LUẬN VĂN:
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây
dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Huy động, sử dụng vốn đầu tư nói chung và xây dựng cơ bản nói riêng nhằm góp
phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế luôn là một vấn đề quan trọng và cần
được giải quyết chặt chẽ mới mang lại hiệu quả cao nhất.
Bất cứ một ngành, một lĩnh vực nào để đi vào hoạt động đều phải thực hiện đầu tư
cơ sở vật chất, tài sản cố định, vì vậy đầu tư xây dựng cơ bản luôn là vấn đề đặc biệt được
quan tâm. Trong những năm qua, đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần không nhỏ đối với
tăng trưởng và phát triển nền kinh tế của nước ta. Rất nhiều công trình về các lĩnh vực như:
năng lượng, công nghiệp khai thác, chế biến, cơ sở hạ tầng, nông, lâm nghiệp được đầu tư
xây dựng làm tiền đề cho việc chấn hưng và phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản vẫn còn nhiều
tồn tại, hạn chế, đặc biệt là hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản còn thấp; thất thoát và lãng
phí trong đầu tư xây dựng cơ bản còn nhiều và diễn ra ở tất cả các khâu như: Chủ trương
đầu tư; lập dự án, thiết kế; thi công xây dựng; quản lý khai thác... Đây là một trong những
vấn đề bức xúc của toàn xã hội, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của bộ máy chính
trị và toàn thể nhân dân cần phải đồng bộ thực hiện. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 9 (khoá IX) đã nhận định:
Chất lượng của các chiến lược và quy hoạch xây dựng còn thấp, lại chậm
được bổ sung, điều chỉnh kịp thời. Còn thiếu sự phối hợp đồng bộ, hài hoà giữa
chiến lược, quy hoạch phát triển ngành với quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng
và địa phương. Còn để kéo dài tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, chưa tính toán
kỹ hiệu quả, nhất là trong đầu tư bằng vốn ngân sách và tín dụng ưu đãi của Nhà
nước... [12, tr.34].
Nghị quyết phiên họp thường kỳ tháng 12 năm 2005 của Chính phủ cũng đã xác
định rõ nhiệm vụ trọng tâm của năm 2006 là chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, đặc
biệt là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản... Đại hội Đại biểu Đảng lần thứ X đã tiếp tục
khẳng định: "Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác
tốt. Đầu tư của Nhà nước còn dàn trải, bị thất thoát nhiều. Một số công trình lớn, quan trọng
của quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Lãng phí trong chi tiêu ngân sách Nhà nước
và tiêu dùng xã hội còn nghiêm trọng" [13, tr.62].
Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, quá trình thực hiện đầu tư xây dựng
cơ bản tại tỉnh Phú Thọ đã có những kết quả thành công nhất định, nhờ đó mà tốc độ tăng
trưởng kinh tế của tỉnh đã đạt được khá cao so với mức bình quân chung của cả nước
trong nhiều năm. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,5%, dự kiến năm 2006 đạt
11,5%. Tuy vậy, hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản chưa đạt được mục tiêu đề ra; tồn
tại, hạn chế còn xảy ra ở tất cả các khâu. Thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản chưa
được khắc phục triệt để.
Là cán bộ đang công tác tại tỉnh Phú Thọ, với những kiến thức đã được học và kinh
nghiệm qua công tác thực tế, tôi lựa chọn đề tài: " Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ " làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay đã có nhiều tác giả và nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đầu tư và
đầu tư xây dựng cơ bản cũng như những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử
dụng vốn nói chung và vốn đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng, đề xuất các giải pháp chống
thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản, trong đó có một số công trình khoa học
tiêu biểu như:
- Nguyễn Văn Lai, "Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục
vụ phát triển kinh tế Việt Nam", Luận án PTS Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 1996.
- Trần Hồ Lan, "Những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
các doanh nghiệp ngành nhựa Việt Nam", Trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2003.
- Nguyễn Đẩu, "Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng -
Thực trạng và giải pháp", Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, 1999, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.
- Thế Đạt - Minh Anh, Đầu tư và hiệu quả, Nxb Lao động, 1993.
- Nguyễn Ngọc Mai, "Phân tích và quản lý các dự án đầu tư", Nxb Khoa học kỹ
thuật, Hà Nội, 1995.
- Nguyễn Hồng Minh, "Phân tích hiệu quả đầu tư", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội,
1993.
- Trương Quốc Cường, Một số vấn đề về xác định hiệu quả kinh tế của đầu tư, Tạp
chí Ngân hàng, số 22 tháng 11/1998.
- GS.TS Trần Văn Chử, "Thất thoát trong đầu tư phát triển: nguyên nhân và giải
pháp khắc phục", Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2005.
- Phan Tất Thứ, "Hoàn thiện phương pháp đánh giá hiệu quả dự án đầu tư công
cộng tại Việt Nam", Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, năm
2005.
- Trịnh Đình Dũng, "Những giải pháp chủ yếu khắc phục thất thoát trong đầu tư xây
dựng cơ bản", Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm
2000.
- Lưu Sỹ Quý, "Một số nguyên nhân nợ vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn
ngân sách Nhà nước", Tạp chí Tài chính, số 4/năm 2006.
- TS. Trần Đình Khải, "Một số vấn đề về đổi mới quản lý đầu tư xây dựng và đấu thầu ở
nước ta hiện nay", Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 12/năm 2005.
- TS. Lê Hùng Sơn, "Biện pháp góp phần chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây
dựng", Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, số 3/năm 2006.
Nhìn chung các công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến tình hình quản lý, phát
huy việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong việc phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, tại tỉnh Phú Thọ, cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Luận văn khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng vốn đầu tư xây dựng
cơ bản, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây
dựng cơ bản ở tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Khái quát cơ sở lý luận và quy định quản lý hiện hành về vốn đầu tư xây dựng cơ
bản.
- Phân tích, đánh giá thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản
của tỉnh Phú Thọ hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây
dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Các vấn đề liên quan đến việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh
Phú Thọ.
* Phạm vi nghiên cứu:
Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ từ năm
1997 cho đến nay (từ khi chia tách tỉnh Vĩnh Phú cũ). Vốn đầu tư xây dựng cơ bản được
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tuy nhiên trong nội dung luận văn này chủ yếu tập
trung nghiên cứu hiệu quả của đầu tư từ nguồn vốn NSNN.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phát
triển kinh tế.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu gồm: Điều tra khảo sát, so sánh phân
tích, tổng hợp; kế thừa các công trình khoa học đã có về lý thuyết về kinh tế và thực tiễn;
lượng hoá một số chỉ tiêu đánh giá.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá các lý thuyết về đầu tư nói chung, đầu tư xây dựng cơ bản nói
riêng và vai trò của nó đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Trình bày và phân tích một số chỉ tiêu đánh giá cụ thể về hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây
dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ trên cơ sở điều kiện đặc thù riêng của địa phương.
7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức và các cá nhân trong quá trình thu
hút các nguồn vốn và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận
về hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản
1.1. Khái niệm và vai trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản
1.1.1. Khái niệm về vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư theo nghĩa rộng là quá trình bỏ vốn bao gồm cả tiền, tài sản, để đạt được mục
tiêu nhất định nào đó, trong đó có mục tiêu kinh tế.
Trong hoạt động kinh tế, đầu tư có thể biểu hiện cụ thể hơn và mang bản chất kinh
tế, đó là hoạt động đầu tư nhằm mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là một tiêu chuẩn cơ bản và
chủ yếu của hoạt động đầu tư. ở đây hoàn toàn không có khái niệm đầu tư không nhằm mục
tiêu lợi nhuận.
Vốn đầu tư phát triển là những chi phí bỏ ra làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu
động, tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân cư và là mặt bằng dân trí, bảo
vệ môi trường sinh thái trong một thời gian nhất định.
Trong các khoản mục vốn đầu tư phát triển thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản là bộ
phận quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn nhất. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là những chi phí bằng
tiền dùng cho việc xây dựng mới, mở rộng, xây lại và khôi phục tài sản cố định trong nền
kinh tế.
Dựa trên quan điểm của quá trình tái sản xuất mở rộng, khái niệm đầu tư có thể hiểu
là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra năng lực sản xuất và
các yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh. Đầu tư là hoạt
động mang tính thường xuyên, của tất cả các quốc gia và là nền tảng của sự phát triển.
Hoạt động đầu tư phải nhằm tạo ra năng lực sản xuất cao hơn, có thể được thực hiện
thông qua nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó đặc biệt phải lưu ý là nguồn vốn
tích luỹ trong nước của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiều quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển đang
đứng trước những thiếu hụt về vốn cho đầu tư phát triển, do chưa có tích luỹ hoặc mức độ
tích luỹ thấp. Nước ta đang ở thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, nhu cầu vốn rất lớn, nhất là
vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nhưng vốn trong nước
còn hạn hẹp nên phải huy động và đa dạng hóa các nguồn vốn, đặt biệt là bổ sung nguồn
vốn từ bên ngoài cho nhu cầu đầu tư phát triển.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về đầu tư xây dựng cơ bản. Theo Trường Đại học
Kiến trúc: "Đầu tư cơ bản là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định đưa vào hoạt
động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm thu được lợi ích dưới hình thức khác nhau.
Hoạt động đầu tư cơ bản thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng mới các tài sản cố định
được gọi là đầu tư xây dựng cơ bản" [34, tr.10].
Đầu tư cơ bản là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định đưa vào hoạt động
trong các lĩnh vực kinh tế xã hội nhằm thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau. Hoạt
động đầu tư xây dựng thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng các tài sản cố định được gọi
là đầu tư xây dựng cơ bản.
Xây dựng cơ bản chỉ là một khâu trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, là các
hoạt động cụ thể để tạo ra tài sản cố định như: Khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt... [9,
tr.4].
Đầu tư xây dựng cơ bản là hình thức đầu tư chủ yếu và phổ biến nhất. Người có vốn
đầu tư xây dựng cơ bản gắn liền với hoạt động kinh tế của quá trình đầu tư nhằm góp phần
và nâng cao năng lực sản xuất hiện có, tạo ra năng lực sản xuất mới cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh nhằm sinh lợi.
Đầu tư xây dựng cơ bản, đó là việc bỏ vốn vào việc xây dựng, mua sắm tài sản cố
định trong lĩnh vực sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, máy móc) và trong lĩnh ực không sản xuất
vật chất (nhà ở, bệnh viện, trường học...) và trong lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng (cầu đường,
bến cảng, sân bay). Đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm cả việc xây dựng các xí nghiệp, công
trình sẵn có (không kể các chi phí sửa chữa, kể cả sửa chữa lớn tài sản cố định). Đầu tư xây
dựng cơ bản là yếu tố quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất mở rộng, phát triển khoa
học - kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống, vật chất tinh thần và văn hoá của
nhân dân.
Đầu tư vào các hoạt động kinh tế luôn phải tuân thủ tính hiệu quả theo những mục
tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Chính vì vậy, các hoạt động đầu tư trong lĩnh vực này phải
vạch ra được các mục tiêu cụ thể trong khoảng thời gian, không gian trên cơ sở phân tích,
tính toán một cách khoa học, chặt chẽ nhằm đảm bảo hoạt động đầu tư mang lại hiệu quả
ngày càng cao. Bởi vì đầu tư xây dựng cơ bản là một quá trình lâu dài, đòi hỏi nhiều vốn,
thời gian và phụ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan và chủ quan khác nhau, do vậy việc
tuân thủ theo đúng qui trình, trình tự là yếu tố bắt buộc. Thông thường trình tự đầu tư bao
gồm ba giai đoạn cơ bản: Chuẩn bị đầu tư; thực hiện đầu tư, kết thúc xây dựng, nghiệm thu
công trình và đưa vào sử dụng, khai thác. Vì vậy, việc thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản đầy
đủ và nghiêm túc các trình tự xây dựng cơ bản có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao hiệu
quả đầu tư xây dựng cơ bản của việc thực hiện đầu tư.
1.1.2. Vai trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với phát triển kinh tế - xã hội
Đầu tư xây dựng cơ bản có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế của tất cả các nước
trên thế giới, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nước ta đang
trong thời kỳ CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, công tác đầu tư xây
dựng cơ bản có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đã đề ra, nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các
tài nguyên khoáng sản, lao động, đất đai, vốn và các nguồn lực khác trong xã hội, đồng thời
phải bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái để tăng cường cơ sở vật chất cho sự phát triển
bền vững.
Hoạt động đầu tư đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành cơ cấu kinh tế
hợp lý, phù hợp từng thời kỳ phát triển, bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế chung, tăng
nhanh tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân và phát triển kinh tế - xã hội.
Đầu tư xây dựng cơ bản là một trong những nhân tố cơ bản tạo nên lực lượng sản
xuất ngày càng có trình độ cao hơn. Tất cả các ngành kinh tế chỉ có thể tăng trưởng nhanh,
nếu có đầu tư xây dựng cơ bản, đổi mới kỹ thuật và công nghệ để nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nhờ có đầu tư xây dựng cơ bản mà ngày càng có nhiều các công trình văn hoá, giáo
dục, y tế, nhà ở để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Chỉ tính trong 5 năm (từ 2001 - 2005), tổng số vốn đầu tư được huy động và đưa vào
nền kinh tế, tính theo giá năm 2000, đạt khoảng 976 nghìn tỷ đồng, gấp 1,76 lần so với năm
năm 1996-2000. Vốn đầu tư nhà nước chiếm 54,1% trong tổng cơ cấu vốn đầu tư, vốn đầu tư
của khu vực tư nhân chiếm 26,6%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 16,6% và vốn khác là
2,7% [5, tr.35].
Nhờ có các nguồn vốn đó (đặc biệt là nguồn vốn trong nước), mà quy mô đầu tư cho
các ngành, lĩnh vực, các vùng, đặc biệt các vùng khó khăn đều được tăng. Nhiều công trình
kết cấu hạ tầng đã được hoàn thành và đang triển khai như: nâng cấp đường quốc lộ 1, quốc
lộ 2, quốc lộ18, quốc lộ 10, cầu Phả Lại, cầu Mỹ Thuận, hoàn thành việc nâng cấp và đưa
vào sử dụng nhà ga T1 sân bay quốc tế Nội Bài, xây dựng nhà ga hành khách quốc tế sân
bay Tân Sơn Nhất, mở rộng và xây dựng mới các cảng biển Hải Phòng, Cái Lân, Dung
Quất... đang xây dựng các cầu lớn Thanh Trì, Cần Thơ, cầu Rạch Miễu. Năng lực sản xuất
các ngành kinh tế được tăng lên đáng kể, công suất điện tăng 4.863 MW, sản lượng khai thác
than sạch tăng 15,4 triệu tấn, trong lĩnh vực thủy lợi năng lực tưới tăng thêm 975 nghìn ha,
đường giao thông nông thôn tăng 650.004 km. Nhờ có đầu tư mà tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam 1990-2005 tăng hơn 3 lần. Tốc độ tăng GDP bình quân 7,5%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo đã
giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 24% năm 2004 (theo tiêu chí của Liên hiệp quốc) [5, tr.32,
35, 37]. Những con số đó để thấy vai trò của đầu tư to lớn như thế nào đối với việc phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời gian qua.
Vai trò của đầu tư thông qua chính sách đầu tư đúng đắn có ý nghĩa quan trọng, không
ngừng góp phần mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội có hiệu quả
mà còn khuyến khích đầu tư phát triển từ các thành phần kinh tế, từ đó làm cho nền kinh tế phát
triển có hiệu quả cao hơn.
Với một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, vai trò của đầu tư càng có ý
nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, làm tăng sức cạnh tranh
trên thị trường nhờ đó làm cho đầu tư ngày càng có hiệu quả hơn. Đối với nước ta hiện nay,
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý điều
hành của Nhà nước về đầu tư phải phù hợp với quy luật khách quan của cơ chế thị trường.
Nhà nước thể hiện vai trò quản lý của mình bằng việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư phù hợp với
từng giai đoạn phát triển và mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra, để
mục tiêu xây dựng đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Trong xu thế của hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực và cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật thì sản phẩm của đầu tư xây dựng cơ bản cũng có vai trò lớn về mặt kiến trúc, khoa
học, văn hoá dân tộc, nghệ thuật, an ninh và quốc phòng.
1.2. Những nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản
1.2.1. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng cơ bản
Sản phẩm xây dựng cơ bản mang tính đặc biệt và tổng hợp. Theo Đại từ điển kinh tế
thị trường: "Xây dựng cơ bản là chỉ việc tái sản xuất tài sản cố định, bao gồm mở rộng tái sản
xuất đơn giản sắp xếp lại hoàn toàn" [10, tr.260]. Đó là những công trình xây dựng như nhà
máy, các công trình công cộng, nhà ở, trụ sở, cầu, cống, cảng, sân bay... Các sản phẩm này
được sản xuất không theo một dây chuyền nhất định và hàng loạt, mà từng công trình đều
có những kiểu riêng, nét riêng. Ngay trong một công trình cụ thể, tính chất kết cấu, kiểu
dáng của từng khu vực cũng khác nhau. Do vậy, các sản phẩm của đầu tư xây dựng cơ bản
thường không có tính chất liên tục trong quá trình sản xuất.
Sản phẩm của đầu tư xây dựng cơ bản phải trải qua một thời gian dài mới có thể đưa
vào sản xuất hoặc sử dụng. Bên cạnh đó, địa điểm xây dựng các công trình đồng thời cũng
là nơi tiêu thụ các nguyên nhiên liệu, các vật liệu, bán thành phẩm, vì vậy nó thường hay bị
thay đổi phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên hoặc giá cả của các loại đầu vào đó. Đó
chưa kể đến nguyên nhân chủ quan của các chủ đầu tư là hay thay đổi thiết kế. Ví dụ
mưa bão, tắc đường không vận chuyển vật liệu vào công trình, công nhân chờ việc, dẫn
đến chi phí tăng. Sản phẩm xây dựng cơ bản gắn chặt với đất đai nơi sản xuất và sử dụng.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thường lớn, thời gian sử dụng cũng như thời gian từ
khởi công cho đến khi hoàn thành thường rất dài. Do vậy, khi tiến hành xây dựng một công
trình, đặc biệt là các công trình liên quan nhiều đến kinh tế - xã hội, môi trường cần phải hết
sức cẩn thận, có luận chứng khoa học, có tính đến dài hạn, từ khi lập dự án tiền khả thi, khả
thi, chọn địa điểm xây dựng, thiết kế công trình, tổ chức thi công, lựa chọn đội ngũ cán bộ,
công nhân, tránh tình trạng sửa chữa, bổ sung thiết kế, phá đi, làm lại, di chuyển dự án, gây
thiệt hại, lãng phí làm chậm tiến độ sử dụng các công trình, đó là độ trễ trong đầu tư.
Sản phẩm xây dựng cơ bản không chỉ thuần tuý mang tính kinh tế - kỹ thuật, mà còn
có ý nghĩa nhân văn, kiến trúc, mang màu sắc văn hoá, dân tộc nơi công trình đó được xây
dựng. Do vậy, khi thiết kế, hoàn thành các sản phẩm này phải phản ánh trình độ phát triển
khoa học - kỹ thuật, trình độ kinh tế và trình độ văn hoá kỹ thuật phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của một đất nước.
Xây dựng cơ bản là quá trình thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản mang tính không ổn
định do thiết kế thay đổi, địa điểm xây dựng công trình luôn thay đổi (xây dựng ở nhiều vị
trí khác nhau ngay tại cùng một công trình). Sản phẩm xây dựng thường đứng im trong quá
trình sản xuất, còn con người, máy móc, thiết bị lại luôn di chuyển, nguyên vật liệu nhiều,
khối lượng lớn, nhu cầu vận chuyển nhiều dẫn đến chi phí cao, đặc biệt một số sản phẩm
siêu trường, siêu trọng nên càng làm tăng khó khăn và chi phí. Chu kỳ sản xuất và chi phí
xây dựng cơ bản cao. Nhiều công trình xây dựng cơ bản lớn thường có nhiều đơn vị tham
gia, do vậy việc phối hợp chặt chẽ để đảm bảo tiến độ, chất lượng, thời gian luôn là một vấn
đề không đơn giản. Do vậy, các nhà thầu phải hiểu và nắm chắc tổng dự toán, dự toán các
hạng mục công trình và thường xuyên trong quá trình thi công.
Trong xây dựng cơ bản, vấn đề không tính hết và đầy đủ, trong đó phải kể đến các
nhà máy sản xuất, là ảnh hưởng của công trình đó đến môi trường, sản xuất và cư trú của
dân cư. Khi xây dựng nhà máy, đã không tính đến ảnh hưởng của môi trường như nhà máy
hoá chất, nhà máy sản xuất mỳ chính... Hoặc không tính đến độ vĩnh cửu của các công trình
xây dựng, hoặc mỹ thuật, nên khi hoàn thành thì nhiều công trình còn gây cảm giác khó
chịu, gây mất mỹ quan, thuần phong mỹ tục của đất nước, dân tộc.
1.2.2. Các nhân tố cơ bản tác động đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng
cơ bản
1.2.2.1. Chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế của đất nước, ngành và địa
phương
Việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, ngành, địa phương
phải dựa trên những điều kiện, lợi thế, tiềm năng và khả năng của đất nước, địa phương và
từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Trong giai đoạn hiện nay, chiến lược đó lại phải phù hợp với
thực tiễn của đất nước, vừa phải phù hợp với xu thế phát triển của cả thế giới và khu vực.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã nhấn mạnh:
Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ
chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Đổi mới căn
bản công tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa mọi lợi thế
so sánh của quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi nguồn lực tham gia phát
triển kinh tế - xã hội [13, tr.78].
Nếu xác định tốt chiến lược, thực hiện có quy hoạch chiến lược đó thì đảm bảo sự
phát triển bền vững của quốc gia. Do vậy, việc xây dựng đồng bộ dài hạn chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội là một yêu cầu bức thiết, tất yếu khách quan của quá trình phát triển đất
nước theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, trong xu thế biến đổi rất nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, sự lớn
mạnh và tăng cường của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, nhiều quốc gia đã đưa ra
những chiến lược phát triển dài hạn theo những định hướng lớn, trong chiến lược dài hạn
đó, có những chiến lược "mềm", linh hoạt được thay đổi theo sự thay đổi của tình hình thế
giới và hoàn cảnh của đất nước. ở Việt Nam, đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm 2001-2010, kế hoạch 5 năm 2001-2005, 2005-2010 và có định hướng phát triển
đất nước đến năm 2020, hàng năm có những thay đổi nếu thấy cần thiết để phù hợp với tình
hình của đất nước và thế giới.
Để quản lý, thực hiện chiến lược phát triển đất nước, thì cần phải có nhiều công cụ
và chính sách, trong đó có công cụ quy hoạch. Quy hoạch là cụ thể hoá mục tiêu, giải pháp
và nhiệm vụ để thực hiện chiến lược đó. Do vậy, nếu quy hoạch sai thì sẽ dẫn đến những sai
lầm mà đất nước phải gánh chịu, đặc biệt phải hạn chế tối đa những quy hoạch sai mà nhiều
năm không khắc phục được hoặc khắc phục lại quá tốn kém.
Nếu quy hoạch tốt, thì sẽ bố trí hợp lý, bền vững về các công trình, hiệu quả phù hợp
với điều kiện của đất nước, vùng, địa phương và ngành. Ngược lại, nếu qui hoạch không tốt,
thiếu sự thực hiện đồng bộ giữa qui hoạch ngành, qui hoạch phát triển địa phương, qui
hoạch tổng thể cộng thêm sự phát triển cục bộ, thực hiện chồng chéo sẽ dẫn đến sự lãng phí
rất lớn, không đem lại được hiệu quả của vốn đầu tư. Thực tế những năm qua, việc quyết
định đầu tư cơ sở hạ tầng của cả xã hội là rất cần thiết và đã đem lại hiệu quả. Tuy nhiên,
cũng không ít những trường hợp do chỉ suy tính đến phát triển của địa phương mà chưa tính
đến qui hoạch chung nên hiệu quả chưa đạt được như mục tiêu đã đề ra. Vấn đề này, nhiều
chuyên gia nước ngoài sau khi nghiên cứu đã không khỏi có những ngạc nhiên khi thấy rằng
ở Việt Nam có gần 80% người dân, với mức thu nhập dưới 500 USD/người/năm; tổng kim
ngạch xuất khẩu dưới 30,0 tỷ USD/năm nhưng lại có tới 110 cảng biển, 61 cảng hàng không
và sân bay, đáng chú ý trong đó có nhiều cảng biển, sân bay được qui hoạch xây dựng quá
gần nhau nên vô hình chung đã tự hạn chế sự phát triển của nhau và lãng phí nguồn lực của
đất nước. Ví dụ, Cảng Hòn La (Quảng Bình) chỉ cách cảng Vũng áng 25km, cảng Chân
Mây (Thừa Thiên Huế) cách cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) 30km, cảng Dung Quất cách cảng Kỳ
Hà 10km, khoảng cách giữa sân bay Quảng Bình và sân bay Phú Bài (Thừa Thiên Huế) rất
nhỏ, thời gian đi bằng đường bộ chỉ khoảng 2 đến 3 giờ [29, tr.39]. Qua đây cho thấy, việc
thực hiện có cơ sở khoa học, thực tiễn để đầu tư có ưu tiên, có trọng điểm các công trình
xây dựng cơ bản, lượng vốn đầu tư, bố trí cụ thể, thích hợp từng dự án, từng công trình,
tránh việc đầu tư dàn trải mới nghĩ đến được thu được hiệu quả nguồn lực đầu tư.
1.2.2.2. Nhóm nhân tố về các yếu tố của nguồn lực
Khi nói đến các yếu tố của nguồn lực, người ta thường hay nói đến quy mô, số
lượng, đặc biệt là chất lượng của các yếu tố đầu vào. Nếu ta gọi các biến số đầu vào là Xi,
hàm số đầu ra là Y, thì mối quan hệ giữa đầu ra (GDP) với đầu vào như sau:
Y = f (Xi)
Trong đó: Xi là các yếu tố đầu vào cụ thể như sau:
K : Vốn
L : Lao động
R : Tài nguyên thiên nhiên
T : Khoa học và công nghệ [27, tr.28].
Các yếu tố này có quan hệ tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển. Song, tuỳ theo từng quốc
gia cụ thể thì quy mô, cơ cấu và tỷ trọng của các yếu tố đầu vào là khác nhau. Ví dụ, các
quốc gia phát triển, vốn nhiều, giá vốn thấp thì họ sử dụng nhiều vốn; quốc gia nào nhiều tài
nguyên thiên nhiên thì họ sẽ sử dụng lợi thế của mình là tài nguyên thiên nhiên, quốc gia
nào có quy mô dân số lớn, lao động nhiều, thì có lợi thế là quy mô lao động và nhân công
giá rẻ. Tuy nhiên, điều quan trọng cơ bản là sử dụng các biến số này như thế nào cho có
hiệu quả mới là quyết định.
Ngày nay, trong xu thế của sự lớn mạnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
thì nguồn lực con người đặc biệt là nguồn lao động có chất lượng luôn là yếu tố quyết định.
Bởi vì, con người lao động quyết định từ khâu ý tưởng ban đầu đến khâu cuối cùng là phải
có sản phẩm cho xã hội, do vậy, họ phải có năng lực, sức khoẻ, phẩm chất. Nói cách khác,
người lao động đồng thời là nguồn lực và chính người lao động mới có khả năng và đủ điều
kiện để sử dụng các nguồn lực khác. Tuy vậy, nhiều quốc gia đang phát triển, trong đó có
nước ta cần rất nhiều vốn để thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì yếu tố
vốn cũng đóng vai trò rất quan trọng. Trong tình hình hiện nay, cũng cần phải nhắc lại lần
nữa, các nguồn lực là quan trọng, không thể thiếu, nhưng quan trọng hơn là phải sử dụng
chúng như thế nào cho có hiệu quả và hợp lý mới có tính quyết định.
1.2.2.3. Tác động của cơ chế và chính sách đến hiệu quả đầu tư
Chính sách và cơ chế đầu tư là nhân tố chủ quan, nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả đầu tư. Nếu có cơ chế và chính sách đúng thì sẽ huy động và khai thác tốt các điều
kiện khả năng, lợi thế so sánh của các quốc gia, các doanh nghiệp và dân cư.
Chính sách đầu tư với những ưu đãi thì tạo điều kiện không chỉ các nhà đầu tư nước
ngoài mà cả các nhà đầu tư trong nước đến đầu tư, bên cạnh thu hút được nhiều vốn, mà còn
thu hút cả kinh nghiệm quản lý, công nghệ và tạo điều kiện để mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm.
Chính sách đầu tư bao gồm một hệ thống đồng bộ các công cụ, cơ chế khuyến khích
đầu tư như: chính sách thuế, lãi suất, tín dụng, lao động, tiền lương, đất đai, chính sách
khuyến khích đầu tư theo vùng, ngành. Đối với những vùng, miền ưu tiên thì cần phải có
những chính sách cụ thể, nhất quán, mang tính ổn định và lâu dài.
Bằng việc nhận dạng nguyên nhân gây ra sự khác biệt giữa việc định giá kinh tế và
giá tài chính, nhà phân tích có thể nói được liệu sự khác biệt đó là do thị trường hay chính
sách gây ra. Nếu là do chính sách gây ra, thì phải xem xét chi phí và lợi ích của sự thay đổi
chính sách làm cho những đánh giá kinh tế và tài chính xích lại gần nhau hơn. Do vậy, cần
phải cân nhắc kỹ khi đầu tư xây dựng một dự án, như địa điểm, qui mô vào thời gian nào, đã
đúng lúc chưa, hay liệu có tốt hơn không nếu thuyết phục các cơ quan chức năng thay đổi
chính sách [15, tr.20].
1.2.2.4. Quy chế, quy định và quy trình quản lý sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ
bản
Đây là một nhân tố hết sức cơ bản, nếu không nói là có tính quyết định đối với hiệu
quả của đầu tư xây dựng cơ bản. Do vậy, Nhà nước cần phải xây dựng và ban hành quy chế
quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, trước hết là Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu,
đặc biệt là các quy chế, quy định quản lý đầu tư và sử dụng nguồn vốn của Nhà nước cho cả
ba quá trình từ chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và kết thúc đầu tư đưa vào khai thác sử
dụng (vì sự lãng phí, thất thoát, tham nhũng chủ yếu xảy ra từ khâu đầu tư bằng nguồn vốn
ngân sách nhà nước).
Rất nhiều ví dụ qua các vụ án cho thấy, thường thất thoát lãng phí, tham nhũng là
đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước.Vụ xây dựng khu vui chơi giải trí Thủy Cung
Thăng Long, vụ án Lã Thị Kim Oanh tại Công ty tiếp thị và thương mại tổng hợp thuộc Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Các vụ án tại Tổng Công ty dầu khí Việt Nam, vụ lừa
đảo đầu tư xây dựng của Nguyễn Đức Chi của Công ty Liên doanh Rusalka - Nha Trang và
gần đây nhất là vụ án liên quan đến công trình giao thông sử dụng vốn ODa tại PMU 18 (Bộ
Giao thông vận tải), 77% công trình xây dựng miền núi bị móc ruột, thanh tra 103 công
trình xây dựng cơ bản ở miền núi trên địa bàn tỉnh và 6 dự án cho thấy tổng số tiền bị chiếm
đoạt, thất thoát, lãng phí lên tới 9,66 tỷ đồng. Tình trạng "rút ruột" các công trình phô biến
đến mức trong số 86 công trình thuộc Chương trình 135 và Trung tâm cụm xã thì có 82
công trình sai phạm với số tiền gần 35 tỷ đồng; 17 công trình thủy lợi thì 2 không phát huy
hiệu quả, 5 mới đưa vào sử dụng đã hư hỏng, 11 hạng mục thi công thiếu hụt khối lượng; 6
dự án giao thông thì 5 dự án "ăn" đứt 5,9 tỷ đồng. Tính ra 77% công trình xây dựng miền
núi sai phạm là một tỷ lệ khá lớn [29, tr.32]. Những quy định quy chế này phải bao gồm:
- Các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật trong đầu tư, nhất là các định mức thiết kế, thi công,
hiệu quả cho phù hợp với sự thay đổi của tình hình thực tế.
- Nâng cao công tác thẩm định các dự án, từ giai đoạn tiền khả thi vì đây là khâu
quyết định của mức đầu tư xây dựng cơ bản.
- Xây dựng cơ chế đấu thầu, chọn thầu, tuyển thầu, chỉ định thầu, khoán gọn, hạn
chế thấp nhất những khâu tiêu cực trong đấu thầu.
- Quản lý chặt chẽ quá trình đầu tư xây dựng cơ bản.
- Quản lý các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
- Ban hành các thủ tục hành chính trong đầu tư, nhưng phải tuân thủ quy định của
pháp luật, không gây phiền hà, nhũng nhiễu. Thực hiện tốt khâu hậu kiểm của đầu tư.
- Quản lý chặt trẽ việc phát sinh trong quá trình thực hiện đầu tư và thẩm định các
quyết toán của các dự án đã hoàn thành.
1.1.3. Các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Các nguồn vốn huy động cho đầu tư nói chung, xây dựng cơ bản nói riêng rất đa
dạng. ở nước ta, những nguồn vốn có thể huy động được là: phong phú và quy mô, tỷ trọng
cũng rất khác nhau.
- Vốn ngân sách nhà nước:
Nguồn vốn này dùng để đầu tư cho các dự án xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh... Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước không tính
toán ngay được trực tiếp hiệu quả kinh tế, ít có khả năng thu hồi vốn chậm hoặc thu hồi vốn
thấp, được quản lý theo phân cấp về chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển. Ngoài ra,
vốn ngân sách nhà nước còn dùng đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, góp
vốn cổ phần, liên doanh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thuộc lĩnh vực
cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Trong 5 năm qua (2001-2005), đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các ngành nông
lâm ngư nghiệp chiếm 22,2%, giao thông vận tải, bưu điện 27%, giáo dục đào tạo 8,9%, y tế
- xã hội 6,9%, văn hóa, thể thao 4,3%, khoa học công nghệ 3,1% [5, tr.35].
- Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước:
"Vốn khấu hao cơ bản, vốn tích luỹ từ lợi nhuận để lại sau thuế, vốn doanh nghiệp tự
huy động":
Nguồn vốn này dùng để đầu tư cho phát triển sản xuất - kinh doanh nâng cao chất
lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm cho các doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt
nước ta là nước theo định hướng XHCN, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, do vậy
cũng cần có một số doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phải sử dụng theo
đúng các chế độ quản lý vốn đầu tư do Chính phủ quy định. Trong 5 năm 2001-2005, vốn
đầu tư của doanh nghiệp nhà nước là 178,2 tỷ đồng chiếm 18,3% cơ cấu vốn đầu tư xã hội
[3, tr.36].
- Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước:
Vốn tín dụng này để đầu tư các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các doanh
nghiệp sản xuất nhằm giải quyết việc làm, các dự án đầu tư quan trọng của Nhà nước trong
từng thời kỳ. Hiện nay, nguồn vốn này dành cho các dự án khuyến khích đầu tư sản xuất và
xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế, trồng cây công nghiệp lâu năm, chăn nuôi gia súc lớn,
thuỷ sản, sản xuất muối và phát triển công nghiệp chế biến, một số ngành công nghiệp chủ
lực như: Điện, than, xi măng, xây dựng cảng biển, sân bay...
- Vốn thuộc các khoản vay nước ngoài của Chính phủ và các nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA):
Đây là nguồn vốn hết sức quan trọng, vì nguồn vốn vay lớn, lãi suất không cao, có
một số ưu đãi, do vậy thường đầu tư vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, xóa đói giảm nghèo,
phát triển nông nghiệp, nông thôn, văn hóa, giáo dục, đô thị là những lĩnh vực khả năng thu
hồi vốn chậm, ít có khả năng sinh lời... Nguồn vốn này được quản lý thống nhất của Luật
ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước và theo
hướng dẫn quản lý vốn nước ngoài của Chính phủ và các bộ, Ngân hàng nhà nước. Mặc dù
tình hình kinh tế của thế giới còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ chính sách đối ngoại tốt,
mà các nhà tài trợ nước ngoài vẫn tiếp tục ủng hộ Việt Nam. Từ năm 2001 đến 2005, tổng
giá trị các hiệp định đã ký kết đạt khoảng 14,7 tỷ USD, trong đó vốn viện trợ không hoàn lại
chiếm khoảng 15-20%. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, tỷ lệ giải ngân mới đạt khoảng
7,8 tỷ USD, đạt 87% so với kế hoạch. Nhiều công trình đầu tư từ nguồn vốn ODA đã góp
phần tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống người dân và tăng cường công bằng xã hội [3,
tr.32].
- Vốn tín dụng thương mại:
Nguồn vốn này, các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước dùng để đầu
tư xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, đổi mới kỹ thuật và công nghệ các dự án sản xuất kinh
doanh, dịch vụ có hiệu quả kinh tế, có khả năng thu hồi vốn và tất nhiên các doanh nghiệp
này có đủ điều kiện vay vốn theo quy định hiện hành. Nhà nước có thể hỗ trợ về mặt pháp
lý nếu cần thiết thấy vốn tín dụng thương mại được áp dụng theo cơ chế tự vay, tự trả và
thực hiện đầy đủ các thủ tục đầu tư và điều kiện vay trả vốn theo quy định của Việt Nam và
thông lệ quốc tế.
Các doanh nghiệp nhà nước được phép góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp của
nước ngoài bằng quyền sử dụng đất, hoặc tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển, nhà xưởng thiết
bị và các công trình khác thuộc vốn Nhà nước, nhưng phải được cấp có thẩm quyền cho
phép có trách nhiệm hoàn trả vốn cho Nhà nước theo đúng quy định pháp luật.
- Vốn của các tổ chức, cá nhân:
Nguồn vốn này dùng để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định của
từng cấp có thẩm quyền đối với từng loại công trình.
Vốn đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng của xã, thị trấn trên nguyên tắc tự nguyện.
Các nguồn vốn huy động và sử dụng phải được công khai, có kiểm tra, kiểm soát và
đúng mục đích, đúng chế độ theo quy định của pháp luật.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
Là vốn của các tư nhân nước ngoài trực tiếp đầu tư vào hoạt động kinh doanh tại
nước ta dưới các hình thức kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Đầu tư (có hiệu
lực từ 1-7-2006). Đây là một nguồn vốn hết sức quan trọng trong việc mở rộng sản xuất, đổi
mới công nghệ, mở rộng thị trường. Chúng ta đã có những bước tiến bộ trong việc cải thiện
môi trường đầu tư, mặc dù trên thế giới còn gặp nhiều khó khăn nhưng luồng luân chuyển
vốn bị hạn chế và phân tán bởi sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Do vậy, trong 5 năm từ
2001 đến 2005, ở nước ta tổng số vốn FDI đăng ký đạt 18,1 tỷ USD, vượt 21% mục tiêu đề
ra (mục tiêu là 15 tỷ USD). Tổng số vốn thực hiện đạt 13,6 tỷ USD [5, tr.33].
Bảng 1.1: Huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển của nước ta thời kỳ 2001 -2005
[3, tr.183]
STT Chỉ tiêu ĐVT 2001 2002 2003 2004
Ước
thực
hiện
2005
Tổng số ngh.tỷ.đ 170,5 199,1 231,6 275 320
% GDP % 35,4 37,2 37,8 38,4 38,2
1 Vốn đầu tư thuộc
NSNN
ngh.tỷ.đ 45,6 49,6 55,5 69,1 74,0
So với tổng số % 26,5 24,9 24,0 25,1 23,1
2 Vốn tín dụng đầu tư ngh.tỷ.đ 28,7 31,9 29 30 30
So với tổng số % 16,8 16,0 12,5 10,9 9,4
3 Vốn đầu tư của tư
DNNN
ngh.tỷ.đ 27,7 31 31,6 39,7 50,0
So với tổng số % 16,2 16,5 13,6 14,4 15,6
4 Vốn đầu tư của tư
nhân và dân cư
ngh.tỷ.đ 38,5 52,1 68,7 82 105,0
So với tổng số % 22,6 26,2 29,7 29,8 32,8
5 Vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài
ngh.tỷ.đ 30 34,5 37,8 44,2 47,0
So với tổng số % 17,6 17,3 16,3 16,1 14,7
6 Vốn huy động khác ngh.tỷ.đ - - 9 10,0 14,0
So với tổng số % - - 3,9 3,6 4,4
1.3. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản
1.3.1. Một số khái niệm
1.3.1.1. Hiệu quả
Có nhiều cách nhìn và tiếp cận khác nhau về hiệu quả kinh tế và hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Theo Đại từ điển kinh tế thị trường thì hiệu quả và tỷ suất hiệu
quả được hiểu như sau: "Hiệu quả là thù lao mà nhà đầu tư thu được sau một thời gian nhất
định, như lợi thức, lãi cổ phần, lợi nhuận. Tỷ suất hiệu quả là tỷ lệ giữa mức hiệu quả và
mức đầu tư, tức mỗi đồng hiệu quả thì thu được của đầu tư" [10].
"Hệ số hiệu quả đầu tư: là tên gọi của hệ số hiệu quả đầu tư. Là tỷ lệ giá trị của mức
tăng thu nhập quốc dân trong một thời kỳ nhất định và đầu tư tài sản cố định toàn xã hội dẫn
đến sự tăng trưởng năm" [10, tr.619-620].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì:
Hiệu quả kinh tế của đầu tư cơ bản là chỉ tiêu hiệu quả quốc dân do vốn
đầu tư cơ bản mang lại, biểu hiện ở lượng tăng thu nhập quốc dân (hay tăng sản
lượng, hoặc lượng tăng giá trị tài sản cố định (hay tăng công suất thiết bị) so với
lượng vốn đầu tư cơ bản đã được thực hiện là chỉ tiêu tổng quát phải phản ánh
hiệu quả của nền kinh tế, xét trên quy mô của nền kinh tế quốc dân một ngành
hay một xí nghiệp; nhìn chung nó là tỷ lệ giữa giá trị tăng thêm so với lượng đầu
tư cơ bản [33, tr.290T1].
Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu
hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện
nhất định.
Đánh giá hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một nội dung rất quan trọng,
nhưng rất phức tạp khó khăn, tuy vậy nó là rất cần thiết và kết quả tổng hợp của quá trình
công tác đầu tư xây dựng cơ bản. Khi xem xét một lợi ích kinh tế - xã hội do dự án đem lại
đều phải xác định vị trí của dự án trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân.
Theo GS,TS Nguyễn Văn Chọn, hiệu quả của dự án đầu tư là toàn bộ mục tiêu đề ra
của dự án, được đặc trưng bằng các chỉ tiêu định tính (thể hiện ở các loại hiệu quả đạt được) và
bằng các chỉ tiêu định lượng (thể hiện giữa chi phí đã bỏ ra của dự án và các kết quả đạt được
theo mục tiêu của dự án) [7, tr.25].
Với quan niệm đó là đúng đắn, tuy nhiên trong đầu tư xây dựng cơ bản, các chỉ tiêu
hiệu quả thường mang tính tổng hợp, nhiều dự án có tính xã hội rất cao, nên cần phải đánh
giá một cách tổng quát hơn. Do vậy, chúng tôi chỉ dừng ở cách phân loại thành hai nhóm chỉ
tiêu: chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp và các chỉ tiêu cụ thể lượng hoá khác.
1.3.1.2. Hiệu quả tổng hợp
Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp là hiệu quả chung nhất phản ánh kết quả thực hiện mọi
mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi phí để có
được những kết quả đó.
Theo tác giả Dương Văn Long [19, tr.9-11], nếu chúng ta lấy ký hiệu K là kết quả
nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các đơn vị khác nhau: tiền, công trình, quy mô, số
lượng. C là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau. H là hiệu quả chung, thì sẽ có
công thức đơn giản về hiệu quả tổng hợp chung nhất:
H = K - C (1) Hiệu quả tuyệt đối
H = K/C (2) Hiệu quả tương đối
Như vậy, được hiểu một cách chung nhất là kết quả (H) mà chủ thể nhận được theo
hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì càng
có lợi bấy nhiêu. Sau đó xem xét mức độ đóng góp cụ thể của từng công trình đầu tư xây
dựng cơ bản vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước thông qua các chỉ
tiêu định hướng như mức đóng góp cho ngân sách, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, công suất
của các nhà máy, mức tiết kiệm ngoại tệ cho nền kinh tế, số lao động có việc làm khi công
trình được thực hiện hoặc sau khi hoàn thành.
Tóm lại, hiệu quả tổng hợp là sự so sánh giữa kết quả đầu tư mang lại và chi phí của
đầu tư. Có nhiều cách để phân loại, đánh giá hiệu quả đầu tư. Có thể có hiệu quả trực tiếp
hay hiệu quả gián tiếp. Hiệu quả trực tiếp là lợi ích mang lại (sinh và lợi nhuận cao) sau một
thời gian bỏ vốn ra đầu tư và thu hồi lại. Hiệu quả gián tiếp là lợi ích mang lại chung cho
nền kinh tế, một địa phương. Ví dụ hiệu quả sau khi xây dựng một con đường, một cây cầu,
một công trình thủy lợi, một nhà máy khi đi vào sản xuất...
1.3.1.3. Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh trình độ sử dụng và năng lực
quản lý các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh đạt kết quả cao với
chi phí thấp nhất.
Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu biểu hiện kết quả sản xuất, nói rộng ra là của hoạt động
kinh tế, kinh doanh, phản ánh tương quan giữ kết quả đạt được so với hao phí lao động, vật
tư, tài chính, là chỉ tiêu phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng các yếu tố của sản xuất -
kinh doanh, nhằm đạt được kết quả kinh tế tối đa, với chi phí tối thiểu. Tuỳ theo mục đích
đánh giá, có thể đánh giá hiệu quả kinh tế bằng những chỉ tiêu khác nhau như năng suất lao
động, hiệu suất sử dụng vốn, hàm lượng vật tư của sản phẩm, lợi nhuận so với vốn, thời
gian thu hồi vốn. Chỉ tiêu tổng hợp thường dùng nhất là doanh lợi thu được so với tổng số vốn
bỏ ra [33, tr.290]. Tuy nhiên, cần lưu ý “Hiệu quả kinh tế thường được nghiên cứu ở góc độ vĩ
mô và phải chú ý rằng không phải bao giờ hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh doanh là vận động
cùng chiều” [18, tr.13].
Hiệu quả kinh tế còn được gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh hay kết quả kinh tế
xét trong phạm vi cụ thể. Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích
kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi
ích kinh tế. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của những nhà đầu tư
và các doanh nghiệp.
Với cách tính hiệu quả tương đối (H = K/C) là cách đánh giá phản ánh hiệu quả của
việc sử dụng một số vốn đã bỏ ra để thu được kết quả cao hơn, tức là xuất hiện giá trị gia
tăng (điều kiện để đảm bảo cho các doanh nghiệp tồn tại và phát triển thì H phải lớn hơn 1.
(H>1). H càng lớn thì chứng tỏ quá trình kinh doanh càng đạt hiệu quả.
Các nhà sản xuất luôn quan tâm đến kết quả lợi nhuận thu được của dự án đầu tư xây
dựng cơ bản.
Hiệu quả kinh tế ở tầm vĩ mô đó là lợi ích kinh tế - xã hội do dự án mang lại gắn liền
với việc tăng trưởng GDP với tốc độ cao; hiệu quả phải gắn với tính bền vững, với tiến bộ
và công nghệ bằng xã hội, với bảo đảm an ninh quốc phòng..v.v.
Trong xây dựng cơ bản, đặc biệt trong điều kiện ở nước ta hiện nay, khi mà các
nguồn vốn huy động còn khan hiếm, trong lúc phải thực hiện CNH, HĐH cần phải đầu tư ở
các lĩnh vực kinh tế - xã hội, thì việc tính toán hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản là một vấn
đề hết sức quan trọng. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước không thể không nói tới đầu tư xây
dựng cơ bản. Đầu tư xây dựng cơ bản sẽ góp phần quyết định sự thắng lợi của công cuộc
đổi mới đất nước, tiến trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
1.3.1.4. Hiệu quả kinh tế - xã hội
Hiệu quả kinh tế - xã hội còn được gọi là hiệu quả kinh tế quốc dân là hiệu quả tổng
hợp được xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Để đánh giá tổng quát hiệu quả kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ
người ta đã dùng một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế - xã hội tổng hợp trong đó tốc độ tăng GDP,
GDP tính theo đầu người, tuổi thọ bình quân, trình độ văn hoá, y tế, thể thao, giải quyết công ăn
việc làm, nâng cao phúc lợi xã hội.
Chủ thể được hưởng hiệu quả kinh tế - xã hội là toàn bộ xã hội mà lực lượng chủ yếu
là nhân dân, vì vậy những hiệu quả (lợi ích) và chi phí được xem xét trong hiệu quả kinh tế -
xã hội xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế - xã hội là hiệu quả kinh tế xét theo quan điểm
toàn bộ của nền kinh tế và thường được giải quyết ở cấp vĩ mô.
1.3.1.5. Quan hệ giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội
Trong đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả kinh tế trước hết là lợi nhuận luôn là mối
quan tâm của doanh nghiệp hoặc của những nhà đầu tư. Hiệu quả kinh tế - xã hội là mối
quan tâm của toàn xã hội mà đại diện là Nhà nước. Hiệu quả sản xuất kinh doanh (hiệu quả
kinh tế) được xem xét theo quan điểm của doanh nghiệp, lợi nhuận là mục tiêu và động lực
trước hết của doanh nghiệp, họ bỏ vốn ra và thu được lợi nhuận là bao nhiêu? còn hiệu quả
kinh tế - xã hội được xem xét theo quan điểm của toàn xã hội. Hiệu quả sản xuất kinh doanh
xét theo quan điểm bộ phận của một nhóm người, nhà đầu tư, hay của một doanh nghiệp, lợi
nhuận là chủ yếu, còn hiệu quả kinh tế - xã hội xét theo quan điểm toàn thể, đồng bộ và có
tính dài hạn.
Quan hệ giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội là quan hệ
giữa lợi ích bộ phận và lợi ích tổng thể, giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Đó là mối
quan hệ vừa có tính thống nhất vừa có tính mâu thuẫn.
Do vậy, để đảm bảo hài hòa lợi ích (hiệuquả) thì phải có sự liên kết, phối hợp chặt
chẽ, không phải vì lợi ích cục bộ trước mắt mà hại đến lợi ích lâu dài của đất nước, quốc
gia, xã hội. Tuy nhiên, nếu không vì lợi ích kinh tế (lợi nhuận) thì sẽ triệt tiêu động lực phát
triển.
1.3.2. Các nguyên tắc xác định và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xây dựng cơ bản
1.3.2.1. Các nguyên tắc xác định hiệu quả xây dựng cơ bản
* Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả:
Theo nguyên tắc này, tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở mục tiêu. Mục tiêu
khác nhau, thì tiêu chuẩn hiệu quả khác nhau. Nếu xây dựng một nhà máy thì phải tính đến
công suất sử dụng nguyên nhiên liệu, số lao động được việc làm, thu nhập, lợi nhuận là bao
nhiêu? Còn nếu làm một con đường thì ai người được thụ hưởng, nó góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, bình đẳng thế nào? thu phí bao nhiêu và khi nào thì hoàn vốn. Rõ ràng mục
tiêu xây dựng của một nhà máy sẽ khác nhiều so với việc xây dựng một con đường, một
trường học hoặc một công trình thủy lợi..v.v. Nếu thay đổi mục tiêu thì tiêu chuẩn hiệu quả
cũng phải thay đổi. Tiêu chuẩn hiệu quả phải được xem như là thước đo cơ bản để thực hiện
các mục tiêu.
Phân tích hiệu quả của một dự án đầu tư xây dựng cơ bản nào đó luôn luôn dựa trên
phân tích mục tiêu. Phương án có hiệu quả cao nhất khi nó có đóng góp nhiều nhất và việc thực
hiện các mục tiêu đặt ra với chi phí thấp nhất.
* Nguyên tắc về sự thống nhất lợi ích:
Một phương án được xem là có hiệu quả khi nó kết hợp hài hoà các loại lợi ích.
Những lợi ích đó bao gồm lợi ích của chủ doanh nghiệp (đầu tư) và lợi ích của xã hội, lợi ích
trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội,
lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường...
Về lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của xã hội được xem xét trong phân tích hiệu
quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. Theo nguyên tắc "lợi ích", hiệu quả sản
xuất kinh doanh không thể thay thế cho hiệu quả kinh tế - xã hội và ngược lại trong việc
quyết định cho ra đời một phương án kinh doanh của doanh nghiệp hoặc một nhà đầu tư.
Về lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài cũng không thể hy sinh lợi ích lâu dài để lấy
lợi ích trước mắt. Nhưng cũng không thể vì lợi ích trước mắt mà hy sinh lợi ích lâu dài. Do
vậy, phải kết hợp đúng đắn giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Trong quan hệ giữa lợi
ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích lâu dài là cơ bản nhất.
Nên kết hợp lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội, cũng như lợi ích vật chất và lợi ích tinh
thần. Đừng vì lợi ích này mà bỏ lợi ích khác. Việc phân tích hiệu quả kinh tế các phương án
cần đặt trong mối quan hệ với phân tích các lợi ích khác mà phương án mang lại. Bất kỳ
một đầu tư nào mà hy sinh lợi ích đều giảm hiệu quả chung của phương án đó. Trong đại bộ
phận các trường hợp, lợi ích xã hội đóng vai trò quyết định, lợi ích kinh tế là hết sức quan
trọng, cần thiết.
* Đảm bảo tính chính xác, tính khoa học và lượng hoá tối đa các chỉ tiêu:
Để đánh giá hiệu quả các phương án đầu tư xây dựng cơ bản cần phải dựa trên một
hệ thống các chỉ tiêu có thể lượng hoá được và không lượng hoá được, tức là phải kết hợp
phân tích định lượng hiệu quả với phân tích định tính. Không thể thay thế phân tích định
lượng bằng phân tích định tính. Tuy nhiên, định lượng chưa đủ bảo đảm tính chính xác,
chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phí mà chủ thể quan tâm, nhưng
không vì vậy mà bỏ qua, hoặc nhấn mạnh chung chung định tính.
Nhưng nếu phân tích chính xác, có định lượng, thì từ những căn cứ tính toán đó, hiệu
quả phải được xác định chính xác, tránh chủ quan tuỳ tiện, duy ý chí, chung chung.
* Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế:
Theo nguyên tắc này, những phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả kinh tế
phải được dựa trên cơ sở các số liệu thông tin thực tế, đơn giản và dễ hiểu. Tránh tình trạng
sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi chưa có đầy đủ các thông tin cần thiết hoặc
những thông tin không đảm bảo độ chính xác làm giảm tính thuyết phục hoặc không hiệu
quả trong đầu tư xây dựng cơ bản.
* Một số chỉ tiêu đánh giá chủ yếu:
Có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế đầu tư xây dựng cơ bản của một dự
án, tuy nhiên có thể biểu hiện ở một số chỉ tiêu cơ bản sau đây:
- Phản ánh chi phí:
Tổng số vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư (xây lắp, thiết bị, kiến thiết cơ bản khác).
- Phản ánh kết quả:
Kết quả xây dựng đo đếm được: m2
xây dựng, năng lực phục vụ, công suất máy móc
thiết bị.
- Kết quả sử dụng:
Doanh thu năm, lợi nhuận năm, sản phẩm năm...
- Số lao động thu nhận được sau khi công trình hoàn thành.
Có thể tính theo công thức sau:
Tổng số chỗ làm việc mới:
Zc = t
k
g
k
g
L
t
ZZZZ L 
Trong đó:
Zc : Tổng số chỗ làm việc được tạo ra cho lao động lành nghề và không lành nghề.
t
LZ : Chỗ làm việc cho lao động lành nghề được tạo ra cho dự án.
g
LZ : Chỗ làm việc cho lao động lành nghề được tạo ra trong các dự án liên quan.
g
kZ : Chỗ làm việc cho lao động không lành nghề được tạo ra trong các dự án có liên
quan.
- Số chỗ làm việc được tạo ra trên một đơn vị vốn đầu tư (gồm cả lao động lành nghề
và lao động không lành nghề).
I
Z
X CT
C 
Trong đó:
T
CX : Số chỗ làm việc trên một đơn vị vốn đầu tư.
I : Tổng vốn đầu tư.
- Số chỗ làm việc cho lao động không lành nghề (hoặc lành nghề) trên đơn vị vốn
đầu tư.
I
Z
Z
I
KK
E  hoặc
I
X
Z
I
LL
E  [15, tr.30-31].
- Phản ánh hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản:
Hệ số sử dụng vốn đầu tư:
HS
=
Giá trị tài sản cố định mới đưa vào sử dụng
Tổng số vốn đầu tư
Hệ số sử dụng công suất:
H Công suất thực tế
cs = Công suất thiết kế (hoặc công suất xây
dựng)
Lợi nhuận vốn:
L
n =
Lợi nhuận trước thuế
Doanh thu hàng năm
- Chỉ tiêu thời hạn đầu tư - chỉ tiêu thời hạn đầu tư còn được coi là một trong những
chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản. Chỉ tiêu này được biểu hiện bằng công
thức sau:
T
t
E

 x 100
Trong đó:
E: Là hiệu quả đầu tư.
t: Thời hạn đầu tư được rút ngắn so với thời gian dự kiến.
T: Thời hạn thu hồi vốn đầu tư.
Ví dụ: Một dự án đầu tư thực hiện trong 36 tháng, nhưng nhà đầu tư đã áp dụng
nhiều biện pháp và rút ngắn được 06 tháng và nếu dự án có thời hạn thu hồi vốn là 10 năm
(120 tháng) thì hiệu quả đầu tư do rút ngắn thời gian là: E = (6/120) x 100 = 5%). Nghĩa là
thời gian rút ngắn được 5% so với dự kiến [27].
Thường khi tính toán về hiệu quả thời gian, người ta thường hay nói đến khái niệm “
độ trễ đầu tư” tức là công trình không hoàn thành đúng tiến độ, kéo dài, chậm thanh toán
khối lượng hoàn thành. Tình trạng này đang diễn ra phổ biến đối với việc đầu tư bằng nguồn
vốn ngân sách nhà nước ở nước ta hiện nay, việc thực hiện vẫn phân tán, dàn trải, không cân
đối đủ nguồn vốn cho dự án dẫn đến nợ đọng vốn xây dựng cơ bản, công trình chậm đưa
vào sử dụng, giảm hiệu quả sử dụng khai thác. Theo số liệu thống kê năm 2005, hiện có
khoảng 960 dự án nhóm B và C thực hiện quá thời hạn qui định, trong đó 230 dự án đã quá
thời gian thực hiện 4 năm và 730 dự án nhóm C đã quá thời hạn thực hiện 2 năm. Đáng lưu
ý có một số ngành, địa phương bố trí vốn dành cho nhóm C chỉ khoảng 1 tỷ đồng [20].
- Thời gian thu hồi vốn của dự án:
Tt = Tổng vốn đầu tư
Lợi nhuận trước thuế
Điểm hoà vốn: là giá trị chỉ tiêu đặc trưng cho việc khai thác dự án, với giá trị đó thì
chi phí bằng thu nhập. Cần nghiên cứu hai chỉ tiêu sau:
- Chỉ tiêu doanh thu hoà vốn:
Dhv =
Chi phí cố định
1-
Chi phí biến đổi
Tổng doanh thu
[26, tr.19]
Chi phí biến đổi bao gồm tất cả các chi phí có liên quan. Chi phí biến đổi tỷ lệ thuận
với mức sản xuất. Chi phí biến đổi tăng thì tổng sản lượng tăng.
Chi phí cố định: không thay đổi (như lãi ngân hàng, theo lãi suất năm, quý...).
Đây là những chỉ tiêu để tính toán lượng hoá và đánh giá hiệu quả vốn đầu tư xây
dựng cơ bản, tuy vậy cũng phải xem xét đến những tác động không lượng hoá hoặc lượng
hoá khó, ít, khác của dự án như:
- Những ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng:
Sự gia tăng năng lực phục vụ của kết cấu hạ tầng sẵn có, bổ sung năng lực phục vụ
mới của kết cấu hạ tầng mới. Như khi xây dựng xong một cây cầu thì dung lượng xe và
lượng hàng hoá lưu thông sẽ tăng lên.
- Tác động đến môi trường:
Có tác động tích cực, tác động tiêu cực. Nếu có tác động tiêu cực phải có giải pháp
khắc phục. Ví dụ, khi xây dựng một nhà máy thuỷ điện, một bến phà, một nhà máy hoá
chất, một bệnh viện...
Nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất, trình độ nghề nghiệp của người lao động,
trình độ quản lý của các nhà quản lý, nâng cao năng suất lao động và thu nhập của người lao
động. Khi một nhà máy có công nghệ hiện đại được đưa vào sử dụng, lao động có trình độ
tăng cao, lao động giản đơn giảm và những tác động về xã hội, chính trị và kinh tế khác:
Tận dụng khai thác tài nguyên, chuyển giao công nghệ mới, tác động đến các ngành khác và
các vùng kinh tế, mở rộng thị trường mới, kinh tế địa phương yếu kém được phát triển lên,
xây dựng kinh tế vùng sâu, vùng xa...
1.3.2.2. Một số mô hình đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
* Mô hình Harrod - Domar:
Mô hình tăng trưởng kinh tế đơn giản nhất và rất nổi tiếng được sử dụng khá phổ
biến trên thế giới để phân tích sự phát triển kinh tế. Mô hình này được hai nhà kinh tế học:
ông Roy Harrod người Anh và ông Evsey Domar ởngười Mỹ nêu ra từ những năm 1940 của
thế kỷ XX - đã chỉ ra mối quan hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR) và tỷ lệ đầu tư như
sau:
k
s
g 
Trong đó:
g: Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (GDP)
s: Tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế (GDP, GNI) (Hai ông này ngầm đã giả định toàn bộ
số tiền tiết kiệm chỉ dành cho đầu tư).
k: Hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR) (Icremetal Capital Output Ratio).
Hệ số ICOR chỉ ra rằng: Để làm ra 1 đồng sản lượng đầu ra thì cần bao nhiêu đồng
đầu vào.
Như vậy, theo quan niệm của mô hình Harrod - Domar ở phương trình trên thi: tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế và tỷ lệ nghịch
với hệ số ICOR. Điều đó có nghĩa là để duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và lâu dài của
nền kinh tế cần phải giữ vững và gia tăng tỷ lệ đầu tư và khống chế ở mức chấp nhận được
đối với hệ số gia tăng vốn. Ví dụ, đối với nước ta, để giữ được tốc độ tăng trưởng trong năm
năm tới (2006 - 2010) của nền kinh tế là 8% với hệ số ICOR là 4 thì tỷ lệ đầu tư phải đạt ở
mức 32% trong GDP (hoặc GNI). Hệ số ICOR thường gắn chặt với hiệu quả đầu tư, nếu
hiệu quả đầu tư thấp, hay nói cách khác là sử dụng các nguồn vốn đã được huy động không
có hiệu quả, sẽ làm cho ICOR tăng theo chiều hướng tiêu cực và làm cho tốc độ tăng trưởng
kinh tế không cao, không bền vững dẫn đến gánh nặng nợ nần không những cho ngày hôm
nay mà cho cả thế hệ tương lai. Tuy nhiên, như trên đã nói trong công thức này, Hai ông đã
giả định rằng nền kinh tế chỉ phụ thuộc vào một yếu tố cố định là đầu tư, trên thực tế tốc độ
tăng trưởng nền kinh tế, đặc biệt là chất lượng tăng trưởng còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố. Tuy vậy, công thức này cũng phần nào phản ánh được hiệu quả của vốn đầu tư bằng định
lượng.
Mô hình Harrod - Domar được ứng dụng trong việc lập kế hoạch phát triển không
chỉ cho nền kinh tế mà có thể cho tất cả các ngành, các lĩnh vực (tính theo hệ số ICOR).
Với hệ số ICOR ước lượng được và với mục tiêu tăng trưởng cho trước thì từ mô hình sẽ
tính được tỷ lệ tiết kiệm cần thiết cho tăng trưởng. Tuy nhiên mô hình đơn giản này bỏ
qua yếu tố lao động và tiến bộ công nghệ nên không phản ánh đầy đủ và chính xác của
sự phát triển. Đòi hỏi phải xét đến các mô hình tăng trưởng kinh tế với hàm sản xuất
nhiều biến hơn.
* Hàm sản xuất Cobb - Douglas:
Hàm sản xuất Cobb - Douglas được dùng khá phổ biến để đo lường nguồn gốc sự
đóng góp (hiệu quả) của vốn, lao động và tiến bộ công nghệ vào tăng trưởng. Vào cuối
những năm 1920, nhà toán học Charlé Cobb và nhà kinh tế học Paul Douglas đã biểu diễn
hàm này dưới dạng:

 LAKY
Với: Y là kết quả sản xuất, K và L là vốn và lao động; A là tham số về hiệu quả sản
xuất (còn gọi là năng suất nhân tố tổng hợp TFP - Total Factor productivity); các tham số 
và  đo lường tỷ lệ đóng góp của vốn K và lao động L vào kết quả sản xuất Y và thoả mãn
điều kiện 0<<1, 0<<1
Thông thường người ta biến đổi hàm Cobb - Douglas [theo thời gian (t)] về dạng đơn
giản hơn để dễ tính toán. Do vậy phương trình trên sẽ có dạng:
g = a + k + l
Với: g: tốc độ tăng GDP (GNI); a: nhịp tăng năng suất nhân tố tổng hợp (còn gọi là
TFP/TFP); k: tốc độ tăng của vốn K; l: tốc độ tăng của lao động L.
Với phương trình trên thì: Tham số  là độ co giãn của sản lượng theo vốn (tỷ lệ đóng
góp của vốn vào kết quả sản xuất). Tham số  là độ co giãn của sản lượng theo lao động (tỷ lệ
đóng góp của lao động vào kết quả sản xuất Y).
Phương trình trên phản ánh đầy đủ sự đóng góp của ba nhân tố vốn, lao động và tiến
bộ công nghệ và tăng trưởng kinh tế.
Sự đóng góp của vốn K và lao động L xảy ra theo 3 trường hợp sau:
- Nếu  +  = l là trường hợp sản xuất có lợi suất không đổi khi mở rộng quy mô;
tức khi gia tăng đầu vào một tỷ lệ thì sản lượng sẽ tăng lên theo tỷ lệ đó.
- Nếu  +  > 1 là trường hợp lợi suất tăng khi mở rộng quy mô sản xuất; khi gia
tăng một tỷ lệ đầu vào thì sản lượng tăng lên theo tỷ lệ cao hơn, nghĩa là nền kinh tế có hiệu
quả hơn.
- Nếu  +  < l là trường hợp lợi suất giảm khi mở rộng quy mô sản xuất; khi gia
tăng một tỷ lệ đầu vào thì sản lượng cũng có thể tăng lên nhưng với tỷ lệ nhỏ hơn, tức là nền
kinh tế kém hiệu quả hơn.
Sự đóng góp của tiến bộ công nghệ A (năng suất các nhân tố tổng hợp TFP): theo
hướng gia tăng năng suất của TFP (TFP/ TFP) chính là làm cho nền kinh tế hoạt động có
hiệu quả hơn và dẫn đến sự gia tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Sự gia tăng năng suất của tổng nhân tố TFP/TFP có thể giải thích bằng nhiều
nguyên nhân. Trước tiên, do đổi mới công nghệ, do các kiến thức mới giúp thay đổi phương
pháp sản xuất. Ngoài ra, các nguyên nhân khác như giáo dục, đào tạo, quản lý nhà nước,...
cũng ảnh hưởng lên TFP/TFP. Kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố dẫn đến thay đổi chất
lượng công nhân, chất lượng vốn và khả năng quản lý các hoạt động sản xuất và dẫn đến gia
tăng TFP (TFP/TFP).
Tương tự như hệ số ICOR, người ta cũng sử dụng hàm sản xuất Cobb - Douglas để
tính TFP/TFP cho từng ngành nhằm đánh giá sự tiến bộ và mức đóng góp của ngành đó
vào sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.
Qua phương trình trên cho thấy với tỷ lệ tăng trưởng xác định thì sự gia tăng năng
suất nhân tố tổng hợp càng lớn dẫn đến sự gia tăng của vốn (hoặc lao động) nhỏ hơn. Điều
đó cũng nghĩa là hệ số ICOR càng nhỏ.
Đây chính là sự phản ảnh hiệu quả của đầu tư qua hai hệ số ICOR và TFP/TFP.
Tức là khi TFP/TFP càng cao thì ICOR càng nhỏ và như vậy sẽ cần một lượng vốn đầu tư
nhỏ hơn mà vẫn đảm bảo hiệu quả hoạt động và phát triển của nền kinh tế [35, tr.27-28].
* Mô hình tăng trưởng kinh tế của R.Solow:
RobertSolowlàGiáosưcủaKhoakinhtế,HọcviệncôngnghệMassachusetts, từng được giải
thưởng Noben kinh tế năm 1987 cho những đóng góp xuất sắc trong lý thuyết tăng trưởng
và những nghiên cứu thực nghiệm về quá trình tăng trưởng. Như đã phân tích ở trên, mô
hình tăng trưởng kinh tế Harrod - Domar đã đưa ra điều kiện để một nền kinh tế tăng trưởng
liên tục với tốc độ không đổi, với tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ phụ thuộc vào một nhân tố
duy nhất đó là vốn. Do vậy, ông đã đưa ra một mô hình khác là:
Q = F (K, L, t)
Trong đó: Q là sản lượng đầu ra; L là lượng đầu vào (số lượng lao động cùng trên
một đơn vị thời gian); K là lượng với vật chất đầu vào (số giờ máy trên một đơn vị thời
gian); t là biểu thời gian [16].
Sự xuất hiện của biểu số t trong hàng sản xuất cho phép đánh giá sự thay đổi kỹ
thuật. ở đây vì những điều kiện và lý do khác nhau chúng tôi không có đủ khả năng để phân
tích và đánh giá mô hình tăng trưởng R.Solow, nhưng mô hình này đã có những kết luận
sau: tăng trưởng nền kinh tế không chỉ phụ thuộc vào vốn, công nhân mà còn phụ thuộc vào
nhiều nhân tố khác nữa, đặc biệt là các nhân tố tổng hợp (TFP), đó là sự gia tăng của vốn,
lực lượng lao động và tiến bộ công nghệ tác động qua lại với nhau như thế nào và có ảnh
hưởng tới sản lượng đầu ra (tốc độ và quy mô của GDP). Đây là điểm mấu chốt hay có thể
nhận định rằng, các yếu tố đầu vào là quan trọng, nhưng quan trọng hơn cả là sử dụng
chúng thế nào cho hiệu quả. Mô hình R.Solow đã được áp dụng và đánh giá tăng trưởng
kinh tế ở Hoa Kỳ vào những năm 40 của thế kỷ XX. Hiện nay mô hình này đã được đánh
giá và lượng hóa để xem xét các nhân tố đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế như thế
nào?
Kết luận chương 1
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, không chỉ là vấn đề quan tâm của
từng doanh nghiệp, ngành, địa phương mà cả của các nhà nghiên cứu và của Đảng, Nhà
nước Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trước khi nghiên cứu về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Phú
Thọ, phải xem xét các khái niệm, đặc điểm, vai trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản và
những nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Sau khi trình bày một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ
bản, nội dung của chương 1 cũng đưa ra các nguyên tắc chủ yếu xác định và các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả. Cũng trong chương này, tác giả đã trình bày 3 mô hình đánh giá tác động
củavốn đầu tư tới tăng trưởng kinh tế. Đó là mô hình Harrod - Domar, hàm sản xuất Cobb -
Douglas và mô hình tăng trưởng kinh tế R.Solow. Nhiều quốc gia đã áp dụng những mô
hình trên để thấy rõ mối quan hệ hữu cơ giữa tăng trưởng kinh tế và tổng mức đầu tư. Đây
là những mô hình được sử dụng trong việc tính toán định lượng hiệu quả của đầu tư, trong
đó có đầu tư xây dựng cơ bản.
Chương 2
thực trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
xây dựng cơ bản ở tỉnh phú thọ
từ năm 1997 đến nay
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ có ảnh hưởng đến thu hút
và sử dụng vốn xây dựng cơ bản
2.1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
2.1.1.1. Điều kiện địa lý
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng trung du phía Bắc nước ta, tiếp giáp giữa vùng
Đông Bắc, Tây Bắc và đồng bằng sông Hồng. Phú Thọ là tỉnh cầu nối giữa các tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền núi phía Tây Đông Bắc. Phía Bắc, Phú Thọ giáp
tỉnh Yên Bái và Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Hoà Bình, phía Đông giáp tỉnh Vĩnh
Phúc và Hà Tây, phía Tây giáp tỉnh Sơn La.
Tỉnh Phú Thọ có diện tích tự nhiên là 3540km2
, trong đó diện tích đất nông nghiệp
chiếm 27,6%, đất lâm nghiệp chiếm 41%. Tỉnh có 12 đơn vị hành chính, gồm: 01 thành phố
Việt Trì, 01 thị xã Phú Thọ và 10 huyện; 274 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 13 phường, 11
thị trấn và 250 xã. Phú Thọ có 9 huyện miền núi, 214 xã miền núi, trong đó (có 50 xã đặc
biệt khó khăn được thụ hưởng chương trình 135 của Chính phủ). Năm 2005 dân số của tỉnh
có 1.307.400 người, bằng 1,71% dân số cả nước; mật độ dân số trung bình 373người/km2
.
Phú Thọ có trên 20 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 85,7%, dân tộc Mường chiếm
12,9%, các dân tộc khác (Dao, Sán chay, Tày, H'mông, Thổ, Nùng, Thái,...) chiếm 1,4%
[24, tr.29, 38].
Biểu 2.1: Một số chỉ tiêu kinh tế và xã hội chủ yếu của tỉnh Phú Thọ
(năm 1997-2005) [14, tr.39]
T
T
Chỉ tiêu ĐVT 1997 2000 2003 2004 2005
1
Dân số trung bình 1000
người
1237,
5
1275,
0
1302,
7
1314,
5
1325
2 Tốc độ tăng DS tự nhiên % 1,69 1,2 1,007 1,002 0,98
3
Tổng sản phẩm trong tỉnh
(Giá 1994) GDP
Tỷ
đồng
2237 2794 3680 4037 4405
4 Tốc độ tăng GDP % 9,6 9,73 9,73
5
Tổng sản phẩm trong tỉnh
(Giá hiện hành)
Tỷ
đồng
2837 3823 5812 5837 6565
6
GDP bình quân đầu người
(giá hiện hành)
1000
đồng
2293 2998 3978 4400 4955
7
Cơ cấu GDP (giá hiện
hành)
- NLNN % 33,1 29,8 29,8 28,2 26
- CN - XD % 33,2 36,5 36,9 38,1 40,0
- TM - DV % 33,7 33,78 33,33 33,7 34,0
8
GTSX theo giá 1994 Tỷ
đồng
ước
đạt
- GTSX công nghiệp - thủ
công nghiệp
Tỷ
đồng
2195,
9
3232 4569 5152 6435
- GTSX NLNN Tỷ
đồng
1218 1506 2027 2124 2201
- Giá trị SX TM - DV Tỷ
đồng
1081 1334 1807 2020 2363
9 Thu ngân sách trên địa bàn Tỷ 268,1 361,1 410 644 737
đồng
1
0
Chi ngân sách địa phương Tỷ
đồng
341,7 623 1234 1201 1450
1
1
Xuất khẩu trên địa bàn Triệu
USD
37,4 78,5 80,2 96,5 125
1
2
Tổng vốn đầu tư phát triển Tỷ
đồng
688 1124 3586 3679 4500
Phú Thọ là tỉnh có vị trí địa lý mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây Đông Bắc.
Đây là một lợi thế cần được phát huy một cách triệt để để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.
Với vị trí cửa ngõ phía Tây nối với thủ đô Hà Nội, Phú Thọ là cầu nối giao lưu kinh
tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền núi như
Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, cả về đường bộ, đường sắt và đường sông. Đặc
biệt, sau khi các tuyến đường Quốc lộ 2, quốc lộ 32A, 32B, 32C, đường sắt Hà Nội - Lào
Cai - Côn Minh và đường sắt Xuyên á được đầu tư, nâng cấp đưa vào sử dụng thì đây là một
điều kiện thuận lợi không chỉ cho riêng tỉnh Phú Thọ mà cả tỉnh miền núi khác nữa. Chính
nhờ vị trí địa lý này, mà tỉnh Phú Thọ có thể thu hút các nguồn vốn, khoa học, kỹ thuật
nguyên vật liệu, nông, lâm, khoáng sản từ các tỉnh lân cận trên để mở rộng sản xuất và xuất
khẩu. Tất cả các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông từ các tỉnh phía Tây
Đông Bắc đều quy tụ về Phú Thọ rồi mới đi Hà Nội, Hải Phòng và các nơi khác.
Thủ đô Hà Nội và một số địa phương khác đã, đang và sẽ là thị trường lớn về tiêu
thụ nông - lâm sản, giấy, một số sản phẩm hoá chất do các cơ sở công nghiệp và nông
nghiệp trên địa bàn Phú Thọ sản xuất ra. Trong tương lai các thành phố và nhiều tỉnh của
nước ta sẽ phát triển với tốc độ nhanh. Nhiều các khu công nghiệp, khu chế xuất có kỹ thuật
cao, các khu du lịch, các trung tâm thương mại sẽ phát triển ở Hà Nội và các vùng phụ cận.
Từ Sơn Tây qua Hoà Lạc về tới Miếu Môn và Phủ Lý sẽ trở thành hành lang kinh tế - đô thị
công nghiệp. Đây là những lợi thế tiềm năng mà tỉnh Phú Thọ có thể khai thác tốt để mở
rộng thị trường. Dự báo Hà Nội và các vùng phụ cận sẽ có số dân khoảng 6 triệu người vào
năm 2010 và từ 8-9 triệu người vào năm 2020 và sẽ hình thành nhiều khu chế xuất, khu
công nghiệp tập trung có công nghệ cao, các khu du lịch, các trung tâm thương mại lớn, trở
thành một hành lang kinh tế lớn và sẽ có tác động đến sự phát triển của tỉnh Phú Thọ [37,
tr.32].
Tại tỉnh Phú Thọ, các khu công nghiệp như Việt Trì, cụm công nghiệp Lâm Thao -
Bãi Bằng, và các cơ sở sản xuất công nghiệp được hình thành và phát triển từ nhiều năm
nay đã thành truyền thống của ngành công nghiệp cả nước và của tỉnh từ cộng thêm các khu
công nghiệp mới như Thuỵ Vân, cụm công nghiệp Bạch Hạc cùng với nguồn nguyên liệu,
lực lượng lao động tại chỗ là những thuận lợi để Phú Thọ phát triển nhanh và mạnh các
ngành công nghiệp. Quỹ đất, nguồn nước dồi dào, có nhiều tiềm năng phát triển nông, lâm
nghiệp, nhất là trồng cây nguyên liệu giấy, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả và nuôi
trồng thuỷ sản cũng là những lợi thế hiện thực của tỉnh.
Bên cạnh những lợi thế với phát triển kinh tế, Phú Thọ là một địa phương có nhiều di
tích gắn liền với lịch sử dựng nước của dân tộc Việt Nam như: khu di tích lịch sử Đền
Hùng, Đền Mẫu Âu Cơ, và tỉnh cũng có nhiều danh lam thắng cảnh có tiềm năng phát triển
du lịch như Đầm Ao Châu ở huyện Hạ Hoà, vườn Quốc gia Xuân Sơn ở huyện Thanh Sơn,
nước khoáng nóng Thanh Thuỷ, công viên Văn Lang, khu du lịch Núi Trang... Điều đó
khẳng định Phú Thọ có cả bề dày lịch sử và nhiều khả năng cho phát triển.
Tuy vậy, Phú Thọ là tỉnh miền núi có địa hình bị chia cắt, gây cản trở phần nào cho
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và đời sống của nhân dân, nhất là đồng bào vùng dân tộc
ít người.
Về địa hình có thể chia làm hai tiểu vùng chủ yếu:
- Tiểu vùng núi cao phía Tây, phía Nam tỉnh: chủ yếu thuộc các huyện Thanh Sơn,
Yên Lập, phía Tây huyện Cẩm Khê (huyện Sông Thao cũ). Đây là vùng khó khăn trong việc
đi lại, giao lưu với các nơi khác. Tuy nhiên ở đây còn nhiều tiềm năng phát triển, nhất là về
lâm nghiệp, khai thác khoáng sản.
- Tiểu vùng đối gò bát úp chia cắt nhiều xen kẽ đồng ruộng, và dải đồng bằng ven
các triền sông Hồng, sông Lô, sông Đà và hình thành đồng bằng tương đối tập trung ở
các huyện Phù Ninh và Lâm Thao. Vùng này thuận lợi cho việc trồng các loại cây
nguyên liệu giấy, cây công nghiệp dài ngày như chè, cây ăn quả, phát triển các loại cây
lương thực, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản.
Về khí hậu, thời tiết:
Phú Thọ là tỉnh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình năm
khoảng 230
C; lượng mưa trung bình năm khoảng 1600-1800mm. Độ ẩm trung bình năm
khoảng 85-87%. Khí hậu và thời tiết của Phú Thọ phù hợp cho các loại cây trồng và vật
nuôi tương đối phong phú.
Về sông ngòi:
Phú Thọ có ba con sông lớn chảy qua, đó là sông Hồng, sông Đà và sông Lô, bên
cạnh đó, còn có những sông, suối nhỏ. Đây là nguồn cung cấp nước rất quan trọng cho sinh
hoạt và cho sản xuất, nhưng đồng thời cũng gây không ít khó khăn, đặc biệt là vào mùa lũ
lụt làm ảnh hưởng tới phát triển kinh tế - xã hội và sinh hoạt của nhân dân.
2.1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
* Tài nguyên đất:
Phú Thọ có tổng diện tích đất tự nhiên 354.000 ha, trong đó đất nông nghiệp là
97.704 ha, chiếm 27,6%; đất lâm nghiệp là 145,14 ha, chiếm 41%; đất chuyên dùng là
21.594 ha, chiếm 6,1%; đất ở là 8.142 ha, chiếm 2,3%; đất chưa sử dụng là 81.420 ha,
chiếm 23%; trong đó đất đồi núi chưa sử dụng là 51.764 ha, chiếm 14,6% tổng diện tích đất.
Kết quả điều tra thổ nhưỡng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cho thấy: đất perality đỏ vàng
phát triển trên phiến thạch sét, diện tích lên tới 116.266 ha, phân bố chủ yếu ở các huyện
Thanh Sơn, Yên Lập, Cẩm Khê, Đoan Hùng. Đây loại đất đồi núi, thường có độ cao trên
100m, độ dốc lớn, tầng dày đất khá, thành phần cơ giới nặng, mùn khá; loại đất này thường
sử dụng trồng rừng, một số nơi có độ dốc dưới 250
sử dụng trồng cây công nghiệp.
* Tài nguyên rừng và tiềm năng du lịch:
Diện tích rừng của tỉnh Phú Thọ có 145.140 ha. Rừng tự nhiên có 69.546,9 ha, chủ
yếu là rừng nghèo và rừng trung bình, rừng giầu chỉ có ở vườn Quốc gia Xuân Sơn. Rừng
trồng có diện tích là 74.704,63 ha, chủ yếu là trồng bạch đàn, mỡ, keo và bồ đề; Năm 2005
độ che phủ của rừng là 45%. Với diện tích rừng trồng và cây nguyên liệu giấy có hầu hết ở
các huyện, thị sẽ là nguồn nguyên liệu quan trọng cho phát triển ngành công nghiệp giấy.
Với khu di tích lịch sử Đền Hùng - Trung tâm văn hoá tâm linh, cội nguồn của cả
nước; cùng với Di tích Đền Mẫu Âu Cơ tại huyện Hạ Hoà, là những di tích gắn liền với lịch
sử và truyền thống về cội nguồn của đất nước. Bên cạnh đó vườn quốc gia Xuân Sơn ở
huyện Thanh Sơn, Đầm Ao Châu ở huyện Hạ Hoà, nước khoáng nóng ở huyện Thanh Thuỷ,
công viên Văn Lang ở thành phố Việt Trì, khu du lịch Núi Trang... sẽ là tiềm năng rất lớn đề
Phú Thọ có điều kiện và lợi thế để kết hợp với các tỉnh lân cận mở các tuyến du lịch hấp dẫn
khách trong nước và nước ngoài.
* Tài nguyên khoáng sản:
Tuy không thuộc loại là tỉnh giầu tài nguyên khoáng sản, nhưng Phú Thọ có một số
loại tài nguyên khoáng sản rất có ý nghĩa, có trữ lượng khá lớn. Như Cao Lanh có tổng trữ
lượng 30 triệu tấn đá vôi, 1.000 triệu tấn, Penspát 5 triệu tấn như đá vôi, cao lanh, penspát,
pyrít, nước khoáng để sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng.
Nguyên liệu dùng cho sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng: Trữ lượng đá vôi ở
Phú Thọ là 1 tỷ m3
- là mức trữ lượng khá lớn, đây là nguồn nguyên liệu chính dùng cho sản
xuất xi măng và vật liệu xây dựng. Trong tương lai, khi các cụm đô thị được xây dựng thì
nhu cầu về xi măng, đá xây dựng và các loại vật liệu xây dựng là rất lớn;
Cao lanh ở Phú Thọ với trữ lượng là 30 triệu tấn có thể khai thác công nghiệp hàng
năm khoảng 30 - 40 nghìn tấn, chất lượng tốt có thể dùng làm nguyên liệu cho sản xuất các
sản phẩm sứ, đồ gốm là những mặt hàng đang và sẽ có thị trường tiêu thụ cả ở trong và
ngoài nước.
Với trữ lượng 48 triệu lít và theo đánh giá của Bộ Công nghiệp thì Phú Thọ (vùng nước
khoáng nóng ở huyện Thanh Thuỷ) là một trong 4 nơi của cả nước có nguồn nước khoáng có
chất lượng tốt nhất. Đây chính là một lợi thế quan trọng cần được phát huy để phát triển ngành
công nghiệp và dịch vụ du lịch.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Cơ sở hạ tầng
* Giao thông:
Phú Thọ là một trong ít tỉnh ở khu vực Trung du miền núi Bắc Bộ có hệ thống giao
thông tương đối hợp lý và đồng bộ giữa 3 phương thức vận tải quan trọng là: đường bộ -
đường sắt - đường thuỷ với 2 đầu mới giao thông là thành phố Việt Trì và thị xã Phú Thọ.
So với các tỉnh tương đồng trong vùng thì mạng lưới giao thông tại Phú Thọ trội hơn về số
lượng nhưng chất lượng nói chung còn yếu kém.
- Giao thông đường bộ:
Tổng chiều dài đường bộ hiện có 9.481km (nếu chỉ tính đường ô tô đi được thì tổng
chiều dài là 2.768km), mật độ đạt 0,80km/km2
và 2,14km/1.000 dân; trong khi bình quân
của cả nước 0,47km/km2
và 1,96km/1.000 dân và còn cao hơn khu vực phía Bắc.
Tuy vậy, tuyến đường quốc lộ tốt, khá trung bình chỉ có 60%, xấu và rất xấu là 40%.
Đường tỉnh lộ thì chất lượng xấu chiếm từ 70 - 80%, còn lại tốt, khá, trung bình chỉ từ 20 -
30%.
Hệ thống đường bộ của tỉnh, nhìn chung còn rất xấu (khoảng 80%), trừ một số
đường quốc lộ đạt cấp độ kỹ thuật, còn lại các công trình trên tuyến đều ở mức tiêu chuẩn
kỹ thuật thấp, nhiều cầu cống chưa được xây dựng, hoặc xuống cấp qua nhiều năm sử dụng
nhất là một số tuyến ở phía Tây của tỉnh. Giao thông như thế này đã ảnh hưởng nhiều đến
tình hình an ninh chính trị và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Đường giao thông nông thôn của tỉnh còn rất xấu. Hệ thống cầu cống đều ở tình
trạng tạm bợ, đi lại khó khăn, nhiều nơi còn chưa đi lại được trong mùa mưa, đặc biệt là ở
hai huyện Thanh Sơn và Yên Lập.
Những năm vừa qua tuy đã được đầu tư nâng cấp nhưng do kinh phí còn hạn chế nên
chất lượng vẫn còn ở mức thấp.
- Giao thông đường sắt:
Đường sắt quốc gia Hà Nội - Lào Cai đi qua Phú Thọ với chiều dài 74,95km, khổ
đường ray 1m, có 8 ga đặt ở 5 huyện và thành phố. Ngoài ra còn có 3 tuyến chuyên dùng vào
các cơ sở: Công ty giấy Bãi Bằng, Công ty Supe phốt phát và hoá chất Lâm Thao và cảng Việt
Trì với tổng chiều dài 14,6km.
Đường sắt qua tỉnh là đoạn quan trọng trong trục đường sắt Đông Tây nối cảng Hải
Phòng với tuyến liên vận Hà Nội - Côn Minh (Trung Quốc). Tuy nhiên do đường sắt hình
thành đã gần 100 năm, cộng thêm trải qua nhiều giai đoạn chiến tranh và thiên nhiên huỷ
hoại nên chất lượng đã xuống cấp nghiêm trọng. Nhiều đoạn bán kính tối thiểu chỉ có 120m,
dốc hạn chế còn 8 - 12% nên tốc độ chạy tàu cũng chỉ ở mức trung bình 30 - 40 km/h. Các
ga trên tuyến không đồng đều, còn ở tình trạng bán vĩnh cửu. Trừ một số cầu, cống mới đầu
tư, còn phần lớn là cầu thép bị xuống cấp làm hạn chế tốc độ chạy tàu và an toàn thấp.
- Giao thông đường thuỷ:
Phú Thọ có hệ thống sông ngòi tương đối dày đặc, đặc biệt thành phố Việt Trì được
gọi là "Thành phố ngã ba sông", nơi hội tụ của 3 dòng sông lớn là sông Hồng, sông Lô và
sông Đà. Tổng chiều dài đường sông trên địa bàn Phú Thọ là 302km. Ngoài ra, Phú Thọ còn
có hai cảng sông là cảng Việt Trì và cảng Bãi Bằng và các bến sông: Thọ Sơn (sông Chảy);
ấm Thượng, Vĩnh Chân, Cổ Tiết, thị xã Phú Thọ (sông Thao); Yến Mao (sông Đà) và Thanh
Sơn (sông Bứa).
* Hệ thống cung cấp điện:
Trong thời gian vừa qua do được đầu tư nên hệ thống cung cấp điện trên địa bàn tỉnh
đã tương đối tốt. Cụ thể, đã hoàn thành việc xây dựng mới trạm 220/110kV với dung lượng
2 X 125MVA tại phía Bắc thành phố Việt Trì và ba trạm 110/35kV tại Đồng Xuân (huyện
Thanh Ba), phố Vàng (huyện Thanh Sơn) và Yến Mạo (huyện Thanh Thuỷ). Mở rộng nâng
cao công suất trạm 110kV Việt Trì (2 X 40 MVA) xây dựng mới 560km đường dây 3kV,
trong đó có 200km lưới 6kV, 10kV lên 22kV hoặc 35kV. Đã xây dựng 76 trạm hạ thế ở
những xã chưa có điện và đã đảm bảo 100% số xã có điện, cải tạo và nâng cao 160 trạm hạ
thế hiện có và 325km đường dây hạ thế để đảm bảo vận hành an ninh toàn lưới điện trên
phạm vi toàn tỉnh.
* Hệ thống bưu chính, viễn thông:
Năm 2005, đã đạt được tỷ lệ 7,5 máy điện thoại/100 dân. Hiện nay, tỉnh đã vượt mục
tiêu mà đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra là 3 - 4 máy và đang tiếp tục thực hiện
chương trình số hoà mạng bưu chính viễn thông. Phát triển mạng cáp nội địa, các trung tâm
huyện, các bưu cục để đáp ứng nhu cầu thuê bao của khách hàng. Đã và đang phát triển
mạnh các loại hình: nhắn tin, fax, chuyển phát nhanh EMS - DHL, phấn đấu đến năm 2010
đạt trên 15 máy điện thoại/100 dân. Đây là điều kiện thuận lợi không chỉ là phát triển xã hội
mà phát triển thông tin kinh tế nhanh chóng, thuận tiện.
* Hệ thống cấp, thoát nước:
Hiện nay, tỉnh Phú Thọ đã đảm bảo việc cung cấp nước cho các đô thị thành phố
Việt Trì, thị xã Phú Thọ, các thị trấn Đoan Hùng, Hạ Hoà, Thanh Sơn, Tam Nông; các KCN
Bãi Bằng, Lâm Thao, Thuỵ Vân. Cùng với việc phát triển hệ thống cấp nước, tỉnh cũng đã
đang hoàn thiện hệ thống, quản lý tốt nguồn nước, chống ô nhiễm trong quá trình thực hiện
công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh.
* Hệ thống thuỷ lợi:
Với điều kiện là tỉnh sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, do vậy tỉnh đã chú trọng việc
khôi phục, sửa chữa, nâng cấp hệ thống thuỷ lợi hiện có. Tập trung đầu tư chiều sâu, cải tạo
đầu mối đồng bộ với kiên cố hoá kênh mương như các hệ thống thuỷ lợi như: Diên Hồng,
Sơn Cương,... Xúc tiến xây dựng hệ thống thuỷ lợi 12 xã Bắc Hạ Hoà, 5 xã Thanh Ba. Dự
kiến đến năm 2010 xây dựng mới 70 trạm bơm tưới tiêu, tăng thêm diện tích tưới 3.600 ha
và diện tích tiêu 6.900 ha
2.1.2.2. Giáo dục, xã hội và nguồn nhân lực
Phú Thọ là một tỉnh được xếp vào loại có truyền thống hiếu học, có khả năng tiếp
thu nhanh khoa học - kỹ thuật và là một trong hai tỉnh của vùng trung du miền núi phía bắc
có trường đại học (Đại học Hùng Vương của tỉnh Phú Thọ và Đại học Thái Nguyên của tỉnh
Thái Nguyên). Trường Đại học Hùng Vương với quy mô đào tạo 6.130 sinh viên, trong đó
bậc đại học là 3,690 sinh viên, bậc cao đẳng là 2.440 sinh viên. Năm 2006 sẽ tuyển mới
1.186 sinh viên và 400 sinh viên sẽ tốt nghiệp hệ đại học.
Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không thể không nói đến công tác đào
tạo tỉnh rất quan tâm đến công tác dạy nghề. Hiện nay tỉnh đã đang đầu tư nâng cấp mở rộng
quy mô của trường dạy nghề của tỉnh với quy mô đào tạo 3.500 học sinh/năm. Đây sẽ là một
nguồn cung cấp lực lượng lao động được đào tạo, có tay nghề đảm bảo cho phát triển các
ngành kinh tế của địa phương. Trong năm đã tổ chức đào tạo, dạy nghề cho 88,1 nghìn công
nhân kỹ thuật. Riêng năm 2005, lao động được đào tạo là 28 ngàn người, trong đó công
nhân kỹ thuật là 21 ngàn người, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo là 29,0% tăng hơn 1,5 lần so
với năm 2001 (năm 2001, tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ có 17,40%).
- Nguồn nhân lực: Lao động trong độ tuổi có khả năng lao động năm 2005 là
748.600 người (chiếm 55% dân số - đây là một tỷ lệ khá cao), nhưng phổ biến là lao động
phổ thông. Năm 2004 vẫn còn 23,2 ngàn người lao động chưa có việc làm ổn định.
Tính đến cuối năm 2005 trên địa bàn có 527 giáo viên đại học, cao đẳng; 21.120 sinh
viên các hệ đào tạo [38, tr.180].
- Văn hoá: Phú Thọ có Khu di tích lịch sử Đền Hùng và đền Mẫu Âu Cơ (tại xã Hiền
Lương, huyện Hạ Hoà) - đây là trung tâm văn hoá, tâm linh và là nơi các Vua Hùng đã khai
sinh ra đất nước Văn Lang, khai sinh ra dân tộc Việt Nam. Chính vì thế mà người dân Phú
Thọ là những người có phẩm chất yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất trong chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc và tinh thần cần cù, sáng tạo trong công cuộc xây dựng, đổi mới quê hương
trong thời kỳ đổi mới.
Phú Thọ là tỉnh có khá nhiều di tích lịch sử, văn hoá đã được xếp hạng, trong đó đặc
biệt có Khu di tích lịch sử Đền Hùng và đền Mẫu Âu Cơ mang ý nghĩa tầm quốc gia vì đây
chính là cội nguồn của dân tộc Việt Nam; nhiều nét văn hoá như hát xoan, cồng chiêng dân
tộc Mường...
- Còn có nhiều tiềm năng về đất đai cho phát triển nông, lâm nghiệp, thuận lợi cho
trồng cây nguyên liệu giấy, cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả và phát triển công
nghiệp chế biến.
- Tuy không phải là tỉnh giầu về tài nguyên khoáng sản nhưng địa phương cũng có
một vài loại khoáng sản rất có ý nghĩa cho nền kinh tế.
- Khu Di tích lịch sử Đền Hùng - là trung tâm văn hoá tâm linh, cội nguồn của cả
nước.
Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, nhất là trong 10
năm gần đây, với sự quan tâm đầu tư lớn của Nhà nước, kinh tế xã hội vùng trung du miền
núi (trong đó có tỉnh Phú Thọ) đã có nhiều thay đổi, đạt được nhiều thành tựu quan trọng về
phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và xoá đói giảm nghèo và phát triển văn hoá, giáo
dục đào tạo. Tuy nhiên, do điểm xuất phát thấp nên đến nay vùng này vẫn thuộc trong
những vùng khó khăn và nghèo rất của cả nước (thể hiện qua các số liệu sau: Dân số chiếm
trên 13% dân số của cả nước nhưng mới chỉ tạo ra khoảng 6% GDP của cả nước, thu nhập
bình quân đầu người bằng 40% chung của cả nước, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới cao nhất,
có tỉnh có 50-60%). Tăng trưởng của các ngành và toàn bộ nền kinh tế của tỉnh chưa vững
chắc, chất lượng, hiệu quả chưa cao, sức cạnh tranh thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm,
chưa khai thác được triệt để các tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội
Tăng trưởng của ngành và toàn nền kinh tế của tỉnh chưa vững chắc, chất lượng,
hiệu quả chưa cao, sức cạnh tranh thấp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, chưa khai thác
được triệt để tiềm năng, thế mạnh vào phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm năng nông, lâm,
thủy sản chưa được khia thác triệt để, chăn nuôi chưa cân đối với trồng trọt. Huy động
các nguồn nội lực chưa cao, thể hiện trong việc huy động các nguồn đất đai, khoáng sản,
mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản, tài nguyên rừng chưa biến thành nguồn vốn
đầu tư [37, tr.25].
Tóm lại, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng tỉnh Phú Thọ vẫn có những lợi thế phát triển về
điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và những đặc điểm riêng về kinh tế - xã hội, tỉnh có thể
khai thác để mở rộng thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển. Đây có thể coi là những lợi thế hết
sức cơ bản của địa phương.
2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Phú Thọ
từ năm 1997 đến hiện nay
2.2.1. Thực trạng huy động vốn
Từ khi tách tỉnh đến nay, Phú Thọ đã tích cực triển khai công tác đầu tư nói riêng và
phát triển kinh tế - xã hội nói chung tại địa phương. Năm 1997, trong điều kiện gặp rất
nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, đặc biệt trong 5 năm gần đây (2001 - 2005),
trong bối cảnh tình hình kinh tế - chính trị thế giới có nhiều biến động, ảnh hưởng không ít
đến nền kinh tế nước ta và của tỉnh Phú Thọ. Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh đã nhận
định:
Năm năm qua, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ thực hiện nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV trong điều kiện kinh tế, chính trị thế giới có nhiều
biến động cùng với những thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; giá
cả một số mặt hàng thiết yếu liên tục tăng cao; thiên tai, dịch bệnh thường xuyên
xảy ra trên diện rộng; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp, kém lợi thế trong
thu hút vốn đầu tư; một số vấn đề xã hội còn bức xúc. Song, cũng có nhiều thuận
lợi, đó là nền kinh tế thế giới và khu vực sau khủng hoảng đã được phục hồi,
chính trị - xã hội trong nước tiếp tục ổn định; những chủ trương, chính sách mới
của Đảng và Nhà nước được ban hành ngày càng hoàn thiện; nhiều dự án đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng và sản xuất kinh doanh những năm qua đã bước đầu
phát huy tác dụng [14, tr.25-26].
Mặc dù có những thách thức, khó khăn, nhưng công tác đầu tư xây dựng cơ bản của
địa phương đã có những tiến bộ nhất định cả trong việc huy động và sử dụng vốn. Kết quả
huy động vốn đầu tư phát triển, trong đó có vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Phú Thọ đạt
được kết quả sau:
Bảng 2.2: Vốn đầu tư phát triển [38]
Đơn vị tính: Tỷ đồng
TT
Năm
Chỉ tiêu
1997 2000 2002 2003 2004 2005
1 Đầu tư từ NSNN 678 1301 1970 1694 2050
(1) Đầu tư qua tỉnh 275 634 706 1002 950
a Ngân sách đầu tư tập trung 192 286 431 658 690
-
Vốn xây dựng cơ bản tập
trung
82,4 122,6 92,18 112,6 90,59
- Hỗ trợ MT và QĐ của TTg - 42,5 183,6 241,8 271,5
- ODA 109,3 121 135 184,5 200
-
Đầu tư từ NS tỉnh và vốn
khác
- - 19,95 27,4 28
-
Điều phối quyền sử dụng
đất
- - - 92 100
b Vốn NS, CTMT, vốn khác 64,9 97,8 105,5 104,5 110
c Tín dụng đầu tư, vốn vay 18,7 250 169,7 239 150
(2) ĐT qua Bộ, ngành, DNN2
402,5 667,5 1264 692,3 1100
2 ĐT của dân cư và tư nhân 343,9 741,8 1011 935 125
3
ĐT trực tiếp nước ngoài
PDI
102,7 103,6 604,7 1050 1200
Tổng cộng 1214 2147 3586 3679 4500
Từ khi tái lập tỉnh, đặc biệt trong 5 năm 2001 - 2005, tỉnh Phú Thọ đã huy động
được 15.500 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 32,27% và tăng trên 3,5 lần so với
giai đoạn 1997 - 2000. Cơ cấu vốn huy động được phân bố như sau: vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước chiếm 53,1%, tăng bình quân 24,8%/năm (đầu tư qua tỉnh chiếm 23,3%, tăng
28,1%/năm; đầu tư qua Bộ, ngành chiếm 29,8%, tăng 22,3%/năm. Vốn đầu tư khu vực dân
cư, tư nhân chiếm 27,4%, tăng 29,5%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 63,5%/năm. Riêng
năm 2005, tổng vốn huy động đạt 4.530 tỷ đồng vượt kế hoạch 30 tỷ đồng, tăng 19,9% so với
năm 2004, đạt được kế hoạch đề ra là 4.400 - 4.500 tỷ.
Đến hết năm 2005, trên địa bàn tỉnh đã có 51 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
hoạt động, với số vốn đăng ký là 307,8 triệu USD, 52 dự án từ vốn hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) với số vốn là 155,5 triệu USD và hơn 20 dự án từ các tổ chức phi chính phủ
(NGO), với mức vốn cam kết là 4,34 triệu USD [38].
Với chính sách và cơ chế khuyến khích thu hút đầu tư khu vực tư nhân trong nước,
đặc biệt là năm 2000, sau khi luật doanh nghiệp có hiệu lực khu vực kinh tế tập thể, kinh tế
tư nhân được củng cố và phát triển. Tại địa phương các nhà đầu tư trong tỉnh đã đầu tư
3.500 tỷ đồng. Có 20 nhà đầu tư từ tỉnh ngoài với số vốn 1.000 tỷ đồng, chiếm gần 30%/
tổng vốn đầu tư từ khu vực này. Chỉ tính riêng năm 2005, tỉnh đã cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh cho 240 doanh nghiệp, vốn đăng ký đạt 700 tỷ đồng, tăng 14% so với cùng
kỳ, nâng tổng số doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp trên 1.200 doanh nghiệp
[38].
Các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh được củng cố và sắp xếp lại, chuyển
đổi loại kinh doanh. Các doanh nghiệp nhà nước đã đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao
công suất, như Công ty giấy Bãi Bằng, Công ty Supe phốt phát và hoá chất Lâm Thao, hoá
chất Việt Trì... Nhờ đó mà nhiều sản phẩm của các doanh nghiệp này đã nâng cao được
năng suất, sản phẩm có tính cạnh tranh, giữ vững được uy tín, làm ăn có lãi.
2.2.2. Phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ở tỉnh Phú Thọ
Nhờ có chính sách và cơ chế đúng và phù hợp với thực tiễn của địa phương, nên tỉnh
Phú Thọ đã huy động và sử dụng nguồn vốn hiệu quả góp phần rất lớn cho tăng trưởng phát
triển kinh tế.
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh bình quân đạt 9,71%, tuy chưa đạt được mục
tiêu kế hoạch cao nhất là 10% nhưng cao hơn mức bình quân của cả nước là 7,5% và cao
nhất từ khi tách tỉnh đến nay. Cao hơn 1,55% so với thời kỳ 1997 - 2000. Năm 2005, GDP
đạt 4.955 ngàn đồng tăng 1,65 lần so với năm 2000 (năm 2000 đạt 2.998 ngàn đồng).
Do vốn đầu tư tăng, tổng vốn đầu tư 5 năm đạt 15,38 nghìn tỷ đồng, tăng 31,97% là
tăng 3,5 lần so với giai đoạn 1997-2000 đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh từ
8,06% (2000) lên 9,71% (2001-2005) [38].
Đối với tỉnh Phú Thọ, một tỉnh sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Nhờ có vốn đầu tư,
đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ bản cho hệ thống thủy lợi, đường giao thông, các cơ sở sản
xuất công nghiệp chế biến các loại hàng nông lâm sản, thủy sản, giúp ngành nông nghiệp
phát triển khá vững chắc và toàn diện. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng
năm 7,9% vượt xa mục tiêu đề ra là trên 5%, trong đó nông nghiệp tăng 7,8%, lâm nghiệp
tăng 8,47%, thuỷ sản tăng 8,4%. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị canh tác tăng
từ 15,6 triệu đồng/ ha năm 2000 lên 20,2 triệu đồng/ha năm 2005. Hệ số sử dụng đất nông
nghiệp đạt 2,15 lần tăng 0,1 lần so với năm 2000. Đã hình thành một số vùng chuyên canh
gắn với công nghiệp chế biến như vùng chè, nguyên liệu giấy, cây lấy gỗ, cây ăn quả. Nhiều
sản phẩm nông nghiệp đã được sạch hơn và gắn với thị trường hơn.
Nhờ có đầu tư xây dựng cơ bản mà nhiều cơ sở công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã
được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân
14,8%, tuy có thấp hơn mức bình quân chung của cả nước là 16%, nhưng có tốc độ tăng cao
hơn so với các ngành nông nghiệp và dịch vụ của địa phương và có mức tăng ổn định. Đặc
biệt, trong công nghiệp, các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế đã đầu tư mở rộng,
nâng cao công suất, đổi mới công nghệ nên đã phát huy được nhiều sản phẩm truyền thống
có từ lâu tại địa phương hoặc đầu tư tạo ra các sản phẩm mới. Nhiều sản phẩm chủ yếu, sản
lượng các sản phẩm quan trọng tăng nhanh. So với năm 2000, năm 2005, sản lượng giấy
tăng 1,73 lần, phân bón tăng 1,65 lần, xi măng tăng 5,3 lần, chè tăng 2,1 lần, rượu bia tăng
3,86 lần, quần áo, giày dép tăng 3,91 lần. Đặc biệt, trong đầu tư xây dựng cơ bản đã gắn
giữa công nghiệp chế biến với sản xuất nông nghiệp, để tạo bước đầu tư đồng bộ, đảm bảo
lợi ích giữa người sản xuất và doanh nghiệp chế biến, nâng cao tính hiệu quả của sản xuất -
đầu tư và thị trường. Do đó, trong công nghiệp, những ngành, những sản phẩm có tiềm
năng, lợi thế đều tăng nhanh như: công nghiệp chế biến nông lâm sản, sản xuất vật liệu xây
dựng, chế biến khoáng sản đã được khai thác về lợi thế.
Tỉnh Phú Thọ đã chú trọng đầu tư gắn với thị trường (đặc biệt là sản xuất để xuất
khẩu), nhờ đó trong 5 năm qua (2001-2005), tổng kim ngạch xuất khẩu tại địa phương đã
đạt trên 440 triệu USD, tăng bình quân 9,75%/năm, trong đó xuất khẩu địa phương tăng
12,3%. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của địa phương như hàng may mặc, dệt, da giày,
sản phẩm nhựa, chè, hàng nông sản, sản phẩm gỗ, tre, trúc... đều tăng khá. Nhiều sản phẩm
của tỉnh đã có mặt tại các thị trường truyền thống (như: Nga, Đông Âu, các nước ASEAN),
nay đã xuất hiện và có vị trí nhất định tại một số thị trường mới, khó tính như Hoa Kỳ, EU,
Nhật Bản, Hàn Quốc...
Thời gian qua, đầu tư xây dựng cơ bản đã tạo thêm năng lực sản xuất và xã hội mới.
Nhà nước đã đầu tư nâng cấp tuyến quốc lộ 2 nối các tỉnh đồng bằng với các tỉnh miền núi
biên giới, qua Phú Thọ. Cải tạo, nâng cấp và làm mới trên 2000 km đường giao thông, trong
đó đã tăng thêm gần 737km đường nhựa, 786 đường bê tông và 523 km đường cấp phối,
180 công trình thuỷ lợi, kiên cố hoá 646 km kênh mương; tăng thêm 4.176 ha được tưới tiêu
chủ động, xây dựng và cải tạo 1.277 phòng học tỷ lệ phòng hiện kiên cố và bán kiên cố đạt
94,3%, tăng 14,3% so với năm 2001.
Năm 2005, tỉnh đã có 121 trường đạt chuẩn quốc gia và là tỉnh miền núi đã đầu tư về
sự nghiệp phát triển giáo dục. Năm 2003, Trường đại học Hùng Vương đã được thành lập.
Năm 2005 toàn tỉnh có 136 trạm y tế, trong đó có 90% trạm y tế xã được kiên cố hoá, trong
đó có 30% đạt chuẩn quốc gia về y tế, 100% xã có bác sĩ, có đủ thuốc thiết yếu cho nhu cầu
khám chữa bệnh và 100% thôn bản có nhân viên y tế hoạt động. Năm 2005, đã đảm bảo tất
cả các xã trên địa bàn tỉnh có đường ô tô đến trung tâm xã, có máy điện thoại, có điện lưới
quốc gia và có đài truyền hình cơ sở. Các xã ở vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh, lương thực
bình quân đầu người đạt mức 396 kg cao hơn mức bình quân của cả tỉnh là 320 kg, đã
góp phần quan trọng xoá đói giảm nghèo cho đại đa số đồng bào dân tộc vùng sâu vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh.
Tỉnh Phú Thọ có 40 xã đặc biệt khó khăn, 10 xã an toàn khu (tổng số có 50 xã được
hưởng chương trình 135) và 21 thôn bản vùng cao khó khăn ngoài xã đặc biệt khó khăn. Từ
năm 2001 đến nay, tổng số vốn đầu tư địa bàn vùng khó khăn là 230 tỷ đồng. Vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước là 147 tỷ, đầu tư từ nguồn vốn trong nước 51 tỷ. Đầu tư từ chương trình
quốc gia 1 tỷ. Đầu tư từ vốn chương trình và dự án khác 45,6 tỷ. Hiệu quả đầu tư đã xây
dựng được gần 600 công trình (trong đó, công trình thuỷ lợi giao thông 125, thuỷ lợi 120,
trường học 224, y tế 15, điện 60, nước sạch 10 và 50 công trình khác) [36, tr.3].
Trong 5 năm toàn tỉnh đã có 33,4 nghìn hộ thoát nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ
19,6% năm 2001 xuống còn khoảng 5% (theo tiêu chí cũ), còn theo tiêu chí mới còn tới
31,5%.
Giai đoạn 2001 - 2005 đã giải quyết việc làm cho khoảng 74,13 nghìn người vượt
mục tiêu đề ra, xuất khẩu 10,47 nghìn người, hiện nay có 7 nghìn người của tỉnh Phú Thọ
đang làm việc ở nước ngoài. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 29%.
Hạ tầng đô thị ở thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, các thị trấn của các huyện đã
được chú trọng đầu tư. Hạ tầng các cụm khu công nghiệp tăng đáng kể, nhất là khu công
nghiệp Thuỵ Vân và cụm công nghiệp Đông Tạng. Theo Báo cáo của uỷ ban nhân dân tỉnh
Phú Thọ, quá trình triển khai thực hiện đầu tư các dự án vốn ngân sách nhà nước, đến nay
chưa phát hiện có sai phạm các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng. Đây cũng là một
hiệu quả lớn và thành công của công tác sử dụng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại địa
phương, ví dụ:
- Năm 2002, nhà máy giầy thể thao của Công ty Giầy Vĩnh Phú được vay 9,7 tỷ
đồng từ vốn tín dụng đầu tư của nhà nước thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển. Tổng vốn đầu tư
là 15,2 tỷ đồng. Hệ số sử dụng vốn đầu tư: 9,7/15,2 tỷ. Sản lượng sản xuất: 800 - 900 ngàn
đôi giầy, phần lớn sản phẩm được xuất khẩu. Doanh thu hàng năm: 85,0 tỷ đồng. Giải quyết
việc làm cho gần 1000 lao động.
Do sử dụng tốt vốn vay, nhà máy đã đầu tư nâng cấp máy móc, thiết bị, cải thiện
điều kiện làm việc, đặc biệt là nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Do vậy,
sản phẩm luôn có thị trường tiêu thụ ổn định, người lao động có thu nhập cao, bình quân
khoảng 700 - 800.000 đ/người tháng.
- Dự án mở rộng Nhà máy giấy Bãi Bằng được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn khác
nhau: vốn ODA, vốn vay Ngân hàng, vốn tự có của Công ty, với các mức lãi suất khác nhau
đến 3,55%/năm, không kể phí quản lý 0,2%, nhưng với điều kiện và năng lực quản lý, điều
hành của Công ty, biết tổ chức vùng nguyên liệu tốt, sản xuất tốt, đến nay doanh thu hàng
năm trên 1.100 tỷ đồng, lợi nhuận ước đạt 100 tỷ triệu đồng, thu hút nhiều lao động. Đặc
biệt là người lao động có việc làm ổn định, có thu nhập, công ty có lợi nhuận.
Tuy vậy, trong đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế,
hiệu quả sử dụng vốn chưa cao.
Thứ nhất, về huy động vốn đầu tư xây dựng cơ bản, mặc dù nguồn vốn đầu tư nói
chung, vốn xây dựng cơ bản nói riêng đã có tốc độ tăng khá cao. Tuy vậy nguồn vốn từ nội
lực của tỉnh còn chiếm tỷ trọng không cao, ngoài lý do khách quan là một tỉnh nghèo, thu
nhập thấp, nhưng nhiều nguồn vốn trong dân cư, các doanh nghiệp, và đầu tư FDI, ODA,
NGO chưa được huy động hết. Nguồn vốn đầu tư phát triển vẫn chủ yếu dựa vào ngân sách
nhà nước, đặc biệt là ngân sách Trung ương. Đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm 53,1%
tổng vốn đầu tư, đầu tư qua tỉnh tuy có tốc độ tăng trưởng 28,1% nhưng chỉ có chiếm
23,3%, còn đầu tư qua bộ, ngành mặc dù có tốc độ tăng 22,3% thấp hơn của địa phương,
nhưng lại chiếm tới 29,8% tổng vốn đầu tư. Do đó, nhiều cấp, nhiều ngành chưa thực sự
năng động, tổ chức khai thác nguồn lực tại chỗ cho đầu tư xây dựng cơ bản, tâm lý trông
chờ, cấp dưới dựa cấp trên, địa phương dựa trung ương, ỷ lại nhà nước, đặc biệt là dựa vào
nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, mà thiếu sự năng động nhạy bén, huy động vốn đầu tư
nước ngoài, trong đó có nguồn vốn FDI, đặc biệt là nguồn vốn từ dân cư và các doanh
nghiệp trong tỉnh, ngoài tỉnh. Do vậy, nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ bản, giải pháp là huy
động vốn từ nhà nước, doanh nghiệp và từ cư dân, nhưng vốn từ ngân sách nhà nước là chủ
yếu, chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối.
Thứ hai, đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương còn dàn trải, chưa chủ
động đầu tư có trọng điểm. Điều này thể hiện kể cả ở các dự án đầu tư nhóm A, nhóm B.
Tất nhiên khách quan mà nói vấn đề này không chỉ riêng của tỉnh Phú Thọ mà của cả nước.
Trong những năm vừa qua, hoạt động đầu tư và xây dựng nói chung, công tác đầu tư xây
dựng nói riêng đã có những mốc phát triển nhất định. Nhiều dự án đầu tư, quá trình hoàn
thành đưa vào hoạt động đã góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Tuy nhiên, vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém trong công tác quản lý đầu tư xây
dựng, dẫn đến hiệu quả chung là: Hiệu quả đầu tư thấp; thất thoát, lãng phí vốn đầu tư, chất
lượng công trình kém, chi phí đầu tư trung bình cao hơn các nước trong khu vực [17, tr.23].
Tại Phú Thọ đa số các dự án đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nhóm C (nhưng số dự án
từ khởi công đến hoàn thành trong thời hạn 2 năm chiếm tỷ trọng thấp, 30 - 40%); chưa có
sự tập trung cho các công trình trọng điểm, có sức đột phá cho tăng trưởng và phát triển
kinh tế tại địa phương. Ví dụ, các dự án đầu tư vào cụm công nghiệp Đồng Lạng, rừng quốc
gia Đền Hùng, Trường đại học Hùng Vương, Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà
nước, hạ tầng làng nghề và một số dự án từ vốn ODA. Hầu hết các dự án nêu trên, tiến độ
chậm, do khâu giải phóng mặt bằng, xây dựng khu tái định cư chậm.
Dự án đầu tư dây chuyền sản xuất gạch ngói bàng lò tuynel của Công ty Gốm xây
dựng sông Lô. Do không có khảo sát tốt, thiếu nguyên liệu, chi phí cao, tổ chức quản lý
chưa tốt, dẫn đến giá thành sản phẩm cao, không đủ sức cạnh tranh, liên tục lỗ nhiều năm.
Số lỗ luỹ kế của Công ty là 1.567 triệu đồng. Nợ quá hạn phát sinh 1.106 triệu đồng, lãi phải
trả nhưng chưa trả là 724 triệu đồng. Năm 1999, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã
đầu tư xây dựng 07 trạm bơm chống úng tại huyện Đoan Hùng (với tổng mức đầu tư khoảng
10,0 tỷ đồng), tuy nhiên về cơ bản đều không hoạt động hiệu quả, hiện nay khi đến mùa lũ,
huyện vẫn phải mua máy bơm lưu động để thực hiện chống úng [2].
Qua các ví dụ trên, xét theo tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế đã trình bầy trong
chương 1 thì chúng ta thấy rằng, các dự án này hoàn toàn không có hiệu quả kinh tế trên
toàn bộ bình diện: cả hệ số sử dụng vốn, hệ số sử dụng công suất, doanh thu, thời gian thu
hồi vốn,... Đó là chưa kể đến hiệu quả xã hội, người lao động không có việc làm....
Một số công trình xây dựng cơ bản tại địa phương, thiếu vốn đối ứng, một số dự án
mở rộng sản xuất, nâng cao trình độ công nghệ thì lại thiếu vốn đầu tư do đó thời gian thực
hiện tiến độ chậm. Ví dụ Dự án đầu tư xây dựng khách sạn của Công ty Thương mại Du lịch
và Dịch vụ hàng không Phú Thọ (dự án vay Quỹ hỗ trợ phát triển của tỉnh 3.654 triệu đồng,
nợ quá hạn 1.171 đồng lãi phải trả, nhưng chưa trả 1.126 triệu đồng). Do không tính toán
đến lượng khách lưu trú. Công suất sử dụng dưới 30% tổ chức quản lý yếu, nên dẫn đến
thua lỗ. Nhiều dự án đến khi thực hiện chậm 2 - 3 năm có dự án đến 5 năm là "lỡ nhịp" cho
các nhà đầu tư và cơ hội kinh doanh, cũng như phục vụ cho các công tác chính trị - xã hội.
Thứ ba, trong công tác quản lý nhà nước, đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp
các ngành trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư sớm
hoàn thành thủ tục triển khai dự án. Tuy vậy, việc xây dựng một số chương trình, dự án
thiếu thống nhất giành mục tiêu và giải pháp thực hiện, nhất là giải pháp huy động các
nguồn vốn đầu tư, nội lực và ngoại lực. Trong năm 2005, Phú Thọ đã kịp thời và thực hiện
nghiêm túc các quy định về đấu thầu (đấu thầu trong nước) cho 62 gói thầu của các công
trình, dự án với tổng giá trị là 379,4 tỷ đồng. Trong đó đấu thầu xây lắp 55 gói thầu với giá
trị 361,4 tỷ đồng (chiếm 89%) đấu thầu mua sắm hàng hoá với số lượng 7 gói thầu với giá
trị 17,9 tỷ đồng (chiếm 11%), kết quả đã giảm được 6,8 tỷ đồng (gần 2% so với giá trị gói
thầu). Nhưng nguồn vốn ngân sách tỉnh còn hạn hẹp, một số công trình phải đẩy nhanh tốc
độ, nên chủ yếu áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế (62 dự án): chỉ áp dụng hình thức chỉ
định thầu đối với những gói thầu quy mô nhỏ dưới 1 tỷ đồng và có những đặc thù riêng.
Hầu hết các công trình thuộc các lĩnh vực (giao thông, thuỷ lợi kiến trúc, nông nghiệp văn
hoá, xã hội...) có sử dụng vốn ngân sách nhà nước đều áp dụng hình thức đấu thầu đúng
trình tự, thủ tục.
Tuy vậy việc triển khai quy chế đấu thầu ở cấp huyện và các chủ đầu tư mới chỉ
dừng ở dạng văn bản hành chính, chưa tổ chức được việc hướng dẫn cụ thể quy chế đấu
thầu, nên nhiều nơi còn lúng túng tổ chức đấu thầu, ảnh hưởng đến chất lượng đấu thầu.
Một số chủ dự án, chủ đầu tư chưa nắm vững các quy chế đấu thầu và các văn bản
quy phạm pháp luật về đấu thầu của nhà nước nên áp dụng thực hiện còn chủ quan, hoặc
phức tạp hoá quá trình đấu thầu, mang tính hình thức, hoặc pháp hoá trong lĩnh vực lựa
chọn nhà thầu. Công tác quản lý nhà nước về đấu thầu ở một số cấp ngành chưa được quan
tâm đúng mức, chưa xây dựng chương trình kiểm tra định kỳ...
Thứ tư, thiếu sự chỉ đạo sát sao và sự phối hợp thực hiện các dự án do các Bộ, ngành
Trung ương thực hiện, dẫn đến một số dự án không có hiệu quả cao hoặc thất thoát lớn (ví dụ
như cải tạo và nâng cấp quốc lộ 2 do PMU 18 của Bộ Giao thông Vận tải làm đơn vị chủ đầu tư)
Năng lực điều hành, khả năng phối hợp của một số ngành và huyện còn hạn chế.
Tình trạng quan liêu, trì trệ, thiếu năng động, thiếu kiểm tra giám sát và buông lỏng quản lý
trong đầu tư xây dựng cơ bản dẫn đến lãng phí thất thoát, mà chưa được khắc phục và xử lý
kịp thời.
Thứ năm, hiệu quả đầu tư chưa cao, kể cả đầu tư của Trung ương và địa phương, đầu
tư cho sản xuất và kết cấu hạ tầng. Chất lượng một số công trình chưa đạt yêu cầu, nợ khối
lượng xây dựng cơ bản hoàn thành lớn, nhưng chưa có giải pháp khắc phục kịp thời, triệt
để.
Ví dụ, 6 tháng đầu năm 2005, các dự án đầu tư qua tỉnh Phú Thọ giá trị khối lượng
thực hiện đạt 398,7 tỷ đồng bằng 46,9% kế hoạch, 49,9% vốn huy động. Như vậy, 6 tháng
đạt 219,2 tỷ đồng, bằng 27,4% so với vốn huy động và 55% so với khối lượng thực hiện.
Hỗ trợ có mục tiêu 96,4 tỷ đồng, bằng 56,2% kế hoạch, vốn thanh toán đạt 44,1 tỷ
đồng, đạt tỷ lệ 20,8%. Vốn chương trình mục tiêu; giá trị khối lượng thực hiện 6 tháng ước
đạt 62,2 tỷ đồng, bằng 56,2% kế hoạch, vốn thanh toán 34,9 tỷ đồng đạt 31,7 so với huy
động và 56,1% so khối lượng thực hiện. Về giải ngân, thanh toán các nguồn vốn từ ngân
sách tỉnh, nhìn chung tiến độ giải ngân và thanh toán cao hơn so với vốn từ ngân sách nhà
nước. Ngân sách tỉnh đạt 275,5 tỷ đồng, bằng 34,2% so vốn huy động và 55% so khối lượng
thực hiện, trong đó:
- Ngân sách đầu tư tập trung đạt 69,8 tỷ đồng, bằng 77% vốn huy động, 88,9% so
khối lượng thực hiện.
- Vốn hỗ trợ có mục tiêu 84,1 tỷ đồng, đạt tỷ lệ tương ứng là 39,7%
và 65,7%.
- Vốn ODA: 76,7 tỷ đồng, đạt 38,4% và 67,6%.
- Vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh 10,1 tỷ đồng, đạt 36,1% kế hoạch và 67,3% khối
lượng thực hiện.
Dự án các hạng mục công trình thuộc Trường Cao đẳng Sư phạm trước đây (nay là
Trường đại học Hùng Vương) là Nhà ký túc xá số 2, nhà Hội trường kiêm giảng đường
được đầu tư từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia, nguồn vốn thanh toán mới bố trí
được 3,5 tỷ đồng/tổng số 6,5 tỷ đồng, khởi công xây dựng từ năm 2001 nhưng đến nay hạng
mục công trình nhà Hội trường kiêm giảng đường vẫn chưa bàn giao được do thanh toán
chậm, nên ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án, mặc dù nhu cầu rất lớn về việc đưa công
trình vào sử dụng nhưng do nguồn vốn bố trí chậm nên không thể thực hiện dẫn đến lãng
phí).
Thứ sáu, một số dự án đầu tư hoàn thành từ trước năm 2002, tuy vậy chưa được xử
lý dứt điểm, gây tồn đọng, khó khăn cho tỉnh và doanh nghiệp. Điều này cũng ảnh hưởng
đến hiệu quả không cao của đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương. Đến hết năm 2005, tỉnh
Phú Thọ có 76 dự án hoàn thành, sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, chủ yếu là còn
tính hoàn thành từ năm 2003 trở về trước, có tổng đầu tư 526 tỷ đồng. Khối lượng hoàn
thành là 490 tỷ đồng, đến nay đã thanh toán 309 tỷ đồng, còn nợ 187,7 tỷ đồng, gồm công
nghiệp: 4 dự án (15,6 tỷ đồng); chiếm 8,3%; nông lâm ngihệp, thuỷ lợi: 18 dự án (53 tỷ
đồng), chiếm 28,2%; giao thông: 21 dự án (91,7 tỷ đồng) chiếm 48,9%; công cộng: 2 dự án
(749 triệu đồng), chiếm 0,4%, quản lý nhà nước: 18 dự án (19,2 tỷ đồng) chiếm 10,2%, y tế
- xã hội 3 dự án (4,2 tỷ đồng) chiếm 2,2%; giáo dục - đào tạo 4 dự án (1,2 tỷ đồng) chiếm
0,6%, văn hoá, thể dục, thể thao 2 dự án (833 triệu đồng) chiếm 0,4%; an ninh - quốc phòng
1 dự án (1,2 tỷ đồng). Do vậy, trong thời gian tới đặc biệt là năm 2006, Phú Thọ đã quán
triệt nghiêm túc chỉ thị số 29/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngoài việc ưu tiên bố
trí trả nợ cho các công trình dã hoàn thành, còn tiếp tục phải nâng cao trách nhiệm của
người ra quyết định đầu tư, trách nhiệm của từng cán bộ phụ trách hoặc theo dõi các công
việc. Công khai minh bạch trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, kiên quyết đầu tư có trọng
điểm, phát huy hiệu quả kinh tế [37, tr.2].
Kết luận chương 2
Trên cơ sở những vấn đề lý luận của chương I, nội dung của chương II đã làm rõ
những điều kiện và lợi thế của tỉnh Phú Thọ để thu hút đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Phú Thọ là một tỉnh nông nghiệp, còn gặp nhiều khó khăn, tuy vậy thời gian qua, đặc
biệt từ khi tách tỉnh đến nay, đã đạt được nhiều thành tựu cơ bản. Tuy vậy, đầu tư xây dựng
cơ bản tại địa phương chưa cao, mặc dù có sự đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cao, nhưng
nhìn chung nguồn vốn đầu tư vào địa phương còn thấp, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao.
Mặc dù không có những thất thoát, lãng phí lớn, nhưng các chỉ tiêu hiệu quả của đầu tư xây
dựng cơ bản chưa đạt được mục tiêu đề ra.
Chương 3
phương hướng và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh phú thọ đến
năm 2010
3.1. Mục tiêu, Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu về vốn đầu
tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ đến năm 2010
3.1.1. Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ
giai đoạn 2006 - 2010
Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Phú Thọ (giai đoạn 2006 -
2010) trong bối cảnh thuận lợi. Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 10 đã thành công
tốt đẹp, Đại hội đã thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn
2006 - 2010 với những chỉ tiêu chung cho cả nước. Năm năm 2006 - 2010 có ý nghĩa quyết
định đối với việc hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI
do Đại hội IX của Đảng đề ra.
Mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006 - 2010 là:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi
nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng cường quốc phòng và an ninh, mở
rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững
ổn định chính trị - xã hội sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh hơn, bền vững hơn và gắn
kết với phát triển con người. Đến năm 2010 tổng sản phẩm trong nước (GDP)
tăng gấp 2,1 lần so với năm 2000, mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5 -
8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm [13, tr.5].
"Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung,
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ về số lượng, bảo đảm tính đồng bộ, nhất
quán, ổn định và minh bạch, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các nhà đầu tư, cải thiện
môi trường đầu tư" [13].
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 chỉ rõ:
Tạo lập môi trường tài chính lành mạnh thông thoáng nhằm giải phóng và
phát triển các nguồn lực tài chính và tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp...
Sử dụng ngân sách nhà nước phải chủ động và có hiệu quả, tăng cường kiểm
soát chi, kiên quyết chống lãng phí thất thoát. Nâng cao hiệu quả đầu tư bằng
vốn ngân sách nhà nước từ xác định chủ trương, lập và duyệt dự án đến thực
hiện dự án. Thực hiện chính sách khuyến khích phát triển đối với các vùng kinh
tế trọng điểm, đồng thời quan tâm đầu tư nhiều hơn cho các vùng khó khăn [11,
tr.194-195].
Nghị quyết của Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVI đã chỉ rõ:
Tạo chuyển biến cả về tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế với mức
cao hơn nhiệm kỳ trước, tăng trưởng đi đôi với phát triển bền vững, bắt nhịp với
đà phát triển chung của cả nước, phấn đấu đến năm 2010, cơ bản ra khỏi tỉnh
nghèo. Tiếp tục đổi mới toàn diện, khai thác tiềm năng, thế mạnh để phát triển,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; xác định khâu đột phá quan trọng là "phát
triển kết cấu hạ tầng". Nâng cao hiệu quả các nguồn lực đầu tư cải thiện chất
lượng kết cấu hạ tầng, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với
phát triển đô thị và các vùng sản xuất hàng hoá, thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trên địa bàn [14, tr.6].
Mục tiêu tổng quát của tỉnh Phú Thọ trong 5 năm tới là: Đảm bảo tốc độ tăng trương
kinh tế nhanh và bền vững, tạo sự chuyển biến căn bản về chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm truyền thống của
tỉnh tạo nhiều sản phẩm mới có chất lượng cao, giá cả cạnh tranh, nâng cao tiềm lực của các
doanh nghiệp của Trung ương cũng như của tỉnh trên địa bàn. Huy động tối đa các nguồn
lực cho đầu tư phát triển.
Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006 - 2010
* Chỉ tiêu kinh tế:
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 11,5%/năm trở lên. Năm 2010, GDP bình quân
đầu người đạt 9,2 triệu đồng.
- Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp tăng bình quân trên 5%/năm. Năm 2010 sản
lượng lương thực đạt 45 - 46 vạn tấn, độ che phủ rừng đạt 48 - 50%.
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 16 - 18%/năm.
- Giá trị các ngành sản xuất dịch vụ tăng bình quân trên 15%/năm.
- Giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 15%/năm. Năm 2010 đạt 290 - 300
triệu USD.
- Cơ cấu kinh tế năm 2010: công nghiệp, xây dựng 45 - 46%; dịch vụ 36 - 37%;
nông, lâm nghiệp 18 - 19% [38, tr.17].
* Chỉ tiêu về xã hội:
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10% (theo tiêu chuẩn mới).
- Tạo việc làm cho 16 - 18 nghìn người lao động/năm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt
40%. Cơ cấu lao động vào năm 2010: nông, lâm nghiệp 61 - 62%; công nghiệp - xây dựng
23 - 24%; dịch vụ 15 - 16%.
- Số máy điện thoại/100 dân đạt 15 máy trở lên.
- Tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 95% địa bàn dân cư.
- Trên 95% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia.
- 85% số hộ dân được sử dụng nước sạch.
- 60% số xã, phường, thị trấn đạt phổ cập giáo dục bậc trung học.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 10%.
- Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 18% [14, 61-63]; [39, tr.46-47].
3.1.2. Nhu cầu về vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Với những mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ, như đã nêu ở trên, tỉnh rất cần
nhiều vốn với những nguồn vốn khác nhau. Phấn đấu trong 5 năm tới, thu hút trên 25 nghìn
tỷ đồng cho đầu tư phát triển, trong đó chủ yếu là vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Dự báo, vốn
đầu tư từ khu vực dân cư, tư nhân chiếm 40 - 45%, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 18 - 20%,
còn lại là vốn từ ngân sách nhà nước. Nguồn vốn nước ngoài là quan trọng, nguồn vốn trong
nước đóng vai trò quyết định.
Phấn đấu tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng trên 15%/năm; tỷ lệ huy
động ngân sách nhà nước chiếm trên 11% GDP của tỉnh Phú Thọ.
Tốc độ tăng bình quân của các nguồn vốn thời kỳ 2006 - 2010 ở tỉnh Phú Thọ là rất
khác nhau. Mức vốn chung cho đầu tư phát triển tăng bình quân 7,56%, vốn đầu tư qua tỉnh
tăng 9,17%. Tốc độ tăng cao nhất là đầu tư của dân cư và tư nhân 15,77%, tiếp đó là vốn
xây dựng cơ bản tập trung chiếm 14,72%, vốn hỗ trợ có MT và QĐ của Thủ tướng Chính
phủ là 12,99% và đầu tư từ ngân sách tỉnh, vốn khác là 12,3%. Vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài có tốc độ tăng thấp nhất là 1,61% [38, phần phụ lục].
Bảng 3.1: Dự báo khả năng tăng trưởng cho các giai đoạn [38]
2010 2020
KV1 KV2 KV3 KV1 KV2 KV3
1. Tỷ lệ của tỉnh Phú Thọ
so với trung bình cả nước
về GDP (giá so sánh năm
1994)
81 85 88,5 103,5 118,5 135,5
2. Tốc độ tăng GDP bình
quân thời kỳ 2006-2010 và
2011-2020 (%năm)
11 12 13 10 11 12
3. Dự kiến mức tăng nhu
cầu đầu tư trung bình năm
của cả nước thời kỳ 2006 -
2020 (% năm)
PA1
28
PA2
29
PA3
30
Xét trong ba khả năng cho thấy khả năng hai vừa đảm bảo thu hẹp mức chênh lệch
vào năm 2010 so hiện nay và đã vượt mức trung bình của cả nước vào năm 2020 về
GDP/người, thể hiện được quyết tâm và nguyện vọng của nhân dân và điều kiện đảm bảo
quan trọng về vốn là tương đối khả thi.
Để đảm bảo được tăng trưởng như vậy, nhu cầu về vốn sẽ tăng cao và được thể hiện
ở bảng 3.2.
Bảng 3.2: Số liệu về dự kiến huy động vốn đầu tư phát triển 2006 –2010 [38]
Năm
Chỉ tiêu
2006 2007 2008 2009 2010
Đầu tư phát triển 4110 4275 4820 5570 6480
1. Đầu tư từ NSNN 2010 1875 2070 2270 2580
(1). Đầu tư qua tỉnh 1010 1075 1170 1270 1380
a. Ngân sách đầu tư tập
trung
740 805 890 970 1070
- Vốn xây dựng cơ bản tập
trung
110 120 150 170 180
- Hỗ trợ có MT và QĐ của
TTg
300 350 400 450 500
- Vốn ODA 180 180 180 220
- Đầu tư từ NS tỉnh, vốn
khác
30 35 40 50 50
- Đấu giá quyền sử dụng
đất
120 120 120 120 120
b. Vốn SN, CTMT, vốn
khác
110 120 120 130 130
c. Tín dụng đầu tư 160 150 150 160 170
(2). Đầu tư qua Bộ, ngành
DNNN
1000 800 900 1000 1200
2. Đầu tư của dân cư và tư
nhân
1250 1400 1600 1850 2200
3. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài
700 800 900 1100 1300
Dự báo về tổng nhu cầu đầu tư nếu thực hiện được thì hệ số gia tăng vốn (ICOR) của
tỉnh sẽ như sau:
Bảng 3.3: Dự báo tổng nhu cầu đầu tư 2006-2010 [38]
Đơn vị tính: tỷ đồng
Phương án ICOR
Phương án 1 5 112.300
Phương án 2 5 117.400
Phương án 3 5 133.865
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ
bản ở tỉnh Phú Thọ đến năm 2010
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý về lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đặc biệt từ năm 1999,
Chính phủ đã ban hành một loạt các nghị định, văn bản chỉ đạo cụ thể về quản lý đầu tư xây
dựng, đấu thầu như (số 52/1999/NĐ-CP, số 88/1999/NĐ-CP, số 12/2000/NĐ-CP, số
14/2000/NĐ-CP, số 07/2003/NĐ-CP, số 66/2003/NĐ-CP...), các Bộ, ngành đã ban hành các
thông tư liên tịch, chuyên ngành liên quan. Đến nay, về cơ bản nước ta đã hoàn chỉnh các luật và
văn bản hướng dẫn thực hiện quản lý đầu tư xây dựng gồm: Luật Xây dựng năm 2003; Luật Đấu
thầu năm 2005; Luật Đầu tư năm 2005; Nghị định số 209/2004/NĐ-CP, số 16/2005/NĐ-CP và
các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành.
Điều đó, càng khẳng định Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc ban hành và
thực thi các văn bản pháp luật cũng như luật pháp trong việc quản lý các nguồn vốn đầu
tư phát triển, trong đó có đầu tư xây dựng cơ bản. Đổi mới quản lý đầu tư không thể tách
rời với quá trình hoàn thiện hệ thống luật pháp và cơ chế quản lý kinh tế nói chung...
Thực tế hoạt động đầu tư ở nước ta đang bị chi phối bởi nhiều văn bản dưới luật, trong
đó không ít những nội dung quy định trong Quy chế quản lý đầu tư xây dựng chưa nhất
quán với các quy chế khác như Quy chế về quản lý sử dụng vốn ODA (Nghị định
17/2000/NĐ/CP); Quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT trong nước (Nghị định
77/CP), các yếu tố hoà hợp về thủ tục giữa các hình thức đầu tư, sự nhất quán giữa đầu
tư trong nước và đầu tư nước ngoài... là những vấn đề cần được xem xét đồng bộ. Hy
vọng rằng Luật Đầu tư cũng có hiệu lực từ tháng 7/2006 sẽ khắc phục một số khiếm
khuyết trong thời gian qua. Tuy vậy trong giai đoạn tới, Quốc hội và Chính phủ cần phải
rà soát, bổ sung, sửa chữa các văn bản pháp luật hiện hành cho phù hợp với cơ cấu đầu tư và
tốc độ đầu tư hiện nay, trong đó cần lưu tâm đến đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà
nước.
Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho các địa phương quản lý và thực hiện có hiệu quả
công tác đầu tư xây dựng, Chính phủ và các bộ, ngành có liên quan. cần nghiên cứu và xây
dựng các văn bản dưới luật về công tác đầu tư xây dựng cơ bản một cách đồng bộ, khoa học
và chặt trẽ, dễ hiểu để áp dụng; tránh sự trùng lắp, rườm rà. Đặc biệt là các văn bản liên
quan đến công tác chuẩn bị đầu tư, xét duyệt thẩm định dự án, công tác điều tra, xác định
giá còn mang tính thống kê đặc trưng, thiếu các danh mục vật liệu. Trước hết, việc ký kết và
thực hiện các hợp đồng xây dựng cơ bản phải tuân thủ các quy định tại Điều 108 của Luật
Xây dựng đã được Quốc hội khoá XI thông qua và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội công bố
vào ngày 26-11-2003 và Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 7/2/2005 của Chính phủ và
các quy định khác của Nhà nước về xây dựng, đấu thầu, sử dụng các nguồn vốn trong và
ngoài nước. Bởi vì cùng với sự thay đổi tình hình, giá cả, thì cần quan tâm đúng mức các
quy định về quản lý chất lượng công trình trong đó cần xây dựng các chỉ tiêu định lượng,
cụ thể và rõ ràng hơn. Nên có chế tài thưởng phạt nghiêm minh, công bằng đối với các
công trình xây dựng cơ bản, chủ đầu tư, nhà thầu, người quản lý...
Nhanh chóng hoàn thiện các văn bản pháp quy về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản để
thực hiện các Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật đấu thầu, Luật xây dựng (hiện nay
Chính phủ đang giao Bộ Xây dựng và Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát và trình Chính phủ
phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/2/2005 của Chính
phủ), Luật phòng chống tham nhũng; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí...
Ngày 30/6/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 08/2004/NQ-CP về tăng cường
công tác phân cấp quản lý. Nay cần tiếp tục rà soát các văn bản pháp quy không còn phù
hợp và tăng cường hơn nữa công tác cải cách hành chính, phân cấp trên cơ sở tham khảo ý
kiến của địa phương, các bộ, ngành.
Trên cơ sở những nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, UBND tỉnh
Phú Thọ cần phải tiếp tục ban hành nhiều quyết định chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư xây
dựng cơ bản trong phạm vi chức năng và quyền hạn của mình. Vận dụng đúng đắn, linh
hoạt cơ chế chính sách của Nhà nước vào thực tiễn của địa phương trong phạm vi quyền hạn
của mình. Chú trọng đổi mới cơ chế chính sấch, cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh xúc
tiến đầu tư, thu hút vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó
có xây dựng cơ bản. Tiếp tục rà soát lại, bổ sung, điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư đi đôi
với cải cách thủ tục đầu tư. Tỉnh sẽ phân cấp mạnh và nhiều hơn nữa cho các địa phương,
sở, ngành trong việc quản lý xây dựng cơ bản, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra giám
sát, khen thưởng kịp thời, xử phạt nghiêm minh. Nghiên cứu sắp xếp lại một số Ban quản lý
dự án công trình nhằm nâng cao trình độ quản lý, giám sát chất lượng công trình để thực
hiện tốt công tác quản lý đầu tư và xây dựng về đấu thầu.
Cần phải đơn giản hoá thủ tục trong các khâu như thẩm tra, thẩm định dự án, ra
quyết định đầu tư, cấp vốn, thanh toán, loại bỏ cơ chế thoả thuận, đưa ra các tiêu chí và mẫu
hoá các nội dung cần thực hiện.
Kết hợp giữa đầu tư xây dựng cơ bản do địa phương quản lý và đầu tư xây dựng cơ
bản do các bộ, Ngành, doanh nghiệp nhà nước quản lý để đạt được hiệu quả quản lý, phân
cấp và phối hợp cao như: đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đầu tư xây dựng mới và
nâng cấp các tuyến giao thông trọng điểm của quốc gia đi qua địa bàn tỉnh như: Quốc lộ 2
(đoạn Đền Hùng - Đoan Hùng), Quốc lộ 70, đường Hồ Chí Minh và đường cao tốc Hà Nội -
Lào Cai, các công trình kết cấu hạ tầng và phát triển kinh tế khác.
Tiếp tục cùng với các cấp ở trung ương, rà soát lại hệ thống đơn giá định mức của
nhà nước về xây dựng cơ bản để loại bỏ các định mức lạc hậu không còn phù hợp với tình
hình hiện nay. Đồng thời xây dựng và ban hành các định mức mới thích hợp với việc thi
công, xây lắp với các thiết bị, công nghệ hiện đại và với cơ chế thị trường hiện nay.
3.2.2. Đẩy nhanh việc huy động vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Xây dựng cơ bản cần rất nhiều vốn. Đối với tỉnh Phú Thọ, điểm xuất phát thấp, còn
nghèo, để đẩy nhanh tốc độ phát triển thì không thể không huy động vốn để phát triển kinh
tế nói chung và xây dựng cơ bản nói riêng. Do vậy, để huy động được nhiều vốn xây dựng
cơ bản, theo chúng tôi tỉnh cần tập trung những vấn đề sau:
- Xây dựng tốt các dự án có cơ sở khoa học và có tính thực thi cao, để sử dụng tốt
vốn đầu tư, cơ chế và chính sách của nhà nước như: vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn
chương trình mục tiêu, hỗ trợ có mục tiêu. Tranh thủ sự ủng hộ của các bộ, ngành để đầu tư
tăng vốn cho các dự án kết cấu hạ tầng trọng điểm, các dự án theo quy hoạch ngành. Tỉnh
cần ưu tiên bố trí vốn đối ứng, đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư, chuẩn bị đầu tư và
thực hiện đầu tư. Trước mắt, tập trung vào các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
trọng điểm. Khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư thuộc chương trình phát triển kinh tế -
xã hội các tỉnh vùng trung du miền núi Bắc Bộ theo Nghị quyết 37/NQ của Bộ Chính trị,
vốn hỗ trợ có mục tiêu.
- Xây dựng các cơ chế, chính sách mới đồng thời điều chỉnh hợp lý các cơ chế đã
ban hành nhằm huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn dân cư, tư nhân đầu tư. Phải khuyến
khích mạnh mẽ hơn nữa bằng những cơ chế, chính sách, đặc biệt là chính sách kinh tế, chính
sách đất đai đối với các thành phần kinh tế, dân doanh (trong và ngoài tỉnh) các nhà đầu tư nước
ngoài trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, tập trung vào các ngành nghề mới, các ngành
nghề, lĩnh vực mà tỉnh đang cần khuyến khích đầu tư, đặc biệt là công nghiệp chế biến, sử dụng
nhiều lao động (trước mắt) gắn với phát huy lợi thế của địa phương.
- Điều chỉnh, bổ sung chiến lược nhằm thu hút tốt vốn từ nước ngoài (vốn FDI,
ODA, các tổ chức phi chính phủ...) bằng các danh mục, các dự án rõ ràng, có ưu tiên và
chọn lọc. Đa dạng hoá các hình thức và phương thức đầu tư. Vận dụng các cơ chế chính
sách với hoàn cảnh của địa phương, nhưng phải trong khuôn khổ luật pháp cho phép.
- Tiếp tục làm tốt công tác quy hoạch bao gồm cả quy hoạch đất đai, tạo quỹ đất để
đẩy mạnh thực hiện chính sách đấu giá đất, cho thuê đất. Tạo mọi điều kiện cho nhà đầu tư
sớm thực hiện dự án và kinh doanh lâu dài tại địa phương.
Trong đó, phải đặc biệt quan tâm đến các dự án từ nguồn vốn ODA. Về quản lý
nguồn vốn ODA: khung khổ pháp lý, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến ODA
trong thời gian qua tuy đã được liên tục hoàn thiện nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu hài
hoà thủ tục trong nước với các nhà tài trợ. Quản lý và sử dụng ODA phải tuân thủ Nghị định
17/2001/NĐ-CP, song vẫn phải chịu sự chi phối của nhiều văn bản pháp quy khác với
những nội dung không nhất quán như các quy định về quản lý đầu tư xây dựng công trình,
đấu thầu, đền bù, giải phóng mặt bằng. Mặt khác, năng lực quản lý ODA còn hạn chế cả về
trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp; nhất là ở cấp địa phương [32, tr.3]. Bộ
Kế hoạch và đầu tư cũng nhận định việc hệ thống văn bản pháp quy liên quan đến ODA
thiếu đồng bộ đang gây khó khăn cho cả cấp quản lý và cấp thực hiện nguồn vốn ODA.
Điều đó cũng tác động không nhỏ cho tỉnh Phú Thọ trong việc huy động, đặc biệt là phối
kết hợp trong việc sử dụng nguồn vốn này.
3.2.3. Tăng cường biện pháp chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản
Thực tế nhiều năm qua cho thấy, thất thoát, lãng phí trong xây dựng cơ bản thường
diễn ra do cơ chế quản lý đầu tư thiếu đồng bộ, không chặt chẽ, khép kín trong nội bộ một
ngành, một Bộ, một địa phương.
Trong đầu tư, xây dựng cơ bản, tham nhũng xảy ra ở tất cả các khâu, từ
nghiên cứu đến lập dự án, lập quyết toán, thiết kế công trình, giải quyết vốn đến
đấu thầu, giải phóng mặt bằng, xây dựng nghiệm thu, thanh quyết toán. Chỉ tính
riêng năm 1999, thanh tra 6.708 công trình xây dựng tại 61 tỉnh, thành phố, đã
phát hiện 2.087 công trình quyết toán khống khối lượng, sai đơn giá để chiếm
đoạt 35 tỷ đồng [40, tr.64].
Như Hội nghị Trung ương 9 (khóa IX) đã nhận định:
Chất lượng của các chiến lược và quy hoạch được xây dựng còn thấp, lại
chậm được bổ sung, điều chỉnh kịp thời. Còn thiếu sự phối hợp đồng bộ, hài hoà
giữa chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, với quy hoạch phát triển vùng và
địa phương. Quy hoạch, kế hoạch còn nặng về chỉ định các dự án, công trình
cho khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa có tác dụng tích cực trong việc định
hướng và thu hút các thành phần kinh tế khác đầu tư. Quản lý quy hoạch còn
lỏng lẻo, yếu kém dẫn đến cơ cấu còn trùng lắp, dập khuôn tại các vùng.
Còn để kéo dài tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, chưa tính toán đến hiệu
quả nhất là trong đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách và tín dụng ưu đãi của Nhà
nước. Lãng phí và thất thoát lớn trong đầu tư từ nguồn vốn ngân sách và trong tài
chính doanh nghiệp nhà nước vẫn là vấn đề nhức nhối trong rất nhiều năm, chưa
có biện pháp kiên quyết khắc phục. Nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách
rất lớn. Tổng số nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước khoảng
11.000 tỷ đồng, chiếm 18% tổng vốn đầu tư từ ngân sách và 37% vốn xây dựng
cơ bản tập trung [12, tr.33-34].
ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành không cao trong việc chấp hành các chỉ
thị, nghị quyết, các cơ chế chính sách về đầu tư xây dựng cơ bản, phẩm chất đạo đức, năng
lực của một số cán bộ làm công tác quản lý thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản chưa cao; chất
lượng công tác quy hoạch, công tác tư vấn đầu tư và xây dựng, công tác giám sát, đánh giá,
thanh tra kiểm tra, thanh tra, năng lực các nhà thầu xây dựng chưa được cải thiện...
Đặc biệt, phải nâng cao hiệu quả đầu tư bằng vốn ngân sách. Cần phải xác định đầy
đủ gắn trách nhiệm cụ thể rõ ràng đối với cá nhân người có thẩm quyền quyết định chủ
trương đầu tư, vai trò của chủ đầu tư. Thực hiện kiên quyết, đầy đủ và chỉ đạo sát sao
nghiêm ngặt quy chế đầu tư và xây dựng cơ bản, coi trọng nhất là việc thực hiện quy chế
đấu thầu, quy chế giám sát đấu thầu. Chấm dứt hẳn tình trạng đơn vị thi công và tổ chức
giám sát thi công đều thuộc một cơ quan quản lý. Trong giai đoạn tới, các dự án đầu tư bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước phải được công bố rộng rãi để nhân dân biết và tham gia
giám sát thực hiện. Tạo điều kiện cho các cơ quan dân cử làm tốt chức năng giám sát việc
thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở trong việc đầu tư. Phát hiện, đấu tranh với các hiện
tượng tham nhũng.
Do vậy, để chống thất thoát, lãng phí trong xây dựng cơ bản, tỉnh Phú Thọ trước hết
đã dựa trên những cơ chế chính sách của Nnhà nước, Bộ xây dựng, đã ban hành 19 quyết
định, 6 chỉ thị, 10 thông tư tập trung vào những vấn đề bức xúc, cấp thiết như chống lãng
phí thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản. Bộ Tài chính cũng đã xây dựng
những quy chế, chế tài về tăng cường quản lý tài sản công, nhất là quản lý việc cấp phát,
thanh toán vốn đầu tư, đấu thầu mua sắm tài sản công. Tuy vậy, tỉnh cũng cần phải rà
soát, soạn thảo và bổ sung một số cơ chế, chính sách phù hợp với hoàn cảnh của địa
phương.
Quy định trách nhiệm và xử lý trách nhiệm cá nhân trong từng khâu của quá trình
đầu tư. Những sai phạm trong quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản cần phải được đánh giá
công bằng, khách quan qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát. Đặc biệt là thất thoát do
sai lầm trong quyết định đầu tư. Về công tác quy hoạch, trước hết Chính phủ cần sớm ban
hành các văn bản pháp lý về công tác quy hoạch. Trước hết là Nghị định về công tác quy
hoạch. Đổi mới nội dung và phương pháp lập quy hoạch rà soát quy hoạch, chấn chỉnh công
tác lập phê duyệt quy hoạch ở tất cả các ngành, các cấp, các địa phương.
Quy hoạch ngành chưa được hướng dẫn thống nhất về nội dung, phương pháp, trình
tự và phê duyệt. Đồng thời còn thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan, trong quá
trình lập các quy hoạch nên thường xuyên xảy ra tình trạng chồng chéo, không ăn khớp giữa
quy hoạch ngành và quy hoạch tỉnh; công tác qui hoạch hiện nay theo đánh giá còn rất nhiều
hạn chế (đặc biệt trong khâu dự báo) và là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến
lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản. Phân định nội dung cũng như phạm vi kết hợp giữa
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành và quy
hoạch xây dựng còn nhiều điều chưa rõ, khó vận dụng trong quá trình triển khai. Hoặc nhận
thức về quy hoạch trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế chưa được
làm rõ. Tính liên kết giữa quy hoạch và kế hoạch chưa cao. Kinh phí cho công tác điều tra
cơ bản để nghiên cứu và triển khai quy hoạch còn ít, thiếu [7].
Công tác quy hoạch hiện vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển. Chất lượng các dự án quy hoạch còn hạn chế. Đối với không ít
dự án quy hoạch, tuy hướng dài hạn cho phát triển đã được xác định nhưng các
căn cứ chưa đủ và chưa vững chắc, nhất là các vấn đề về dự báo (đặc biệt là dự
báo của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ,
sự cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp). Nhiều ý kiến cho rằng, yếu kém
nhất của công tác quy hoạch hiện nay là sự yếu kém của công tác quản lý nhà
nước về quy hoạch mà biểu hiện rõ nhất là phân công, phân cấp không rõ ràng,
thiếu một khung pháp lý đầu tư cho việc lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch,
thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về các vấn đề liên quan đến công tác
quy hoạch trong phạm vi cả nước, thiếu kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch
và thực hiện quy hoạch trong các kế hoạch trung và dài hạn [1, tr.67].
Do vậy bên cạnh nâng cao tính dân chủ bàn bạc thống nhất trong công tác lập quy
hoạch quyết định đầu tư xây dựng cơ bản cần phải đề cao tính trách nhiệm cá nhân của
người quyết định đầu tư. Cơ chế trách nhiệm các nhân cần phải đánh giá khách quan, có
thưởng xứng đáng và phạt nghiêm minh bằng các biện pháp khác nhau, từ thấp đến cao.
Nâng cao hiệu quả và hiệu lực của quản lý nhà nước.
Nghị quyết Đại hội X tiếp tục chỉ rõ "Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, quy định về
quản lý kinh tế - tài chính, quản lý tài sản công, ngân sách nhà nước, các quỹ do nhân dân
đóng góp và do nước ngoài viện trợ... Bảo đảm công khai minh bạch các hoạt động kinh tế,
tài chính" [13, tr.22]. Trước đó tại Hội nghị Trung ương 6 lần 2, khoá VIII đã chỉ rõ: “Trong
đầu tư xây dựng cơ bản phải chống lãng phí và triệt để tiết kiệm ngay từ khi phê duyệt chủ
trương đầu tư, hạn chế các tiêu cực trong các khâu thẩm định dự án, đấu thầu, bố trí kế
hoạch vốn và thi công các công trình xây dựng cơ bản”. Tăng cường các biện pháp hành
chính – kinh tế đồng bộ từ khâu lập chủ trương kinh tế kỹ thuật, thiết kế, đến tổ chức thi
công công trình để thực hiện tiết kiệm nghiêm ngặt trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, làm rõ trách nhiệm của các cấp có thẩm quyền chịu
trách nhiệm đối với từng công trình và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với cứ tổ chức, cá
nhân nào có vi phạm.
Để khắc phục những hạn chế trong công tác tư vấn xây dựng và thi công xây lắp cần
phải nâng cao công tác tư vấn xây dựng, chất lượng đấu thầu nâng cao chất lượng thi công
xây lắp công trình, thời hạn bảo hành... Bởi vì
Bảo hành xây lắp công trình là sự yêu cầu bắt buộc theo pháp luật đối với
nhà thầu xây lắp trong một thời gian tối thiểu nhất định (gọi là thời hạn bảo
hành). Về chất lượng của sản phẩm đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Nhà
thầu xây lắp có nghĩa vụ thực hiện sửa chữa các hư hỏng do mình gây ra trong
thời hạn bảo hành [6, tr.3].
Bởi vì chất lượng là nội dung, kết quả của công trình xây dựng cơ bản. "Chất lượng
công trình xây dựng là những yêu cầu tổng hợp đối với đặc tính về an toàn, bền vững, kỹ
thuật, mỹ thuật của công trình phù hợp với quy chuẩn. Xây dựng, tiêu chuẩn kỹ thuật phù
hợp với hợp đồng kinh tế và pháp luật hiện hành của Nhà nước" [6, tr.1].
Tóm lại, để chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản thì trước hết cần
phải quán triệt và thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
quản lý qui hoạch và đầu tư xây dựng cơ bản. Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả của bộ máy
quản lý về đầu tư xây dựng cơ bản, năng lực trách nhiệm của chủ đầu tư, ban quản lý dự án.
Nâng cao chất lượng tất cả các khâu trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản: từ chất lượng
quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, chất lượng tư vấn, chất lượng đấu thầu, quản lý chất lượng thi
công, chất lượng công tác giám sát đầu tư, công tác thanh toán và kiểm tra đầu tư xây dựng
cơ bản.
Tỉnh cần tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính sách và chỉ đạo cụ thể của Đảng,
Chính phủ một cách công khai, nghiêm minh và triệt để đối với công tác quản lý đầu tư xây
dựng (trong đó cụ thể gồm: Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Phòng chống
tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm và chống lãng phí, Nghị định số 16/2005/NĐ-CP
ngày 07/2/2005 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, Nghị định số 209/2004/NĐ-
CP ngày 16/12/2004 về quản lý chất lượng công trình xây dựng, Nghị định số 08/2005/NĐ-
CP về quản lý qui hoạch xây dựng, Chỉ thị số 29/2003/CT-TTg về chấn chỉnh công tác quản
lý đầu tư xây dựng cơ bản). Chấn chỉnh và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, chuẩn
bị đầu tư, thực hiện dự án, bố trí vốn và giải ngân đúng tiến độ, tránh đầu tư dàn trải trong
xây dựng cơ bản, dẫn đến thường xuyên bổ sung, gây thất thoát, lãng phí. Sử dụng các thành
tựu khoa học công nghệ tiên tiến trong quá trình quản lý đầu tư xây dựng.
3.2.4. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý và thực hiện đầu
tư xây dựng cơ bản
"Quản lý chất lượng công trình xây dựng là tập hợp những hoạt động của cơ quan có
chức năng quản lý thông qua các biện pháp tổ chức và tiến độ tổ chức thực hiện quản lý chất
lượng công trình" [6, tr.1]. Do vậy, chất lượng công trình là nội dung cốt lõi của hiệu quả
công trình nói riêng và hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản nói chung. Để quản lý chất
lượng công trình, không ai khác đó chính là bộ máy tổ chức và từng con người cụ thể của bộ
máy đó. Có thể nói, cán bộ quản lý là nhân tố quyết định rất lớn trong công tác đầu tư xây
dựng cơ bản, nếu cán bộ quản lý các cấp:
Không tính hết yếu tố đầu vào, đầu ra, không chuẩn xác về thời điểm, địa
điểm, sản phẩm, công nghệ, thị trường, không dự tính, dự báo được kế hoạch và đặc
biệt là không ý thức được trách nhiệm và làm một người cán bộ công tâm thì khi
quyết định sai lầm sẽ dẫn đến hậu quả thiệt hại rất lớn mà không thể dễ dàng khắc
phục, theo các chuyên gia kinh tế thì thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ
bản ở tại khâu quyết định chủ trương đầu tư chiếm 70% [31, tr.12].
Do vậy, từ khi tách tỉnh 1997 đến nay, ở tỉnh Phú Thọ đã hình thành bộ máy quản lý
nhà nước về đầu tư và xây dựng cơ bản. Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh đã quan tâm chỉ
đạo, củng cố, tăng cường bộ máy quản lý từ cấp tỉnh đến cấp huyện, thành phố, thị xã. Nghị
quyết của Đại hội Đảng bộ lần thứ XVI đã nhận định "tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc sắp
xếp, thành lập mới, kiện toàn bộ máy tổ chức và cán bộ chủ chốt các cơ quan trong tỉnh"...
ban hành nghị quyết và chỉ đạo thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ từ tỉnh
đến cơ sở cả về văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, nhất là người dân tộc thiểu số; có chính sách thu hút cán bộ có trình độ cao về
tỉnh làm việc [14, tr.41, 43].
Trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nói chung và thực hiện phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng, tỉnh Phú Thọ cần phải có một đội ngũ cán bộ quản
lý xây dựng cơ bản "vừa hồng vừa chuyên", do đó trong thời gian tới cần phải:
Tăng cường quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, rèn luyện phẩm chất đạo
đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, mỗi cán bộ đảng viên phải nâng cao ý
thức rèn luyện, phấn đấu thực sự là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống, hết lòng
vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng, thật sự tiên phong đi đầu trong mọi công
việc... [14].
Đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu quả công tác của UBND các cấp, tăng cường kỷ
luật, kỷ cương hành chính, xác định rõ quyền và nghĩa vụ cho từng cơ quan, đơn vị và cá
nhân trong việc thực hiện sự chỉ đạo điều hành. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong
sạch, tận tuỵ và thạo việc. Thực hiện khen thưởng, kỷ luật công khai, minh bạch kịp thời
nghiêm túc.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng cơ bản
thực hiện tốt những nội dung sau:
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về xây dựng cơ
bản. Đây là những cán bộ có bản lĩnh, phẩm chất cách mạng, có chuyên môn cao, thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng quy hoạch cán bộ thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối với các đồng chí là đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh
đạo trong công tác quản lý và đầu tư xây dựng cơ bản cần phải thật sự tiên phong gương
mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành
nhiệm vụ được giao, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận
chính trị, phải biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến của quần chúng, khắc phục những biểu
hiện cá nhân độc đoán, chuyên quyền. Tiến hành xây dựng kế hoạch cụ thể về đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển cho từng chức danh theo quy hoạch. Coi trọng đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ đặc biệt là cán bộ có trình dộ đại học về
công tác quản lý lý nhà nước về xây dựng, các cán bộ chuyên môn về quy hoạch, lập dự
án, thẩm định, kiểm tra, giám sát các công trình xây dựng cơ bản. Như Garry Becker -
nhà khoa học được giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992 đã khẳng định: "không có đầu tư
nào mang lại nguồn lợi như đầu tư và nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục
[30]. Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta cũng đã từng nói "vì lợi ích 10 năm trồng cây,
vì lợi ích trăm năm trồng người". "Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém". Do vậy, chăm lo đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho quản lý và sử dụng có
hiệu quả vốn xây dựng cơ bản là một việc làm rất cần thiết và cấp bách trước xu thế hội
nhập quốc tế và khu vực, Phú Thọ càng phải nỗ lực hơn trong việc đào tạo và sử dụng tốt
cán bộ làm công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Cần nhận diện và chủ động trong
việc tìm kiếm sử dụng người giỏi, có chính sách hợp lý trong việc sử dụng nguồn nhân
lực tốt, áp dụng các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế và khu vực rõ ràng đối với việc sử
dụng nguồn nhân lực, rõ ràng chính sách phát triển và thưởng phạt đối với việc sử dụng
cán bộ.
Khi phân cấp quản lý đầu tư xây dựng cơ bản cần phải xem xét đến năng lực thực tế,
khả năng phát triển nhằm tăng tính chủ động cho các ngành, các huyện, thành phố Việt Trì
và thị xã Phú Thọ, hạn chế tối đa tính áp đặt, thiếu khách quan, khoa học và tính địa phương
cho các cấp đó.
+ Sở Kế hoạch - Đầu tư chủ trì xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho
toàn tỉnh theo từng giai đoạn 2006-2010 và có dự báo đến năm 2010, trong đó có chiến lược
đầu tư xây dựng cơ bản những hạng mục ưu tiên, trọng điểm và trình Hội đồng nhân dân
tỉnh thông qua và Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Sở có nhiệm vụ là chủ đạo hướng dẫn
các chủ đầu tư lập dự án đầu tư. Thẩm định các dự án đầu tư trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê
duyệt hoặc trình thoả thuận với các bộ, ngành theo phân cấp. Sở thẩm định kế hoạch đấu
thầu, hồ sơ mời thầu, kết quả đấu thầu theo phân cấp của Uỷ ban nhân dân.
+ Sở Xây dựng cấp chứng chỉ hành nghề thiết kế, chứng chỉ quy hoạch, cấp giấy
phép xây dựng.
Dưới góc độ phân cấp, Sở ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định
của Nhà nước về đầu tư và xây dựng. Chịu trách nhiệm về quản lý định mức đơn giá
XDCB, quản lý thiết kế, tổng dự toán công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp, cây
xanh, cấp thoát nước, chiếu sáng đô thị. Sở có quyền phê duyệt một số quy hoạch chi tiết
của Uỷ ban nhân dân tỉnh phân cấp, chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, các Sở, Uỷ
ban nhân dân huyện, thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, các ban, ngành để hướng dẫn kiểm
tra việc thực hiện điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng của Luật Xây dựng và các Nghị định
của Chính phủ về đầu tư, đấu thầu, quản lý xây dựng.
+ Sở Tài chính - Vật giá: cùng với Sở Kế hoạch đầu tư cân đối phân bổ vốn đầu tư
trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Thẩm định giá vật tư, thiết bị, hồ sơ mời thầu, kết quả
đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị. Thẩm tra quyết toán vốn xây dựng cơ bản trình Uỷ ban
nhân dân tỉnh phê duyệt hướng dẫn, tổ chức thực hiện các chính sách quản lý đầu tư xây
dựng cơ bản có liên quan đến chuyên ngành.
+ Các sở, ban, ngành khác chịu trách nhiệm về quản lý nhà nước xây dựng thiết kế,
tổng dự toán và chất lượng công trình theo chuyên ngành mà mình quản lý. Sở Nông nghiệp
và phát triển nông thôn đối với các vùng nông nghiệp, thủy lợi, Sở Giao thông vận tải: các
công trình giao thông vận tải; Sở Giáo dục - Đào tạo: các cơ sở trường học; Sở Công nghiệp
đối với công trình dẫn tải điện và trạm biến thế.
+ Uỷ ban nhân dân thành phố Việt Trì và thị xã Phú Thọ, các huyện có trách nhiệm
quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn được Uỷ ban nhân dân tỉnh uỷ
quyền quyết định đầu tư, phê duyệt theo thiết kế, tổng dự toán, phê duyệt quyết toán và cấp
giấy phép xây dựng theo phân cấp.
Song song với việc rà soát lại một cách cơ bản đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng
cơ bản, trên cơ sở đó, định hướng sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ cho thích hợp, có chế độ
khuyến khích tìm kiếm, tuyển chọn các cán bộ làm công tác đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh,
bồi dưỡng, giúp đỡ để họ hoàn thành tốt công việc. Đồng thời, có chính sách thu hút những
chuyên gia giỏi, cán bộ từ Trung ương và các tỉnh bạn về công tác tại quê hương.
Lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản thường hay gắn với một số hiện tượng không tốt
như thất thoát, lãng phí, tham nhũng. Do vậy, cần phải nâng cao công tác giáo dục tư tưởng,
đặc biệt là cán bộ chủ chốt, đi đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, nâng cao tính gắn bó
mật thiết với nhân dân, thực hiện cần kiệm liêm chiníh, chí công vô tư trong xây dựng cơ
bản. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời, công khai người tham nhũng trong đầu tư, bất
kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu; tịch thu, sung công quĩ các tài sản có nguồn
gốc tham nhũng từ khâu duyệt dự án, đấu thầu, thi công các công trình xây dựng cơ bản.
Đồng thời xử lý nghiêm những người bao che đối với các hiện tượng tiêu cực trong xây
dựng cơ bản. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng,
thực hành tiết kiệm, chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản. Nâng cao tính
sáng tạo, chủ động, tự quyết của cán bộ trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Khơi dậy truyền
thống của quê hương là đất Tổ, mẹ Âu Cơ, Vua Hùng để những người con của Phú Thọ gắn
bó với quê hương, hết lòng phục vụ tỉnh để phát triển kinh tế bằng năng lực, khả năng và
lòng yêu quê hương của mình.
3.2.5. Đảm bảo hợp lý hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội
Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản cần phải tính đến hiệu quả. Đây là tiêu chí hết sức
cơ bản, đặc biệt đối với nước ta nói chung và của tỉnh Phú Thọ nói riêng. Như đã phân tích
ở trên. Đối với nhà nước, đầu tư xây dựng cơ bản phải vừa mang tính hiệu quả kinh tế - xã
hội, chính trị, an ninh quốc phòng. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh cụ thể thì phải tính
đến hiệu quả kinh tế, mà cụ thể là lợi nhuận họ thu được bao nhiêu. Vì vậy, đạt được hiệu
quả thì các chủ thể đều có các phương tiện, công cụ và mục đích khác nhau. Tuy vậy, các
hiệu quả kinh tế, xã hội, chính trị, môi trường văn hoá đều có quan hệ mật thiết với nhau.
Tuy rằng từng hiệu quả có nét riêng, đặc thù của mình. Nếu chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà
không quan tâm đến môi trường, đến các yếu tố xã hội thì sẽ không phát triển bền vững,
ngược lại nếu chỉ chăm lo đến hiệu quả xã hội mà không tính đến hiệu quả kinh tế, đặc biệt
là lợi nhuận của doanh nghiệp, thu nhập của người lao động thì sẽ không tạo ra động lực.
Do vậy, xét ở góc độ nào đó, đầu tư xây dựng cơ bản vẫn mang tính hiệu quả kinh tế - xã
hội tổng hợp, đặc biệt trong đầu tư xây dựng cơ bản các công trình kết cấu hạ tầng, phát
triển kinh tế - xã hội vùng khó khăn, văn hoá - xã hội... Nên trong từng dự án, chương trình
phải tính toán cụ thể, hợp lý, đúng đắn, thậm chí chi tiết hiệu quả kinh tế bao nhiêu, xã hội
là bao nhiêu trong tổng thể hiệu quả kinh tế - xã hội. Tất nhiên tính toán chi ly, chi tiết là rất
khó, nhưng không thể không làm được. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên chúng tôi đề xuất
giải pháp này để khi quy hoạch, lập dự án cụ thể phải tính toán đến hiệu quả kinh tế - xã hội,
môi trường của ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân. Thực tế nhiều dự án, nhiều
công trình từ vốn xây dựng cơ bản không tính toán đầy đủ hết lợi ích, hiệu quả mà dẫn đến
chi phí lớn, hiệu quả lại không cao.
Đối với những dự án chương trình phát triển thì phần tính toán các chỉ tiêu hiệu quả
kinh tế - xã hội như:
- Vốn xây dựng cơ bản đối với tăng trưởng kinh tế là bao nhiêu?
- Hệ số ICOR với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Tỷ lệ đầu tư so trong GDP; vốn xây dựng cơ bản so với tổng vốn đầu tư.
- Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước so với tổng vốn đầu tư, vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước cho các vùng, các địa phương...
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp trong
đầu tư xây dựng cơ bản, đặc biệt là các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế. Với một số chỉ tiêu kinh tế
cơ bản sau: tỷ suất lợi nhuận trên vốn, tỷ suất hàng hóa xuất khẩu, khả năng cạnh tranh...
Phân biệt rõ các chỉ tiêu kinh tế và chỉ tiêu pháp lệnh các nhiệm vụ công ích (đối với doanh
nghiệp nhà nước).
Kết luận chương 3
Trên cơ sở những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Nghị
quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, mục
tiêu về phát triển kinh tế – xã hội mà Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ phải phấn đấu đạt
được, nội dung của chương III đã đề xuất 5 giải pháp chủ yếu nhằm huy động và sử dụng có
hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Để các biện pháp cơ bản nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản
được thực thi, cần có sự hỗ trợ và giúp đỡ của Nhà nước bằng pháp luật, chủ trương, chính
sách, đặc biệt là đối với Phú Thọ, một tỉnh nghèo, ngoài sự vươn lên, nỗ lực, tự lực, thì còn
cần có sự giúp đỡ của Trung ương và các tỉnh bạn.
kết luận
Hiệu quả kinh tế - xã hội và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nói
chung và vốn xây dựng cơ bản nói riêng luôn là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. ở nước ta
việc nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản luôn là vấn đề cấp thiết và quan trọng, vì
vốn luôn luôn khan hiếm và nếu sử dụng không có hiệu quả thì không thể có tăng trưởng và
phát triển kinh tế được, lại càng không đảm bảo được định hướng XHCN. Đối với một địa
phương như tỉnh Phú Thọ, lại càng có ý nghĩa cấp bách và cần thiết hơn lúc nào hết. Với
mong muốn đó, luận văn với nội dung “nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ
bản tại tỉnh Phú Thọ” đã cố gắng tập trung trình bày vàoc một số nội dung cơ bản sau:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về vốn, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, trình bày ba mô hình và các phương pháp, chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
- Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại
tỉnh Phú Thọ, gồm: Hiệu quả tổng hợp, hiệu quả kinh tế, đánh giá hiệu quả qua một số chỉ
tiêu định tính, định lượng, có minh chứng tình hình và các số hiệu qua các thời kỳ, dựa trên
những lợi thế, điều kiện và khả năng thu hút đầu tư qua tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương.
- Quán triệt và vận dụng các quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội, đặc biệt là
nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X; luật pháp; các nghị quyết của Chính phủ;
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVI về việc huy động và sử dụng có hiệu
quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
- Luận văn đã đề xuất 5 giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ đến năm 2010. Các giải pháp đó là:
+ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý về lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Đẩy nhanh việc huy động vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Tăng cường biện pháp chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Nâng cao năng lực đội ngũ làm công tác quản lý và thực hiện đầu tư xây dựng cơ
bản.
+ Đảm bảo hợp lý hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Những kết quả trên đây, hy vọng sẽ góp phần nhỏ trong việc hệ thống và làm rõ
thêm một số vấn đề nhỏ về lý luận về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản và một
số cách tiếp cận trong đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả. Tuy nhiên, kết quả này mới là bước
đầu cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn.
danh mục tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Bá Ân và Lê Thị Kim Dung (2005), "Những vấn đề đặt ra trong việc nâng cao
chất lượng và hiệu quả qui hoạch phát triển kinh tế xã hội hiện nay", Tạp chí kinh
tế và dự báo, (12).
2. Báo Lao động, thứ 4 (7-6-2006).
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Báo cáo thực hiện kế hoạch công tác quy hoạch năm
2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Báo cáo thực hiện nghị quyết của Quốc hội về công tác
đầu tư xây dựng năm 2005 và 5 năm (2001-2005), định hướng giai đoạn 2006-
2010 và kế hoạch xây dựng cơ bản 2006.
5. Bộ Kế hoạch đầu tư (2005), Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-
2010.
6. Bộ Xây dựng (2000), Quy định quản lý chất lượng công trình xây dựng số17/2000/QĐ-
BXD ngày 2/8/2000.
7. Nguyễn Văn Chọn (1995), Kinh tế đầu tư xây dựng, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
8. Trần Văn Chử (2005), Kinh tế học phát triển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
9. Trịnh Đình Dũng (2000), Những giải pháp chủ yếu khắc phục thất thoát trong đầu tư
xây dựng cơ bản, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh.
10. Đại từ điển kinh tế thị trường (1998), Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa,
Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng lần thứ IX, Nxb
CTQG, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ IX (khóa IX),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ X.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ
XVI.
15. Nguyễn Đẩu (1999), Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố Đà
Nẵng, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
16. Võ Văn Đức (2005), Mô hình tăng trưởng kinh tế của R. Sô low và khả năng áp dụng
vào đánh giá tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
17. Trần Đình Khiển (2005), "Một số vấn đề về đổi mới quản lý đầu tư xây dựng và đấu thầu ở
nước ta hiện nay", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (12).
18. Trần Hồ Lan (2003), Những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của các doanh nghiệp ngành nhựa Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
19. Dương Văn Long (2005), Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của Công ty 189, Luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh, Trường Đại học
Bách khoa, Hà Nội.
20. Trần Văn Hùng (2006), "Nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước", Tạp chí Tài chính, (4).
21. E.W Naapziger (1998), Kinh tế học của các nước đang phát triển, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
22. Ngân hàng thế giới (2002), Phân tích các hoạt động đầu tư. Phân tích và ứng dụng thực
tế, Nxb Thông tin, Hà Nội.
23. Niên giám thống kê (2004), Nxb Thống kê, Hà Nội.
24. Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ (2006).
25. Nguyễn Văn Quý (1998), Mô hình kinh tế (Economic Models), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Đặng Ngọc Quỳnh (2001), Một số vấn đề về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản hiện
nay ở tỉnh Hưng Yên, Luận văn cử nhân chính trị. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
27. Vũ Bá Thể, Vốn trong quá trình tăng trưởng kinh tế cao ở Nhật Bản.
28. Đỗ Hoàng Toàn (chủ biên), (1998), Giáo trình các phương pháp lượng trong quản lý dự án
nhà nước, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
29. Nguyễn Văn Thường (chủ biên) 2005, Tăng trưởng kinh tế Việt Nam, những rào cản
cần phải vượt qua, Nxb Lý luận Chính trị.
30. Trần Văn Tùng (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn
nước ta, Nxb Chính trị quốc gia.
31. Lê Hùng Sơn (2006), "Biện pháp góp phần chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây
dựng", Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (3).
32. Nguyễn Bá Thân (2006), "Tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn
đầu tư của Nhà nước", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (5).
33. Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam,
Hà Nội.
34. Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội (1995), Kinh tế xây dựng, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
35. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2005), Báo cáo công tác đấu thầu, công tác giám sát
đánh giá tổng thể đầu tư năm 2005 của tỉnh Phú Thọ.
36. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2005), Báo cáo hiện trạng, mục tiêu và giải pháp phát
triển trên kinh tế - xã hội các vùng khó khăn đến năm 2010 của tỉnh Phú Thọ.
37. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2005), Báo cáo công tác giám sát đánh giá đầu tư và tình hình
thực hiện các dự án đầu tư 6 tháng đầu năm 2005.
38. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006
- 2010 của tỉnh Phú Thọ.
39. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2006), Qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú
Thọ thời kì 2005-2010.
40. Viện Thông tin khoa học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Thông tin
tư liệu chuyên đề Tham nhũng và chống tham nhũng một số nước trên thế giới, số
1-2006 (lưu hành nội bộ).

More Related Content

DOC
Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản, HAY!
PDF
Luận văn: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn ngân sách nhà nước trong đầ...
PDF
Luận văn: Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước
DOC
Luận văn: Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước
PDF
Luận văn: Quản lý đầu tư công trên địa bàn tỉnh Kon Tum, HAY
DOC
BÀI MẪU Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản
PDF
Luận văn: Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ vốn nhà nước
DOCX
Quản lý nhà nước về đầu tư công tại tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Hoàn thiện công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản, HAY!
Luận văn: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn ngân sách nhà nước trong đầ...
Luận văn: Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước
Luận văn: Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước
Luận văn: Quản lý đầu tư công trên địa bàn tỉnh Kon Tum, HAY
BÀI MẪU Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản
Luận văn: Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ vốn nhà nước
Quản lý nhà nước về đầu tư công tại tỉnh Đồng Nai

What's hot (20)

PDF
Giải pháp nhằm tăng cường quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản
PDF
Luận văn: Quản lý dự án đầu tư xây dựng tại công ty xây dựng
PDF
Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công TP Hà Nội, HAY
PDF
Quản lý vốn đầu tư xây dựng từ nguồn ngân sách tại huyện Đông Giang
DOC
Luận văn: Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở tỉnh Quảng Ngãi
PDF
Đề tài: Quản lí nhà nước về đầu tư công của UBND TP.HCM, HOT
PDF
Luận văn: Quản lý chi đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước, HOT
DOC
Đề tài: Hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Vietinbank - Gửi miễn ...
DOC
Luận văn : Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng
DOC
Luận văn: Thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, đề tài luận văn HAY
DOC
Luận văn: Hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN
PDF
Luận văn: Thu hút đầu tư nước ngoài vào tỉnh Quảng Nam, 9đ
PDF
Luận văn: Thẩm định dự án đầu tư tại Công ty xây dựng, HOT
PDF
Đề tài: Chi đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn nhà nước tại Long An
PDF
Đề tài thẩm định dự án đầu tư trong ngân hàng, ĐIỂM CAO
DOC
Luận văn:Giải pháp thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp tỉnh Quảng Trị
PDF
Thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vào Khu Công nghệ cao Đà Nẵng
PPT
Luận văn kế toán: PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN KIM KHÍ MI...
PDF
Đề tài: Đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn nhà nước tại Quảng Bình
DOC
Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng ...
Giải pháp nhằm tăng cường quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Luận văn: Quản lý dự án đầu tư xây dựng tại công ty xây dựng
Luận văn: Quản lý nhà nước về đầu tư công TP Hà Nội, HAY
Quản lý vốn đầu tư xây dựng từ nguồn ngân sách tại huyện Đông Giang
Luận văn: Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Quản lí nhà nước về đầu tư công của UBND TP.HCM, HOT
Luận văn: Quản lý chi đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước, HOT
Đề tài: Hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Vietinbank - Gửi miễn ...
Luận văn : Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng
Luận văn: Thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, đề tài luận văn HAY
Luận văn: Hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN
Luận văn: Thu hút đầu tư nước ngoài vào tỉnh Quảng Nam, 9đ
Luận văn: Thẩm định dự án đầu tư tại Công ty xây dựng, HOT
Đề tài: Chi đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn nhà nước tại Long An
Đề tài thẩm định dự án đầu tư trong ngân hàng, ĐIỂM CAO
Luận văn:Giải pháp thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp tỉnh Quảng Trị
Thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vào Khu Công nghệ cao Đà Nẵng
Luận văn kế toán: PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN KIM KHÍ MI...
Đề tài: Đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn nhà nước tại Quảng Bình
Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng ...
Ad

Similar to Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản (20)

DOCX
Cơ sở khoa học về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước.docx
PDF
Đề tài: Đầu tư xây dựng các công trình tại Hà Tĩnh bằng vốn Ngân sách
DOC
Hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây ...
DOC
Luận Văn Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế Nhơn ...
PDF
Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn của Quỹ đầu tư phát triển thành ph...
DOC
Luận Văn Quản lý đầu tư công trên địa bàn Tỉnh Bình Định..doc
PDF
Giao trinh qtda
PDF
Luận văn: Xây dựng cơ sở hạ tầng từ vốn ngân sách tỉnh Phú Yên
DOC
Đề tài: Công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng công thương
DOC
Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách Nhà nước tại Ban Quản lý Khu ...
DOC
Giải pháp phát triển hoạt động của quỹ đầu tư phát triển Thành Ph...
PDF
Qtdadt
PDF
Giáo trình quản trị dự án đầu tư
PDF
Luận án: Huy động vốn đầu tư phát triển tại Thủ đô Viêng Chăn
PDF
Luận văn: Chi vốn đầu tư cho dự án xây dựng vốn Nhà nước, HAY
DOC
Quản Lý Chi Ngân Sách Địa Phương Cho Xây Dựng Kết Cấu Hạ Tầng Tỉnh Bình Định.doc
DOC
lHoàn thiện quản lý vốn đầu tư Xây dựng cơ bản của Bảo hiểm xã hộiViệt Nam
DOC
Hoạt động kế toán đầu tư xây dựng cơ bản tại Hải Dương – thực trạng và giải pháp
DOCX
Khoá Luận Tốt Nghiệp Quản Lý Nhà Nước Về Đầu Tư Xây Dựng Cơ Bản Bằng Ngân Sác...
DOC
DA133.doc
Cơ sở khoa học về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước.docx
Đề tài: Đầu tư xây dựng các công trình tại Hà Tĩnh bằng vốn Ngân sách
Hoàn thiện cơ chế quản lý chi vốn đầu tư phát triển cho các dự án đầu tư xây ...
Luận Văn Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế Nhơn ...
Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn của Quỹ đầu tư phát triển thành ph...
Luận Văn Quản lý đầu tư công trên địa bàn Tỉnh Bình Định..doc
Giao trinh qtda
Luận văn: Xây dựng cơ sở hạ tầng từ vốn ngân sách tỉnh Phú Yên
Đề tài: Công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng công thương
Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách Nhà nước tại Ban Quản lý Khu ...
Giải pháp phát triển hoạt động của quỹ đầu tư phát triển Thành Ph...
Qtdadt
Giáo trình quản trị dự án đầu tư
Luận án: Huy động vốn đầu tư phát triển tại Thủ đô Viêng Chăn
Luận văn: Chi vốn đầu tư cho dự án xây dựng vốn Nhà nước, HAY
Quản Lý Chi Ngân Sách Địa Phương Cho Xây Dựng Kết Cấu Hạ Tầng Tỉnh Bình Định.doc
lHoàn thiện quản lý vốn đầu tư Xây dựng cơ bản của Bảo hiểm xã hộiViệt Nam
Hoạt động kế toán đầu tư xây dựng cơ bản tại Hải Dương – thực trạng và giải pháp
Khoá Luận Tốt Nghiệp Quản Lý Nhà Nước Về Đầu Tư Xây Dựng Cơ Bản Bằng Ngân Sác...
DA133.doc
Ad

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi

Recently uploaded (20)

DOCX
2021_CTDT_CNTT_150TC HCMUTE ngành Công Nghệ Thông Tin
PDF
SÁNG KIẾN THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VẬT SỐNG MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN 7 ...
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
PDF
CĐHA GAN 1, Benh GAN KHU TRU, 04.2025.pdf
PDF
Mua Hàng Cần Trở Thành Quản Lý Chuỗi Cung Ứng.pdf
PPT
Slide Nguyên lý bảo hiểm đại học knh tế quốc dân
PDF
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD LỚP 10 BÁM SÁT NỘI DUNG SGK - PH...
PDF
Cơ bản về matlab simulink cho người mới bắt đầu
PDF
Sách không hôi fyjj ịuk gtyi yu> ướt jiii iiij
PDF
1001 câu đàm thoại thông dụng nhất.pdf
PDF
GIÁO TRÌNH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ TH...
PPTX
Ứng dụng AI trong hệ thống cơ điện của nhóm 3.pptx
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 10 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
PPTX
[123doc] - bai-giang-hoc-phan-hanh-vi-nguoi-tieu-dung-trong-du-lich-consumer-...
PPTX
Từ và câu NHÓM 4 - LỚP 5 CTST tiểu học.pptx
DOCX
ĐỀ BÀI ĐÁNH GIÁ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG VÀ KỸ NĂNG SỐNG
PDF
f37ac936-c8c6-4642-9bc9-a9383dc18c15.pdf
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 BÓNG ĐÁ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
PPTX
KINH TẾ CHÍNH TRỊ - HÀNG HÓA THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ...
PPTX
Bai giang cho can bo chu chot cac xa_phuong_2025.pptx
2021_CTDT_CNTT_150TC HCMUTE ngành Công Nghệ Thông Tin
SÁNG KIẾN THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VẬT SỐNG MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN 7 ...
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
CĐHA GAN 1, Benh GAN KHU TRU, 04.2025.pdf
Mua Hàng Cần Trở Thành Quản Lý Chuỗi Cung Ứng.pdf
Slide Nguyên lý bảo hiểm đại học knh tế quốc dân
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD LỚP 10 BÁM SÁT NỘI DUNG SGK - PH...
Cơ bản về matlab simulink cho người mới bắt đầu
Sách không hôi fyjj ịuk gtyi yu> ướt jiii iiij
1001 câu đàm thoại thông dụng nhất.pdf
GIÁO TRÌNH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ TH...
Ứng dụng AI trong hệ thống cơ điện của nhóm 3.pptx
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 10 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
[123doc] - bai-giang-hoc-phan-hanh-vi-nguoi-tieu-dung-trong-du-lich-consumer-...
Từ và câu NHÓM 4 - LỚP 5 CTST tiểu học.pptx
ĐỀ BÀI ĐÁNH GIÁ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG VÀ KỸ NĂNG SỐNG
f37ac936-c8c6-4642-9bc9-a9383dc18c15.pdf
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 BÓNG ĐÁ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
KINH TẾ CHÍNH TRỊ - HÀNG HÓA THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ...
Bai giang cho can bo chu chot cac xa_phuong_2025.pptx

Luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản

  • 1. LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ
  • 2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Huy động, sử dụng vốn đầu tư nói chung và xây dựng cơ bản nói riêng nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế luôn là một vấn đề quan trọng và cần được giải quyết chặt chẽ mới mang lại hiệu quả cao nhất. Bất cứ một ngành, một lĩnh vực nào để đi vào hoạt động đều phải thực hiện đầu tư cơ sở vật chất, tài sản cố định, vì vậy đầu tư xây dựng cơ bản luôn là vấn đề đặc biệt được quan tâm. Trong những năm qua, đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần không nhỏ đối với tăng trưởng và phát triển nền kinh tế của nước ta. Rất nhiều công trình về các lĩnh vực như: năng lượng, công nghiệp khai thác, chế biến, cơ sở hạ tầng, nông, lâm nghiệp được đầu tư xây dựng làm tiền đề cho việc chấn hưng và phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, đặc biệt là hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản còn thấp; thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản còn nhiều và diễn ra ở tất cả các khâu như: Chủ trương đầu tư; lập dự án, thiết kế; thi công xây dựng; quản lý khai thác... Đây là một trong những vấn đề bức xúc của toàn xã hội, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của bộ máy chính trị và toàn thể nhân dân cần phải đồng bộ thực hiện. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 (khoá IX) đã nhận định: Chất lượng của các chiến lược và quy hoạch xây dựng còn thấp, lại chậm được bổ sung, điều chỉnh kịp thời. Còn thiếu sự phối hợp đồng bộ, hài hoà giữa chiến lược, quy hoạch phát triển ngành với quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng và địa phương. Còn để kéo dài tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, chưa tính toán kỹ hiệu quả, nhất là trong đầu tư bằng vốn ngân sách và tín dụng ưu đãi của Nhà nước... [12, tr.34]. Nghị quyết phiên họp thường kỳ tháng 12 năm 2005 của Chính phủ cũng đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của năm 2006 là chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, đặc
  • 3. biệt là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản... Đại hội Đại biểu Đảng lần thứ X đã tiếp tục khẳng định: "Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước còn dàn trải, bị thất thoát nhiều. Một số công trình lớn, quan trọng của quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Lãng phí trong chi tiêu ngân sách Nhà nước và tiêu dùng xã hội còn nghiêm trọng" [13, tr.62]. Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, quá trình thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Phú Thọ đã có những kết quả thành công nhất định, nhờ đó mà tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đã đạt được khá cao so với mức bình quân chung của cả nước trong nhiều năm. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,5%, dự kiến năm 2006 đạt 11,5%. Tuy vậy, hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản chưa đạt được mục tiêu đề ra; tồn tại, hạn chế còn xảy ra ở tất cả các khâu. Thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản chưa được khắc phục triệt để. Là cán bộ đang công tác tại tỉnh Phú Thọ, với những kiến thức đã được học và kinh nghiệm qua công tác thực tế, tôi lựa chọn đề tài: " Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ " làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế phát triển. 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay đã có nhiều tác giả và nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản cũng như những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn nói chung và vốn đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng, đề xuất các giải pháp chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản, trong đó có một số công trình khoa học tiêu biểu như: - Nguyễn Văn Lai, "Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam", Luận án PTS Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996. - Trần Hồ Lan, "Những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp ngành nhựa Việt Nam", Trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2003. - Nguyễn Đẩu, "Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp", Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, 1999, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
  • 4. - Thế Đạt - Minh Anh, Đầu tư và hiệu quả, Nxb Lao động, 1993. - Nguyễn Ngọc Mai, "Phân tích và quản lý các dự án đầu tư", Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 1995. - Nguyễn Hồng Minh, "Phân tích hiệu quả đầu tư", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1993. - Trương Quốc Cường, Một số vấn đề về xác định hiệu quả kinh tế của đầu tư, Tạp chí Ngân hàng, số 22 tháng 11/1998. - GS.TS Trần Văn Chử, "Thất thoát trong đầu tư phát triển: nguyên nhân và giải pháp khắc phục", Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2005. - Phan Tất Thứ, "Hoàn thiện phương pháp đánh giá hiệu quả dự án đầu tư công cộng tại Việt Nam", Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, năm 2005. - Trịnh Đình Dũng, "Những giải pháp chủ yếu khắc phục thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản", Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000. - Lưu Sỹ Quý, "Một số nguyên nhân nợ vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước", Tạp chí Tài chính, số 4/năm 2006. - TS. Trần Đình Khải, "Một số vấn đề về đổi mới quản lý đầu tư xây dựng và đấu thầu ở nước ta hiện nay", Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 12/năm 2005. - TS. Lê Hùng Sơn, "Biện pháp góp phần chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng", Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, số 3/năm 2006. Nhìn chung các công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến tình hình quản lý, phát huy việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tại tỉnh Phú Thọ, cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích:
  • 5. Luận văn khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay. * Nhiệm vụ: - Khái quát cơ sở lý luận và quy định quản lý hiện hành về vốn đầu tư xây dựng cơ bản. - Phân tích, đánh giá thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ đến năm 2010. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Các vấn đề liên quan đến việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Phú Thọ. * Phạm vi nghiên cứu: Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ từ năm 1997 cho đến nay (từ khi chia tách tỉnh Vĩnh Phú cũ). Vốn đầu tư xây dựng cơ bản được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tuy nhiên trong nội dung luận văn này chủ yếu tập trung nghiên cứu hiệu quả của đầu tư từ nguồn vốn NSNN. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phát triển kinh tế. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu gồm: Điều tra khảo sát, so sánh phân tích, tổng hợp; kế thừa các công trình khoa học đã có về lý thuyết về kinh tế và thực tiễn; lượng hoá một số chỉ tiêu đánh giá. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
  • 6. - Hệ thống hoá các lý thuyết về đầu tư nói chung, đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng và vai trò của nó đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Trình bày và phân tích một số chỉ tiêu đánh giá cụ thể về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ trên cơ sở điều kiện đặc thù riêng của địa phương. 7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức và các cá nhân trong quá trình thu hút các nguồn vốn và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  • 7. Chương 1 Cơ sở lý luận về hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.1. Khái niệm và vai trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.1.1. Khái niệm về vốn đầu tư xây dựng cơ bản Đầu tư theo nghĩa rộng là quá trình bỏ vốn bao gồm cả tiền, tài sản, để đạt được mục tiêu nhất định nào đó, trong đó có mục tiêu kinh tế. Trong hoạt động kinh tế, đầu tư có thể biểu hiện cụ thể hơn và mang bản chất kinh tế, đó là hoạt động đầu tư nhằm mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là một tiêu chuẩn cơ bản và chủ yếu của hoạt động đầu tư. ở đây hoàn toàn không có khái niệm đầu tư không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Vốn đầu tư phát triển là những chi phí bỏ ra làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân cư và là mặt bằng dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái trong một thời gian nhất định. Trong các khoản mục vốn đầu tư phát triển thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn nhất. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là những chi phí bằng tiền dùng cho việc xây dựng mới, mở rộng, xây lại và khôi phục tài sản cố định trong nền kinh tế. Dựa trên quan điểm của quá trình tái sản xuất mở rộng, khái niệm đầu tư có thể hiểu là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra năng lực sản xuất và các yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh. Đầu tư là hoạt động mang tính thường xuyên, của tất cả các quốc gia và là nền tảng của sự phát triển. Hoạt động đầu tư phải nhằm tạo ra năng lực sản xuất cao hơn, có thể được thực hiện thông qua nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó đặc biệt phải lưu ý là nguồn vốn tích luỹ trong nước của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, nhiều quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển đang đứng trước những thiếu hụt về vốn cho đầu tư phát triển, do chưa có tích luỹ hoặc mức độ tích luỹ thấp. Nước ta đang ở thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, nhu cầu vốn rất lớn, nhất là
  • 8. vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nhưng vốn trong nước còn hạn hẹp nên phải huy động và đa dạng hóa các nguồn vốn, đặt biệt là bổ sung nguồn vốn từ bên ngoài cho nhu cầu đầu tư phát triển. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về đầu tư xây dựng cơ bản. Theo Trường Đại học Kiến trúc: "Đầu tư cơ bản là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định đưa vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm thu được lợi ích dưới hình thức khác nhau. Hoạt động đầu tư cơ bản thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng mới các tài sản cố định được gọi là đầu tư xây dựng cơ bản" [34, tr.10]. Đầu tư cơ bản là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định đưa vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế xã hội nhằm thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau. Hoạt động đầu tư xây dựng thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng các tài sản cố định được gọi là đầu tư xây dựng cơ bản. Xây dựng cơ bản chỉ là một khâu trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, là các hoạt động cụ thể để tạo ra tài sản cố định như: Khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt... [9, tr.4]. Đầu tư xây dựng cơ bản là hình thức đầu tư chủ yếu và phổ biến nhất. Người có vốn đầu tư xây dựng cơ bản gắn liền với hoạt động kinh tế của quá trình đầu tư nhằm góp phần và nâng cao năng lực sản xuất hiện có, tạo ra năng lực sản xuất mới cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm sinh lợi. Đầu tư xây dựng cơ bản, đó là việc bỏ vốn vào việc xây dựng, mua sắm tài sản cố định trong lĩnh vực sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, máy móc) và trong lĩnh ực không sản xuất vật chất (nhà ở, bệnh viện, trường học...) và trong lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng (cầu đường, bến cảng, sân bay). Đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm cả việc xây dựng các xí nghiệp, công trình sẵn có (không kể các chi phí sửa chữa, kể cả sửa chữa lớn tài sản cố định). Đầu tư xây dựng cơ bản là yếu tố quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất mở rộng, phát triển khoa học - kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống, vật chất tinh thần và văn hoá của nhân dân. Đầu tư vào các hoạt động kinh tế luôn phải tuân thủ tính hiệu quả theo những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Chính vì vậy, các hoạt động đầu tư trong lĩnh vực này phải
  • 9. vạch ra được các mục tiêu cụ thể trong khoảng thời gian, không gian trên cơ sở phân tích, tính toán một cách khoa học, chặt chẽ nhằm đảm bảo hoạt động đầu tư mang lại hiệu quả ngày càng cao. Bởi vì đầu tư xây dựng cơ bản là một quá trình lâu dài, đòi hỏi nhiều vốn, thời gian và phụ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan và chủ quan khác nhau, do vậy việc tuân thủ theo đúng qui trình, trình tự là yếu tố bắt buộc. Thông thường trình tự đầu tư bao gồm ba giai đoạn cơ bản: Chuẩn bị đầu tư; thực hiện đầu tư, kết thúc xây dựng, nghiệm thu công trình và đưa vào sử dụng, khai thác. Vì vậy, việc thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản đầy đủ và nghiêm túc các trình tự xây dựng cơ bản có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản của việc thực hiện đầu tư. 1.1.2. Vai trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với phát triển kinh tế - xã hội Đầu tư xây dựng cơ bản có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế của tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nước ta đang trong thời kỳ CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, công tác đầu tư xây dựng cơ bản có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đã đề ra, nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các tài nguyên khoáng sản, lao động, đất đai, vốn và các nguồn lực khác trong xã hội, đồng thời phải bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái để tăng cường cơ sở vật chất cho sự phát triển bền vững. Hoạt động đầu tư đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp từng thời kỳ phát triển, bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế chung, tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân và phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư xây dựng cơ bản là một trong những nhân tố cơ bản tạo nên lực lượng sản xuất ngày càng có trình độ cao hơn. Tất cả các ngành kinh tế chỉ có thể tăng trưởng nhanh, nếu có đầu tư xây dựng cơ bản, đổi mới kỹ thuật và công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhờ có đầu tư xây dựng cơ bản mà ngày càng có nhiều các công trình văn hoá, giáo dục, y tế, nhà ở để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chỉ tính trong 5 năm (từ 2001 - 2005), tổng số vốn đầu tư được huy động và đưa vào nền kinh tế, tính theo giá năm 2000, đạt khoảng 976 nghìn tỷ đồng, gấp 1,76 lần so với năm
  • 10. năm 1996-2000. Vốn đầu tư nhà nước chiếm 54,1% trong tổng cơ cấu vốn đầu tư, vốn đầu tư của khu vực tư nhân chiếm 26,6%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 16,6% và vốn khác là 2,7% [5, tr.35]. Nhờ có các nguồn vốn đó (đặc biệt là nguồn vốn trong nước), mà quy mô đầu tư cho các ngành, lĩnh vực, các vùng, đặc biệt các vùng khó khăn đều được tăng. Nhiều công trình kết cấu hạ tầng đã được hoàn thành và đang triển khai như: nâng cấp đường quốc lộ 1, quốc lộ 2, quốc lộ18, quốc lộ 10, cầu Phả Lại, cầu Mỹ Thuận, hoàn thành việc nâng cấp và đưa vào sử dụng nhà ga T1 sân bay quốc tế Nội Bài, xây dựng nhà ga hành khách quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, mở rộng và xây dựng mới các cảng biển Hải Phòng, Cái Lân, Dung Quất... đang xây dựng các cầu lớn Thanh Trì, Cần Thơ, cầu Rạch Miễu. Năng lực sản xuất các ngành kinh tế được tăng lên đáng kể, công suất điện tăng 4.863 MW, sản lượng khai thác than sạch tăng 15,4 triệu tấn, trong lĩnh vực thủy lợi năng lực tưới tăng thêm 975 nghìn ha, đường giao thông nông thôn tăng 650.004 km. Nhờ có đầu tư mà tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 1990-2005 tăng hơn 3 lần. Tốc độ tăng GDP bình quân 7,5%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 24% năm 2004 (theo tiêu chí của Liên hiệp quốc) [5, tr.32, 35, 37]. Những con số đó để thấy vai trò của đầu tư to lớn như thế nào đối với việc phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời gian qua. Vai trò của đầu tư thông qua chính sách đầu tư đúng đắn có ý nghĩa quan trọng, không ngừng góp phần mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội có hiệu quả mà còn khuyến khích đầu tư phát triển từ các thành phần kinh tế, từ đó làm cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả cao hơn. Với một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, vai trò của đầu tư càng có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường nhờ đó làm cho đầu tư ngày càng có hiệu quả hơn. Đối với nước ta hiện nay, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý điều hành của Nhà nước về đầu tư phải phù hợp với quy luật khách quan của cơ chế thị trường. Nhà nước thể hiện vai trò quản lý của mình bằng việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư phù hợp với từng giai đoạn phát triển và mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra, để mục tiêu xây dựng đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
  • 11. Trong xu thế của hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thì sản phẩm của đầu tư xây dựng cơ bản cũng có vai trò lớn về mặt kiến trúc, khoa học, văn hoá dân tộc, nghệ thuật, an ninh và quốc phòng. 1.2. Những nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.2.1. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng cơ bản Sản phẩm xây dựng cơ bản mang tính đặc biệt và tổng hợp. Theo Đại từ điển kinh tế thị trường: "Xây dựng cơ bản là chỉ việc tái sản xuất tài sản cố định, bao gồm mở rộng tái sản xuất đơn giản sắp xếp lại hoàn toàn" [10, tr.260]. Đó là những công trình xây dựng như nhà máy, các công trình công cộng, nhà ở, trụ sở, cầu, cống, cảng, sân bay... Các sản phẩm này được sản xuất không theo một dây chuyền nhất định và hàng loạt, mà từng công trình đều có những kiểu riêng, nét riêng. Ngay trong một công trình cụ thể, tính chất kết cấu, kiểu dáng của từng khu vực cũng khác nhau. Do vậy, các sản phẩm của đầu tư xây dựng cơ bản thường không có tính chất liên tục trong quá trình sản xuất. Sản phẩm của đầu tư xây dựng cơ bản phải trải qua một thời gian dài mới có thể đưa vào sản xuất hoặc sử dụng. Bên cạnh đó, địa điểm xây dựng các công trình đồng thời cũng là nơi tiêu thụ các nguyên nhiên liệu, các vật liệu, bán thành phẩm, vì vậy nó thường hay bị thay đổi phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên hoặc giá cả của các loại đầu vào đó. Đó chưa kể đến nguyên nhân chủ quan của các chủ đầu tư là hay thay đổi thiết kế. Ví dụ mưa bão, tắc đường không vận chuyển vật liệu vào công trình, công nhân chờ việc, dẫn đến chi phí tăng. Sản phẩm xây dựng cơ bản gắn chặt với đất đai nơi sản xuất và sử dụng. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thường lớn, thời gian sử dụng cũng như thời gian từ khởi công cho đến khi hoàn thành thường rất dài. Do vậy, khi tiến hành xây dựng một công trình, đặc biệt là các công trình liên quan nhiều đến kinh tế - xã hội, môi trường cần phải hết sức cẩn thận, có luận chứng khoa học, có tính đến dài hạn, từ khi lập dự án tiền khả thi, khả thi, chọn địa điểm xây dựng, thiết kế công trình, tổ chức thi công, lựa chọn đội ngũ cán bộ, công nhân, tránh tình trạng sửa chữa, bổ sung thiết kế, phá đi, làm lại, di chuyển dự án, gây thiệt hại, lãng phí làm chậm tiến độ sử dụng các công trình, đó là độ trễ trong đầu tư. Sản phẩm xây dựng cơ bản không chỉ thuần tuý mang tính kinh tế - kỹ thuật, mà còn có ý nghĩa nhân văn, kiến trúc, mang màu sắc văn hoá, dân tộc nơi công trình đó được xây
  • 12. dựng. Do vậy, khi thiết kế, hoàn thành các sản phẩm này phải phản ánh trình độ phát triển khoa học - kỹ thuật, trình độ kinh tế và trình độ văn hoá kỹ thuật phù hợp với từng giai đoạn phát triển của một đất nước. Xây dựng cơ bản là quá trình thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản mang tính không ổn định do thiết kế thay đổi, địa điểm xây dựng công trình luôn thay đổi (xây dựng ở nhiều vị trí khác nhau ngay tại cùng một công trình). Sản phẩm xây dựng thường đứng im trong quá trình sản xuất, còn con người, máy móc, thiết bị lại luôn di chuyển, nguyên vật liệu nhiều, khối lượng lớn, nhu cầu vận chuyển nhiều dẫn đến chi phí cao, đặc biệt một số sản phẩm siêu trường, siêu trọng nên càng làm tăng khó khăn và chi phí. Chu kỳ sản xuất và chi phí xây dựng cơ bản cao. Nhiều công trình xây dựng cơ bản lớn thường có nhiều đơn vị tham gia, do vậy việc phối hợp chặt chẽ để đảm bảo tiến độ, chất lượng, thời gian luôn là một vấn đề không đơn giản. Do vậy, các nhà thầu phải hiểu và nắm chắc tổng dự toán, dự toán các hạng mục công trình và thường xuyên trong quá trình thi công. Trong xây dựng cơ bản, vấn đề không tính hết và đầy đủ, trong đó phải kể đến các nhà máy sản xuất, là ảnh hưởng của công trình đó đến môi trường, sản xuất và cư trú của dân cư. Khi xây dựng nhà máy, đã không tính đến ảnh hưởng của môi trường như nhà máy hoá chất, nhà máy sản xuất mỳ chính... Hoặc không tính đến độ vĩnh cửu của các công trình xây dựng, hoặc mỹ thuật, nên khi hoàn thành thì nhiều công trình còn gây cảm giác khó chịu, gây mất mỹ quan, thuần phong mỹ tục của đất nước, dân tộc. 1.2.2. Các nhân tố cơ bản tác động đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.2.2.1. Chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế của đất nước, ngành và địa phương Việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, ngành, địa phương phải dựa trên những điều kiện, lợi thế, tiềm năng và khả năng của đất nước, địa phương và từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Trong giai đoạn hiện nay, chiến lược đó lại phải phù hợp với thực tiễn của đất nước, vừa phải phù hợp với xu thế phát triển của cả thế giới và khu vực. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã nhấn mạnh:
  • 13. Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Đổi mới căn bản công tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa mọi lợi thế so sánh của quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế - xã hội [13, tr.78]. Nếu xác định tốt chiến lược, thực hiện có quy hoạch chiến lược đó thì đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia. Do vậy, việc xây dựng đồng bộ dài hạn chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là một yêu cầu bức thiết, tất yếu khách quan của quá trình phát triển đất nước theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, trong xu thế biến đổi rất nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, sự lớn mạnh và tăng cường của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, nhiều quốc gia đã đưa ra những chiến lược phát triển dài hạn theo những định hướng lớn, trong chiến lược dài hạn đó, có những chiến lược "mềm", linh hoạt được thay đổi theo sự thay đổi của tình hình thế giới và hoàn cảnh của đất nước. ở Việt Nam, đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010, kế hoạch 5 năm 2001-2005, 2005-2010 và có định hướng phát triển đất nước đến năm 2020, hàng năm có những thay đổi nếu thấy cần thiết để phù hợp với tình hình của đất nước và thế giới. Để quản lý, thực hiện chiến lược phát triển đất nước, thì cần phải có nhiều công cụ và chính sách, trong đó có công cụ quy hoạch. Quy hoạch là cụ thể hoá mục tiêu, giải pháp và nhiệm vụ để thực hiện chiến lược đó. Do vậy, nếu quy hoạch sai thì sẽ dẫn đến những sai lầm mà đất nước phải gánh chịu, đặc biệt phải hạn chế tối đa những quy hoạch sai mà nhiều năm không khắc phục được hoặc khắc phục lại quá tốn kém. Nếu quy hoạch tốt, thì sẽ bố trí hợp lý, bền vững về các công trình, hiệu quả phù hợp với điều kiện của đất nước, vùng, địa phương và ngành. Ngược lại, nếu qui hoạch không tốt, thiếu sự thực hiện đồng bộ giữa qui hoạch ngành, qui hoạch phát triển địa phương, qui hoạch tổng thể cộng thêm sự phát triển cục bộ, thực hiện chồng chéo sẽ dẫn đến sự lãng phí rất lớn, không đem lại được hiệu quả của vốn đầu tư. Thực tế những năm qua, việc quyết định đầu tư cơ sở hạ tầng của cả xã hội là rất cần thiết và đã đem lại hiệu quả. Tuy nhiên,
  • 14. cũng không ít những trường hợp do chỉ suy tính đến phát triển của địa phương mà chưa tính đến qui hoạch chung nên hiệu quả chưa đạt được như mục tiêu đã đề ra. Vấn đề này, nhiều chuyên gia nước ngoài sau khi nghiên cứu đã không khỏi có những ngạc nhiên khi thấy rằng ở Việt Nam có gần 80% người dân, với mức thu nhập dưới 500 USD/người/năm; tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 30,0 tỷ USD/năm nhưng lại có tới 110 cảng biển, 61 cảng hàng không và sân bay, đáng chú ý trong đó có nhiều cảng biển, sân bay được qui hoạch xây dựng quá gần nhau nên vô hình chung đã tự hạn chế sự phát triển của nhau và lãng phí nguồn lực của đất nước. Ví dụ, Cảng Hòn La (Quảng Bình) chỉ cách cảng Vũng áng 25km, cảng Chân Mây (Thừa Thiên Huế) cách cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) 30km, cảng Dung Quất cách cảng Kỳ Hà 10km, khoảng cách giữa sân bay Quảng Bình và sân bay Phú Bài (Thừa Thiên Huế) rất nhỏ, thời gian đi bằng đường bộ chỉ khoảng 2 đến 3 giờ [29, tr.39]. Qua đây cho thấy, việc thực hiện có cơ sở khoa học, thực tiễn để đầu tư có ưu tiên, có trọng điểm các công trình xây dựng cơ bản, lượng vốn đầu tư, bố trí cụ thể, thích hợp từng dự án, từng công trình, tránh việc đầu tư dàn trải mới nghĩ đến được thu được hiệu quả nguồn lực đầu tư. 1.2.2.2. Nhóm nhân tố về các yếu tố của nguồn lực Khi nói đến các yếu tố của nguồn lực, người ta thường hay nói đến quy mô, số lượng, đặc biệt là chất lượng của các yếu tố đầu vào. Nếu ta gọi các biến số đầu vào là Xi, hàm số đầu ra là Y, thì mối quan hệ giữa đầu ra (GDP) với đầu vào như sau: Y = f (Xi) Trong đó: Xi là các yếu tố đầu vào cụ thể như sau: K : Vốn L : Lao động R : Tài nguyên thiên nhiên T : Khoa học và công nghệ [27, tr.28]. Các yếu tố này có quan hệ tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển. Song, tuỳ theo từng quốc gia cụ thể thì quy mô, cơ cấu và tỷ trọng của các yếu tố đầu vào là khác nhau. Ví dụ, các quốc gia phát triển, vốn nhiều, giá vốn thấp thì họ sử dụng nhiều vốn; quốc gia nào nhiều tài nguyên thiên nhiên thì họ sẽ sử dụng lợi thế của mình là tài nguyên thiên nhiên, quốc gia nào có quy mô dân số lớn, lao động nhiều, thì có lợi thế là quy mô lao động và nhân công
  • 15. giá rẻ. Tuy nhiên, điều quan trọng cơ bản là sử dụng các biến số này như thế nào cho có hiệu quả mới là quyết định. Ngày nay, trong xu thế của sự lớn mạnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, thì nguồn lực con người đặc biệt là nguồn lao động có chất lượng luôn là yếu tố quyết định. Bởi vì, con người lao động quyết định từ khâu ý tưởng ban đầu đến khâu cuối cùng là phải có sản phẩm cho xã hội, do vậy, họ phải có năng lực, sức khoẻ, phẩm chất. Nói cách khác, người lao động đồng thời là nguồn lực và chính người lao động mới có khả năng và đủ điều kiện để sử dụng các nguồn lực khác. Tuy vậy, nhiều quốc gia đang phát triển, trong đó có nước ta cần rất nhiều vốn để thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì yếu tố vốn cũng đóng vai trò rất quan trọng. Trong tình hình hiện nay, cũng cần phải nhắc lại lần nữa, các nguồn lực là quan trọng, không thể thiếu, nhưng quan trọng hơn là phải sử dụng chúng như thế nào cho có hiệu quả và hợp lý mới có tính quyết định. 1.2.2.3. Tác động của cơ chế và chính sách đến hiệu quả đầu tư Chính sách và cơ chế đầu tư là nhân tố chủ quan, nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đầu tư. Nếu có cơ chế và chính sách đúng thì sẽ huy động và khai thác tốt các điều kiện khả năng, lợi thế so sánh của các quốc gia, các doanh nghiệp và dân cư. Chính sách đầu tư với những ưu đãi thì tạo điều kiện không chỉ các nhà đầu tư nước ngoài mà cả các nhà đầu tư trong nước đến đầu tư, bên cạnh thu hút được nhiều vốn, mà còn thu hút cả kinh nghiệm quản lý, công nghệ và tạo điều kiện để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chính sách đầu tư bao gồm một hệ thống đồng bộ các công cụ, cơ chế khuyến khích đầu tư như: chính sách thuế, lãi suất, tín dụng, lao động, tiền lương, đất đai, chính sách khuyến khích đầu tư theo vùng, ngành. Đối với những vùng, miền ưu tiên thì cần phải có những chính sách cụ thể, nhất quán, mang tính ổn định và lâu dài. Bằng việc nhận dạng nguyên nhân gây ra sự khác biệt giữa việc định giá kinh tế và giá tài chính, nhà phân tích có thể nói được liệu sự khác biệt đó là do thị trường hay chính sách gây ra. Nếu là do chính sách gây ra, thì phải xem xét chi phí và lợi ích của sự thay đổi chính sách làm cho những đánh giá kinh tế và tài chính xích lại gần nhau hơn. Do vậy, cần phải cân nhắc kỹ khi đầu tư xây dựng một dự án, như địa điểm, qui mô vào thời gian nào, đã
  • 16. đúng lúc chưa, hay liệu có tốt hơn không nếu thuyết phục các cơ quan chức năng thay đổi chính sách [15, tr.20]. 1.2.2.4. Quy chế, quy định và quy trình quản lý sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản Đây là một nhân tố hết sức cơ bản, nếu không nói là có tính quyết định đối với hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản. Do vậy, Nhà nước cần phải xây dựng và ban hành quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, trước hết là Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, đặc biệt là các quy chế, quy định quản lý đầu tư và sử dụng nguồn vốn của Nhà nước cho cả ba quá trình từ chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và kết thúc đầu tư đưa vào khai thác sử dụng (vì sự lãng phí, thất thoát, tham nhũng chủ yếu xảy ra từ khâu đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước). Rất nhiều ví dụ qua các vụ án cho thấy, thường thất thoát lãng phí, tham nhũng là đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước.Vụ xây dựng khu vui chơi giải trí Thủy Cung Thăng Long, vụ án Lã Thị Kim Oanh tại Công ty tiếp thị và thương mại tổng hợp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Các vụ án tại Tổng Công ty dầu khí Việt Nam, vụ lừa đảo đầu tư xây dựng của Nguyễn Đức Chi của Công ty Liên doanh Rusalka - Nha Trang và gần đây nhất là vụ án liên quan đến công trình giao thông sử dụng vốn ODa tại PMU 18 (Bộ Giao thông vận tải), 77% công trình xây dựng miền núi bị móc ruột, thanh tra 103 công trình xây dựng cơ bản ở miền núi trên địa bàn tỉnh và 6 dự án cho thấy tổng số tiền bị chiếm đoạt, thất thoát, lãng phí lên tới 9,66 tỷ đồng. Tình trạng "rút ruột" các công trình phô biến đến mức trong số 86 công trình thuộc Chương trình 135 và Trung tâm cụm xã thì có 82 công trình sai phạm với số tiền gần 35 tỷ đồng; 17 công trình thủy lợi thì 2 không phát huy hiệu quả, 5 mới đưa vào sử dụng đã hư hỏng, 11 hạng mục thi công thiếu hụt khối lượng; 6 dự án giao thông thì 5 dự án "ăn" đứt 5,9 tỷ đồng. Tính ra 77% công trình xây dựng miền núi sai phạm là một tỷ lệ khá lớn [29, tr.32]. Những quy định quy chế này phải bao gồm: - Các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật trong đầu tư, nhất là các định mức thiết kế, thi công, hiệu quả cho phù hợp với sự thay đổi của tình hình thực tế. - Nâng cao công tác thẩm định các dự án, từ giai đoạn tiền khả thi vì đây là khâu quyết định của mức đầu tư xây dựng cơ bản.
  • 17. - Xây dựng cơ chế đấu thầu, chọn thầu, tuyển thầu, chỉ định thầu, khoán gọn, hạn chế thấp nhất những khâu tiêu cực trong đấu thầu. - Quản lý chặt chẽ quá trình đầu tư xây dựng cơ bản. - Quản lý các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. - Ban hành các thủ tục hành chính trong đầu tư, nhưng phải tuân thủ quy định của pháp luật, không gây phiền hà, nhũng nhiễu. Thực hiện tốt khâu hậu kiểm của đầu tư. - Quản lý chặt trẽ việc phát sinh trong quá trình thực hiện đầu tư và thẩm định các quyết toán của các dự án đã hoàn thành. 1.1.3. Các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản Các nguồn vốn huy động cho đầu tư nói chung, xây dựng cơ bản nói riêng rất đa dạng. ở nước ta, những nguồn vốn có thể huy động được là: phong phú và quy mô, tỷ trọng cũng rất khác nhau. - Vốn ngân sách nhà nước: Nguồn vốn này dùng để đầu tư cho các dự án xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh... Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước không tính toán ngay được trực tiếp hiệu quả kinh tế, ít có khả năng thu hồi vốn chậm hoặc thu hồi vốn thấp, được quản lý theo phân cấp về chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển. Ngoài ra, vốn ngân sách nhà nước còn dùng đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn cổ phần, liên doanh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật. Trong 5 năm qua (2001-2005), đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các ngành nông lâm ngư nghiệp chiếm 22,2%, giao thông vận tải, bưu điện 27%, giáo dục đào tạo 8,9%, y tế - xã hội 6,9%, văn hóa, thể thao 4,3%, khoa học công nghệ 3,1% [5, tr.35]. - Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước: "Vốn khấu hao cơ bản, vốn tích luỹ từ lợi nhuận để lại sau thuế, vốn doanh nghiệp tự huy động": Nguồn vốn này dùng để đầu tư cho phát triển sản xuất - kinh doanh nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm cho các doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt nước ta là nước theo định hướng XHCN, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, do vậy
  • 18. cũng cần có một số doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phải sử dụng theo đúng các chế độ quản lý vốn đầu tư do Chính phủ quy định. Trong 5 năm 2001-2005, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước là 178,2 tỷ đồng chiếm 18,3% cơ cấu vốn đầu tư xã hội [3, tr.36]. - Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước: Vốn tín dụng này để đầu tư các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các doanh nghiệp sản xuất nhằm giải quyết việc làm, các dự án đầu tư quan trọng của Nhà nước trong từng thời kỳ. Hiện nay, nguồn vốn này dành cho các dự án khuyến khích đầu tư sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế, trồng cây công nghiệp lâu năm, chăn nuôi gia súc lớn, thuỷ sản, sản xuất muối và phát triển công nghiệp chế biến, một số ngành công nghiệp chủ lực như: Điện, than, xi măng, xây dựng cảng biển, sân bay... - Vốn thuộc các khoản vay nước ngoài của Chính phủ và các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): Đây là nguồn vốn hết sức quan trọng, vì nguồn vốn vay lớn, lãi suất không cao, có một số ưu đãi, do vậy thường đầu tư vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn, văn hóa, giáo dục, đô thị là những lĩnh vực khả năng thu hồi vốn chậm, ít có khả năng sinh lời... Nguồn vốn này được quản lý thống nhất của Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước và theo hướng dẫn quản lý vốn nước ngoài của Chính phủ và các bộ, Ngân hàng nhà nước. Mặc dù tình hình kinh tế của thế giới còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ chính sách đối ngoại tốt, mà các nhà tài trợ nước ngoài vẫn tiếp tục ủng hộ Việt Nam. Từ năm 2001 đến 2005, tổng giá trị các hiệp định đã ký kết đạt khoảng 14,7 tỷ USD, trong đó vốn viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 15-20%. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, tỷ lệ giải ngân mới đạt khoảng 7,8 tỷ USD, đạt 87% so với kế hoạch. Nhiều công trình đầu tư từ nguồn vốn ODA đã góp phần tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống người dân và tăng cường công bằng xã hội [3, tr.32]. - Vốn tín dụng thương mại: Nguồn vốn này, các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước dùng để đầu tư xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, đổi mới kỹ thuật và công nghệ các dự án sản xuất kinh
  • 19. doanh, dịch vụ có hiệu quả kinh tế, có khả năng thu hồi vốn và tất nhiên các doanh nghiệp này có đủ điều kiện vay vốn theo quy định hiện hành. Nhà nước có thể hỗ trợ về mặt pháp lý nếu cần thiết thấy vốn tín dụng thương mại được áp dụng theo cơ chế tự vay, tự trả và thực hiện đầy đủ các thủ tục đầu tư và điều kiện vay trả vốn theo quy định của Việt Nam và thông lệ quốc tế. Các doanh nghiệp nhà nước được phép góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp của nước ngoài bằng quyền sử dụng đất, hoặc tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển, nhà xưởng thiết bị và các công trình khác thuộc vốn Nhà nước, nhưng phải được cấp có thẩm quyền cho phép có trách nhiệm hoàn trả vốn cho Nhà nước theo đúng quy định pháp luật. - Vốn của các tổ chức, cá nhân: Nguồn vốn này dùng để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định của từng cấp có thẩm quyền đối với từng loại công trình. Vốn đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng của xã, thị trấn trên nguyên tắc tự nguyện. Các nguồn vốn huy động và sử dụng phải được công khai, có kiểm tra, kiểm soát và đúng mục đích, đúng chế độ theo quy định của pháp luật. - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Là vốn của các tư nhân nước ngoài trực tiếp đầu tư vào hoạt động kinh doanh tại nước ta dưới các hình thức kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Đầu tư (có hiệu lực từ 1-7-2006). Đây là một nguồn vốn hết sức quan trọng trong việc mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường. Chúng ta đã có những bước tiến bộ trong việc cải thiện môi trường đầu tư, mặc dù trên thế giới còn gặp nhiều khó khăn nhưng luồng luân chuyển vốn bị hạn chế và phân tán bởi sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Do vậy, trong 5 năm từ 2001 đến 2005, ở nước ta tổng số vốn FDI đăng ký đạt 18,1 tỷ USD, vượt 21% mục tiêu đề ra (mục tiêu là 15 tỷ USD). Tổng số vốn thực hiện đạt 13,6 tỷ USD [5, tr.33]. Bảng 1.1: Huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển của nước ta thời kỳ 2001 -2005 [3, tr.183]
  • 20. STT Chỉ tiêu ĐVT 2001 2002 2003 2004 Ước thực hiện 2005 Tổng số ngh.tỷ.đ 170,5 199,1 231,6 275 320 % GDP % 35,4 37,2 37,8 38,4 38,2 1 Vốn đầu tư thuộc NSNN ngh.tỷ.đ 45,6 49,6 55,5 69,1 74,0 So với tổng số % 26,5 24,9 24,0 25,1 23,1 2 Vốn tín dụng đầu tư ngh.tỷ.đ 28,7 31,9 29 30 30 So với tổng số % 16,8 16,0 12,5 10,9 9,4 3 Vốn đầu tư của tư DNNN ngh.tỷ.đ 27,7 31 31,6 39,7 50,0 So với tổng số % 16,2 16,5 13,6 14,4 15,6 4 Vốn đầu tư của tư nhân và dân cư ngh.tỷ.đ 38,5 52,1 68,7 82 105,0 So với tổng số % 22,6 26,2 29,7 29,8 32,8 5 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngh.tỷ.đ 30 34,5 37,8 44,2 47,0 So với tổng số % 17,6 17,3 16,3 16,1 14,7 6 Vốn huy động khác ngh.tỷ.đ - - 9 10,0 14,0 So với tổng số % - - 3,9 3,6 4,4 1.3. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.3.1. Một số khái niệm 1.3.1.1. Hiệu quả Có nhiều cách nhìn và tiếp cận khác nhau về hiệu quả kinh tế và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Theo Đại từ điển kinh tế thị trường thì hiệu quả và tỷ suất hiệu quả được hiểu như sau: "Hiệu quả là thù lao mà nhà đầu tư thu được sau một thời gian nhất
  • 21. định, như lợi thức, lãi cổ phần, lợi nhuận. Tỷ suất hiệu quả là tỷ lệ giữa mức hiệu quả và mức đầu tư, tức mỗi đồng hiệu quả thì thu được của đầu tư" [10]. "Hệ số hiệu quả đầu tư: là tên gọi của hệ số hiệu quả đầu tư. Là tỷ lệ giá trị của mức tăng thu nhập quốc dân trong một thời kỳ nhất định và đầu tư tài sản cố định toàn xã hội dẫn đến sự tăng trưởng năm" [10, tr.619-620]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì: Hiệu quả kinh tế của đầu tư cơ bản là chỉ tiêu hiệu quả quốc dân do vốn đầu tư cơ bản mang lại, biểu hiện ở lượng tăng thu nhập quốc dân (hay tăng sản lượng, hoặc lượng tăng giá trị tài sản cố định (hay tăng công suất thiết bị) so với lượng vốn đầu tư cơ bản đã được thực hiện là chỉ tiêu tổng quát phải phản ánh hiệu quả của nền kinh tế, xét trên quy mô của nền kinh tế quốc dân một ngành hay một xí nghiệp; nhìn chung nó là tỷ lệ giữa giá trị tăng thêm so với lượng đầu tư cơ bản [33, tr.290T1]. Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Đánh giá hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một nội dung rất quan trọng, nhưng rất phức tạp khó khăn, tuy vậy nó là rất cần thiết và kết quả tổng hợp của quá trình công tác đầu tư xây dựng cơ bản. Khi xem xét một lợi ích kinh tế - xã hội do dự án đem lại đều phải xác định vị trí của dự án trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân. Theo GS,TS Nguyễn Văn Chọn, hiệu quả của dự án đầu tư là toàn bộ mục tiêu đề ra của dự án, được đặc trưng bằng các chỉ tiêu định tính (thể hiện ở các loại hiệu quả đạt được) và bằng các chỉ tiêu định lượng (thể hiện giữa chi phí đã bỏ ra của dự án và các kết quả đạt được theo mục tiêu của dự án) [7, tr.25]. Với quan niệm đó là đúng đắn, tuy nhiên trong đầu tư xây dựng cơ bản, các chỉ tiêu hiệu quả thường mang tính tổng hợp, nhiều dự án có tính xã hội rất cao, nên cần phải đánh giá một cách tổng quát hơn. Do vậy, chúng tôi chỉ dừng ở cách phân loại thành hai nhóm chỉ tiêu: chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp và các chỉ tiêu cụ thể lượng hoá khác. 1.3.1.2. Hiệu quả tổng hợp
  • 22. Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp là hiệu quả chung nhất phản ánh kết quả thực hiện mọi mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi phí để có được những kết quả đó. Theo tác giả Dương Văn Long [19, tr.9-11], nếu chúng ta lấy ký hiệu K là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các đơn vị khác nhau: tiền, công trình, quy mô, số lượng. C là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau. H là hiệu quả chung, thì sẽ có công thức đơn giản về hiệu quả tổng hợp chung nhất: H = K - C (1) Hiệu quả tuyệt đối H = K/C (2) Hiệu quả tương đối Như vậy, được hiểu một cách chung nhất là kết quả (H) mà chủ thể nhận được theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu. Sau đó xem xét mức độ đóng góp cụ thể của từng công trình đầu tư xây dựng cơ bản vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước thông qua các chỉ tiêu định hướng như mức đóng góp cho ngân sách, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, công suất của các nhà máy, mức tiết kiệm ngoại tệ cho nền kinh tế, số lao động có việc làm khi công trình được thực hiện hoặc sau khi hoàn thành. Tóm lại, hiệu quả tổng hợp là sự so sánh giữa kết quả đầu tư mang lại và chi phí của đầu tư. Có nhiều cách để phân loại, đánh giá hiệu quả đầu tư. Có thể có hiệu quả trực tiếp hay hiệu quả gián tiếp. Hiệu quả trực tiếp là lợi ích mang lại (sinh và lợi nhuận cao) sau một thời gian bỏ vốn ra đầu tư và thu hồi lại. Hiệu quả gián tiếp là lợi ích mang lại chung cho nền kinh tế, một địa phương. Ví dụ hiệu quả sau khi xây dựng một con đường, một cây cầu, một công trình thủy lợi, một nhà máy khi đi vào sản xuất... 1.3.1.3. Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh trình độ sử dụng và năng lực quản lý các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh đạt kết quả cao với chi phí thấp nhất. Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu biểu hiện kết quả sản xuất, nói rộng ra là của hoạt động kinh tế, kinh doanh, phản ánh tương quan giữ kết quả đạt được so với hao phí lao động, vật tư, tài chính, là chỉ tiêu phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng các yếu tố của sản xuất -
  • 23. kinh doanh, nhằm đạt được kết quả kinh tế tối đa, với chi phí tối thiểu. Tuỳ theo mục đích đánh giá, có thể đánh giá hiệu quả kinh tế bằng những chỉ tiêu khác nhau như năng suất lao động, hiệu suất sử dụng vốn, hàm lượng vật tư của sản phẩm, lợi nhuận so với vốn, thời gian thu hồi vốn. Chỉ tiêu tổng hợp thường dùng nhất là doanh lợi thu được so với tổng số vốn bỏ ra [33, tr.290]. Tuy nhiên, cần lưu ý “Hiệu quả kinh tế thường được nghiên cứu ở góc độ vĩ mô và phải chú ý rằng không phải bao giờ hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh doanh là vận động cùng chiều” [18, tr.13]. Hiệu quả kinh tế còn được gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh hay kết quả kinh tế xét trong phạm vi cụ thể. Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của những nhà đầu tư và các doanh nghiệp. Với cách tính hiệu quả tương đối (H = K/C) là cách đánh giá phản ánh hiệu quả của việc sử dụng một số vốn đã bỏ ra để thu được kết quả cao hơn, tức là xuất hiện giá trị gia tăng (điều kiện để đảm bảo cho các doanh nghiệp tồn tại và phát triển thì H phải lớn hơn 1. (H>1). H càng lớn thì chứng tỏ quá trình kinh doanh càng đạt hiệu quả. Các nhà sản xuất luôn quan tâm đến kết quả lợi nhuận thu được của dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Hiệu quả kinh tế ở tầm vĩ mô đó là lợi ích kinh tế - xã hội do dự án mang lại gắn liền với việc tăng trưởng GDP với tốc độ cao; hiệu quả phải gắn với tính bền vững, với tiến bộ và công nghệ bằng xã hội, với bảo đảm an ninh quốc phòng..v.v. Trong xây dựng cơ bản, đặc biệt trong điều kiện ở nước ta hiện nay, khi mà các nguồn vốn huy động còn khan hiếm, trong lúc phải thực hiện CNH, HĐH cần phải đầu tư ở các lĩnh vực kinh tế - xã hội, thì việc tính toán hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản là một vấn đề hết sức quan trọng. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước không thể không nói tới đầu tư xây dựng cơ bản. Đầu tư xây dựng cơ bản sẽ góp phần quyết định sự thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, tiến trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. 1.3.1.4. Hiệu quả kinh tế - xã hội
  • 24. Hiệu quả kinh tế - xã hội còn được gọi là hiệu quả kinh tế quốc dân là hiệu quả tổng hợp được xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Để đánh giá tổng quát hiệu quả kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ người ta đã dùng một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế - xã hội tổng hợp trong đó tốc độ tăng GDP, GDP tính theo đầu người, tuổi thọ bình quân, trình độ văn hoá, y tế, thể thao, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao phúc lợi xã hội. Chủ thể được hưởng hiệu quả kinh tế - xã hội là toàn bộ xã hội mà lực lượng chủ yếu là nhân dân, vì vậy những hiệu quả (lợi ích) và chi phí được xem xét trong hiệu quả kinh tế - xã hội xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế - xã hội là hiệu quả kinh tế xét theo quan điểm toàn bộ của nền kinh tế và thường được giải quyết ở cấp vĩ mô. 1.3.1.5. Quan hệ giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội Trong đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả kinh tế trước hết là lợi nhuận luôn là mối quan tâm của doanh nghiệp hoặc của những nhà đầu tư. Hiệu quả kinh tế - xã hội là mối quan tâm của toàn xã hội mà đại diện là Nhà nước. Hiệu quả sản xuất kinh doanh (hiệu quả kinh tế) được xem xét theo quan điểm của doanh nghiệp, lợi nhuận là mục tiêu và động lực trước hết của doanh nghiệp, họ bỏ vốn ra và thu được lợi nhuận là bao nhiêu? còn hiệu quả kinh tế - xã hội được xem xét theo quan điểm của toàn xã hội. Hiệu quả sản xuất kinh doanh xét theo quan điểm bộ phận của một nhóm người, nhà đầu tư, hay của một doanh nghiệp, lợi nhuận là chủ yếu, còn hiệu quả kinh tế - xã hội xét theo quan điểm toàn thể, đồng bộ và có tính dài hạn. Quan hệ giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội là quan hệ giữa lợi ích bộ phận và lợi ích tổng thể, giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Đó là mối quan hệ vừa có tính thống nhất vừa có tính mâu thuẫn. Do vậy, để đảm bảo hài hòa lợi ích (hiệuquả) thì phải có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ, không phải vì lợi ích cục bộ trước mắt mà hại đến lợi ích lâu dài của đất nước, quốc gia, xã hội. Tuy nhiên, nếu không vì lợi ích kinh tế (lợi nhuận) thì sẽ triệt tiêu động lực phát triển. 1.3.2. Các nguyên tắc xác định và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xây dựng cơ bản
  • 25. 1.3.2.1. Các nguyên tắc xác định hiệu quả xây dựng cơ bản * Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả: Theo nguyên tắc này, tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở mục tiêu. Mục tiêu khác nhau, thì tiêu chuẩn hiệu quả khác nhau. Nếu xây dựng một nhà máy thì phải tính đến công suất sử dụng nguyên nhiên liệu, số lao động được việc làm, thu nhập, lợi nhuận là bao nhiêu? Còn nếu làm một con đường thì ai người được thụ hưởng, nó góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bình đẳng thế nào? thu phí bao nhiêu và khi nào thì hoàn vốn. Rõ ràng mục tiêu xây dựng của một nhà máy sẽ khác nhiều so với việc xây dựng một con đường, một trường học hoặc một công trình thủy lợi..v.v. Nếu thay đổi mục tiêu thì tiêu chuẩn hiệu quả cũng phải thay đổi. Tiêu chuẩn hiệu quả phải được xem như là thước đo cơ bản để thực hiện các mục tiêu. Phân tích hiệu quả của một dự án đầu tư xây dựng cơ bản nào đó luôn luôn dựa trên phân tích mục tiêu. Phương án có hiệu quả cao nhất khi nó có đóng góp nhiều nhất và việc thực hiện các mục tiêu đặt ra với chi phí thấp nhất. * Nguyên tắc về sự thống nhất lợi ích: Một phương án được xem là có hiệu quả khi nó kết hợp hài hoà các loại lợi ích. Những lợi ích đó bao gồm lợi ích của chủ doanh nghiệp (đầu tư) và lợi ích của xã hội, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội, lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường... Về lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của xã hội được xem xét trong phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. Theo nguyên tắc "lợi ích", hiệu quả sản xuất kinh doanh không thể thay thế cho hiệu quả kinh tế - xã hội và ngược lại trong việc quyết định cho ra đời một phương án kinh doanh của doanh nghiệp hoặc một nhà đầu tư. Về lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài cũng không thể hy sinh lợi ích lâu dài để lấy lợi ích trước mắt. Nhưng cũng không thể vì lợi ích trước mắt mà hy sinh lợi ích lâu dài. Do vậy, phải kết hợp đúng đắn giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Trong quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích lâu dài là cơ bản nhất. Nên kết hợp lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội, cũng như lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Đừng vì lợi ích này mà bỏ lợi ích khác. Việc phân tích hiệu quả kinh tế các phương án
  • 26. cần đặt trong mối quan hệ với phân tích các lợi ích khác mà phương án mang lại. Bất kỳ một đầu tư nào mà hy sinh lợi ích đều giảm hiệu quả chung của phương án đó. Trong đại bộ phận các trường hợp, lợi ích xã hội đóng vai trò quyết định, lợi ích kinh tế là hết sức quan trọng, cần thiết. * Đảm bảo tính chính xác, tính khoa học và lượng hoá tối đa các chỉ tiêu: Để đánh giá hiệu quả các phương án đầu tư xây dựng cơ bản cần phải dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu có thể lượng hoá được và không lượng hoá được, tức là phải kết hợp phân tích định lượng hiệu quả với phân tích định tính. Không thể thay thế phân tích định lượng bằng phân tích định tính. Tuy nhiên, định lượng chưa đủ bảo đảm tính chính xác, chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phí mà chủ thể quan tâm, nhưng không vì vậy mà bỏ qua, hoặc nhấn mạnh chung chung định tính. Nhưng nếu phân tích chính xác, có định lượng, thì từ những căn cứ tính toán đó, hiệu quả phải được xác định chính xác, tránh chủ quan tuỳ tiện, duy ý chí, chung chung. * Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế: Theo nguyên tắc này, những phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả kinh tế phải được dựa trên cơ sở các số liệu thông tin thực tế, đơn giản và dễ hiểu. Tránh tình trạng sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi chưa có đầy đủ các thông tin cần thiết hoặc những thông tin không đảm bảo độ chính xác làm giảm tính thuyết phục hoặc không hiệu quả trong đầu tư xây dựng cơ bản. * Một số chỉ tiêu đánh giá chủ yếu: Có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế đầu tư xây dựng cơ bản của một dự án, tuy nhiên có thể biểu hiện ở một số chỉ tiêu cơ bản sau đây: - Phản ánh chi phí: Tổng số vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư (xây lắp, thiết bị, kiến thiết cơ bản khác). - Phản ánh kết quả: Kết quả xây dựng đo đếm được: m2 xây dựng, năng lực phục vụ, công suất máy móc thiết bị. - Kết quả sử dụng: Doanh thu năm, lợi nhuận năm, sản phẩm năm...
  • 27. - Số lao động thu nhận được sau khi công trình hoàn thành. Có thể tính theo công thức sau: Tổng số chỗ làm việc mới: Zc = t k g k g L t ZZZZ L  Trong đó: Zc : Tổng số chỗ làm việc được tạo ra cho lao động lành nghề và không lành nghề. t LZ : Chỗ làm việc cho lao động lành nghề được tạo ra cho dự án. g LZ : Chỗ làm việc cho lao động lành nghề được tạo ra trong các dự án liên quan. g kZ : Chỗ làm việc cho lao động không lành nghề được tạo ra trong các dự án có liên quan. - Số chỗ làm việc được tạo ra trên một đơn vị vốn đầu tư (gồm cả lao động lành nghề và lao động không lành nghề). I Z X CT C  Trong đó: T CX : Số chỗ làm việc trên một đơn vị vốn đầu tư. I : Tổng vốn đầu tư. - Số chỗ làm việc cho lao động không lành nghề (hoặc lành nghề) trên đơn vị vốn đầu tư. I Z Z I KK E  hoặc I X Z I LL E  [15, tr.30-31]. - Phản ánh hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản: Hệ số sử dụng vốn đầu tư: HS = Giá trị tài sản cố định mới đưa vào sử dụng Tổng số vốn đầu tư Hệ số sử dụng công suất: H Công suất thực tế
  • 28. cs = Công suất thiết kế (hoặc công suất xây dựng) Lợi nhuận vốn: L n = Lợi nhuận trước thuế Doanh thu hàng năm - Chỉ tiêu thời hạn đầu tư - chỉ tiêu thời hạn đầu tư còn được coi là một trong những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản. Chỉ tiêu này được biểu hiện bằng công thức sau: T t E   x 100 Trong đó: E: Là hiệu quả đầu tư. t: Thời hạn đầu tư được rút ngắn so với thời gian dự kiến. T: Thời hạn thu hồi vốn đầu tư. Ví dụ: Một dự án đầu tư thực hiện trong 36 tháng, nhưng nhà đầu tư đã áp dụng nhiều biện pháp và rút ngắn được 06 tháng và nếu dự án có thời hạn thu hồi vốn là 10 năm (120 tháng) thì hiệu quả đầu tư do rút ngắn thời gian là: E = (6/120) x 100 = 5%). Nghĩa là thời gian rút ngắn được 5% so với dự kiến [27]. Thường khi tính toán về hiệu quả thời gian, người ta thường hay nói đến khái niệm “ độ trễ đầu tư” tức là công trình không hoàn thành đúng tiến độ, kéo dài, chậm thanh toán khối lượng hoàn thành. Tình trạng này đang diễn ra phổ biến đối với việc đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ở nước ta hiện nay, việc thực hiện vẫn phân tán, dàn trải, không cân đối đủ nguồn vốn cho dự án dẫn đến nợ đọng vốn xây dựng cơ bản, công trình chậm đưa vào sử dụng, giảm hiệu quả sử dụng khai thác. Theo số liệu thống kê năm 2005, hiện có khoảng 960 dự án nhóm B và C thực hiện quá thời hạn qui định, trong đó 230 dự án đã quá thời gian thực hiện 4 năm và 730 dự án nhóm C đã quá thời hạn thực hiện 2 năm. Đáng lưu ý có một số ngành, địa phương bố trí vốn dành cho nhóm C chỉ khoảng 1 tỷ đồng [20]. - Thời gian thu hồi vốn của dự án: Tt = Tổng vốn đầu tư
  • 29. Lợi nhuận trước thuế Điểm hoà vốn: là giá trị chỉ tiêu đặc trưng cho việc khai thác dự án, với giá trị đó thì chi phí bằng thu nhập. Cần nghiên cứu hai chỉ tiêu sau: - Chỉ tiêu doanh thu hoà vốn: Dhv = Chi phí cố định 1- Chi phí biến đổi Tổng doanh thu [26, tr.19] Chi phí biến đổi bao gồm tất cả các chi phí có liên quan. Chi phí biến đổi tỷ lệ thuận với mức sản xuất. Chi phí biến đổi tăng thì tổng sản lượng tăng. Chi phí cố định: không thay đổi (như lãi ngân hàng, theo lãi suất năm, quý...). Đây là những chỉ tiêu để tính toán lượng hoá và đánh giá hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tuy vậy cũng phải xem xét đến những tác động không lượng hoá hoặc lượng hoá khó, ít, khác của dự án như: - Những ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng: Sự gia tăng năng lực phục vụ của kết cấu hạ tầng sẵn có, bổ sung năng lực phục vụ mới của kết cấu hạ tầng mới. Như khi xây dựng xong một cây cầu thì dung lượng xe và lượng hàng hoá lưu thông sẽ tăng lên. - Tác động đến môi trường: Có tác động tích cực, tác động tiêu cực. Nếu có tác động tiêu cực phải có giải pháp khắc phục. Ví dụ, khi xây dựng một nhà máy thuỷ điện, một bến phà, một nhà máy hoá chất, một bệnh viện... Nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất, trình độ nghề nghiệp của người lao động, trình độ quản lý của các nhà quản lý, nâng cao năng suất lao động và thu nhập của người lao động. Khi một nhà máy có công nghệ hiện đại được đưa vào sử dụng, lao động có trình độ tăng cao, lao động giản đơn giảm và những tác động về xã hội, chính trị và kinh tế khác: Tận dụng khai thác tài nguyên, chuyển giao công nghệ mới, tác động đến các ngành khác và các vùng kinh tế, mở rộng thị trường mới, kinh tế địa phương yếu kém được phát triển lên, xây dựng kinh tế vùng sâu, vùng xa...
  • 30. 1.3.2.2. Một số mô hình đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư * Mô hình Harrod - Domar: Mô hình tăng trưởng kinh tế đơn giản nhất và rất nổi tiếng được sử dụng khá phổ biến trên thế giới để phân tích sự phát triển kinh tế. Mô hình này được hai nhà kinh tế học: ông Roy Harrod người Anh và ông Evsey Domar ởngười Mỹ nêu ra từ những năm 1940 của thế kỷ XX - đã chỉ ra mối quan hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR) và tỷ lệ đầu tư như sau: k s g  Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (GDP) s: Tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế (GDP, GNI) (Hai ông này ngầm đã giả định toàn bộ số tiền tiết kiệm chỉ dành cho đầu tư). k: Hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR) (Icremetal Capital Output Ratio). Hệ số ICOR chỉ ra rằng: Để làm ra 1 đồng sản lượng đầu ra thì cần bao nhiêu đồng đầu vào. Như vậy, theo quan niệm của mô hình Harrod - Domar ở phương trình trên thi: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế và tỷ lệ nghịch với hệ số ICOR. Điều đó có nghĩa là để duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và lâu dài của nền kinh tế cần phải giữ vững và gia tăng tỷ lệ đầu tư và khống chế ở mức chấp nhận được đối với hệ số gia tăng vốn. Ví dụ, đối với nước ta, để giữ được tốc độ tăng trưởng trong năm năm tới (2006 - 2010) của nền kinh tế là 8% với hệ số ICOR là 4 thì tỷ lệ đầu tư phải đạt ở mức 32% trong GDP (hoặc GNI). Hệ số ICOR thường gắn chặt với hiệu quả đầu tư, nếu hiệu quả đầu tư thấp, hay nói cách khác là sử dụng các nguồn vốn đã được huy động không có hiệu quả, sẽ làm cho ICOR tăng theo chiều hướng tiêu cực và làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao, không bền vững dẫn đến gánh nặng nợ nần không những cho ngày hôm nay mà cho cả thế hệ tương lai. Tuy nhiên, như trên đã nói trong công thức này, Hai ông đã giả định rằng nền kinh tế chỉ phụ thuộc vào một yếu tố cố định là đầu tư, trên thực tế tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, đặc biệt là chất lượng tăng trưởng còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu
  • 31. tố. Tuy vậy, công thức này cũng phần nào phản ánh được hiệu quả của vốn đầu tư bằng định lượng. Mô hình Harrod - Domar được ứng dụng trong việc lập kế hoạch phát triển không chỉ cho nền kinh tế mà có thể cho tất cả các ngành, các lĩnh vực (tính theo hệ số ICOR). Với hệ số ICOR ước lượng được và với mục tiêu tăng trưởng cho trước thì từ mô hình sẽ tính được tỷ lệ tiết kiệm cần thiết cho tăng trưởng. Tuy nhiên mô hình đơn giản này bỏ qua yếu tố lao động và tiến bộ công nghệ nên không phản ánh đầy đủ và chính xác của sự phát triển. Đòi hỏi phải xét đến các mô hình tăng trưởng kinh tế với hàm sản xuất nhiều biến hơn. * Hàm sản xuất Cobb - Douglas: Hàm sản xuất Cobb - Douglas được dùng khá phổ biến để đo lường nguồn gốc sự đóng góp (hiệu quả) của vốn, lao động và tiến bộ công nghệ vào tăng trưởng. Vào cuối những năm 1920, nhà toán học Charlé Cobb và nhà kinh tế học Paul Douglas đã biểu diễn hàm này dưới dạng:   LAKY Với: Y là kết quả sản xuất, K và L là vốn và lao động; A là tham số về hiệu quả sản xuất (còn gọi là năng suất nhân tố tổng hợp TFP - Total Factor productivity); các tham số  và  đo lường tỷ lệ đóng góp của vốn K và lao động L vào kết quả sản xuất Y và thoả mãn điều kiện 0<<1, 0<<1 Thông thường người ta biến đổi hàm Cobb - Douglas [theo thời gian (t)] về dạng đơn giản hơn để dễ tính toán. Do vậy phương trình trên sẽ có dạng: g = a + k + l Với: g: tốc độ tăng GDP (GNI); a: nhịp tăng năng suất nhân tố tổng hợp (còn gọi là TFP/TFP); k: tốc độ tăng của vốn K; l: tốc độ tăng của lao động L. Với phương trình trên thì: Tham số  là độ co giãn của sản lượng theo vốn (tỷ lệ đóng góp của vốn vào kết quả sản xuất). Tham số  là độ co giãn của sản lượng theo lao động (tỷ lệ đóng góp của lao động vào kết quả sản xuất Y). Phương trình trên phản ánh đầy đủ sự đóng góp của ba nhân tố vốn, lao động và tiến bộ công nghệ và tăng trưởng kinh tế.
  • 32. Sự đóng góp của vốn K và lao động L xảy ra theo 3 trường hợp sau: - Nếu  +  = l là trường hợp sản xuất có lợi suất không đổi khi mở rộng quy mô; tức khi gia tăng đầu vào một tỷ lệ thì sản lượng sẽ tăng lên theo tỷ lệ đó. - Nếu  +  > 1 là trường hợp lợi suất tăng khi mở rộng quy mô sản xuất; khi gia tăng một tỷ lệ đầu vào thì sản lượng tăng lên theo tỷ lệ cao hơn, nghĩa là nền kinh tế có hiệu quả hơn. - Nếu  +  < l là trường hợp lợi suất giảm khi mở rộng quy mô sản xuất; khi gia tăng một tỷ lệ đầu vào thì sản lượng cũng có thể tăng lên nhưng với tỷ lệ nhỏ hơn, tức là nền kinh tế kém hiệu quả hơn. Sự đóng góp của tiến bộ công nghệ A (năng suất các nhân tố tổng hợp TFP): theo hướng gia tăng năng suất của TFP (TFP/ TFP) chính là làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn và dẫn đến sự gia tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Sự gia tăng năng suất của tổng nhân tố TFP/TFP có thể giải thích bằng nhiều nguyên nhân. Trước tiên, do đổi mới công nghệ, do các kiến thức mới giúp thay đổi phương pháp sản xuất. Ngoài ra, các nguyên nhân khác như giáo dục, đào tạo, quản lý nhà nước,... cũng ảnh hưởng lên TFP/TFP. Kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố dẫn đến thay đổi chất lượng công nhân, chất lượng vốn và khả năng quản lý các hoạt động sản xuất và dẫn đến gia tăng TFP (TFP/TFP). Tương tự như hệ số ICOR, người ta cũng sử dụng hàm sản xuất Cobb - Douglas để tính TFP/TFP cho từng ngành nhằm đánh giá sự tiến bộ và mức đóng góp của ngành đó vào sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Qua phương trình trên cho thấy với tỷ lệ tăng trưởng xác định thì sự gia tăng năng suất nhân tố tổng hợp càng lớn dẫn đến sự gia tăng của vốn (hoặc lao động) nhỏ hơn. Điều đó cũng nghĩa là hệ số ICOR càng nhỏ. Đây chính là sự phản ảnh hiệu quả của đầu tư qua hai hệ số ICOR và TFP/TFP. Tức là khi TFP/TFP càng cao thì ICOR càng nhỏ và như vậy sẽ cần một lượng vốn đầu tư nhỏ hơn mà vẫn đảm bảo hiệu quả hoạt động và phát triển của nền kinh tế [35, tr.27-28]. * Mô hình tăng trưởng kinh tế của R.Solow:
  • 33. RobertSolowlàGiáosưcủaKhoakinhtế,HọcviệncôngnghệMassachusetts, từng được giải thưởng Noben kinh tế năm 1987 cho những đóng góp xuất sắc trong lý thuyết tăng trưởng và những nghiên cứu thực nghiệm về quá trình tăng trưởng. Như đã phân tích ở trên, mô hình tăng trưởng kinh tế Harrod - Domar đã đưa ra điều kiện để một nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ không đổi, với tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ phụ thuộc vào một nhân tố duy nhất đó là vốn. Do vậy, ông đã đưa ra một mô hình khác là: Q = F (K, L, t) Trong đó: Q là sản lượng đầu ra; L là lượng đầu vào (số lượng lao động cùng trên một đơn vị thời gian); K là lượng với vật chất đầu vào (số giờ máy trên một đơn vị thời gian); t là biểu thời gian [16]. Sự xuất hiện của biểu số t trong hàng sản xuất cho phép đánh giá sự thay đổi kỹ thuật. ở đây vì những điều kiện và lý do khác nhau chúng tôi không có đủ khả năng để phân tích và đánh giá mô hình tăng trưởng R.Solow, nhưng mô hình này đã có những kết luận sau: tăng trưởng nền kinh tế không chỉ phụ thuộc vào vốn, công nhân mà còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nữa, đặc biệt là các nhân tố tổng hợp (TFP), đó là sự gia tăng của vốn, lực lượng lao động và tiến bộ công nghệ tác động qua lại với nhau như thế nào và có ảnh hưởng tới sản lượng đầu ra (tốc độ và quy mô của GDP). Đây là điểm mấu chốt hay có thể nhận định rằng, các yếu tố đầu vào là quan trọng, nhưng quan trọng hơn cả là sử dụng chúng thế nào cho hiệu quả. Mô hình R.Solow đã được áp dụng và đánh giá tăng trưởng kinh tế ở Hoa Kỳ vào những năm 40 của thế kỷ XX. Hiện nay mô hình này đã được đánh giá và lượng hóa để xem xét các nhân tố đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế như thế nào? Kết luận chương 1 Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, không chỉ là vấn đề quan tâm của từng doanh nghiệp, ngành, địa phương mà cả của các nhà nghiên cứu và của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
  • 34. Trước khi nghiên cứu về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Phú Thọ, phải xem xét các khái niệm, đặc điểm, vai trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản và những nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Sau khi trình bày một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nội dung của chương 1 cũng đưa ra các nguyên tắc chủ yếu xác định và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả. Cũng trong chương này, tác giả đã trình bày 3 mô hình đánh giá tác động củavốn đầu tư tới tăng trưởng kinh tế. Đó là mô hình Harrod - Domar, hàm sản xuất Cobb - Douglas và mô hình tăng trưởng kinh tế R.Solow. Nhiều quốc gia đã áp dụng những mô hình trên để thấy rõ mối quan hệ hữu cơ giữa tăng trưởng kinh tế và tổng mức đầu tư. Đây là những mô hình được sử dụng trong việc tính toán định lượng hiệu quả của đầu tư, trong đó có đầu tư xây dựng cơ bản.
  • 35. Chương 2 thực trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh phú thọ từ năm 1997 đến nay 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ có ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng vốn xây dựng cơ bản 2.1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên 2.1.1.1. Điều kiện địa lý Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng trung du phía Bắc nước ta, tiếp giáp giữa vùng Đông Bắc, Tây Bắc và đồng bằng sông Hồng. Phú Thọ là tỉnh cầu nối giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền núi phía Tây Đông Bắc. Phía Bắc, Phú Thọ giáp tỉnh Yên Bái và Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Hoà Bình, phía Đông giáp tỉnh Vĩnh Phúc và Hà Tây, phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Tỉnh Phú Thọ có diện tích tự nhiên là 3540km2 , trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 27,6%, đất lâm nghiệp chiếm 41%. Tỉnh có 12 đơn vị hành chính, gồm: 01 thành phố Việt Trì, 01 thị xã Phú Thọ và 10 huyện; 274 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 13 phường, 11 thị trấn và 250 xã. Phú Thọ có 9 huyện miền núi, 214 xã miền núi, trong đó (có 50 xã đặc biệt khó khăn được thụ hưởng chương trình 135 của Chính phủ). Năm 2005 dân số của tỉnh có 1.307.400 người, bằng 1,71% dân số cả nước; mật độ dân số trung bình 373người/km2 . Phú Thọ có trên 20 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 85,7%, dân tộc Mường chiếm 12,9%, các dân tộc khác (Dao, Sán chay, Tày, H'mông, Thổ, Nùng, Thái,...) chiếm 1,4% [24, tr.29, 38].
  • 36. Biểu 2.1: Một số chỉ tiêu kinh tế và xã hội chủ yếu của tỉnh Phú Thọ (năm 1997-2005) [14, tr.39] T T Chỉ tiêu ĐVT 1997 2000 2003 2004 2005 1 Dân số trung bình 1000 người 1237, 5 1275, 0 1302, 7 1314, 5 1325 2 Tốc độ tăng DS tự nhiên % 1,69 1,2 1,007 1,002 0,98 3 Tổng sản phẩm trong tỉnh (Giá 1994) GDP Tỷ đồng 2237 2794 3680 4037 4405 4 Tốc độ tăng GDP % 9,6 9,73 9,73 5 Tổng sản phẩm trong tỉnh (Giá hiện hành) Tỷ đồng 2837 3823 5812 5837 6565 6 GDP bình quân đầu người (giá hiện hành) 1000 đồng 2293 2998 3978 4400 4955 7 Cơ cấu GDP (giá hiện hành) - NLNN % 33,1 29,8 29,8 28,2 26 - CN - XD % 33,2 36,5 36,9 38,1 40,0 - TM - DV % 33,7 33,78 33,33 33,7 34,0 8 GTSX theo giá 1994 Tỷ đồng ước đạt - GTSX công nghiệp - thủ công nghiệp Tỷ đồng 2195, 9 3232 4569 5152 6435 - GTSX NLNN Tỷ đồng 1218 1506 2027 2124 2201 - Giá trị SX TM - DV Tỷ đồng 1081 1334 1807 2020 2363 9 Thu ngân sách trên địa bàn Tỷ 268,1 361,1 410 644 737
  • 37. đồng 1 0 Chi ngân sách địa phương Tỷ đồng 341,7 623 1234 1201 1450 1 1 Xuất khẩu trên địa bàn Triệu USD 37,4 78,5 80,2 96,5 125 1 2 Tổng vốn đầu tư phát triển Tỷ đồng 688 1124 3586 3679 4500 Phú Thọ là tỉnh có vị trí địa lý mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây Đông Bắc. Đây là một lợi thế cần được phát huy một cách triệt để để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Với vị trí cửa ngõ phía Tây nối với thủ đô Hà Nội, Phú Thọ là cầu nối giao lưu kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền núi như Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, cả về đường bộ, đường sắt và đường sông. Đặc biệt, sau khi các tuyến đường Quốc lộ 2, quốc lộ 32A, 32B, 32C, đường sắt Hà Nội - Lào Cai - Côn Minh và đường sắt Xuyên á được đầu tư, nâng cấp đưa vào sử dụng thì đây là một điều kiện thuận lợi không chỉ cho riêng tỉnh Phú Thọ mà cả tỉnh miền núi khác nữa. Chính nhờ vị trí địa lý này, mà tỉnh Phú Thọ có thể thu hút các nguồn vốn, khoa học, kỹ thuật nguyên vật liệu, nông, lâm, khoáng sản từ các tỉnh lân cận trên để mở rộng sản xuất và xuất khẩu. Tất cả các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông từ các tỉnh phía Tây Đông Bắc đều quy tụ về Phú Thọ rồi mới đi Hà Nội, Hải Phòng và các nơi khác. Thủ đô Hà Nội và một số địa phương khác đã, đang và sẽ là thị trường lớn về tiêu thụ nông - lâm sản, giấy, một số sản phẩm hoá chất do các cơ sở công nghiệp và nông nghiệp trên địa bàn Phú Thọ sản xuất ra. Trong tương lai các thành phố và nhiều tỉnh của nước ta sẽ phát triển với tốc độ nhanh. Nhiều các khu công nghiệp, khu chế xuất có kỹ thuật cao, các khu du lịch, các trung tâm thương mại sẽ phát triển ở Hà Nội và các vùng phụ cận. Từ Sơn Tây qua Hoà Lạc về tới Miếu Môn và Phủ Lý sẽ trở thành hành lang kinh tế - đô thị công nghiệp. Đây là những lợi thế tiềm năng mà tỉnh Phú Thọ có thể khai thác tốt để mở rộng thị trường. Dự báo Hà Nội và các vùng phụ cận sẽ có số dân khoảng 6 triệu người vào năm 2010 và từ 8-9 triệu người vào năm 2020 và sẽ hình thành nhiều khu chế xuất, khu
  • 38. công nghiệp tập trung có công nghệ cao, các khu du lịch, các trung tâm thương mại lớn, trở thành một hành lang kinh tế lớn và sẽ có tác động đến sự phát triển của tỉnh Phú Thọ [37, tr.32]. Tại tỉnh Phú Thọ, các khu công nghiệp như Việt Trì, cụm công nghiệp Lâm Thao - Bãi Bằng, và các cơ sở sản xuất công nghiệp được hình thành và phát triển từ nhiều năm nay đã thành truyền thống của ngành công nghiệp cả nước và của tỉnh từ cộng thêm các khu công nghiệp mới như Thuỵ Vân, cụm công nghiệp Bạch Hạc cùng với nguồn nguyên liệu, lực lượng lao động tại chỗ là những thuận lợi để Phú Thọ phát triển nhanh và mạnh các ngành công nghiệp. Quỹ đất, nguồn nước dồi dào, có nhiều tiềm năng phát triển nông, lâm nghiệp, nhất là trồng cây nguyên liệu giấy, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả và nuôi trồng thuỷ sản cũng là những lợi thế hiện thực của tỉnh. Bên cạnh những lợi thế với phát triển kinh tế, Phú Thọ là một địa phương có nhiều di tích gắn liền với lịch sử dựng nước của dân tộc Việt Nam như: khu di tích lịch sử Đền Hùng, Đền Mẫu Âu Cơ, và tỉnh cũng có nhiều danh lam thắng cảnh có tiềm năng phát triển du lịch như Đầm Ao Châu ở huyện Hạ Hoà, vườn Quốc gia Xuân Sơn ở huyện Thanh Sơn, nước khoáng nóng Thanh Thuỷ, công viên Văn Lang, khu du lịch Núi Trang... Điều đó khẳng định Phú Thọ có cả bề dày lịch sử và nhiều khả năng cho phát triển. Tuy vậy, Phú Thọ là tỉnh miền núi có địa hình bị chia cắt, gây cản trở phần nào cho phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và đời sống của nhân dân, nhất là đồng bào vùng dân tộc ít người. Về địa hình có thể chia làm hai tiểu vùng chủ yếu: - Tiểu vùng núi cao phía Tây, phía Nam tỉnh: chủ yếu thuộc các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, phía Tây huyện Cẩm Khê (huyện Sông Thao cũ). Đây là vùng khó khăn trong việc đi lại, giao lưu với các nơi khác. Tuy nhiên ở đây còn nhiều tiềm năng phát triển, nhất là về lâm nghiệp, khai thác khoáng sản. - Tiểu vùng đối gò bát úp chia cắt nhiều xen kẽ đồng ruộng, và dải đồng bằng ven các triền sông Hồng, sông Lô, sông Đà và hình thành đồng bằng tương đối tập trung ở các huyện Phù Ninh và Lâm Thao. Vùng này thuận lợi cho việc trồng các loại cây
  • 39. nguyên liệu giấy, cây công nghiệp dài ngày như chè, cây ăn quả, phát triển các loại cây lương thực, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản. Về khí hậu, thời tiết: Phú Thọ là tỉnh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 230 C; lượng mưa trung bình năm khoảng 1600-1800mm. Độ ẩm trung bình năm khoảng 85-87%. Khí hậu và thời tiết của Phú Thọ phù hợp cho các loại cây trồng và vật nuôi tương đối phong phú. Về sông ngòi: Phú Thọ có ba con sông lớn chảy qua, đó là sông Hồng, sông Đà và sông Lô, bên cạnh đó, còn có những sông, suối nhỏ. Đây là nguồn cung cấp nước rất quan trọng cho sinh hoạt và cho sản xuất, nhưng đồng thời cũng gây không ít khó khăn, đặc biệt là vào mùa lũ lụt làm ảnh hưởng tới phát triển kinh tế - xã hội và sinh hoạt của nhân dân. 2.1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên * Tài nguyên đất: Phú Thọ có tổng diện tích đất tự nhiên 354.000 ha, trong đó đất nông nghiệp là 97.704 ha, chiếm 27,6%; đất lâm nghiệp là 145,14 ha, chiếm 41%; đất chuyên dùng là 21.594 ha, chiếm 6,1%; đất ở là 8.142 ha, chiếm 2,3%; đất chưa sử dụng là 81.420 ha, chiếm 23%; trong đó đất đồi núi chưa sử dụng là 51.764 ha, chiếm 14,6% tổng diện tích đất. Kết quả điều tra thổ nhưỡng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cho thấy: đất perality đỏ vàng phát triển trên phiến thạch sét, diện tích lên tới 116.266 ha, phân bố chủ yếu ở các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Cẩm Khê, Đoan Hùng. Đây loại đất đồi núi, thường có độ cao trên 100m, độ dốc lớn, tầng dày đất khá, thành phần cơ giới nặng, mùn khá; loại đất này thường sử dụng trồng rừng, một số nơi có độ dốc dưới 250 sử dụng trồng cây công nghiệp. * Tài nguyên rừng và tiềm năng du lịch: Diện tích rừng của tỉnh Phú Thọ có 145.140 ha. Rừng tự nhiên có 69.546,9 ha, chủ yếu là rừng nghèo và rừng trung bình, rừng giầu chỉ có ở vườn Quốc gia Xuân Sơn. Rừng trồng có diện tích là 74.704,63 ha, chủ yếu là trồng bạch đàn, mỡ, keo và bồ đề; Năm 2005 độ che phủ của rừng là 45%. Với diện tích rừng trồng và cây nguyên liệu giấy có hầu hết ở các huyện, thị sẽ là nguồn nguyên liệu quan trọng cho phát triển ngành công nghiệp giấy.
  • 40. Với khu di tích lịch sử Đền Hùng - Trung tâm văn hoá tâm linh, cội nguồn của cả nước; cùng với Di tích Đền Mẫu Âu Cơ tại huyện Hạ Hoà, là những di tích gắn liền với lịch sử và truyền thống về cội nguồn của đất nước. Bên cạnh đó vườn quốc gia Xuân Sơn ở huyện Thanh Sơn, Đầm Ao Châu ở huyện Hạ Hoà, nước khoáng nóng ở huyện Thanh Thuỷ, công viên Văn Lang ở thành phố Việt Trì, khu du lịch Núi Trang... sẽ là tiềm năng rất lớn đề Phú Thọ có điều kiện và lợi thế để kết hợp với các tỉnh lân cận mở các tuyến du lịch hấp dẫn khách trong nước và nước ngoài. * Tài nguyên khoáng sản: Tuy không thuộc loại là tỉnh giầu tài nguyên khoáng sản, nhưng Phú Thọ có một số loại tài nguyên khoáng sản rất có ý nghĩa, có trữ lượng khá lớn. Như Cao Lanh có tổng trữ lượng 30 triệu tấn đá vôi, 1.000 triệu tấn, Penspát 5 triệu tấn như đá vôi, cao lanh, penspát, pyrít, nước khoáng để sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng. Nguyên liệu dùng cho sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng: Trữ lượng đá vôi ở Phú Thọ là 1 tỷ m3 - là mức trữ lượng khá lớn, đây là nguồn nguyên liệu chính dùng cho sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng. Trong tương lai, khi các cụm đô thị được xây dựng thì nhu cầu về xi măng, đá xây dựng và các loại vật liệu xây dựng là rất lớn; Cao lanh ở Phú Thọ với trữ lượng là 30 triệu tấn có thể khai thác công nghiệp hàng năm khoảng 30 - 40 nghìn tấn, chất lượng tốt có thể dùng làm nguyên liệu cho sản xuất các sản phẩm sứ, đồ gốm là những mặt hàng đang và sẽ có thị trường tiêu thụ cả ở trong và ngoài nước. Với trữ lượng 48 triệu lít và theo đánh giá của Bộ Công nghiệp thì Phú Thọ (vùng nước khoáng nóng ở huyện Thanh Thuỷ) là một trong 4 nơi của cả nước có nguồn nước khoáng có chất lượng tốt nhất. Đây chính là một lợi thế quan trọng cần được phát huy để phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ du lịch. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 2.1.2.1. Cơ sở hạ tầng * Giao thông: Phú Thọ là một trong ít tỉnh ở khu vực Trung du miền núi Bắc Bộ có hệ thống giao thông tương đối hợp lý và đồng bộ giữa 3 phương thức vận tải quan trọng là: đường bộ -
  • 41. đường sắt - đường thuỷ với 2 đầu mới giao thông là thành phố Việt Trì và thị xã Phú Thọ. So với các tỉnh tương đồng trong vùng thì mạng lưới giao thông tại Phú Thọ trội hơn về số lượng nhưng chất lượng nói chung còn yếu kém. - Giao thông đường bộ: Tổng chiều dài đường bộ hiện có 9.481km (nếu chỉ tính đường ô tô đi được thì tổng chiều dài là 2.768km), mật độ đạt 0,80km/km2 và 2,14km/1.000 dân; trong khi bình quân của cả nước 0,47km/km2 và 1,96km/1.000 dân và còn cao hơn khu vực phía Bắc. Tuy vậy, tuyến đường quốc lộ tốt, khá trung bình chỉ có 60%, xấu và rất xấu là 40%. Đường tỉnh lộ thì chất lượng xấu chiếm từ 70 - 80%, còn lại tốt, khá, trung bình chỉ từ 20 - 30%. Hệ thống đường bộ của tỉnh, nhìn chung còn rất xấu (khoảng 80%), trừ một số đường quốc lộ đạt cấp độ kỹ thuật, còn lại các công trình trên tuyến đều ở mức tiêu chuẩn kỹ thuật thấp, nhiều cầu cống chưa được xây dựng, hoặc xuống cấp qua nhiều năm sử dụng nhất là một số tuyến ở phía Tây của tỉnh. Giao thông như thế này đã ảnh hưởng nhiều đến tình hình an ninh chính trị và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đường giao thông nông thôn của tỉnh còn rất xấu. Hệ thống cầu cống đều ở tình trạng tạm bợ, đi lại khó khăn, nhiều nơi còn chưa đi lại được trong mùa mưa, đặc biệt là ở hai huyện Thanh Sơn và Yên Lập. Những năm vừa qua tuy đã được đầu tư nâng cấp nhưng do kinh phí còn hạn chế nên chất lượng vẫn còn ở mức thấp. - Giao thông đường sắt: Đường sắt quốc gia Hà Nội - Lào Cai đi qua Phú Thọ với chiều dài 74,95km, khổ đường ray 1m, có 8 ga đặt ở 5 huyện và thành phố. Ngoài ra còn có 3 tuyến chuyên dùng vào các cơ sở: Công ty giấy Bãi Bằng, Công ty Supe phốt phát và hoá chất Lâm Thao và cảng Việt Trì với tổng chiều dài 14,6km. Đường sắt qua tỉnh là đoạn quan trọng trong trục đường sắt Đông Tây nối cảng Hải Phòng với tuyến liên vận Hà Nội - Côn Minh (Trung Quốc). Tuy nhiên do đường sắt hình thành đã gần 100 năm, cộng thêm trải qua nhiều giai đoạn chiến tranh và thiên nhiên huỷ hoại nên chất lượng đã xuống cấp nghiêm trọng. Nhiều đoạn bán kính tối thiểu chỉ có 120m,
  • 42. dốc hạn chế còn 8 - 12% nên tốc độ chạy tàu cũng chỉ ở mức trung bình 30 - 40 km/h. Các ga trên tuyến không đồng đều, còn ở tình trạng bán vĩnh cửu. Trừ một số cầu, cống mới đầu tư, còn phần lớn là cầu thép bị xuống cấp làm hạn chế tốc độ chạy tàu và an toàn thấp. - Giao thông đường thuỷ: Phú Thọ có hệ thống sông ngòi tương đối dày đặc, đặc biệt thành phố Việt Trì được gọi là "Thành phố ngã ba sông", nơi hội tụ của 3 dòng sông lớn là sông Hồng, sông Lô và sông Đà. Tổng chiều dài đường sông trên địa bàn Phú Thọ là 302km. Ngoài ra, Phú Thọ còn có hai cảng sông là cảng Việt Trì và cảng Bãi Bằng và các bến sông: Thọ Sơn (sông Chảy); ấm Thượng, Vĩnh Chân, Cổ Tiết, thị xã Phú Thọ (sông Thao); Yến Mao (sông Đà) và Thanh Sơn (sông Bứa). * Hệ thống cung cấp điện: Trong thời gian vừa qua do được đầu tư nên hệ thống cung cấp điện trên địa bàn tỉnh đã tương đối tốt. Cụ thể, đã hoàn thành việc xây dựng mới trạm 220/110kV với dung lượng 2 X 125MVA tại phía Bắc thành phố Việt Trì và ba trạm 110/35kV tại Đồng Xuân (huyện Thanh Ba), phố Vàng (huyện Thanh Sơn) và Yến Mạo (huyện Thanh Thuỷ). Mở rộng nâng cao công suất trạm 110kV Việt Trì (2 X 40 MVA) xây dựng mới 560km đường dây 3kV, trong đó có 200km lưới 6kV, 10kV lên 22kV hoặc 35kV. Đã xây dựng 76 trạm hạ thế ở những xã chưa có điện và đã đảm bảo 100% số xã có điện, cải tạo và nâng cao 160 trạm hạ thế hiện có và 325km đường dây hạ thế để đảm bảo vận hành an ninh toàn lưới điện trên phạm vi toàn tỉnh. * Hệ thống bưu chính, viễn thông: Năm 2005, đã đạt được tỷ lệ 7,5 máy điện thoại/100 dân. Hiện nay, tỉnh đã vượt mục tiêu mà đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra là 3 - 4 máy và đang tiếp tục thực hiện chương trình số hoà mạng bưu chính viễn thông. Phát triển mạng cáp nội địa, các trung tâm huyện, các bưu cục để đáp ứng nhu cầu thuê bao của khách hàng. Đã và đang phát triển mạnh các loại hình: nhắn tin, fax, chuyển phát nhanh EMS - DHL, phấn đấu đến năm 2010 đạt trên 15 máy điện thoại/100 dân. Đây là điều kiện thuận lợi không chỉ là phát triển xã hội mà phát triển thông tin kinh tế nhanh chóng, thuận tiện. * Hệ thống cấp, thoát nước:
  • 43. Hiện nay, tỉnh Phú Thọ đã đảm bảo việc cung cấp nước cho các đô thị thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, các thị trấn Đoan Hùng, Hạ Hoà, Thanh Sơn, Tam Nông; các KCN Bãi Bằng, Lâm Thao, Thuỵ Vân. Cùng với việc phát triển hệ thống cấp nước, tỉnh cũng đã đang hoàn thiện hệ thống, quản lý tốt nguồn nước, chống ô nhiễm trong quá trình thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh. * Hệ thống thuỷ lợi: Với điều kiện là tỉnh sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, do vậy tỉnh đã chú trọng việc khôi phục, sửa chữa, nâng cấp hệ thống thuỷ lợi hiện có. Tập trung đầu tư chiều sâu, cải tạo đầu mối đồng bộ với kiên cố hoá kênh mương như các hệ thống thuỷ lợi như: Diên Hồng, Sơn Cương,... Xúc tiến xây dựng hệ thống thuỷ lợi 12 xã Bắc Hạ Hoà, 5 xã Thanh Ba. Dự kiến đến năm 2010 xây dựng mới 70 trạm bơm tưới tiêu, tăng thêm diện tích tưới 3.600 ha và diện tích tiêu 6.900 ha 2.1.2.2. Giáo dục, xã hội và nguồn nhân lực Phú Thọ là một tỉnh được xếp vào loại có truyền thống hiếu học, có khả năng tiếp thu nhanh khoa học - kỹ thuật và là một trong hai tỉnh của vùng trung du miền núi phía bắc có trường đại học (Đại học Hùng Vương của tỉnh Phú Thọ và Đại học Thái Nguyên của tỉnh Thái Nguyên). Trường Đại học Hùng Vương với quy mô đào tạo 6.130 sinh viên, trong đó bậc đại học là 3,690 sinh viên, bậc cao đẳng là 2.440 sinh viên. Năm 2006 sẽ tuyển mới 1.186 sinh viên và 400 sinh viên sẽ tốt nghiệp hệ đại học. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không thể không nói đến công tác đào tạo tỉnh rất quan tâm đến công tác dạy nghề. Hiện nay tỉnh đã đang đầu tư nâng cấp mở rộng quy mô của trường dạy nghề của tỉnh với quy mô đào tạo 3.500 học sinh/năm. Đây sẽ là một nguồn cung cấp lực lượng lao động được đào tạo, có tay nghề đảm bảo cho phát triển các ngành kinh tế của địa phương. Trong năm đã tổ chức đào tạo, dạy nghề cho 88,1 nghìn công nhân kỹ thuật. Riêng năm 2005, lao động được đào tạo là 28 ngàn người, trong đó công nhân kỹ thuật là 21 ngàn người, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo là 29,0% tăng hơn 1,5 lần so với năm 2001 (năm 2001, tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ có 17,40%).
  • 44. - Nguồn nhân lực: Lao động trong độ tuổi có khả năng lao động năm 2005 là 748.600 người (chiếm 55% dân số - đây là một tỷ lệ khá cao), nhưng phổ biến là lao động phổ thông. Năm 2004 vẫn còn 23,2 ngàn người lao động chưa có việc làm ổn định. Tính đến cuối năm 2005 trên địa bàn có 527 giáo viên đại học, cao đẳng; 21.120 sinh viên các hệ đào tạo [38, tr.180]. - Văn hoá: Phú Thọ có Khu di tích lịch sử Đền Hùng và đền Mẫu Âu Cơ (tại xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà) - đây là trung tâm văn hoá, tâm linh và là nơi các Vua Hùng đã khai sinh ra đất nước Văn Lang, khai sinh ra dân tộc Việt Nam. Chính vì thế mà người dân Phú Thọ là những người có phẩm chất yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và tinh thần cần cù, sáng tạo trong công cuộc xây dựng, đổi mới quê hương trong thời kỳ đổi mới. Phú Thọ là tỉnh có khá nhiều di tích lịch sử, văn hoá đã được xếp hạng, trong đó đặc biệt có Khu di tích lịch sử Đền Hùng và đền Mẫu Âu Cơ mang ý nghĩa tầm quốc gia vì đây chính là cội nguồn của dân tộc Việt Nam; nhiều nét văn hoá như hát xoan, cồng chiêng dân tộc Mường... - Còn có nhiều tiềm năng về đất đai cho phát triển nông, lâm nghiệp, thuận lợi cho trồng cây nguyên liệu giấy, cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả và phát triển công nghiệp chế biến. - Tuy không phải là tỉnh giầu về tài nguyên khoáng sản nhưng địa phương cũng có một vài loại khoáng sản rất có ý nghĩa cho nền kinh tế. - Khu Di tích lịch sử Đền Hùng - là trung tâm văn hoá tâm linh, cội nguồn của cả nước. Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, nhất là trong 10 năm gần đây, với sự quan tâm đầu tư lớn của Nhà nước, kinh tế xã hội vùng trung du miền núi (trong đó có tỉnh Phú Thọ) đã có nhiều thay đổi, đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và xoá đói giảm nghèo và phát triển văn hoá, giáo dục đào tạo. Tuy nhiên, do điểm xuất phát thấp nên đến nay vùng này vẫn thuộc trong những vùng khó khăn và nghèo rất của cả nước (thể hiện qua các số liệu sau: Dân số chiếm trên 13% dân số của cả nước nhưng mới chỉ tạo ra khoảng 6% GDP của cả nước, thu nhập
  • 45. bình quân đầu người bằng 40% chung của cả nước, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới cao nhất, có tỉnh có 50-60%). Tăng trưởng của các ngành và toàn bộ nền kinh tế của tỉnh chưa vững chắc, chất lượng, hiệu quả chưa cao, sức cạnh tranh thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, chưa khai thác được triệt để các tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội Tăng trưởng của ngành và toàn nền kinh tế của tỉnh chưa vững chắc, chất lượng, hiệu quả chưa cao, sức cạnh tranh thấp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, chưa khai thác được triệt để tiềm năng, thế mạnh vào phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm năng nông, lâm, thủy sản chưa được khia thác triệt để, chăn nuôi chưa cân đối với trồng trọt. Huy động các nguồn nội lực chưa cao, thể hiện trong việc huy động các nguồn đất đai, khoáng sản, mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản, tài nguyên rừng chưa biến thành nguồn vốn đầu tư [37, tr.25]. Tóm lại, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng tỉnh Phú Thọ vẫn có những lợi thế phát triển về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và những đặc điểm riêng về kinh tế - xã hội, tỉnh có thể khai thác để mở rộng thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển. Đây có thể coi là những lợi thế hết sức cơ bản của địa phương. 2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Phú Thọ từ năm 1997 đến hiện nay 2.2.1. Thực trạng huy động vốn Từ khi tách tỉnh đến nay, Phú Thọ đã tích cực triển khai công tác đầu tư nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung tại địa phương. Năm 1997, trong điều kiện gặp rất nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, đặc biệt trong 5 năm gần đây (2001 - 2005), trong bối cảnh tình hình kinh tế - chính trị thế giới có nhiều biến động, ảnh hưởng không ít đến nền kinh tế nước ta và của tỉnh Phú Thọ. Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh đã nhận định: Năm năm qua, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV trong điều kiện kinh tế, chính trị thế giới có nhiều biến động cùng với những thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; giá cả một số mặt hàng thiết yếu liên tục tăng cao; thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra trên diện rộng; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp, kém lợi thế trong
  • 46. thu hút vốn đầu tư; một số vấn đề xã hội còn bức xúc. Song, cũng có nhiều thuận lợi, đó là nền kinh tế thế giới và khu vực sau khủng hoảng đã được phục hồi, chính trị - xã hội trong nước tiếp tục ổn định; những chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước được ban hành ngày càng hoàn thiện; nhiều dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và sản xuất kinh doanh những năm qua đã bước đầu phát huy tác dụng [14, tr.25-26]. Mặc dù có những thách thức, khó khăn, nhưng công tác đầu tư xây dựng cơ bản của địa phương đã có những tiến bộ nhất định cả trong việc huy động và sử dụng vốn. Kết quả huy động vốn đầu tư phát triển, trong đó có vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Phú Thọ đạt được kết quả sau: Bảng 2.2: Vốn đầu tư phát triển [38] Đơn vị tính: Tỷ đồng TT Năm Chỉ tiêu 1997 2000 2002 2003 2004 2005 1 Đầu tư từ NSNN 678 1301 1970 1694 2050 (1) Đầu tư qua tỉnh 275 634 706 1002 950 a Ngân sách đầu tư tập trung 192 286 431 658 690 - Vốn xây dựng cơ bản tập trung 82,4 122,6 92,18 112,6 90,59 - Hỗ trợ MT và QĐ của TTg - 42,5 183,6 241,8 271,5 - ODA 109,3 121 135 184,5 200 - Đầu tư từ NS tỉnh và vốn khác - - 19,95 27,4 28 - Điều phối quyền sử dụng đất - - - 92 100 b Vốn NS, CTMT, vốn khác 64,9 97,8 105,5 104,5 110 c Tín dụng đầu tư, vốn vay 18,7 250 169,7 239 150 (2) ĐT qua Bộ, ngành, DNN2 402,5 667,5 1264 692,3 1100 2 ĐT của dân cư và tư nhân 343,9 741,8 1011 935 125
  • 47. 3 ĐT trực tiếp nước ngoài PDI 102,7 103,6 604,7 1050 1200 Tổng cộng 1214 2147 3586 3679 4500 Từ khi tái lập tỉnh, đặc biệt trong 5 năm 2001 - 2005, tỉnh Phú Thọ đã huy động được 15.500 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 32,27% và tăng trên 3,5 lần so với giai đoạn 1997 - 2000. Cơ cấu vốn huy động được phân bố như sau: vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm 53,1%, tăng bình quân 24,8%/năm (đầu tư qua tỉnh chiếm 23,3%, tăng 28,1%/năm; đầu tư qua Bộ, ngành chiếm 29,8%, tăng 22,3%/năm. Vốn đầu tư khu vực dân cư, tư nhân chiếm 27,4%, tăng 29,5%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 63,5%/năm. Riêng năm 2005, tổng vốn huy động đạt 4.530 tỷ đồng vượt kế hoạch 30 tỷ đồng, tăng 19,9% so với năm 2004, đạt được kế hoạch đề ra là 4.400 - 4.500 tỷ. Đến hết năm 2005, trên địa bàn tỉnh đã có 51 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hoạt động, với số vốn đăng ký là 307,8 triệu USD, 52 dự án từ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) với số vốn là 155,5 triệu USD và hơn 20 dự án từ các tổ chức phi chính phủ (NGO), với mức vốn cam kết là 4,34 triệu USD [38]. Với chính sách và cơ chế khuyến khích thu hút đầu tư khu vực tư nhân trong nước, đặc biệt là năm 2000, sau khi luật doanh nghiệp có hiệu lực khu vực kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân được củng cố và phát triển. Tại địa phương các nhà đầu tư trong tỉnh đã đầu tư 3.500 tỷ đồng. Có 20 nhà đầu tư từ tỉnh ngoài với số vốn 1.000 tỷ đồng, chiếm gần 30%/ tổng vốn đầu tư từ khu vực này. Chỉ tính riêng năm 2005, tỉnh đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 240 doanh nghiệp, vốn đăng ký đạt 700 tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ, nâng tổng số doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp trên 1.200 doanh nghiệp [38]. Các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh được củng cố và sắp xếp lại, chuyển đổi loại kinh doanh. Các doanh nghiệp nhà nước đã đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao công suất, như Công ty giấy Bãi Bằng, Công ty Supe phốt phát và hoá chất Lâm Thao, hoá chất Việt Trì... Nhờ đó mà nhiều sản phẩm của các doanh nghiệp này đã nâng cao được năng suất, sản phẩm có tính cạnh tranh, giữ vững được uy tín, làm ăn có lãi.
  • 48. 2.2.2. Phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ở tỉnh Phú Thọ Nhờ có chính sách và cơ chế đúng và phù hợp với thực tiễn của địa phương, nên tỉnh Phú Thọ đã huy động và sử dụng nguồn vốn hiệu quả góp phần rất lớn cho tăng trưởng phát triển kinh tế. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh bình quân đạt 9,71%, tuy chưa đạt được mục tiêu kế hoạch cao nhất là 10% nhưng cao hơn mức bình quân của cả nước là 7,5% và cao nhất từ khi tách tỉnh đến nay. Cao hơn 1,55% so với thời kỳ 1997 - 2000. Năm 2005, GDP đạt 4.955 ngàn đồng tăng 1,65 lần so với năm 2000 (năm 2000 đạt 2.998 ngàn đồng). Do vốn đầu tư tăng, tổng vốn đầu tư 5 năm đạt 15,38 nghìn tỷ đồng, tăng 31,97% là tăng 3,5 lần so với giai đoạn 1997-2000 đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh từ 8,06% (2000) lên 9,71% (2001-2005) [38]. Đối với tỉnh Phú Thọ, một tỉnh sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Nhờ có vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ bản cho hệ thống thủy lợi, đường giao thông, các cơ sở sản xuất công nghiệp chế biến các loại hàng nông lâm sản, thủy sản, giúp ngành nông nghiệp phát triển khá vững chắc và toàn diện. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 7,9% vượt xa mục tiêu đề ra là trên 5%, trong đó nông nghiệp tăng 7,8%, lâm nghiệp tăng 8,47%, thuỷ sản tăng 8,4%. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị canh tác tăng từ 15,6 triệu đồng/ ha năm 2000 lên 20,2 triệu đồng/ha năm 2005. Hệ số sử dụng đất nông nghiệp đạt 2,15 lần tăng 0,1 lần so với năm 2000. Đã hình thành một số vùng chuyên canh gắn với công nghiệp chế biến như vùng chè, nguyên liệu giấy, cây lấy gỗ, cây ăn quả. Nhiều sản phẩm nông nghiệp đã được sạch hơn và gắn với thị trường hơn. Nhờ có đầu tư xây dựng cơ bản mà nhiều cơ sở công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 14,8%, tuy có thấp hơn mức bình quân chung của cả nước là 16%, nhưng có tốc độ tăng cao hơn so với các ngành nông nghiệp và dịch vụ của địa phương và có mức tăng ổn định. Đặc biệt, trong công nghiệp, các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế đã đầu tư mở rộng, nâng cao công suất, đổi mới công nghệ nên đã phát huy được nhiều sản phẩm truyền thống có từ lâu tại địa phương hoặc đầu tư tạo ra các sản phẩm mới. Nhiều sản phẩm chủ yếu, sản lượng các sản phẩm quan trọng tăng nhanh. So với năm 2000, năm 2005, sản lượng giấy
  • 49. tăng 1,73 lần, phân bón tăng 1,65 lần, xi măng tăng 5,3 lần, chè tăng 2,1 lần, rượu bia tăng 3,86 lần, quần áo, giày dép tăng 3,91 lần. Đặc biệt, trong đầu tư xây dựng cơ bản đã gắn giữa công nghiệp chế biến với sản xuất nông nghiệp, để tạo bước đầu tư đồng bộ, đảm bảo lợi ích giữa người sản xuất và doanh nghiệp chế biến, nâng cao tính hiệu quả của sản xuất - đầu tư và thị trường. Do đó, trong công nghiệp, những ngành, những sản phẩm có tiềm năng, lợi thế đều tăng nhanh như: công nghiệp chế biến nông lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến khoáng sản đã được khai thác về lợi thế. Tỉnh Phú Thọ đã chú trọng đầu tư gắn với thị trường (đặc biệt là sản xuất để xuất khẩu), nhờ đó trong 5 năm qua (2001-2005), tổng kim ngạch xuất khẩu tại địa phương đã đạt trên 440 triệu USD, tăng bình quân 9,75%/năm, trong đó xuất khẩu địa phương tăng 12,3%. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của địa phương như hàng may mặc, dệt, da giày, sản phẩm nhựa, chè, hàng nông sản, sản phẩm gỗ, tre, trúc... đều tăng khá. Nhiều sản phẩm của tỉnh đã có mặt tại các thị trường truyền thống (như: Nga, Đông Âu, các nước ASEAN), nay đã xuất hiện và có vị trí nhất định tại một số thị trường mới, khó tính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc... Thời gian qua, đầu tư xây dựng cơ bản đã tạo thêm năng lực sản xuất và xã hội mới. Nhà nước đã đầu tư nâng cấp tuyến quốc lộ 2 nối các tỉnh đồng bằng với các tỉnh miền núi biên giới, qua Phú Thọ. Cải tạo, nâng cấp và làm mới trên 2000 km đường giao thông, trong đó đã tăng thêm gần 737km đường nhựa, 786 đường bê tông và 523 km đường cấp phối, 180 công trình thuỷ lợi, kiên cố hoá 646 km kênh mương; tăng thêm 4.176 ha được tưới tiêu chủ động, xây dựng và cải tạo 1.277 phòng học tỷ lệ phòng hiện kiên cố và bán kiên cố đạt 94,3%, tăng 14,3% so với năm 2001. Năm 2005, tỉnh đã có 121 trường đạt chuẩn quốc gia và là tỉnh miền núi đã đầu tư về sự nghiệp phát triển giáo dục. Năm 2003, Trường đại học Hùng Vương đã được thành lập. Năm 2005 toàn tỉnh có 136 trạm y tế, trong đó có 90% trạm y tế xã được kiên cố hoá, trong đó có 30% đạt chuẩn quốc gia về y tế, 100% xã có bác sĩ, có đủ thuốc thiết yếu cho nhu cầu khám chữa bệnh và 100% thôn bản có nhân viên y tế hoạt động. Năm 2005, đã đảm bảo tất cả các xã trên địa bàn tỉnh có đường ô tô đến trung tâm xã, có máy điện thoại, có điện lưới quốc gia và có đài truyền hình cơ sở. Các xã ở vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh, lương thực
  • 50. bình quân đầu người đạt mức 396 kg cao hơn mức bình quân của cả tỉnh là 320 kg, đã góp phần quan trọng xoá đói giảm nghèo cho đại đa số đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh. Tỉnh Phú Thọ có 40 xã đặc biệt khó khăn, 10 xã an toàn khu (tổng số có 50 xã được hưởng chương trình 135) và 21 thôn bản vùng cao khó khăn ngoài xã đặc biệt khó khăn. Từ năm 2001 đến nay, tổng số vốn đầu tư địa bàn vùng khó khăn là 230 tỷ đồng. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là 147 tỷ, đầu tư từ nguồn vốn trong nước 51 tỷ. Đầu tư từ chương trình quốc gia 1 tỷ. Đầu tư từ vốn chương trình và dự án khác 45,6 tỷ. Hiệu quả đầu tư đã xây dựng được gần 600 công trình (trong đó, công trình thuỷ lợi giao thông 125, thuỷ lợi 120, trường học 224, y tế 15, điện 60, nước sạch 10 và 50 công trình khác) [36, tr.3]. Trong 5 năm toàn tỉnh đã có 33,4 nghìn hộ thoát nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 19,6% năm 2001 xuống còn khoảng 5% (theo tiêu chí cũ), còn theo tiêu chí mới còn tới 31,5%. Giai đoạn 2001 - 2005 đã giải quyết việc làm cho khoảng 74,13 nghìn người vượt mục tiêu đề ra, xuất khẩu 10,47 nghìn người, hiện nay có 7 nghìn người của tỉnh Phú Thọ đang làm việc ở nước ngoài. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 29%. Hạ tầng đô thị ở thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, các thị trấn của các huyện đã được chú trọng đầu tư. Hạ tầng các cụm khu công nghiệp tăng đáng kể, nhất là khu công nghiệp Thuỵ Vân và cụm công nghiệp Đông Tạng. Theo Báo cáo của uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ, quá trình triển khai thực hiện đầu tư các dự án vốn ngân sách nhà nước, đến nay chưa phát hiện có sai phạm các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng. Đây cũng là một hiệu quả lớn và thành công của công tác sử dụng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương, ví dụ: - Năm 2002, nhà máy giầy thể thao của Công ty Giầy Vĩnh Phú được vay 9,7 tỷ đồng từ vốn tín dụng đầu tư của nhà nước thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển. Tổng vốn đầu tư là 15,2 tỷ đồng. Hệ số sử dụng vốn đầu tư: 9,7/15,2 tỷ. Sản lượng sản xuất: 800 - 900 ngàn đôi giầy, phần lớn sản phẩm được xuất khẩu. Doanh thu hàng năm: 85,0 tỷ đồng. Giải quyết việc làm cho gần 1000 lao động.
  • 51. Do sử dụng tốt vốn vay, nhà máy đã đầu tư nâng cấp máy móc, thiết bị, cải thiện điều kiện làm việc, đặc biệt là nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Do vậy, sản phẩm luôn có thị trường tiêu thụ ổn định, người lao động có thu nhập cao, bình quân khoảng 700 - 800.000 đ/người tháng. - Dự án mở rộng Nhà máy giấy Bãi Bằng được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn khác nhau: vốn ODA, vốn vay Ngân hàng, vốn tự có của Công ty, với các mức lãi suất khác nhau đến 3,55%/năm, không kể phí quản lý 0,2%, nhưng với điều kiện và năng lực quản lý, điều hành của Công ty, biết tổ chức vùng nguyên liệu tốt, sản xuất tốt, đến nay doanh thu hàng năm trên 1.100 tỷ đồng, lợi nhuận ước đạt 100 tỷ triệu đồng, thu hút nhiều lao động. Đặc biệt là người lao động có việc làm ổn định, có thu nhập, công ty có lợi nhuận. Tuy vậy, trong đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Thứ nhất, về huy động vốn đầu tư xây dựng cơ bản, mặc dù nguồn vốn đầu tư nói chung, vốn xây dựng cơ bản nói riêng đã có tốc độ tăng khá cao. Tuy vậy nguồn vốn từ nội lực của tỉnh còn chiếm tỷ trọng không cao, ngoài lý do khách quan là một tỉnh nghèo, thu nhập thấp, nhưng nhiều nguồn vốn trong dân cư, các doanh nghiệp, và đầu tư FDI, ODA, NGO chưa được huy động hết. Nguồn vốn đầu tư phát triển vẫn chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, đặc biệt là ngân sách Trung ương. Đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm 53,1% tổng vốn đầu tư, đầu tư qua tỉnh tuy có tốc độ tăng trưởng 28,1% nhưng chỉ có chiếm 23,3%, còn đầu tư qua bộ, ngành mặc dù có tốc độ tăng 22,3% thấp hơn của địa phương, nhưng lại chiếm tới 29,8% tổng vốn đầu tư. Do đó, nhiều cấp, nhiều ngành chưa thực sự năng động, tổ chức khai thác nguồn lực tại chỗ cho đầu tư xây dựng cơ bản, tâm lý trông chờ, cấp dưới dựa cấp trên, địa phương dựa trung ương, ỷ lại nhà nước, đặc biệt là dựa vào nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, mà thiếu sự năng động nhạy bén, huy động vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có nguồn vốn FDI, đặc biệt là nguồn vốn từ dân cư và các doanh nghiệp trong tỉnh, ngoài tỉnh. Do vậy, nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ bản, giải pháp là huy động vốn từ nhà nước, doanh nghiệp và từ cư dân, nhưng vốn từ ngân sách nhà nước là chủ yếu, chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối.
  • 52. Thứ hai, đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương còn dàn trải, chưa chủ động đầu tư có trọng điểm. Điều này thể hiện kể cả ở các dự án đầu tư nhóm A, nhóm B. Tất nhiên khách quan mà nói vấn đề này không chỉ riêng của tỉnh Phú Thọ mà của cả nước. Trong những năm vừa qua, hoạt động đầu tư và xây dựng nói chung, công tác đầu tư xây dựng nói riêng đã có những mốc phát triển nhất định. Nhiều dự án đầu tư, quá trình hoàn thành đưa vào hoạt động đã góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém trong công tác quản lý đầu tư xây dựng, dẫn đến hiệu quả chung là: Hiệu quả đầu tư thấp; thất thoát, lãng phí vốn đầu tư, chất lượng công trình kém, chi phí đầu tư trung bình cao hơn các nước trong khu vực [17, tr.23]. Tại Phú Thọ đa số các dự án đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nhóm C (nhưng số dự án từ khởi công đến hoàn thành trong thời hạn 2 năm chiếm tỷ trọng thấp, 30 - 40%); chưa có sự tập trung cho các công trình trọng điểm, có sức đột phá cho tăng trưởng và phát triển kinh tế tại địa phương. Ví dụ, các dự án đầu tư vào cụm công nghiệp Đồng Lạng, rừng quốc gia Đền Hùng, Trường đại học Hùng Vương, Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước, hạ tầng làng nghề và một số dự án từ vốn ODA. Hầu hết các dự án nêu trên, tiến độ chậm, do khâu giải phóng mặt bằng, xây dựng khu tái định cư chậm. Dự án đầu tư dây chuyền sản xuất gạch ngói bàng lò tuynel của Công ty Gốm xây dựng sông Lô. Do không có khảo sát tốt, thiếu nguyên liệu, chi phí cao, tổ chức quản lý chưa tốt, dẫn đến giá thành sản phẩm cao, không đủ sức cạnh tranh, liên tục lỗ nhiều năm. Số lỗ luỹ kế của Công ty là 1.567 triệu đồng. Nợ quá hạn phát sinh 1.106 triệu đồng, lãi phải trả nhưng chưa trả là 724 triệu đồng. Năm 1999, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đầu tư xây dựng 07 trạm bơm chống úng tại huyện Đoan Hùng (với tổng mức đầu tư khoảng 10,0 tỷ đồng), tuy nhiên về cơ bản đều không hoạt động hiệu quả, hiện nay khi đến mùa lũ, huyện vẫn phải mua máy bơm lưu động để thực hiện chống úng [2]. Qua các ví dụ trên, xét theo tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế đã trình bầy trong chương 1 thì chúng ta thấy rằng, các dự án này hoàn toàn không có hiệu quả kinh tế trên toàn bộ bình diện: cả hệ số sử dụng vốn, hệ số sử dụng công suất, doanh thu, thời gian thu hồi vốn,... Đó là chưa kể đến hiệu quả xã hội, người lao động không có việc làm....
  • 53. Một số công trình xây dựng cơ bản tại địa phương, thiếu vốn đối ứng, một số dự án mở rộng sản xuất, nâng cao trình độ công nghệ thì lại thiếu vốn đầu tư do đó thời gian thực hiện tiến độ chậm. Ví dụ Dự án đầu tư xây dựng khách sạn của Công ty Thương mại Du lịch và Dịch vụ hàng không Phú Thọ (dự án vay Quỹ hỗ trợ phát triển của tỉnh 3.654 triệu đồng, nợ quá hạn 1.171 đồng lãi phải trả, nhưng chưa trả 1.126 triệu đồng). Do không tính toán đến lượng khách lưu trú. Công suất sử dụng dưới 30% tổ chức quản lý yếu, nên dẫn đến thua lỗ. Nhiều dự án đến khi thực hiện chậm 2 - 3 năm có dự án đến 5 năm là "lỡ nhịp" cho các nhà đầu tư và cơ hội kinh doanh, cũng như phục vụ cho các công tác chính trị - xã hội. Thứ ba, trong công tác quản lý nhà nước, đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp các ngành trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư sớm hoàn thành thủ tục triển khai dự án. Tuy vậy, việc xây dựng một số chương trình, dự án thiếu thống nhất giành mục tiêu và giải pháp thực hiện, nhất là giải pháp huy động các nguồn vốn đầu tư, nội lực và ngoại lực. Trong năm 2005, Phú Thọ đã kịp thời và thực hiện nghiêm túc các quy định về đấu thầu (đấu thầu trong nước) cho 62 gói thầu của các công trình, dự án với tổng giá trị là 379,4 tỷ đồng. Trong đó đấu thầu xây lắp 55 gói thầu với giá trị 361,4 tỷ đồng (chiếm 89%) đấu thầu mua sắm hàng hoá với số lượng 7 gói thầu với giá trị 17,9 tỷ đồng (chiếm 11%), kết quả đã giảm được 6,8 tỷ đồng (gần 2% so với giá trị gói thầu). Nhưng nguồn vốn ngân sách tỉnh còn hạn hẹp, một số công trình phải đẩy nhanh tốc độ, nên chủ yếu áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế (62 dự án): chỉ áp dụng hình thức chỉ định thầu đối với những gói thầu quy mô nhỏ dưới 1 tỷ đồng và có những đặc thù riêng. Hầu hết các công trình thuộc các lĩnh vực (giao thông, thuỷ lợi kiến trúc, nông nghiệp văn hoá, xã hội...) có sử dụng vốn ngân sách nhà nước đều áp dụng hình thức đấu thầu đúng trình tự, thủ tục. Tuy vậy việc triển khai quy chế đấu thầu ở cấp huyện và các chủ đầu tư mới chỉ dừng ở dạng văn bản hành chính, chưa tổ chức được việc hướng dẫn cụ thể quy chế đấu thầu, nên nhiều nơi còn lúng túng tổ chức đấu thầu, ảnh hưởng đến chất lượng đấu thầu. Một số chủ dự án, chủ đầu tư chưa nắm vững các quy chế đấu thầu và các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu của nhà nước nên áp dụng thực hiện còn chủ quan, hoặc phức tạp hoá quá trình đấu thầu, mang tính hình thức, hoặc pháp hoá trong lĩnh vực lựa
  • 54. chọn nhà thầu. Công tác quản lý nhà nước về đấu thầu ở một số cấp ngành chưa được quan tâm đúng mức, chưa xây dựng chương trình kiểm tra định kỳ... Thứ tư, thiếu sự chỉ đạo sát sao và sự phối hợp thực hiện các dự án do các Bộ, ngành Trung ương thực hiện, dẫn đến một số dự án không có hiệu quả cao hoặc thất thoát lớn (ví dụ như cải tạo và nâng cấp quốc lộ 2 do PMU 18 của Bộ Giao thông Vận tải làm đơn vị chủ đầu tư) Năng lực điều hành, khả năng phối hợp của một số ngành và huyện còn hạn chế. Tình trạng quan liêu, trì trệ, thiếu năng động, thiếu kiểm tra giám sát và buông lỏng quản lý trong đầu tư xây dựng cơ bản dẫn đến lãng phí thất thoát, mà chưa được khắc phục và xử lý kịp thời. Thứ năm, hiệu quả đầu tư chưa cao, kể cả đầu tư của Trung ương và địa phương, đầu tư cho sản xuất và kết cấu hạ tầng. Chất lượng một số công trình chưa đạt yêu cầu, nợ khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành lớn, nhưng chưa có giải pháp khắc phục kịp thời, triệt để. Ví dụ, 6 tháng đầu năm 2005, các dự án đầu tư qua tỉnh Phú Thọ giá trị khối lượng thực hiện đạt 398,7 tỷ đồng bằng 46,9% kế hoạch, 49,9% vốn huy động. Như vậy, 6 tháng đạt 219,2 tỷ đồng, bằng 27,4% so với vốn huy động và 55% so với khối lượng thực hiện. Hỗ trợ có mục tiêu 96,4 tỷ đồng, bằng 56,2% kế hoạch, vốn thanh toán đạt 44,1 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 20,8%. Vốn chương trình mục tiêu; giá trị khối lượng thực hiện 6 tháng ước đạt 62,2 tỷ đồng, bằng 56,2% kế hoạch, vốn thanh toán 34,9 tỷ đồng đạt 31,7 so với huy động và 56,1% so khối lượng thực hiện. Về giải ngân, thanh toán các nguồn vốn từ ngân sách tỉnh, nhìn chung tiến độ giải ngân và thanh toán cao hơn so với vốn từ ngân sách nhà nước. Ngân sách tỉnh đạt 275,5 tỷ đồng, bằng 34,2% so vốn huy động và 55% so khối lượng thực hiện, trong đó: - Ngân sách đầu tư tập trung đạt 69,8 tỷ đồng, bằng 77% vốn huy động, 88,9% so khối lượng thực hiện. - Vốn hỗ trợ có mục tiêu 84,1 tỷ đồng, đạt tỷ lệ tương ứng là 39,7% và 65,7%. - Vốn ODA: 76,7 tỷ đồng, đạt 38,4% và 67,6%.
  • 55. - Vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh 10,1 tỷ đồng, đạt 36,1% kế hoạch và 67,3% khối lượng thực hiện. Dự án các hạng mục công trình thuộc Trường Cao đẳng Sư phạm trước đây (nay là Trường đại học Hùng Vương) là Nhà ký túc xá số 2, nhà Hội trường kiêm giảng đường được đầu tư từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia, nguồn vốn thanh toán mới bố trí được 3,5 tỷ đồng/tổng số 6,5 tỷ đồng, khởi công xây dựng từ năm 2001 nhưng đến nay hạng mục công trình nhà Hội trường kiêm giảng đường vẫn chưa bàn giao được do thanh toán chậm, nên ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án, mặc dù nhu cầu rất lớn về việc đưa công trình vào sử dụng nhưng do nguồn vốn bố trí chậm nên không thể thực hiện dẫn đến lãng phí). Thứ sáu, một số dự án đầu tư hoàn thành từ trước năm 2002, tuy vậy chưa được xử lý dứt điểm, gây tồn đọng, khó khăn cho tỉnh và doanh nghiệp. Điều này cũng ảnh hưởng đến hiệu quả không cao của đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương. Đến hết năm 2005, tỉnh Phú Thọ có 76 dự án hoàn thành, sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, chủ yếu là còn tính hoàn thành từ năm 2003 trở về trước, có tổng đầu tư 526 tỷ đồng. Khối lượng hoàn thành là 490 tỷ đồng, đến nay đã thanh toán 309 tỷ đồng, còn nợ 187,7 tỷ đồng, gồm công nghiệp: 4 dự án (15,6 tỷ đồng); chiếm 8,3%; nông lâm ngihệp, thuỷ lợi: 18 dự án (53 tỷ đồng), chiếm 28,2%; giao thông: 21 dự án (91,7 tỷ đồng) chiếm 48,9%; công cộng: 2 dự án (749 triệu đồng), chiếm 0,4%, quản lý nhà nước: 18 dự án (19,2 tỷ đồng) chiếm 10,2%, y tế - xã hội 3 dự án (4,2 tỷ đồng) chiếm 2,2%; giáo dục - đào tạo 4 dự án (1,2 tỷ đồng) chiếm 0,6%, văn hoá, thể dục, thể thao 2 dự án (833 triệu đồng) chiếm 0,4%; an ninh - quốc phòng 1 dự án (1,2 tỷ đồng). Do vậy, trong thời gian tới đặc biệt là năm 2006, Phú Thọ đã quán triệt nghiêm túc chỉ thị số 29/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngoài việc ưu tiên bố trí trả nợ cho các công trình dã hoàn thành, còn tiếp tục phải nâng cao trách nhiệm của người ra quyết định đầu tư, trách nhiệm của từng cán bộ phụ trách hoặc theo dõi các công việc. Công khai minh bạch trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, kiên quyết đầu tư có trọng điểm, phát huy hiệu quả kinh tế [37, tr.2]. Kết luận chương 2
  • 56. Trên cơ sở những vấn đề lý luận của chương I, nội dung của chương II đã làm rõ những điều kiện và lợi thế của tỉnh Phú Thọ để thu hút đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Phú Thọ là một tỉnh nông nghiệp, còn gặp nhiều khó khăn, tuy vậy thời gian qua, đặc biệt từ khi tách tỉnh đến nay, đã đạt được nhiều thành tựu cơ bản. Tuy vậy, đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương chưa cao, mặc dù có sự đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cao, nhưng nhìn chung nguồn vốn đầu tư vào địa phương còn thấp, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Mặc dù không có những thất thoát, lãng phí lớn, nhưng các chỉ tiêu hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản chưa đạt được mục tiêu đề ra.
  • 57. Chương 3 phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh phú thọ đến năm 2010 3.1. Mục tiêu, Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu về vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ đến năm 2010 3.1.1. Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006 - 2010 Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Phú Thọ (giai đoạn 2006 - 2010) trong bối cảnh thuận lợi. Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 10 đã thành công tốt đẹp, Đại hội đã thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2006 - 2010 với những chỉ tiêu chung cho cả nước. Năm năm 2006 - 2010 có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI do Đại hội IX của Đảng đề ra. Mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006 - 2010 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh hơn, bền vững hơn và gắn kết với phát triển con người. Đến năm 2010 tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng gấp 2,1 lần so với năm 2000, mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5 - 8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm [13, tr.5].
  • 58. "Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ về số lượng, bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các nhà đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư" [13]. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 chỉ rõ: Tạo lập môi trường tài chính lành mạnh thông thoáng nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính và tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp... Sử dụng ngân sách nhà nước phải chủ động và có hiệu quả, tăng cường kiểm soát chi, kiên quyết chống lãng phí thất thoát. Nâng cao hiệu quả đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước từ xác định chủ trương, lập và duyệt dự án đến thực hiện dự án. Thực hiện chính sách khuyến khích phát triển đối với các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời quan tâm đầu tư nhiều hơn cho các vùng khó khăn [11, tr.194-195]. Nghị quyết của Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVI đã chỉ rõ: Tạo chuyển biến cả về tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế với mức cao hơn nhiệm kỳ trước, tăng trưởng đi đôi với phát triển bền vững, bắt nhịp với đà phát triển chung của cả nước, phấn đấu đến năm 2010, cơ bản ra khỏi tỉnh nghèo. Tiếp tục đổi mới toàn diện, khai thác tiềm năng, thế mạnh để phát triển, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; xác định khâu đột phá quan trọng là "phát triển kết cấu hạ tầng". Nâng cao hiệu quả các nguồn lực đầu tư cải thiện chất lượng kết cấu hạ tầng, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển đô thị và các vùng sản xuất hàng hoá, thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trên địa bàn [14, tr.6]. Mục tiêu tổng quát của tỉnh Phú Thọ trong 5 năm tới là: Đảm bảo tốc độ tăng trương kinh tế nhanh và bền vững, tạo sự chuyển biến căn bản về chất lượng tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm truyền thống của tỉnh tạo nhiều sản phẩm mới có chất lượng cao, giá cả cạnh tranh, nâng cao tiềm lực của các
  • 59. doanh nghiệp của Trung ương cũng như của tỉnh trên địa bàn. Huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006 - 2010 * Chỉ tiêu kinh tế: - Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 11,5%/năm trở lên. Năm 2010, GDP bình quân đầu người đạt 9,2 triệu đồng. - Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp tăng bình quân trên 5%/năm. Năm 2010 sản lượng lương thực đạt 45 - 46 vạn tấn, độ che phủ rừng đạt 48 - 50%. - Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 16 - 18%/năm. - Giá trị các ngành sản xuất dịch vụ tăng bình quân trên 15%/năm. - Giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 15%/năm. Năm 2010 đạt 290 - 300 triệu USD. - Cơ cấu kinh tế năm 2010: công nghiệp, xây dựng 45 - 46%; dịch vụ 36 - 37%; nông, lâm nghiệp 18 - 19% [38, tr.17]. * Chỉ tiêu về xã hội: - Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10% (theo tiêu chuẩn mới). - Tạo việc làm cho 16 - 18 nghìn người lao động/năm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40%. Cơ cấu lao động vào năm 2010: nông, lâm nghiệp 61 - 62%; công nghiệp - xây dựng 23 - 24%; dịch vụ 15 - 16%. - Số máy điện thoại/100 dân đạt 15 máy trở lên. - Tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 95% địa bàn dân cư. - Trên 95% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia. - 85% số hộ dân được sử dụng nước sạch. - 60% số xã, phường, thị trấn đạt phổ cập giáo dục bậc trung học. - Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 10%. - Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 18% [14, 61-63]; [39, tr.46-47]. 3.1.2. Nhu cầu về vốn đầu tư xây dựng cơ bản Với những mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ, như đã nêu ở trên, tỉnh rất cần nhiều vốn với những nguồn vốn khác nhau. Phấn đấu trong 5 năm tới, thu hút trên 25 nghìn
  • 60. tỷ đồng cho đầu tư phát triển, trong đó chủ yếu là vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Dự báo, vốn đầu tư từ khu vực dân cư, tư nhân chiếm 40 - 45%, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 18 - 20%, còn lại là vốn từ ngân sách nhà nước. Nguồn vốn nước ngoài là quan trọng, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định. Phấn đấu tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng trên 15%/năm; tỷ lệ huy động ngân sách nhà nước chiếm trên 11% GDP của tỉnh Phú Thọ. Tốc độ tăng bình quân của các nguồn vốn thời kỳ 2006 - 2010 ở tỉnh Phú Thọ là rất khác nhau. Mức vốn chung cho đầu tư phát triển tăng bình quân 7,56%, vốn đầu tư qua tỉnh tăng 9,17%. Tốc độ tăng cao nhất là đầu tư của dân cư và tư nhân 15,77%, tiếp đó là vốn xây dựng cơ bản tập trung chiếm 14,72%, vốn hỗ trợ có MT và QĐ của Thủ tướng Chính phủ là 12,99% và đầu tư từ ngân sách tỉnh, vốn khác là 12,3%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tốc độ tăng thấp nhất là 1,61% [38, phần phụ lục].
  • 61. Bảng 3.1: Dự báo khả năng tăng trưởng cho các giai đoạn [38] 2010 2020 KV1 KV2 KV3 KV1 KV2 KV3 1. Tỷ lệ của tỉnh Phú Thọ so với trung bình cả nước về GDP (giá so sánh năm 1994) 81 85 88,5 103,5 118,5 135,5 2. Tốc độ tăng GDP bình quân thời kỳ 2006-2010 và 2011-2020 (%năm) 11 12 13 10 11 12 3. Dự kiến mức tăng nhu cầu đầu tư trung bình năm của cả nước thời kỳ 2006 - 2020 (% năm) PA1 28 PA2 29 PA3 30 Xét trong ba khả năng cho thấy khả năng hai vừa đảm bảo thu hẹp mức chênh lệch vào năm 2010 so hiện nay và đã vượt mức trung bình của cả nước vào năm 2020 về GDP/người, thể hiện được quyết tâm và nguyện vọng của nhân dân và điều kiện đảm bảo quan trọng về vốn là tương đối khả thi. Để đảm bảo được tăng trưởng như vậy, nhu cầu về vốn sẽ tăng cao và được thể hiện ở bảng 3.2. Bảng 3.2: Số liệu về dự kiến huy động vốn đầu tư phát triển 2006 –2010 [38] Năm Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010 Đầu tư phát triển 4110 4275 4820 5570 6480 1. Đầu tư từ NSNN 2010 1875 2070 2270 2580 (1). Đầu tư qua tỉnh 1010 1075 1170 1270 1380
  • 62. a. Ngân sách đầu tư tập trung 740 805 890 970 1070 - Vốn xây dựng cơ bản tập trung 110 120 150 170 180 - Hỗ trợ có MT và QĐ của TTg 300 350 400 450 500 - Vốn ODA 180 180 180 220 - Đầu tư từ NS tỉnh, vốn khác 30 35 40 50 50 - Đấu giá quyền sử dụng đất 120 120 120 120 120 b. Vốn SN, CTMT, vốn khác 110 120 120 130 130 c. Tín dụng đầu tư 160 150 150 160 170 (2). Đầu tư qua Bộ, ngành DNNN 1000 800 900 1000 1200 2. Đầu tư của dân cư và tư nhân 1250 1400 1600 1850 2200 3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài 700 800 900 1100 1300 Dự báo về tổng nhu cầu đầu tư nếu thực hiện được thì hệ số gia tăng vốn (ICOR) của tỉnh sẽ như sau: Bảng 3.3: Dự báo tổng nhu cầu đầu tư 2006-2010 [38] Đơn vị tính: tỷ đồng Phương án ICOR Phương án 1 5 112.300 Phương án 2 5 117.400
  • 63. Phương án 3 5 133.865 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Phú Thọ đến năm 2010 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý về lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đặc biệt từ năm 1999, Chính phủ đã ban hành một loạt các nghị định, văn bản chỉ đạo cụ thể về quản lý đầu tư xây dựng, đấu thầu như (số 52/1999/NĐ-CP, số 88/1999/NĐ-CP, số 12/2000/NĐ-CP, số 14/2000/NĐ-CP, số 07/2003/NĐ-CP, số 66/2003/NĐ-CP...), các Bộ, ngành đã ban hành các thông tư liên tịch, chuyên ngành liên quan. Đến nay, về cơ bản nước ta đã hoàn chỉnh các luật và văn bản hướng dẫn thực hiện quản lý đầu tư xây dựng gồm: Luật Xây dựng năm 2003; Luật Đấu thầu năm 2005; Luật Đầu tư năm 2005; Nghị định số 209/2004/NĐ-CP, số 16/2005/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành. Điều đó, càng khẳng định Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc ban hành và thực thi các văn bản pháp luật cũng như luật pháp trong việc quản lý các nguồn vốn đầu tư phát triển, trong đó có đầu tư xây dựng cơ bản. Đổi mới quản lý đầu tư không thể tách rời với quá trình hoàn thiện hệ thống luật pháp và cơ chế quản lý kinh tế nói chung... Thực tế hoạt động đầu tư ở nước ta đang bị chi phối bởi nhiều văn bản dưới luật, trong đó không ít những nội dung quy định trong Quy chế quản lý đầu tư xây dựng chưa nhất quán với các quy chế khác như Quy chế về quản lý sử dụng vốn ODA (Nghị định 17/2000/NĐ/CP); Quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT trong nước (Nghị định 77/CP), các yếu tố hoà hợp về thủ tục giữa các hình thức đầu tư, sự nhất quán giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài... là những vấn đề cần được xem xét đồng bộ. Hy vọng rằng Luật Đầu tư cũng có hiệu lực từ tháng 7/2006 sẽ khắc phục một số khiếm khuyết trong thời gian qua. Tuy vậy trong giai đoạn tới, Quốc hội và Chính phủ cần phải rà soát, bổ sung, sửa chữa các văn bản pháp luật hiện hành cho phù hợp với cơ cấu đầu tư và tốc độ đầu tư hiện nay, trong đó cần lưu tâm đến đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước.
  • 64. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho các địa phương quản lý và thực hiện có hiệu quả công tác đầu tư xây dựng, Chính phủ và các bộ, ngành có liên quan. cần nghiên cứu và xây dựng các văn bản dưới luật về công tác đầu tư xây dựng cơ bản một cách đồng bộ, khoa học và chặt trẽ, dễ hiểu để áp dụng; tránh sự trùng lắp, rườm rà. Đặc biệt là các văn bản liên quan đến công tác chuẩn bị đầu tư, xét duyệt thẩm định dự án, công tác điều tra, xác định giá còn mang tính thống kê đặc trưng, thiếu các danh mục vật liệu. Trước hết, việc ký kết và thực hiện các hợp đồng xây dựng cơ bản phải tuân thủ các quy định tại Điều 108 của Luật Xây dựng đã được Quốc hội khoá XI thông qua và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội công bố vào ngày 26-11-2003 và Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 7/2/2005 của Chính phủ và các quy định khác của Nhà nước về xây dựng, đấu thầu, sử dụng các nguồn vốn trong và ngoài nước. Bởi vì cùng với sự thay đổi tình hình, giá cả, thì cần quan tâm đúng mức các quy định về quản lý chất lượng công trình trong đó cần xây dựng các chỉ tiêu định lượng, cụ thể và rõ ràng hơn. Nên có chế tài thưởng phạt nghiêm minh, công bằng đối với các công trình xây dựng cơ bản, chủ đầu tư, nhà thầu, người quản lý... Nhanh chóng hoàn thiện các văn bản pháp quy về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản để thực hiện các Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật đấu thầu, Luật xây dựng (hiện nay Chính phủ đang giao Bộ Xây dựng và Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát và trình Chính phủ phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/2/2005 của Chính phủ), Luật phòng chống tham nhũng; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí... Ngày 30/6/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 08/2004/NQ-CP về tăng cường công tác phân cấp quản lý. Nay cần tiếp tục rà soát các văn bản pháp quy không còn phù hợp và tăng cường hơn nữa công tác cải cách hành chính, phân cấp trên cơ sở tham khảo ý kiến của địa phương, các bộ, ngành. Trên cơ sở những nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, UBND tỉnh Phú Thọ cần phải tiếp tục ban hành nhiều quyết định chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản trong phạm vi chức năng và quyền hạn của mình. Vận dụng đúng đắn, linh hoạt cơ chế chính sách của Nhà nước vào thực tiễn của địa phương trong phạm vi quyền hạn của mình. Chú trọng đổi mới cơ chế chính sấch, cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, thu hút vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó
  • 65. có xây dựng cơ bản. Tiếp tục rà soát lại, bổ sung, điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư đi đôi với cải cách thủ tục đầu tư. Tỉnh sẽ phân cấp mạnh và nhiều hơn nữa cho các địa phương, sở, ngành trong việc quản lý xây dựng cơ bản, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra giám sát, khen thưởng kịp thời, xử phạt nghiêm minh. Nghiên cứu sắp xếp lại một số Ban quản lý dự án công trình nhằm nâng cao trình độ quản lý, giám sát chất lượng công trình để thực hiện tốt công tác quản lý đầu tư và xây dựng về đấu thầu. Cần phải đơn giản hoá thủ tục trong các khâu như thẩm tra, thẩm định dự án, ra quyết định đầu tư, cấp vốn, thanh toán, loại bỏ cơ chế thoả thuận, đưa ra các tiêu chí và mẫu hoá các nội dung cần thực hiện. Kết hợp giữa đầu tư xây dựng cơ bản do địa phương quản lý và đầu tư xây dựng cơ bản do các bộ, Ngành, doanh nghiệp nhà nước quản lý để đạt được hiệu quả quản lý, phân cấp và phối hợp cao như: đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đầu tư xây dựng mới và nâng cấp các tuyến giao thông trọng điểm của quốc gia đi qua địa bàn tỉnh như: Quốc lộ 2 (đoạn Đền Hùng - Đoan Hùng), Quốc lộ 70, đường Hồ Chí Minh và đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai, các công trình kết cấu hạ tầng và phát triển kinh tế khác. Tiếp tục cùng với các cấp ở trung ương, rà soát lại hệ thống đơn giá định mức của nhà nước về xây dựng cơ bản để loại bỏ các định mức lạc hậu không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Đồng thời xây dựng và ban hành các định mức mới thích hợp với việc thi công, xây lắp với các thiết bị, công nghệ hiện đại và với cơ chế thị trường hiện nay. 3.2.2. Đẩy nhanh việc huy động vốn đầu tư xây dựng cơ bản Xây dựng cơ bản cần rất nhiều vốn. Đối với tỉnh Phú Thọ, điểm xuất phát thấp, còn nghèo, để đẩy nhanh tốc độ phát triển thì không thể không huy động vốn để phát triển kinh tế nói chung và xây dựng cơ bản nói riêng. Do vậy, để huy động được nhiều vốn xây dựng cơ bản, theo chúng tôi tỉnh cần tập trung những vấn đề sau: - Xây dựng tốt các dự án có cơ sở khoa học và có tính thực thi cao, để sử dụng tốt vốn đầu tư, cơ chế và chính sách của nhà nước như: vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn chương trình mục tiêu, hỗ trợ có mục tiêu. Tranh thủ sự ủng hộ của các bộ, ngành để đầu tư tăng vốn cho các dự án kết cấu hạ tầng trọng điểm, các dự án theo quy hoạch ngành. Tỉnh cần ưu tiên bố trí vốn đối ứng, đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư, chuẩn bị đầu tư và
  • 66. thực hiện đầu tư. Trước mắt, tập trung vào các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm. Khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư thuộc chương trình phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh vùng trung du miền núi Bắc Bộ theo Nghị quyết 37/NQ của Bộ Chính trị, vốn hỗ trợ có mục tiêu. - Xây dựng các cơ chế, chính sách mới đồng thời điều chỉnh hợp lý các cơ chế đã ban hành nhằm huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn dân cư, tư nhân đầu tư. Phải khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa bằng những cơ chế, chính sách, đặc biệt là chính sách kinh tế, chính sách đất đai đối với các thành phần kinh tế, dân doanh (trong và ngoài tỉnh) các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, tập trung vào các ngành nghề mới, các ngành nghề, lĩnh vực mà tỉnh đang cần khuyến khích đầu tư, đặc biệt là công nghiệp chế biến, sử dụng nhiều lao động (trước mắt) gắn với phát huy lợi thế của địa phương. - Điều chỉnh, bổ sung chiến lược nhằm thu hút tốt vốn từ nước ngoài (vốn FDI, ODA, các tổ chức phi chính phủ...) bằng các danh mục, các dự án rõ ràng, có ưu tiên và chọn lọc. Đa dạng hoá các hình thức và phương thức đầu tư. Vận dụng các cơ chế chính sách với hoàn cảnh của địa phương, nhưng phải trong khuôn khổ luật pháp cho phép. - Tiếp tục làm tốt công tác quy hoạch bao gồm cả quy hoạch đất đai, tạo quỹ đất để đẩy mạnh thực hiện chính sách đấu giá đất, cho thuê đất. Tạo mọi điều kiện cho nhà đầu tư sớm thực hiện dự án và kinh doanh lâu dài tại địa phương. Trong đó, phải đặc biệt quan tâm đến các dự án từ nguồn vốn ODA. Về quản lý nguồn vốn ODA: khung khổ pháp lý, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến ODA trong thời gian qua tuy đã được liên tục hoàn thiện nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu hài hoà thủ tục trong nước với các nhà tài trợ. Quản lý và sử dụng ODA phải tuân thủ Nghị định 17/2001/NĐ-CP, song vẫn phải chịu sự chi phối của nhiều văn bản pháp quy khác với những nội dung không nhất quán như các quy định về quản lý đầu tư xây dựng công trình, đấu thầu, đền bù, giải phóng mặt bằng. Mặt khác, năng lực quản lý ODA còn hạn chế cả về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp; nhất là ở cấp địa phương [32, tr.3]. Bộ Kế hoạch và đầu tư cũng nhận định việc hệ thống văn bản pháp quy liên quan đến ODA thiếu đồng bộ đang gây khó khăn cho cả cấp quản lý và cấp thực hiện nguồn vốn ODA.
  • 67. Điều đó cũng tác động không nhỏ cho tỉnh Phú Thọ trong việc huy động, đặc biệt là phối kết hợp trong việc sử dụng nguồn vốn này. 3.2.3. Tăng cường biện pháp chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản Thực tế nhiều năm qua cho thấy, thất thoát, lãng phí trong xây dựng cơ bản thường diễn ra do cơ chế quản lý đầu tư thiếu đồng bộ, không chặt chẽ, khép kín trong nội bộ một ngành, một Bộ, một địa phương. Trong đầu tư, xây dựng cơ bản, tham nhũng xảy ra ở tất cả các khâu, từ nghiên cứu đến lập dự án, lập quyết toán, thiết kế công trình, giải quyết vốn đến đấu thầu, giải phóng mặt bằng, xây dựng nghiệm thu, thanh quyết toán. Chỉ tính riêng năm 1999, thanh tra 6.708 công trình xây dựng tại 61 tỉnh, thành phố, đã phát hiện 2.087 công trình quyết toán khống khối lượng, sai đơn giá để chiếm đoạt 35 tỷ đồng [40, tr.64]. Như Hội nghị Trung ương 9 (khóa IX) đã nhận định: Chất lượng của các chiến lược và quy hoạch được xây dựng còn thấp, lại chậm được bổ sung, điều chỉnh kịp thời. Còn thiếu sự phối hợp đồng bộ, hài hoà giữa chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, với quy hoạch phát triển vùng và địa phương. Quy hoạch, kế hoạch còn nặng về chỉ định các dự án, công trình cho khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa có tác dụng tích cực trong việc định hướng và thu hút các thành phần kinh tế khác đầu tư. Quản lý quy hoạch còn lỏng lẻo, yếu kém dẫn đến cơ cấu còn trùng lắp, dập khuôn tại các vùng. Còn để kéo dài tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, chưa tính toán đến hiệu quả nhất là trong đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách và tín dụng ưu đãi của Nhà nước. Lãng phí và thất thoát lớn trong đầu tư từ nguồn vốn ngân sách và trong tài chính doanh nghiệp nhà nước vẫn là vấn đề nhức nhối trong rất nhiều năm, chưa có biện pháp kiên quyết khắc phục. Nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách rất lớn. Tổng số nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước khoảng 11.000 tỷ đồng, chiếm 18% tổng vốn đầu tư từ ngân sách và 37% vốn xây dựng cơ bản tập trung [12, tr.33-34].
  • 68. ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành không cao trong việc chấp hành các chỉ thị, nghị quyết, các cơ chế chính sách về đầu tư xây dựng cơ bản, phẩm chất đạo đức, năng lực của một số cán bộ làm công tác quản lý thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản chưa cao; chất lượng công tác quy hoạch, công tác tư vấn đầu tư và xây dựng, công tác giám sát, đánh giá, thanh tra kiểm tra, thanh tra, năng lực các nhà thầu xây dựng chưa được cải thiện... Đặc biệt, phải nâng cao hiệu quả đầu tư bằng vốn ngân sách. Cần phải xác định đầy đủ gắn trách nhiệm cụ thể rõ ràng đối với cá nhân người có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, vai trò của chủ đầu tư. Thực hiện kiên quyết, đầy đủ và chỉ đạo sát sao nghiêm ngặt quy chế đầu tư và xây dựng cơ bản, coi trọng nhất là việc thực hiện quy chế đấu thầu, quy chế giám sát đấu thầu. Chấm dứt hẳn tình trạng đơn vị thi công và tổ chức giám sát thi công đều thuộc một cơ quan quản lý. Trong giai đoạn tới, các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước phải được công bố rộng rãi để nhân dân biết và tham gia giám sát thực hiện. Tạo điều kiện cho các cơ quan dân cử làm tốt chức năng giám sát việc thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở trong việc đầu tư. Phát hiện, đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng. Do vậy, để chống thất thoát, lãng phí trong xây dựng cơ bản, tỉnh Phú Thọ trước hết đã dựa trên những cơ chế chính sách của Nnhà nước, Bộ xây dựng, đã ban hành 19 quyết định, 6 chỉ thị, 10 thông tư tập trung vào những vấn đề bức xúc, cấp thiết như chống lãng phí thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản. Bộ Tài chính cũng đã xây dựng những quy chế, chế tài về tăng cường quản lý tài sản công, nhất là quản lý việc cấp phát, thanh toán vốn đầu tư, đấu thầu mua sắm tài sản công. Tuy vậy, tỉnh cũng cần phải rà soát, soạn thảo và bổ sung một số cơ chế, chính sách phù hợp với hoàn cảnh của địa phương. Quy định trách nhiệm và xử lý trách nhiệm cá nhân trong từng khâu của quá trình đầu tư. Những sai phạm trong quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản cần phải được đánh giá công bằng, khách quan qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát. Đặc biệt là thất thoát do sai lầm trong quyết định đầu tư. Về công tác quy hoạch, trước hết Chính phủ cần sớm ban hành các văn bản pháp lý về công tác quy hoạch. Trước hết là Nghị định về công tác quy
  • 69. hoạch. Đổi mới nội dung và phương pháp lập quy hoạch rà soát quy hoạch, chấn chỉnh công tác lập phê duyệt quy hoạch ở tất cả các ngành, các cấp, các địa phương. Quy hoạch ngành chưa được hướng dẫn thống nhất về nội dung, phương pháp, trình tự và phê duyệt. Đồng thời còn thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan, trong quá trình lập các quy hoạch nên thường xuyên xảy ra tình trạng chồng chéo, không ăn khớp giữa quy hoạch ngành và quy hoạch tỉnh; công tác qui hoạch hiện nay theo đánh giá còn rất nhiều hạn chế (đặc biệt trong khâu dự báo) và là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản. Phân định nội dung cũng như phạm vi kết hợp giữa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng còn nhiều điều chưa rõ, khó vận dụng trong quá trình triển khai. Hoặc nhận thức về quy hoạch trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế chưa được làm rõ. Tính liên kết giữa quy hoạch và kế hoạch chưa cao. Kinh phí cho công tác điều tra cơ bản để nghiên cứu và triển khai quy hoạch còn ít, thiếu [7]. Công tác quy hoạch hiện vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Chất lượng các dự án quy hoạch còn hạn chế. Đối với không ít dự án quy hoạch, tuy hướng dài hạn cho phát triển đã được xác định nhưng các căn cứ chưa đủ và chưa vững chắc, nhất là các vấn đề về dự báo (đặc biệt là dự báo của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp). Nhiều ý kiến cho rằng, yếu kém nhất của công tác quy hoạch hiện nay là sự yếu kém của công tác quản lý nhà nước về quy hoạch mà biểu hiện rõ nhất là phân công, phân cấp không rõ ràng, thiếu một khung pháp lý đầu tư cho việc lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về các vấn đề liên quan đến công tác quy hoạch trong phạm vi cả nước, thiếu kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch trong các kế hoạch trung và dài hạn [1, tr.67]. Do vậy bên cạnh nâng cao tính dân chủ bàn bạc thống nhất trong công tác lập quy hoạch quyết định đầu tư xây dựng cơ bản cần phải đề cao tính trách nhiệm cá nhân của người quyết định đầu tư. Cơ chế trách nhiệm các nhân cần phải đánh giá khách quan, có
  • 70. thưởng xứng đáng và phạt nghiêm minh bằng các biện pháp khác nhau, từ thấp đến cao. Nâng cao hiệu quả và hiệu lực của quản lý nhà nước. Nghị quyết Đại hội X tiếp tục chỉ rõ "Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, quy định về quản lý kinh tế - tài chính, quản lý tài sản công, ngân sách nhà nước, các quỹ do nhân dân đóng góp và do nước ngoài viện trợ... Bảo đảm công khai minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính" [13, tr.22]. Trước đó tại Hội nghị Trung ương 6 lần 2, khoá VIII đã chỉ rõ: “Trong đầu tư xây dựng cơ bản phải chống lãng phí và triệt để tiết kiệm ngay từ khi phê duyệt chủ trương đầu tư, hạn chế các tiêu cực trong các khâu thẩm định dự án, đấu thầu, bố trí kế hoạch vốn và thi công các công trình xây dựng cơ bản”. Tăng cường các biện pháp hành chính – kinh tế đồng bộ từ khâu lập chủ trương kinh tế kỹ thuật, thiết kế, đến tổ chức thi công công trình để thực hiện tiết kiệm nghiêm ngặt trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, làm rõ trách nhiệm của các cấp có thẩm quyền chịu trách nhiệm đối với từng công trình và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với cứ tổ chức, cá nhân nào có vi phạm. Để khắc phục những hạn chế trong công tác tư vấn xây dựng và thi công xây lắp cần phải nâng cao công tác tư vấn xây dựng, chất lượng đấu thầu nâng cao chất lượng thi công xây lắp công trình, thời hạn bảo hành... Bởi vì Bảo hành xây lắp công trình là sự yêu cầu bắt buộc theo pháp luật đối với nhà thầu xây lắp trong một thời gian tối thiểu nhất định (gọi là thời hạn bảo hành). Về chất lượng của sản phẩm đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Nhà thầu xây lắp có nghĩa vụ thực hiện sửa chữa các hư hỏng do mình gây ra trong thời hạn bảo hành [6, tr.3]. Bởi vì chất lượng là nội dung, kết quả của công trình xây dựng cơ bản. "Chất lượng công trình xây dựng là những yêu cầu tổng hợp đối với đặc tính về an toàn, bền vững, kỹ thuật, mỹ thuật của công trình phù hợp với quy chuẩn. Xây dựng, tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với hợp đồng kinh tế và pháp luật hiện hành của Nhà nước" [6, tr.1]. Tóm lại, để chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản thì trước hết cần phải quán triệt và thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quản lý qui hoạch và đầu tư xây dựng cơ bản. Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả của bộ máy
  • 71. quản lý về đầu tư xây dựng cơ bản, năng lực trách nhiệm của chủ đầu tư, ban quản lý dự án. Nâng cao chất lượng tất cả các khâu trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản: từ chất lượng quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, chất lượng tư vấn, chất lượng đấu thầu, quản lý chất lượng thi công, chất lượng công tác giám sát đầu tư, công tác thanh toán và kiểm tra đầu tư xây dựng cơ bản. Tỉnh cần tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính sách và chỉ đạo cụ thể của Đảng, Chính phủ một cách công khai, nghiêm minh và triệt để đối với công tác quản lý đầu tư xây dựng (trong đó cụ thể gồm: Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm và chống lãng phí, Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/2/2005 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, Nghị định số 209/2004/NĐ- CP ngày 16/12/2004 về quản lý chất lượng công trình xây dựng, Nghị định số 08/2005/NĐ- CP về quản lý qui hoạch xây dựng, Chỉ thị số 29/2003/CT-TTg về chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản). Chấn chỉnh và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án, bố trí vốn và giải ngân đúng tiến độ, tránh đầu tư dàn trải trong xây dựng cơ bản, dẫn đến thường xuyên bổ sung, gây thất thoát, lãng phí. Sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trong quá trình quản lý đầu tư xây dựng. 3.2.4. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý và thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản "Quản lý chất lượng công trình xây dựng là tập hợp những hoạt động của cơ quan có chức năng quản lý thông qua các biện pháp tổ chức và tiến độ tổ chức thực hiện quản lý chất lượng công trình" [6, tr.1]. Do vậy, chất lượng công trình là nội dung cốt lõi của hiệu quả công trình nói riêng và hiệu quả của đầu tư xây dựng cơ bản nói chung. Để quản lý chất lượng công trình, không ai khác đó chính là bộ máy tổ chức và từng con người cụ thể của bộ máy đó. Có thể nói, cán bộ quản lý là nhân tố quyết định rất lớn trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản, nếu cán bộ quản lý các cấp: Không tính hết yếu tố đầu vào, đầu ra, không chuẩn xác về thời điểm, địa điểm, sản phẩm, công nghệ, thị trường, không dự tính, dự báo được kế hoạch và đặc biệt là không ý thức được trách nhiệm và làm một người cán bộ công tâm thì khi quyết định sai lầm sẽ dẫn đến hậu quả thiệt hại rất lớn mà không thể dễ dàng khắc
  • 72. phục, theo các chuyên gia kinh tế thì thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản ở tại khâu quyết định chủ trương đầu tư chiếm 70% [31, tr.12]. Do vậy, từ khi tách tỉnh 1997 đến nay, ở tỉnh Phú Thọ đã hình thành bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư và xây dựng cơ bản. Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh đã quan tâm chỉ đạo, củng cố, tăng cường bộ máy quản lý từ cấp tỉnh đến cấp huyện, thành phố, thị xã. Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ lần thứ XVI đã nhận định "tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc sắp xếp, thành lập mới, kiện toàn bộ máy tổ chức và cán bộ chủ chốt các cơ quan trong tỉnh"... ban hành nghị quyết và chỉ đạo thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ từ tỉnh đến cơ sở cả về văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là người dân tộc thiểu số; có chính sách thu hút cán bộ có trình độ cao về tỉnh làm việc [14, tr.41, 43]. Trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nói chung và thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng, tỉnh Phú Thọ cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý xây dựng cơ bản "vừa hồng vừa chuyên", do đó trong thời gian tới cần phải: Tăng cường quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, mỗi cán bộ đảng viên phải nâng cao ý thức rèn luyện, phấn đấu thực sự là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng, thật sự tiên phong đi đầu trong mọi công việc... [14]. Đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu quả công tác của UBND các cấp, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, xác định rõ quyền và nghĩa vụ cho từng cơ quan, đơn vị và cá nhân trong việc thực hiện sự chỉ đạo điều hành. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, tận tuỵ và thạo việc. Thực hiện khen thưởng, kỷ luật công khai, minh bạch kịp thời nghiêm túc. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện tốt những nội dung sau: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về xây dựng cơ bản. Đây là những cán bộ có bản lĩnh, phẩm chất cách mạng, có chuyên môn cao, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng quy hoạch cán bộ thời kỳ
  • 73. công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối với các đồng chí là đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo trong công tác quản lý và đầu tư xây dựng cơ bản cần phải thật sự tiên phong gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị, phải biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến của quần chúng, khắc phục những biểu hiện cá nhân độc đoán, chuyên quyền. Tiến hành xây dựng kế hoạch cụ thể về đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cho từng chức danh theo quy hoạch. Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ đặc biệt là cán bộ có trình dộ đại học về công tác quản lý lý nhà nước về xây dựng, các cán bộ chuyên môn về quy hoạch, lập dự án, thẩm định, kiểm tra, giám sát các công trình xây dựng cơ bản. Như Garry Becker - nhà khoa học được giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992 đã khẳng định: "không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi như đầu tư và nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục [30]. Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta cũng đã từng nói "vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người". "Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Do vậy, chăm lo đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn xây dựng cơ bản là một việc làm rất cần thiết và cấp bách trước xu thế hội nhập quốc tế và khu vực, Phú Thọ càng phải nỗ lực hơn trong việc đào tạo và sử dụng tốt cán bộ làm công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Cần nhận diện và chủ động trong việc tìm kiếm sử dụng người giỏi, có chính sách hợp lý trong việc sử dụng nguồn nhân lực tốt, áp dụng các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế và khu vực rõ ràng đối với việc sử dụng nguồn nhân lực, rõ ràng chính sách phát triển và thưởng phạt đối với việc sử dụng cán bộ. Khi phân cấp quản lý đầu tư xây dựng cơ bản cần phải xem xét đến năng lực thực tế, khả năng phát triển nhằm tăng tính chủ động cho các ngành, các huyện, thành phố Việt Trì và thị xã Phú Thọ, hạn chế tối đa tính áp đặt, thiếu khách quan, khoa học và tính địa phương cho các cấp đó. + Sở Kế hoạch - Đầu tư chủ trì xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho toàn tỉnh theo từng giai đoạn 2006-2010 và có dự báo đến năm 2010, trong đó có chiến lược đầu tư xây dựng cơ bản những hạng mục ưu tiên, trọng điểm và trình Hội đồng nhân dân
  • 74. tỉnh thông qua và Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Sở có nhiệm vụ là chủ đạo hướng dẫn các chủ đầu tư lập dự án đầu tư. Thẩm định các dự án đầu tư trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt hoặc trình thoả thuận với các bộ, ngành theo phân cấp. Sở thẩm định kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu, kết quả đấu thầu theo phân cấp của Uỷ ban nhân dân. + Sở Xây dựng cấp chứng chỉ hành nghề thiết kế, chứng chỉ quy hoạch, cấp giấy phép xây dựng. Dưới góc độ phân cấp, Sở ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của Nhà nước về đầu tư và xây dựng. Chịu trách nhiệm về quản lý định mức đơn giá XDCB, quản lý thiết kế, tổng dự toán công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp, cây xanh, cấp thoát nước, chiếu sáng đô thị. Sở có quyền phê duyệt một số quy hoạch chi tiết của Uỷ ban nhân dân tỉnh phân cấp, chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, các Sở, Uỷ ban nhân dân huyện, thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, các ban, ngành để hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng của Luật Xây dựng và các Nghị định của Chính phủ về đầu tư, đấu thầu, quản lý xây dựng. + Sở Tài chính - Vật giá: cùng với Sở Kế hoạch đầu tư cân đối phân bổ vốn đầu tư trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Thẩm định giá vật tư, thiết bị, hồ sơ mời thầu, kết quả đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị. Thẩm tra quyết toán vốn xây dựng cơ bản trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt hướng dẫn, tổ chức thực hiện các chính sách quản lý đầu tư xây dựng cơ bản có liên quan đến chuyên ngành. + Các sở, ban, ngành khác chịu trách nhiệm về quản lý nhà nước xây dựng thiết kế, tổng dự toán và chất lượng công trình theo chuyên ngành mà mình quản lý. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với các vùng nông nghiệp, thủy lợi, Sở Giao thông vận tải: các công trình giao thông vận tải; Sở Giáo dục - Đào tạo: các cơ sở trường học; Sở Công nghiệp đối với công trình dẫn tải điện và trạm biến thế. + Uỷ ban nhân dân thành phố Việt Trì và thị xã Phú Thọ, các huyện có trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn được Uỷ ban nhân dân tỉnh uỷ quyền quyết định đầu tư, phê duyệt theo thiết kế, tổng dự toán, phê duyệt quyết toán và cấp giấy phép xây dựng theo phân cấp.
  • 75. Song song với việc rà soát lại một cách cơ bản đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng cơ bản, trên cơ sở đó, định hướng sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ cho thích hợp, có chế độ khuyến khích tìm kiếm, tuyển chọn các cán bộ làm công tác đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh, bồi dưỡng, giúp đỡ để họ hoàn thành tốt công việc. Đồng thời, có chính sách thu hút những chuyên gia giỏi, cán bộ từ Trung ương và các tỉnh bạn về công tác tại quê hương. Lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản thường hay gắn với một số hiện tượng không tốt như thất thoát, lãng phí, tham nhũng. Do vậy, cần phải nâng cao công tác giáo dục tư tưởng, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, đi đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, nâng cao tính gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện cần kiệm liêm chiníh, chí công vô tư trong xây dựng cơ bản. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời, công khai người tham nhũng trong đầu tư, bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu; tịch thu, sung công quĩ các tài sản có nguồn gốc tham nhũng từ khâu duyệt dự án, đấu thầu, thi công các công trình xây dựng cơ bản. Đồng thời xử lý nghiêm những người bao che đối với các hiện tượng tiêu cực trong xây dựng cơ bản. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản. Nâng cao tính sáng tạo, chủ động, tự quyết của cán bộ trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Khơi dậy truyền thống của quê hương là đất Tổ, mẹ Âu Cơ, Vua Hùng để những người con của Phú Thọ gắn bó với quê hương, hết lòng phục vụ tỉnh để phát triển kinh tế bằng năng lực, khả năng và lòng yêu quê hương của mình. 3.2.5. Đảm bảo hợp lý hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản cần phải tính đến hiệu quả. Đây là tiêu chí hết sức cơ bản, đặc biệt đối với nước ta nói chung và của tỉnh Phú Thọ nói riêng. Như đã phân tích ở trên. Đối với nhà nước, đầu tư xây dựng cơ bản phải vừa mang tính hiệu quả kinh tế - xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh cụ thể thì phải tính đến hiệu quả kinh tế, mà cụ thể là lợi nhuận họ thu được bao nhiêu. Vì vậy, đạt được hiệu quả thì các chủ thể đều có các phương tiện, công cụ và mục đích khác nhau. Tuy vậy, các hiệu quả kinh tế, xã hội, chính trị, môi trường văn hoá đều có quan hệ mật thiết với nhau. Tuy rằng từng hiệu quả có nét riêng, đặc thù của mình. Nếu chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà không quan tâm đến môi trường, đến các yếu tố xã hội thì sẽ không phát triển bền vững,
  • 76. ngược lại nếu chỉ chăm lo đến hiệu quả xã hội mà không tính đến hiệu quả kinh tế, đặc biệt là lợi nhuận của doanh nghiệp, thu nhập của người lao động thì sẽ không tạo ra động lực. Do vậy, xét ở góc độ nào đó, đầu tư xây dựng cơ bản vẫn mang tính hiệu quả kinh tế - xã hội tổng hợp, đặc biệt trong đầu tư xây dựng cơ bản các công trình kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội vùng khó khăn, văn hoá - xã hội... Nên trong từng dự án, chương trình phải tính toán cụ thể, hợp lý, đúng đắn, thậm chí chi tiết hiệu quả kinh tế bao nhiêu, xã hội là bao nhiêu trong tổng thể hiệu quả kinh tế - xã hội. Tất nhiên tính toán chi ly, chi tiết là rất khó, nhưng không thể không làm được. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên chúng tôi đề xuất giải pháp này để khi quy hoạch, lập dự án cụ thể phải tính toán đến hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường của ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân. Thực tế nhiều dự án, nhiều công trình từ vốn xây dựng cơ bản không tính toán đầy đủ hết lợi ích, hiệu quả mà dẫn đến chi phí lớn, hiệu quả lại không cao. Đối với những dự án chương trình phát triển thì phần tính toán các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội như: - Vốn xây dựng cơ bản đối với tăng trưởng kinh tế là bao nhiêu? - Hệ số ICOR với tốc độ tăng trưởng kinh tế. - Tỷ lệ đầu tư so trong GDP; vốn xây dựng cơ bản so với tổng vốn đầu tư. - Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước so với tổng vốn đầu tư, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các vùng, các địa phương... Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp trong đầu tư xây dựng cơ bản, đặc biệt là các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế. Với một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản sau: tỷ suất lợi nhuận trên vốn, tỷ suất hàng hóa xuất khẩu, khả năng cạnh tranh... Phân biệt rõ các chỉ tiêu kinh tế và chỉ tiêu pháp lệnh các nhiệm vụ công ích (đối với doanh nghiệp nhà nước). Kết luận chương 3 Trên cơ sở những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, mục tiêu về phát triển kinh tế – xã hội mà Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ phải phấn đấu đạt
  • 77. được, nội dung của chương III đã đề xuất 5 giải pháp chủ yếu nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Để các biện pháp cơ bản nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản được thực thi, cần có sự hỗ trợ và giúp đỡ của Nhà nước bằng pháp luật, chủ trương, chính sách, đặc biệt là đối với Phú Thọ, một tỉnh nghèo, ngoài sự vươn lên, nỗ lực, tự lực, thì còn cần có sự giúp đỡ của Trung ương và các tỉnh bạn.
  • 78. kết luận Hiệu quả kinh tế - xã hội và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nói chung và vốn xây dựng cơ bản nói riêng luôn là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. ở nước ta việc nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản luôn là vấn đề cấp thiết và quan trọng, vì vốn luôn luôn khan hiếm và nếu sử dụng không có hiệu quả thì không thể có tăng trưởng và phát triển kinh tế được, lại càng không đảm bảo được định hướng XHCN. Đối với một địa phương như tỉnh Phú Thọ, lại càng có ý nghĩa cấp bách và cần thiết hơn lúc nào hết. Với mong muốn đó, luận văn với nội dung “nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Phú Thọ” đã cố gắng tập trung trình bày vàoc một số nội dung cơ bản sau: - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về vốn, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, trình bày ba mô hình và các phương pháp, chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của vốn đầu tư xây dựng cơ bản. - Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại tỉnh Phú Thọ, gồm: Hiệu quả tổng hợp, hiệu quả kinh tế, đánh giá hiệu quả qua một số chỉ tiêu định tính, định lượng, có minh chứng tình hình và các số hiệu qua các thời kỳ, dựa trên những lợi thế, điều kiện và khả năng thu hút đầu tư qua tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. - Quán triệt và vận dụng các quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội, đặc biệt là nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X; luật pháp; các nghị quyết của Chính phủ; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVI về việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản. - Luận văn đã đề xuất 5 giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Phú Thọ đến năm 2010. Các giải pháp đó là: + Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý về lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. + Đẩy nhanh việc huy động vốn đầu tư xây dựng cơ bản. + Tăng cường biện pháp chống thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản. + Nâng cao năng lực đội ngũ làm công tác quản lý và thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản.
  • 79. + Đảm bảo hợp lý hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Những kết quả trên đây, hy vọng sẽ góp phần nhỏ trong việc hệ thống và làm rõ thêm một số vấn đề nhỏ về lý luận về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản và một số cách tiếp cận trong đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả. Tuy nhiên, kết quả này mới là bước đầu cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn.
  • 80. danh mục tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Bá Ân và Lê Thị Kim Dung (2005), "Những vấn đề đặt ra trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả qui hoạch phát triển kinh tế xã hội hiện nay", Tạp chí kinh tế và dự báo, (12). 2. Báo Lao động, thứ 4 (7-6-2006). 3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Báo cáo thực hiện kế hoạch công tác quy hoạch năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006. 4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Báo cáo thực hiện nghị quyết của Quốc hội về công tác đầu tư xây dựng năm 2005 và 5 năm (2001-2005), định hướng giai đoạn 2006- 2010 và kế hoạch xây dựng cơ bản 2006. 5. Bộ Kế hoạch đầu tư (2005), Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006- 2010. 6. Bộ Xây dựng (2000), Quy định quản lý chất lượng công trình xây dựng số17/2000/QĐ- BXD ngày 2/8/2000. 7. Nguyễn Văn Chọn (1995), Kinh tế đầu tư xây dựng, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 8. Trần Văn Chử (2005), Kinh tế học phát triển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 9. Trịnh Đình Dũng (2000), Những giải pháp chủ yếu khắc phục thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 10. Đại từ điển kinh tế thị trường (1998), Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ IX (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ X. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVI.
  • 81. 15. Nguyễn Đẩu (1999), Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 16. Võ Văn Đức (2005), Mô hình tăng trưởng kinh tế của R. Sô low và khả năng áp dụng vào đánh giá tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 17. Trần Đình Khiển (2005), "Một số vấn đề về đổi mới quản lý đầu tư xây dựng và đấu thầu ở nước ta hiện nay", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (12). 18. Trần Hồ Lan (2003), Những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp ngành nhựa Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 19. Dương Văn Long (2005), Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty 189, Luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Bách khoa, Hà Nội. 20. Trần Văn Hùng (2006), "Nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước", Tạp chí Tài chính, (4). 21. E.W Naapziger (1998), Kinh tế học của các nước đang phát triển, Nxb Thống kê, Hà Nội. 22. Ngân hàng thế giới (2002), Phân tích các hoạt động đầu tư. Phân tích và ứng dụng thực tế, Nxb Thông tin, Hà Nội. 23. Niên giám thống kê (2004), Nxb Thống kê, Hà Nội. 24. Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ (2006). 25. Nguyễn Văn Quý (1998), Mô hình kinh tế (Economic Models), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 26. Đặng Ngọc Quỳnh (2001), Một số vấn đề về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay ở tỉnh Hưng Yên, Luận văn cử nhân chính trị. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 27. Vũ Bá Thể, Vốn trong quá trình tăng trưởng kinh tế cao ở Nhật Bản. 28. Đỗ Hoàng Toàn (chủ biên), (1998), Giáo trình các phương pháp lượng trong quản lý dự án nhà nước, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
  • 82. 29. Nguyễn Văn Thường (chủ biên) 2005, Tăng trưởng kinh tế Việt Nam, những rào cản cần phải vượt qua, Nxb Lý luận Chính trị. 30. Trần Văn Tùng (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia. 31. Lê Hùng Sơn (2006), "Biện pháp góp phần chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng", Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (3). 32. Nguyễn Bá Thân (2006), "Tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (5). 33. Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội. 34. Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội (1995), Kinh tế xây dựng, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 35. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2005), Báo cáo công tác đấu thầu, công tác giám sát đánh giá tổng thể đầu tư năm 2005 của tỉnh Phú Thọ. 36. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2005), Báo cáo hiện trạng, mục tiêu và giải pháp phát triển trên kinh tế - xã hội các vùng khó khăn đến năm 2010 của tỉnh Phú Thọ. 37. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2005), Báo cáo công tác giám sát đánh giá đầu tư và tình hình thực hiện các dự án đầu tư 6 tháng đầu năm 2005. 38. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 của tỉnh Phú Thọ. 39. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2006), Qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ thời kì 2005-2010. 40. Viện Thông tin khoa học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Thông tin tư liệu chuyên đề Tham nhũng và chống tham nhũng một số nước trên thế giới, số 1-2006 (lưu hành nội bộ).