội họp, đồng thời để thực hiện tốt việc công khai các nội dung theo Pháp lệnh. - Đầu tư kinh phí thay mới, sửa chữa hệ thống truyền thanh của thôn, tổ dân phố bị hư hỏng, bên cạnh đó đài phát thanh - truyền hình thành phố và trạm truyền thanh các xã, phường nên tăng cường các hoạt động đánh giá nhanh và định kỳ nhu cầu thông tin của người dân hoặc các vấn đề cấp bách tại địa phương để đưa thông tin đến với người dân một cách kịp thời, hiệu quả, tránh kiểu cung cấp thông tin một chiều, áp đặt; Đa dạng hóa chương trình phát thanh, đan xen nhiều chương trình khác nhau để thu hút sự quan tâm hơn của người dân. - Với sự phát triển của công nghệ thông tin hiện nay và theo yêu cầu của công tác cải cách hành chính nhà nước, thiết nghĩ cần có sự đầu tư, hướng dẫn UBND các xã, phường thành lập trang thông tin điện tử, hoặc hộp thư công vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả điều hành của chính quyền, kịp thời chuyển tải những thông tin về tình hình kinh tế - xã hội của xã, phường và thực hiện tốt hơn về các nội dung công khai theo Pháp lệnh đến với nhân dân.
  • 115. 106 3.2.1.7. Thực hiện công khai, minh bạch gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính. Về hiện đại hóa nền hành chính trong chương trình tổng thể cải hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 là “Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau” Nền hành chính nhà nước hiện đại theo kinh nghiệm của các nước ở khu vực và trên thế giới là nền hành chính áp dụng tiêu chuẩn ISO trong quản lý hành chính nhà nước và phải xây dựng được nền hành chính điện tử, chính phủ điện tử, phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước kịp thời và thông suốt, làm cho quan hệ giữa nhà nước với công dân được cấp thiết, thông suốt, tác động đến ý thức phục vụ của công dân. Thực hiện cải cách hành chính và dân chủ ở cơ sở đều hướng tới một mục tiêu chung nhất là: Xây dựng nhà nước ta dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả và thật sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Yêu cầu trước tiên của thực hiện cải cách hành chính và Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn chủ là công khai,
  • 116. 107 minh bạch, công bằng, dân chủ trong mọi hoạt động của cơ quan nhà nước; tập hợp được sức mạnh, trí tuệ của tập thể cán bộ, công chức, viên chức, mọi tầng lớp nhân dân lao động trong xây dựng cơ quan, đơn vị và chính quyền các cấp; mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước đều hướng tới phục vụ tốt cuộc sống của nhân dân. Do đó, thực hiện cải cách hành chính không thể tách rời thực hiện dân chủ ở cơ sở mà phải thực hiện đồng thời và có sự gắn kết chặt chẽ với nhau. Thực tế cho thấy ở đâu thực hiện tốt dân chủ cơ sở thì ở đó thực hiện tốt công tác cải cách hành chính và ngược lại, điều này chúng ta dễ nhận thấy trong thực tế hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như trong sinh hoạt ở cộng đồng dân cư. Trong thời gian qua, trên địa bàn thành phố quá trình thực hiện cải cách hành chính gắn với việc thực hiện công khai theo Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn được tiến hành đồng bộ, rộng rãi. Ngoài việc thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế "một cửa", các xã, phường thực hiện niêm yết công khai các thủ tục hành chính, các khoản phí, lệ phí, đóng góp của dân, công khai các phương án sản xuất, việc giải quyết các thủ tục hành chính như cấp giấy phép xây dựng, đăng ký kinh doanh, địa chính, hộ tịch, hộ khẩu, công chứng; chế độ cho các đối tượng chính sách. Nhờ áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008 đã góp phần rút gọn các thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa” góp phần hạn chế tình trạng vi phạm, quy trình giải quyết hồ sơ và hoàn trả hồ sơ đúng hẹn, không để tồn đọng hồ sơ, giảm bớt phiền hà cho nhân dân, được nhân dân đồng tình. Bên cạnh đó có một số xã, phường thực hiện quy chế dân chủ gắn với cải cách thủ tục hành chính chậm, thiếu đồng bộ. Nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà, bệnh giấy tờ chưa giảm, làm phiền hà cho dân phải đi lại nhiều lần tạo điều kiện cho một số cán bộ, công chức nhũng nhiễu, hạch sách dân.
  • 117. 108 Để nâng cao chất lượng công tác cải cách hành chính gắn với thực hiện các nội dung công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cần thực hiện tốt các giải pháp sau: - Quan tâm chỉ đạo Phòng Nội vụ tổ chức khảo sát ý kiến về mức độ hài lòng của tổ chức, công dân đối với việc thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại UBND các xã, phường và tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND thành phố để có sự đánh giá khách quan nhận xét tổ chức, công dân về là thái độ phục vụ của công chức trực tiếp làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết, chấn chỉnh kịp thời những công chức có biểu hiện quan liêu, sách nhiễu nhân dân. - Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện cải cách hành chính đối với các xã, phường. Qua đó kịp thời hướng dẫn, chấn chỉnh khắc phục những tồn tại, hạn chế và góp phần nâng cao công tác cải cách hành chính các xã, phường trên địa bàn. - UBND xã, phường cần xem xét lựa chọn cán bộ phụ trách tại bộ phận một cửa là những cán bộ, công chức có trách nhiệm, nhiệt tình tâm huyết, có năng lực chuyên môn để tiếp nhận, phân loại, xác minh hồ sơ và đề nghị xử lý đúng quy định. Bên cạnh đó Phòng Nội vụ thành phố cần phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ, bồi dưỡng những vấn đề mới trong công tác cải cách hành chính cho cán bộ, công chức cấp xã. Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Quy định 01-QĐ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về trách nhiệm và xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu và cấp phó người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Xây dựng các chế tài xử lý nghiêm đối với các cán bộ, công chức có thái độ hạch sách, nhũng nhiễu đối với người dân và doanh nghiệp trong quá trình giải quyết công việc
  • 118. 109 - Quan tâm đầu tư nâng cấp trang thiết bị tại “Bộ phận tiếp nhận và trả hồ sơ”, phòng làm việc đảm bảo thông thoáng, tiện lợi cho việc giải quyết công việc trên từng lĩnh vực khi công dân đến giao dịch. 3.2.2. Giải pháp cho thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình Để đẩy mạnh công khai, minh bạch trong thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn bên cạnh việc thực hiện các giải pháp trên, thành phố Đồng Hới cần thực hiện tốt các giải pháp sau: - Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp cơ sở trong thực hiện pháp lệnh, nhất là thực hiện việc công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền trước nhân dân. Thể chế hóa trách nhiệm giải trình trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền các cấp. Đây là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để thực hiện tốt công khai, minh bạch. Vì trong hoạt động quản lý nhà nước, trách nhiệm giải trình là biểu hiện của cơ chế kiểm soát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước. Thông qua quy định về trách nhiệm báo cáo của các cơ quan công quyền, công chức nhà nước về những hoạt động của mình trước các chủ thể theo quy định của pháp luật, họ sẽ chịu trách nhiệm tốt hơn đối với nhiệm vụ được giao và là cách thức để đo lường hiệu quả hoạt động. Trách nhiệm giải trình ở đây thể hiện ở việc không chỉ là giải trình với cơ quan cấp trên, đối với cơ quan dân cử mà còn có trách nhiệm giải trình đối với người dân, các tổ chức xã hội và các bên liên quan đến các mọi vấn đề theo quy định. Để làm được điều đó cần phải: + Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Quy định 01-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và 119-QĐ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về trách nhiệm và xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu và cấp phó người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. + Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án lãnh đạo các cấp thành phố trực tiếp đối thoại với nhân dân. Thông qua đó nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện
  • 119. 110 vọng của nhân dân, đồng thời có giải pháp tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, khó khăn, bức xúc của nhân dân ngay từ cơ sở và hướng dẫn họ thực hiện đúng các quy định của pháp luật, không để những mâu thuẫn nhỏ tích tụ lâu ngày thành điểm nóng. - Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở. Đây là giải pháp hết sức quan trọng. Bởi trên thực tế thành phố Đồng Hới là một thành phố còn rất trẻ, quá trình xây dựng và phát triển thành phố, nhất là về công tác cán bộ mà nói thì đội ngũ cán bộ ở các phường, xã đều là những cán bộ có kinh nghiệm nhưng còn có sự hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ (tỷ lệ cán bộ, công chức các phường, xã có trình độ đào tạo tại chức, từ xa còn nhiều), nên trong xử lý, điều hành công việc còn có những hạn chế, nhất là những vụ, việc nhạy cảm.. Vì vậy, cần phải đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở, nhất là trang bị những kiến thức cơ bản về quản lý Nhà nước, quản lý đất đai, vấn đề dân tộc, tôn giáo… cho đội ngũ cán bộ cơ sở. Chú trọng bồi dưỡng theo chức danh và kỹ năng xử lý tình huống ở cơ sở. - Đẩy mạnh cơ chế giám sát của nhân dân và công luận trong thực hiện công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố. Đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng các kỳ họp HĐND cấp xã, phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với chính quyền ở cơ sở; nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri, kịp thời phản ánh những vấn đề tồn tại ở cơ sở để đề nghị cấp có thẩm quyền giải quyết; Tiếp tục triển khai thực hiện tốt “quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội”
  • 120. 111 Kết luận chương 3 Trong Chương này, căn cứ vào quan điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước về thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, trên cơ sở kết quả phân tích các hạn chế ở Chương 2, Luận văn đã đưa ra được các phương hướng và giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, nâng cao việc thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở nói chung và thành phố Đồng Hới nói riêng.
  • 121. 112 KẾT LUẬN Công khai, minh bạch là những thước đo giá trị phổ quát của loại người, vừa là đích phấn đấu và là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, công khai, minh bạch là làm cho mọi người dân có thể biết và hiểu cơ quan hành chính nhà nước có chức năng, nhiệm vụ gì, hoạt động như thế nào trong khuôn khổ phù hợp với thực tiễn và các quy định của pháp luật. Trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn công khai là việc chính quyền địa phương có trách nhiệm công bố, cung cấp thông tin chính thức, kịp thời trước nhân dân các quy định về trình tự, thủ tục hành chính, các văn bản liên quan đến các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.... theo quy định của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Minh bạch là việc chính quyền địa phương phải cung cấp thông tin một cách rõ ràng, rành mạch, không khuất tất trước nhân dân về những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của người dân được quy định trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và có trách nhiệm giải trình trước nhân dân về những vấn đề mà nhân dân quan tâm. Công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nhằm thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thực tiễn đã chứng minh, mỗi khi lòng dân đồng thuận, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước thì sẽ tạo nên động lực và sức mạnh, khuyến khích, động viên mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, cống hiến của cải và sức lực của mình để xây dựng chính quyền, xây dựng địa phương giàu, đẹp. Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, thời gian qua việc triển khai thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, nhất là nội dung công khai, minh bạch trong Pháp lệnh trên địa bàn thành phố
  • 122. 113 Đồng Hới đã được chính quyền các địa phương quan tâm thực hiện có hiệu quả. Tuy nhiên, việc thực hiện công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn còn nhiều bất cập, tình trạng tham ô, tham nhũng, quản lý lỏng lẻo làm thất thoát ngân sách nhà nước vẫn còn xảy ra; thái độ, phong cách làm việc của một số cán bộ chậm được đổi mới, vẫn còn tình trạng hạch sách, nhũng nhiễu nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện nội dung công khai, minh bạch trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp cơ sở, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận của nhân dân đối với việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của địa phương, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng và phát triển thành phố Đồng Hới. Luận văn đã đạt được những kết quả chính sau đây: 1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp lý về công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Theo đó, luận văn đã phân tích các khái niệm: khái niệm dân chủ, dân chủ cơ sở, thực hiện dân chủ ở cơ sở, công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ cơ sở; sự cần thiết phải công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở; Nội dung và hình thức công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền cấp xã; các yếu tố tác động đến công khai, minh bạch trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. 2. Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện nội dung công khai, minh bạch trong pháp lênh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Từ đó rút ra những ưu điểm, hạn chế và tìm ra những nguyên nhân. 3. Đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh thực hiện nội dung công khai, minh bạch trong pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
  • 123. 114 trấn trên địa bàn thành phố Đồng Hới, qua đó góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch trong việc thực hiện Pháp lệnh. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn liên quan đến công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn./.
  • 124. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thọ Ánh (2012), Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Lương Gia Ban (chủ biên) (2003), Dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 7. Ban đại diện Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Đồng Hới (2016), Báo cáo hoạt động Ban đại diện hội đồng quản trị Ngân hàng chính sách xã hội thành phố năm 2016. 8 Nguyễn Hồng Chuyên (2015), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội. 9. Nguyễn Hồng Chương (2012), Một số vấn đề về dân chủ và công khai trong xây dựng nông thôn mới, Tạp chí Dân vận, số 7(60), tr.23-25. 10. Vũ Hoàng Công (2009), Xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 11. Nguyễn Bá Dương, Trần Hậu Thành, Lê Thị Hoài Thanh (đồng chủ biên) (2010), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 12. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  • 125. 14. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội. 18. Đoàn kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Bình (2014), Báo cáo kết quả kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại thành phố Đồng Hới năm 2014. 19. Bùi Thị Hải (03/04/2014), Công khai, minh bạch trong quản lý hành chính nhà nước - Kinh nghiệm của một số nước Châu Mỹ, http://www.moj.gov.vn/ 20. Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên) (2014), Cơ sở lý luận và thực tiễn về hành chính nhà nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 21. Trương Hồ Hải, (2015), Hoàn thiện pháp luật về thực hành dân chủ cơ sở theo Hiến pháp năm 2013, http://nguoibaovequyenloi.com/ 22. Vũ Hòe (2011), Một số vấn đề cần quan tâm trong thực hiện cơ chế một cửa hiện nay, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 1, tr. 47. 23. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Hội đồng nhân dân thành phố Đồng Hới (2016), báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về nội dung tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí từ năm 2007-6/2016 26. Hoàng Minh Hội (2014), Thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính Nhà nước ở Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 30, Số 2, tr. 42-50. 27. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  • 126. 28. Vũ Văn Hiền (chủ biên) (2004), Quy chế dân chủ ở cơ sở - vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 29. Hoàng Thị Hoài Hương (2012), Tăng cường trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Dân vận, số 7(60), tr.37-39. 30. Mai Quỳnh Nam (2003), Công khai để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, Tạp chí cộng sản, số 20(683), tr. 48. 31. Ngân hàng Thế giới (2014), Nghiên cứu Công khai Thông tin Đất đai, công bố ngày 12/12/2014. 32. Ngọc Chí (10/12/2014), Trung Quốc công khai, minh bạch thu chi ngân sách, http://vtv.vn 33. Nguyễn Phú Trọng (2011), Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 34. Phòng Nội vụ thành phố Đồng Hới (2016), Báo cáo về tình hình cán bộ, công chức xã, phường chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, chưa qua đào tạo lý luận chính trị và những giải pháp. 35. Lê Minh Quân (2011), Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 36. Lê Công Quyền (3/10/2013), Tiếp tục thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, http://www.xaydungdang.org.vn/ 37. S.Chiavo-Campo và P.S.A. Sudaram (2003), Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Võ Kim Sơn (2008), Xây dựng nền hành chính công theo yêu cầu phát triển, hội nhập trong môi trường khoa học và công nghệ hiện đại, Đề tài khoa học cấp bộ.
  • 127. 39. Thành ủy Đồng Hới (2015), báo cáo tổng kết thực hiện Chỉ thị số 30- CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. 40. Thành ủy Đồng Hới (2016) quy định về xử lý trách nhiệm người đứng đầu và cấp phó người đứng đầu trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao. 41. Thành ủy Đồng Hới (2015) Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XX, nhiệm kỳ 2015-2020 42. Tổ chức Minh bạch Quốc tế (2014), Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng 2014, công bố ngày 03/12/2014. 43. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg, ngày 18/4/2004 về việc ban hành Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng, Hà Nội. 44. Trung tâm thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa học (Văn Phòng Quốc Hội) và Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (Dự án STAR Việt Nam) (2006), Công khai, minh bạch hóa ở Việt Nam so sánh tham chiếu với hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và các quy định của Tổ chức thương mại thế giới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 45. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), tập 1, Trung tâm từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội. 46. UBND thành phố Đồng Hới (2015) Báo cáo tổng kết thi hành pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Pháp lệnh số 34/2007/PL- UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XI) (2015) 47. UBND tỉnh Quảng Bình (2015) Báo cáo tổng kết thi hành pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Pháp lệnh số 34/2007/PL- UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XI) (2015)
  • 128. 48. UBND thành phố Đồng Hới (2014), Báo cáo tổng hợp điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2020. 49. UBND huyện Phong Điền (2015), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông mới thành phố Đồng Hới. 50. Đào Trí Úc (chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Bộ máy Đảng và Nhà nước - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 51. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh số 34/2007/PL- UBTVQH11 ngày 20 tháng 4 năm 2007 về thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội. 52. Văn Chương - Vũ Phương - Trinh Phúc (11/4/2015), Thấy gì qua các vụ cán bộ xã liên tiếp dính tiêu cực, http://www.nguoiduatin.vn/ 53. Viện khoa học Thanh tra Chính phủ (2004), Việt Nam với Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 54. Đặng Hùng Võ (03/04/2014), Bàn về chuyện công khai và minh bạch ở Việt Nam http://tcnn.vn/ 55. Nguyễn Như Ý (2007), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.