ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ NHƯ HUYỀN
PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ TµI NGUY£N DU LÞCH
ë VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ NHƯ HUYỀN
PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ TµI NGUY£N DU LÞCH
ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ THU HẠNH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Như Huyền
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN
DU LỊCH, PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH......7
1.1. Những vấn đề chung về bảo vệ tài nguyên du lịch.......................... 7
1.1.1. Tài nguyên du lịch................................................................................ 7
1.1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên du lịch........................................13
1.2. Những vấn đề chung về pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch.......18
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch.......18
1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch.......20
1.2.3. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật bảo vệ tài nguyên du
lịch ở Việt Nam ..................................................................................35
Kết luận chương 1 .........................................................................................43
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU
LỊCH Ở VIỆT NAM ........................................................................44
2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch.......................44
2.1.1. Những ưu điểm của pháp luật trong bảo vệ tài nguyên du lịch .........44
2.1.2. Những hạn chế của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch...............57
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ..........66
2.2.1 Những kết quả đạt được trong việc thi hành pháp luật về bảo vệ
tài nguyên du lịch ...............................................................................66
2.2.2 Những hạn chế trong việc thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên
du lịch..................................................................................................77
2.2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc bảo vệ tài
nguyên du lịch ....................................................................................81
Kết luận chương 2 .........................................................................................84
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH
VIỆT NAM........................................................................................85
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên
du lịch.................................................................................................85
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài
nguyên du lịch ở Việt Nam ..............................................................90
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch..........................90
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về quyền và trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch ...........................91
3.2.3. Hoàn thiện các quy chuẩn về tài nguyên du lịch................................92
3.2.4. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý đối với các vi
phạm pháp luật về tài nguyên du lịch.................................................93
3.3. Một số giải pháp khác nhằm tăng hiệu quả bảo vệ tài nguyên
du lịch ở Việt Nam............................................................................95
3.3.1. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan quản lý nhà
nước về du lịch ...................................................................................95
3.3.2. Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch.......98
Kết luận chương 3 .......................................................................................102
KẾT LUẬN..................................................................................................103
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................104
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong quá trình hội nhập kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, cùng với sự phát triển của những ngành công nghiệp khác thì du lịch đã dần
trở thành ngành kinh tế quan trọng, là ngành mũi nhọn, mang lại hiệu quả kinh tế
- xã hội và môi trường ở nhiều quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam.
Việt Nam là một trong những nước có nền văn hóa lâu đời và giàu tiềm
năng về du lịch. Phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên
cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền
thống văn hóa lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước, góp phần thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoạt động du lịch thu hút sự
tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân, mang lại thu
nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà gián tiếp
đối với các ngành liên quan, xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập cho các cộng
đồng dân cư địa phương.
Du lịch là ngành kinh tế có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên
du lịch chính là đối tượng, sức hút, động cơ thúc đẩy đi du lịch của du khách;
là những nguồn lực quan trọng nhất, mang tính quyết định sự phát triển ngành
Du lịch; là cơ sở để hình thành, phát triển các hệ thống lãnh thổ du lịch.
Thực tế tại Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy,
các địa phương, các quốc gia có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng
và đặc sắc, có mức tập trung cao, được quản lý, quy hoạch, khai thác, bảo vệ,
tôn tạo hợp lý, có định hướng thì sẽ có ngành Du lịch phát triển bền vững, đạt
hiệu quả cao. Ngược lại những quốc gia, vùng có nguồn tài nguyên đa dạng,
đặc sắc nhưng không được quy hoạch, khai thác, bảo vệ… thì sẽ làm cho
nguồn tài nguyên bị suy kiệt và hiệu quả kinh doanh du lịch thấp. Hiện nay,
2
tài nguyên - môi trường du lịch của Việt Nam và nhiều nước trên thế giới
đang bị tác động tiêu cực bởi việc khai thác cho du lịch, phát triển kinh tế - xã
hội làm cho các tài nguyên dần cạn kiệt và suy thoái dần, làm ảnh hưởng đến
sự phát triển bền vững của ngành Du lịch cũng như các ngành kinh tế khác.
Do vai trò, ý nghĩa và sự cần thiết của tài nguyên du lịch đối với hoạt
động phát triển du lịch như vậy nên việc bảo vệ tài nguyên du lịch là vấn đề
đáng được quan tâm hiện nay, đặc biệt khi những yêu cầu về phát triển du lịch
bền vững được đặt lên hàng đầu trong các chính sách, chiến lược, chương trình
hành động quốc gia về du lịch. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật về bảo
vệ tài nguyên du lịch chưa được quan tâm tương xứng với yêu cầu đặt ra hiện
nay như: nhiều hoạt động thực tiễn chưa được Luật Du lịch điều chỉnh, nhiều
vấn đề Luật đề cập không cụ thể, hoặc chưa phù hợp với thực tế. Chính điều
này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ tài nguyên du lịch nước ta.
Mặt khác, có thể thấy du lịch muốn phát triển bền vững thì song song
với nó luôn cần có sự tồn tại của các tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên
nhân văn và môi trường. Do đó mà sự phát triển của du lịch luôn có mối
liên hệ mật thiết với tài nguyên và môi trường du lịch. Việc khai thác các
tài nguyên du lịch và phát triển các hoạt động du lịch luôn gắn liền và có sự
tác động qua lại với môi trường du lịch. Hiện nay, tài nguyên du lịch ở các
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam đang bị những tác động tiêu cực
của hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, có nguy cơ giảm sút và suy thoái,
ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của du lịch. Do vậy, để tăng cường
vai trò của tài nguyên du lịch đòi hỏi Việt Nam cần từng bước nâng cao
hiệu quả của các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường
trong lĩnh vực du lịch. Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch cần được xây
dựng hoàn thiện, là khung pháp lý vững chắc để tăng cường công tác bảo
vệ tài nguyên du lịch hơn nữa.
3
Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về bảo vệ tài
nguyên du lịch ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình
với mong muốn đóng góp những ý kiến để hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài
nguyên trên đất nước Việt Nam nói chung và bảo vệ tài nguyên du lịch của
Việt Nam nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài “Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam” là một
trong những đề tài khoa học mang tính nhân văn sâu sắc. Liên quan đến lĩnh
vực tài nguyên du lịch đã được nhiều tác giả nghiên cứu, từ nghiên cứu lý
luận cho đến nghiên cứu thực tiễn như:
- Trần Phong Bình, “Pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du
lịch ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, 2009.
- Phạm Trung Lương, Hoàng Hoa Quân, “Nghiên cứu đánh giá tác
động của hoạt động du lịch đến môi trường (lấy ví dụ thành phố Vũng Tàu)”,
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị môi trường toàn quốc, Hà Nội, 2003.
- Phạm Trung Lương, Đặng Duy Lợi, Vũ Tuấn Cảnh, Nguyễn Văn
Bình, Nguyễn Ngọc Khán, Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, Nhà
xuất bản Giáo dục, 2000.
- Vũ Tuấn Cảnh, “Quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam với chiến lược
quản lý tài nguyên và môi trường”, Tuyển tập Báo cáo Hội thảo lần thứ nhất
về: “Đánh giá tác động môi trường”, Trung tâm Khoa học công nghệ và Công
nghệ Quốc gia, Hà Nội, 6 - 7/6/1997.
- Phạm Trung Lương, “Điều tra nghiên cứu tác động của hoạt động du
lịch về tài nguyên thiên nhiên và môi trường - Phương pháp luận và phương
pháp nghiên cứu”, Viện Nghiên cứu và phát triển du lịch Hà Nội, 1996.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến một số
4
khía cạnh của tài nguyên du lịch, như khía cạnh kinh tế, xã hội của tài nguyên
du lịch; mối quan hệ giữa du lịch với tài nguyên và môi trường… mà chưa đi
sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở
nước ta. Dù vậy, các công tình nghiên cứu trên đây là những tài liệu tham
khảo có giá trị đối với việc nghiên cứu đề tài của luận văn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của việc nghiên cứu đề tài là đề xuất được các giải
pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch, qua đó góp phần hạn
chế tác động tiêu cực đến tài nguyên du lịch của đất nước.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về tài nguyên du lịch, pháp luật về bảo
vệ tài nguyên du lịch.
- Đánh giá đúng thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam.
- Đề xuất được một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài
nguyên du lịch Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta hiện nay về pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch. Ngoài ra, còn
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp
phân tích, so sánh, thống kê, diễn dịch, dự báo khoa học để rút ra các kết luận
mang tính chính xác, có ý nghĩa cho luận văn.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả nêu khái quát một số vấn đề
lý luận về tài nguyên du lịch, pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch; phân tích
5
các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch và đánh giá thực trạng
thực hiện chúng trên thực tế. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật, góp phần bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam. Như vậy, việc bảo
vệ tài nguyên du lịch bằng pháp luật cần được triển khai ở cả khía cạnh xây
dựng pháp luật và thực tế thực hiện pháp luật với những cách thức, biện pháp
đa dạng, phong phú, phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế. Cụ thể đề tài dự
kiến có những đóng góp sau:
- Trong Chương 1, đề tài tập trung làm rõ vai trò của việc bảo vệ tài nguyên
du lịch trong mối quan hệ với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và yêu cầu bảo vệ
chất lượng môi trường; sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên du lịch bằng pháp luật
và khái quát được hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch.
- Trong Chương 2, đề tài tập trung đánh giá thực trạng pháp luật và
thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam, gồm đánh
giá ưu điểm, hạn chế về nội dung và hình thức của pháp luật bảo vệ tài
nguyên du lịch; đánh giá kết quả, hạn chế khi thi hành pháp luật về bảo vệ tài
nguyên du lịch và nêu được nguyên nhân của bất cập, hạn chế đó.
- Trong Chương 3, từ những kết quả nghiên cứu của Chương 1 và
Chương 2, đề tài đưa ra các giải pháp, kiến nghị mới nhằm hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ tài nguyên du lịch, đặc biệt ở khía cạnh quy định trách nhiệm
của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch; rà soát cơ chế
thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên
du lịch và tuyên truyền pháp luật để bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định cụ thể của pháp luật
về bảo vệ tài nguyên du lịch và các hoạt động thực tiễn thi hành pháp luật về
bảo vệ tài nguyên du lịch
6
6.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trong
phạm vi nước Việt Nam.
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu:
+ Giai đoạn từ năm 1960- 1999, với sự ra đời của các văn bản pháp lý
đầu tiên về du lịch, đặc biệt là Pháp lệnh du lịch - Văn bản pháp lý đầu tiên
thống nhất các quy định về du lịch.
+ Giai đoạn từ 1999 đến nay, với những bước phát triển lớn của pháp
luật du lịch, đánh dấu bằng sự ra đời của Luật Du lịch 2005. Đây là văn bản
pháp lý quan trọng quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch.
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật du lịch và pháp luật về
bảo vệ các nguồn tài nguyên trong mối liên hệ với hoạt động du lịch. Trên cơ
sở đó, đề ra các giải pháp pháp lý về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về bảo vệ tài nguyên du lịch, pháp luật
bảo vệ tài nguyên du lịch.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo
vệ tài nguyên du lịch Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo
vệ tài nguyên du lịch Việt Nam.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH,
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH
1.1. Những vấn đề chung về bảo vệ tài nguyên du lịch
1.1.1. Tài nguyên du lịch
Theo tác giả Phạm Trung Lương và Đặng Duy Lợi đã định nghĩa trong
cuốn sách “Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam” thì “Tài nguyên hiểu
theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng và thông
tin có trên Trái đất và trong không gian vũ trụ liên quan, mà con người có thể
sử dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình” [10, tr.5].
Với PGS.TS. Trần Đức Thanh thì:
Tài nguyên là tất cả những nguồn thông tin, vật chất, năng lượng
được khai thác phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội loài
người. Đó là những thành tạo hay tính chất của thiên nhiên, những
công trình, những sản phẩm do bàn tay khối óc của con người làm
nên, những khả năng của loài người,… được sử dụng phục vụ cho sự
phát triển kinh tế và xã hội của cộng đồng [21, tr.56].
Như vậy, tài nguyên có thể được hiểu là những gì thuộc về tự nhiên,
hay là những sản phẩm do con người tạo ra, có thể được con người sử dụng
vào phát triển kinh tế và xã hội để tạo ra hiệu quả kinh tế, xã hội và môi
trường trong quá trình phát triển của xã hội loài người.
Xã hội loài người ngày càng phát triển, nhu cầu đời sống ngày càng
tăng kéo theo nhu cầu khai thác tài nguyên phục vụ cho các hoạt động phát
triển cũng ngày càng tăng cao. Mỗi ngành nghề khác nhau lại có yêu cầu khác
nhau trong khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, nên việc phân chia các
nhóm nguồn tài nguyên phục vụ cho từng lĩnh vực cũng có xu hướng ngày
8
càng cụ thể, chi tiết hơn. Sự phân biệt rõ chức năng của mỗi nguồn tài nguyên
phù hợp với từng lĩnh vực là nhằm giúp cho công tác quản lý các nguồn tài
nguyên được thuận lợi, hiệu quả hơn và tài nguyên du lịch cũng được tiếp cận
theo hướng đó.
Nguyễn Minh Tuệ cho rằng:
Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch sử cùng
các thành phần của chúng góp phần khôi phục, phát triển thể lực, trí
tuệ của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những
tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho
việc sản xuất dịch vụ du lịch [23, tr.33].
Luật Du lịch năm 2005 quy định:
Tài nguyên du lịch được hiểu là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự
nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con
người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng
nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm
du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch [14, Điều 4, Khoản 4].
Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du
lịch nhân văn đang được khai thác và chưa được khai thác. Tài nguyên du lịch
tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh
thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài
nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn
nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình
lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể
khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch có thể
thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu của tổ chức, cá nhân. Cụ thể:
1.1.1.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Tài nguyên du lịch tự nhiên là các đối tượng và hiện tượng trong môi
trường tự nhiên bao quanh chúng ta được khai thác sử dụng để phục vụ cho
9
hoạt động du lịch. Các tài nguyên du lịch tự nhiên luôn gắn liền với các điều
kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, được khai thác đồng
thời với tài nguyên du lịch nhân văn.Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm:
- Tài nguyên địa hình
Địa hình là thành phần quan trọng của tự nhiên, nơi diễn ra các hoạt
động của con người. Đối với hoạt động du lịch, các dạng địa hình tạo nên
phong cảnh, một yếu tố quan trọng để hình thành nên các tài nguyên khác.
Các địa hình đặc biệt có sức hấp dẫn khách du lịch là: địa hình Karst, địa hình
bờ biển, địa hình hải đảo,…
Địa hình Karst: chiếm khoảng 60.000 km2
tập trung chủ yếu ở Việt
Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Trung Bộ, với các dạng Karst hang động,
Karst ngập nước và Karst đồng bằng. Địa hình Karst tạo nên những điểm du
lịch hấp dẫn với hệ thống các hang động, núi đá vôi,…
Địa hình bờ biển: Bờ biển nước ta dài khoảng 3.260 km với nhiều cảnh
quan phong phú, đa dạng, có nhiều bãi tắm đẹp là một tiềm năng rất có giá trị
cho du lịch biển, nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí. Các bãi biển nổi tiếng như:
Bãi Cháy (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Văn
Phong (Nha Trang), Mỹ Khê (Đà Nẵng)…
Địa hình hải đảo: Nước ta có hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó
nhiều đảo có cảnh quan đẹp đã được đưa vào khai thác phục vụ du lịch như:
Cô Tô (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), Lý
Sơn (Quảng Ngãi)….
- Tài nguyên khí hậu
Tài nguyên khí hậu là sự tổng hợp các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, áp suất
không khí, tốc độ gió, hướng gió, bức xạ nhiệt. Các yếu tố của khí hậu thay
đổi theo không gian từ xích đạo đến hai cực, theo độ cao, theo thời gian (tính
theo mùa), có mối quan hệ chặt chẽ với địa hình, vị trí địa lý, thủy văn và sinh
vật, hoạt động sản xuất và đời sống của con người [25, tr.43].
10
Khí hậu bao gồm nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, không khí, lượng mưa, gió,
bức xạ mặt trời. Những nơi có khí hậu thích hợp với sức khỏe con người, tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Tài nguyên khí hậu phục vụ cho phát
triển các loại hình du lịch và quyết định tính thời vụ của nhiều loại hình du lịch.
- Tài nguyên nước
Tài nguyên nước bao gồm nước mặt và nước ngầm. Đối với hoạt
động du lịch thì nguồn nước mặt có ý nghĩa rất to lớn, bao gồm: đại dương,
biển, hồ, sông, suối, thác,… Nước mặt góp phần tạo môi trường không khí
mát mẻ, thoáng, tạo phong cảnh đẹp. Các mặt nước ven bờ như bãi biển,
ven hồ, các dòng sông thường được sử dụng để tắm, phát triển các hoạt
động thể thao dưới nước.
So với nước mặt, nước ngầm bao gồm các điểm nước khoáng, suối
nước nóng là tài nguyên thiên nhiên quý giá để phát triển các loại hình du lịch
nghỉ dưỡng, chữa bệnh. Trong đó, nước khoáng là nước thiên nhiên chứa một
số thành phần vật chất đặc biệt, các nguyên tố hóa học, các khí, các nguyên tố
phóng xạ và có tính chất vật lý như nhiệt độ cao, độ Ph có tác dụng sinh lý
với con người.
- Tài nguyên sinh vật
Tài nguyên sinh vật bao gồm nguồn động vật, thực vật tiêu biểu có
thể phục vụ phát triển du lịch. Ngày nay, khi áp lực từ cuộc sống, công việc
ngày càng tăng khiến cho con người thường rơi vào trạng thái bức bối,
căng thì nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí ngày càng trở nên cấp thiết cùng với thị
yếu đi du lịch ngày càng phong phú. Du khách mong muốn được chiêm
ngưỡng những cảnh quan sinh thái, những hệ động, thực vật phong phú,
mang tính thẩm mĩ cao để thỏa mãn tính giải trí, có được cảm giác thư thái.
Trong hoạt động tham quan du lịch thì tài nguyên sinh vật có ý nghĩa đặc
biệt, chính nó có thể mang đến cho những người chiêm ngưỡng, tận hưởng
11
nó cảm giác thoải mái tinh thần, thỏa mãn trí tò mò của họ. Điều đó là
nguyên nhân chính thu hút khách du lịch, vì thế tính đa dạng sinh học sự
bảo tồn được nhiều nguồn gen, tạo phong cảnh đẹp, thơ mộng cần được
bảo vệ, tu bổ và khai thác hợp lý để phát triển bền vững.
1.1.1.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Tài nguyên du lịch nhân văn là các đối tượng và hiện tượng xã hội
cùng các giá trị văn hóa, lịch sử của chúng có sức hấp dẫn du khách và
được khai thác để kinh doanh du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn được
chia thành hai loại là tài nguyên du lịch nhân văn vật thể và tài nguyên du
lịch nhân văn phi vật thể:
- Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể
Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể là các di tích lịch sử văn hóa -
những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó chứa đựng các giá trị
điển hình lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân con người hoạt động sáng tạo ra để
lại. Theo các giá trị khác nhau, các di tích lịch sử văn hóa được đánh giá, xếp
hạng theo các cấp bậc khác nhau. Di sản văn hóa được coi là sự kết tinh của
những sáng tạo văn hóa của một dân tộc. Các di sản văn hóa khi được công
nhận là các di sản văn hóa thế giới của quốc gia thì sẽ trở thành nguồn tài
nguyên du lịch nhân văn vô giá, có sức hấp dẫn khách du lịch, đặc biệt là
khách du lịch quốc tế như: Cố đô Huế, Phố cổ Hội An,…
Bên cạnh đó, còn có các di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và địa
phương. Di tích khảo cổ học là các di khảo cổ có thể bị vùi lấp trong lòng đất
hoặc ở trên mặt đất bao gồm di chỉ mộ táng, những công trình kiến trúc cổ.
Các di tích lịch sử văn hóa là những công trình ghi nhận các sự kiện, các địa
điểm lịch sử tiêu biểu của các dân tộc trong quá trình phát triển lịch sử của
mình. Các di tích văn hóa nghệ thuật là các di tích gắn với các công trình kiến
trúc có giá trị, những di tích này chứa cả những giá trị kiến trúc nghệ thuật và
những giá trị văn hóa phi vật thể.
12
Trong số các tài nguyên du lịch nhân văn thì các di sản văn hóa có vị trí
đặc biệt. Các di sản văn hóa được chia thành di sản văn hóa vật thể và di sản
văn hóa phi vật thể. Còn danh lam thắng cảnh là những nơi có phong cảnh
thiên nhiên tuyệt đẹp và thường có những giá trị do con người sáng tạo ra gắn
liền với phong cảnh thiên nhiên.
Ngoài các di tích, danh lam thắng cảnh trên thì các công trình kiến trúc
nghệ thuật, thư viện, bảo tàng, nhà lưu niệm, rạp hát, công viên, các món ăn
truyền thống, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ cũng là những tài nguyên du
lịch có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch.
- Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể
Luật Di sản văn hóa năm 2001 quy định:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu
truyền bằng miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu
truyền khác bao gồm chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học, ngữ văn, truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, lễ hội,
bí quyết về thủ công truyền thống, tri thức về y dược cổ truyền, về
văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri
thức dân gian khác [11, Điều 4, Khoản 1].
Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa tập thể của nhân dân diễn ra vào
thời điểm cố định trong năm nhằm để kỉ niệm một sự kiện lịch sử, chính trị,
văn hóa hay tôn giáo của cộng đồng. Lễ hội có hai phần: phần lễ và phần hội.
Ở phần nghi lễ với những nghi thức trang trọng nhằm bày tỏ sự tôn kính với
các bậc thánh hiền và thần linh, cầu mong bình an, mưa thuận gió hòa,… Còn
phần hội thường diễn ra những hoạt động biểu tượng điển hình của tâm lý
cộng đồng văn hóa dân tộc.
Nghề thủ công truyền thống với những sản phẩm độc đáo mang giá trị
nghệ thuật, thể hiện sự khéo léo của người lao động, tâm tư tình cảm của họ.
13
Nghề thủ công truyền thống luôn được bảo tồn, phát huy từ đời này sang đời
khác của các gia đình, các làng, các địa phương. Hiện nay du lịch phát triển ở
các làng nghề đang ngày một tân tiến, đa dạng.
Các tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể khác như phong tục tập
quán, nghệ thuật hát múa, diễn xướng dân gian, trang phục truyền thống dân
tộc,… tạo sức hút đối với khách du lịch đều được coi là nguồn tài nguyên
phục vụ cho phát triển du lịch. Phát triển các nguồn tài nguyên du lịch quý giá
trên tạo điều kiện cho ngành du lịch nói riêng và kinh tế - xã hội Việt Nam nói
chung ngày một đi lên hơn nữa.
1.1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên du lịch
Từ những phân tích trên cho thấy tài nguyên du lịch có giá trị quan
trọng và rất cần thiết cho sự phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống của
các quốc gia trong đó có Việt Nam. Để phát huy ở mức cao nhất các tác dụng
của tài nguyên du lịch thì việc bảo vệ nguồn tài nguyên này vừa là đòi hỏi
mang tính khách quan vừa là yêu cầu của công tác quản lý nhà nước trong
lĩnh vực du lịch.
Theo cách hiểu phổ thông thì bảo vệ tài nguyên du lịch là việc chống lại
mọi sự hủy hoại, xâm phạm đến các loại tài nguyên du lịch để giữ cho tài
nguyên du lịch được nguyên vẹn đúng như giá trị của nó. Còn từ phương diện
quản lý thì bảo vệ tài nguyên du lịch là việc xác định một cách có căn cứ các
nguồn tài nguyên du lịch cần bảo vệ; xác định trách nhiệm của Nhà nước;
quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong việc bảo tồn, tôn tạo và khai thác
hợp lý để phát huy hiệu quả sử dụng và bảo đảm phát triển du lịch bền vững.
Nói cách khác, bảo vệ tài nguyên du lịch là việc áp dụng đồng bộ các giải pháp
về tổ chức, kinh tế, kỹ thuật, pháp lý nhằm bảo tồn, giữ gìn và phát huy có hiệu
quả cao nhất giá trị của các tài nguyên du lịch. Bảo vệ tài nguyên du lịch là
trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, của các tổ chức và cá nhân.
14
Sở dĩ tài nguyên du lịch cần phải được bảo vệ là vì những lý do sau:
Thứ nhất, bảo vệ tài nguyên du lịch có ý nghĩa quyết định đối với phát
triển du lịch.
Tài nguyên du lịch là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển của du lịch. Tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản để hình thành các sản
phẩm du lịch. Sự phong phú và đa dạng của tài nguyên du lịch đã tạo nên sự
phong phú và đa dạng của sản phẩm du lịch. Tài nguyên du lịch càng độc đáo,
đặc sắc thì giá trị của sản phẩm du lịch và độ hấp dẫn khách du lịch càng tăng.
Tài nguyên du lịch là cơ sở quan trọng để duy trì và phát triển các loại
hình du lịch. Trong quá trình phát triển du lịch, để không ngừng đáp ứng các
yêu cầu và thỏa mãn các mục đích của du khách, các loại hình du lịch mới cũng
không ngừng xuất hiện và phát triển. Các loại hình du lịch ra đời đều phải dựa
trên cơ sở của tài nguyên du lịch. Sự xuất hiện của các loại hình du lịch đã làm
cho các yếu tố điều kiện tự nhiên, xã hội trở thành tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch là một bộ phận cấu thành quan trọng tổ chức lãnh
thổ du lịch. Hệ thống lãnh thổ du lịch thể hiện mối quan hệ về mặt không gian
của các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau cấu tạo nên nó. Các yếu tố đó là
khách du lịch, tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch, đội ngũ cán bộ công nhân viên, tổ chức điều hành và quản lý du lịch.
Tài nguyên du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức lãnh thổ
du lịch, cũng là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch
nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch, tạo điều kiện để có thể khai thác một cách
hiệu quả nhất các tiềm năng của nó. Tổ chức lãnh thổ du lịch hợp lý sẽ góp
phần tạo nên hiệu quả cao trong việc khai thác các tài nguyên du lịch nói
riêng cũng như trong mọi hoạt động du lịch nói chung.
Thứ hai, bảo vệ tài nguyên du lịch đóng vai trò quan trọng trong quá
trình lưu giữ các di tích lịch sử và giá trị bản sắc văn hóa riêng của dân tộc.
Di tích lịch sử văn hoá là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hoá
15
lâu đời của dân tộc, là những chứng tích vật chất phản ánh sâu sắc nhất về đặc
trưng văn hoá, về cội nguồn và truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước
hào hùng, vĩ đại của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng thời là một bộ
phận cấu thành kho tàng di sản văn hoá nhân loại.Với những giá trị như trên,
các di tích lịch sử văn hoá là bộ phận đặc biệt trong cơ cấu "tài nguyên du
lịch". Các di tích đó, cả về mặt nội dung lẫn hình thức, đều có khả năng tạo
nên sức hấp dẫn mạnh mẽ. Việc bảo tồn, lưu giữ tài nguyên du lịch góp phần
giữ gìn bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền khác nhau.
Thứ ba, giữa tài nguyên du lịch với sự phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia có mối quan hệ tương hỗ.
Phát triển du lịch mang lại nhiều lợi ích cho mỗi quốc gia. Nếu có một
nguồn tài nguyên du lịch phong phú có thể giúp quốc gia đó phát triển các loại
hình du lịch đa dạng, mạng lại nguồn thu nhập cao, qua đó tạo điều kiện cho
kinh tế - xã hội phát triển. Hơn thế nữa, du lịch không những tạo ra của cải và
việc làm cho nội bộ ngành Du lịch mà còn cho cả những ngành khác nữa. Vào
thời điểm nhiều ngành kinh tế phải đối mặt với những khó khăn về tiêu dùng
trong nước thì du lịch không những trực tiếp mang lại doanh thu từ xuất khẩu,
mà còn gián tiếp tác động đáng kể thông qua chuỗi giá trị to lớn của ngành.
Mặt khác, du lịch còn giúp giảm nghèo và hỗ trợ phát triển. Du lịch
chiếm 45% kim ngạch xuất khẩu của các quốc gia đang phát triển và chính
các quốc gia này với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú sẽ được hưởng
lợi từ phát triển du lịch. Du lịch ngày càng trở thành một công cụ hiệu quả hỗ
trợ phát triển. Có thể nói, du lịch đóng góp quan trọng và phát triển kinh tế
bền vững gắn với bảo vệ môi trường. Một báo cáo của ông Taleb Rifai, Tổng
thư ký Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) trong bài phát biểu tại Diễn đàn
Kinh tế mới diễn ra vào ngày 23 tháng 01 năm 2013 tại thủ đô Madrid, Tây
Ban Nha đã xác định du lịch là 1 trong 10 ngành góp phần quan trọng vào
16
“xanh hóa” nền kinh tế toàn cầu. Nếu được đầu tư thích đáng, du lịch có thể là
nhân tố then chốt dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng xanh hóa thông qua
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra việc làm, đồng thời nâng cao hiệu quả
sử dụng tài nguyên, giảm nguy cơ suy thoái môi trường và nâng cao nhận
thức về môi trường cho khách du lịch [33].
Mặt khác, một nền kinh tế - xã hội phát triển thì việc đầu tư cho cơ sở
vật chất, kĩ thuật hiện đại cho việc bảo tồn, trùng tu, bảo vệ các nguồn tài
nguyên du lịch sẽ có hiệu quả cao hơn. Việc quảng bá hình ảnh du lịch của
đất nước cũng sẽ được lan truyền rộng rãi hơn, chuyên nghiệp hơn nữa.
Thứ tư, ý thức của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch của
đất nước.
Nước ta có một nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng. Tuy
nhiên, nếu con người không biết bảo vệ, giữ gìn nó thì tài nguyên du lịch sẽ
ngày bị mai một dần, sẽ mất đi bản sắc riêng của mỗi vùng miền. Đại đa số
người dân đều đã có ý thức giữ gìn và phát triển tài nguyên du lịch như tôn
tạo di tích đình chùa, giữ gìn nét truyền thống của làng nghề,… Tuy nhiên,
vẫn còn tồn tại một bộ phận người dân thiếu ý thức trong việc bảo vệ, giữ
gìn các tài nguyên du lịch sẵn có như: một số kẻ xấu đã ăn cắp cổ vật tại các
di tích và tiến hành thu gom nhiều vật quý trong cộng đồng để móc nối,
buôn bán với các du khách nước ngoài. Ví dụ: ba pho tượng Phật bằng đồng
của chùa Chân Tiên trên phố Bà Triệu, thành phố Hà Nội đã bị kẻ gian đột
nhập lấy mất [26], hay việc sử dụng sự chủ quan của khách du lịch để móc
túi, trộm cắp đồ, lèo kéo khách hàng, những hành vi dụ dỗ khách vào những
loại hình văn hóa đồ trụy...
Hay tại nhiều khu di tích, du khách đã viết tên, khắc tên lên các bộ phận di
tích một cách bừa bãi. Bụi bặm, khói xăng dầu, rác thải gây ô nhiễm, ảnh hưởng
không ít đến di tích. Mặt khác, trách nhiệm bảo vệ giữ gìn các di tích, tài nguyên
17
du lịch không được phân công rõ ràng và sự phối hợp giữa nhà chức trách với
người sử dụng, khai thác còn lỏng lẻo. Hiện tượng đó dẫn đến tình trạng khai
thác bừa bãi, vô trách nhiệm hoặc bỏ mặc cho các di tích xuống cấp.
Bên cạnh đó, việc đầu tư nâng cấp các di tích với tư cách là một sản
phẩm du lịch chưa được triển khai trong một quy chế chặt chẽ và toàn diện,
trong đó có tính đến yếu tố du lịch. Còn phổ biến tình trạng giao khoán cải tạo
thậm chí được phó mặc cho những người quản lý, đầu tư tự sáng tạo theo ý
mình trong trùng tu, tôn tạo, xây mới bằng các biện pháp chặt cây, phá núi;
xây bậc xi măng thay cho vẻ đẹp của đất và đá tự nhiên; thay gạch, bê tông
cho các cấu kiện gỗ; dùng sơn công nghiệp thay cho sơn thủ công trong trang
trí kiến trúc... làm mất đi vẻ đẹp ban đầu, mất đi những “phần hồn” của các di
tích như trường hợp chùa Trấn Quốc, chùa Thiên Phúc (Cửa Nam), chùa Kim
Liên, đình Yên Phụ, chùa Hương, đền Voi Phục, phủ Tây Hồ đều ở Hà Nội...
Những lỗ hổng trong cách quản lý đó dẫn đến hậu quả khôn lường, không
những không có tác dụng thu hút du khách mà ở một chừng mực nhất định
còn làm phương hại đến hình ảnh của điểm du lịch, hình ảnh chung về nền
văn hoá của cả quốc gia. Nếu không sớm khắc phục, chúng ta sẽ có lỗi rất lớn
với lịch sử. Hơn nữa, thực tế còn tồn tại một mâu thuẫn khá lớn giữa nhu cầu
phát triển kinh tế đất nước và yêu cầu của những nguyên tắc, cách thức bảo
tồn di tích. Nhận thức của cộng đồng về giá trị của di sản văn hoá chưa thật
sâu sắc nên trong nhiều trường hợp cụ thể người ta lại muốn hy sinh văn hoá
cho nhu cầu kinh tế.
Vì những lợi ích mà tài nguyên du lịch mang lại cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước và yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay đòi hỏi các cơ
quan chức năng có thẩm quyền và người dân cần nâng cao hơn nữa tinh thần
bảo vệ tài nguyên du lịch ở mọi nơi, mọi lúc. Làm được điều này sẽ giúp cho
đất nước ta ngày một giàu đẹp, văn minh hơn nữa.
18
1.2. Những vấn đề chung về pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch
Như trên đã đề cập, bảo vệ tài nguyên du lịch là nhu cầu cần thiết,
khách quan, góp phần bảo đảm phát triển kinh tế đất nước. Bảo vệ tài nguyên
du lịch có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp, cách thức khác nhau, như
biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch cho người
dân; biện pháp khuyến khích đầu tư phát triển tài nguyên du lịch và các biện
pháp pháp lý về bảo vệ tài nguyên du lịch..., trong đó biện pháp pháp lý đóng
vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi xử sự của con người đối với
tài nguyên du lịch. Quá trình định hướng hành vi bảo vệ tài nguyên du lịch
được thực hiện thông qua các quy định có tính nguyên tắc về bảo vệ tài
nguyên du lịch; quy định về những hành vi bị cấm; những hoạt động được
khuyến khích; về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc bảo vệ tài
nguyên du lịch... Kết hợp khái niệm “tài nguyên du lịch” với những phân tích
trên, có thể đưa ra khái niệm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch như sau:
Pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch là tổng thể những quy phạm pháp luật,
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình tác
động lên cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa,
công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác
nhằm bảo vệ chúng khỏi sự xâm phạm làm ảnh hưởng đến sự phát triển du
lịch nói riêng và sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung.
So với pháp luật bảo vệ các nguồn tài nguyên khác, pháp luật bảo vệ tài
nguyên du lịch có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch là một bộ phận quan
trọng trong pháp luật về du lịch. Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố
cơ bản, điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển du lịch. Số lượng tài
nguyên vốn có, chất lượng của chúng và mức độ kết hợp các loại tài nguyên
khác có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển du lịch. Hiện nay, một số loại tài
19
nguyên du lịch đã và đang bị xâm hại nghiêm trọng. Theo đó, để bảo vệ tài
nguyên du lịch cần phải có những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh. Pháp
luật bảo vệ tài nguyên du lịch bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh
các vấn đề liên quan đến bảo vệ các tài nguyên du lịch nhằm làm cho ngành
Du lịch phát triển bền vững, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Chính vì vậy, nó không thể tách rời với pháp luật du lịch.
Thứ hai, phạm vi điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch
rất rộng, liên quan đến nhiều loại tài nguyên du lịch khác nhau; nhiều chủ thể
khác nhau trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch và được thể hiện trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Chẳng hạn: Luật Di sản văn hóa năm
2001 quy định về các hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hóa, xác định
quyền và nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân đối với di sản văn hóa; Luật Bảo
vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định về bảo vệ các khu rừng đặc dụng,
các Vườn quốc gia, khu bảo tồn cảnh quan; quy định quyền và nghĩa vụ của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ di sản thiên nhiên;… Giữa các
văn bản trên luôn có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau tạo thành hệ
thống pháp luật chung bảo vệ tất cả các nguồn tài nguyên du lịch, từ tài
nguyên du lịch tự nhiên đến tài nguyên du lịch nhân văn.
Thứ ba, các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch
điều chỉnh rất đa dạng, bao gồm: Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình khai
thác và sử dụng tài nguyên du lịch; nhóm quan hệ hình thành trong hoạt động
của các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên du lịch; nhóm quan hệ hình
thành giữa các tổ chức, cá nhân khác trong bảo vệ tài nguyên du lịch; nhóm
quan hệ về các biện pháp xử lý đối với những hành vi xâm hại đến tài nguyên
du lịch. Các chủ thể liên quan đều có trách nhiệm bảo vệ các tài nguyên du
lịch. Đối với từng nguồn tài nguyên du lịch cụ thể còn có các quy định cụ thể
về bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch đó.
20
1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch
Xuất phát từ tính đa dạng của các loại tài nguyên du lịch, đa dạng về
các chủ thể trong quan hệ bảo vệ tài nguyên du lịch nên pháp luật về bảo vệ
tài nguyên du lịch cũng có khá nhiều nội dung, bao gồm:
1.2.2.1. Những nội dung có tính nguyên tắc về bảo vệ tài nguyên du lịch
Những nội dung có tính nguyên tắc của pháp luật về bảo vệ tài nguyên
du lịch là những nội dung mang tính tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng và tổ
chức thực hiện các quy định cụ thể của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch.
Bảo vệ tài nguyên du lịch được thực hiện theo nguyên tắc được quy định
trong Luật Du lịch năm 2005: bảo vệ, tôn tạo và khai thác hợp lý để phát huy
hiệu quả sử dụng và bảo đảm phát triển du lịch bền vững. Đồng thời Nhà nước
thống nhất quản lý tài nguyên du lịch trong phạm vi cả nước, có chính sách và
biện pháp để bảo vệ, tôn tạo và khai thác hợp lý tài nguyên du lịch [14, Điều 15].
Bảo vệ tài nguyên du lịch được hiểu là luôn phải giữ gìn nguyên vẹn các
nguồn tài nguyên du lịch trong quá trình diễn ra các hoạt động của con người
tác động vào chúng; đưa ra các biện pháp phòng, chống nhằm ngăn chặn những
tác động từ thiên nhiên có thể xâm hại đến tài nguyên du lịch; đấu tranh và xử
lý nghiêm minh đối với những thành phần gây hại đến các nguồn tài nguyên du
lịch. Còn quá trình tôn tạo tài nguyên du lịch là một trong những hình thức thiết
yếu trong việc duy trì sự tồn tại của các nguồn tài nguyên du lịch. Tôn tạo là
việc sửa chữa những chỗ bị hư hỏng, mai một của một tài nguyên du lịch nào
đó, khôi phục lại những giá trị vốn có của tài nguyên du lịch khiến cho tài
nguyên du lịch đó được bảo lưu lâu dài hơn, bền vững hơn.
Không chỉ dừng lại ở việc bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch một cách
thụ động, các hoạt động khai thác các nguồn tài nguyên du lịch cũng cần được
chú ý. Khai thác hợp lý tài nguyên du lịch là việc con người sử dụng các
nguồn tài nguyên vào mục đích phục vụ cho phát triển kinh tế du lịch, song
21
cần khai thác sử dụng nó một cách khoa học, trên cơ sở vừa sử dụng đủ và
đúng mục đích nhưng vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị của nguồn tài nguyên
du lịch đó, để việc sử dụng được diễn ra bền vững, ổn định, tránh tình trạng
lạm dụng khai thác triệt để, tài nguyên không kịp phục hồi hay bị mất hẳn. Có
thể thấy bên cạnh công tác bảo vệ tài nguyên du lịch thì luôn cần có sự có mặt
của công tác tôn tạo và các hành động khai thác hợp lý tài nguyên du lịch. Chỉ
có như thế thì việc bảo vệ tài nguyên du lịch mới đạt được hiệu quả cao.
Những hành động bảo vệ, tôn tạo, khai thác hợp lý tài nguyên du lịch được
thể hiện trước hết ở các văn bản pháp luật có hiệu lực thi hành, cùng với đó là
những hành động cụ thể của toàn dân.
Nhà nước thống nhất quản lý tài nguyên du lịch trong phạm vi cả nước.
Nội dung này cũng được xem là mang tính nguyên tắc của bảo vệ tài nguyên
du lịch. C.Mác đã nhấn mạnh:
Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến
hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự
chỉ đạo để điều chỉnh những hoạt động cá nhân và thực hiện những
chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản
xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một
người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn
nhạc thì cần phải có nhạc trưởng [2, tr.480].
“Nhạc trưởng” của xã hội chính là Nhà nước. Theo cuốn Tập bài giảng
Nhà nước và pháp luật thì:
Chức năng Nhà nước được hiểu là những phương hướng,
phương diện hoặc mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nước nhằm thực
hiện các nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước. Chức năng của Nhà nước
được xác định xuất phát từ bản chất nhà nước, do cơ sở kinh tế và
cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định [8, tr.29].
22
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, được xây dựng trên cơ sở Hiến
pháp và pháp luật. Nhà nước thực hiện vai trò quản lý của mình đối với xã hội
bằng pháp luật. Các lợi ích kinh tế, chính trị và xã hội được thể chế hóa bằng
pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Do đó mà pháp luật luôn do nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện, nó là công cụ điều chỉnh các quy tắc xử sự, hành
vi của con người có hiệu lực nhất. Mặt khác pháp luật quy định những biện
pháp nhằm ngăn chặn, trừng phạt những hành vi trái các quy định mà pháp
luật quy định. Chính vì thế mà quản lý nhà nước đóng vai trò quan trọng trong
sự phát triển của đời sống xã hội nói chung, bảo vệ tài nguyên du lịch nói
riêng. Trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên du lịch, vai trò của quản lý nhà nước
càng trở nên quan trọng và cần thiết, vì xét cả từ khía cạnh bản chất tự nhiên
và bản chất pháp lý, tài nguyên du lịch được xem là một loại “hàng hóa công
cộng”, phục vụ đời sống tinh thần của đông đảo người dân nên Nhà nước là
đại diện “đương nhiên” trong việc quản lý nguồn tài nguyên này.
Tính thống nhất trong quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch
được thể hiện qua việc Nhà nước ban hành một hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch thống nhất, mang tính bắt buộc
chung trong toàn xã hội; thành lập một hệ thống thống nhất các cơ quan quản
lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch từ trung ương đến địa phương; xác
định thống nhất các nội dung, cách thức, biện pháp quản lý tài nguyên du lịch.
Bảo vệ tài nguyên du lịch vừa là mục tiêu, vừa là nội dung cơ bản của
sự phát triển bền vững ngành Du lịch. Như đã phân tích ở trên, bảo vệ tài
nguyên du lịch có ý nghĩa quyết định đối với phát triển du lịch nói chung,
phát triển ngành Du lịch nói riêng. Điều này có ý nghĩa là mọi đường hướng
phát triển ngành Du lịch đều coi nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên du lịch là trọng
tâm. Mọi chiến lược, dự án, quy hoạch về phát triển du lịch đều phải có nội
dung bảo vệ tài nguyên du lịch cũng như việc thực hiện chiến lược, dự án,
23
quy hoạch phát triển du lịch phải căn cứ vào các quy định pháp luật về bảo vệ
tài nguyên du lịch.
Bảo vệ tài nguyên du lịch phải theo phương châm lấy phòng ngừa và
hạn chế tác động xấu đối với tài nguyên du lịch là chính, kết hợp với khắc
phục những hậu quả của việc xâm phạm đến tài nguyên du lịch; kết hợp với
đầu tư của Nhà nước với đẩy mạnh nguồn lực trong xã hội trong việc bảo vệ
tài nguyên du lịch. Cũng như các nguyên tắc chung về bảo vệ môi trường, bảo
vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối
với tài nguyên du lịch bao giờ cũng tiết kiệm hơn, bền vững hơn so với khắc
phục hậu quả gây ra đối với tài nguyên du lịch. Nhiệm vụ của pháp luật bảo
vệ tài nguyên du lịch là phải quy phạm hóa các biện pháp phòng ngừa ngay từ
khâu lập kế hoạch, phân vùng phát triển du lịch đến việc khai thác, sử dụng
tài nguyên du lịch… Bên cạnh đó, việc xã hội hóa các nguồn lực bảo vệ tài
nguyên du lịch cũng được xem là biện pháp góp phần hiện thực hóa nguyên
tắc “bảo vệ tài nguyên du lịch là sự nghiệp của toàn dân”.
Bảo vệ tài nguyên du lịch là quyền lợi và nghĩa vụ của các cơ quan quản
lý nhà nước, cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân, là biểu hiện của nếp sống
có văn hóa, đạo đức, là tiêu chí đánh giá quan trọng của xã hội văn minh.
Bên cạnh những yêu cầu mang tính pháp lý về bảo vệ tài nguyên du
lịch như đã phân tích ở trên (trong đó quy định cụ thể phạm vi quyền, quyền
lợi, nghĩa vụ của người dân; quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, ban
ngành của Nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch), bảo vệ tài nguyên du lịch
còn là những đòi hỏi mang tính đạo đức, thể hiện cách ứng xử văn hóa, văn
minh của con người đối với những giá trị nhân văn của tài nguyên du lịch.
Chương trình “Đi xuyên Việt để bảo vệ rừng” do Hội Bảo vệ thiên nhiên và
môi trường Việt Nam tổ chức; Chương trình “Một triệu cây xanh cho Việt
24
Nam” do Tổng cục Môi trường phát động; Chương trình “Hành động giai
đoạn 2014 - 2020 triển khai thực hiện Quyết định số 1570/2013/QĐ-TTg ngày
6/9/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược khai thác, sử
dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030" của Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa... là những ví dụ điển
hình về cách ứng xử đầy tính nhân văn đối với tài nguyên du lịch.
1.2.2.2. Quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về
bảo vệ tài nguyên du lịch
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý xã hội nói chung,
quản lý tài nguyên du lịch nói riêng. Bên cạnh việc ban hành các quy định
pháp luật về quản lý tài nguyên du lịch là việc hình thành tổ chức bộ máy thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định.
 Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung về bảo vệ tài
nguyên du lịch
Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp là những cơ quan có thẩm
quyền chung trong lĩnh vực quản lý bảo vệ tài nguyên du lịch. Trong những
năm qua, nhờ sự chỉ đạo thường xuyên, chiến lược phát triển đúng đắn của
Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp mà lĩnh vực du lịch nói chung, bảo vệ
tài nguyên du lịch nói riêng ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn.
Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ chịu trách
nhiệm trước Quốc hội về hoạt động du lịch trên cả nước, đồng thời đề ra các
chủ trương biện pháp hiệu quả để khai thác và phát triển du lịch Việt Nam.
Luật Du lịch năm 2005 đã quy định: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước
về du lịch” [14, Điều 11, Khoản 1]. Chính phủ sẽ quyết định chính sách cụ thể
về bảo vệ tài nguyên du lịch; phân công nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ,
ngành liên quan đến bảo vệ tài nguyên du lịch; quyết định xếp hạng các di
25
tích quốc gia đặc biệt... Thủ tướng Chính phủ quyết định việc thành lập bảo
tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành; quyết định việc cho phép đưa các bảo
vật quốc gia ra nước ngoài; quyết định phê duyệt các kế hoạch quy hoạch
tổng thể phát triển ngành, vùng, địa bàn du lịch trọng điểm, khu du lịch quốc
gia... Trước đó, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 cũng có quy định về
trách nhiệm của Chính phủ trong việc quản lý nhà nước về bảo vệ và phát
triển rừng: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển
rừng” [12, Điều 8, Khoản 1]; “Chính phủ quy định tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan chuyên ngành về lâm nghiệp từ trung ương đến cấp huyện và cán bộ
lâm nghiệp ở những xã, phường, thị trấn có rừng” [12, Điều 8, Khoản 4]... Việc
quy định rõ chức năng, trách nhiệm riêng biệt của từng cấp nhằm đẩy mạnh
phát triển du lịch thực sự trở thành nền kinh tế mũi nhọn, mở rộng và nâng
cao chất lượng hoạt động du lịch trong nước và phát triển du lịch quốc tế.
Ủy ban nhân dân các cấp với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước ở địa
phương nên cũng có vai trò không nhỏ trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch.
Trách nhiệm quản lý, bảo vệ, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch của các
cơ quan quản lý nhà nước, Ủy ban nhân dân được quy định ở Luật Du lịch
năm 2005, theo đó “Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương, các
bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý tài
nguyên du lịch, phối hợp trong việc bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý và phát
triển tài nguyên du lịch” [14, Điều 16, Khoản 1].
Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình
và theo sự phân cấp của Thủ tướng Chính phủ có trách nhiệm thực hiện quản
lý nhà nước về du lịch tại địa phương, cụ thể hóa chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, cơ chế, chính sách phát triển bảo vệ tài nguyên du lịch phù hợp với
thực tế ở địa phương và có biện pháp bảo đảm an toàn, trật tự, an toàn xã hội
tại khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch, tuyến du lịch. Bên cạnh Luật Du
26
lịch 2005, Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 cũng có nhiều quy định
về quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ và phát
triển rừng của Ủy ban nhân các cấp: “Ủy ban nhân dân các cấp có trách
nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng tại địa
phương theo thẩm quyền” [12, Điều 8, Khoản 4].
Cụ thể hơn là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh còn có quyền tổ chức, lập quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định sau khi có ý kiến của cơ quan
quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương; xác định quỹ đất dành cho công
trình, kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch trong đô thị;
công bố khu du lịch địa phương, điểm du lịch địa phương, tuyến du lịch địa
phương sau khi có quyết định công nhận; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
chỉ đạo việc thực hiện tổ chức lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể ở
địa phương để bảo vệ và phát triển giá trị; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
tổ chức kiểm kê di tích ở địa phương và lựa chọn, lập hồ sơ khoa học để quyết
định xếp hạng di tích cấp tỉnh, trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp
hạng di tích quốc gia;...
 Các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn về bảo vệ tài nguyên du lịch
Bên cạnh các cơ quan có thẩm quyền chung thì các cơ quan có thẩm
quyền chuyên môn cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên
du lịch. Ở cấp Trung ương đó chính là các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
chuyên môn trực thuộc Bộ.
Nghị định số 76/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 7 năm 2013 của Chính
phủ quy định về nhiệm vụ, quyền hạn Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đối
với lĩnh vực du lịch, gồm: Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định về thành
lập bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch; xếp hạng và điều chỉnh khu vực bảo vệ đối với di tích quốc gia đặc
biệt; phê duyệt chủ trương, nhiệm vụ và đồ án quy hoạch tổng thể di tích quốc
27
gia đặc biệt, di tích quốc gia có quy mô đầu tư lớn; xếp hạng di tích quốc gia,
bảo tàng hạng I, điều chỉnh khu vực bảo vệ đối với di tích quốc gia; hướng
dẫn thủ tục đăng ký di vật, cổ vật, điều kiện thành lập và hoạt động của cơ sở
giám định cổ vật; chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan xây
dựng cơ chế chính sách huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa [7, Điều 2].
Cũng trong Nghị định này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch còn có
trách nhiệm, quyền hạn trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch và quy hoạch du
lịch. Cụ thể là: Hướng dẫn, tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển
ngành, vùng du lịch, địa bàn du lịch trọng điểm, khu du lịch quốc gia sau khi
được cấp có thẩm quyền phê duyệt; ban hành Quy chế việc điều tra, đánh giá,
phân loại tài nguyên du lịch; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức điều tra, đánh
giá, phân loại tài nguyên du lịch; quy định về bảo vệ, tôn tạo, phát triển, khai
thác, sử dụng tài nguyên du lịch và môi trường du lịch trong khu du lịch, điểm
du lịch quốc gia [7, Điều 2, Khoản 18]. Ngoài ra Nghị định còn quy định
quyền hạn và trách nhiệm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch liên quan đến
khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch: kinh doanh du lịch...
Ngày 13 tháng 3 năm 2014 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 23/2014/QĐ-TTg quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, theo đó:
Tổng cục Du lịch là tổ chức trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp
luật về du lịch trong phạm vi cả nước, quản lý các dịch vụ công về
du lịch theo quy định của pháp luật [22, Điều 1, khoản 1].
28
Hiện nay, Tổng cục Du lịch có nhiều chương trình xúc tiến thương mại
trong cả nước cũng như nước ngoài để củng cố hình ảnh Việt Nam trên bản
đồ du lịch thế giới. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là phải phát triển, khai thác
cân đối giữa bảo vệ tài nguyên du lịch và phát triển du lịch, có như vậy mới
xây dựng và duy trì được “nền công nghiệp không khói” xứng đáng với tiềm
năng du lịch của Việt Nam.
Do tài nguyên du lịch là yếu tố quan trọng trong sự phát triển du lịch
nên bên cạnh sự quản lý chung của Tổng cục Du lịch thì Vụ lữ hành thuộc
Tổng cục Du lịch có vai trò giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch thực hiện
chức năng quản lý và tổ chức thực thi pháp luật về các hoạt động quản lý,
khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch. Theo Quyết định số 362/QĐ-TCDL
ngày 15 tháng 7 năm 2014 của Tổng cục Du lịch quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ lữ hành thì Vụ lữ hành có
nhiệm vụ cụ thể về bảo vệ tài nguyên du lịch: Trình Tổng cục trưởng Tổng
cục Du lịch để trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy chế điều tra, đánh
giá, phân loại tài nguyên du lịch; quy định về bảo vệ, tôn tạo, phát triển, khai
thác, sử dụng tài nguyên du lịch và môi trường các khu du lịch, điểm đu lịch
quốc gia; quy chế quản lý khu du lịch thuộc ranh giới hành chính từ hai tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trở lên; trình Tổng cục trưởng Tổng cục Du
lịch quyết định kế hoạch năm năm, kế hoạch hằng năm; tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ được giao liên quan đến bảo vệ tài nguyên du lịch; chủ trì, phối hợp
với các cơ quan, đơn vị có liên quan thẩm định hoặc tham gia thẩm định các
chương trình, đề án, dự án liên quan đến lĩnh vực lữ hành, quản lý tài nguyên,
loại hình khu, tuyến, điểm và đô thị du lịch; chủ trì, phối hợp với các đơn vị,
cơ quan liên quan xây dựng cơ chế, chính sách liên quan đến tài nguyên du
lịch, khu, điểm, tuyến và đô thị du lịch; hướng dẫn, tổ chức thực hiện, kiểm
tra, giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản
29
liên quan khác về quản lý, bảo vệ tài nguyên du lịch; chủ trì, phối hợp với các
cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng, hướng dẫn, thực hiện chương trình bồi
dưỡng kiến thức quản lý, chuyên môn nghiệp vụ về tài nguyên du lịch...
Ngoài ra, còn thực hiện một số những nhiệm vụ khác do Tổng cục trưởng
Tổng cục Du lịch giao.
Ở cấp địa phương, cơ quan chuyên môn về quản lý lĩnh vực du lịch là
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Phòng
Văn hóa, Thể thao và Du lịch trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện. Theo
quy định tại Thông tư liên tịch số 43/2008/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 06
tháng 6 năm 2008 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Nội vụ hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hoá, Thể
thao và Du lịch thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Văn hoá và Thông tin
thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thì:
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình,
thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo (trừ quảng cáo trên báo chí,
mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm) ở địa phương, các dịch
vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Sở và thực hiện một số nhiệm
vụ, quyền hạn theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và
theo quy định của pháp luật [1].
Trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh các dự thảo đề án, dự án,
chương trình phát triển văn hoá, gia đình, thể dục thể thao và du lịch; tổ chức
thực hiện quy chế, giải pháp huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá tại địa phương sau khi được phê duyệt;
hướng dẫn và tổ chức thực hiện các dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích
thuộc địa phương quản lý sau khi được phê duyệt; quản lý, hướng dẫn tổ chức
30
các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá, lễ hội truyền thống, tín
ngưỡng gắn với di tích, nhân vật lịch sử tại địa phương thẩm định dự án cải
tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài khu vực bảo vệ di tích cấp tỉnh có khả
năng ảnh hưởng đến cảnh quan, môi trường của di tích [1]; tổ chức công bố
quy hoạch sau khi được phê duyệt; tổ chức thực hiện điều tra, đánh giá, phân
loại, xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên du lịch của tỉnh theo Quy chế của Bộ
Văn hoá, Thể thao và Du lịch; tổ chức lập hồ sơ đề nghị công nhận khu du
lịch địa phương, điểm du lịch địa phương, tuyến du lịch địa phương; công bố
sau khi có quyết định công nhận; thẩm định hồ sơ đề nghị cấp có thẩm quyền
cấp giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế của các doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh theo quy định của pháp luật...
Có thể thấy rằng, bộ máy và năng lực quản lý nhà nước về tài nguyên
du lịch, hệ thống kinh doanh du lịch ở Việt Nam đang từng bước được kiện
toàn, thích ứng dần với cơ chế mới.
1.2.2.3. Quyền hạn và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong bảo vệ
tài nguyên du lịch
 Trách nhiệm của chủ thể kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch
Theo Luật Du lịch 2005:
Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế
về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư và phát
triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại
hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường; Điểm du lịch là nơi có
tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách
du lịch [14, Điều 4, Khoản 7, 8].
Khu du lịch, điểm du lịch là nơi có nhiều tài nguyên du lịch, nơi mà các
hoạt động du lịch có ảnh hưởng tới những tài nguyên du lịch được thể hiện rõ
nhất và cũng là nơi công tác bảo vệ tài nguyên du lịch cần phải được quan
31
tâm và chú ý nhất. Ban quản lý khu, điểm du lịch có trách nhiệm quản lý, bảo
vệ tài nguyên du lịch. Cũng theo Luật Du lịch năm 2005, “Khu du lịch phải
thành lập ban quản lý khu du lịch” [14, Điều 28, Khoản 2]. Ban quản lý có
trách nhiệm bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch; đề xuất, kiến nghị với các cơ
quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm đối với các cơ sở kinh doanh xâm hại
đến tài nguyên du lịch; xây dựng nội dung bảo vệ tài nguyên du lịch, niêm yết
tại lối vào và để tại những nơi dễ quan sát trong khu, điểm du lịch; bố trí các
cán bộ theo dõi và thực hiện các yêu cầu về bảo vệ tài nguyên du lịch trong
khu, điểm du lịch,…
Ngoài ra, đối với những nguồn tài nguyên du lịch cụ thể, pháp luật
cũng có những quy định cụ thể như sau:
Theo Luật Di sản văn hóa năm 2001, tổ chức, cá nhân quản lý trực tiếp di
sản văn hóa có các quyền và nghĩa vụ: Bảo vệ, giữ gìn di sản văn hóa; thực hiện
các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm hại di sản văn
hóa; thông báo kịp thời cho chủ sở hữu hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nơi gần nhất khi di sản văn hóa bị mất hoặc có nguy cơ bị hủy hoại; tạo điều kiện
thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham quan, du lịch, nghiên cứu di sản văn hóa;
thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật [11, Điều 16].
Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định: “Ban quản lý rừng
phòng hộ, Ban quản lý rừng đặc dụng được Nhà nước giao rừng, giao đất để
phát triển rừng” [12, Điều 5].
Như vậy, các chủ thể kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch phải
có trách nhiệm trong việc bảo vệ các loại tài nguyên du lịch theo quy định của
pháp luật. Đây là những chủ thể có tác động trực tiếp đến việc bảo vệ tài nguyên
du lịch. Họ có quyền được khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch nhằm mục đích
kinh doanh nhưng bên cạnh đó những chủ thể này phải đảm bảo tài nguyên du
lịch được bảo vệ, không được lợi dụng quyền để xâm phạm, hủy hoại tài nguyên
32
du lịch. Đồng thời, cần phải có những biện pháp để ngăn chặn những hành vi
xâm phạm tài nguyên du lịch bởi các chủ thể khác.
 Trách nhiệm của chủ thể kinh doanh lữ hành
Theo Luật Du lịch năm 2005, “Lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ
chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch cho khách du
lịch” [14, Điều 4, Khoản 4]. Có thể thấy doanh nghiệp lữ hành là chủ thể tiếp
xúc ngay từ đầu với khách du lịch và theo suốt quá trình du lịch của du khách.
Doanh nghiệp lữ hành cần có trách nhiệm như: Tuân thủ các yêu cầu về bảo
vệ các tài nguyên du lịch khi xây dựng các chương trình du lịch, không tổ
chức các chương trình gây tổn hại đến tài nguyên du lịch; đưa nội dung bảo
vệ tài nguyên du lịch vào tài liệu hướng dẫn khách du lịch,… Tuy nhiên, pháp
luật cũng có những quy định đòi hỏi doanh nghiệp lữ hành có điều kiện tài
chính, khả năng nhất định mới có thể được thực hiện như: tham gia các hoạt
động bảo vệ tài nguyên du lịch tại địa phương nơi doanh nghiệp tổ chức
chương trình du lịch,…
Như vậy, để thực hiện tốt công tác bảo vệ tài nguyên du lịch trong quá
trình tiến hành các hoạt động du lịch, trách nhiệm này của các doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành mang ý nghĩa to lớn. Cùng với hoạt động hướng dẫn du khách
tham quan các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh hay thưởng thức cái đẹp tự
nhiên, các hướng dẫn viên du lịch cũng đồng thời là những người tuyên truyền,
phổ biến các quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch, ngăn cản những hành vi gây
tác động xấu cho môi trường nơi tiến hành du lịch của du khách.
 Trách nhiệm của chủ thể kinh doanh dịch vụ du lịch khác
Như trên đã phân tích, tài nguyên du lịch của Việt Nam hết sức phong
phú, bao gồm từ cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn
hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác
có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch. Sự phong phú về các
33
nguồn tài nguyên du lịch kéo theo sự đa dạng về các chủ thể tham gia vào
hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch. Cùng với các công ty lữ hành, cơ sở
lưu trú, các doanh nghiệp vận chuyển khách du lịch, những chủ thể kinh
doanh dịch vụ tại bãi tắm, chủ thể kinh doanh trong rừng đặc dụng hay các tổ
chức, cá nhân kinh doanh tại các hoạt động xã hội, liên hoan du lịch (gọi
chung là những chủ thể kinh doanh dịch vụ du lịch khác) cũng có trách nhiệm
nhất định trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Đối với loại hình du lịch biển
đảo thì việc bảo vệ tài nguyên ở biển, bãi tắm là rất quan trọng. Theo đó, các
chủ thể này cũng phải có trách nhiệm trong hoạt động để bảo vệ tài nguyên du
lịch, không được tiến hành các hoạt động gây ảnh hưởng hay làm xấu đến tài
nguyên du lịch biển, không được đánh bắt thủy sản, neo đậu phương tiện bắt
thủy sản tại các bãi tắm. Đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch
trong rừng đặc dụng thì cần phải tuân thủ các quy định không đánh bắt, bẫy,
bắt động vật hoang dã theo quy định của pháp luật; không tổ chức các hoạt
động gây tiếng ồn và quấy nhiễu hoạt động bình thường của loài động vật
hoang dã; không đưa thực vật lạ vào chăn thả, nuôi trồng ở khu, điểm du lịch;
không mang hóa chất độc hại chất nổ, chất dễ gây cháy rừng; thường xuyên
phổ biến, giáo dục cho du khách, cộng đồng dân cư trong khu, điểm du lịch
về bảo vệ đa dạng sinh học, phòng và chống cháy rừng. Ngoài ra trong quá
trình tiến hành các hoạt động lễ hội, liên hoan du lịch, ban tổ chức phải
khoanh vùng, hạn chế khách du lịch vào tham quan khu du lịch có hệ sinh thái
nhạy cảm, có biện pháp tránh tập trung lực lượng khách quá lớn tại một thời
điểm để tránh những tác động xấu có thể xảy ra đối với tài nguyên du lịch.
Có thể nói, pháp luật đã quy định khá rõ ràng và cụ thể trách nhiệm của
các tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch. Những quy định trên vừa tạo nên sự phối
hợp đồng bộ giữa các chủ thể trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch, đồng thời
tránh được tình trạng trông chờ, ỷ lại trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch.
34
 Trách nhiệm của khách du lịch và cộng đồng dân cư
Khách du lịch bao gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế.
Đây là đối tượng quan trọng có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến tài
nguyên du lịch. Theo Khoản 3 Điều 16 Luật Du lịch năm 2005, khách du lịch,
cộng đồng dân cư có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch. Tuy nhiên, khách
du lịch có đặc thù là đến từ nhiều quốc gia; chỉ đến du lịch trong một khoảng
thời gian nhất định; không am hiểu hoặc biết về pháp luật Việt Nam... nên cần
có những quy định riêng đối với khách du lịch về bảo vệ tài nguyên du lịch.
Khách du lịch có nghĩa vụ tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam về an
ninh, trật tự, an toàn xã hội; tôn trọng và giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, danh
lam thắng cảnh, môi trường, tài nguyên du lịch, bản sắc văn hoá, thuần phong
mỹ tục nơi đến du lịch; thực hiện nội quy, quy chế của khu du lịch, điểm du
lịch, đô thị du lịch về bảo vệ tài nguyên du lịch,…
Lượng khách du lịch đến nước ta ngày càng nhiều nên việc giáo dục ý
thức bảo vệ tài nguyên du lịch cho du khách đóng một vai trò vô cùng quan
trọng và là điều kiện cơ bản để phát triển du lịch bền vững. Tuy nhiên, công
tác tuyên truyền phổ biến bảo vệ tài nguyên du lịch ở nước ta thời gian qua
chưa được quan tâm đúng mức.
Du lịch mang lại thu nhập ngày một lớn cho xã hội. Hoạt động du lịch
thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân,
mang lại thu nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch
mà gián tiếp đối với các ngành liên quan, xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập
cho cộng đồng dân cư địa phương. Cộng đồng dân cư có liên quan trực tiếp
đến lợi ích do du lịch mang lại nên cộng đồng dân cư đóng vai quan trọng
trong bảo vệ tài nguyên du lịch.
Cộng đồng dân cư là chủ thể sinh sống, cư trú gắn liền với tài nguyên
35
du lịch. Hoạt động của các chủ thể này tác động rất lớn đến tài nguyên du
lịch. Cộng đồng dân cư có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch theo Luật
Du lịch. Tại các khu, điểm du lịch cộng đồng dân cư tham gia ở mức độ khác
nhau vào hoạt động du lịch. Cộng đồng dân cư cũng cần có trách nhiệm trong
việc bảo vệ tài nguyên du lịch, tuyên truyền cho khách du lịch trong việc bảo
vệ tài nguyên du lịch.
1.2.3. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật bảo vệ tài nguyên
du lịch ở Việt Nam
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống kinh tế xã hội và
đã trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia và là một thói quen trong nếp sống sinh
hoạt của xã hội hiện đại. Có nước coi du lịch là nguồn thu chủ yếu, điều chỉnh
cán cân thanh toán quốc tế, có nước coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, có
sức hút đối với nhiều ngành. Ở Việt Nam, ngay từ năm 1960 ngành Du lịch đã
ra đời đánh dấu nhận thức của Đảng và Nhà nước về triển vọng kinh tế này.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, đặc biệt trong thời kì hội
nhập, du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu
hẹp khoảng cách về phát triển du lịch với các nước trong khu vực trở thành
ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Để thúc đẩy được ngành Du lịch phát triển Nhà nước cần phải có
những cơ sở pháp lý để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong ngành Du lịch.
Một trong những yếu tố quan trọng của ngành Du lịch đó là cần phải bảo vệ
những tài nguyên du lịch do tài nguyên du lịch là bộ phận hình thành nên các
khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch. Chính vì vậy, quá trình
hình thành và phát triển pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch gắn với quá
trình hình thành và phát triển pháp luật về du lịch.
Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về bảo vệ tài nguyên du
lịch được chia thành hai giai đoạn:
36
1.2.3.1. Từ năm 1960 đến năm 1999
Ngành Du lịch Việt Nam ra đời năm 1960 trên cơ sở Nghị định 26/NĐ-
CP ngày 09 tháng 07 năm 1960 của Chính Phủ, với mục đích phục vụ chủ yếu
cho khách nội địa đó là những công dân có thành tích trong chiến đấu, học
tập, lao động được đi nghỉ mát, điều dưỡng.
Năm 1978, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 262
NQ/QHK6 ngày 27 tháng 6 năm 1978 thành lập Tổng cục Du lịch trực thuộc
Hội đồng Chính phủ. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu bước chuyển biến
quan trọng trong quá trình phát triển ngành Du lịch Việt Nam. Hội đồng
Chính phủ ban hành Nghị định 32/CP ngày 23 tháng 01 năm 1979 quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch. Năm 1981
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 157/CP ngày 13 tháng 04 năm
1981 quy định công tác du lịch trong đó quy định về cơ cấu tổ chức, chức
năng nhiệm vụ Tổng cục Du lịch. Cũng năm 1981 Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO).
Năm 1986 Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đề ra chủ trương đổi mới nền
kinh tế, với chính sách mở cửa “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước”.
Du lịch Việt Nam đã thực sự có điều kiện khởi sắc.
Trong thời kì này, cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, ngành Du
lịch Việt Nam đã từng bước khắc phục những khó khăn để ra sức phấn đấu
thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước.
Trải qua nhiều thay đổi về tổ chức ngành, từ chỗ ngành Du lịch được
hợp nhất với Bộ Văn hóa, Bộ Thông tin, Tổng cục Thể dục thể thao tạo thành
Bộ Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch quản lý nhà nước theo Quyết
nghị số 244/QĐ-HĐNN ngày 31 tháng 3 năm 1990. Ngày 12/8/1991 Quốc
hội quyết định chuyển chức năng quản lý nhà nước đối với ngành Du lịch
sang Bộ Thương mại và Du lịch. Năm 1992 Chính phủ ban hành Nghị định
37
05/CP ngày 26 tháng 10 năm 1992 về thành lập Tổng cục Du lịch và ban hành
các Nghị định quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ
máy của Tổng cục Du lịch.
Như vậy, có thể thấy từ khi ra đời ngành Du lịch, Nhà nước mới bước
đầu đã ban hành các văn bản pháp lý quy định về việc thành lập các cơ quan
quản lý của ngành Du lịch và các quy định về chức năng quyền hạn của các
cơ quan mà chưa có các quy định cụ thể về các vấn đề liên quan đến du lịch
như hoạt động du lịch, tài nguyên du lịch, khách du lịch,… Thời kì này quy
định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch chưa xuất hiện.
Sau một thời gian ra đời, được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ,
với chính sách mở cửa của Nhà nước, sự phối hợp hỗ trợ của các cấp ngành,
đoàn thể và sự cố gắng nỗ lực của cán bộ công nhân viên toàn ngành, nên du
lịch Việt Nam đã đạt được các kết quả đáng ghi nhận.
Đến năm 1999, một sự kiện pháp lý quan trọng đánh dấu sự thay đổi
của bộ mặt ngành Du lịch Việt Nam đó là Quốc hội ban hành Pháp lệnh Du
lịch - lần đầu tiên ở Việt Nam du lịch được điều chỉnh bằng những nguyên
tắc, quy phạm pháp luật trong một văn bản thống nhất có hiệu lực cao. Pháp
lệnh Du lịch năm 1999 là văn bản pháp lý đầu tiên thống nhất các quy định về
du lịch. Đây cũng là lần đầu tiên những quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch
được đề cập.
Với 9 chương, 56 điều, Pháp lệnh Du lịch đã từng bước đi vào cuộc
sống, hướng và điều chế các quan hệ trong hoạt động du lịch ở Việt Nam theo
đường lối đổi mới của Đảng trên cơ sở thực hiện Pháp lệnh Du lịch, du lịch
Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn. Pháp lệnh Du lịch là chỗ dựa
pháp lý cho các doanh nghiệp làm du lịch và người làm du lịch Việt Nam.
Từ khi ban hành Pháp lệnh Du lịch, Tổng cục Du lịch đã trình Chính
phủ ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh như Nghị định
38
47/2001/NĐ-CP ngày 10 tháng 8 năm 2001 của Chính phủ quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Thanh tra du lịch; Nghị định
50/2002/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch; Nghị định 94/2003/NĐ-CP ngày 19
tháng 8 năm 2003 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch;… Các quy định về tài nguyên du
lịch và bảo vệ tài nguyên du lịch cũng đã được ghi nhận trong văn bản này.
Theo Pháp lệnh thì tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích
lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của
con người có thể sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để
hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch. Vấn
đề bảo vệ, khai thác, sử dụng và phát triển tài nguyên du lịch được quy định
tại Chương II (gồm 6 điều) của Pháp lệnh. Pháp lệnh xác định bảo vệ tài
nguyên du lịch là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bao gồm các
nội dung sau:
Thứ nhất, trách nhiệm thuộc về các cơ quan quản lý tài nguyên du lịch
Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp quản lý tài
nguyên du lịch và tài nguyên liên quan đến du lịch có trách nhiệm
phối hợp trong việc bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý và phát triển
tài nguyên du lịch [24, Điều 12].
Thứ hai, trách nhiệm thuộc về các cơ quan, tổ chức, cá nhân. “Cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá
nhân có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch” [24, Điều 13].
Thứ ba, trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch thuộc về tổ chức, cá
nhân kinh doanh du lịch. “Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch có trách
39
nhiệm bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên du lịch và
bảo vệ môi trường tại khu du lịch, tuyến du lịch, điểm du lịch” [24, Điều 14].
Ngoài ra, còn có quy định về việc:
Nhà nước đầu tư cho việc điều tra cơ bản về tài nguyên du lịch
ưu tiên đầu tư cho các dự án bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch tại
các điểm du lịch, khu du lịch; có chính sách khuyến khích tổ chức,
cá nhân đầu tư vào việc bảo vệ, tôn tạo, sử dụng và phát triển tài
nguyên du lịch [24, Điều 16].
Như vậy, Pháp lệnh Du lịch là văn bản pháp lý đầu tiên điều chỉnh các
vấn đề về du lịch bằng những nguyên tắc, quy phạm pháp luật trong một văn
bản thống nhất. Đây cũng là lần đầu tiên có các quy định về bảo vệ tài nguyên
du lịch. Sau một thời gian, kể từ khi ngành Du lịch được Nhà nước quan tâm
và chú trọng thì pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch đã có những bước phát
triển đáng ghi nhận.
Từ việc Nhà nước mới chỉ có những văn bản pháp lý quy định về việc
thành lập Tổng cục Du lịch cũng như các quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch đến ban hành một văn bản
pháp lý có hiệu lực cao quy định về các vấn đề cơ bản nhất của du lịch. Pháp
luật về bảo vệ tài nguyên du lịch trong thời gian đầu chưa được chú trọng và có
những quy định cụ thể bởi thời gian đó ngành Du lịch Việt Nam mới được
thành lập nên cần có những quy định về công tác quản lý nhà nước về du lịch,
quy hoạch tổng thể về du lịch triển khai thực hiện. Khi Pháp lệnh Du lịch ra đời
thì quy định về bảo vệ tài nguyên môi trường lần đầu tiên được đưa ra. Pháp
luật bắt đầu có những quy định cơ bản về trách nhiệm của các chủ thể trong
việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Tuy nhiên, sau quá trình ban hành Pháp lệnh Du
lịch và thực hiện trên thực tiễn đã thấy xuất hiện những hạn chế, bất cập nhất
định về bảo vệ tài nguyên du lịch. Do việc quản lý và bảo vệ tài nguyên du lịch
40
gắn với các khu, điểm du lịch trên thực tế do nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân
hoặc do các Bộ, ngành, địa phương khác nhau được phân công quản lý nên
việc chồng chéo hoặc thiếu sự thống nhất là điều khó tránh khỏi. Trên thực tế
vẫn tồn tại nhiều lộn xộn trong hoạt động kinh doanh, khai thác, không đảm
bảo trật tự, vệ sinh, an toàn tại khu, điểm du lịch. Pháp lệnh đã quy định về
trách nhiệm của các cơ quan khác nhau, song các quy định này còn ở mức
chung, chưa cụ thể với từng cơ quan có trách nhiệm quản lý tài nguyên du lịch
khác nhau (tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch cách mạng,…). Nhìn
chung các Luật đã ban hành về bảo vệ tài nguyên du lịch như Luật Bảo vệ di
sản văn hóa, Luật Bảo vệ và phát triển rừng,… đã thể chế hóa cơ chế quản lý,
bảo vệ các loại tài nguyên du lịch nhưng các luật thiếu những quy định gắn
việc bảo vệ và phát triển du lịch, chưa thấy phát triển du lịch là yếu tố và
phương thức quan trọng để bảo vệ, phát huy và phát triển tài nguyên du lịch.
1.2.3.2. Từ năm 1999 đến nay
Trong giai đoạn này, bước phát triển rõ nét của pháp luật về bảo vệ tài
nguyên du lịch được đánh dấu bằng sự ra đời của Luật Du lịch năm 2005.
Trước đó, ngay sau khi Pháp lệnh Du lịch năm 1999 được ban hành cũng đã
nhiều văn bản pháp luật quy định về việc bảo vệ các tài nguyên du lịch, như
Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Luật Bảo vệ và
phát triển rừng năm 2004,… Các đạo luật trên cùng các văn bản hướng dẫn
thi hành đã tạo thành một hệ thống các quy định tương đối đồng bộ về bảo vệ
và phát huy các giá trị di sản văn hóa; bảo vệ tài nguyên rừng để phục vụ phát
triển du lịch; thúc đẩy ngành Du lịch phát triển.
Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai thực hiện Pháp lệnh Du lịch cho
thấy nhiều quy định của văn bản này không còn phù hợp với thực tiễn cũng
như quy định của một số đạo luật có liên quan. Ở nhiều nơi tài nguyên du lịch
bị xâm phạm, xuống cấp; cảnh quan, môi trường bị suy giảm; an ninh trật tự
chưa tốt; hiện tượng chèo kéo, đeo bám khách du lịch vẫn diễn ra phổ biến,
41
ảnh hưởng tới sự hấp dẫn đối với khách du lịch... Điều này làm nảy sinh nhu
cầu cần phải ban hành một văn bản có giá trị pháp lý cao hơn, nhằm đảm bảo
sự đồng bộ, tương thích trong hệ thống pháp luật và tạo sự phát triển nhanh,
bền vững cho ngành Du lịch Việt Nam. Luật Du lịch năm 2005 được ban
hành trong bối cảnh đó.
Nguyên tắc phát triển bền vững, đặc biệt là việc bảo vệ và sử dụng hợp
lý tài nguyên du lịch cần phải được ghi nhận là nguyên tắc xuyên suốt trong
Luật Du lịch năm 2005. Bên cạnh đó là những quy định cụ thể hơn về việc bảo
vệ, sử dụng và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên du lịch, làm rõ trách
nhiệm và sự phối hợp của các ngành, các cấp trong việc quy hoạch phát triển
và quản lý nhà nước đối với tài nguyên du lịch; quyền và nghĩa vụ của tổ chức,
cá nhân, cộng đồng dân cư trong việc bảo vệ, sử dụng và khai thác tài nguyên
du lịch đi đôi với bảo vệ môi trường, xây dựng môi trường du lịch trong sạch,
văn minh, an toàn, đặc biệt tại các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch.
Luật Du lịch năm 2005 có 11 chương, 88 điều, bao gồm các quy định
về nội dung và những nguyên tắc cơ bản, cơ sở pháp lý cơ bản của du lịch
Việt Nam. Việc xây dựng Luật Du lịch năm 2005 dựa trên những cơ sở quán
triệt các quan điểm sau:
Thứ nhất, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về phát triển
du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, kích thích đầu tư và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo ở những vùng có tiềm năng phát
triển du lịch.
Thứ hai, việc xây dựng Luật Du lịch kế thừa các quy định phù hợp với
thực tế và đang phát huy hiệu quả của Pháp lệnh Du lịch, đồng thời khắc phục
được những bất cập, thiếu sót của Pháp lệnh Du lịch, hạn chế những quy định
chung chung có tính tuyên ngôn, ít tính quy phạm của văn bản.
Thứ ba, thể hiện được quan điểm phát triển bền vững, thể hiện được
42
đặc điểm của du lịch là lĩnh vực có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa
cao, nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp đối với phát triển du lịch và
thu hút mọi thành phần kinh tế trong xã hội tham gia phát triển du lịch.
Thứ tư, phù hợp với thông lệ quốc tế và tiến trình hội nhập của Việt Nam
trong khu vực và quốc tế. Các quy định cần thể hiện những đặc thù hoạt động
dịch vụ, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, khắc phục được các hành vi vi
phạm trong kinh doanh, bảo vệ tài nguyên và bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền
và lợi ích của khách du lịch, nâng cao hình ảnh của du lịch Việt Nam.
Như vậy, tính đến thời điểm này, bên cạnh Luật Du lịch năm 2005 còn có
nhiều luật chuyên ngành điều chỉnh về một số khía cạnh cụ thể của bảo vệ tài
nguyên du lịch, như Luật Di sản Văn hóa năm 2001; Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng năm 2004; Luật Khoáng sản năm 2000; Luật Tài nguyên nước năm 2012,
Luật Biển Việt Nam năm 2012; Luật Bảo vệ môi trường năm 2014... Tất cả đã
tạo thành một hệ thống văn bản vừa có những quy định chung về việc bảo vệ các
loại tài nguyên du lịch và trách nhiệm của các chủ thể trong việc bảo vệ tài
nguyên du lịch vừa có những quy định riêng đối với việc bảo vệ từng loại tài
nguyên du lịch khác nhau. Đây là bước phát triển quan trọng của pháp luật bảo
vệ tài nguyên du lịch nói riêng và pháp luật về du lịch nói chung.
43
Kết luận chương 1
Những phân tích trên đã cho thấy ý nghĩa, tầm quan trọng của bảo vệ
tài nguyên du lịch đối với sự phát triển của ngành Du lịch nói chung và kinh
tế Việt Nam nói riêng. Tài nguyên du lịch chính là đối tượng, nguồn lực quan
trọng nhất, mang tính quyết định đến sự phát triển của ngành Du lịch. Pháp
luật về bảo vệ tài nguyên du lịch gắn với sự hình thành và phát triển pháp luật
về du lịch. Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch quy định những vấn đề cơ
bản nhất về bảo vệ tài nguyên du lịch, từ nguyên tắc bảo vệ tài nguyên du lịch
đến quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể trong bảo vệ tài nguyên du lịch.
Theo thời gian, pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch đã có những phát triển
đáng ghi nhận, đóng góp lớn vào việc sự phát triển của hệ thống pháp luật
Việt Nam; giữ gìn và phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất
nước phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển dịch vụ du
lịch nói riêng.
44
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch
2.1.1. Những ưu điểm của pháp luật trong bảo vệ tài nguyên du lịch
Như đã đề cập ở Chương 1, thời gian qua công tác xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch được Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm, và trên thực tế hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này đã và đang
phát huy được những tác dụng nhất định trong việc điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh từ quá trình con người tác động vào các nguồn tài nguyên du
lịch. Sự đóng góp của pháp luật trong công tác bảo vệ tài nguyên du lịch được
xem xét từ cả hai góc độ: Những đóng góp chung và đóng góp đối với từng
nguồn tài nguyên, cụ thể:
2.1.1.1. Những đóng góp chung của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch
Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên
du lịch có hiệu lực pháp lý cao, đủ mạnh để điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên du lịch, nhờ đó mà hiệu quả quản lý nhà
nước trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên du lịch được nâng cao rõ rệt, trong đó
nổi bật nhất là Luật Du lịch năm 2005. Sự ra đời của đạo luật này khẳng định
một bước tiến lớn về khuôn khổ pháp lý; tạo cơ sở cho việc Nhà nước ban
hành các chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch; cùng với đó là việc triển
khai các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án... rộng khắp trên phạm vi cả
nước. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch được tăng cường;
cơ sở hạ tầng, các trung tâm, điểm đến du lịch, khu nghỉ dưỡng, khách sạn,
khu giải trí được khuyến khích đầu tư; các tuyến du lịch và các loại hình du
lịch đa dạng phát triển nhanh chóng… đã thực sự tạo ra một diện mạo mới
cho du lịch Việt Nam.
45
Như vậy, đóng góp lớn nhất của hệ thống pháp luật về bảo vệ tài
nguyên du lịch là đã hình thành được những cơ sở pháp lý quan trọng cho
việc huy động sự tham gia của các ngành, các cấp và toàn dân vào việc bảo vệ
tài nguyên du lịch.
Thứ hai, hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch của Việt Nam
đang ngày càng được hoàn thiện.
Rà soát các quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch cho chúng ta thấy
những quan hệ xã hội cơ bản phát sinh trong hoạt động bảo vệ tài nguyên du
lịch đã được điều chỉnh bằng pháp luật. Cụ thể là trong mối quan hệ quản lý
nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch, pháp luật đã quy định khá đầy đủ các
nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước đối với tài nguyên du lịch.
Hình thành hệ thống các thiết chế về bảo vệ tài nguyên du lịch ở cấp trung
ương, địa phương; quy định quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản
lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch; quy định quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể khác trong xã hội về bảo vệ tài nguyên du lịch trong hoạt động du
lịch, bảo vệ tài nguyên du lịch tại các điểm du lịch, khu du lịch; quy định các
biện pháp bảo vệ tài nguyên du lịch trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên
du lịch; quy định những nguyên tắc và nội dung cơ bản trong hợp tác quốc tế
về bảo vệ tài nguyên du lịch; quy định về bồi thường thiệt hại do hành vi trái
pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch gây ra; quy định về việc khen thưởng
và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch... Ngoài
ra, đối với từng loại tài nguyên du lịch lại có những văn bản quy định riêng về
bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch đó, nhằm bổ sung, hỗ trợ cho các quy định
chung nêu trên.
Thứ ba, hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam đã
đảm bảo tính công khai, minh bạch.
Hoạt động bảo vệ tài nguyên du lịch sẽ khó đạt được hiệu quả mong
46
muốn nếu như thiếu cơ chế huy động sự tham gia rộng rãi của người dân vào
hoạt động bảo vệ tài nguyên du lịch. Một trong những biện pháp tạo tiền đề để
người dân cùng tham gia bảo vệ tài nguyên du lịch là việc công khai hóa các
thông tin về hoạt động bảo vệ tài nguyên du lịch để người dân, các cơ quan
thông tấn, báo chí có điều kiện cùng giám sát việc chấp hành pháp luật bảo vệ
tài nguyên du lịch của cơ quan nhà nước, các tổ chức, cơ quan hữu quan.
Để đáp ứng yêu cầu dân chủ hóa quá trình bảo vệ tài nguyên du lịch,
pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch đã có những quy định quan trọng, như
Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định: “Chính phủ quy định,
công bố công khai Danh mục thực vật rừng, động vật rừng được nhập khẩu;
thực vật rừng, động vật rừng cấm xuất khẩu hoặc xuất khẩu có điều kiện”
[12, Điều 44]; Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định: “Công khai thông
tin về những nội dung liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả
nước thải vào nguồn nước của dự án và những ảnh hưởng có thể gây ra trước
khi triển khai thực hiện” [19, Điều 6, Khoản 1]... Như vậy, để đảm bảo cho
các chủ thể giám sát việc bảo vệ tài nguyên du lịch có hiệu quả thì cần phải
công khai những thông tin cần thiết về các loại tài nguyên, những tiêu chí
đánh giá mức độ khai thác tài nguyên du lịch, tránh tình trạng các tài nguyên
du lịch bị khai thác bừa bãi, không giữ nguyên được giá trị vốn có của nó.
Đồng thời, thông qua những thông tin đó thì chủ thể giám sát có thể bảo vệ
được các tài nguyên du lịch.
2.1.1.2. Những đóng góp của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch đối
với một số nguồn tài nguyên cụ thể
 Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng
Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng nói chung và bảo vệ tài nguyên
rừng trong phát triển du lịch nói riêng của Việt Nam có một số ưu điểm nổi
bật sau:
47
Thứ nhất, đã bước đầu thể hiện quan điểm và cách tiếp cận có hệ thống,
phát huy sức mạnh của các cơ quan quản lý nhà nước và toàn thể xã hội trong
công tác bảo vệ tài nguyên rừng. Đồng thời, thông qua triển khai cơ chế giao
đất, giao rừng, cho thuê rừng cho Ban quản lý rừng, tổ chức kinh tế, hộ gia
đình, cá nhân gắn họ với việc bảo vệ tài nguyên du lịch rừng. Hiện nay Nhà
nước còn thiết lập các Hạt kiểm lâm ở cấp huyện, mạng lưới các Hạt Phúc
kiểm lâm sản, Hạt kiểm lâm ở các khu rừng đặc dụng, các Vườn quốc gia đã
được thành lập để bảo vệ tài nguyên rừng đặc dụng và tài nguyên du lịch rừng.
Thứ hai, công tác quy hoạch tổng thể, rà soát, khai thác và sử dụng hợp
lý các tài nguyên rừng đã được Chính phủ và chính quyền địa phương quan
tâm, ban hành các văn bản nhằm triển khai công tác quản lý, bảo vệ rừng để
đạt hiệu quả cao, điển hình như Ủy ban nhân dân tỉnh Kom Tum đã ban hành
Chỉ thị số 05/2008/CT-UBND ngày 25 tháng 7 năm 2008 về việc tăng cường
công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh; Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ số 07/2012/QĐ-TTg ngày 08 tháng 02 năm 2012 về ban
hành một số chính sách tăng cường công tác bảo vệ rừng; Quyết định số
164/2013/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn ngày 25 tháng 01
năm 2013 ban hành quy chế phối hợp giữa Vườn quốc gia Ba Bể, Công an
tỉnh, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong quản lý bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên
và đa dạng sinh học trên địa bàn Vườn quốc gia Ba Bể; Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi đã ban hành chỉ thị số 02/CT-UBND ngày 26 tháng 02 năm 2014
về việc tăng cường các biện pháp bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng
trên địa bàn tỉnh năm 2014;... Việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng đã
được ghi nhận và khẳng định trong các văn bản pháp luật như là một xu thể
tất yếu của quá trình phát triển. Sự ghi nhận này đã thể hiện cam kết của Việt
Nam trong quá trình triển khai và hợp tác quốc tế bền vững trong khu vực và
trên toàn thế giới.
48
 Pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước
Trong thời gian qua, cùng với chủ trương, chính sách pháp luật về bảo
vệ tài nguyên du lịch nói chung, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm, chỉ
đạo việc quản lý, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước. Tài nguyên nước có ý
nghĩa quan trọng trong phát triển du lịch biển, sông, hồ, thác nước,… nên Nhà
nước đã và đang xây dựng các chiến lược quan trọng đối với việc bảo vệ tài
nguyên nước, “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020” như
một chương trình hành động trung và dài hạn nhằm đạt được các mục tiêu
phát triển và triển khai thực hiện các chính sách có liên quan đến tài nguyên
nước. Mục tiêu cơ bản của việc xây dựng “Chiến lược quốc gia về tài nguyên
nước” là định hướng cho công tác quản lý, bảo vệ, phát triển, khai thác và sử
dụng tài nguyên nước ở Việt Nam phù hợp với các tiêu chí phát triển và chính
sách đã phê duyệt. Bên cạnh đó, “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước”
góp phần kiểm chứng các tiêu chí và chính sách để có thể đề xuất những nội
dung chính sách và pháp luật nhằm điều chỉnh phù hợp quá trình quản lý, bảo
vệ, phát triển, khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên nước.
Luật Tài nguyên nước năm 2012 được coi là cơ sở pháp lý quan trọng,
cùng với văn bản pháp luật khác có liên quan tạo thành hệ thống pháp luật
bảo vệ tài nguyên nước ở Việt Nam. Luật quy định trách nhiệm bảo vệ tài
nguyên nước trong quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên nước:
Bảo vệ tài nguyên nước là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ
chức, cá nhân và phải lấy phòng ngừa là chính, gắn với việc bảo vệ,
phát triển rừng, khả năng tái tạo tài nguyên nước, kết hợp với bảo
vệ chất lượng nước và hệ sinh thái thủy sinh, khắc phục, hạn chế ô
nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước [19, Điều 3, Khoản 4].
Hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước đã được xây dựng, bổ
sung và hoàn thiện, đồng thời phát huy vai trò tích cực trong việc huy động
các nguồn lực xã hội bảo vệ tài nguyên nước.
49
Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan đã từng bước đưa công tác quản lý
và sử dụng các nguồn nước hợp lý, tiết kiệm nguồn nước, tránh gây ô nhiễm
và làm cạn kiệt nguồn nước gây ảnh hưởng xấu đến cảnh quan du lịch ở từng
địa phương nói riêng và trong cả nước nói chung. Sau khi ban hành Luật Tài
nguyên nước năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 201/NĐ-CP
ngày 27 tháng 11 năm 2013 quy định chi tiết một số điều của Luật Tài nguyên
nước năm 2012; Quyết định số 459/QĐ-TTg ngày 02 tháng 4 năm 2014 của
Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng
quốc gia về tài nguyên nước; Thông tư số 52/2014/TT-BTNMT ban hành
ngày 9 tháng 9 năm 2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Quy định về
phân cấp trữ lượng và cấp tài nguyên nước khoáng, nước nóng thiên nhiên;
ngày 24 tháng 9 năm 2014 Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông
tư số 56/2014/TT-BTNMT quy định điều kiện năng lực của tổ chức, cá nhân
thực hiện điều tra cơ bản tài nguyên nước, tư vấn lập quy hoạch tài nguyên
nước, lập đề án, báo cáo, trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép tài nguyên nước...
Ở địa phương, chính quyền các cấp cũng ban hành nhiều văn bản pháp quy,
quy định để nâng cao công tác quản lý, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên
nước như Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ban hành Quyết định số
3594/QĐ-UBND ngày 28 tháng 12 năm 2012 về việc phê duyệt Quy hoạch
tài nguyên nước tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010 - 2020, định hướng đến năm
2030; Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam đã ban hành Quyết định số 37 ngày
03 tháng 11 năm 2014 về việc ban hành Quy định quản lý tài nguyên nước
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; Chỉ thị số 08 ngày 9 tháng 10 năm 2014 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Đăk Lăk về việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về
tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk; Quyết định số 1107/QĐ-UBND
ban hành ngày 18 tháng 4 năm 2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai phê
duyệt Thiết lập kỹ thuật và dự toán nhiệm vụ “Quan trắc nước mặt trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai năm 2014”...
50
Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước dành cho việc bảo vệ tài nguyên
nước không những đã góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện
và từng bước nâng cao mức sống cho người dân mà còn đảm bảo cho con
người quyền được sống trong một môi trường lành mạnh. Pháp luật về bảo vệ
tài nguyên nước đã thể hiện sâu sắc quan điểm bảo vệ, khai thác và sử dụng
tài nguyên nước, phòng chống và khắc phục hậu quả, tác hại do nguồn nước
gây ra phải tuân thủ theo quy hoạch lưu vực sông, bảo đảm tính hệ thống của
lưu vực, không chia cắt theo địa giới hành chính.
Bên cạnh Luật Tài nguyên nước năm 2012, Luật Biển Việt Nam năm
2012 đã có những quy định về trách nhiệm tổ chức, cá nhân trong việc giữ gìn
và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển: “Khi hoạt động trong vùng biển Việt
Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ mọi quy định của pháp luật
Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan đến việc gìn giữ, bảo vệ tài
nguyên và môi trường biển” [18, Điều 35, Khoản 1]. Điều này bắt nguồn từ
nhận thức về vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của nguồn tài nguyên biển đối
với phát triển đất nước nói chung, phát triển du lịch biển nói riêng. Tại Hội
nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X), Nghị quyết số 09-
NQ/TW ngày 9 tháng 2 năm 2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020” đã được thông qua. Tiếp đến hàng loạt các văn bản do Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ ban hành đã góp phần nâng tầm cao mới của biển cũng như
tăng cường trách nhiệm quản lý bảo vệ tài nguyên du lịch biển, như Nghị định
số 25/2009/NĐ-TTg ngày 26 tháng 3 năm 2009 của Chính phủ về quản lý
tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo; Quyết định số
568/QĐ-TTg ngày 28 tháng 4 năm 2010 của Thủ tướng về việc phê duyệt quy
hoạch phát triển kinh tế biển, đảo Việt Nam đến năm 2020; đặc biệt là ngày
01 tháng 03 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ đã kí Quyết định số
47/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và
51
quản lý tài nguyên - môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm
2020”... Đặc biệt, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3 tháng 6 năm 2013 Hội
nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI về chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 có chương riêng về bảo vệ môi
trường biển và hải đảo (Chương V), bao gồm quy định chung về bảo vệ môi
trường biển và hải đảo, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường biển và hải
đảo, phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường biển và hải đảo, điều này có ý
nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý, khai thác các tài nguyên biển nói
chung và tài nguyên biển phục vụ cho mục đích khai thác du lịch nói riêng.
Để phát triển bền vững và bảo vệ tài nguyên biển nước ta, trên cơ sở
các định hướng chung của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, cần có
một chiến lược toàn diện về tài nguyên và môi trường biển. Chiến lược xác
định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp sử dụng bền vững tài nguyên và
bảo vệ môi trường đồng hành với quá trình đẩy nhanh các hoạt động kinh tế
biển, gắn với bảo vệ an ninh, chủ quyền và quyền chủ quyền biển, đảo của
nước ta. Đẩy mạnh điều tra, khảo sát, nghiên cứu để hiểu hơn về biển, củng
cố thông tin về tài nguyên và môi trường biển, tiến tới hiểu rõ về tài nguyên
dưới đáy biển, tiềm năng băng cháy, khả năng ứng dụng năng lượng thuỷ
triều, sóng biển…; bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái biển; bố trí
không gian và phát triển các vùng biển phù hợp với sinh thái của từng vùng;
phát triển các ngành kinh tế biển bền vững; kiểm soát các nguồn ô nhiễm từ
đất liền; phòng ngừa ô nhiễm từ các hoạt động trên biển và ô nhiễm xuyên
biên giới; phòng chống thiên tai, ứng phó với tác động tiêu cực của biến đổi
khí hậu và nước biển dâng sẽ là các nội dung quan trọng của chiến lược. Trên
tinh thần đó chính quyền địa phương các cấp cũng đã ban hành nhiều văn bản
quy định về việc quản lý, khai thác sử dụng cũng như bảo vệ tài nguyên biển
52
một cách tốt nhất như việc Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau đã ban hành Quyết
định số 21/QĐ-UBND ngày 8 tháng 1 năm 2014 về ban hành quy chế phối
hợp quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo tỉnh Cà
Mau; ngày 3 tháng 10 năm 2014 Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng ban
hành Kế hoạch số 1824/KH-UBND về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường trong vùng biển huyện Hoàng Sa thành phố Đà Nẵng; Quyết định số
23/2014/QĐ-UBND ngày 17 tháng 11 năm 2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Thái Bình ban hành quy chế phối hợp quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ
môi trường biển trên địa bàn tỉnh Thái Bình; ngày 25 tháng 9 năm 2014 Ủy
ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã ra Quyết định số 4757/QĐ-UBND ban hành
quy chế phối hợp quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải
đảo trên địa bàn tỉnh Nghệ An... Bảo vệ tài nguyên du lịch biển là điều cần
thiết để du lịch phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã tham gia kí kết, gia nhập Công
ước quốc tế về biển như: Công ước liên quan đến bảo vệ di sản văn hóa và tự
nhiên thế giới; Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; Công
ước về đa dạng sinh học năm 1992..., và có nhiều nỗ lực trong việc đàm phán,
kí kết các Hiệp định song phương về phân định ranh giới biển với các nước
láng giềng có ranh giới trên biển tiếp liền hoặc đối diện, có những vùng
chung, chồng lấn với vùng biển Việt Nam. Điển hình là các Tuyên bố và Hiệp
định song phương như Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dung để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam
năm 1982; năm 2000 Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định phân định
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ, Hiệp
định về hợp tác nghề cá trong vịnh giữa hai nước…
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta nhằm tranh thủ sự
hợp tác, giúp đỡ của tổ chức phi Chính phủ, cộng đồng quốc tế nói chung và
53
sự phối hợp với các nước có chung nguồn nước nói riêng trong việc khai thác
hợp lý và bảo vệ bền vững tài nguyên nước. Bởi các nguồn nước không chỉ
phân bố trong phạm vi một nước mà còn vận động theo lưu vực đi qua lãnh
thổ nhiều quốc gia. Vì vậy, để bảo vệ và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên
nước, hạn chế tác hại do nước gây ra thì cần có sự hợp tác giữa các nước
trong lưu vực sông, biển.
 Pháp luật về bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học
Bảo tồn đa dạng sinh học cũng là vấn đề cần được quan tâm và chú
trọng trong hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch do nguồn tài
nguyên này cũng đóng góp đáng kể việc phát triển kinh tế du lịch. Hệ thống
pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam trong một thời gian dài
đã thể hiện được những bất cập lớn, chưa đảm bảo được tính thống nhất, đồng
bộ nên hiệu quả áp dụng chưa cao, dẫn đến việc bảo vệ đa dạng sinh học còn
hạn chế, chưa duy trì và phát triển hệ thống bảo tồn đa dạng sinh học cũng
như tính đa dạng trong hệ thống đa dạng sinh học của quốc gia.
Luật Đa dạng sinh học được Quốc hội ban hành ngày 13 tháng 11 năm
2008 đã tạo nên một hành lang pháp lý thống nhất điều chỉnh việc bảo tồn và phát
triển đa dạng sinh học, đáp ứng nhu cầu cấp bách của hoạt động bảo tồn đa dạng
sinh học hiện nay và trong tương lai. Luật đã hoàn thành nhiệm vụ pháp điểm hóa
các quy định về bảo vệ đa dạng sinh học được đề cập đến trong nhiều văn bản
pháp lý thành một lĩnh vực pháp lý cụ thể, độc lập, hỗ trợ và tạo thế cân bằng với
lĩnh vực pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch. Các khía cạnh của đa dạng sinh
học cũng như các nội dung của bảo tồn đa dạng sinh học trước đây chưa được
pháp luật điều chỉnh hoặc điều chỉnh ở mức sơ sài, nay được Luật Đa dạng sinh
học năm 2008 quy định đầy đủ, toàn diện như vấn đề quy hoạch bảo tồn đa dạng
sinh học, vấn đề tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích, vấn đề kiểm soát sinh vật lạ
xâm hại, tiếp cận bảo tồn cảnh quan... Ngoài ra Chính phủ đã ban hành Nghị định
54
số 65/2010/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Đa dạng sinh học; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 8 tháng 1 năm 2014 về phê duyệt quy hoạch tổng
thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm
2030; Thông tư số 47/2012/TT-BNNPTNT ngày 25 tháng 9 năm 2012 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về quản lý khai thác từ tự nhiên và
nuôi động vật rừng thông thường. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp
cũng đã chủ động ban hành các văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề bảo tồn đa
dạng sinh học như thời gian gần đây Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban
hành Quyết định số 4924/QĐ-UBND ngày 24 tháng 9 năm 2014 về việc phê
duyệt “Quy hoạch bảo tồn Đa dạng sinh học thành phố Hà Nội đến năm 2030”;
Nghị quyết số 132/2013/NQ-HĐND ngày 12 tháng 12 năm 2013 của Hội đồng
nhân dân tỉnh Lạng Sơn về việc thông qua Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học
tỉnh Lạng Sơn đến năm 2020; Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương đã ra Quyết định
số 293/QĐ-UBND ngày 21 tháng 1 năm 2014 về Phê duyệt kế hoạch hành động
bảo vệ đa dạng sinh học tỉnh Hải Dương đến năm 2020 và định hướng đến năm
2030; Quyết định số 2125/QĐ-UBND ngày 13 tháng 8 năm 2014 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Sơn La về việc công bố Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học tỉnh
Sơn La đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030;...
Pháp luật về đa dạng sinh học hiện nay đã đảm bảo được tính thống
nhất nội tại của hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên, phục vụ mục đích
phát triển kinh tế bền vững của đất nước, đồng thời góp phần tích cực trong
việc duy trì, bảo tồn các nguồn tài nguyên phong phú phục vụ cho sự phát
triển hoạt động du lịch của nước ta.
 Pháp luật về bảo vệ di sản văn hóa
Di sản văn hoá là tài sản vô cùng quý giá của quốc gia, là chất liệu gắn
kết cộng đồng dân tộc, khẳng định bản sắc riêng của dân tộc, là cơ sở để sáng
55
tạo những giá trị tinh thần mới và giao lưu văn hoá. Trong những năm qua,
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều hoạt động nhằm bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hoá của cha ông, góp phần to lớn vào việc bảo vệ và xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhiều hoạt động bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hoá được triển khai thực hiện. Mặc dù còn phải đương
đầu với những khó khăn gay gắt về kinh tế - xã hội nhất là sự lan tràn mạnh
mẽ của những loại hình văn hóa đồ trụy, lai căng, Đảng và Nhà nước ta vẫn
tích cực dành cho công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hoá những sự quan
tâm không nhỏ. Thực hiện chương trình quốc gia về văn hoá, trong đó có các
mục tiêu liên quan tới việc tu bổ, chống xuống cấp di tích và nghiên cứu tư
liệu hoá các di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu, đưa các công trình, di tích
vào khai thác phục vụ phát triển du lịch.
Như trên đã đề cập, Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung
một số điều vào năm 2009) đã thể hiện được những điểm tích cực trong việc
bảo vệ di sản văn hoá là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước được thể chế hoá và cụ thể hoá trong Luật góp
phần thúc đẩy quá trình xã hội hoá các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hoá. Chính sách này được tiến hành đồng thời với việc nâng cao vai
trò và trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền về văn hoá - thông tin để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về
bảo vệ di sản văn hoá. Nhận thức của cán bộ và các tầng lớp nhân dân về
quyền lợi, trách nhiệm trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã
được nâng lên rõ rệt.
Cùng với Luật Di sản văn hóa năm 2001 là Nghị định số 98/2010/NĐ-
CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản
56
văn hóa; Chỉ thị số 16/CT-BVHTTDL ngày 3 tháng 2 năm 2010 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch về việc tăng cường công tác chỉ đạo quản lý hoạt
động văn hóa, tín ngưỡng tại di tích; Quyết định số 3878/QĐ-BVHTTDL
ngày 1 tháng 11 năm 2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Di sản văn hóa;
Thông tư số 18/2012/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích;...
Nhiều địa phương cũng đã chủ động ban hành các văn bản nhằm triển khai
thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ các di sản trên địa bàn quản lý như
Quyết định số 38/2013/QĐ-UBND ngày 31 tháng 12 năm 2013 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Yên Bái về Ban hành quy định quản lý, bảo vệ và phát huy giá
trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Yên Bái;
Quyết định số 27/2013/QĐ-UBND ngày 10 tháng 7 năm 2013 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ban hành quy định quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị
di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh;
Quyết định số 27/2014/QĐ-UBND ngày 3 tháng 4 năm 2014 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành quy định quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị
di tích lịch sử - văn hóa và danh lam, thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Nghệ An;
Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định số 21/2014/QĐ-UBND
ngày 22 tháng 7 năm 2014 về việc ban hành quy chế quản lý, bảo vệ và phát
huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh
Phú Yên;... Những văn bản pháp luật của Chính phủ, Bộ cùng với những quy
chế, quy định của các cấp có thẩm quyền đã bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các
chủ thể sáng tạo, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, tương thích với
pháp luật quốc tế. Vì vậy, pháp luật về bảo vệ di sản văn hóa đã tạo điều kiện
và cơ hội cho các hoạt động quản lý, khai thác, bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa ở nước ta ngày càng thu hút được sự tham gia tích cực của toàn
xã hội, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ có hiệu quả của cộng đồng quốc
57
tế. Sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc đã phát huy có hiệu quả đối với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội; trực tiếp góp phần xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và quảng bá hình ảnh đất nước
trên thế giới. Pháp luật về Di sản văn hoá cũng đồng thời có những quy định
cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hoá, như việc cho phép tổ chức
trưng bày cổ vật ở nước ngoài, việc nghiên cứu, sưu tầm các di sản văn hoá
của người nước ngoài ở Việt Nam và đặc biệt là việc hợp tác quốc tế để bảo
hộ những di sản văn hoá Việt Nam ở nước ngoài.
Di sản văn hóa có vai trò to lớn đối với sự phát triển lành mạnh và bền
vững của cuộc sống đương đại. Bảo vệ và phát huy giá trị của các di sản là
nền tảng, là nguồn động lực cho sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất
nước, là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người và của cả cộng đồng. Luật
Di sản văn hóa 2001 là cơ sở pháp lý quan trọng, cùng với các văn bản quy
phạm pháp luật khác từ trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh việc đổi mới
các hoạt động nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá ở Việt Nam,
thiết thực góp phần triển khai thắng lợi những đường lối, chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới đất nước nói chung, cùng xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói riêng.
2.1.2. Những hạn chế của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch
2.1.2.1. Những bất cập chung của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch
Mặc dù hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch có nhiều ưu
điểm và nhiều đóng góp như kể trên, song so với yêu cầu chung của quá trình
phát triển kinh tế đất nước nhằm bảo đảm phát triển bền vững trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, trong đó có phát triển dịch vụ du lịch thì hệ thống pháp luật
trong lĩnh vực này cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, mà điển hình nhất
vẫn là Luật Du lịch năm 2005. Cụ thể là:
Luật Du lịch năm 2005 mới chỉ quy định vấn đề chung về bảo vệ tài
58
nguyên du lịch, còn các vấn đề cụ thể về bảo vệ tài nguyên du lịch hiện
nằm rải rác trong nhiều văn bản mà chưa tạo thành các quy định thống
nhất trong lĩnh vực này. Ngoài ra cũng chưa có sự đồng bộ giữa các quy
định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch; mối quan hệ “trước, sau”,
“trên, dưới” giữa các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du
lịch chưa được thể hiện rõ ràng.
Trong Luật Du lịch năm 2005 tuy đã có đưa ra quy định về các vấn đề
bảo vệ, tôn tạo các tài nguyên du lịch cũng như trách nhiệm bảo vệ tài nguyên
du lịch của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ trung ương đến địa
phương; của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân sở hữu quản lý nhà nước;
trách nhiệm của cá nhân, khách du lịch, nhưng chỉ mang tính tổng quát. Chưa
nêu rõ trách nhiệm của khách du lịch, cá nhân khi đến khu du lịch, khu di tích,
điểm du lịch, điểm di tích, cơ sở lưu trú phải có trách nhiệm như thế nào; tổ
chức, cá nhân sở hữu, quản lý tài nguyên du lịch có trách nhiệm phối hợp với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền về du lịch song sự phối hợp ấy được quy
định như thế nào thì chưa được Luật đề cập đến. Luật Du lịch năm 2005 có đề
cập đến trách nhiệm của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch
nhưng lại thiếu các quy định để khuyến khích hỗ trợ người dân trong công tác
bảo vệ, gìn giữ các nguồn tài nguyên du lịch, đặc biệt là những di sản văn hóa
phi vật thể của dân tộc đang ngày bị mai một. Chưa có khái niệm làm nổi bật
được tầm quan trọng của việc cần phải bảo vệ các nguồn tài nguyên du lịch
trong khi tài nguyên du lịch là yếu tố quyết định đến sự tồn tại, phát triển của
ngành Du lịch. Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 1 tháng 6 năm 2007 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch, trong
Chương II - Tài nguyên du lịch, quy hoạch phát triển du lịch, chỉ hướng dẫn
chi tiết vấn đề điều tra tài nguyên du lịch, quy hoạch phát triển tổng thể tài
nguyên du lịch, công bố quy hoạch phát triển du lịch nhưng lại chưa có quy
59
định chi tiết trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch của từng cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền, đến các tổ chức, cá nhân quản lý tài nguyên du lịch,
các cá nhân, khách du lịch, cá nhân kinh doanh du lịch. Nghị định số
180/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 92/2007/NQ-CP ngày 1 tháng 6 năm 2007 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch, đã bổ sung
nội dung quản lý điểm du lịch vào Điều 10 của Nghị định 92/2007, trong đó nêu
“đảm bảo vệ sinh môi trường, phòng chống cháy nổ, an ninh, an toàn cho khách
du lịch;... công khai quy hoạch cụ thể phát triển điểm du lịch đối với điểm du
lịch quốc gia có tài nguyên du lịch tự nhiên...” [6, Điều 1, Khoản 1] song không
đề cập đến vấn đề bảo vệ các nguồn tài nguyên du lịch, mặc dù đây là yếu tố cơ
bản quyết định đến sự phát triển của các điểm du lịch trong khi Luật Du lịch năm
2005 đã giải thích từ ngữ rằng: “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp
dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của du khách” [14, Điều 4, Khoản 8].
Nghị định 16/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 3 năm 2012 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch, trong đó Vi
phạm quy định về tài nguyên du lịch, quy hoạch phát triển du lịch đã quy định
“mức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi khai
thác tài nguyên du lịch trái quy định của pháp luật trong khu du lịch, điểm du
lịch hoặc trong khu vực đã được quy hoạch phát triển du lịch” [4, Điều 3]
còn mang tính chất chung chung. Vì vấn đề đặt ra là nếu việc khai thác tài
nguyên du lịch trái với quy định của pháp luật gây tổn thất rất lớn hơn nhiều
lần so với mức xử phạt tối đa là 15.000.000 đồng thì sẽ không đủ sức răn đe,
mức phạt đó không thể đủ để bù đắp, khắc phục những hậu quả lớn xảy ra đối
với tài nguyên du lịch. Bên cạnh đó chưa có Thông tư hướng dẫn nào quy
định chi tiết các vấn đề liên quan đến bảo vệ tài nguyên du lịch, xử lý các
hành vi xâm phạm trái phép tài nguyên du lịch.
60
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 không có điều khoản riêng về bảo
vệ môi trường đất, đây là thiếu sót lớn trong luật, khi môi trường đất đóng vai
trò rất quan trọng trong hoạt động đời sống của chúng ta và trong hoạt động
du lịch cũng có rất nhiều nguồn tài nguyên từ đất được khai thác và bảo vệ.
Chỉ có việc bảo vệ nguồn đất thì mới có thể bảo vệ được nhiều nguồn tài
nguyên du lịch hình thành và tồn tại phục thuộc vào sự tồn tại của môi trường
đất. Thiếu các quy định để bảo vệ môi trường tài nguyên đất sẽ dẫn đến nhiều
hệ quả xấu, tình trạng làm ô nhiễm môi trường này sẽ ngày càng tăng nếu
không có những chế tài thích hợp được quy định. Luật Bảo vệ môi trường
năm 2014 ra đời đã khắc phục được nhiều những thiếu sót của Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005, tuy nhiên Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã không kế
thừa Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định nghiêm cấm “các hành vi bị
nghiêm cấm khác về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật” [13,
Điều 7, Khoản 16] để hạn chế sự lạm dụng nghiêm cấm trong quản lý bảo vệ
môi trường. Ngoài ra, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 có quy định về bảo
vệ môi trường trong hoạt động lễ hội, du lịch (Điều 77). Tuy nhiên trong Điều
77 này, Luật chỉ nêu ra các quy định đối với tổ chức, cá nhân quản lý, khai
thác khu di tích, khu du lịch, điểm du lịch; nghĩa vụ đối với các nhân khi đến
khu di tích, điểm di tích, khu du lịch, điểm du lịch "Tuân thủ nội quy, hướng
dẫn về bảo vệ môi trường của khu di tích, điểm di tích, điểm du lịch, cơ sở lưu
trú, bỏ chất thải đúng nơi quy định, giữ gìn vệ sinh công cộng, không xâm
phạm cảnh quan di tích, các loại sinh vật" [20, Điều 77, Khoản 2]... mà chưa
quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân quản lý, khai thác khu di tích, khu
du lịch, điểm du lịch như trách nhiệm phải tuyên truyền cho các cá nhân đến
đây về ý thức bảo vệ môi trường cảnh quan xung quanh, tầm quan trọng của
việc bảo vệ môi trường cho những nguồn tài nguyên du lịch. Chưa quy định
cụ thể trách nhiệm của các cá nhân khi đến các điểm du lịch, khu du lịch, khu
61
di tích, cơ sở lưu trú liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường, như tố giác các
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của những người xung quanh với ban
quản lý, tố cáo tổ chức, cá nhân quản lý, khai thác các khu du lịch, di tích, cơ
sở lưu trú liên quan đến vi phạm về bảo vệ môi trường tại khu du lịch, địa
điểm du lịch, khu di tích và bảo vệ môi trường cho nguồn tài nguyên du lịch
được phát triển bền vững.
Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009) có
hai điều luật quy định liên quan đến vấn đề tài nguyên du lịch là Điều 191 “Vi
phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên” và Điều 272 “Tội vi phạm
các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam, thắng cảnh
gây hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên khung hình phạt còn thấp, tại Điều 191,
mức hình phạt tù tối đa là mười năm; Điều 272 mức hình phạt tù tối đa là bảy năm
"Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng,
thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm" [16, Điều 272, Khoản 2], trong khi các di
tích văn hóa, lịch sử, danh lam, thắng cảnh, các khu bảo tồn thiên nhiên là nơi
chứa đựng những nguồn tài nguyên quan trọng, nhân tố quyết định sự phát
triển kinh tế du lịch. Nếu có hậu quả đặc biệt nghiêm trọng xảy ra thì nó
không chỉ làm tổn hại lớn đến nguồn tài nguyên này, gây thiệt hại không nhỏ
đến kinh tế ngành Du lịch nói riêng và kinh tế, văn hóa của quốc gia nói
chung mà còn làm hao hụt những giá trị quý báu vốn có của các nguồn tài
nguyên đó, nhưng mức xử phạt cao nhất chỉ dừng lại ở mức mười năm tù.
Trong Bộ luật Hình sự chỉ nêu ra các quyết định xử phạt đối với các tài
nguyên du lịch tự nhiên (Điều 191), tài nguyên nhân văn mang tính vật thể
(Điều 272), còn những loại hình tài nguyên du lịch nhân văn mang tính phi
vật thể như Ca trù, Dân ca quan họ, Hát xoan, Đờn ca tài tử, Không gian văn
hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên... lại chưa được đề cập tới. Loại hình tài
nguyên này không chỉ mang lại sự phát triển kinh tế du lịch mà nó còn là biểu
62
tượng cho nền văn hóa dân tộc của đất nước ở từng giai đoạn khác nhau trong
lịch sử, nên nó cũng cần được bảo vệ khỏi sự tác động của những thành phần
xấu muốn dựa vào văn hóa dân tộc để đả kích, bôi nhọ, phỉ báng để thuyết
phục, xúi dục các thế hệ tương lai của đất nước quay lưng lại với văn hóa
truyền thống của dân tộc, không ý thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn
những giá trị văn hóa, làm mai một đi bản sắc riêng của dân tộc ta.
Điều 272 Bộ luật Hình sự quy định mức độ gây hậu quả nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng chỉ mang tính chung chung. Cho đến
nay chưa có giải thích hay hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả
nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng tài
nguyên du lịch. Nên việc xác định thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp này, các cơ quan tiến
hành tố tụng chỉ có thể tham khảo Thông tư số 02/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Tòa án nhân dân Tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp
dụng một số quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự 1999 về trường hợp
gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng để xác
định hậu quả. Tuy nhiên Thông tư này cũng chỉ vẫn mang tính chất chung
chung, chủ yếu là thiệt hại về tài sản, thương tích chứ chưa có quy định chi
tiết về thiệt hại gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng xảy ra đối với những hậu quả phi vật chất, gây ảnh hưởng lớn đến bản
sắc văn hóa dân tộc của đất nước.
Hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch là tổng thể các quy
định pháp luật bao quát trên cả ba phương diện: Phòng ngừa, hạn chế tác động
xấu, khắc phục suy thoái của tài nguyên du lịch; kiểm soát và bảo vệ tài
nguyên du lịch trong quá trình tiến hành các hoạt động du lịch; xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp liên quan đến bảo vệ tài nguyên
63
du lịch. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được đặt ra khi bảo vệ tài nguyên du lịch
được quan tâm, chú trọng nên các quy định của pháp luật mới tập trung ở
phương diện thứ hai. Bên cạnh đó quan điểm về phát triển ngành Du lịch bền
vững chưa được thể hiện rõ rệt và nhất quán thông qua chính sách và các công
cụ điều tiết của Nhà nước. Các chính sách kinh tế - xã hội còn thiên về tăng
trưởng kinh tế của ngành du lịch mà chưa quan tâm đến khai thác và sử dụng
tài nguyên du lịch có thể làm suy thoái chúng.
2.1.2.2. Những bất cập của pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch đối với
một số tài nguyên cụ thể
 Đối với quy định về bảo vệ tài nguyên rừng
Điều 53 Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 chỉ quy định về hoạt
động kết hợp kinh doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái - môi
trường trong rừng đặc dụng nhưng lại không nêu việc kết hợp ấy với vấn đề
bảo vệ tài nguyên du lịch trong rừng đặc dụng.
Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng,
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản đã quy định về vi phạm các quy định về quản
lý, bảo vệ động vật rừng trong đó nêu “Người có hành vi săn, bắn, bẫy, bắt;
nuôi, nhốt, lấy dẫn xuất từ động vật rừng; giết động vật rừng trái quy định
của pháp luật (không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 7 của
Nghị định này)” [5, Điều 21] có mức xử phạt cao nhất đến 500.000.000 đồng.
Cũng theo đó thì khoản 2 Điều 7 của Nghị định này quy định về “Những hành vi
vi phạm (trừ hành vi nuôi động vật rừng nhóm IB) được xem xét để truy cứu
trách nhiệm hình sự”, có nêu “... hành vi vi phạm gây hậu quả mà tang vật là
thực vật rừng nhóm IA, động vật rừng nhóm IB vượt quá mức xử phạt vi phạm
hành chính tối đa quy định tại Điều 21, 22, 23” [5, Điều 7, Khoản 2]. Và mức
xử phạt vi phạm hành chính tối đa ở Điều 21 là 500.000.000 đồng. Tuy nhiên
64
ở khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009
quy định xử phạt tiền đối với hành vi săn, bắn, giết, vận chuyển, nuôi, nhốt...
trái phép các loại động vật trái phép trong danh mục loài nguy cấp, quý
hiếm... thì bị phạt tiền đến mức 500.000.000 đồng (theo Thông tư liên tịch số
02/2001/TTLT-TANDTC-VKSDNTC- BCA-BTP quy định gây thiệt hại tài
sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng sẽ thuộc vào tình
tiết gây hậu quả nghiêm trọng), cũng có nghĩa là gây thiệt hại có giá trị từ
50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng thì sẽ bị xử phạt hình sự 50.000.000
đồng đến 500.000.000 đồng. Điều này cho thấy sự chưa thống nhất, chồng
chéo về quy định của các văn bản pháp luật liên quan đến cùng một vấn đề, khi
văn bản quy định mức phạt hành chính vượt quá 500.000.000 đồng mới xử
phạt hình sự, nhưng một văn bản khác lại có quy định về xử phạt hình sự bằng
hình phạt tiền với thiệt hại tài sản có giá trị đến 500.000.000 đồng (khi thiệt hại
tài sản từ 50 triệu đồng đến dưới 500.000.000 đồng). Đây là vấn đề bấp cập cần
được tháo gỡ, để giúp cho công tác xử lý vi phạm trong bảo vệ các nguồn động
vật quý, hiếm được sinh sống và phát triển tốt đồng thời cũng là giúp cho việc
bảo vệ nguồn tài nguyên phục vụ cho phát triển du lịch được bền vững.
 Đối với quy định về bảo vệ tài nguyên nước
Luật Tài nguyên nước năm 2010 cùng với Nghị định số 201/2013 ngày
27 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Tài nguyên nước đã quy định chi tiết về các vấn đề quản lý, bảo vệ,
khai thác, sử dụng, phổ biến tuyên truyền giáo dục cho nhân dân kiến thức về
tài nguyên nước, điều tra cơ bản, lập ra chiến lược quy hoạch tài nguyên
nước, nhưng vẫn chưa có quy định riêng dành cho tài nguyên nước sử dụng
trong từng lĩnh vực khác nhau. Nguồn tài nguyên nước phục vụ cho mục đích
du lịch cần được bảo vệ nghiêm ngặt trước hết ở các quy định của pháp luật
song lại chưa được đề cập chi tiết. Các văn bản quy phạm pháp luật quy định
65
liên quan đến vấn đề tài nguyên biển chưa đề ra cụ thể những hình thức phạt
đối với những cá nhân, tổ chức tiến hành hoạt động du lịch làm ảnh hưởng,
hủy hoại đến tài nguyên du lịch biển.
 Đối với những quy định về di sản văn hóa
Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm
2009) còn thiếu quy định để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa có dấu
hiệu là di tích và danh thắng đã kiểm kê nhưng chưa được xếp hạng. Một số
khu bảo tồn thiên nhiên đã trở thành di tích đặc biệt cấp quốc gia và di sản
thiên nhiên thế giới, tuy nhiên Luật Di sản văn hóa chưa đề cập tới công tác
quản lý và bảo vệ các di sản này. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Di sản văn hóa năm 2009 đã sửa đổi, bổ sung Điều 17 của Luật Di sản văn
hóa năm 2001, trong đó có quy định “khuyến khích và tạo điều kiện tổ chức,
cá nhân nghiên cứu, sưu tầm, lưu giữ, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa
phi vật thể” [17, Điều 1, Khoản 4], tuy nhiên Luật lại không quy định việc
hướng dẫn, khuyến khích ấy một cách cụ thể, điều này có thể khiến cho nhiều
làng nghề bị mai một, nhiều cá nhân không còn theo đuổi lưu giữ những di
sản văn hóa phi vật thể nữa. Văn bản gần đây nhất là Nghị định số
62/2014/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ đã ban hành quy
định về xét tặng danh hiệu “nghệ nhân nhân dân”, “nghệ nhân ưu tú” trong
lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Đây là bước tiến quan trọng nhằm khích lệ
cũng như nhằm bảo tồn giá trị văn hóa nhân loại, song do mới được ra đời
nên công tác triển khai chưa được rộng rãi, nhiều nghệ nhân chưa được xét
tặng và hưởng những chế độ đãi ngộ từ phía Nhà nước.
 Đối với những quy định về đa dạng sinh học
Luật Đa dạng sinh học năm 2008 quy định “Bộ, cơ quan ngang bộ căn
cứ vào quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước tổ chức lập,
phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học thuộc phạm vi
66
quản lý” [15, Điều 10, Khoản 2]. Nghị định số 65/2010/NĐ-CP ngày 11
tháng 6 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Đa dạng sinh học “Căn cứ vào quy hoạch tổng thể bảo tồn
đa dạng sinh học của cả nước, Bộ, cơ quan ngang bộ có chức năng quản lý
nhà nước về bảo tồn đa dạng sinh học có trách nhiệm lập quy hoạch bảo tồn
đa dạng sinh học thuộc phạm vi quản lý của mình” [3, Điều 5, Khoản 1] là
vấn đề chưa được pháp luật điều chỉnh. Quy định còn mang tính chất chung
chung, chưa cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của từng Bộ, cơ quan ngang bộ
trong việc lập, phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học. Bên
cạnh đó thì Luật Đa dạng sinh học năm 2008 vẫn chỉ có những quy định
chung cho các loại sinh học chứ không phân ra từng mục riêng cho các loài
sinh vật trên cạn, các loài sinh vật dưới nước. Quy định về bảo vệ sinh vật
dưới nước còn sơ xài, chưa đưa ra được những biện pháp để bảo vệ mang tính
hiệu quả cao.
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch
2.2.1 Những kết quả đạt được trong việc thi hành pháp luật về bảo vệ
tài nguyên du lịch
Trước tình trạng tài nguyên du lịch đang ngày càng bị xâm phạm và
mai một dần. Đảng và Nhà nước ta không chỉ ban hành nhiều chính sách cũng
như các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch mà còn tổ chức thực
hiện các chương trình, sự kiện để việc bảo vệ các loại tài nguyên du lịch đạt
được kết quả cao hơn. Công tác thực hiện việc bảo vệ các loại tài nguyên du
lịch đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, từ phía cơ quan chức năng
cũng như ở người dân địa phương và du khách.
Thứ nhất, Nhà nước cũng như chính quyền địa phương các cấp đã triển
khai thực hiện các chương trình nhằm bảo vệ, phát triển tài nguyên du lịch.
Đối với tài nguyên du lịch tự nhiên, các biện pháp bảo vệ tài nguyên du lịch
67
tự nhiên đã được triển khai thực hiện ở một số địa phương và đạt được thành
quả nhất định. Thực hiện theo quy định pháp luật về Luật Tài nguyên nước
năm 2012, các cơ quan có thẩm quyền đã quản lý về số lượng và chất lượng
nước; giữa nước mặt và nước dưới đất; nước trên đất liền và nước vùng cửa
sông, nội thủy, lãnh hải; giữa thượng lưu và hạ lưu, kết hợp với quản lý các
nguồn tài nguyên thiên nhiên khác gắn với bảo vệ môi trường, cảnh quan
thiên nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh và các tài nguyên
thiên nhiên khác. Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ nguồn nước do
mình khai thác, sử dụng và còn giám sát những hành vi gây ô nhiễm, suy
thoái, cạn kiệt nguồn nước của tổ chức, cá nhân khác. Ngày 17 tháng 10 năm
2014 Hội thảo và Triển lãm quốc tế lần thứ III "Công nghệ quan trắc và dự
báo tài nguyên nước” - VACI 2014 do Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài
nguyên nước Quốc gia, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội và
các tổ chức quốc tế phối hợp tổ chức tại Hà Nội. Đây là hoạt động hưởng ứng
Ngày Quan trắc tài nguyên nước Thế giới 18 tháng 10. Hội thảo là nơi hội tụ
các công ty, tổ chức, các nhà quản lý của Việt Nam, trong khu vực và quốc tế
cùng trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ cơ hội hợp tác và tìm ra các giải pháp mới,
nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác quan trắc và dự báo tài nguyên
nước; Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Thái
Nguyên tổ chức các hoạt động cấp quốc gia tại Thái Nguyên từ ngày 15 đến
21 tháng 9 năm 2014, với các hoạt động chính là Lễ phát động quốc gia
hưởng ứng Chiến dịch Làm cho Thế giới sạch hơn, các hoạt động trồng cây,
thu gom, xử lý rác thải, nước thải, thăm quan mô hình và các hoạt động
truyền thông về bảo vệ môi trường đều được thực hiện với chủ đề "Hãy hành
động vì một môi trường không rác"; ngày 21 tháng 9 năm 2014, hơn 1.000
người đã tham gia lễ ra quân hưởng ứng chiến dịch "Làm cho thế giới sạch
hơn" năm 2014 tại trường trung học cơ sở An Phú Đông, Quận 12, thành phố
68
Hồ Chí Minh. Buổi lễ do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí
Minh cùng Ủy ban nhân dân Quận 12 phối hợp tổ chức, có sự tham gia của
ông John McAnulty - Tổng lãnh sự Úc tại thành phố Hồ Chí Minh; ngày 17
tháng 9 năm 2014, tại huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh đã ra quân diệt cây mai dương với sự tham gia của hơn 1.000
tình nguyện viên. Cây mai dương vào Việt Nam từ 30 năm nay sống được
trên cạn lẫn dưới nước tạo thành thảm cây bụi cao, cản trở dòng chảy, lấn
chiếm đất canh tác và làm đất đai bị bạc màu gây ảnh hưởng không nhỏ đến
nguồn tài nguyên nước [38]; Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam với chủ đề
“Together we have the power to protect the ocean” (Cùng chung sức - Chúng
ta có sức mạnh bảo vệ đại dương) do Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam
(Bộ Tài nguyên và Môi trường) và thành phố Hải Phòng phối hợp tổ chức
trong hai ngày 7 và 8 tháng 6 năm 2014;...
Đối với tài nguyên khí hậu: Hầu hết các địa phương đều tiến hành công
tác bảo vệ tài nguyên khí hậu, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu như xây
dựng và phát triển năng lực giám sát, cảnh báo khí hậu, thiên tai; hoàn chỉnh
quy hoạch, đầu tư và hiện đại hóa hệ thống quan trắc, giám sát, cảnh báo về
khí tượng thủy văn; xây dựng và phát triển năng lực chủ động phòng, tránh
giảm nhẹ thiên tại phù hợp với điều kiện các vùng, địa phương trong bối cảnh
biến đổi khí hậu,… Ví dụ: Ninh Thuận là địa phương có 105 km chiều dài bờ
biển, luôn phải hứng chịu với hầu hết các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu gây
ra, đặc biệt là hiện tượng nước biển dâng. Để đối phó với tình trạng này, ngày
12 tháng 8 năm 2013 Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số
13/NQ-TU về chủ động ứ ng phó với biến đổi khí hâ ̣u , tăng cường quản lý tài
nguyên và bảo vê ̣môi trường . Tiếp đó, ngày 17tháng 3 năm 2014 Ủy ban
nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 1219/KH-UBND về việc triển khai
thực hiê ̣n Nghi ̣quyết số 13/NQ-TU của Ban Thường vụTỉnh ủy. Ủy ban nhân
69
dân tỉnh xác định có 31 nhóm giải pháp, nhiê ̣m vụcụ thể để phân công các sở ,
ngành và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố phối hợp thực hiện. Theo đó,
về ứng phó với biến đổi khí hậu , Ninh Thuận huy đô ̣ng nguồn lực triển khai
có hiệu quả các dự án đê biển , đê sông, phòng chống ngập lụt; hạn chế ngập
lụt các vùng: ven sông Cái, hạ lưu sông Lu, kênh Bắc, kênh Chàm, kênh Nam
và vùng thoát lũ của các hồ chứa thủy lợi [27]; ngày 17 tháng 10 năm 2014,
tại Hà Nội, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ Quốc Phòng
đã tổ chức hội thảo khoa học “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu trong
quân đội” cho các đơn vị khu vực phía Bắc;
Về tài nguyên đa dạng sinh vật cũng được các cấp quan tâm thực hiện
hành động bảo vệ tài nguyên sinh vật như Ủy ban nhân dân xã Nhơn Hải, thành
phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định đã phối hợp với Chi cục Khai thác và Bảo vệ
nguồn lợi Thủy sản Bình Định và Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát
triển Cộng đồng (MCD) triển khai Chiến dịch truyền thông về bảo vệ môi
trường biển, bảo tồn đa dạng sinh học ứng phó với biến đổi khí hậu. Chiến dịch
truyền thông được tổ chức trong tháng 5 năm 2014 với những hoạt động chính
được triển khai như: Xây dựng và thực hiện chuỗi bài tuyên truyền về bảo vệ
rạn san hô, môi trường biển và ứng phó biến đổi khí hậu phát hàng ngày trên
đài phát thanh của xã Nhơn Hải; Hoạt động làm sạch bãi biển Nhơn Hải; tổ
chức cuộc thi bắt sao biển gai, bảo vệ rạn san hô; tuyên truyền thông qua hình
thức thi tiểu phẩm sân khấu về đề tài bảo vệ hệ sinh thái rạn san hô, môi trường
biển và biến đổi khí hậu [28]. Ngày 22 tháng 5 năm 2014, tại Hà Nội, Tổng cục
Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã phối hợp với Chương trình Phát
triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức Tuần lễ kỷ niệm Ngày Quốc tế về Đa
dạng sinh học. Ngày 3 tháng 6 năm 2014, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Tiền Giang kết hợp với Ủy ban nhân dân huyện huyện Gò Công Đông tổ chức
Lễ mít tinh và diễu hành tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thành nhằm hưởng ứng
70
Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam 2014 (từ ngày 01 - 08 tháng 6) với chủ đề
“Chung tay bảo vệ Đại dương xanh” và Ngày Quốc tế đa dạng sinh học 22
tháng 5 với chủ đề “Chung tay bảo vệ đa dạng sinh học biển đảo”;...
Đối với tài nguyên nhân văn, việc thực hiện cơ chế, biện pháp nhằm phát
triển du lịch và bảo vệ tài nguyên du lịch như: bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du
lịch đã được triển khai tốt. Ở một số địa phương, các công trình, di tích lịch sử
văn hóa bị xuống cấp, Nhà nước đã có cơ chế, chính sách hỗ trợ nhằm sửa chữa
hỏng hóc, tôn tạo lại, nhằm khôi phục hiện trạng ban đầu, tránh việc mai một,
làm mất đi giá trị văn hóa lịch sử của các di tích đó. Ví dụ: Ngôi nhà của ông
Trần Đình Khánh, nguyên là Trụ sở Ủy ban Hành chính kháng chiến đầu tiên
của tỉnh Yên Bái tại xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên, hiện đang xuống cấp nặng,
nhiều hạng mục đã bị mối xông. Đây là một trong bốn điểm di tích nằm trong
Cụm di tích lịch sử quốc gia Chiến khu Vần được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay
là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử cách mạng
Quốc gia ngày 4 tháng 9 năm 1995. Ngay sau khi được công nhận là Di tích
lịch sử cách mạng cấp quốc gia, Ủy ban nhân dân huyện Trấn Yên giao cho Ủy
ban nhân dân xã Việt Hồng quản lý và khai thác 3 điểm, trong đó có di tích nói
trên. Ngày 29 tháng 9 năm 2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái có Quyết định
về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình, tu bổ, tôn tạo Di tích lịch
sử Chiến khu Vần, trong đó có di tích nhà ông Trần Đình Khánh với trị giá gần
8 tỷ đồng, sau đó có Quyết định điều chỉnh bổ sung vốn vào năm 2009 lên mức
12,7 tỷ đồng. Công trình phục dựng nhà ông Trần Đình Khánh do Công ty cổ
phần Tu bổ di tích và thiết bị văn hóa Trung ương thực hiện, khởi công từ
tháng 9/2009. Con trai ông Trần Đình Khánh là Trần Đình Quát trực tiếp tham
gia việc phục dựng di tích theo trí nhớ về ngôi nhà trước đây. Công trình hoàn
thành giai đoạn 1 vào tháng 12 tháng 2011 với tổng giá trị trùng tu là 7 tỷ đồng
[29]; di tích chiến trường Điện Biên Phủ - một trong 10 di tích lịch sử quốc gia
71
đặc biệt - trong những năm qua đã nhận được sự quan tâm đầu tư lớn của trung
ương, địa phương. Tỉnh Điện Biên đã tiến hành khoanh vùng, cắm mốc,tập
trung vào việc trùng tu, tôn tạo, phục hồi và đưa vào sử dụng, phát huy giá trị
của các điểm di tích. Các di tích cứ điểm Đồi A1, khu di tích Sở chỉ huy chiến
dịch Điện Biên Phủ ở Mường Phăng, khu Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ (trong đó có dự án cải tạo nâng cấp các đường nhánh thăm quan
trong khu di tích) được quan tâm tu bổ, tôn tạo nhiều hạng mục. Tỉnh cũng đã
tiến hành xây dựng tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ, cải tạo, nâng cấp
Bảo tàng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tu sửa, xây dựng hệ thống bia biển
giới thiệu các điểm di tích [34]; di sản văn hóa vật thể của huyện Yên Thế tỉnh
Bắc Giang bao gồm các di vật, di tích của các thế hệ cha ông trong lịch sử để
lại, được các nhà khảo cổ học đã phát hiện ở vùng Bo, vùng Phồn Xương, vùng
Xuân Lương, đó là các di vật đồ đá, đồ đồng... đã được trưng bày tại nhà trưng
bày khởi nghĩa Yên Thế;...
Bên cạnh đó, Nhà nước đã chú trọng đầu tư phát triển các loại hình
nghệ thuật truyền thống như: chèo, hát ả đào, ca trù, quan họ,… Ví dụ: ở
Hưng Yên xây dựng các nhà hát chèo, thành lập 3 đoàn chèo, các đoàn chèo
thường xuyên xây dựng các vở chèo mới để đi phục vụ nhân dân các huyện,
đồng thời tuyên truyền chính sách của Đảng, Nhà nước, phục vụ du khách
trên tàu thuyền du lịch ở các con sông [9, tr.71]; tỉnh Phú Thọ cũng đang triển
khai một số nhiệm vụ trọng tâm về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi
vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại “Hát Xoan Phú Thọ” theo từng giai
đoạn cụ thể. Trong đó, năm 2014 tỉnh tập trung truyền dạy và thực hành hát
Xoan thông qua tổ chức đào tạo lớp nghệ nhân kế cận, đặc biệt là nghệ nhân
trẻ, truyền dạy cho lớp trẻ trong cộng đồng các phường Xoan gốc và cán bộ
văn hóa xã, phường, hạt nhân văn nghệ các câu lạc bộ dân ca trên địa bàn
tỉnh. Đây là nội dung quan trọng, quyết định tính bền vững cho sự bảo tồn lâu
72
dài của di sản hát Xoan; đồng thời, phát huy vai trò của các nghệ nhân cao
tuổi đào tạo các nghệ nhân trẻ để đến năm 2015, có thể trở thành lớp nghệ
nhân kế cận các lớp nghệ nhân cao tuổi hiện nay làm nhiệm vụ truyền dạy cho
các thế hệ sau này. Đặc biệt, hiện hát Xoan Phú Thọ đã được ngành giáo dục
đưa đến tận trường học theo chương trình giáo dục của tỉnh [30];… Nghị định
số 62/2014/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ được ban hành
quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú”
trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể có hiệu lực từ ngày 7 tháng 8 năm
2014, được xem là một bước ngoặt quan trọng trong việc bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Điều đáng chú ý trong Nghị định này quy
định “Đối với nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú có thu nhập thấp, hoàn
cảnh khó khăn được hưởng trợ cấp sinh hoạt hằng tháng theo quy định của
Chính phủ” điều này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với những người
có công gìn giữ những nét văn hóa của dân tộc, cũng là nhằm nâng cao công
tác bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên phục vụ cho du lịch.
Tại các làng nghề truyền thống, Nhà nước có chính sách phát triển làng
nghề, tạo điều kiện cho người dân kinh doanh nghề truyền thống của quê
hương, hạn chế tình trạng mai một nghề. Với sự ra đời của Quyết định số
2636/QĐ-BNN-CB ngày 31 tháng 10 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn về việc phê duyệt chương trình bảo tồn và
phát triển làng nghề đã góp phần tích cực trong việc bảo tồn và phát triển làng
nghề trên cơ sở phát triển hài hòa giữa sản xuất hàng hóa với bảo vệ môi
trường và gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa truyền thống theo hướng bảo tồn
để phát triển và phát triển để bảo tồn. Theo đó, Nhà nước khôi phục, bảo tồn
các làng nghề truyền thống từ lâu đời đang có nguy cơ bị mai một, thất
truyền: Đối với những làng nghề đang trong quá trình suy vong và có khả
năng mất đi, xác định bảo tồn là chính, coi đó là tài sản văn hóa quốc gia, tiến
73
hành điều tra, xác định và xây dựng dự án để duy trì một vài hộ hoặc nhóm hộ
nghề, nghệ nhân hoạt động “trình diễn” nghề nhằm phục vụ yêu cầu du lịch,
văn hóa; đối với những làng nghề có khó khăn, phát triển theo hướng sản xuất
sản phẩm đơn chiếc (đặc trưng), có giá trị kinh tế và hàm lượng văn hóa cao
làm hàng dân dụng, phổ thông, hàng phục vụ du lịch; tăng cường công tác thu
thập, bảo tồn và lưu giữ tư liệu về giá trị truyền thống của làng nghề, hỗ trợ
xây dựng các phòng và nhà trưng bày, bảo tàng nghề, làng nghề thủ công mỹ
nghệ, khu trình diễn nghề truyền thống; xây dựng các trung tâm đào tạo nghề,
trung tâm xúc tiến thương mại sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ…; chuyển
đổi một số ngành nghề, làng nghề khó khăn về thị trường thông qua sự hỗ trợ
về vốn đầu tư, đào tạo nghề, tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện
cho các làng nghề được phục hồi và phát triển.
Với những ngành nghề phát triển mạnh, có sự lan tỏa: Khôi phục sản
xuất tại những làng nghề đã và đang bị mai một nhưng trên thị trường có nhu
cầu; chú trọng một số nghề truyền thống, làng nghề truyền thống có từ lâu
đời, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc; quan tâm phát triển các làng nghề
chế biến lương thực, thực phẩm, chú trọng sản xuất các mặt hàng có chất
lượng cao, mẫu mã đẹp, phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu
dùng,... Công tác bảo tổn và phát triển nghề thủ công truyền thống được quan
tâm theo đúng tinh thần của Quyết định 2636/QĐ-BNN-CB ngày 31 tháng 10
năm 2011. Ví dụ: Nhà nước hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và
xử lý môi trường cho các làng nghề; ưu tiên các làng nghề sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ, các tuyến điểm phát triển làng nghề gắn với du lịch.
Bên cạnh đó, vấn đề môi trường ở các làng nghề cũng được đặt lên
hàng đầu. Chính quyền địa phương tại các làng nghề đã có những phương án
xử lý nước thải của các làng nghề tránh gây ô nhiễm môi trường.
Thứ hai, các cơ quan chức năng có thẩm quyền quản lý nhà nước về du
74
lịch làm đúng theo nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Cơ quan Trung ương quản
lý cơ quan địa phương, chính quyền địa phương định kỳ báo cáo tình hình
hoạt động du lịch cũng như công tác bảo vệ, phát triển tài nguyên du lịch tới
cơ quan cấp trên nhằm quản lý nhà nước về du lịch.
Thứ ba, các hành vi xâm phạm đến tài nguyên du lịch mà pháp luật quy
định cấm được tuân thủ (Điều 12 Luật Du lịch Việt Nam 2005, Điều 9 Luật
Tài nguyên nước 2012,…). Mọi hoạt động nhằm phương hại đến tài nguyên
du lịch, môi trường du lịch đều bị nghiêm cấm. Ví dụ: từ ngày 2 đến 31 tháng
10 năm 2014, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã chỉ đạo các sở, ngành, địa
phương tích cực xử lý những hoạt động gây ô nhiễm môi trường tại phường
Phong Khê và xã Phú Lâm: xử phạt vi phạm hành chính về môi trường 5 cơ
sở với tổng số tiền 395,6 triệu đồng; thu giữ, xử lý nhiều tấn chất thải, lập
chốt chặn, kiểm soát 24/24 giờ, yêu cầu các cơ sở ký cam kết không đốt chất
thải, không xả nước thải trực tiếp ra môi trường [31]. Thực hiện Quy chế quản
lý hoạt động thu gom chất thải rắn sinh hoạt theo Quyết định số 11303/QĐ-
UBND ngày 30/12/2011 của Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình
Dương, tình hình thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn, Ủy
ban nhân dân các xã/phường đã tăng cường quản lý về mặt nhà nước đối với
các tổ thu gom rác hoạt động trên địa bàn (đã tiến hành ký lại hợp đồng
nguyên tắc với các Tổ rác dân lập theo đúng yêu cầu của Quy chế), các hộ
dân đã nhận thức tốt hơn về tác hại của việc không xử lý chất thải sinh hoạt
không đúng quy định;... Những hành vi trên khi thực hiện đã góp phần hạn
chế hành vi gây hậu quả nghiêm trọng cho tài nguyên nước nói riêng và tài
nguyên du lịch nói chung. Do vậy, các cơ quan chức năng đã tiến hành kiểm
tra, giám sát để quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên.
Thứ tư, việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh về tài nguyên du lịch của
Việt Nam được phát triển rộng rãi. Các danh lam thắng cảnh của Việt Nam đa
75
phần đều được bạn bè quốc tế cũng như người dân biết đến thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng như: mạng internet, báo, đài, vô tuyến truyền
hình,... Tỉnh Sơn La đã chủ động phối hợp với các tỉnh Hòa Bình, Điện Biện,
Lai Châu tham gia liên kết thực hiện chương trình du lịch Qua miền Tây Bắc -
Sơn La vào năm 2011; thực hiện dự án quảng bá du lịch giữa hai thành phố
Hà Nội và Tokyo, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội đã triển khai
quảng bá du lịch trên hệ thống tàu điện ngầm của Tokyo trong hai tháng là
tháng 9 và 10 năm 2014; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Phòng trưng
bày các sản phẩm du lịch tại “Tuần Văn hóa - Du lịch biển đảo Việt Nam - Hà
Nội 2014” diễn ra ở Hà Nội từ ngày 20 đến 24 tháng 11 năm 2014. Trong
năm qua tỉnh Lào Cai đã triển khai thực hiện việc quảng bá hình ảnh du lịch
của địa phương trên các phương tiện thông tin đại chúng, bên cạnh đó tỉnh
còn tổ chức hội nghị gặp gỡ các nhà đầu tư trong lĩnh vực du lịch - dịch vụ, tổ
chức hội nghị xúc tiến đầu tư, tổ chức các cuộc họp báo công bố các sự kiện
và chương trình du lịch trong năm, tổ chức thành công các sự kiện trong
Chương trình "Du lịch về cội nguồn" (hợp tác giữa 3 tỉnh Lào Cai - Yên Bái -
Phú Thọ), tổ chức hoạt động xúc tiến du lịch tại các hội chợ du lịch quốc tế tại
thành phố Hồ Chí Minh, hội chợ du lịch quốc tế Côn Minh - Trung Quốc;...
Thứ năm, công tác tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao ý thức cho
người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch diễn ra ở một số địa phương.
Thông qua các chương trình tuyên truyền pháp luật, các cuộc hội thảo,… nhằm
cung cấp cho người dân hiểu được tầm quan trọng cũng như vai trò mà tài
nguyên du lịch mang lại. Để cho mọi người nhận thức được vai trò, giá trị của
các loại tài nguyên du lịch hiện có. Thông qua đó, giúp người dân địa phương,
du khách tham quan, các cơ quan chức năng dễ dàng hơn trong việc bảo vệ tài
nguyên du lịch. Tình trạng vứt rác bừa bãi ở các bãi biển, hay trong chùa, đền
đã hạn chế. Thay vào đó, là các biển báo cấm, thùng rác công cộng và lực
76
lượng dọn vệ sinh môi trường đã làm sạch cảnh quan, giữ sạch môi trường du
lịch. Ví dụ: Ở Nghệ An, một số địa phương như thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò,
Diễn Thành (Diễn Châu), Quỳnh Phương (Quỳnh Lưu), khu di tích Kim Liên
(Nam Đàn)... đã ban hành và thực hiện tốt các quy chế về bảo vệ môi trường,
xây dựng được nhiều mô hình quần chúng tham gia bảo vệ môi trường ở các
phường, xã, vận động nhân dân không đổ rác, phế thải ra đường, nơi công
cộng, thành lập tổ thu gom rác tại cụm dân cư, thực hiện tốt công tác tổng vệ
sinh môi trường đảm bảo không để rác tồn đọng trên các trục đường, khu dân
cư, khu vực công cộng và dọc bãi biển. 100% các điểm du lịch trên địa bàn tỉnh
đều được trang bị thùng đựng rác, lắp biển báo chỉ dẫn nhằm nâng cao ý thức
của du khách trong công tác bảo vệ môi trường và thực hiện nghiêm túc quy
định của chính quyền địa phương, thường xuyên vệ sinh khu vực du lịch. Đặc
biệt, tại thành phố Vinh và thị xã Cửa Lò, 100% nhà hàng, khách sạn, ki ốt
kinh doanh thực hiện việc đổ rác đến điểm tập trung từ 20h đến 24h hằng ngày.
Tại các khu du lịch trọng điểm khác trên địa bàn tỉnh đều đã thành lập tổ thu
gom rác thải và thực hiện khá tốt công tác vệ sinh môi trường (đạt 75-80%),
không để xảy ra hiện tượng rác tồn đọng tại các trục đường, điểm du lịch như
tại khu di tích Kim Liên, khu di tích mộ bà Hoàng Thị Loan, quảng trường Hồ
Chí Minh, khu tâm viên núi Quyết, bãi tắm Cửa Lò, bãi Lữ [36];...
Thứ sáu, công tác kết hợp giữa địa phương và doanh nghiệp tư nhân
kinh doanh du lịch trong công tác bảo tồn và khai thác giá trị di sản đang là xu
hướng đem lại nhiều hiệu quả và được sự ủng hộ của cộng đồng trong thời
gian qua. Quảng Bình và Ninh Bình là hai địa phương sở hữu nhiều di sản
hiếm có và công tác kết hợp giữa địa phương với doanh nghiệp tư nhân đang
đi đúng hướng, đạt hiệu quả cao trong công tác bảo vệ tài nguyên du lịch.
Ông Nguyễn Cao Tấn, Phó giám đốc Ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng
An khẳng định:
77
Ban quản lý luôn xác định công tác quản lý về hoạt động du
lịch trong phạm vi Quần thể danh thắng Tràng An có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị của
di sản. Vì vậy, việc phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa
phương và các doanh nghiệp làm du lịch để đảm bảo tốt các hoạt
động du lịch là một nhiệm vụ trọng tâm của Ban quản lý Quần
thể danh thắng Tràng An [39].
Trong công tác kết hợp này thì doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm đầu tư
hạ tầng, toàn quyền trong việc tổ chức tuyến du lịch, việc đưa đón khách thăm
quan, điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp cần phải bảo vệ tốt nguồn tài
nguyên du lịch để đem lại cho du khách những sản phẩm du lịch chất lượng cao.
Nhưng bên cạnh đó địa phương cũng có riêng một đơn vị trực thuộc Ủy ban
nhân dân tỉnh trực tiếp giám sát mọi công tác đầu tư hạ tầng, xây dựng và tổ
chức tua, tuyến trong lòng di sản. Điều này đảm bảo nếu xảy ra bất cứ xâm phạm
di sản nào từ phía doanh nghiệp đều sẽ bị phát hiện và ngăn chặn kịp thời.
2.2.2 Những hạn chế trong việc thi hành pháp luật về bảo vệ tài
nguyên du lịch
Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng từ
tài nguyên du lịch nhân văn đến tài nguyên du lịch tự nhiên như: Vịnh Hạ
Long, Thành nhà Hồ, Ca trù, phố cổ Hội An, Tràng An,… Những tài nguyên
du lịch đã góp phần không nhỏ trong việc giới thiệu những nét đẹp của quê
hương ta với bạn bè trên thế giới. Đồng thời cũng tạo điều kiện thúc đẩy kinh
tế, xã hội phát triển hơn. Tuy nhiên, nếu con người chỉ biết khai thác, sử dụng
các tài nguyên du lịch mà không bảo vệ, giữ gìn chúng thì tài nguyên sẽ ngày
càng mai một đi. Trước nhu cầu đòi hỏi cấp thiết của thực tế, Luật Du lịch
Việt Nam ra đời năm 2005 nhằm bảo vệ, phát triển tài nguyên du lịch của đất
nước. Công cuộc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du
78
lịch ở một số địa phương đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên,
cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, khiếm khuyết.
2.2.2.1. Hạn chế trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về
bảo vệ tài nguyên du lịch ở một số địa phương
Hạn chế lớn nhất trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về
bảo vệ tài nguyên du lịch ở các địa phương là công tác bảo vệ tài nguyên du
lịch mới dừng lại ở trách nhiệm của Nhà nước chưa trở thành mối quan tâm
của cả cộng đồng, doanh nghiệp hoạt động du lịch. Tình trạng phổ biến là các
nhà máy, xí nghiệp còn xả thải trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm môi
trường nói chung và gây ô nhiễm, ảnh hưởng xấu đến các nguồn tài nguyên
du lịch làm ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch của đất nước. Một số trường
hợp điển hình như theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22 tháng 4 năm
2003 của Thủ tướng Chính phủ thì tỉnh Ninh Bình có 8 cơ sở gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng phải xử lý triệt để thuộc các lĩnh vực vật liệu xây
dựng, sản xuất phân bón, hóa chất hay chế biến nông nghiệp; tại tỉnh Bình
Thuận, chất thải từ đất liền theo bảy dòng sông lớn đổ ra biển rồi bị sóng đánh
tấp vào bờ gây ô nhiễm các bãi tắm, khu du lịch. Đặc biệt, tại Vịnh Phan
Thiết, chất thải từ sông Cà Ty và sông Cái đổ ra ứ đọng dài ngày với nhiều
loại rác sinh hoạt, sản xuất, chế biến thủy sản. Bãi biển Thuận An đang dần
trở thành một “bãi rác” lớn. Dọc bãi biển có rất nhiều các loại rác thải, từ túi
nilon, bao bì, vỏ bánh, kẹo, vỏ hoa quả, hộp sữa… Rác thải ra đã gây ô nhiễm
nghiêm trọng bờ biển, gây ấn tượng không tốt cho du khách đến tham quan;...
Tại một số làng nghề truyền thống trên địa bàn thành phố Hà Nội,
người dân còn chưa có ý thức trong việc bảo vệ môi trường, không chấp hành
quy định pháp luật về việc bảo vệ môi trường du lịch trong làng nghề (vi
phạm điều cấm trong Luật Du lịch năm 2005, Luật Tài nguyên nước năm
2012, Luật Bảo vệ môi trường 2005, 2014,…). Theo quan trắc môi trường
79
không khí tại 46 làng nghề của Hà Nội, gần 98% làng nghề có từ một chỉ tiêu
chất lượng không khí vượt quy chuẩn cho phép; 100% số lượng làng nghề đều
có từ một chỉ tiêu phân tích nước thải vượt tiêu chuẩn. Tình trạng ô nhiễm
môi trường làng nghề đang có xu hướng tăng. Ở các làng nghề chế biến nông
sản thực phẩm, nước mặt nhiều nơi có hàm lượng COD, BOD5, NH4+, Coliform
vượt hàng chục lần đến hàng trăm lần quy chuẩn. Nước mặt ở làng nghề dệt
nhuộm cũng bị ô nhiễm nặng. Đáng chú ý, tại làng nghề gỗ Vân Hà và Liên
Hà, hàm lượng các chất hữu cơ dễ bay hơi cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 3
đến 5 lần, nhiệt độ ở làng gốm Bát Tràng cao hơn xung quanh từ 1,5 đến 30
độ C; hai làng nghề Xuân Phương và Dục Tú tiếng ồn cao hơn tiêu chuẩn cho
phép 3 - 4 lần [32].
Tại Nha Trang, hiện nay một số nguồn tài nguyên thiên nhiên trong
vịnh Nha Trang đang suy giảm nhanh chóng và ảnh hưởng đến môi trường rõ
rệt. Các rạn san hô tự nhiên đang dần mất đi trong khi đó sự khôi phục tự
nhiên diễn ra quá chậm, có nơi thậm chí không còn nữa.Trước đây rong mơ
được xem là nguồn lợi dồi dào bậc nhất và có thể tìm thấy bất kỳ nơi đâu
trong vịnh Nha Trang. Con người chỉ thu gom số lượng rong mơ trưởng thành
trôi dạt vào bờ để bán thì vài năm trở lại đây tình trạng khai thác rong mở ồ ạt
theo hướng tận diệt đã làm nguồn lợi này giảm đi nhanh chóng và đáng báo
động. Một số nguồn lợi khác cũng đã giảm đi đáng kể như cỏ biển, rùa
biển,… Mặt khác, nguồn chất thải chủ yếu từ rác thải sinh hoạt dân cư, nước
thải sinh hoạt và nước thải của các công ty, nhà máy sản xuất đóng trên địa
bàn thành phố theo các cống rãnh, nước mưa rồi tập trung vào hai con sông
lớn (sông Cái và sông Tắc), sau đó đổ thẳng ra vịnh Nha Trang. Bên cạnh đó
chất thải từ nuôi trồng thủy sản và hoạt động du lịch cũng ảnh hưởng trực tiếp
đến môi trường vịnh Nha Trang [35].
Từ thực trạng trên cho ta thấy, việc thực thi pháp luật về bảo vệ tài
nguyên du lịch vẫn chưa hiệu quả ở một số địa phương. Các địa phương vẫn
80
chưa thể quản lý và thực hiện đúng theo quy định pháp luật về bảo vệ tài
nguyên du lịch.
2.2.2.2. Hạn chế trong việc triển khai các hoạt động quản lý bảo vệ tài
nguyên du lịch, xử lý vi phạm trong khai thác tài nguyên du lịch
Công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên du lịch cũng như xử lý vi phạm
trong khai thác tài nguyên du lịch chưa được thực hiện triệt để ở một số địa
phương. Hoạt động quản lý tài nguyên du lịch còn lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm
trong bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ
quan trung ương và cơ quan địa phương trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch.
Chất lượng hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch còn hạn chế,
chưa có chế tài xử lý vi phạm rõ ràng. Những quy định hiện đang được nhiều
cơ quan ban hành với sự quan tâm rất ít tới lợi ích của công tác bảo vệ môi
trường. Bên cạnh đó, công tác thực thi các quy định về bảo vệ môi trường
trong lĩnh vực du lịch chưa được nghiêm ngặt và không được thực hiện bởi
những sở ngành độc lập, không có mối liên kết với các ngành. Hoạt động
kiểm tra, đánh giá trong việc bảo vệ, xử lý vi phạm về tài nguyên du lịch
không được thực hiện thường xuyên. Có nhiều cơ quan chịu trách nhiệm về
việc thực hiện nhưng lại thiếu sự phối hợp dẫn đến tính hiệu quả không cao.
Công tác quản lý môi trường du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn dẫn
đến tình trạng xâm hại, có nguy cơ làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và
nhân văn. Các huyện, thành, thị và các đơn vị, doanh nghiệp hoạt động du lịch
chưa có đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực môi trường nên
rất khó khăn trong công tác quản lý, bảo vệ môi trường du lịch.
2.2.2.3. Hạn chế về ý thức của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên
du lịch
Hiện nay tình trạng khách du lịch đi đến các địa điểm du lịch xả rác bừa
bãi gây mất cảnh quan và ô nhiễm môi trường là khá phổ biến. Trước tình hình
81
đó ngành Du lịch phải có biện pháp cụ thể để ngăn chặn nếu không sẽ để lại hình
ảnh xấu trong mắt khách du lịch quốc tế và ảnh hưởng tới môi trường sống.
Người dân chưa có ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch, chưa nhận biết
được tầm quan trọng của việc bảo vệ tài nguyên du lịch khiến việc tu sửa, bảo
tồn, phát triển gặp khó khăn. Tài nguyên và môi trường đang có sự suy giảm
do khai thác, sử dụng thiếu hợp lý và những tác động của thiên tai ngày càng
tăng, diễn ra ở nhiều vùng, nhiều địa phương trên cả nước.
Nhiều tài nguyên có tiềm năng khai thác nhưng do bị mai một, lãng
quên và bị hủy hoại nên vẫn bỏ ngỏ. Do vậy, các cơ quan chức năng cần có
những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân
trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Có như vậy, tài nguyên du lịch mới được
giữ gìn và phát triển. Đây cũng là vấn đề cấp thiết cần được quan tâm trong
công cuộc xây dựng và phát triển ngành công nghiệp không khói này.
2.2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc bảo vệ tài
nguyên du lịch
Ngoài nguyên nhân từ những tồn tại trong quy định của pháp luật về bảo vệ
tài nguyên du lịch ở Việt Nam như đã phân tích ở trên, sự bất cập, hạn chế trong
việc bảo vệ tài nguyên du lịch còn bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ tài nguyên du
lịch cho người dân còn hạn chế.
Công tác tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức người dân trong việc bảo
vệ tài nguyên du lịch đã được thực hiện nhưng kết quả mang lại còn hạn chế.
Bên cạnh những người chấp hành nghiêm chỉnh theo luật pháp, ra sức giữ gìn,
bảo vệ tài nguyên du lịch vẫn còn không ít người không tuân theo quy định
pháp luật, vẫn phá hoại tài nguyên.
Hiện nay việc tuyên truyền, giáo dục người dân về vai trò của tài
nguyên du lịch đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và giá trị của
82
nó mới chỉ được tuyên truyền, phổ biến trong các cuộc họp, hội nghị hoặc
phần nào nhắc tới qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài,
internet,… nhưng không có sự nhấn mạnh, chưa có biện pháp tuyên truyền cụ
thể, sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân. Mặt khác, không phải bất cứ ai cũng
đi họp hay mọi người đều thường xuyên tiếp cận với internet hay nghe các
thông tin tuyên truyền về việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Từ thực tế này dẫn
đến, người dân chưa có ý thức cao trong việc bảo vệ, phát triển tài nguyên.
Do vậy, một bộ phận người dân đã có hành vi xâm phạm, phá hoại tài nguyên
như: vất rác vừa bãi ở các khu di tích, danh lam thắng cảnh, đổ nước thải trực
tiếp ra sông ngoài, ao hồ, gây mất vệ sinh, ô nhiễm tài nguyên,…
Vì không nhận thức được tầm quan trọng của tài nguyên du lịch nên
một số người đã không ngừng xâm hại đến nó. Đây là nguyên nhân dẫn đến
tài nguyên du lịch của nước ta đang ngày càng bị mai một dần, cạn kiệt dần.
Thứ hai, công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc bảo vệ tài nguyên
du lịch chưa được tiến hành thường xuyên
Công tác quản lý nhà nước về du lịch chưa thật sự chặt chẽ và còn khá
nhiều bất cập. công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển du lịch
thực hiện chậm. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên du lịch được kiểm tra,
giám sát nhưng chất lượng kiểm tra, giám sát chưa được tốt ở một số địa
phương. Tần suất lập báo cáo hiện nay không đáp ứng được yêu cầu cần xử lý
ngay những sai phạm trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Mặt khác, chất
lượng nguồn nhân lực trong công tác quản lý, bảo vệ, xử lý vi phạm còn yếu.
Các sở, ban ngành chủ chốt thường thiếu nguồn nhân lực, không được đào tạo
đầy đủ và không đủ thẩm quyền để giám sát và xử lý vấn đề một cách hiệu quả.
Nhận thức về vai trò và sự phát triển bền vững du lịch của cộng đồng và chính
quyền các cấp đặc biệt là các doanh nghiệp chưa theo kịp với yêu cầu hội nhập.
Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch hầu hết thuộc hạng vừa và nhỏ, năng lực
83
quản lý còn yếu kém. Công tác quản lý tài nguyên du lịch còn bất cập. Sự phân
cấp ngành trong công tác quản lý môi trường du lịch còn chưa thực sự rõ ràng,
rành mạch dẫn đến sự không thống nhất, chồng chéo trong hoạt động giám sát,
kiểm tra, xử phạt hành chính trong lĩnh vực môi trường.
Thứ ba, tốc độ gia tăng các loại hình du lịch dịch vụ.
Việc tăng nhanh về số lượng các khu du lịch, các cơ sở kinh doanh dịch
vụ du lịch đã làm thu hẹp diện tích đất tự nhiên, đặc biệt là diện tích đất nông
nghiệp dẫn đến giảm diện tích đất ngập nước, phá rừng lấy đất gây xói mòn,
rửa trôi... Phát triển du lịch ở khu vực ven biển với hệ thống đường giao
thông, các khách sạn, sân golf... cũng là một trong những nguyên nhân làm
tăng nhu cầu khai thác cát, giảm diện tích rừng phòng hộ ven biển dẫn đến
nguy cơ gây xói mòn bờ biển, gây ra các hiện tượng cát bay và các hình thức
suy thoái đất khác. Rác thải sinh hoạt trong khuôn viên các điểm du lịch được
quét dọn hằng ngày và thu gom vào các thùng rác công cộng để đưa đi xử lý,
tuy nhiên xung quanh một số điểm du lịch hiện tượng vứt rác bừa bãi vẫn còn
diễn ra ở nhiều nơi. Tại các khu du lịch biển, rác thải do sóng biển đánh dạt
vào và do các cơ sở kinh doanh thải ra chưa được thu gom triệt để làm mất
mỹ quan không gian du lịch.
84
Kết luận chương 2
Việt Nam là quốc gia được thiên nhiên ưu đãi tạo ra nhiều cảnh quan
thiên nhiên đẹp vô cùng với những tài sản cô cùng quý giá. Đây là những
tài sản để phát triển ngành Du lịch phát triển mạnh mẽ, làm giàu cho đất
nước. Để khai thác những điều kiện thuận lợi đó thì pháp luật Việt Nam đã
có những quy định riêng về bảo vệ tài nguyên du lịch. Các quy định về bảo
vệ tài nguyên du lịch được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau nhưng quy định chung nhất tại Luật Du lịch năm 2005. Pháp luật đã
có những quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch đem lại những thành tựu
đáng ghi nhận, góp phần bảo vệ tài nguyên du lịch tránh được tác động
xấu, hành vi xâm phạm. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được của
pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch cũng có những bất cập, hạn chế nhất
định. Bên cạnh đó, quá trình thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch
cũng gặp những khó khăn, vướng mắc vì nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó chủ yếu là nguyên nhân chủ quan.
85
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH VIỆT NAM
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp mà sự phát triển của nó gắn liền
với tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch phong phú đồng nghĩa với việc nền
kinh tế du lịch phát triển và ngược lại nếu tài nguyên du lịch bị suy thoái và
ngày càng mai một kéo theo sự đi xuống của hoạt động du lịch, đồng thời làm
ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nếu như điểm du
lịch có tài nguyên du lịch đa dạng và đảm bảo chất lượng thì sẽ kích thích
được thị hiếu của khách du lịch và giúp cho nền kinh tế ở đó phát triển hơn.
Chỉ những nơi có nguồn tài nguyên du lịch phong phú và vẫn giữ nguyên
được những nét đặc trưng mới có thể tạo được sức cạnh tranh khi thu hút du
khách. Từ đó các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch, cộng đồng dân cư địa
phương mới có thể thu lợi từ du lịch. Hiện nay, do quá trình đô thị hóa, công
nghiệp hóa, dân số ngày càng gia tăng và có xu hướng chạy theo lợi nhuận
dẫn tới việc khai thác và sử dụng quá mức, làm suy thoái và cạn kiệt nguồn tài
nguyên du lịch, nhiều nơi những bản sắc văn hóa tốt đẹp - chính là một nguồn
của tài nguyên du lịch nhân văn đã bị mất đi hoặc biến dạng gây ảnh hưởng
không nhỏ tới sự phát triển của ngành Du lịch địa phương nói riêng và cả
nước nói chung.
Nhận thức được tầm quan trọng của ngành Du lịch đối với sự phát triển
của nền kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương: Phát triển du
lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi
thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa lịch sử, huy động tối
đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, góp phần
86
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từng bước đưa nước ta trở
thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau năm 2010
du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển
trong khu vực...
Như vậy, bảo vệ tài nguyên du lịch không chỉ là nhiệm vụ cấp bách của
ngành Du lịch mà còn là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, toàn xã hội, của
quốc gia để phát triển ngành du lịch bền vững, nâng cao đời sống xã hội. Do
đó, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch vì
những lý do sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng du lịch phong phú.
Với 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới (đứng đầu các nước Đông Nam Á)
và 9 di sản được UNESCO công nhận là di sản thế giới như Vịnh Hạ Long,
Thánh địa Mỹ Sơn, Phố cổ Hội An và Cố đô Huế… cùng rất nhiều kiệt tác
văn hóa phi vật thể của nhân loại như Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây
Nguyên, quan họ Bắc Ninh, ca Trù…, nên Việt Nam được đánh giá là một
trong những quốc gia ở Châu Á - Thái Bình Dương có tiềm năng lớn về du
lịch. Muốn khai thác có hiệu quả tiềm năng này cùng với việc đầu tư cơ sở hạ
tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ, đào tạo nguồn nhân lực và đẩy mạnh
quảng bá, tiếp thị du lịch, chúng ta càng phải chú trọng hơn nữa công tác bảo
vệ nguồn tài nguyên du lịch tránh khỏi sự suy thoái và mai một hướng tới một
nền du lịch lành mạnh, hội nhập nhưng vẫn giữ được những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc.
Thứ hai, du lịch đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, bảo vệ tài
nguyên du lịch để phát triển du lịch bền vững cũng là góp phần phát triển
kinh tế, nâng cao đời sống người dân.
Du lịch phát triển đã góp phần tăng tỷ lệ GDP của ngành Du lịch trong
khu vực dịch vụ. Ở đâu du lịch phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông thôn
87
được chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt như
Sapa (Lào Cai), Hạ Long (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Huế (Thừa-
Thiên Huế), Hội An (Quảng Nam), Nha Trang (Khánh Hòa), Mỹ Sơn (Quảng
Nam), Bình Châu (Bà Rịa - Vũng Tàu), mốt số địa phương khác…; Mặt khác,
tạo khả năng tiêu thụ tại chỗ hàng hóa, dịch vụ, thúc đẩy các ngành khác phát
triển; khôi phục các lễ hội và nghề thủ công truyền thống; góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở từng địa phương, tăng thu nhập của người dân, xóa đói,
giảm nghèo và vươn lên làm giàu, mở rộng sự giao lưu giữa các vùng miền
trong nước, giữa trong nước với nước ngoài. Ước tính hiện nay, hoạt động du
lịch đã tạo ra việc làm cho hơn 500.000 lao động trực tiếp và khoảng 800.000
lao động gián tiếp cho nhiều tầng lớp dân cư, đặc biệt là thanh niên mới lập
nghiệp và phụ nữ. Vì vậy, cần có cơ chế bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch để
tạo điều kiện cho ngành du lịch phát triển.
Thứ ba, du lịch nước ta đang đứng trước những thách thức to lớn do ô
nhiễm môi trường, suy thoái giá trị văn hóa và ảnh hưởng tiêu cực từ quá
trình hội nhập.
Du lịch là ngành kinh tế nhạy cảm với môi trường tự nhiên và xã hội.
Du lịch được nhìn nhận như là một trong những ngành chịu ảnh hưởng lớn từ
nhiều phía, không chỉ có điều kiện tự nhiên mà còn các vấn đề nan giải của
điều kiện xã hội. Ở từng thời kỳ, sự tác động của các yếu tố này đến du lịch là
khác nhau. Song trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, không chỉ các giá trị văn hóa - xã hội bị thay đổi
mà môi trường cũng có những biến đổi lớn theo hướng tiêu cực. Nhìn chung,
nguồn tài nguyên du lịch của nước ta dưới sự tác động tiêu cực của các yếu tố
kể trên đã có những hệ quả đáng lo ngại. Vì vậy, bảo vệ tài nguyên du lịch
chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành trong thời gian tới,
cần có sự nỗ lực ứng phó với tác động tiêu cực của sự hội nhập của nền kinh
tế, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của ngành Du lịch Việt Nam.
88
Nói về sự tác động tiêu cực của yếu tố môi trường đối với tài nguyên
du lịch của nước ta, theo báo cáo về phát triển con người 2007 - 2008 của
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), nếu nhiệt độ trên trái đất
tăng thêm 2 độ C, thì 22 triệu người ở Việt Nam sẽ mất nhà và 45% diện tích
đất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất của Việt
Nam sẽ ngập chìm trong nước biển [37]. Nước biển dâng sẽ làm cho tài
nguyên du lịch bị suy thoái, biến đổi, mất mát về lượng cũng như giá trị phục
vụ. Điều này sẽ làm cho khả năng phát triển sản phẩm du lịch bị ảnh hưởng
nghiêm trọng và tất yếu sẽ dẫn tới làm suy giảm các tiền đề phát triển du lịch
biển đảo nói riêng và cả nước nói chung. Biến đổi khí hậu có thể dẫn đến năm
nguy cơ lớn, giảm năng suất nông nghiệp, gia tăng tình trạng thiếu nước, thời
tiết cực đoan, các hệ sinh thái tan vỡ và bệnh tật sẽ gia tăng. Những tác hại
của biến đổi khí hậu không chỉ tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước mà còn ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động du lịch. Biến đổi khí
hậu tác động trực tiếp tới phát triển du lịch thể hiện ở ba hình thức: tác động
đến tài nguyên du lịch (tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân
văn), tác dộng đến hệ thống cơ sở hạ tầng (đường xá, sân bay, bến cảng,
đường sắt… hệ thống cung cấp điện nước, hệ thống thông tin liên lạc), các cơ
sở vật chất kỹ thuật du lịch; tác động đến các hoạt động du lịch như: nghĩ
dưỡng, vui chơi giải trí và hoạt động lữ hành bị phụ thuộc nhiều vào điều kiện
thời tiết, thậm chí các tour du lịch có thể bị hủy do điều kiện thời tiết xấu liên
tiếp, bão lụt, lũ quét do biến đổi khí hậu gây ra.
Về sự tác động của yếu tố xã hội, hội nhập đến tài nguyên du lịch: Hiện
nay cùng với sự hội nhập kinh tế bên cạnh những mặt tích cực mà hội nhập
mang lại cho ngành Du lịch nói riêng và nền kinh tế nói chung nó cũng đặt ra
câu hỏi lớn đối với nhà quản lý khi đem lại không ít những vấn đề tiêu cực, đặc
biệt là tác động tiêu cực đến tài nguyên du lịch. Tuy là một quốc gia có nguồn
89
tài nguyên du lịch phong phú, được đánh giá là có tiềm lực du lịch mạnh. Song
do hội nhập, nước ta thực hiện mở rộng giao lưu với các quốc gia khác, lượng
khách du lịch cũng theo đó tăng lên, người dân cũng như các tổ chức kinh
doanh dịch vụ du lịch có điều kiện phát triển kinh tế nhưng do sức cạnh tranh
quá cao nên đôi khi họ bỏ qua sự tác động tiêu cực này mà khai thác bừa bãi,
cạn kiệt và trách nhiệm của các bên không rõ ràng dẫn tới nguy cơ suy thoái
nhanh giá trị của tài nguyên. Việc khai thác thường xuyên mà không có sự
trùng tu, chiến lược bảo vệ dài lâu dẫn đến việc các tài nguyên du lịch mất đi
giá trị vốn có của nó, khách du lịch không được tiếp xúc với tài nguyên du lịch
một cách đúng nghĩa như từ khi nó được hình thành. Mặt khác, sự xung đột về
lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế và các ngành, tầm nhìn ngắn hạn và hạn
chế về công nghệ dẫn tới một số tài nguyên du lịch bị tàn phá, sử dụng sai mục
đích… tác động tiêu cực đến sự phát triển du lịch bền vững.
Thứ tư, mặc dù xác định du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi
nhọn thúc đẩy phát triển kinh tế nhưng hiện nay pháp luật về bảo vệ tài
nguyên du lịch ở nước ta vẫn còn “thiếu” và “yếu”.
Mặc dù Việt Nam đã ban hành nhiều quy định về bảo vệ tài nguyên du
lịch nhưng các quy định này còn tản mạn trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau, khó áp dụng và tính khả thi chưa cao. Mặt khác, các nghĩa vụ đối với tài
nguyên du lịch của các tổ chức và cá nhân khi tiến hành hoạt động du lịch cũng
đã được quy định nhưng còn chung chung, đặc biệt còn có quá ít những nghĩa
vụ đối với việc bảo vệ tài nguyên du lịch của du khách. Hơn nữa, đây chỉ là
những quy định chung mà chưa có chế tài pháp luật cụ thể để ràng buộc họ.
Không thúc đẩy được sự phát triển du lịch theo đúng hướng mà những quy
định này còn hạn chế sự phát triển du lịch của nước ta. So với các nước có tiềm
năng phát triển du lịch trên khu vực thì du lịch nước ta có phần tụt hậu hơn.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do pháp luật nước ta
chưa hoàn chỉnh nên chưa thúc đẩy được sự phát triển của du lịch.
90
Có thể nói, để phát triển du lịch bền vững, trước hết chúng ta cần có cơ
chế xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch.
Những quy định này sẽ như là một khung pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ
cụ thể của các chủ thể tham gia vào lĩnh vực du lịch. Bên cạnh đó còn giúp
khai thác tài nguyên du lịch một cách hợp lý và hiệu quả, tránh được việc khai
thác tài nguyên bừa bãi, không đem lại hiệu quả kinh tế mà còn làm cho
nguồn tài nguyên du lịch này bị suy thoái. Nếu có một hệ thống pháp luật
vững chắc thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn để phát triển du lịch, qua đó
quảng bá hình ảnh của Việt Nam đến bạn bè thế giới.
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài
nguyên du lịch ở Việt Nam
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch
Có thể nhận định du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên
ngành, liên vùng, đa lĩnh vực và mang nội dung văn hóa sâu sắc. Do đó, quá
trình thực hiện việc bảo vệ tài nguyên du lịch phải có sự kết hợp chặt chẽ và
đồng bộ giữa các ngành, các cấp, dưới sự chỉ đạo thống nhất của Nhà nước, từ
đó phát triển du lịch trong nước theo hướng bền vững trên cơ sở phát huy bản
sắc dân tộc, văn hóa truyền thống và bảo vệ tốt môi trường cảnh quan. Vì vậy
Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần sớm hoàn chỉnh và ban hành
chiến lược quy hoạch và phát triển ngành Du lịch của nước ta đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030 để thống nhất quản lý và phát triển ngành Du lịch.
Bên cạnh đó, việc kết hợp hài hòa giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường
và các cơ quan nhà nước khác, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
để thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch nhưng vẫn cần có
các Thông tư liên tịch để xác định cơ chế pháp lý phối hợp đồng bộ và hiệu
quả giữa các bên có liên quan. Trên cơ sở đó Thông tư liên tịch phải cụ thể
91
hóa các nội dung phối hợp được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm
2005, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014; Luật Di sản văn hóa sửa đổi, bổ
sung năm 2009; Luật Du lịch năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành
các đạo luật trên…, có sự phân công cụ thể về trách nhiệm giữa các bên trong
hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình môi trường, tuyên truyền
giáo dục pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch về kết hợp giải quyết các vấn
đề vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch phát sinh.
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về quyền và trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch
Luật Du lịch năm 2005 cần bổ sung một số điều quy định cụ thể về
trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức kinh tế trong việc bảo vệ tài nguyên du
lịch. Các quy định về quyền lợi, chính sách hỗ trợ... mà người dân được
hưởng khi tham gia bảo tồn, lưu giữ những giá trị văn hóa tự nhiên, nhất là
những văn hóa phi vật thể mang đậm bản sắc của dân tộc đang ngày càng bị
phai mờ, lãng quên. Đưa ra khái niệm về bảo vệ tài nguyên du lịch để thể hiện
rõ được tầm quan trọng của tài nguyên du lịch, là nguồn không thể thiếu trong
sự phát triển của ngành Du lịch nói riêng và nằm trong sự phát triển kinh tế,
xã hội của quốc gia nói chung.
Trên thực tế cũng đã có những văn bản quy định về vấn đề bảo vệ tài
nguyên du lịch nhưng phần lớn mới chỉ dừng lại ở mức độ chung hoặc chú
trọng vào vấn đề cụ thể như bảo vệ môi trường du lịch, bảo vệ nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Các văn bản này mặc dù đã đề ra những yêu cầu về trách
nhiệm của tổ chức, cán nhân bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch song không
phản ánh được hết những nét đặc trưng, cụ thể. Do đó, cần xây dựng hệ thống
văn bản để cụ thể hóa các yêu cầu quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân về
bảo vệ tài nguyên du lịch theo hướng đặc trưng của hoạt động du lịch. Những
quy định có thể được thể hiện dưới hình thức các “quy chế”. Trong đó, các
92
quy chế chứa đựng quy định pháp luật sao cho phù hợp với từng ngành, từng
lĩnh vực hoạt động của du lịch. Như vậy, hoạt động bảo vệ tài nguyên du lịch
sẽ đạt hiệu quả cao hơn vì có sự phối hợp thống nhất và đồng bộ giữa các cơ
quan, ban ngành có liên quan.
3.2.3. Hoàn thiện các quy chuẩn về tài nguyên du lịch
Nhà nước cần xây dựng quy chuẩn về tài nguyên du lịch; quy định như
thế nào là tài nguyên du lịch đạt chuẩn chất lượng. Không chỉ xây dựng các
quy chuẩn này bằng các quy phạm an toàn mang tính quản lý mà cần có
những quy phạm kỹ thuật. Việc xây dựng hệ thống quy chuẩn quốc gia cho tài
nguyên du lịch có ý nghĩa rất to lớn. Nó không chỉ là nền tảng để đánh giá
chất lượng du lịch mà còn là thước đo sự quản lý của các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền và từ đó làm cơ sở xác định hành vi vi phạm pháp luật gây ảnh
hưởng đến tài nguyên du lịch và có biện pháp xử lý.
Hiện nay, đã có nhiều quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du
lịch song không thể đi vào thực tiễn cuộc sống vì thiếu các quy định về biện
pháp bảo đảm thực hiện. Chính vì vậy, cần phải bổ sung các quy định về biện
pháp bảo đảm thực hiện công tác bảo vệ tài nguyên du lịch. Đây chính là
những biện pháp đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả pháp luật về bảo vệ tài
nguyên du lịch. Cụ thể cần bổ sung các quy định về cơ chế đầu tư cho công
tác bảo vệ môi trường, quy định cụ thể về xử lý các hành vi vi phạm liên quan
đến tài nguyên du lịch. Đối với các quy phạm về xử lý vi phạm cần được bổ
sung trong cả pháp luật môi trường, pháp luật di sản văn hóa và pháp luật du
lịch, trao cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, di sản và du lịch
quyền năng xử lý vi phạm. Đồng thời cần xây dựng các chế tài phù hợp để
thực hiện mục tiêu giáo dục ý thức, thuyết phục nhưng cũng đủ mạnh mẽ để
răn đe, tránh tình trạng coi thường pháp luật.
93
3.2.4. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý đối với các vi
phạm pháp luật về tài nguyên du lịch
Có thể thấy mức xử phạt hành chính trong lĩnh vực du lịch hiện nay tồn
tại rất nhiều bất cập như đã phân tích ở trên. Do vậy, trước mắt cần phải nâng
cao mức xử phạt tiền, Nghị định 16/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2012
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch để đủ sức răn
đe đối với tổ chức, cá nhân vi phạm, bởi mức phạt cao nhất tại Nghị định này
là 40.000.000 đồng là chưa đủ lớn và chưa đủ đủ sức răn đe. Mặt khác, thời
hiệu xử phạt vi phạm hành chính là một năm còn quá ngắn vì những thiệt hại
đối với tài nguyên du lịch thường không bộc phát ngay, nhất là đối với lĩnh
vực môi trường du lịch thì biểu hiện của nó lại từ từ trong một thời gian dài.
Vì vậy, pháp luật cần có quy định kéo dài thời hiệu để xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực môi trường để có thể xử phạt hành vi vi phạm pháp luật
của tổ chức, cá nhân một cách thỏa đáng. Vấn đề xử lý hành vi xâm phạm đến
tài nguyên du lịch được quy định rải rác trong quá nhiều các văn bản liên
quan từ Luật Du lịch, Luật Môi Trường, Luật Di sản văn hóa… nên việc áp
dụng các chế tài này gặp khó khăn khi nhà quản lý tiến hành xử phạt vi phạm
hành chính. Do đó, thiết nghĩ cần bổ sung thêm các điều luật quy định về
hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch để tạo điều kiện thuận
lợi cho các cơ quan có thẩm quyền khi tiến hành xử phạt vi phạm hành chính.
Như trên đã phân tích việc xử phạt đối với một số hành vi vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực du lịch cụ thể thì lại quy định rải rác trong các văn
bản pháp luật khác nhau. Ví dụ như hành vi sử dụng trái phép thực vật, động
vật hoang dã quý hiếm vào mục đích kinh doanh du lịch thì áp dụng theo quy
định tại Nghị định 99/2009/NĐ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2009 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng
và quản lý lâm sản để xử phạt. Có thể nhận định đây là một khó khăn lớn đối
94
với các cơ quan có thẩm quyền bởi cùng là hành vi sử dụng trái phép thực vật,
động vật hoang dã, quý hiếm nhưng nếu sử dụng vào mục đích khác nhau thì
mức xử phạt hoặc hình thức xử phạt đối với những hành vi này cũng khác
nhau. Do đó, nếu áp dụng Nghị định 99/2009/NĐ-CP ngày 02 tháng 11 năm
2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý
rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản để xử phạt đối với các hành vi vi phạm
nhưng trong lĩnh vực du lịch thì sẽ không đủ mạnh để răn đe đối với tổ chức,
cá nhân vi phạm. Mặt khác, các hệ thống động vật, thực vật là một nguồn tài
nguyên quan trọng để phát triển du lịch nên hành vi xâm hại đến hệ thống các
tài nguyên này càng cần được quy định cụ thể và rõ ràng hơn để tạo sự cân
bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên du lịch.
Mặc dù Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm
2009) đã có nhiều điểm mới trong phần các tội phạm môi trường. Tuy nhiên,
vẫn chưa có một quy định cụ thể nào về tội phạm môi trường trong lĩnh vực
du lịch. Bên cạnh đó, một số tội như tội hủy hoại rừng (Điều 189), tội xâm
phạm các quy định về quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 191)… chỉ
mới nêu chung chung mà vẫn chưa có một quy định đặc thù, cụ thể về việc
hủy hoại rừng hoặc các khu bảo tồn tài nguyên thiên nhiên trong trường hợp
tài nguyên rừng hoặc các khu bảo tồn tài nguyên thiên nhiên được đưa vào
khai thác trong lĩnh vực du lịch bởi hành vi phạm tội trong lĩnh vực này mang
lại hậu quả rất lớn và lớn hơn nhiều so với các hành vi phạm tội cùng loại
khác. Các hành vi cố ý tuyên truyền sai lệch bản chất văn hóa Việt, làm ảnh
hưởng tới các tài nguyên nhân văn cũng cần được xem xét, nghiên cứu để xử
phạt hình sự ở tùy mức độ khác nhau. Với tốc độ phát triển nhanh chóng của
ngành Du lịch như hiện nay thì việc pháp luật thiếu quy định cụ thể về bảo vệ
tài nguyên du lịch như nêu trên là một lỗ hổng lớn. Vấn đề bức thiết đặt ra
cho các nhà làm luật là cần hoàn thiện các quy định về pháp luật hình sự để dễ
95
dàng khi áp dụng pháp luật trên thực tế, không bỏ sót bất cứ hành vi phạm tội
nào có liên quan đến tài nguyên du lịch.
Hiện nay, nước ta đã xây dựng được hệ thống các chế tài xử phạt các
hành vi xâm phạm tài nguyên du lịch song do nhiều lý do khách quan và chủ
quan khác nhau nên trên thực tế có rất ít các tội phạm xâm phạm tài nguyên
du lịch được đưa ra xét xử. Vì vậy, vấn đề trước mắt phải đặt ra là cần sửa
đổi, bổ sung những quy định trong Nghị định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực du lịch và về lâu dài pháp luật cần có quy định rõ ràng và cụ
thể về tội phạm xâm phạm tài nguyên du lịch. Có như vậy nền du lịch của
nước ta mới có điều kiện hơn nữa để phát triển, góp phần phát triển kinh tế.
3.3. Một số giải pháp khác nhằm tăng hiệu quả bảo vệ tài nguyên
du lịch ở Việt Nam
3.3.1. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan quản lý nhà
nước về du lịch
Cần thiết phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan quản lí
nhà nước về du lịch. Qua thực tiễn cho ta thấy rằng, hoạt động của cơ quan
quản lý nhà nước về du lịch có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc bảo vệ
tài nguyên du lịch. Trong những năm qua, các cơ quan quản lý nhà nước về
du lịch đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, do nhiều lí do khác
nhau đòi hỏi cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của cơ quan
quản lí nhà nước về du lịch ở một số nội dung quản lý như sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan nhà nước trong
việc quy hoạch khu, điểm du lịch.
Quy hoạch du lịch là một hoạt động không thể thiếu đối với bất kỳ một
đất nước nào nhằm khai thác các tài nguyên du lịch để phát triển bền vững.
Hiện nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
96
năm 2030 để xác định một lộ trình cụ thể cho du lịch Việt Nam. Điểm đột phá
trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 thể hiện trong quan điểm phát triển du lịch bền vững theo hướng có
chất lượng, có thương hiệu, chuyên nghiệp, hiện đại; khai thác hiệu quả, có
trọng tâm, trọng điểm mọi nguồn lực và lợi thế quốc gia; phát huy tính liên
ngành, liên vùng và xã hội hóa với vai trò động lực của các doanh nghiệp. Do
vậy, đòi hỏi nước ta cần xây dựng được một quy hoạch vùng du lịch phù hợp
với quy hoạch tổng thể về du lịch để khai thác tốt nguồn tài nguyên đồng thời
hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng đến môi trường do hậu quả của
khai thác du lịch đem lại như: Thành lập tổ công tác gồm các sở, ngành liên
quan; chính quyền địa phương; ban quản lý các khu, điểm du lịch để tiến hành
rà soát, sắp xếp và quy hoạch lại hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch tại tất
cả các điểm tham quan du lịch; tăng cường công tác quản lý bảo đảm về an
ninh trật tự, vệ sinh môi trường; phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hiện
tượng, vụ việc có nguy cơ gây ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch; nghiên cứu
cứu lắp đặt các biển báo, biển cấm đỗ xe, cấm bán hàng rong và xử lý nghiêm
các trường hợp vi phạm. Kiểm tra, rà soát lại hệ thống biển quảng cáo, tháo
dỡ các biển quảng cáo sai quy định; đôn đốc, hướng dẫn thực hiện các hoạt
động nhằm hạn chế sự suy thoái và bảo vệ phát triển các hệ sinh thái: Không
đốt phá rừng, tăng cường trồng cây xanh, thu gom và xử lý chất thải rắn, thực
hiện đảm bảo vệ sinh môi trường.
Thứ hai, tăng cường công tác quản lý nhà nước với các đơn vị kinh
doanh du lịch.
Việc để cho địa phương vừa khai thác, vừa quản lý tài nguyên du lịch
thực tế đã cho thấy nhiều bất cập trong thời gian qua khi chất lượng dịch vụ
không đáp ứng được nhu cầu của du khách trong khi công tác bảo tồn di sản
cũng không thực sự hiệu quả. Chính vì vậy mà sự kết hợp giữa địa phương và
97
doanh nghiệp trong quá trình quảng bá, khai thác và bảo tồn giá trị di sản sẽ là
một giải pháp hợp lý nếu việc phối hợp và giám sát hoạt động của doanh
nghiệp được tiến hành một cách cẩn trọng. Để đạt được điều đó thì trước hết
cần đến công tác giám sát chặt chẽ, nghiêm túc của địa phương. Đối với các
doanh nghiệp cần phải phối hợp tích cực với các đơn vị trên địa bàn đưa ra
những nội dung, quy tắc ứng xử với môi trường, đồng thời phối kết hợp với
các đơn vị chức năng Kiểm lâm, Công an, người dân trên địa bàn để tổ chức
tốt việc vừa khai thác vừa bảo tồn môi trường cảnh quan, tài nguyên du lịch
nhằm phục vụ tốt cho sự phát triển của kinh tế.
Bên cạnh đó yêu cầu các cơ sở kinh doanh du lịch thực hiện niêm yết
giá theo quy định, bán đúng giá, bảo đảm chất lượng, số lượng, trọng lượng;
triển khai các giải pháp nhằm bảo vệ an toàn cho du khách, nâng cao chất
lượng dịch vụ du lịch. Mặt khác, tăng cường công tác thẩm định, xếp hạng cơ
sở lưu trú du lịch; thẩm định công nhận các khu, điểm du lịch. Bên cạnh đó,
việc quản lý các dịch vụ vận chuyển khách công cộng và khách du lịch cũng
cần chú trọng hơn. Rà soát nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hành khách,
tăng cường việc tiếp cận phương tiện được an toàn, thuận lợi, bảo đảm an
toàn cho khách du lịch khi tham gia giao thông và đẩy mạnh các hoạt động
nâng cao chất lượng phục vụ trong hệ thống khách sạn, nhà hàng du lịch;
trong hoạt động hướng dẫn, vận chuyển khách du lịch và các khâu đón tiếp,
dịch vụ khác; đa dạng hoá các loại hình lưu trú, các tour, tuyến, loại hình du
lịch, hàng lưu niệm cung cấp cho khách du lịch.
Thứ ba, nâng cao chất lượng của cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch.
Cần nâng cao cả chất lượng và số lượng những cán bộ có trình độ
chuyên môn cao để tăng hiệu quả công việc, hạn chế việc ảnh hưởng đến môi
trường du lịch. Mặt khác, cần xây dựng một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
để việc quản lý, bảo vệ tài nguyên du lịch đạt hiệu quả cao nhất.
98
3.3.2. Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật nhằm nâng cao ý thức người
dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch: Sau khi xây dựng các dự án khả thi
và tiến hành đánh giá tác động của con người, của môi trường thì nhà quản lý
triển khai các dự án phát triển du lịch. Cần phải có sự phối hợp tham gia của
các ban ngành có liên quan và cộng đồng địa phương trong suốt quá trình quy
hoạch và thực hiện dự án. Xây dựng các chương trình giáo dục ý thức pháp
luật cho các đối tượng (khách du lịch, người dân địa phương và du khách).
Nội dung giáo dục ý thức pháp luật phải phù hợp với các đối tượng và dựa
trên các vấn đề tồn tại hiện có của môi trường, nguồn lực, phong tục tập quán,
lối sống văn hóa và tình hình cụ thể của từng địa bàn. Các nội dung chủ yếu
cụ thể là: nâng cao nhận thức của các đối tượng về giá trị của tài nguyên du
lịch: đó là nơi bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên, những kho dự trữ thiên nhiên
quý giá, bảo tồn những cảnh quan độc đáo, các loài động vật và thực vật đặc
hữu và quý hiếm của Việt Nam, nơi nghiên cứu khoa học và tham quan du
lịch, điều hòa dòng chảy, hạn chế lũ lụt, nơi lưu giữ những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc…; giáo dục một số kỹ năng bảo vệ tài nguyên du
lịch bằng việc bảo vệ môi trường như phòng chống cháy rừng, bảo vệ các loài
động vật quý hiếm, giáo dục về đạo đức với tài nguyên du lịch và việc đối xử
thân thiện, tôn trọng đối với tài nguyên du lịch.
Việc lựa chọn phương tiện, phương pháp áp dụng đối với mỗi nhóm
đối tượng phải rất linh hoạt và đa dạng. Đối với nhóm đối tượng là người địa
phương phải lựa chọn các phương pháp giáo dục, tuyên truyền hướng tới
cộng đồng bao gồm: Thông qua phương tiện thông tin đại chúng như: đài phát
thanh, truyền thanh, báo tường, bảng tin nơi công cộng, thi viết, thơ, nghệ
thuật về một số vấn đề của môi trường, của tài nguyên du lịch…; bổ sung và sử
dụng rộng rãi các thiết bị nghe, nhìn: Chiếu phim tư liệu ngoài trời…; giao tiếp
99
giữa mọi người trong tổ dân phố, biểu diễn ca nhạc, múa rối, kể chuyện…; sinh
hoạt câu lạc bộ với các chủ đề và tên hấp dẫn như: Câu lạc bộ bảo tồn Sao La,
Hổ, quan họ…; tổ chức tuyên truyền, giáo dục người dân nhân dịp các sự kiện
đặc biệt như lễ hội, phong trào thể thao, ngày môi trường thế giới, ngày đa
dạng sinh học, ngày được công nhận di sản văn hóa…; và các phương tiện
hướng tới cộng đồng khác như áp phích, quà lưu niệm (dây đeo chìa khóa,
lịch, tem thư…).
Đối với học sinh, sinh viên: Tùy vào từng đối tượng mà lựa chọn các
hình thức giáo dục cho phù hợp: Lồng ghép các chương trình giáo dục ý thức
pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch vào chương trình giáo dục chính khóa
như môn đạo đức, hoạt động ngoại khóa; biên soạn giáo trình giáo dục về bảo
vệ tài nguyên du lịch và tài liệu tham khảo cho giáo viên các cấp, tổ chức đi
tham quan thực tế ở các khu du lịch thiên nhiên; tổ chức các câu lạc bộ xanh,
câu lạc bộ bảo tồn, câu lạc bộ nghiên cứu về nét đẹp văn hóa và lịch sử của
các tài nguyên thiên nhiên trên cả nước…; tổ chức các chương trình sáng tác
văn, thơ, kịch, vẽ… về bảo vệ tài nguyên du lịch tại địa phương; tổ chức biểu
diễn văn nghệ, ca nhạc… mang nhiều nội dung bảo vệ tài nguyên du lịch.
Đối với du khách: Người hướng dẫn viên phải có lương tâm nghề
nghiệp và thực sự hiểu tường tận về văn hóa xã hội của thành phố nơi có điểm
du lịch để giúp cho du khách dễ gần với môi trường, yêu mến, tôn trọng môi
trường văn hóa, thái độ gần gũi với con người bản địa hơn, như vậy sẽ tránh
được sự xung đột một cách đáng tiếc. Đồng thời phải có những chỉ dẫn hoặc
những quy định cụ thể đối với du khách tham gia du lịch tại địa phương, nâng
cao ý thức giữ gìn bảo vệ tài nguyên du lịch của đất nước cũng như là nâng
cao lòng tự trọng của du khách.
Cần phải quy hoạch phát triển du lịch sinh thái, xây dựng các trung tâm
diễn giải, giới thiệu chuyên nghiệp về các tài nguyên du lịch hiện có ở mỗi địa
100
phương, xây dựng các chương trình diễn giải lưu động để tất cả mọi người
cùng biết đến qua đó nâng cao được lòng tự hào của người dân đối với tài
nguyên du lịch của địa phương, đất nước từ đó ý thức bảo vệ sẽ tự nâng lên;
đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên diễn giải chuyên trách, có am hiểu sâu để
có thể giải thích một cách rõ ràng nhất, cụ thể nhất để tránh những cách hiểu
sai lầm về tài nguyên; làm bảng hướng dẫn các tuyến thăm quan, tờ rơi, tờ
gấp, bản đồ du lịch và các sách hướng dẫn du lịch.
Việc sử dụng các nguồn năng lượng mới như gió, ánh sáng mặt trời,
khí sinh học sẽ giúp giảm chi phí cho các khu du lịch đồng thời cũng giám
được lượng tiêu thụ gỗ củi… và giảm lượng phát khí thải nhà kính. Xây dựng
các công trình vệ sinh công cộng tại các điểm du lịch để bảo vệ môi trường và
cảnh quan du lịch.
Xây dựng các mô hình quản lý với sự tham gia của các bên liên quan
và cộng đồng địa phương. Vấn đề đặt ra là muốn xây dựng mối quan hệ, phối
hợp, liên kết ở cấp nào và quy mô ra sao để đạt được mục tiêu bảo tồn để đạt
được hiệu quả kinh doanh du lịch, phát triển nhanh chóng, góp phần hỗ trợ
cộng tác bảo tồn thiên nhiên và phát triển kinh tế cho cộng đồng địa phương.
Cũng nhờ cơ chế này mà nhiều nguồn vốn của trung ương và địa phương
được huy động để phát triển cơ sở hạ tầng như phục hồi các khu di tích cổ,
các khu nhà cổ, làm đường mòn thiên nhiên, làm đường điện trong các khu du
lịch, người dân địa phương đó được huy động tham gia và hưởng lợi trong
việc thu gom giác thải, bảo vệ rừng, bảo vệ biển và các tài nguyên du lịch
khác. Vì vậy, mặc dù vào mùa du lịch nhưng các điểm du lịch ở đây vẫn có
chất lượng tốt nên thu hút ngày càng nhiều lượng khách du lịch hơn.
Tăng cường hiệu lực của các văn bản pháp luật được Chính phủ và các
ngành liên quan ban hành. Cho đến nay có đã có nhiều văn bản pháp luật liên
quan đến bảo vệ và quản lý tài nguyên du lịch được ban hành nhưng đối với
101
các tài nguyên du lịch thiên nhiên như động vật hoang dã vẫn chưa thực sự
được bảo vệ chặt chẽ. Nhiều cửa hàng ăn với các món ăn đặc sản từ thú rừng
vẫn ngang nhiên hoạt động. Một số công ty tự gắn cho mình mác “sinh thái”
hoặc “du lịch sinh thái” để lôi kéo khách. Vì vậy công tác giáo dục để người
dân hiểu và thực hiện đúng các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý, bảo
vệ tài nguyên du lịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Bên cạnh những công tác và phương pháp giáo dục nêu trên còn cần
đến sự tham gia của đài truyền hình, phát thanh trung ương và địa phương vào
công tác giáo dục, tuyên truyền và phổ biến các quy phạm pháp luật liên quan
đến bảo vệ tài nguyên du lịch cũng mang lại nhiều kết quả.
102
Kết luận chương 3
Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch là vô
cùng cấp bách, cần thiết để đưa các quy định pháp luật vào thực tiễn giải
quyết. Bên cạnh đó, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong cơ quan
quản lý nhà nước trực tiếp quản lý các nguồn tài nguyên du lịch và giám sát
cơ quan chức năng. Công tác bảo vệ tài nguyên du lịch còn cần sự chỉ đạo sâu
sát; sự tham gia tích cực, đóng góp của các cấp, ngành liên quan cùng với ý
thức bảo vệ tài nguyên du lịch của người dân cũng cần được nâng cao để các
nguồn tài nguyên du lịch được lưu giữ, tồn tại lâu dài.
103
KẾT LUẬN
Du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển để trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của đất nước. Ở đâu du lịch phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông
thôn được chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Mặt khác, du lịch tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ,
thúc đẩy các ngành khác phát triển; khôi phục nhiều lễ hội và ngành nghề thủ
công truyền thống; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước và từng địa
phương, tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu, mở rộng
giao lưu giữa các vùng miền trong nước và với nước ngoài. Tuy nhiên, ngành
Du lịch phát triển cũng kéo theo những ảnh hưởng tiêu cực đến các loại tài
nguyên du lịch nên việc bảo vệ tài nguyên du lịch là vấn đề cấp thiết cần phải
được tiến hành để thúc đẩy ngành Du lịch Việt Nam phát triển bền vững. Đề
tài: “Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam” được đặt ra do yêu
cầu cấp thiết đó mà trọng tâm là xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
tài nguyên du lịch.
Luận văn đã đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra và có những đóng
góp mới vào việc phát triển lý luận cũng như thực tiễn về pháp luật bảo vệ tài
nguyên du lịch; đồng thời góp phần tích cực hoàn thiện những quy định pháp
luật trong lĩnh vực này. Để giải quyết những vấn đề đặt ra, đòi hỏi cần phải
nghiên cứu, đánh giá sâu sắc, toàn diện tất cả các văn bản pháp luật khác nhau
có liên quan trong hệ thống pháp luật. Trong khuôn khổ có giới hạn của luận
văn, tác giả chỉ đề cấp đến vấn đề cơ bản nhất, liên quan trực tiếp đến đề tài.
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nội vụ (2008), Thông tư liên tịch số
43/2008/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 6/6/2008 của Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch, Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, Phòng Văn hóa, Thể thao và Du lịch thuộc Ủy ban nhân dân cấp
huyện, Hà Nội.
2. C.Mac và Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
3. Chính phủ (2010), Nghị định số 65/2010/NĐ-CP ngày 11/6/2010 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đa dạng sinh học, Hà Nội.
4. Chính phủ (2012), Nghị định số 16/2012/NĐ-CP ngày 12/3/2012 quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch, Hà Nội.
5. Chính phủ (2013), Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng và phát
triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, Hà Nội.
6. Chính phủ (2013), Nghị định số 180/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định 92/2007/NQ-CP ngày 1/6/2007 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch, Hà Nội.
7. Chính phủ (2013), Nghị định số 76/2013/NĐ-CP ngày 16/7/2013 quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hà Nội.
8. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội (2000), Tập
bài giảng về Nhà nước và Pháp luật, tập 1 – Lý luận chung, Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội.
9. Hội văn học nghệ thuật Hưng Yên (1998), Phố Hiến lịch sử văn hóa, Nxb
Sở Văn hóa Thông tin, Hưng Yên.
10. Phạm Trung Lương và nhóm tác giả (2000), Tài nguyên và môi trường di
lịch Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
105
11. Quốc Hội (2001), Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10 ngày 29/6/2001,
có hiệu lực từ ngày 1/1/2002, Hà Nội.
12. Quốc Hội (2004), Luật Bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 ngày
3/12/2004, có hiệu lực từ ngày 1/4/2005, Hà Nội.
13. Quốc Hội (2005), Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11 ngày 29/11/2005,
có hiệu lực từ ngày 1/7/2006, Hà Nội.
14. Quốc Hội (2005), Luật Du lịch số 44/2005/QH11 ngày 14/6/2005, có hiệu
lực ngày 1/1/2006, Hà Nội.
15. Quốc Hội (2008), Luật Đa dạng sinh học số 20/2008/QH12 ngày 13/11/2008,
có hiệu lực từ ngày 1/7/2009, Hà Nội.
16. Quốc Hội (2009), Bộ Luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 số
37/2009/QH12 ngày 19/6/2009, có hiệu lực từ ngày 1/1/2010, Hà Nội.
17. Quốc Hội (2009), Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa
số 32/2009/QH12 ngày 18/6/2009, có hiệu lực từ ngày 1/1/2010, Hà Nội.
18. Quốc Hội (2012), Luật Biển Việt Nam số 18/2012/QH13 ngày 21/6/2012,
có hiệu lực từ ngày 1/1/2013, Hà Nội.
19. Quốc Hội (2012), Luật Tài nguyên nước số 17/2012/QH13 ngày 21/6/2012,
có hiệu lực từ ngày 1/1/2013, Hà Nội.
20. Quốc Hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 ngày 23/6/2014,
có hiệu lực từ ngày 1/1/2015, Hà Nội.
21. Trần Đức Thanh (2006), Nhập môn khoa học du lịch, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
22. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 23/2014/QĐ-TTg ngày 13/3/2014
quy đinh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục
Du lịch, Hà Nội.
23. Nguyễn Minh Tuệ (1997), Địa lý du lịch, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
106
24. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1999), Pháp lệnh Du lịch số 11/1999/PL-
UBTVUQH10 ngày 8/2/1999, có hiệu lực từ ngày 1/5/1999, Hà Nội.
25. Bùi Thị Hải Yến, Phạm Hồng Long (2011), Tài nguyên du lịch, Nxb Giáo dục.
Trang Web
26. http://vov.vn/doi-song/mat-trom-3-pho-tuong-phat-tai-chua-chan-tien-
139988.vov, cập nhật ngày 6/4/2004.
27. http://tintuc.wada.vn/e/5208277/Chu-dong-ung-pho-voi-bien-doi-khi-
30hau-va-bao-ve-tai-nguyen-moi-truong, cập nhật ngày 3/6/2014.
28. http://mcdvietnam.org/mcd-cung-nhon-hai-bao-ve-ran-san-ho-va-moi-
truong-bien-ung-pho-voi-bien-doi-khi-hau/, cập nhật ngày 23/5/2014.
29. http://www.vietnamplus.vn/bao-ton-di-tich-uy-ban-hanh-chinh-khang-
chien-dau-tien-o-yen-bai/268273.vnp, cập nhật ngày 30/6/2014.
30. http://baotintuc.vn/van-hoa/phu-tho-bao-ton-di-san-van-hoa-phi-vat-the-
20140904084637545.htm, cập nhật ngày 4/9/2014.
31. http://baobacninh.com.vn/news_detail/84584/ubnd-tinh-so-ket-cong-tac-
xu-ly-o-nhiem-moi-truong-tai-phuong-phong-khe-va-xa-phu-lam.html,
cập nhật ngày 5/11/2014.
32. http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/moi-truong/giam-thieu-o-nhiem-
lang-nghe-de-phat-trien-du-lich-2394526.html, cập nhật ngày 13/6/2012.
33. http://www.dulichvn.org.vn/index.php?category=20&itemid=21423, cập nhật
ngày 31/11/2013.
34. http://btdienbienphu.svhttdldienbien.gov.vn/Article/115/Cong-tac-bao-
ton-di-tich-tinh-Dien-Bien-Thuc-trang-va-giai-phap.html.
35. http://nhatrangxanhsachdep.vn/bao-ve-moi-truong-bao-ve-he-sinh-thai-bien-
la-van-de-can-quan-tam_72_183_2_vca.html, cập nhật ngày 3/3/2014.
107
36. http://www.mientay24h.vn/archive/index.php/t-469025.html, cập nhật
ngày 25/11/2013.
37. http://agro.gov.vn/news/tID15276_Bien-doi-khi-hau-de-doa-truc-tiep-
den-nen-an-ninh-luong-thuc.htm, cập nhật ngày 25/8/2009.
38. http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=89638, cập nhật ngày 18/9/2014.
39. http://hoalu.ninhbinh.gov.vn/news.do?action=detail&id=596, cập nhật ngày
29/11/2014.

More Related Content

PDF
Luận văn: Khai thác tài nguyên du lịch nhân văn TP Hạ Long, HAY
PDF
Luận văn: Phát triển du lịch bền vững trên địa bàn vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
PDF
Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tại vịnh Hạ Long giai đoạn ...
PDF
Đề tài: Tìm hiểu tiềm năng phát triển du lịch huyện Côn Đảo, HAY
PDF
LUẬN VĂN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN N...
PDF
Luận văn: Phát triển du lịch bền vững tại tỉnh Hà Giang, HAY
PDF
Luận văn: Phát triển hoạt động kinh doanh lữ hành nội địa, 9 ĐIỂM!
PDF
Luận văn: Phát triển du lịch biển, đảo tại tỉnh Kiên Giang, HAY, 9đ
Luận văn: Khai thác tài nguyên du lịch nhân văn TP Hạ Long, HAY
Luận văn: Phát triển du lịch bền vững trên địa bàn vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tại vịnh Hạ Long giai đoạn ...
Đề tài: Tìm hiểu tiềm năng phát triển du lịch huyện Côn Đảo, HAY
LUẬN VĂN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN N...
Luận văn: Phát triển du lịch bền vững tại tỉnh Hà Giang, HAY
Luận văn: Phát triển hoạt động kinh doanh lữ hành nội địa, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Phát triển du lịch biển, đảo tại tỉnh Kiên Giang, HAY, 9đ

What's hot (20)

DOCX
Nhận thức của cộng đồng địa phương về du lịch có trách nhiệm tại khu du lịch ...
PDF
Luận văn: Tiềm năng phát triển du lịch tỉnh Tiền Giang, HOT, 9đ
PDF
LUẬN VĂN THẠC SĨ: NGHIÊN CỨU TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH VIỆT NAM ƯA THÍCH CỦA KHÁCH N...
DOC
Luận văn: Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái miệt vườn, 9 ĐIỂM
PDF
Đề tài: Phát triển sản phầm du lịch đặc thù tại TP Hải Phòng, 9đ
PDF
Luận văn: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch theo pháp luật, HOT
PDF
Đề tài nghiên cứu tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tỉnh Hòa Bình, MIỄN...
DOCX
BÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp ngành du lịch, HAY, 9 ĐIỂM
PDF
Luận văn: Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường biển TP Đà Nẵng
DOC
Thực Trạng Thuận Lợi, Khó Khăn Và Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Ở Việt Nam
DOC
Khóa luận: Giải pháp nâng cao chất lượng chương trình du lịch tại công ty
PDF
Luận văn: Thực hiện chính sách phát triển du lịch biển Đà Nẵng
PDF
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
PDF
Luận văn: Quản lý nhà nước về phát triển du lịch bền vững, HOT
PDF
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
DOCX
Đánh giá mức độ hài lòng của du khách đối với loại hình du lịch sinh thái “M...
PDF
Chính sách phát triển du lịch bền vững tại quận Ngũ Hành Sơn, 9đ
PDF
Luận văn: Phát triển du lịch bền vững tỉnh Đồng Tháp, HOT, 9đ
PPTX
Bài 3: Tiếp thị và truyền thông du lịch có trách nhiệm
PDF
Luận văn: Bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Bình Dương
Nhận thức của cộng đồng địa phương về du lịch có trách nhiệm tại khu du lịch ...
Luận văn: Tiềm năng phát triển du lịch tỉnh Tiền Giang, HOT, 9đ
LUẬN VĂN THẠC SĨ: NGHIÊN CỨU TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH VIỆT NAM ƯA THÍCH CỦA KHÁCH N...
Luận văn: Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái miệt vườn, 9 ĐIỂM
Đề tài: Phát triển sản phầm du lịch đặc thù tại TP Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch theo pháp luật, HOT
Đề tài nghiên cứu tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tỉnh Hòa Bình, MIỄN...
BÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp ngành du lịch, HAY, 9 ĐIỂM
Luận văn: Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường biển TP Đà Nẵng
Thực Trạng Thuận Lợi, Khó Khăn Và Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Ở Việt Nam
Khóa luận: Giải pháp nâng cao chất lượng chương trình du lịch tại công ty
Luận văn: Thực hiện chính sách phát triển du lịch biển Đà Nẵng
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về phát triển du lịch bền vững, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Đánh giá mức độ hài lòng của du khách đối với loại hình du lịch sinh thái “M...
Chính sách phát triển du lịch bền vững tại quận Ngũ Hành Sơn, 9đ
Luận văn: Phát triển du lịch bền vững tỉnh Đồng Tháp, HOT, 9đ
Bài 3: Tiếp thị và truyền thông du lịch có trách nhiệm
Luận văn: Bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Bình Dương
Ad

Similar to Luận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam, HAY (20)

PDF
Khai thác tài sản trí tuệ địa phương trong phát triển du lịch, HAY
DOC
Khóa Luận Tiềm Năng, Hiện Trạng, Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Huyện Tiên Lãng...
DOCX
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hoạt Động Du Lịch Tới Môi Trường Nước Khu V...
DOCX
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hoạt Động Du Lịch Tới Môi Trường Nước Khu V...
PDF
Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh phú thọ 6307952
PDF
LUẬN VĂN CHÍNH SÁCH CÔNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN...
PDF
Luận văn: Thực hiện chính sách phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ
PDF
Đề tài: Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch Việt Nam, HOT
PDF
BÀI GIẢNG TÀI NGUYÊN DU LỊCH.pdf
DOCX
Du lịch sinh thái và thực tế phát triển ở Việt Nam
DOC
Luận Văn Về Nghiên Cứu Hiện Trạng Thảm Thực Vật Đảo Cát Bà.doc
DOC
Khoá Luận Tài Nguyên Du Lịch Hải Dương - Vấn Đề Khai Thác Nhằm Phát Triển Du ...
PDF
Luận văn: Điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành theo pháp luật - Gửi miễn phí ...
DOC
Khóa Luận Tìm Hiểu Tài Nguyên Du Lịch Ở Huyện Tiên Lãng Phục Vụ Phát Triển Du...
DOC
Luận Văn Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên du lịch trên địa bàn Thành ...
PDF
Luận văn: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch theo luật Việt Nam
PDF
Luận văn: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại tỉnh Ninh Bình
PDF
ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈN...
PDF
Luận văn: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch theo pháp luật, 9đ
PPTX
Bài 12: Chính sách và quy hoạch du lịch có trách nhiệm đối với các cơ quan qu...
Khai thác tài sản trí tuệ địa phương trong phát triển du lịch, HAY
Khóa Luận Tiềm Năng, Hiện Trạng, Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Huyện Tiên Lãng...
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hoạt Động Du Lịch Tới Môi Trường Nước Khu V...
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hoạt Động Du Lịch Tới Môi Trường Nước Khu V...
Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh phú thọ 6307952
LUẬN VĂN CHÍNH SÁCH CÔNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN...
Luận văn: Thực hiện chính sách phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ
Đề tài: Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch Việt Nam, HOT
BÀI GIẢNG TÀI NGUYÊN DU LỊCH.pdf
Du lịch sinh thái và thực tế phát triển ở Việt Nam
Luận Văn Về Nghiên Cứu Hiện Trạng Thảm Thực Vật Đảo Cát Bà.doc
Khoá Luận Tài Nguyên Du Lịch Hải Dương - Vấn Đề Khai Thác Nhằm Phát Triển Du ...
Luận văn: Điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành theo pháp luật - Gửi miễn phí ...
Khóa Luận Tìm Hiểu Tài Nguyên Du Lịch Ở Huyện Tiên Lãng Phục Vụ Phát Triển Du...
Luận Văn Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên du lịch trên địa bàn Thành ...
Luận văn: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch theo luật Việt Nam
Luận văn: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch tại tỉnh Ninh Bình
ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ DU LỊCH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈN...
Luận văn: Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch theo pháp luật, 9đ
Bài 12: Chính sách và quy hoạch du lịch có trách nhiệm đối với các cơ quan qu...
Ad

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi

Recently uploaded (20)

PDF
Giáo Dục Minh Triết: Tâm thế - Tâm thức bước vào kỷ nguyên mới
PPTX
Chương3,Buổi7,8,9,10(Buổi10 kiểmtraL2).pptx
PDF
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD LỚP 10 BÁM SÁT NỘI DUNG SGK - PH...
PDF
Sách không hôi fyjj ịuk gtyi yu> ướt jiii iiij
PDF
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 11 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
PDF
SÁNG KIẾN “NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TỰ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CHO HỌC S...
PDF
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 BÓNG ĐÁ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
PPTX
Slide chương 3 môn thẩm định tài chính dự án
DOCX
LUẬN VĂN GROUP ĐỀ BÀI ĐÁNH GIÁ GIAO TIẾP SƯ PHẠM
PPTX
KINH TẾ CHÍNH TRỊ - HÀNG HÓA THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ...
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 CẦU LÔNG - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO C...
PPTX
CNDVBC - Chủ nghĩa duy vật biện chứng...
PDF
f37ac936-c8c6-4642-9bc9-a9383dc18c15.pdf
PDF
TUYỂN CHỌN ĐỀ ÔN THI OLYMPIC 30 THÁNG 4 HÓA HỌC LỚP 10-11 CÁC NĂM 2006-2021 B...
PDF
TỔNG QUAN KỸ THUẬT CDHA MẠCH MÁU.5.2025.pdf
PPTX
[123doc] - bai-giang-hoc-phan-hanh-vi-nguoi-tieu-dung-trong-du-lich-consumer-...
DOCX
2021_CTDT_CNTT_150TC HCMUTE ngành Công Nghệ Thông Tin
PDF
SÁNG KIẾN THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VẬT SỐNG MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN 7 ...
PDF
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 THEO FORM THI MỚI BGD - TẬP 2 - NĂM HỌC 2025-202...
Giáo Dục Minh Triết: Tâm thế - Tâm thức bước vào kỷ nguyên mới
Chương3,Buổi7,8,9,10(Buổi10 kiểmtraL2).pptx
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD LỚP 10 BÁM SÁT NỘI DUNG SGK - PH...
Sách không hôi fyjj ịuk gtyi yu> ướt jiii iiij
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 11 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
SÁNG KIẾN “NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TỰ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CHO HỌC S...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 BÓNG ĐÁ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
Slide chương 3 môn thẩm định tài chính dự án
LUẬN VĂN GROUP ĐỀ BÀI ĐÁNH GIÁ GIAO TIẾP SƯ PHẠM
KINH TẾ CHÍNH TRỊ - HÀNG HÓA THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ...
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 CẦU LÔNG - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO C...
CNDVBC - Chủ nghĩa duy vật biện chứng...
f37ac936-c8c6-4642-9bc9-a9383dc18c15.pdf
TUYỂN CHỌN ĐỀ ÔN THI OLYMPIC 30 THÁNG 4 HÓA HỌC LỚP 10-11 CÁC NĂM 2006-2021 B...
TỔNG QUAN KỸ THUẬT CDHA MẠCH MÁU.5.2025.pdf
[123doc] - bai-giang-hoc-phan-hanh-vi-nguoi-tieu-dung-trong-du-lich-consumer-...
2021_CTDT_CNTT_150TC HCMUTE ngành Công Nghệ Thông Tin
SÁNG KIẾN THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VẬT SỐNG MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN 7 ...
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 THEO FORM THI MỚI BGD - TẬP 2 - NĂM HỌC 2025-202...

Luận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NHƯ HUYỀN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ TµI NGUY£N DU LÞCH ë VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NHƯ HUYỀN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ TµI NGUY£N DU LÞCH ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ THU HẠNH HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Như Huyền
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH, PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH......7 1.1. Những vấn đề chung về bảo vệ tài nguyên du lịch.......................... 7 1.1.1. Tài nguyên du lịch................................................................................ 7 1.1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên du lịch........................................13 1.2. Những vấn đề chung về pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch.......18 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch.......18 1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch.......20 1.2.3. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam ..................................................................................35 Kết luận chương 1 .........................................................................................43 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH Ở VIỆT NAM ........................................................................44 2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch.......................44 2.1.1. Những ưu điểm của pháp luật trong bảo vệ tài nguyên du lịch .........44 2.1.2. Những hạn chế của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch...............57 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ..........66 2.2.1 Những kết quả đạt được trong việc thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ...............................................................................66
  • 5. 2.2.2 Những hạn chế trong việc thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch..................................................................................................77 2.2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch ....................................................................................81 Kết luận chương 2 .........................................................................................84 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH VIỆT NAM........................................................................................85 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch.................................................................................................85 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam ..............................................................90 3.2.1. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch..........................90 3.2.2. Hoàn thiện các quy định về quyền và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch ...........................91 3.2.3. Hoàn thiện các quy chuẩn về tài nguyên du lịch................................92 3.2.4. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý đối với các vi phạm pháp luật về tài nguyên du lịch.................................................93 3.3. Một số giải pháp khác nhằm tăng hiệu quả bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam............................................................................95 3.3.1. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ...................................................................................95 3.3.2. Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch.......98 Kết luận chương 3 .......................................................................................102 KẾT LUẬN..................................................................................................103 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................104
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong quá trình hội nhập kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, cùng với sự phát triển của những ngành công nghiệp khác thì du lịch đã dần trở thành ngành kinh tế quan trọng, là ngành mũi nhọn, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường ở nhiều quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam. Việt Nam là một trong những nước có nền văn hóa lâu đời và giàu tiềm năng về du lịch. Phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân, mang lại thu nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà gián tiếp đối với các ngành liên quan, xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập cho các cộng đồng dân cư địa phương. Du lịch là ngành kinh tế có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch chính là đối tượng, sức hút, động cơ thúc đẩy đi du lịch của du khách; là những nguồn lực quan trọng nhất, mang tính quyết định sự phát triển ngành Du lịch; là cơ sở để hình thành, phát triển các hệ thống lãnh thổ du lịch. Thực tế tại Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, các địa phương, các quốc gia có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng và đặc sắc, có mức tập trung cao, được quản lý, quy hoạch, khai thác, bảo vệ, tôn tạo hợp lý, có định hướng thì sẽ có ngành Du lịch phát triển bền vững, đạt hiệu quả cao. Ngược lại những quốc gia, vùng có nguồn tài nguyên đa dạng, đặc sắc nhưng không được quy hoạch, khai thác, bảo vệ… thì sẽ làm cho nguồn tài nguyên bị suy kiệt và hiệu quả kinh doanh du lịch thấp. Hiện nay,
  • 7. 2 tài nguyên - môi trường du lịch của Việt Nam và nhiều nước trên thế giới đang bị tác động tiêu cực bởi việc khai thác cho du lịch, phát triển kinh tế - xã hội làm cho các tài nguyên dần cạn kiệt và suy thoái dần, làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của ngành Du lịch cũng như các ngành kinh tế khác. Do vai trò, ý nghĩa và sự cần thiết của tài nguyên du lịch đối với hoạt động phát triển du lịch như vậy nên việc bảo vệ tài nguyên du lịch là vấn đề đáng được quan tâm hiện nay, đặc biệt khi những yêu cầu về phát triển du lịch bền vững được đặt lên hàng đầu trong các chính sách, chiến lược, chương trình hành động quốc gia về du lịch. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch chưa được quan tâm tương xứng với yêu cầu đặt ra hiện nay như: nhiều hoạt động thực tiễn chưa được Luật Du lịch điều chỉnh, nhiều vấn đề Luật đề cập không cụ thể, hoặc chưa phù hợp với thực tế. Chính điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ tài nguyên du lịch nước ta. Mặt khác, có thể thấy du lịch muốn phát triển bền vững thì song song với nó luôn cần có sự tồn tại của các tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn và môi trường. Do đó mà sự phát triển của du lịch luôn có mối liên hệ mật thiết với tài nguyên và môi trường du lịch. Việc khai thác các tài nguyên du lịch và phát triển các hoạt động du lịch luôn gắn liền và có sự tác động qua lại với môi trường du lịch. Hiện nay, tài nguyên du lịch ở các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam đang bị những tác động tiêu cực của hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, có nguy cơ giảm sút và suy thoái, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của du lịch. Do vậy, để tăng cường vai trò của tài nguyên du lịch đòi hỏi Việt Nam cần từng bước nâng cao hiệu quả của các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường trong lĩnh vực du lịch. Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch cần được xây dựng hoàn thiện, là khung pháp lý vững chắc để tăng cường công tác bảo vệ tài nguyên du lịch hơn nữa.
  • 8. 3 Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình với mong muốn đóng góp những ý kiến để hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên trên đất nước Việt Nam nói chung và bảo vệ tài nguyên du lịch của Việt Nam nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu Đề tài “Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam” là một trong những đề tài khoa học mang tính nhân văn sâu sắc. Liên quan đến lĩnh vực tài nguyên du lịch đã được nhiều tác giả nghiên cứu, từ nghiên cứu lý luận cho đến nghiên cứu thực tiễn như: - Trần Phong Bình, “Pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2009. - Phạm Trung Lương, Hoàng Hoa Quân, “Nghiên cứu đánh giá tác động của hoạt động du lịch đến môi trường (lấy ví dụ thành phố Vũng Tàu)”, Tuyển tập Báo cáo Hội nghị môi trường toàn quốc, Hà Nội, 2003. - Phạm Trung Lương, Đặng Duy Lợi, Vũ Tuấn Cảnh, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Ngọc Khán, Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, 2000. - Vũ Tuấn Cảnh, “Quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam với chiến lược quản lý tài nguyên và môi trường”, Tuyển tập Báo cáo Hội thảo lần thứ nhất về: “Đánh giá tác động môi trường”, Trung tâm Khoa học công nghệ và Công nghệ Quốc gia, Hà Nội, 6 - 7/6/1997. - Phạm Trung Lương, “Điều tra nghiên cứu tác động của hoạt động du lịch về tài nguyên thiên nhiên và môi trường - Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu”, Viện Nghiên cứu và phát triển du lịch Hà Nội, 1996. Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến một số
  • 9. 4 khía cạnh của tài nguyên du lịch, như khía cạnh kinh tế, xã hội của tài nguyên du lịch; mối quan hệ giữa du lịch với tài nguyên và môi trường… mà chưa đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở nước ta. Dù vậy, các công tình nghiên cứu trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị đối với việc nghiên cứu đề tài của luận văn. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu tổng quát Mục tiêu tổng quát của việc nghiên cứu đề tài là đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch, qua đó góp phần hạn chế tác động tiêu cực đến tài nguyên du lịch của đất nước. 3.2. Mục tiêu cụ thể - Làm rõ một số vấn đề lý luận về tài nguyên du lịch, pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch. - Đánh giá đúng thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam. - Đề xuất được một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch. Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, diễn dịch, dự báo khoa học để rút ra các kết luận mang tính chính xác, có ý nghĩa cho luận văn. 5. Tính mới và những đóng góp của đề tài Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả nêu khái quát một số vấn đề lý luận về tài nguyên du lịch, pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch; phân tích
  • 10. 5 các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch và đánh giá thực trạng thực hiện chúng trên thực tế. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, góp phần bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam. Như vậy, việc bảo vệ tài nguyên du lịch bằng pháp luật cần được triển khai ở cả khía cạnh xây dựng pháp luật và thực tế thực hiện pháp luật với những cách thức, biện pháp đa dạng, phong phú, phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế. Cụ thể đề tài dự kiến có những đóng góp sau: - Trong Chương 1, đề tài tập trung làm rõ vai trò của việc bảo vệ tài nguyên du lịch trong mối quan hệ với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và yêu cầu bảo vệ chất lượng môi trường; sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên du lịch bằng pháp luật và khái quát được hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch. - Trong Chương 2, đề tài tập trung đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam, gồm đánh giá ưu điểm, hạn chế về nội dung và hình thức của pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch; đánh giá kết quả, hạn chế khi thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch và nêu được nguyên nhân của bất cập, hạn chế đó. - Trong Chương 3, từ những kết quả nghiên cứu của Chương 1 và Chương 2, đề tài đưa ra các giải pháp, kiến nghị mới nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch, đặc biệt ở khía cạnh quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch; rà soát cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch và tuyên truyền pháp luật để bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam. 6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định cụ thể của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch và các hoạt động thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch
  • 11. 6 6.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi nước Việt Nam. - Phạm vi về thời gian nghiên cứu: + Giai đoạn từ năm 1960- 1999, với sự ra đời của các văn bản pháp lý đầu tiên về du lịch, đặc biệt là Pháp lệnh du lịch - Văn bản pháp lý đầu tiên thống nhất các quy định về du lịch. + Giai đoạn từ 1999 đến nay, với những bước phát triển lớn của pháp luật du lịch, đánh dấu bằng sự ra đời của Luật Du lịch 2005. Đây là văn bản pháp lý quan trọng quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch. - Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật du lịch và pháp luật về bảo vệ các nguồn tài nguyên trong mối liên hệ với hoạt động du lịch. Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp pháp lý về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về bảo vệ tài nguyên du lịch, pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch. Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam. Chương 3: Một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam.
  • 12. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH, PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH 1.1. Những vấn đề chung về bảo vệ tài nguyên du lịch 1.1.1. Tài nguyên du lịch Theo tác giả Phạm Trung Lương và Đặng Duy Lợi đã định nghĩa trong cuốn sách “Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam” thì “Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng và thông tin có trên Trái đất và trong không gian vũ trụ liên quan, mà con người có thể sử dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình” [10, tr.5]. Với PGS.TS. Trần Đức Thanh thì: Tài nguyên là tất cả những nguồn thông tin, vật chất, năng lượng được khai thác phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội loài người. Đó là những thành tạo hay tính chất của thiên nhiên, những công trình, những sản phẩm do bàn tay khối óc của con người làm nên, những khả năng của loài người,… được sử dụng phục vụ cho sự phát triển kinh tế và xã hội của cộng đồng [21, tr.56]. Như vậy, tài nguyên có thể được hiểu là những gì thuộc về tự nhiên, hay là những sản phẩm do con người tạo ra, có thể được con người sử dụng vào phát triển kinh tế và xã hội để tạo ra hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Xã hội loài người ngày càng phát triển, nhu cầu đời sống ngày càng tăng kéo theo nhu cầu khai thác tài nguyên phục vụ cho các hoạt động phát triển cũng ngày càng tăng cao. Mỗi ngành nghề khác nhau lại có yêu cầu khác nhau trong khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, nên việc phân chia các nhóm nguồn tài nguyên phục vụ cho từng lĩnh vực cũng có xu hướng ngày
  • 13. 8 càng cụ thể, chi tiết hơn. Sự phân biệt rõ chức năng của mỗi nguồn tài nguyên phù hợp với từng lĩnh vực là nhằm giúp cho công tác quản lý các nguồn tài nguyên được thuận lợi, hiệu quả hơn và tài nguyên du lịch cũng được tiếp cận theo hướng đó. Nguyễn Minh Tuệ cho rằng: Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục, phát triển thể lực, trí tuệ của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch [23, tr.33]. Luật Du lịch năm 2005 quy định: Tài nguyên du lịch được hiểu là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch [14, Điều 4, Khoản 4]. Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn đang được khai thác và chưa được khai thác. Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu của tổ chức, cá nhân. Cụ thể: 1.1.1.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên Tài nguyên du lịch tự nhiên là các đối tượng và hiện tượng trong môi trường tự nhiên bao quanh chúng ta được khai thác sử dụng để phục vụ cho
  • 14. 9 hoạt động du lịch. Các tài nguyên du lịch tự nhiên luôn gắn liền với các điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, được khai thác đồng thời với tài nguyên du lịch nhân văn.Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm: - Tài nguyên địa hình Địa hình là thành phần quan trọng của tự nhiên, nơi diễn ra các hoạt động của con người. Đối với hoạt động du lịch, các dạng địa hình tạo nên phong cảnh, một yếu tố quan trọng để hình thành nên các tài nguyên khác. Các địa hình đặc biệt có sức hấp dẫn khách du lịch là: địa hình Karst, địa hình bờ biển, địa hình hải đảo,… Địa hình Karst: chiếm khoảng 60.000 km2 tập trung chủ yếu ở Việt Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Trung Bộ, với các dạng Karst hang động, Karst ngập nước và Karst đồng bằng. Địa hình Karst tạo nên những điểm du lịch hấp dẫn với hệ thống các hang động, núi đá vôi,… Địa hình bờ biển: Bờ biển nước ta dài khoảng 3.260 km với nhiều cảnh quan phong phú, đa dạng, có nhiều bãi tắm đẹp là một tiềm năng rất có giá trị cho du lịch biển, nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí. Các bãi biển nổi tiếng như: Bãi Cháy (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Văn Phong (Nha Trang), Mỹ Khê (Đà Nẵng)… Địa hình hải đảo: Nước ta có hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó nhiều đảo có cảnh quan đẹp đã được đưa vào khai thác phục vụ du lịch như: Cô Tô (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), Lý Sơn (Quảng Ngãi)…. - Tài nguyên khí hậu Tài nguyên khí hậu là sự tổng hợp các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, áp suất không khí, tốc độ gió, hướng gió, bức xạ nhiệt. Các yếu tố của khí hậu thay đổi theo không gian từ xích đạo đến hai cực, theo độ cao, theo thời gian (tính theo mùa), có mối quan hệ chặt chẽ với địa hình, vị trí địa lý, thủy văn và sinh vật, hoạt động sản xuất và đời sống của con người [25, tr.43].
  • 15. 10 Khí hậu bao gồm nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, không khí, lượng mưa, gió, bức xạ mặt trời. Những nơi có khí hậu thích hợp với sức khỏe con người, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Tài nguyên khí hậu phục vụ cho phát triển các loại hình du lịch và quyết định tính thời vụ của nhiều loại hình du lịch. - Tài nguyên nước Tài nguyên nước bao gồm nước mặt và nước ngầm. Đối với hoạt động du lịch thì nguồn nước mặt có ý nghĩa rất to lớn, bao gồm: đại dương, biển, hồ, sông, suối, thác,… Nước mặt góp phần tạo môi trường không khí mát mẻ, thoáng, tạo phong cảnh đẹp. Các mặt nước ven bờ như bãi biển, ven hồ, các dòng sông thường được sử dụng để tắm, phát triển các hoạt động thể thao dưới nước. So với nước mặt, nước ngầm bao gồm các điểm nước khoáng, suối nước nóng là tài nguyên thiên nhiên quý giá để phát triển các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh. Trong đó, nước khoáng là nước thiên nhiên chứa một số thành phần vật chất đặc biệt, các nguyên tố hóa học, các khí, các nguyên tố phóng xạ và có tính chất vật lý như nhiệt độ cao, độ Ph có tác dụng sinh lý với con người. - Tài nguyên sinh vật Tài nguyên sinh vật bao gồm nguồn động vật, thực vật tiêu biểu có thể phục vụ phát triển du lịch. Ngày nay, khi áp lực từ cuộc sống, công việc ngày càng tăng khiến cho con người thường rơi vào trạng thái bức bối, căng thì nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí ngày càng trở nên cấp thiết cùng với thị yếu đi du lịch ngày càng phong phú. Du khách mong muốn được chiêm ngưỡng những cảnh quan sinh thái, những hệ động, thực vật phong phú, mang tính thẩm mĩ cao để thỏa mãn tính giải trí, có được cảm giác thư thái. Trong hoạt động tham quan du lịch thì tài nguyên sinh vật có ý nghĩa đặc biệt, chính nó có thể mang đến cho những người chiêm ngưỡng, tận hưởng
  • 16. 11 nó cảm giác thoải mái tinh thần, thỏa mãn trí tò mò của họ. Điều đó là nguyên nhân chính thu hút khách du lịch, vì thế tính đa dạng sinh học sự bảo tồn được nhiều nguồn gen, tạo phong cảnh đẹp, thơ mộng cần được bảo vệ, tu bổ và khai thác hợp lý để phát triển bền vững. 1.1.1.2. Tài nguyên du lịch nhân văn Tài nguyên du lịch nhân văn là các đối tượng và hiện tượng xã hội cùng các giá trị văn hóa, lịch sử của chúng có sức hấp dẫn du khách và được khai thác để kinh doanh du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn được chia thành hai loại là tài nguyên du lịch nhân văn vật thể và tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể: - Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể là các di tích lịch sử văn hóa - những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân con người hoạt động sáng tạo ra để lại. Theo các giá trị khác nhau, các di tích lịch sử văn hóa được đánh giá, xếp hạng theo các cấp bậc khác nhau. Di sản văn hóa được coi là sự kết tinh của những sáng tạo văn hóa của một dân tộc. Các di sản văn hóa khi được công nhận là các di sản văn hóa thế giới của quốc gia thì sẽ trở thành nguồn tài nguyên du lịch nhân văn vô giá, có sức hấp dẫn khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế như: Cố đô Huế, Phố cổ Hội An,… Bên cạnh đó, còn có các di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và địa phương. Di tích khảo cổ học là các di khảo cổ có thể bị vùi lấp trong lòng đất hoặc ở trên mặt đất bao gồm di chỉ mộ táng, những công trình kiến trúc cổ. Các di tích lịch sử văn hóa là những công trình ghi nhận các sự kiện, các địa điểm lịch sử tiêu biểu của các dân tộc trong quá trình phát triển lịch sử của mình. Các di tích văn hóa nghệ thuật là các di tích gắn với các công trình kiến trúc có giá trị, những di tích này chứa cả những giá trị kiến trúc nghệ thuật và những giá trị văn hóa phi vật thể.
  • 17. 12 Trong số các tài nguyên du lịch nhân văn thì các di sản văn hóa có vị trí đặc biệt. Các di sản văn hóa được chia thành di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Còn danh lam thắng cảnh là những nơi có phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và thường có những giá trị do con người sáng tạo ra gắn liền với phong cảnh thiên nhiên. Ngoài các di tích, danh lam thắng cảnh trên thì các công trình kiến trúc nghệ thuật, thư viện, bảo tàng, nhà lưu niệm, rạp hát, công viên, các món ăn truyền thống, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ cũng là những tài nguyên du lịch có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch. - Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể Luật Di sản văn hóa năm 2001 quy định: Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu truyền khác bao gồm chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn, truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, lễ hội, bí quyết về thủ công truyền thống, tri thức về y dược cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác [11, Điều 4, Khoản 1]. Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa tập thể của nhân dân diễn ra vào thời điểm cố định trong năm nhằm để kỉ niệm một sự kiện lịch sử, chính trị, văn hóa hay tôn giáo của cộng đồng. Lễ hội có hai phần: phần lễ và phần hội. Ở phần nghi lễ với những nghi thức trang trọng nhằm bày tỏ sự tôn kính với các bậc thánh hiền và thần linh, cầu mong bình an, mưa thuận gió hòa,… Còn phần hội thường diễn ra những hoạt động biểu tượng điển hình của tâm lý cộng đồng văn hóa dân tộc. Nghề thủ công truyền thống với những sản phẩm độc đáo mang giá trị nghệ thuật, thể hiện sự khéo léo của người lao động, tâm tư tình cảm của họ.
  • 18. 13 Nghề thủ công truyền thống luôn được bảo tồn, phát huy từ đời này sang đời khác của các gia đình, các làng, các địa phương. Hiện nay du lịch phát triển ở các làng nghề đang ngày một tân tiến, đa dạng. Các tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể khác như phong tục tập quán, nghệ thuật hát múa, diễn xướng dân gian, trang phục truyền thống dân tộc,… tạo sức hút đối với khách du lịch đều được coi là nguồn tài nguyên phục vụ cho phát triển du lịch. Phát triển các nguồn tài nguyên du lịch quý giá trên tạo điều kiện cho ngành du lịch nói riêng và kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung ngày một đi lên hơn nữa. 1.1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên du lịch Từ những phân tích trên cho thấy tài nguyên du lịch có giá trị quan trọng và rất cần thiết cho sự phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Để phát huy ở mức cao nhất các tác dụng của tài nguyên du lịch thì việc bảo vệ nguồn tài nguyên này vừa là đòi hỏi mang tính khách quan vừa là yêu cầu của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch. Theo cách hiểu phổ thông thì bảo vệ tài nguyên du lịch là việc chống lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm đến các loại tài nguyên du lịch để giữ cho tài nguyên du lịch được nguyên vẹn đúng như giá trị của nó. Còn từ phương diện quản lý thì bảo vệ tài nguyên du lịch là việc xác định một cách có căn cứ các nguồn tài nguyên du lịch cần bảo vệ; xác định trách nhiệm của Nhà nước; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong việc bảo tồn, tôn tạo và khai thác hợp lý để phát huy hiệu quả sử dụng và bảo đảm phát triển du lịch bền vững. Nói cách khác, bảo vệ tài nguyên du lịch là việc áp dụng đồng bộ các giải pháp về tổ chức, kinh tế, kỹ thuật, pháp lý nhằm bảo tồn, giữ gìn và phát huy có hiệu quả cao nhất giá trị của các tài nguyên du lịch. Bảo vệ tài nguyên du lịch là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, của các tổ chức và cá nhân.
  • 19. 14 Sở dĩ tài nguyên du lịch cần phải được bảo vệ là vì những lý do sau: Thứ nhất, bảo vệ tài nguyên du lịch có ý nghĩa quyết định đối với phát triển du lịch. Tài nguyên du lịch là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của du lịch. Tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản để hình thành các sản phẩm du lịch. Sự phong phú và đa dạng của tài nguyên du lịch đã tạo nên sự phong phú và đa dạng của sản phẩm du lịch. Tài nguyên du lịch càng độc đáo, đặc sắc thì giá trị của sản phẩm du lịch và độ hấp dẫn khách du lịch càng tăng. Tài nguyên du lịch là cơ sở quan trọng để duy trì và phát triển các loại hình du lịch. Trong quá trình phát triển du lịch, để không ngừng đáp ứng các yêu cầu và thỏa mãn các mục đích của du khách, các loại hình du lịch mới cũng không ngừng xuất hiện và phát triển. Các loại hình du lịch ra đời đều phải dựa trên cơ sở của tài nguyên du lịch. Sự xuất hiện của các loại hình du lịch đã làm cho các yếu tố điều kiện tự nhiên, xã hội trở thành tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch là một bộ phận cấu thành quan trọng tổ chức lãnh thổ du lịch. Hệ thống lãnh thổ du lịch thể hiện mối quan hệ về mặt không gian của các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau cấu tạo nên nó. Các yếu tố đó là khách du lịch, tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đội ngũ cán bộ công nhân viên, tổ chức điều hành và quản lý du lịch. Tài nguyên du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức lãnh thổ du lịch, cũng là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch, tạo điều kiện để có thể khai thác một cách hiệu quả nhất các tiềm năng của nó. Tổ chức lãnh thổ du lịch hợp lý sẽ góp phần tạo nên hiệu quả cao trong việc khai thác các tài nguyên du lịch nói riêng cũng như trong mọi hoạt động du lịch nói chung. Thứ hai, bảo vệ tài nguyên du lịch đóng vai trò quan trọng trong quá trình lưu giữ các di tích lịch sử và giá trị bản sắc văn hóa riêng của dân tộc. Di tích lịch sử văn hoá là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hoá
  • 20. 15 lâu đời của dân tộc, là những chứng tích vật chất phản ánh sâu sắc nhất về đặc trưng văn hoá, về cội nguồn và truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước hào hùng, vĩ đại của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng thời là một bộ phận cấu thành kho tàng di sản văn hoá nhân loại.Với những giá trị như trên, các di tích lịch sử văn hoá là bộ phận đặc biệt trong cơ cấu "tài nguyên du lịch". Các di tích đó, cả về mặt nội dung lẫn hình thức, đều có khả năng tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ. Việc bảo tồn, lưu giữ tài nguyên du lịch góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền khác nhau. Thứ ba, giữa tài nguyên du lịch với sự phát triển kinh tế - xã hội quốc gia có mối quan hệ tương hỗ. Phát triển du lịch mang lại nhiều lợi ích cho mỗi quốc gia. Nếu có một nguồn tài nguyên du lịch phong phú có thể giúp quốc gia đó phát triển các loại hình du lịch đa dạng, mạng lại nguồn thu nhập cao, qua đó tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển. Hơn thế nữa, du lịch không những tạo ra của cải và việc làm cho nội bộ ngành Du lịch mà còn cho cả những ngành khác nữa. Vào thời điểm nhiều ngành kinh tế phải đối mặt với những khó khăn về tiêu dùng trong nước thì du lịch không những trực tiếp mang lại doanh thu từ xuất khẩu, mà còn gián tiếp tác động đáng kể thông qua chuỗi giá trị to lớn của ngành. Mặt khác, du lịch còn giúp giảm nghèo và hỗ trợ phát triển. Du lịch chiếm 45% kim ngạch xuất khẩu của các quốc gia đang phát triển và chính các quốc gia này với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú sẽ được hưởng lợi từ phát triển du lịch. Du lịch ngày càng trở thành một công cụ hiệu quả hỗ trợ phát triển. Có thể nói, du lịch đóng góp quan trọng và phát triển kinh tế bền vững gắn với bảo vệ môi trường. Một báo cáo của ông Taleb Rifai, Tổng thư ký Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) trong bài phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế mới diễn ra vào ngày 23 tháng 01 năm 2013 tại thủ đô Madrid, Tây Ban Nha đã xác định du lịch là 1 trong 10 ngành góp phần quan trọng vào
  • 21. 16 “xanh hóa” nền kinh tế toàn cầu. Nếu được đầu tư thích đáng, du lịch có thể là nhân tố then chốt dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng xanh hóa thông qua thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra việc làm, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, giảm nguy cơ suy thoái môi trường và nâng cao nhận thức về môi trường cho khách du lịch [33]. Mặt khác, một nền kinh tế - xã hội phát triển thì việc đầu tư cho cơ sở vật chất, kĩ thuật hiện đại cho việc bảo tồn, trùng tu, bảo vệ các nguồn tài nguyên du lịch sẽ có hiệu quả cao hơn. Việc quảng bá hình ảnh du lịch của đất nước cũng sẽ được lan truyền rộng rãi hơn, chuyên nghiệp hơn nữa. Thứ tư, ý thức của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch của đất nước. Nước ta có một nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, nếu con người không biết bảo vệ, giữ gìn nó thì tài nguyên du lịch sẽ ngày bị mai một dần, sẽ mất đi bản sắc riêng của mỗi vùng miền. Đại đa số người dân đều đã có ý thức giữ gìn và phát triển tài nguyên du lịch như tôn tạo di tích đình chùa, giữ gìn nét truyền thống của làng nghề,… Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một bộ phận người dân thiếu ý thức trong việc bảo vệ, giữ gìn các tài nguyên du lịch sẵn có như: một số kẻ xấu đã ăn cắp cổ vật tại các di tích và tiến hành thu gom nhiều vật quý trong cộng đồng để móc nối, buôn bán với các du khách nước ngoài. Ví dụ: ba pho tượng Phật bằng đồng của chùa Chân Tiên trên phố Bà Triệu, thành phố Hà Nội đã bị kẻ gian đột nhập lấy mất [26], hay việc sử dụng sự chủ quan của khách du lịch để móc túi, trộm cắp đồ, lèo kéo khách hàng, những hành vi dụ dỗ khách vào những loại hình văn hóa đồ trụy... Hay tại nhiều khu di tích, du khách đã viết tên, khắc tên lên các bộ phận di tích một cách bừa bãi. Bụi bặm, khói xăng dầu, rác thải gây ô nhiễm, ảnh hưởng không ít đến di tích. Mặt khác, trách nhiệm bảo vệ giữ gìn các di tích, tài nguyên
  • 22. 17 du lịch không được phân công rõ ràng và sự phối hợp giữa nhà chức trách với người sử dụng, khai thác còn lỏng lẻo. Hiện tượng đó dẫn đến tình trạng khai thác bừa bãi, vô trách nhiệm hoặc bỏ mặc cho các di tích xuống cấp. Bên cạnh đó, việc đầu tư nâng cấp các di tích với tư cách là một sản phẩm du lịch chưa được triển khai trong một quy chế chặt chẽ và toàn diện, trong đó có tính đến yếu tố du lịch. Còn phổ biến tình trạng giao khoán cải tạo thậm chí được phó mặc cho những người quản lý, đầu tư tự sáng tạo theo ý mình trong trùng tu, tôn tạo, xây mới bằng các biện pháp chặt cây, phá núi; xây bậc xi măng thay cho vẻ đẹp của đất và đá tự nhiên; thay gạch, bê tông cho các cấu kiện gỗ; dùng sơn công nghiệp thay cho sơn thủ công trong trang trí kiến trúc... làm mất đi vẻ đẹp ban đầu, mất đi những “phần hồn” của các di tích như trường hợp chùa Trấn Quốc, chùa Thiên Phúc (Cửa Nam), chùa Kim Liên, đình Yên Phụ, chùa Hương, đền Voi Phục, phủ Tây Hồ đều ở Hà Nội... Những lỗ hổng trong cách quản lý đó dẫn đến hậu quả khôn lường, không những không có tác dụng thu hút du khách mà ở một chừng mực nhất định còn làm phương hại đến hình ảnh của điểm du lịch, hình ảnh chung về nền văn hoá của cả quốc gia. Nếu không sớm khắc phục, chúng ta sẽ có lỗi rất lớn với lịch sử. Hơn nữa, thực tế còn tồn tại một mâu thuẫn khá lớn giữa nhu cầu phát triển kinh tế đất nước và yêu cầu của những nguyên tắc, cách thức bảo tồn di tích. Nhận thức của cộng đồng về giá trị của di sản văn hoá chưa thật sâu sắc nên trong nhiều trường hợp cụ thể người ta lại muốn hy sinh văn hoá cho nhu cầu kinh tế. Vì những lợi ích mà tài nguyên du lịch mang lại cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay đòi hỏi các cơ quan chức năng có thẩm quyền và người dân cần nâng cao hơn nữa tinh thần bảo vệ tài nguyên du lịch ở mọi nơi, mọi lúc. Làm được điều này sẽ giúp cho đất nước ta ngày một giàu đẹp, văn minh hơn nữa.
  • 23. 18 1.2. Những vấn đề chung về pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch Như trên đã đề cập, bảo vệ tài nguyên du lịch là nhu cầu cần thiết, khách quan, góp phần bảo đảm phát triển kinh tế đất nước. Bảo vệ tài nguyên du lịch có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp, cách thức khác nhau, như biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch cho người dân; biện pháp khuyến khích đầu tư phát triển tài nguyên du lịch và các biện pháp pháp lý về bảo vệ tài nguyên du lịch..., trong đó biện pháp pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi xử sự của con người đối với tài nguyên du lịch. Quá trình định hướng hành vi bảo vệ tài nguyên du lịch được thực hiện thông qua các quy định có tính nguyên tắc về bảo vệ tài nguyên du lịch; quy định về những hành vi bị cấm; những hoạt động được khuyến khích; về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch... Kết hợp khái niệm “tài nguyên du lịch” với những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch như sau: Pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch là tổng thể những quy phạm pháp luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình tác động lên cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác nhằm bảo vệ chúng khỏi sự xâm phạm làm ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch nói riêng và sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung. So với pháp luật bảo vệ các nguồn tài nguyên khác, pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch là một bộ phận quan trọng trong pháp luật về du lịch. Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố cơ bản, điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển du lịch. Số lượng tài nguyên vốn có, chất lượng của chúng và mức độ kết hợp các loại tài nguyên khác có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển du lịch. Hiện nay, một số loại tài
  • 24. 19 nguyên du lịch đã và đang bị xâm hại nghiêm trọng. Theo đó, để bảo vệ tài nguyên du lịch cần phải có những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh. Pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến bảo vệ các tài nguyên du lịch nhằm làm cho ngành Du lịch phát triển bền vững, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Chính vì vậy, nó không thể tách rời với pháp luật du lịch. Thứ hai, phạm vi điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch rất rộng, liên quan đến nhiều loại tài nguyên du lịch khác nhau; nhiều chủ thể khác nhau trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch và được thể hiện trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Chẳng hạn: Luật Di sản văn hóa năm 2001 quy định về các hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hóa, xác định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân đối với di sản văn hóa; Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định về bảo vệ các khu rừng đặc dụng, các Vườn quốc gia, khu bảo tồn cảnh quan; quy định quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ di sản thiên nhiên;… Giữa các văn bản trên luôn có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau tạo thành hệ thống pháp luật chung bảo vệ tất cả các nguồn tài nguyên du lịch, từ tài nguyên du lịch tự nhiên đến tài nguyên du lịch nhân văn. Thứ ba, các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch điều chỉnh rất đa dạng, bao gồm: Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên du lịch; nhóm quan hệ hình thành trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên du lịch; nhóm quan hệ hình thành giữa các tổ chức, cá nhân khác trong bảo vệ tài nguyên du lịch; nhóm quan hệ về các biện pháp xử lý đối với những hành vi xâm hại đến tài nguyên du lịch. Các chủ thể liên quan đều có trách nhiệm bảo vệ các tài nguyên du lịch. Đối với từng nguồn tài nguyên du lịch cụ thể còn có các quy định cụ thể về bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch đó.
  • 25. 20 1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Xuất phát từ tính đa dạng của các loại tài nguyên du lịch, đa dạng về các chủ thể trong quan hệ bảo vệ tài nguyên du lịch nên pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch cũng có khá nhiều nội dung, bao gồm: 1.2.2.1. Những nội dung có tính nguyên tắc về bảo vệ tài nguyên du lịch Những nội dung có tính nguyên tắc của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch là những nội dung mang tính tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng và tổ chức thực hiện các quy định cụ thể của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch. Bảo vệ tài nguyên du lịch được thực hiện theo nguyên tắc được quy định trong Luật Du lịch năm 2005: bảo vệ, tôn tạo và khai thác hợp lý để phát huy hiệu quả sử dụng và bảo đảm phát triển du lịch bền vững. Đồng thời Nhà nước thống nhất quản lý tài nguyên du lịch trong phạm vi cả nước, có chính sách và biện pháp để bảo vệ, tôn tạo và khai thác hợp lý tài nguyên du lịch [14, Điều 15]. Bảo vệ tài nguyên du lịch được hiểu là luôn phải giữ gìn nguyên vẹn các nguồn tài nguyên du lịch trong quá trình diễn ra các hoạt động của con người tác động vào chúng; đưa ra các biện pháp phòng, chống nhằm ngăn chặn những tác động từ thiên nhiên có thể xâm hại đến tài nguyên du lịch; đấu tranh và xử lý nghiêm minh đối với những thành phần gây hại đến các nguồn tài nguyên du lịch. Còn quá trình tôn tạo tài nguyên du lịch là một trong những hình thức thiết yếu trong việc duy trì sự tồn tại của các nguồn tài nguyên du lịch. Tôn tạo là việc sửa chữa những chỗ bị hư hỏng, mai một của một tài nguyên du lịch nào đó, khôi phục lại những giá trị vốn có của tài nguyên du lịch khiến cho tài nguyên du lịch đó được bảo lưu lâu dài hơn, bền vững hơn. Không chỉ dừng lại ở việc bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch một cách thụ động, các hoạt động khai thác các nguồn tài nguyên du lịch cũng cần được chú ý. Khai thác hợp lý tài nguyên du lịch là việc con người sử dụng các nguồn tài nguyên vào mục đích phục vụ cho phát triển kinh tế du lịch, song
  • 26. 21 cần khai thác sử dụng nó một cách khoa học, trên cơ sở vừa sử dụng đủ và đúng mục đích nhưng vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị của nguồn tài nguyên du lịch đó, để việc sử dụng được diễn ra bền vững, ổn định, tránh tình trạng lạm dụng khai thác triệt để, tài nguyên không kịp phục hồi hay bị mất hẳn. Có thể thấy bên cạnh công tác bảo vệ tài nguyên du lịch thì luôn cần có sự có mặt của công tác tôn tạo và các hành động khai thác hợp lý tài nguyên du lịch. Chỉ có như thế thì việc bảo vệ tài nguyên du lịch mới đạt được hiệu quả cao. Những hành động bảo vệ, tôn tạo, khai thác hợp lý tài nguyên du lịch được thể hiện trước hết ở các văn bản pháp luật có hiệu lực thi hành, cùng với đó là những hành động cụ thể của toàn dân. Nhà nước thống nhất quản lý tài nguyên du lịch trong phạm vi cả nước. Nội dung này cũng được xem là mang tính nguyên tắc của bảo vệ tài nguyên du lịch. C.Mác đã nhấn mạnh: Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều chỉnh những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng [2, tr.480]. “Nhạc trưởng” của xã hội chính là Nhà nước. Theo cuốn Tập bài giảng Nhà nước và pháp luật thì: Chức năng Nhà nước được hiểu là những phương hướng, phương diện hoặc mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước. Chức năng của Nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất nhà nước, do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định [8, tr.29].
  • 27. 22 Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước thực hiện vai trò quản lý của mình đối với xã hội bằng pháp luật. Các lợi ích kinh tế, chính trị và xã hội được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Do đó mà pháp luật luôn do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, nó là công cụ điều chỉnh các quy tắc xử sự, hành vi của con người có hiệu lực nhất. Mặt khác pháp luật quy định những biện pháp nhằm ngăn chặn, trừng phạt những hành vi trái các quy định mà pháp luật quy định. Chính vì thế mà quản lý nhà nước đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đời sống xã hội nói chung, bảo vệ tài nguyên du lịch nói riêng. Trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên du lịch, vai trò của quản lý nhà nước càng trở nên quan trọng và cần thiết, vì xét cả từ khía cạnh bản chất tự nhiên và bản chất pháp lý, tài nguyên du lịch được xem là một loại “hàng hóa công cộng”, phục vụ đời sống tinh thần của đông đảo người dân nên Nhà nước là đại diện “đương nhiên” trong việc quản lý nguồn tài nguyên này. Tính thống nhất trong quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch được thể hiện qua việc Nhà nước ban hành một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch thống nhất, mang tính bắt buộc chung trong toàn xã hội; thành lập một hệ thống thống nhất các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch từ trung ương đến địa phương; xác định thống nhất các nội dung, cách thức, biện pháp quản lý tài nguyên du lịch. Bảo vệ tài nguyên du lịch vừa là mục tiêu, vừa là nội dung cơ bản của sự phát triển bền vững ngành Du lịch. Như đã phân tích ở trên, bảo vệ tài nguyên du lịch có ý nghĩa quyết định đối với phát triển du lịch nói chung, phát triển ngành Du lịch nói riêng. Điều này có ý nghĩa là mọi đường hướng phát triển ngành Du lịch đều coi nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên du lịch là trọng tâm. Mọi chiến lược, dự án, quy hoạch về phát triển du lịch đều phải có nội dung bảo vệ tài nguyên du lịch cũng như việc thực hiện chiến lược, dự án,
  • 28. 23 quy hoạch phát triển du lịch phải căn cứ vào các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch. Bảo vệ tài nguyên du lịch phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với tài nguyên du lịch là chính, kết hợp với khắc phục những hậu quả của việc xâm phạm đến tài nguyên du lịch; kết hợp với đầu tư của Nhà nước với đẩy mạnh nguồn lực trong xã hội trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Cũng như các nguyên tắc chung về bảo vệ môi trường, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với tài nguyên du lịch bao giờ cũng tiết kiệm hơn, bền vững hơn so với khắc phục hậu quả gây ra đối với tài nguyên du lịch. Nhiệm vụ của pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch là phải quy phạm hóa các biện pháp phòng ngừa ngay từ khâu lập kế hoạch, phân vùng phát triển du lịch đến việc khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch… Bên cạnh đó, việc xã hội hóa các nguồn lực bảo vệ tài nguyên du lịch cũng được xem là biện pháp góp phần hiện thực hóa nguyên tắc “bảo vệ tài nguyên du lịch là sự nghiệp của toàn dân”. Bảo vệ tài nguyên du lịch là quyền lợi và nghĩa vụ của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân, là biểu hiện của nếp sống có văn hóa, đạo đức, là tiêu chí đánh giá quan trọng của xã hội văn minh. Bên cạnh những yêu cầu mang tính pháp lý về bảo vệ tài nguyên du lịch như đã phân tích ở trên (trong đó quy định cụ thể phạm vi quyền, quyền lợi, nghĩa vụ của người dân; quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành của Nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch), bảo vệ tài nguyên du lịch còn là những đòi hỏi mang tính đạo đức, thể hiện cách ứng xử văn hóa, văn minh của con người đối với những giá trị nhân văn của tài nguyên du lịch. Chương trình “Đi xuyên Việt để bảo vệ rừng” do Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam tổ chức; Chương trình “Một triệu cây xanh cho Việt
  • 29. 24 Nam” do Tổng cục Môi trường phát động; Chương trình “Hành động giai đoạn 2014 - 2020 triển khai thực hiện Quyết định số 1570/2013/QĐ-TTg ngày 6/9/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030" của Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa... là những ví dụ điển hình về cách ứng xử đầy tính nhân văn đối với tài nguyên du lịch. 1.2.2.2. Quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý xã hội nói chung, quản lý tài nguyên du lịch nói riêng. Bên cạnh việc ban hành các quy định pháp luật về quản lý tài nguyên du lịch là việc hình thành tổ chức bộ máy thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định.  Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung về bảo vệ tài nguyên du lịch Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp là những cơ quan có thẩm quyền chung trong lĩnh vực quản lý bảo vệ tài nguyên du lịch. Trong những năm qua, nhờ sự chỉ đạo thường xuyên, chiến lược phát triển đúng đắn của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp mà lĩnh vực du lịch nói chung, bảo vệ tài nguyên du lịch nói riêng ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động du lịch trên cả nước, đồng thời đề ra các chủ trương biện pháp hiệu quả để khai thác và phát triển du lịch Việt Nam. Luật Du lịch năm 2005 đã quy định: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về du lịch” [14, Điều 11, Khoản 1]. Chính phủ sẽ quyết định chính sách cụ thể về bảo vệ tài nguyên du lịch; phân công nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành liên quan đến bảo vệ tài nguyên du lịch; quyết định xếp hạng các di
  • 30. 25 tích quốc gia đặc biệt... Thủ tướng Chính phủ quyết định việc thành lập bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành; quyết định việc cho phép đưa các bảo vật quốc gia ra nước ngoài; quyết định phê duyệt các kế hoạch quy hoạch tổng thể phát triển ngành, vùng, địa bàn du lịch trọng điểm, khu du lịch quốc gia... Trước đó, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 cũng có quy định về trách nhiệm của Chính phủ trong việc quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng” [12, Điều 8, Khoản 1]; “Chính phủ quy định tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên ngành về lâm nghiệp từ trung ương đến cấp huyện và cán bộ lâm nghiệp ở những xã, phường, thị trấn có rừng” [12, Điều 8, Khoản 4]... Việc quy định rõ chức năng, trách nhiệm riêng biệt của từng cấp nhằm đẩy mạnh phát triển du lịch thực sự trở thành nền kinh tế mũi nhọn, mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động du lịch trong nước và phát triển du lịch quốc tế. Ủy ban nhân dân các cấp với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương nên cũng có vai trò không nhỏ trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Trách nhiệm quản lý, bảo vệ, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch của các cơ quan quản lý nhà nước, Ủy ban nhân dân được quy định ở Luật Du lịch năm 2005, theo đó “Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương, các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý tài nguyên du lịch, phối hợp trong việc bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý và phát triển tài nguyên du lịch” [14, Điều 16, Khoản 1]. Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và theo sự phân cấp của Thủ tướng Chính phủ có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về du lịch tại địa phương, cụ thể hóa chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển bảo vệ tài nguyên du lịch phù hợp với thực tế ở địa phương và có biện pháp bảo đảm an toàn, trật tự, an toàn xã hội tại khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch, tuyến du lịch. Bên cạnh Luật Du
  • 31. 26 lịch 2005, Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 cũng có nhiều quy định về quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng của Ủy ban nhân các cấp: “Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng tại địa phương theo thẩm quyền” [12, Điều 8, Khoản 4]. Cụ thể hơn là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh còn có quyền tổ chức, lập quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định sau khi có ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương; xác định quỹ đất dành cho công trình, kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch trong đô thị; công bố khu du lịch địa phương, điểm du lịch địa phương, tuyến du lịch địa phương sau khi có quyết định công nhận; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo việc thực hiện tổ chức lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể ở địa phương để bảo vệ và phát triển giá trị; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức kiểm kê di tích ở địa phương và lựa chọn, lập hồ sơ khoa học để quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh, trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia;...  Các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn về bảo vệ tài nguyên du lịch Bên cạnh các cơ quan có thẩm quyền chung thì các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Ở cấp Trung ương đó chính là các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan chuyên môn trực thuộc Bộ. Nghị định số 76/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định về nhiệm vụ, quyền hạn Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đối với lĩnh vực du lịch, gồm: Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định về thành lập bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; xếp hạng và điều chỉnh khu vực bảo vệ đối với di tích quốc gia đặc biệt; phê duyệt chủ trương, nhiệm vụ và đồ án quy hoạch tổng thể di tích quốc
  • 32. 27 gia đặc biệt, di tích quốc gia có quy mô đầu tư lớn; xếp hạng di tích quốc gia, bảo tàng hạng I, điều chỉnh khu vực bảo vệ đối với di tích quốc gia; hướng dẫn thủ tục đăng ký di vật, cổ vật, điều kiện thành lập và hoạt động của cơ sở giám định cổ vật; chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan xây dựng cơ chế chính sách huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa [7, Điều 2]. Cũng trong Nghị định này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch còn có trách nhiệm, quyền hạn trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch và quy hoạch du lịch. Cụ thể là: Hướng dẫn, tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển ngành, vùng du lịch, địa bàn du lịch trọng điểm, khu du lịch quốc gia sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt; ban hành Quy chế việc điều tra, đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức điều tra, đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch; quy định về bảo vệ, tôn tạo, phát triển, khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch và môi trường du lịch trong khu du lịch, điểm du lịch quốc gia [7, Điều 2, Khoản 18]. Ngoài ra Nghị định còn quy định quyền hạn và trách nhiệm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch liên quan đến khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch: kinh doanh du lịch... Ngày 13 tháng 3 năm 2014 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 23/2014/QĐ-TTg quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, theo đó: Tổng cục Du lịch là tổ chức trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về du lịch trong phạm vi cả nước, quản lý các dịch vụ công về du lịch theo quy định của pháp luật [22, Điều 1, khoản 1].
  • 33. 28 Hiện nay, Tổng cục Du lịch có nhiều chương trình xúc tiến thương mại trong cả nước cũng như nước ngoài để củng cố hình ảnh Việt Nam trên bản đồ du lịch thế giới. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là phải phát triển, khai thác cân đối giữa bảo vệ tài nguyên du lịch và phát triển du lịch, có như vậy mới xây dựng và duy trì được “nền công nghiệp không khói” xứng đáng với tiềm năng du lịch của Việt Nam. Do tài nguyên du lịch là yếu tố quan trọng trong sự phát triển du lịch nên bên cạnh sự quản lý chung của Tổng cục Du lịch thì Vụ lữ hành thuộc Tổng cục Du lịch có vai trò giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch thực hiện chức năng quản lý và tổ chức thực thi pháp luật về các hoạt động quản lý, khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch. Theo Quyết định số 362/QĐ-TCDL ngày 15 tháng 7 năm 2014 của Tổng cục Du lịch quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ lữ hành thì Vụ lữ hành có nhiệm vụ cụ thể về bảo vệ tài nguyên du lịch: Trình Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch để trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy chế điều tra, đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch; quy định về bảo vệ, tôn tạo, phát triển, khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch và môi trường các khu du lịch, điểm đu lịch quốc gia; quy chế quản lý khu du lịch thuộc ranh giới hành chính từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên; trình Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch quyết định kế hoạch năm năm, kế hoạch hằng năm; tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao liên quan đến bảo vệ tài nguyên du lịch; chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan thẩm định hoặc tham gia thẩm định các chương trình, đề án, dự án liên quan đến lĩnh vực lữ hành, quản lý tài nguyên, loại hình khu, tuyến, điểm và đô thị du lịch; chủ trì, phối hợp với các đơn vị, cơ quan liên quan xây dựng cơ chế, chính sách liên quan đến tài nguyên du lịch, khu, điểm, tuyến và đô thị du lịch; hướng dẫn, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản
  • 34. 29 liên quan khác về quản lý, bảo vệ tài nguyên du lịch; chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng, hướng dẫn, thực hiện chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý, chuyên môn nghiệp vụ về tài nguyên du lịch... Ngoài ra, còn thực hiện một số những nhiệm vụ khác do Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch giao. Ở cấp địa phương, cơ quan chuyên môn về quản lý lĩnh vực du lịch là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Phòng Văn hóa, Thể thao và Du lịch trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 43/2008/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 06 tháng 6 năm 2008 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Văn hoá và Thông tin thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thì: Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo (trừ quảng cáo trên báo chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm) ở địa phương, các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Sở và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và theo quy định của pháp luật [1]. Trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh các dự thảo đề án, dự án, chương trình phát triển văn hoá, gia đình, thể dục thể thao và du lịch; tổ chức thực hiện quy chế, giải pháp huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá tại địa phương sau khi được phê duyệt; hướng dẫn và tổ chức thực hiện các dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích thuộc địa phương quản lý sau khi được phê duyệt; quản lý, hướng dẫn tổ chức
  • 35. 30 các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá, lễ hội truyền thống, tín ngưỡng gắn với di tích, nhân vật lịch sử tại địa phương thẩm định dự án cải tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài khu vực bảo vệ di tích cấp tỉnh có khả năng ảnh hưởng đến cảnh quan, môi trường của di tích [1]; tổ chức công bố quy hoạch sau khi được phê duyệt; tổ chức thực hiện điều tra, đánh giá, phân loại, xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên du lịch của tỉnh theo Quy chế của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; tổ chức lập hồ sơ đề nghị công nhận khu du lịch địa phương, điểm du lịch địa phương, tuyến du lịch địa phương; công bố sau khi có quyết định công nhận; thẩm định hồ sơ đề nghị cấp có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật... Có thể thấy rằng, bộ máy và năng lực quản lý nhà nước về tài nguyên du lịch, hệ thống kinh doanh du lịch ở Việt Nam đang từng bước được kiện toàn, thích ứng dần với cơ chế mới. 1.2.2.3. Quyền hạn và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong bảo vệ tài nguyên du lịch  Trách nhiệm của chủ thể kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch Theo Luật Du lịch 2005: Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường; Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch [14, Điều 4, Khoản 7, 8]. Khu du lịch, điểm du lịch là nơi có nhiều tài nguyên du lịch, nơi mà các hoạt động du lịch có ảnh hưởng tới những tài nguyên du lịch được thể hiện rõ nhất và cũng là nơi công tác bảo vệ tài nguyên du lịch cần phải được quan
  • 36. 31 tâm và chú ý nhất. Ban quản lý khu, điểm du lịch có trách nhiệm quản lý, bảo vệ tài nguyên du lịch. Cũng theo Luật Du lịch năm 2005, “Khu du lịch phải thành lập ban quản lý khu du lịch” [14, Điều 28, Khoản 2]. Ban quản lý có trách nhiệm bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch; đề xuất, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm đối với các cơ sở kinh doanh xâm hại đến tài nguyên du lịch; xây dựng nội dung bảo vệ tài nguyên du lịch, niêm yết tại lối vào và để tại những nơi dễ quan sát trong khu, điểm du lịch; bố trí các cán bộ theo dõi và thực hiện các yêu cầu về bảo vệ tài nguyên du lịch trong khu, điểm du lịch,… Ngoài ra, đối với những nguồn tài nguyên du lịch cụ thể, pháp luật cũng có những quy định cụ thể như sau: Theo Luật Di sản văn hóa năm 2001, tổ chức, cá nhân quản lý trực tiếp di sản văn hóa có các quyền và nghĩa vụ: Bảo vệ, giữ gìn di sản văn hóa; thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm hại di sản văn hóa; thông báo kịp thời cho chủ sở hữu hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi gần nhất khi di sản văn hóa bị mất hoặc có nguy cơ bị hủy hoại; tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham quan, du lịch, nghiên cứu di sản văn hóa; thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật [11, Điều 16]. Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định: “Ban quản lý rừng phòng hộ, Ban quản lý rừng đặc dụng được Nhà nước giao rừng, giao đất để phát triển rừng” [12, Điều 5]. Như vậy, các chủ thể kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch phải có trách nhiệm trong việc bảo vệ các loại tài nguyên du lịch theo quy định của pháp luật. Đây là những chủ thể có tác động trực tiếp đến việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Họ có quyền được khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch nhằm mục đích kinh doanh nhưng bên cạnh đó những chủ thể này phải đảm bảo tài nguyên du lịch được bảo vệ, không được lợi dụng quyền để xâm phạm, hủy hoại tài nguyên
  • 37. 32 du lịch. Đồng thời, cần phải có những biện pháp để ngăn chặn những hành vi xâm phạm tài nguyên du lịch bởi các chủ thể khác.  Trách nhiệm của chủ thể kinh doanh lữ hành Theo Luật Du lịch năm 2005, “Lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch” [14, Điều 4, Khoản 4]. Có thể thấy doanh nghiệp lữ hành là chủ thể tiếp xúc ngay từ đầu với khách du lịch và theo suốt quá trình du lịch của du khách. Doanh nghiệp lữ hành cần có trách nhiệm như: Tuân thủ các yêu cầu về bảo vệ các tài nguyên du lịch khi xây dựng các chương trình du lịch, không tổ chức các chương trình gây tổn hại đến tài nguyên du lịch; đưa nội dung bảo vệ tài nguyên du lịch vào tài liệu hướng dẫn khách du lịch,… Tuy nhiên, pháp luật cũng có những quy định đòi hỏi doanh nghiệp lữ hành có điều kiện tài chính, khả năng nhất định mới có thể được thực hiện như: tham gia các hoạt động bảo vệ tài nguyên du lịch tại địa phương nơi doanh nghiệp tổ chức chương trình du lịch,… Như vậy, để thực hiện tốt công tác bảo vệ tài nguyên du lịch trong quá trình tiến hành các hoạt động du lịch, trách nhiệm này của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành mang ý nghĩa to lớn. Cùng với hoạt động hướng dẫn du khách tham quan các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh hay thưởng thức cái đẹp tự nhiên, các hướng dẫn viên du lịch cũng đồng thời là những người tuyên truyền, phổ biến các quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch, ngăn cản những hành vi gây tác động xấu cho môi trường nơi tiến hành du lịch của du khách.  Trách nhiệm của chủ thể kinh doanh dịch vụ du lịch khác Như trên đã phân tích, tài nguyên du lịch của Việt Nam hết sức phong phú, bao gồm từ cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch. Sự phong phú về các
  • 38. 33 nguồn tài nguyên du lịch kéo theo sự đa dạng về các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch. Cùng với các công ty lữ hành, cơ sở lưu trú, các doanh nghiệp vận chuyển khách du lịch, những chủ thể kinh doanh dịch vụ tại bãi tắm, chủ thể kinh doanh trong rừng đặc dụng hay các tổ chức, cá nhân kinh doanh tại các hoạt động xã hội, liên hoan du lịch (gọi chung là những chủ thể kinh doanh dịch vụ du lịch khác) cũng có trách nhiệm nhất định trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Đối với loại hình du lịch biển đảo thì việc bảo vệ tài nguyên ở biển, bãi tắm là rất quan trọng. Theo đó, các chủ thể này cũng phải có trách nhiệm trong hoạt động để bảo vệ tài nguyên du lịch, không được tiến hành các hoạt động gây ảnh hưởng hay làm xấu đến tài nguyên du lịch biển, không được đánh bắt thủy sản, neo đậu phương tiện bắt thủy sản tại các bãi tắm. Đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch trong rừng đặc dụng thì cần phải tuân thủ các quy định không đánh bắt, bẫy, bắt động vật hoang dã theo quy định của pháp luật; không tổ chức các hoạt động gây tiếng ồn và quấy nhiễu hoạt động bình thường của loài động vật hoang dã; không đưa thực vật lạ vào chăn thả, nuôi trồng ở khu, điểm du lịch; không mang hóa chất độc hại chất nổ, chất dễ gây cháy rừng; thường xuyên phổ biến, giáo dục cho du khách, cộng đồng dân cư trong khu, điểm du lịch về bảo vệ đa dạng sinh học, phòng và chống cháy rừng. Ngoài ra trong quá trình tiến hành các hoạt động lễ hội, liên hoan du lịch, ban tổ chức phải khoanh vùng, hạn chế khách du lịch vào tham quan khu du lịch có hệ sinh thái nhạy cảm, có biện pháp tránh tập trung lực lượng khách quá lớn tại một thời điểm để tránh những tác động xấu có thể xảy ra đối với tài nguyên du lịch. Có thể nói, pháp luật đã quy định khá rõ ràng và cụ thể trách nhiệm của các tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch. Những quy định trên vừa tạo nên sự phối hợp đồng bộ giữa các chủ thể trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch, đồng thời tránh được tình trạng trông chờ, ỷ lại trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch.
  • 39. 34  Trách nhiệm của khách du lịch và cộng đồng dân cư Khách du lịch bao gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế. Đây là đối tượng quan trọng có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến tài nguyên du lịch. Theo Khoản 3 Điều 16 Luật Du lịch năm 2005, khách du lịch, cộng đồng dân cư có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch. Tuy nhiên, khách du lịch có đặc thù là đến từ nhiều quốc gia; chỉ đến du lịch trong một khoảng thời gian nhất định; không am hiểu hoặc biết về pháp luật Việt Nam... nên cần có những quy định riêng đối với khách du lịch về bảo vệ tài nguyên du lịch. Khách du lịch có nghĩa vụ tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam về an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tôn trọng và giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, môi trường, tài nguyên du lịch, bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục nơi đến du lịch; thực hiện nội quy, quy chế của khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch về bảo vệ tài nguyên du lịch,… Lượng khách du lịch đến nước ta ngày càng nhiều nên việc giáo dục ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch cho du khách đóng một vai trò vô cùng quan trọng và là điều kiện cơ bản để phát triển du lịch bền vững. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền phổ biến bảo vệ tài nguyên du lịch ở nước ta thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức. Du lịch mang lại thu nhập ngày một lớn cho xã hội. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân, mang lại thu nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà gián tiếp đối với các ngành liên quan, xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập cho cộng đồng dân cư địa phương. Cộng đồng dân cư có liên quan trực tiếp đến lợi ích do du lịch mang lại nên cộng đồng dân cư đóng vai quan trọng trong bảo vệ tài nguyên du lịch. Cộng đồng dân cư là chủ thể sinh sống, cư trú gắn liền với tài nguyên
  • 40. 35 du lịch. Hoạt động của các chủ thể này tác động rất lớn đến tài nguyên du lịch. Cộng đồng dân cư có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch theo Luật Du lịch. Tại các khu, điểm du lịch cộng đồng dân cư tham gia ở mức độ khác nhau vào hoạt động du lịch. Cộng đồng dân cư cũng cần có trách nhiệm trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch, tuyên truyền cho khách du lịch trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. 1.2.3. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống kinh tế xã hội và đã trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia và là một thói quen trong nếp sống sinh hoạt của xã hội hiện đại. Có nước coi du lịch là nguồn thu chủ yếu, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, có nước coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, có sức hút đối với nhiều ngành. Ở Việt Nam, ngay từ năm 1960 ngành Du lịch đã ra đời đánh dấu nhận thức của Đảng và Nhà nước về triển vọng kinh tế này. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, đặc biệt trong thời kì hội nhập, du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về phát triển du lịch với các nước trong khu vực trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Để thúc đẩy được ngành Du lịch phát triển Nhà nước cần phải có những cơ sở pháp lý để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong ngành Du lịch. Một trong những yếu tố quan trọng của ngành Du lịch đó là cần phải bảo vệ những tài nguyên du lịch do tài nguyên du lịch là bộ phận hình thành nên các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch. Chính vì vậy, quá trình hình thành và phát triển pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch gắn với quá trình hình thành và phát triển pháp luật về du lịch. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch được chia thành hai giai đoạn:
  • 41. 36 1.2.3.1. Từ năm 1960 đến năm 1999 Ngành Du lịch Việt Nam ra đời năm 1960 trên cơ sở Nghị định 26/NĐ- CP ngày 09 tháng 07 năm 1960 của Chính Phủ, với mục đích phục vụ chủ yếu cho khách nội địa đó là những công dân có thành tích trong chiến đấu, học tập, lao động được đi nghỉ mát, điều dưỡng. Năm 1978, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 262 NQ/QHK6 ngày 27 tháng 6 năm 1978 thành lập Tổng cục Du lịch trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong quá trình phát triển ngành Du lịch Việt Nam. Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định 32/CP ngày 23 tháng 01 năm 1979 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch. Năm 1981 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 157/CP ngày 13 tháng 04 năm 1981 quy định công tác du lịch trong đó quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ Tổng cục Du lịch. Cũng năm 1981 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO). Năm 1986 Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đề ra chủ trương đổi mới nền kinh tế, với chính sách mở cửa “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước”. Du lịch Việt Nam đã thực sự có điều kiện khởi sắc. Trong thời kì này, cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, ngành Du lịch Việt Nam đã từng bước khắc phục những khó khăn để ra sức phấn đấu thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước. Trải qua nhiều thay đổi về tổ chức ngành, từ chỗ ngành Du lịch được hợp nhất với Bộ Văn hóa, Bộ Thông tin, Tổng cục Thể dục thể thao tạo thành Bộ Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch quản lý nhà nước theo Quyết nghị số 244/QĐ-HĐNN ngày 31 tháng 3 năm 1990. Ngày 12/8/1991 Quốc hội quyết định chuyển chức năng quản lý nhà nước đối với ngành Du lịch sang Bộ Thương mại và Du lịch. Năm 1992 Chính phủ ban hành Nghị định
  • 42. 37 05/CP ngày 26 tháng 10 năm 1992 về thành lập Tổng cục Du lịch và ban hành các Nghị định quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch. Như vậy, có thể thấy từ khi ra đời ngành Du lịch, Nhà nước mới bước đầu đã ban hành các văn bản pháp lý quy định về việc thành lập các cơ quan quản lý của ngành Du lịch và các quy định về chức năng quyền hạn của các cơ quan mà chưa có các quy định cụ thể về các vấn đề liên quan đến du lịch như hoạt động du lịch, tài nguyên du lịch, khách du lịch,… Thời kì này quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch chưa xuất hiện. Sau một thời gian ra đời, được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, với chính sách mở cửa của Nhà nước, sự phối hợp hỗ trợ của các cấp ngành, đoàn thể và sự cố gắng nỗ lực của cán bộ công nhân viên toàn ngành, nên du lịch Việt Nam đã đạt được các kết quả đáng ghi nhận. Đến năm 1999, một sự kiện pháp lý quan trọng đánh dấu sự thay đổi của bộ mặt ngành Du lịch Việt Nam đó là Quốc hội ban hành Pháp lệnh Du lịch - lần đầu tiên ở Việt Nam du lịch được điều chỉnh bằng những nguyên tắc, quy phạm pháp luật trong một văn bản thống nhất có hiệu lực cao. Pháp lệnh Du lịch năm 1999 là văn bản pháp lý đầu tiên thống nhất các quy định về du lịch. Đây cũng là lần đầu tiên những quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch được đề cập. Với 9 chương, 56 điều, Pháp lệnh Du lịch đã từng bước đi vào cuộc sống, hướng và điều chế các quan hệ trong hoạt động du lịch ở Việt Nam theo đường lối đổi mới của Đảng trên cơ sở thực hiện Pháp lệnh Du lịch, du lịch Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn. Pháp lệnh Du lịch là chỗ dựa pháp lý cho các doanh nghiệp làm du lịch và người làm du lịch Việt Nam. Từ khi ban hành Pháp lệnh Du lịch, Tổng cục Du lịch đã trình Chính phủ ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh như Nghị định
  • 43. 38 47/2001/NĐ-CP ngày 10 tháng 8 năm 2001 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Thanh tra du lịch; Nghị định 50/2002/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch; Nghị định 94/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm 2003 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch;… Các quy định về tài nguyên du lịch và bảo vệ tài nguyên du lịch cũng đã được ghi nhận trong văn bản này. Theo Pháp lệnh thì tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch. Vấn đề bảo vệ, khai thác, sử dụng và phát triển tài nguyên du lịch được quy định tại Chương II (gồm 6 điều) của Pháp lệnh. Pháp lệnh xác định bảo vệ tài nguyên du lịch là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bao gồm các nội dung sau: Thứ nhất, trách nhiệm thuộc về các cơ quan quản lý tài nguyên du lịch Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp quản lý tài nguyên du lịch và tài nguyên liên quan đến du lịch có trách nhiệm phối hợp trong việc bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý và phát triển tài nguyên du lịch [24, Điều 12]. Thứ hai, trách nhiệm thuộc về các cơ quan, tổ chức, cá nhân. “Cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch” [24, Điều 13]. Thứ ba, trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch thuộc về tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch. “Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch có trách
  • 44. 39 nhiệm bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên du lịch và bảo vệ môi trường tại khu du lịch, tuyến du lịch, điểm du lịch” [24, Điều 14]. Ngoài ra, còn có quy định về việc: Nhà nước đầu tư cho việc điều tra cơ bản về tài nguyên du lịch ưu tiên đầu tư cho các dự án bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch tại các điểm du lịch, khu du lịch; có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào việc bảo vệ, tôn tạo, sử dụng và phát triển tài nguyên du lịch [24, Điều 16]. Như vậy, Pháp lệnh Du lịch là văn bản pháp lý đầu tiên điều chỉnh các vấn đề về du lịch bằng những nguyên tắc, quy phạm pháp luật trong một văn bản thống nhất. Đây cũng là lần đầu tiên có các quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch. Sau một thời gian, kể từ khi ngành Du lịch được Nhà nước quan tâm và chú trọng thì pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Từ việc Nhà nước mới chỉ có những văn bản pháp lý quy định về việc thành lập Tổng cục Du lịch cũng như các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch đến ban hành một văn bản pháp lý có hiệu lực cao quy định về các vấn đề cơ bản nhất của du lịch. Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch trong thời gian đầu chưa được chú trọng và có những quy định cụ thể bởi thời gian đó ngành Du lịch Việt Nam mới được thành lập nên cần có những quy định về công tác quản lý nhà nước về du lịch, quy hoạch tổng thể về du lịch triển khai thực hiện. Khi Pháp lệnh Du lịch ra đời thì quy định về bảo vệ tài nguyên môi trường lần đầu tiên được đưa ra. Pháp luật bắt đầu có những quy định cơ bản về trách nhiệm của các chủ thể trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Tuy nhiên, sau quá trình ban hành Pháp lệnh Du lịch và thực hiện trên thực tiễn đã thấy xuất hiện những hạn chế, bất cập nhất định về bảo vệ tài nguyên du lịch. Do việc quản lý và bảo vệ tài nguyên du lịch
  • 45. 40 gắn với các khu, điểm du lịch trên thực tế do nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc do các Bộ, ngành, địa phương khác nhau được phân công quản lý nên việc chồng chéo hoặc thiếu sự thống nhất là điều khó tránh khỏi. Trên thực tế vẫn tồn tại nhiều lộn xộn trong hoạt động kinh doanh, khai thác, không đảm bảo trật tự, vệ sinh, an toàn tại khu, điểm du lịch. Pháp lệnh đã quy định về trách nhiệm của các cơ quan khác nhau, song các quy định này còn ở mức chung, chưa cụ thể với từng cơ quan có trách nhiệm quản lý tài nguyên du lịch khác nhau (tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch cách mạng,…). Nhìn chung các Luật đã ban hành về bảo vệ tài nguyên du lịch như Luật Bảo vệ di sản văn hóa, Luật Bảo vệ và phát triển rừng,… đã thể chế hóa cơ chế quản lý, bảo vệ các loại tài nguyên du lịch nhưng các luật thiếu những quy định gắn việc bảo vệ và phát triển du lịch, chưa thấy phát triển du lịch là yếu tố và phương thức quan trọng để bảo vệ, phát huy và phát triển tài nguyên du lịch. 1.2.3.2. Từ năm 1999 đến nay Trong giai đoạn này, bước phát triển rõ nét của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch được đánh dấu bằng sự ra đời của Luật Du lịch năm 2005. Trước đó, ngay sau khi Pháp lệnh Du lịch năm 1999 được ban hành cũng đã nhiều văn bản pháp luật quy định về việc bảo vệ các tài nguyên du lịch, như Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004,… Các đạo luật trên cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo thành một hệ thống các quy định tương đối đồng bộ về bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa; bảo vệ tài nguyên rừng để phục vụ phát triển du lịch; thúc đẩy ngành Du lịch phát triển. Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai thực hiện Pháp lệnh Du lịch cho thấy nhiều quy định của văn bản này không còn phù hợp với thực tiễn cũng như quy định của một số đạo luật có liên quan. Ở nhiều nơi tài nguyên du lịch bị xâm phạm, xuống cấp; cảnh quan, môi trường bị suy giảm; an ninh trật tự chưa tốt; hiện tượng chèo kéo, đeo bám khách du lịch vẫn diễn ra phổ biến,
  • 46. 41 ảnh hưởng tới sự hấp dẫn đối với khách du lịch... Điều này làm nảy sinh nhu cầu cần phải ban hành một văn bản có giá trị pháp lý cao hơn, nhằm đảm bảo sự đồng bộ, tương thích trong hệ thống pháp luật và tạo sự phát triển nhanh, bền vững cho ngành Du lịch Việt Nam. Luật Du lịch năm 2005 được ban hành trong bối cảnh đó. Nguyên tắc phát triển bền vững, đặc biệt là việc bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên du lịch cần phải được ghi nhận là nguyên tắc xuyên suốt trong Luật Du lịch năm 2005. Bên cạnh đó là những quy định cụ thể hơn về việc bảo vệ, sử dụng và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên du lịch, làm rõ trách nhiệm và sự phối hợp của các ngành, các cấp trong việc quy hoạch phát triển và quản lý nhà nước đối với tài nguyên du lịch; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư trong việc bảo vệ, sử dụng và khai thác tài nguyên du lịch đi đôi với bảo vệ môi trường, xây dựng môi trường du lịch trong sạch, văn minh, an toàn, đặc biệt tại các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch. Luật Du lịch năm 2005 có 11 chương, 88 điều, bao gồm các quy định về nội dung và những nguyên tắc cơ bản, cơ sở pháp lý cơ bản của du lịch Việt Nam. Việc xây dựng Luật Du lịch năm 2005 dựa trên những cơ sở quán triệt các quan điểm sau: Thứ nhất, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về phát triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, kích thích đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo ở những vùng có tiềm năng phát triển du lịch. Thứ hai, việc xây dựng Luật Du lịch kế thừa các quy định phù hợp với thực tế và đang phát huy hiệu quả của Pháp lệnh Du lịch, đồng thời khắc phục được những bất cập, thiếu sót của Pháp lệnh Du lịch, hạn chế những quy định chung chung có tính tuyên ngôn, ít tính quy phạm của văn bản. Thứ ba, thể hiện được quan điểm phát triển bền vững, thể hiện được
  • 47. 42 đặc điểm của du lịch là lĩnh vực có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp đối với phát triển du lịch và thu hút mọi thành phần kinh tế trong xã hội tham gia phát triển du lịch. Thứ tư, phù hợp với thông lệ quốc tế và tiến trình hội nhập của Việt Nam trong khu vực và quốc tế. Các quy định cần thể hiện những đặc thù hoạt động dịch vụ, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, khắc phục được các hành vi vi phạm trong kinh doanh, bảo vệ tài nguyên và bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền và lợi ích của khách du lịch, nâng cao hình ảnh của du lịch Việt Nam. Như vậy, tính đến thời điểm này, bên cạnh Luật Du lịch năm 2005 còn có nhiều luật chuyên ngành điều chỉnh về một số khía cạnh cụ thể của bảo vệ tài nguyên du lịch, như Luật Di sản Văn hóa năm 2001; Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004; Luật Khoáng sản năm 2000; Luật Tài nguyên nước năm 2012, Luật Biển Việt Nam năm 2012; Luật Bảo vệ môi trường năm 2014... Tất cả đã tạo thành một hệ thống văn bản vừa có những quy định chung về việc bảo vệ các loại tài nguyên du lịch và trách nhiệm của các chủ thể trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch vừa có những quy định riêng đối với việc bảo vệ từng loại tài nguyên du lịch khác nhau. Đây là bước phát triển quan trọng của pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch nói riêng và pháp luật về du lịch nói chung.
  • 48. 43 Kết luận chương 1 Những phân tích trên đã cho thấy ý nghĩa, tầm quan trọng của bảo vệ tài nguyên du lịch đối với sự phát triển của ngành Du lịch nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng. Tài nguyên du lịch chính là đối tượng, nguồn lực quan trọng nhất, mang tính quyết định đến sự phát triển của ngành Du lịch. Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch gắn với sự hình thành và phát triển pháp luật về du lịch. Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch quy định những vấn đề cơ bản nhất về bảo vệ tài nguyên du lịch, từ nguyên tắc bảo vệ tài nguyên du lịch đến quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể trong bảo vệ tài nguyên du lịch. Theo thời gian, pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch đã có những phát triển đáng ghi nhận, đóng góp lớn vào việc sự phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam; giữ gìn và phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển dịch vụ du lịch nói riêng.
  • 49. 44 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch 2.1.1. Những ưu điểm của pháp luật trong bảo vệ tài nguyên du lịch Như đã đề cập ở Chương 1, thời gian qua công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, và trên thực tế hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này đã và đang phát huy được những tác dụng nhất định trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ quá trình con người tác động vào các nguồn tài nguyên du lịch. Sự đóng góp của pháp luật trong công tác bảo vệ tài nguyên du lịch được xem xét từ cả hai góc độ: Những đóng góp chung và đóng góp đối với từng nguồn tài nguyên, cụ thể: 2.1.1.1. Những đóng góp chung của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch có hiệu lực pháp lý cao, đủ mạnh để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên du lịch, nhờ đó mà hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên du lịch được nâng cao rõ rệt, trong đó nổi bật nhất là Luật Du lịch năm 2005. Sự ra đời của đạo luật này khẳng định một bước tiến lớn về khuôn khổ pháp lý; tạo cơ sở cho việc Nhà nước ban hành các chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch; cùng với đó là việc triển khai các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án... rộng khắp trên phạm vi cả nước. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch được tăng cường; cơ sở hạ tầng, các trung tâm, điểm đến du lịch, khu nghỉ dưỡng, khách sạn, khu giải trí được khuyến khích đầu tư; các tuyến du lịch và các loại hình du lịch đa dạng phát triển nhanh chóng… đã thực sự tạo ra một diện mạo mới cho du lịch Việt Nam.
  • 50. 45 Như vậy, đóng góp lớn nhất của hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch là đã hình thành được những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc huy động sự tham gia của các ngành, các cấp và toàn dân vào việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Thứ hai, hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch của Việt Nam đang ngày càng được hoàn thiện. Rà soát các quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch cho chúng ta thấy những quan hệ xã hội cơ bản phát sinh trong hoạt động bảo vệ tài nguyên du lịch đã được điều chỉnh bằng pháp luật. Cụ thể là trong mối quan hệ quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch, pháp luật đã quy định khá đầy đủ các nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước đối với tài nguyên du lịch. Hình thành hệ thống các thiết chế về bảo vệ tài nguyên du lịch ở cấp trung ương, địa phương; quy định quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch; quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khác trong xã hội về bảo vệ tài nguyên du lịch trong hoạt động du lịch, bảo vệ tài nguyên du lịch tại các điểm du lịch, khu du lịch; quy định các biện pháp bảo vệ tài nguyên du lịch trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch; quy định những nguyên tắc và nội dung cơ bản trong hợp tác quốc tế về bảo vệ tài nguyên du lịch; quy định về bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch gây ra; quy định về việc khen thưởng và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch... Ngoài ra, đối với từng loại tài nguyên du lịch lại có những văn bản quy định riêng về bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch đó, nhằm bổ sung, hỗ trợ cho các quy định chung nêu trên. Thứ ba, hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam đã đảm bảo tính công khai, minh bạch. Hoạt động bảo vệ tài nguyên du lịch sẽ khó đạt được hiệu quả mong
  • 51. 46 muốn nếu như thiếu cơ chế huy động sự tham gia rộng rãi của người dân vào hoạt động bảo vệ tài nguyên du lịch. Một trong những biện pháp tạo tiền đề để người dân cùng tham gia bảo vệ tài nguyên du lịch là việc công khai hóa các thông tin về hoạt động bảo vệ tài nguyên du lịch để người dân, các cơ quan thông tấn, báo chí có điều kiện cùng giám sát việc chấp hành pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch của cơ quan nhà nước, các tổ chức, cơ quan hữu quan. Để đáp ứng yêu cầu dân chủ hóa quá trình bảo vệ tài nguyên du lịch, pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch đã có những quy định quan trọng, như Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định: “Chính phủ quy định, công bố công khai Danh mục thực vật rừng, động vật rừng được nhập khẩu; thực vật rừng, động vật rừng cấm xuất khẩu hoặc xuất khẩu có điều kiện” [12, Điều 44]; Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định: “Công khai thông tin về những nội dung liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước của dự án và những ảnh hưởng có thể gây ra trước khi triển khai thực hiện” [19, Điều 6, Khoản 1]... Như vậy, để đảm bảo cho các chủ thể giám sát việc bảo vệ tài nguyên du lịch có hiệu quả thì cần phải công khai những thông tin cần thiết về các loại tài nguyên, những tiêu chí đánh giá mức độ khai thác tài nguyên du lịch, tránh tình trạng các tài nguyên du lịch bị khai thác bừa bãi, không giữ nguyên được giá trị vốn có của nó. Đồng thời, thông qua những thông tin đó thì chủ thể giám sát có thể bảo vệ được các tài nguyên du lịch. 2.1.1.2. Những đóng góp của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch đối với một số nguồn tài nguyên cụ thể  Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng nói chung và bảo vệ tài nguyên rừng trong phát triển du lịch nói riêng của Việt Nam có một số ưu điểm nổi bật sau:
  • 52. 47 Thứ nhất, đã bước đầu thể hiện quan điểm và cách tiếp cận có hệ thống, phát huy sức mạnh của các cơ quan quản lý nhà nước và toàn thể xã hội trong công tác bảo vệ tài nguyên rừng. Đồng thời, thông qua triển khai cơ chế giao đất, giao rừng, cho thuê rừng cho Ban quản lý rừng, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân gắn họ với việc bảo vệ tài nguyên du lịch rừng. Hiện nay Nhà nước còn thiết lập các Hạt kiểm lâm ở cấp huyện, mạng lưới các Hạt Phúc kiểm lâm sản, Hạt kiểm lâm ở các khu rừng đặc dụng, các Vườn quốc gia đã được thành lập để bảo vệ tài nguyên rừng đặc dụng và tài nguyên du lịch rừng. Thứ hai, công tác quy hoạch tổng thể, rà soát, khai thác và sử dụng hợp lý các tài nguyên rừng đã được Chính phủ và chính quyền địa phương quan tâm, ban hành các văn bản nhằm triển khai công tác quản lý, bảo vệ rừng để đạt hiệu quả cao, điển hình như Ủy ban nhân dân tỉnh Kom Tum đã ban hành Chỉ thị số 05/2008/CT-UBND ngày 25 tháng 7 năm 2008 về việc tăng cường công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 07/2012/QĐ-TTg ngày 08 tháng 02 năm 2012 về ban hành một số chính sách tăng cường công tác bảo vệ rừng; Quyết định số 164/2013/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn ngày 25 tháng 01 năm 2013 ban hành quy chế phối hợp giữa Vườn quốc gia Ba Bể, Công an tỉnh, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong quản lý bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học trên địa bàn Vườn quốc gia Ba Bể; Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành chỉ thị số 02/CT-UBND ngày 26 tháng 02 năm 2014 về việc tăng cường các biện pháp bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng trên địa bàn tỉnh năm 2014;... Việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng đã được ghi nhận và khẳng định trong các văn bản pháp luật như là một xu thể tất yếu của quá trình phát triển. Sự ghi nhận này đã thể hiện cam kết của Việt Nam trong quá trình triển khai và hợp tác quốc tế bền vững trong khu vực và trên toàn thế giới.
  • 53. 48  Pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước Trong thời gian qua, cùng với chủ trương, chính sách pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch nói chung, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm, chỉ đạo việc quản lý, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước. Tài nguyên nước có ý nghĩa quan trọng trong phát triển du lịch biển, sông, hồ, thác nước,… nên Nhà nước đã và đang xây dựng các chiến lược quan trọng đối với việc bảo vệ tài nguyên nước, “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020” như một chương trình hành động trung và dài hạn nhằm đạt được các mục tiêu phát triển và triển khai thực hiện các chính sách có liên quan đến tài nguyên nước. Mục tiêu cơ bản của việc xây dựng “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước” là định hướng cho công tác quản lý, bảo vệ, phát triển, khai thác và sử dụng tài nguyên nước ở Việt Nam phù hợp với các tiêu chí phát triển và chính sách đã phê duyệt. Bên cạnh đó, “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước” góp phần kiểm chứng các tiêu chí và chính sách để có thể đề xuất những nội dung chính sách và pháp luật nhằm điều chỉnh phù hợp quá trình quản lý, bảo vệ, phát triển, khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên nước. Luật Tài nguyên nước năm 2012 được coi là cơ sở pháp lý quan trọng, cùng với văn bản pháp luật khác có liên quan tạo thành hệ thống pháp luật bảo vệ tài nguyên nước ở Việt Nam. Luật quy định trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước trong quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên nước: Bảo vệ tài nguyên nước là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân và phải lấy phòng ngừa là chính, gắn với việc bảo vệ, phát triển rừng, khả năng tái tạo tài nguyên nước, kết hợp với bảo vệ chất lượng nước và hệ sinh thái thủy sinh, khắc phục, hạn chế ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước [19, Điều 3, Khoản 4]. Hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước đã được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện, đồng thời phát huy vai trò tích cực trong việc huy động các nguồn lực xã hội bảo vệ tài nguyên nước.
  • 54. 49 Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan đã từng bước đưa công tác quản lý và sử dụng các nguồn nước hợp lý, tiết kiệm nguồn nước, tránh gây ô nhiễm và làm cạn kiệt nguồn nước gây ảnh hưởng xấu đến cảnh quan du lịch ở từng địa phương nói riêng và trong cả nước nói chung. Sau khi ban hành Luật Tài nguyên nước năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 201/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2013 quy định chi tiết một số điều của Luật Tài nguyên nước năm 2012; Quyết định số 459/QĐ-TTg ngày 02 tháng 4 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước; Thông tư số 52/2014/TT-BTNMT ban hành ngày 9 tháng 9 năm 2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Quy định về phân cấp trữ lượng và cấp tài nguyên nước khoáng, nước nóng thiên nhiên; ngày 24 tháng 9 năm 2014 Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 56/2014/TT-BTNMT quy định điều kiện năng lực của tổ chức, cá nhân thực hiện điều tra cơ bản tài nguyên nước, tư vấn lập quy hoạch tài nguyên nước, lập đề án, báo cáo, trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép tài nguyên nước... Ở địa phương, chính quyền các cấp cũng ban hành nhiều văn bản pháp quy, quy định để nâng cao công tác quản lý, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước như Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ban hành Quyết định số 3594/QĐ-UBND ngày 28 tháng 12 năm 2012 về việc phê duyệt Quy hoạch tài nguyên nước tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010 - 2020, định hướng đến năm 2030; Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam đã ban hành Quyết định số 37 ngày 03 tháng 11 năm 2014 về việc ban hành Quy định quản lý tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; Chỉ thị số 08 ngày 9 tháng 10 năm 2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đăk Lăk về việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk; Quyết định số 1107/QĐ-UBND ban hành ngày 18 tháng 4 năm 2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai phê duyệt Thiết lập kỹ thuật và dự toán nhiệm vụ “Quan trắc nước mặt trên địa bàn tỉnh Đồng Nai năm 2014”...
  • 55. 50 Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước dành cho việc bảo vệ tài nguyên nước không những đã góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện và từng bước nâng cao mức sống cho người dân mà còn đảm bảo cho con người quyền được sống trong một môi trường lành mạnh. Pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước đã thể hiện sâu sắc quan điểm bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên nước, phòng chống và khắc phục hậu quả, tác hại do nguồn nước gây ra phải tuân thủ theo quy hoạch lưu vực sông, bảo đảm tính hệ thống của lưu vực, không chia cắt theo địa giới hành chính. Bên cạnh Luật Tài nguyên nước năm 2012, Luật Biển Việt Nam năm 2012 đã có những quy định về trách nhiệm tổ chức, cá nhân trong việc giữ gìn và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển: “Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ mọi quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan đến việc gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển” [18, Điều 35, Khoản 1]. Điều này bắt nguồn từ nhận thức về vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của nguồn tài nguyên biển đối với phát triển đất nước nói chung, phát triển du lịch biển nói riêng. Tại Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X), Nghị quyết số 09- NQ/TW ngày 9 tháng 2 năm 2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” đã được thông qua. Tiếp đến hàng loạt các văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành đã góp phần nâng tầm cao mới của biển cũng như tăng cường trách nhiệm quản lý bảo vệ tài nguyên du lịch biển, như Nghị định số 25/2009/NĐ-TTg ngày 26 tháng 3 năm 2009 của Chính phủ về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo; Quyết định số 568/QĐ-TTg ngày 28 tháng 4 năm 2010 của Thủ tướng về việc phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế biển, đảo Việt Nam đến năm 2020; đặc biệt là ngày 01 tháng 03 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ đã kí Quyết định số 47/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và
  • 56. 51 quản lý tài nguyên - môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020”... Đặc biệt, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3 tháng 6 năm 2013 Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 có chương riêng về bảo vệ môi trường biển và hải đảo (Chương V), bao gồm quy định chung về bảo vệ môi trường biển và hải đảo, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường biển và hải đảo, điều này có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý, khai thác các tài nguyên biển nói chung và tài nguyên biển phục vụ cho mục đích khai thác du lịch nói riêng. Để phát triển bền vững và bảo vệ tài nguyên biển nước ta, trên cơ sở các định hướng chung của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, cần có một chiến lược toàn diện về tài nguyên và môi trường biển. Chiến lược xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường đồng hành với quá trình đẩy nhanh các hoạt động kinh tế biển, gắn với bảo vệ an ninh, chủ quyền và quyền chủ quyền biển, đảo của nước ta. Đẩy mạnh điều tra, khảo sát, nghiên cứu để hiểu hơn về biển, củng cố thông tin về tài nguyên và môi trường biển, tiến tới hiểu rõ về tài nguyên dưới đáy biển, tiềm năng băng cháy, khả năng ứng dụng năng lượng thuỷ triều, sóng biển…; bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái biển; bố trí không gian và phát triển các vùng biển phù hợp với sinh thái của từng vùng; phát triển các ngành kinh tế biển bền vững; kiểm soát các nguồn ô nhiễm từ đất liền; phòng ngừa ô nhiễm từ các hoạt động trên biển và ô nhiễm xuyên biên giới; phòng chống thiên tai, ứng phó với tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và nước biển dâng sẽ là các nội dung quan trọng của chiến lược. Trên tinh thần đó chính quyền địa phương các cấp cũng đã ban hành nhiều văn bản quy định về việc quản lý, khai thác sử dụng cũng như bảo vệ tài nguyên biển
  • 57. 52 một cách tốt nhất như việc Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau đã ban hành Quyết định số 21/QĐ-UBND ngày 8 tháng 1 năm 2014 về ban hành quy chế phối hợp quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo tỉnh Cà Mau; ngày 3 tháng 10 năm 2014 Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng ban hành Kế hoạch số 1824/KH-UBND về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường trong vùng biển huyện Hoàng Sa thành phố Đà Nẵng; Quyết định số 23/2014/QĐ-UBND ngày 17 tháng 11 năm 2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình ban hành quy chế phối hợp quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển trên địa bàn tỉnh Thái Bình; ngày 25 tháng 9 năm 2014 Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã ra Quyết định số 4757/QĐ-UBND ban hành quy chế phối hợp quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo trên địa bàn tỉnh Nghệ An... Bảo vệ tài nguyên du lịch biển là điều cần thiết để du lịch phát triển bền vững. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã tham gia kí kết, gia nhập Công ước quốc tế về biển như: Công ước liên quan đến bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên thế giới; Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; Công ước về đa dạng sinh học năm 1992..., và có nhiều nỗ lực trong việc đàm phán, kí kết các Hiệp định song phương về phân định ranh giới biển với các nước láng giềng có ranh giới trên biển tiếp liền hoặc đối diện, có những vùng chung, chồng lấn với vùng biển Việt Nam. Điển hình là các Tuyên bố và Hiệp định song phương như Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dung để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam năm 1982; năm 2000 Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ, Hiệp định về hợp tác nghề cá trong vịnh giữa hai nước… Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta nhằm tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ của tổ chức phi Chính phủ, cộng đồng quốc tế nói chung và
  • 58. 53 sự phối hợp với các nước có chung nguồn nước nói riêng trong việc khai thác hợp lý và bảo vệ bền vững tài nguyên nước. Bởi các nguồn nước không chỉ phân bố trong phạm vi một nước mà còn vận động theo lưu vực đi qua lãnh thổ nhiều quốc gia. Vì vậy, để bảo vệ và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên nước, hạn chế tác hại do nước gây ra thì cần có sự hợp tác giữa các nước trong lưu vực sông, biển.  Pháp luật về bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học Bảo tồn đa dạng sinh học cũng là vấn đề cần được quan tâm và chú trọng trong hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch do nguồn tài nguyên này cũng đóng góp đáng kể việc phát triển kinh tế du lịch. Hệ thống pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam trong một thời gian dài đã thể hiện được những bất cập lớn, chưa đảm bảo được tính thống nhất, đồng bộ nên hiệu quả áp dụng chưa cao, dẫn đến việc bảo vệ đa dạng sinh học còn hạn chế, chưa duy trì và phát triển hệ thống bảo tồn đa dạng sinh học cũng như tính đa dạng trong hệ thống đa dạng sinh học của quốc gia. Luật Đa dạng sinh học được Quốc hội ban hành ngày 13 tháng 11 năm 2008 đã tạo nên một hành lang pháp lý thống nhất điều chỉnh việc bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học, đáp ứng nhu cầu cấp bách của hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học hiện nay và trong tương lai. Luật đã hoàn thành nhiệm vụ pháp điểm hóa các quy định về bảo vệ đa dạng sinh học được đề cập đến trong nhiều văn bản pháp lý thành một lĩnh vực pháp lý cụ thể, độc lập, hỗ trợ và tạo thế cân bằng với lĩnh vực pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch. Các khía cạnh của đa dạng sinh học cũng như các nội dung của bảo tồn đa dạng sinh học trước đây chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc điều chỉnh ở mức sơ sài, nay được Luật Đa dạng sinh học năm 2008 quy định đầy đủ, toàn diện như vấn đề quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học, vấn đề tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích, vấn đề kiểm soát sinh vật lạ xâm hại, tiếp cận bảo tồn cảnh quan... Ngoài ra Chính phủ đã ban hành Nghị định
  • 59. 54 số 65/2010/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đa dạng sinh học; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 8 tháng 1 năm 2014 về phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Thông tư số 47/2012/TT-BNNPTNT ngày 25 tháng 9 năm 2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về quản lý khai thác từ tự nhiên và nuôi động vật rừng thông thường. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp cũng đã chủ động ban hành các văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học như thời gian gần đây Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 4924/QĐ-UBND ngày 24 tháng 9 năm 2014 về việc phê duyệt “Quy hoạch bảo tồn Đa dạng sinh học thành phố Hà Nội đến năm 2030”; Nghị quyết số 132/2013/NQ-HĐND ngày 12 tháng 12 năm 2013 của Hội đồng nhân dân tỉnh Lạng Sơn về việc thông qua Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học tỉnh Lạng Sơn đến năm 2020; Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương đã ra Quyết định số 293/QĐ-UBND ngày 21 tháng 1 năm 2014 về Phê duyệt kế hoạch hành động bảo vệ đa dạng sinh học tỉnh Hải Dương đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; Quyết định số 2125/QĐ-UBND ngày 13 tháng 8 năm 2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La về việc công bố Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học tỉnh Sơn La đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030;... Pháp luật về đa dạng sinh học hiện nay đã đảm bảo được tính thống nhất nội tại của hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên, phục vụ mục đích phát triển kinh tế bền vững của đất nước, đồng thời góp phần tích cực trong việc duy trì, bảo tồn các nguồn tài nguyên phong phú phục vụ cho sự phát triển hoạt động du lịch của nước ta.  Pháp luật về bảo vệ di sản văn hóa Di sản văn hoá là tài sản vô cùng quý giá của quốc gia, là chất liệu gắn kết cộng đồng dân tộc, khẳng định bản sắc riêng của dân tộc, là cơ sở để sáng
  • 60. 55 tạo những giá trị tinh thần mới và giao lưu văn hoá. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều hoạt động nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá của cha ông, góp phần to lớn vào việc bảo vệ và xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhiều hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá được triển khai thực hiện. Mặc dù còn phải đương đầu với những khó khăn gay gắt về kinh tế - xã hội nhất là sự lan tràn mạnh mẽ của những loại hình văn hóa đồ trụy, lai căng, Đảng và Nhà nước ta vẫn tích cực dành cho công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hoá những sự quan tâm không nhỏ. Thực hiện chương trình quốc gia về văn hoá, trong đó có các mục tiêu liên quan tới việc tu bổ, chống xuống cấp di tích và nghiên cứu tư liệu hoá các di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu, đưa các công trình, di tích vào khai thác phục vụ phát triển du lịch. Như trên đã đề cập, Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2009) đã thể hiện được những điểm tích cực trong việc bảo vệ di sản văn hoá là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được thể chế hoá và cụ thể hoá trong Luật góp phần thúc đẩy quá trình xã hội hoá các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá. Chính sách này được tiến hành đồng thời với việc nâng cao vai trò và trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về bảo vệ di sản văn hoá. Nhận thức của cán bộ và các tầng lớp nhân dân về quyền lợi, trách nhiệm trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã được nâng lên rõ rệt. Cùng với Luật Di sản văn hóa năm 2001 là Nghị định số 98/2010/NĐ- CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản
  • 61. 56 văn hóa; Chỉ thị số 16/CT-BVHTTDL ngày 3 tháng 2 năm 2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc tăng cường công tác chỉ đạo quản lý hoạt động văn hóa, tín ngưỡng tại di tích; Quyết định số 3878/QĐ-BVHTTDL ngày 1 tháng 11 năm 2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Di sản văn hóa; Thông tư số 18/2012/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích;... Nhiều địa phương cũng đã chủ động ban hành các văn bản nhằm triển khai thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ các di sản trên địa bàn quản lý như Quyết định số 38/2013/QĐ-UBND ngày 31 tháng 12 năm 2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái về Ban hành quy định quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Yên Bái; Quyết định số 27/2013/QĐ-UBND ngày 10 tháng 7 năm 2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ban hành quy định quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh; Quyết định số 27/2014/QĐ-UBND ngày 3 tháng 4 năm 2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành quy định quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam, thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Nghệ An; Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định số 21/2014/QĐ-UBND ngày 22 tháng 7 năm 2014 về việc ban hành quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Phú Yên;... Những văn bản pháp luật của Chính phủ, Bộ cùng với những quy chế, quy định của các cấp có thẩm quyền đã bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các chủ thể sáng tạo, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, tương thích với pháp luật quốc tế. Vì vậy, pháp luật về bảo vệ di sản văn hóa đã tạo điều kiện và cơ hội cho các hoạt động quản lý, khai thác, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở nước ta ngày càng thu hút được sự tham gia tích cực của toàn xã hội, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ có hiệu quả của cộng đồng quốc
  • 62. 57 tế. Sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc đã phát huy có hiệu quả đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội; trực tiếp góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và quảng bá hình ảnh đất nước trên thế giới. Pháp luật về Di sản văn hoá cũng đồng thời có những quy định cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hoá, như việc cho phép tổ chức trưng bày cổ vật ở nước ngoài, việc nghiên cứu, sưu tầm các di sản văn hoá của người nước ngoài ở Việt Nam và đặc biệt là việc hợp tác quốc tế để bảo hộ những di sản văn hoá Việt Nam ở nước ngoài. Di sản văn hóa có vai trò to lớn đối với sự phát triển lành mạnh và bền vững của cuộc sống đương đại. Bảo vệ và phát huy giá trị của các di sản là nền tảng, là nguồn động lực cho sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người và của cả cộng đồng. Luật Di sản văn hóa 2001 là cơ sở pháp lý quan trọng, cùng với các văn bản quy phạm pháp luật khác từ trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh việc đổi mới các hoạt động nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá ở Việt Nam, thiết thực góp phần triển khai thắng lợi những đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới đất nước nói chung, cùng xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói riêng. 2.1.2. Những hạn chế của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch 2.1.2.1. Những bất cập chung của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Mặc dù hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch có nhiều ưu điểm và nhiều đóng góp như kể trên, song so với yêu cầu chung của quá trình phát triển kinh tế đất nước nhằm bảo đảm phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, trong đó có phát triển dịch vụ du lịch thì hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, mà điển hình nhất vẫn là Luật Du lịch năm 2005. Cụ thể là: Luật Du lịch năm 2005 mới chỉ quy định vấn đề chung về bảo vệ tài
  • 63. 58 nguyên du lịch, còn các vấn đề cụ thể về bảo vệ tài nguyên du lịch hiện nằm rải rác trong nhiều văn bản mà chưa tạo thành các quy định thống nhất trong lĩnh vực này. Ngoài ra cũng chưa có sự đồng bộ giữa các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch; mối quan hệ “trước, sau”, “trên, dưới” giữa các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch chưa được thể hiện rõ ràng. Trong Luật Du lịch năm 2005 tuy đã có đưa ra quy định về các vấn đề bảo vệ, tôn tạo các tài nguyên du lịch cũng như trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ trung ương đến địa phương; của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân sở hữu quản lý nhà nước; trách nhiệm của cá nhân, khách du lịch, nhưng chỉ mang tính tổng quát. Chưa nêu rõ trách nhiệm của khách du lịch, cá nhân khi đến khu du lịch, khu di tích, điểm du lịch, điểm di tích, cơ sở lưu trú phải có trách nhiệm như thế nào; tổ chức, cá nhân sở hữu, quản lý tài nguyên du lịch có trách nhiệm phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về du lịch song sự phối hợp ấy được quy định như thế nào thì chưa được Luật đề cập đến. Luật Du lịch năm 2005 có đề cập đến trách nhiệm của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch nhưng lại thiếu các quy định để khuyến khích hỗ trợ người dân trong công tác bảo vệ, gìn giữ các nguồn tài nguyên du lịch, đặc biệt là những di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc đang ngày bị mai một. Chưa có khái niệm làm nổi bật được tầm quan trọng của việc cần phải bảo vệ các nguồn tài nguyên du lịch trong khi tài nguyên du lịch là yếu tố quyết định đến sự tồn tại, phát triển của ngành Du lịch. Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 1 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch, trong Chương II - Tài nguyên du lịch, quy hoạch phát triển du lịch, chỉ hướng dẫn chi tiết vấn đề điều tra tài nguyên du lịch, quy hoạch phát triển tổng thể tài nguyên du lịch, công bố quy hoạch phát triển du lịch nhưng lại chưa có quy
  • 64. 59 định chi tiết trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch của từng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, đến các tổ chức, cá nhân quản lý tài nguyên du lịch, các cá nhân, khách du lịch, cá nhân kinh doanh du lịch. Nghị định số 180/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 92/2007/NQ-CP ngày 1 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch, đã bổ sung nội dung quản lý điểm du lịch vào Điều 10 của Nghị định 92/2007, trong đó nêu “đảm bảo vệ sinh môi trường, phòng chống cháy nổ, an ninh, an toàn cho khách du lịch;... công khai quy hoạch cụ thể phát triển điểm du lịch đối với điểm du lịch quốc gia có tài nguyên du lịch tự nhiên...” [6, Điều 1, Khoản 1] song không đề cập đến vấn đề bảo vệ các nguồn tài nguyên du lịch, mặc dù đây là yếu tố cơ bản quyết định đến sự phát triển của các điểm du lịch trong khi Luật Du lịch năm 2005 đã giải thích từ ngữ rằng: “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của du khách” [14, Điều 4, Khoản 8]. Nghị định 16/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 3 năm 2012 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch, trong đó Vi phạm quy định về tài nguyên du lịch, quy hoạch phát triển du lịch đã quy định “mức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi khai thác tài nguyên du lịch trái quy định của pháp luật trong khu du lịch, điểm du lịch hoặc trong khu vực đã được quy hoạch phát triển du lịch” [4, Điều 3] còn mang tính chất chung chung. Vì vấn đề đặt ra là nếu việc khai thác tài nguyên du lịch trái với quy định của pháp luật gây tổn thất rất lớn hơn nhiều lần so với mức xử phạt tối đa là 15.000.000 đồng thì sẽ không đủ sức răn đe, mức phạt đó không thể đủ để bù đắp, khắc phục những hậu quả lớn xảy ra đối với tài nguyên du lịch. Bên cạnh đó chưa có Thông tư hướng dẫn nào quy định chi tiết các vấn đề liên quan đến bảo vệ tài nguyên du lịch, xử lý các hành vi xâm phạm trái phép tài nguyên du lịch.
  • 65. 60 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 không có điều khoản riêng về bảo vệ môi trường đất, đây là thiếu sót lớn trong luật, khi môi trường đất đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động đời sống của chúng ta và trong hoạt động du lịch cũng có rất nhiều nguồn tài nguyên từ đất được khai thác và bảo vệ. Chỉ có việc bảo vệ nguồn đất thì mới có thể bảo vệ được nhiều nguồn tài nguyên du lịch hình thành và tồn tại phục thuộc vào sự tồn tại của môi trường đất. Thiếu các quy định để bảo vệ môi trường tài nguyên đất sẽ dẫn đến nhiều hệ quả xấu, tình trạng làm ô nhiễm môi trường này sẽ ngày càng tăng nếu không có những chế tài thích hợp được quy định. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 ra đời đã khắc phục được nhiều những thiếu sót của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, tuy nhiên Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã không kế thừa Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định nghiêm cấm “các hành vi bị nghiêm cấm khác về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật” [13, Điều 7, Khoản 16] để hạn chế sự lạm dụng nghiêm cấm trong quản lý bảo vệ môi trường. Ngoài ra, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 có quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động lễ hội, du lịch (Điều 77). Tuy nhiên trong Điều 77 này, Luật chỉ nêu ra các quy định đối với tổ chức, cá nhân quản lý, khai thác khu di tích, khu du lịch, điểm du lịch; nghĩa vụ đối với các nhân khi đến khu di tích, điểm di tích, khu du lịch, điểm du lịch "Tuân thủ nội quy, hướng dẫn về bảo vệ môi trường của khu di tích, điểm di tích, điểm du lịch, cơ sở lưu trú, bỏ chất thải đúng nơi quy định, giữ gìn vệ sinh công cộng, không xâm phạm cảnh quan di tích, các loại sinh vật" [20, Điều 77, Khoản 2]... mà chưa quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân quản lý, khai thác khu di tích, khu du lịch, điểm du lịch như trách nhiệm phải tuyên truyền cho các cá nhân đến đây về ý thức bảo vệ môi trường cảnh quan xung quanh, tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường cho những nguồn tài nguyên du lịch. Chưa quy định cụ thể trách nhiệm của các cá nhân khi đến các điểm du lịch, khu du lịch, khu
  • 66. 61 di tích, cơ sở lưu trú liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường, như tố giác các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của những người xung quanh với ban quản lý, tố cáo tổ chức, cá nhân quản lý, khai thác các khu du lịch, di tích, cơ sở lưu trú liên quan đến vi phạm về bảo vệ môi trường tại khu du lịch, địa điểm du lịch, khu di tích và bảo vệ môi trường cho nguồn tài nguyên du lịch được phát triển bền vững. Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009) có hai điều luật quy định liên quan đến vấn đề tài nguyên du lịch là Điều 191 “Vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên” và Điều 272 “Tội vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam, thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên khung hình phạt còn thấp, tại Điều 191, mức hình phạt tù tối đa là mười năm; Điều 272 mức hình phạt tù tối đa là bảy năm "Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm" [16, Điều 272, Khoản 2], trong khi các di tích văn hóa, lịch sử, danh lam, thắng cảnh, các khu bảo tồn thiên nhiên là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên quan trọng, nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế du lịch. Nếu có hậu quả đặc biệt nghiêm trọng xảy ra thì nó không chỉ làm tổn hại lớn đến nguồn tài nguyên này, gây thiệt hại không nhỏ đến kinh tế ngành Du lịch nói riêng và kinh tế, văn hóa của quốc gia nói chung mà còn làm hao hụt những giá trị quý báu vốn có của các nguồn tài nguyên đó, nhưng mức xử phạt cao nhất chỉ dừng lại ở mức mười năm tù. Trong Bộ luật Hình sự chỉ nêu ra các quyết định xử phạt đối với các tài nguyên du lịch tự nhiên (Điều 191), tài nguyên nhân văn mang tính vật thể (Điều 272), còn những loại hình tài nguyên du lịch nhân văn mang tính phi vật thể như Ca trù, Dân ca quan họ, Hát xoan, Đờn ca tài tử, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên... lại chưa được đề cập tới. Loại hình tài nguyên này không chỉ mang lại sự phát triển kinh tế du lịch mà nó còn là biểu
  • 67. 62 tượng cho nền văn hóa dân tộc của đất nước ở từng giai đoạn khác nhau trong lịch sử, nên nó cũng cần được bảo vệ khỏi sự tác động của những thành phần xấu muốn dựa vào văn hóa dân tộc để đả kích, bôi nhọ, phỉ báng để thuyết phục, xúi dục các thế hệ tương lai của đất nước quay lưng lại với văn hóa truyền thống của dân tộc, không ý thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn những giá trị văn hóa, làm mai một đi bản sắc riêng của dân tộc ta. Điều 272 Bộ luật Hình sự quy định mức độ gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng chỉ mang tính chung chung. Cho đến nay chưa có giải thích hay hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng tài nguyên du lịch. Nên việc xác định thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp này, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có thể tham khảo Thông tư số 02/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự 1999 về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả. Tuy nhiên Thông tư này cũng chỉ vẫn mang tính chất chung chung, chủ yếu là thiệt hại về tài sản, thương tích chứ chưa có quy định chi tiết về thiệt hại gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng xảy ra đối với những hậu quả phi vật chất, gây ảnh hưởng lớn đến bản sắc văn hóa dân tộc của đất nước. Hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch là tổng thể các quy định pháp luật bao quát trên cả ba phương diện: Phòng ngừa, hạn chế tác động xấu, khắc phục suy thoái của tài nguyên du lịch; kiểm soát và bảo vệ tài nguyên du lịch trong quá trình tiến hành các hoạt động du lịch; xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp liên quan đến bảo vệ tài nguyên
  • 68. 63 du lịch. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được đặt ra khi bảo vệ tài nguyên du lịch được quan tâm, chú trọng nên các quy định của pháp luật mới tập trung ở phương diện thứ hai. Bên cạnh đó quan điểm về phát triển ngành Du lịch bền vững chưa được thể hiện rõ rệt và nhất quán thông qua chính sách và các công cụ điều tiết của Nhà nước. Các chính sách kinh tế - xã hội còn thiên về tăng trưởng kinh tế của ngành du lịch mà chưa quan tâm đến khai thác và sử dụng tài nguyên du lịch có thể làm suy thoái chúng. 2.1.2.2. Những bất cập của pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch đối với một số tài nguyên cụ thể  Đối với quy định về bảo vệ tài nguyên rừng Điều 53 Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 chỉ quy định về hoạt động kết hợp kinh doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái - môi trường trong rừng đặc dụng nhưng lại không nêu việc kết hợp ấy với vấn đề bảo vệ tài nguyên du lịch trong rừng đặc dụng. Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản đã quy định về vi phạm các quy định về quản lý, bảo vệ động vật rừng trong đó nêu “Người có hành vi săn, bắn, bẫy, bắt; nuôi, nhốt, lấy dẫn xuất từ động vật rừng; giết động vật rừng trái quy định của pháp luật (không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 7 của Nghị định này)” [5, Điều 21] có mức xử phạt cao nhất đến 500.000.000 đồng. Cũng theo đó thì khoản 2 Điều 7 của Nghị định này quy định về “Những hành vi vi phạm (trừ hành vi nuôi động vật rừng nhóm IB) được xem xét để truy cứu trách nhiệm hình sự”, có nêu “... hành vi vi phạm gây hậu quả mà tang vật là thực vật rừng nhóm IA, động vật rừng nhóm IB vượt quá mức xử phạt vi phạm hành chính tối đa quy định tại Điều 21, 22, 23” [5, Điều 7, Khoản 2]. Và mức xử phạt vi phạm hành chính tối đa ở Điều 21 là 500.000.000 đồng. Tuy nhiên
  • 69. 64 ở khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định xử phạt tiền đối với hành vi săn, bắn, giết, vận chuyển, nuôi, nhốt... trái phép các loại động vật trái phép trong danh mục loài nguy cấp, quý hiếm... thì bị phạt tiền đến mức 500.000.000 đồng (theo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSDNTC- BCA-BTP quy định gây thiệt hại tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng sẽ thuộc vào tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng), cũng có nghĩa là gây thiệt hại có giá trị từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng thì sẽ bị xử phạt hình sự 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Điều này cho thấy sự chưa thống nhất, chồng chéo về quy định của các văn bản pháp luật liên quan đến cùng một vấn đề, khi văn bản quy định mức phạt hành chính vượt quá 500.000.000 đồng mới xử phạt hình sự, nhưng một văn bản khác lại có quy định về xử phạt hình sự bằng hình phạt tiền với thiệt hại tài sản có giá trị đến 500.000.000 đồng (khi thiệt hại tài sản từ 50 triệu đồng đến dưới 500.000.000 đồng). Đây là vấn đề bấp cập cần được tháo gỡ, để giúp cho công tác xử lý vi phạm trong bảo vệ các nguồn động vật quý, hiếm được sinh sống và phát triển tốt đồng thời cũng là giúp cho việc bảo vệ nguồn tài nguyên phục vụ cho phát triển du lịch được bền vững.  Đối với quy định về bảo vệ tài nguyên nước Luật Tài nguyên nước năm 2010 cùng với Nghị định số 201/2013 ngày 27 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước đã quy định chi tiết về các vấn đề quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng, phổ biến tuyên truyền giáo dục cho nhân dân kiến thức về tài nguyên nước, điều tra cơ bản, lập ra chiến lược quy hoạch tài nguyên nước, nhưng vẫn chưa có quy định riêng dành cho tài nguyên nước sử dụng trong từng lĩnh vực khác nhau. Nguồn tài nguyên nước phục vụ cho mục đích du lịch cần được bảo vệ nghiêm ngặt trước hết ở các quy định của pháp luật song lại chưa được đề cập chi tiết. Các văn bản quy phạm pháp luật quy định
  • 70. 65 liên quan đến vấn đề tài nguyên biển chưa đề ra cụ thể những hình thức phạt đối với những cá nhân, tổ chức tiến hành hoạt động du lịch làm ảnh hưởng, hủy hoại đến tài nguyên du lịch biển.  Đối với những quy định về di sản văn hóa Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009) còn thiếu quy định để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa có dấu hiệu là di tích và danh thắng đã kiểm kê nhưng chưa được xếp hạng. Một số khu bảo tồn thiên nhiên đã trở thành di tích đặc biệt cấp quốc gia và di sản thiên nhiên thế giới, tuy nhiên Luật Di sản văn hóa chưa đề cập tới công tác quản lý và bảo vệ các di sản này. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 đã sửa đổi, bổ sung Điều 17 của Luật Di sản văn hóa năm 2001, trong đó có quy định “khuyến khích và tạo điều kiện tổ chức, cá nhân nghiên cứu, sưu tầm, lưu giữ, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể” [17, Điều 1, Khoản 4], tuy nhiên Luật lại không quy định việc hướng dẫn, khuyến khích ấy một cách cụ thể, điều này có thể khiến cho nhiều làng nghề bị mai một, nhiều cá nhân không còn theo đuổi lưu giữ những di sản văn hóa phi vật thể nữa. Văn bản gần đây nhất là Nghị định số 62/2014/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ đã ban hành quy định về xét tặng danh hiệu “nghệ nhân nhân dân”, “nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Đây là bước tiến quan trọng nhằm khích lệ cũng như nhằm bảo tồn giá trị văn hóa nhân loại, song do mới được ra đời nên công tác triển khai chưa được rộng rãi, nhiều nghệ nhân chưa được xét tặng và hưởng những chế độ đãi ngộ từ phía Nhà nước.  Đối với những quy định về đa dạng sinh học Luật Đa dạng sinh học năm 2008 quy định “Bộ, cơ quan ngang bộ căn cứ vào quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước tổ chức lập, phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học thuộc phạm vi
  • 71. 66 quản lý” [15, Điều 10, Khoản 2]. Nghị định số 65/2010/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đa dạng sinh học “Căn cứ vào quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước, Bộ, cơ quan ngang bộ có chức năng quản lý nhà nước về bảo tồn đa dạng sinh học có trách nhiệm lập quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học thuộc phạm vi quản lý của mình” [3, Điều 5, Khoản 1] là vấn đề chưa được pháp luật điều chỉnh. Quy định còn mang tính chất chung chung, chưa cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của từng Bộ, cơ quan ngang bộ trong việc lập, phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học. Bên cạnh đó thì Luật Đa dạng sinh học năm 2008 vẫn chỉ có những quy định chung cho các loại sinh học chứ không phân ra từng mục riêng cho các loài sinh vật trên cạn, các loài sinh vật dưới nước. Quy định về bảo vệ sinh vật dưới nước còn sơ xài, chưa đưa ra được những biện pháp để bảo vệ mang tính hiệu quả cao. 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch 2.2.1 Những kết quả đạt được trong việc thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Trước tình trạng tài nguyên du lịch đang ngày càng bị xâm phạm và mai một dần. Đảng và Nhà nước ta không chỉ ban hành nhiều chính sách cũng như các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch mà còn tổ chức thực hiện các chương trình, sự kiện để việc bảo vệ các loại tài nguyên du lịch đạt được kết quả cao hơn. Công tác thực hiện việc bảo vệ các loại tài nguyên du lịch đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, từ phía cơ quan chức năng cũng như ở người dân địa phương và du khách. Thứ nhất, Nhà nước cũng như chính quyền địa phương các cấp đã triển khai thực hiện các chương trình nhằm bảo vệ, phát triển tài nguyên du lịch. Đối với tài nguyên du lịch tự nhiên, các biện pháp bảo vệ tài nguyên du lịch
  • 72. 67 tự nhiên đã được triển khai thực hiện ở một số địa phương và đạt được thành quả nhất định. Thực hiện theo quy định pháp luật về Luật Tài nguyên nước năm 2012, các cơ quan có thẩm quyền đã quản lý về số lượng và chất lượng nước; giữa nước mặt và nước dưới đất; nước trên đất liền và nước vùng cửa sông, nội thủy, lãnh hải; giữa thượng lưu và hạ lưu, kết hợp với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác gắn với bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh và các tài nguyên thiên nhiên khác. Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ nguồn nước do mình khai thác, sử dụng và còn giám sát những hành vi gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước của tổ chức, cá nhân khác. Ngày 17 tháng 10 năm 2014 Hội thảo và Triển lãm quốc tế lần thứ III "Công nghệ quan trắc và dự báo tài nguyên nước” - VACI 2014 do Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước Quốc gia, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội và các tổ chức quốc tế phối hợp tổ chức tại Hà Nội. Đây là hoạt động hưởng ứng Ngày Quan trắc tài nguyên nước Thế giới 18 tháng 10. Hội thảo là nơi hội tụ các công ty, tổ chức, các nhà quản lý của Việt Nam, trong khu vực và quốc tế cùng trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ cơ hội hợp tác và tìm ra các giải pháp mới, nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác quan trắc và dự báo tài nguyên nước; Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên tổ chức các hoạt động cấp quốc gia tại Thái Nguyên từ ngày 15 đến 21 tháng 9 năm 2014, với các hoạt động chính là Lễ phát động quốc gia hưởng ứng Chiến dịch Làm cho Thế giới sạch hơn, các hoạt động trồng cây, thu gom, xử lý rác thải, nước thải, thăm quan mô hình và các hoạt động truyền thông về bảo vệ môi trường đều được thực hiện với chủ đề "Hãy hành động vì một môi trường không rác"; ngày 21 tháng 9 năm 2014, hơn 1.000 người đã tham gia lễ ra quân hưởng ứng chiến dịch "Làm cho thế giới sạch hơn" năm 2014 tại trường trung học cơ sở An Phú Đông, Quận 12, thành phố
  • 73. 68 Hồ Chí Minh. Buổi lễ do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh cùng Ủy ban nhân dân Quận 12 phối hợp tổ chức, có sự tham gia của ông John McAnulty - Tổng lãnh sự Úc tại thành phố Hồ Chí Minh; ngày 17 tháng 9 năm 2014, tại huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh đã ra quân diệt cây mai dương với sự tham gia của hơn 1.000 tình nguyện viên. Cây mai dương vào Việt Nam từ 30 năm nay sống được trên cạn lẫn dưới nước tạo thành thảm cây bụi cao, cản trở dòng chảy, lấn chiếm đất canh tác và làm đất đai bị bạc màu gây ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn tài nguyên nước [38]; Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam với chủ đề “Together we have the power to protect the ocean” (Cùng chung sức - Chúng ta có sức mạnh bảo vệ đại dương) do Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) và thành phố Hải Phòng phối hợp tổ chức trong hai ngày 7 và 8 tháng 6 năm 2014;... Đối với tài nguyên khí hậu: Hầu hết các địa phương đều tiến hành công tác bảo vệ tài nguyên khí hậu, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu như xây dựng và phát triển năng lực giám sát, cảnh báo khí hậu, thiên tai; hoàn chỉnh quy hoạch, đầu tư và hiện đại hóa hệ thống quan trắc, giám sát, cảnh báo về khí tượng thủy văn; xây dựng và phát triển năng lực chủ động phòng, tránh giảm nhẹ thiên tại phù hợp với điều kiện các vùng, địa phương trong bối cảnh biến đổi khí hậu,… Ví dụ: Ninh Thuận là địa phương có 105 km chiều dài bờ biển, luôn phải hứng chịu với hầu hết các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu gây ra, đặc biệt là hiện tượng nước biển dâng. Để đối phó với tình trạng này, ngày 12 tháng 8 năm 2013 Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 13/NQ-TU về chủ động ứ ng phó với biến đổi khí hâ ̣u , tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vê ̣môi trường . Tiếp đó, ngày 17tháng 3 năm 2014 Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 1219/KH-UBND về việc triển khai thực hiê ̣n Nghi ̣quyết số 13/NQ-TU của Ban Thường vụTỉnh ủy. Ủy ban nhân
  • 74. 69 dân tỉnh xác định có 31 nhóm giải pháp, nhiê ̣m vụcụ thể để phân công các sở , ngành và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố phối hợp thực hiện. Theo đó, về ứng phó với biến đổi khí hậu , Ninh Thuận huy đô ̣ng nguồn lực triển khai có hiệu quả các dự án đê biển , đê sông, phòng chống ngập lụt; hạn chế ngập lụt các vùng: ven sông Cái, hạ lưu sông Lu, kênh Bắc, kênh Chàm, kênh Nam và vùng thoát lũ của các hồ chứa thủy lợi [27]; ngày 17 tháng 10 năm 2014, tại Hà Nội, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ Quốc Phòng đã tổ chức hội thảo khoa học “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu trong quân đội” cho các đơn vị khu vực phía Bắc; Về tài nguyên đa dạng sinh vật cũng được các cấp quan tâm thực hiện hành động bảo vệ tài nguyên sinh vật như Ủy ban nhân dân xã Nhơn Hải, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định đã phối hợp với Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi Thủy sản Bình Định và Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển Cộng đồng (MCD) triển khai Chiến dịch truyền thông về bảo vệ môi trường biển, bảo tồn đa dạng sinh học ứng phó với biến đổi khí hậu. Chiến dịch truyền thông được tổ chức trong tháng 5 năm 2014 với những hoạt động chính được triển khai như: Xây dựng và thực hiện chuỗi bài tuyên truyền về bảo vệ rạn san hô, môi trường biển và ứng phó biến đổi khí hậu phát hàng ngày trên đài phát thanh của xã Nhơn Hải; Hoạt động làm sạch bãi biển Nhơn Hải; tổ chức cuộc thi bắt sao biển gai, bảo vệ rạn san hô; tuyên truyền thông qua hình thức thi tiểu phẩm sân khấu về đề tài bảo vệ hệ sinh thái rạn san hô, môi trường biển và biến đổi khí hậu [28]. Ngày 22 tháng 5 năm 2014, tại Hà Nội, Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã phối hợp với Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức Tuần lễ kỷ niệm Ngày Quốc tế về Đa dạng sinh học. Ngày 3 tháng 6 năm 2014, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang kết hợp với Ủy ban nhân dân huyện huyện Gò Công Đông tổ chức Lễ mít tinh và diễu hành tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thành nhằm hưởng ứng
  • 75. 70 Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam 2014 (từ ngày 01 - 08 tháng 6) với chủ đề “Chung tay bảo vệ Đại dương xanh” và Ngày Quốc tế đa dạng sinh học 22 tháng 5 với chủ đề “Chung tay bảo vệ đa dạng sinh học biển đảo”;... Đối với tài nguyên nhân văn, việc thực hiện cơ chế, biện pháp nhằm phát triển du lịch và bảo vệ tài nguyên du lịch như: bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch đã được triển khai tốt. Ở một số địa phương, các công trình, di tích lịch sử văn hóa bị xuống cấp, Nhà nước đã có cơ chế, chính sách hỗ trợ nhằm sửa chữa hỏng hóc, tôn tạo lại, nhằm khôi phục hiện trạng ban đầu, tránh việc mai một, làm mất đi giá trị văn hóa lịch sử của các di tích đó. Ví dụ: Ngôi nhà của ông Trần Đình Khánh, nguyên là Trụ sở Ủy ban Hành chính kháng chiến đầu tiên của tỉnh Yên Bái tại xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên, hiện đang xuống cấp nặng, nhiều hạng mục đã bị mối xông. Đây là một trong bốn điểm di tích nằm trong Cụm di tích lịch sử quốc gia Chiến khu Vần được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử cách mạng Quốc gia ngày 4 tháng 9 năm 1995. Ngay sau khi được công nhận là Di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia, Ủy ban nhân dân huyện Trấn Yên giao cho Ủy ban nhân dân xã Việt Hồng quản lý và khai thác 3 điểm, trong đó có di tích nói trên. Ngày 29 tháng 9 năm 2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái có Quyết định về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình, tu bổ, tôn tạo Di tích lịch sử Chiến khu Vần, trong đó có di tích nhà ông Trần Đình Khánh với trị giá gần 8 tỷ đồng, sau đó có Quyết định điều chỉnh bổ sung vốn vào năm 2009 lên mức 12,7 tỷ đồng. Công trình phục dựng nhà ông Trần Đình Khánh do Công ty cổ phần Tu bổ di tích và thiết bị văn hóa Trung ương thực hiện, khởi công từ tháng 9/2009. Con trai ông Trần Đình Khánh là Trần Đình Quát trực tiếp tham gia việc phục dựng di tích theo trí nhớ về ngôi nhà trước đây. Công trình hoàn thành giai đoạn 1 vào tháng 12 tháng 2011 với tổng giá trị trùng tu là 7 tỷ đồng [29]; di tích chiến trường Điện Biên Phủ - một trong 10 di tích lịch sử quốc gia
  • 76. 71 đặc biệt - trong những năm qua đã nhận được sự quan tâm đầu tư lớn của trung ương, địa phương. Tỉnh Điện Biên đã tiến hành khoanh vùng, cắm mốc,tập trung vào việc trùng tu, tôn tạo, phục hồi và đưa vào sử dụng, phát huy giá trị của các điểm di tích. Các di tích cứ điểm Đồi A1, khu di tích Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ở Mường Phăng, khu Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (trong đó có dự án cải tạo nâng cấp các đường nhánh thăm quan trong khu di tích) được quan tâm tu bổ, tôn tạo nhiều hạng mục. Tỉnh cũng đã tiến hành xây dựng tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ, cải tạo, nâng cấp Bảo tàng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tu sửa, xây dựng hệ thống bia biển giới thiệu các điểm di tích [34]; di sản văn hóa vật thể của huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang bao gồm các di vật, di tích của các thế hệ cha ông trong lịch sử để lại, được các nhà khảo cổ học đã phát hiện ở vùng Bo, vùng Phồn Xương, vùng Xuân Lương, đó là các di vật đồ đá, đồ đồng... đã được trưng bày tại nhà trưng bày khởi nghĩa Yên Thế;... Bên cạnh đó, Nhà nước đã chú trọng đầu tư phát triển các loại hình nghệ thuật truyền thống như: chèo, hát ả đào, ca trù, quan họ,… Ví dụ: ở Hưng Yên xây dựng các nhà hát chèo, thành lập 3 đoàn chèo, các đoàn chèo thường xuyên xây dựng các vở chèo mới để đi phục vụ nhân dân các huyện, đồng thời tuyên truyền chính sách của Đảng, Nhà nước, phục vụ du khách trên tàu thuyền du lịch ở các con sông [9, tr.71]; tỉnh Phú Thọ cũng đang triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại “Hát Xoan Phú Thọ” theo từng giai đoạn cụ thể. Trong đó, năm 2014 tỉnh tập trung truyền dạy và thực hành hát Xoan thông qua tổ chức đào tạo lớp nghệ nhân kế cận, đặc biệt là nghệ nhân trẻ, truyền dạy cho lớp trẻ trong cộng đồng các phường Xoan gốc và cán bộ văn hóa xã, phường, hạt nhân văn nghệ các câu lạc bộ dân ca trên địa bàn tỉnh. Đây là nội dung quan trọng, quyết định tính bền vững cho sự bảo tồn lâu
  • 77. 72 dài của di sản hát Xoan; đồng thời, phát huy vai trò của các nghệ nhân cao tuổi đào tạo các nghệ nhân trẻ để đến năm 2015, có thể trở thành lớp nghệ nhân kế cận các lớp nghệ nhân cao tuổi hiện nay làm nhiệm vụ truyền dạy cho các thế hệ sau này. Đặc biệt, hiện hát Xoan Phú Thọ đã được ngành giáo dục đưa đến tận trường học theo chương trình giáo dục của tỉnh [30];… Nghị định số 62/2014/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ được ban hành quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể có hiệu lực từ ngày 7 tháng 8 năm 2014, được xem là một bước ngoặt quan trọng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Điều đáng chú ý trong Nghị định này quy định “Đối với nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn được hưởng trợ cấp sinh hoạt hằng tháng theo quy định của Chính phủ” điều này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với những người có công gìn giữ những nét văn hóa của dân tộc, cũng là nhằm nâng cao công tác bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên phục vụ cho du lịch. Tại các làng nghề truyền thống, Nhà nước có chính sách phát triển làng nghề, tạo điều kiện cho người dân kinh doanh nghề truyền thống của quê hương, hạn chế tình trạng mai một nghề. Với sự ra đời của Quyết định số 2636/QĐ-BNN-CB ngày 31 tháng 10 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về việc phê duyệt chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề đã góp phần tích cực trong việc bảo tồn và phát triển làng nghề trên cơ sở phát triển hài hòa giữa sản xuất hàng hóa với bảo vệ môi trường và gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa truyền thống theo hướng bảo tồn để phát triển và phát triển để bảo tồn. Theo đó, Nhà nước khôi phục, bảo tồn các làng nghề truyền thống từ lâu đời đang có nguy cơ bị mai một, thất truyền: Đối với những làng nghề đang trong quá trình suy vong và có khả năng mất đi, xác định bảo tồn là chính, coi đó là tài sản văn hóa quốc gia, tiến
  • 78. 73 hành điều tra, xác định và xây dựng dự án để duy trì một vài hộ hoặc nhóm hộ nghề, nghệ nhân hoạt động “trình diễn” nghề nhằm phục vụ yêu cầu du lịch, văn hóa; đối với những làng nghề có khó khăn, phát triển theo hướng sản xuất sản phẩm đơn chiếc (đặc trưng), có giá trị kinh tế và hàm lượng văn hóa cao làm hàng dân dụng, phổ thông, hàng phục vụ du lịch; tăng cường công tác thu thập, bảo tồn và lưu giữ tư liệu về giá trị truyền thống của làng nghề, hỗ trợ xây dựng các phòng và nhà trưng bày, bảo tàng nghề, làng nghề thủ công mỹ nghệ, khu trình diễn nghề truyền thống; xây dựng các trung tâm đào tạo nghề, trung tâm xúc tiến thương mại sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ…; chuyển đổi một số ngành nghề, làng nghề khó khăn về thị trường thông qua sự hỗ trợ về vốn đầu tư, đào tạo nghề, tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện cho các làng nghề được phục hồi và phát triển. Với những ngành nghề phát triển mạnh, có sự lan tỏa: Khôi phục sản xuất tại những làng nghề đã và đang bị mai một nhưng trên thị trường có nhu cầu; chú trọng một số nghề truyền thống, làng nghề truyền thống có từ lâu đời, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc; quan tâm phát triển các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chú trọng sản xuất các mặt hàng có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng,... Công tác bảo tổn và phát triển nghề thủ công truyền thống được quan tâm theo đúng tinh thần của Quyết định 2636/QĐ-BNN-CB ngày 31 tháng 10 năm 2011. Ví dụ: Nhà nước hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lý môi trường cho các làng nghề; ưu tiên các làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, các tuyến điểm phát triển làng nghề gắn với du lịch. Bên cạnh đó, vấn đề môi trường ở các làng nghề cũng được đặt lên hàng đầu. Chính quyền địa phương tại các làng nghề đã có những phương án xử lý nước thải của các làng nghề tránh gây ô nhiễm môi trường. Thứ hai, các cơ quan chức năng có thẩm quyền quản lý nhà nước về du
  • 79. 74 lịch làm đúng theo nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Cơ quan Trung ương quản lý cơ quan địa phương, chính quyền địa phương định kỳ báo cáo tình hình hoạt động du lịch cũng như công tác bảo vệ, phát triển tài nguyên du lịch tới cơ quan cấp trên nhằm quản lý nhà nước về du lịch. Thứ ba, các hành vi xâm phạm đến tài nguyên du lịch mà pháp luật quy định cấm được tuân thủ (Điều 12 Luật Du lịch Việt Nam 2005, Điều 9 Luật Tài nguyên nước 2012,…). Mọi hoạt động nhằm phương hại đến tài nguyên du lịch, môi trường du lịch đều bị nghiêm cấm. Ví dụ: từ ngày 2 đến 31 tháng 10 năm 2014, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã chỉ đạo các sở, ngành, địa phương tích cực xử lý những hoạt động gây ô nhiễm môi trường tại phường Phong Khê và xã Phú Lâm: xử phạt vi phạm hành chính về môi trường 5 cơ sở với tổng số tiền 395,6 triệu đồng; thu giữ, xử lý nhiều tấn chất thải, lập chốt chặn, kiểm soát 24/24 giờ, yêu cầu các cơ sở ký cam kết không đốt chất thải, không xả nước thải trực tiếp ra môi trường [31]. Thực hiện Quy chế quản lý hoạt động thu gom chất thải rắn sinh hoạt theo Quyết định số 11303/QĐ- UBND ngày 30/12/2011 của Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, tình hình thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn, Ủy ban nhân dân các xã/phường đã tăng cường quản lý về mặt nhà nước đối với các tổ thu gom rác hoạt động trên địa bàn (đã tiến hành ký lại hợp đồng nguyên tắc với các Tổ rác dân lập theo đúng yêu cầu của Quy chế), các hộ dân đã nhận thức tốt hơn về tác hại của việc không xử lý chất thải sinh hoạt không đúng quy định;... Những hành vi trên khi thực hiện đã góp phần hạn chế hành vi gây hậu quả nghiêm trọng cho tài nguyên nước nói riêng và tài nguyên du lịch nói chung. Do vậy, các cơ quan chức năng đã tiến hành kiểm tra, giám sát để quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên. Thứ tư, việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh về tài nguyên du lịch của Việt Nam được phát triển rộng rãi. Các danh lam thắng cảnh của Việt Nam đa
  • 80. 75 phần đều được bạn bè quốc tế cũng như người dân biết đến thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: mạng internet, báo, đài, vô tuyến truyền hình,... Tỉnh Sơn La đã chủ động phối hợp với các tỉnh Hòa Bình, Điện Biện, Lai Châu tham gia liên kết thực hiện chương trình du lịch Qua miền Tây Bắc - Sơn La vào năm 2011; thực hiện dự án quảng bá du lịch giữa hai thành phố Hà Nội và Tokyo, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội đã triển khai quảng bá du lịch trên hệ thống tàu điện ngầm của Tokyo trong hai tháng là tháng 9 và 10 năm 2014; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Phòng trưng bày các sản phẩm du lịch tại “Tuần Văn hóa - Du lịch biển đảo Việt Nam - Hà Nội 2014” diễn ra ở Hà Nội từ ngày 20 đến 24 tháng 11 năm 2014. Trong năm qua tỉnh Lào Cai đã triển khai thực hiện việc quảng bá hình ảnh du lịch của địa phương trên các phương tiện thông tin đại chúng, bên cạnh đó tỉnh còn tổ chức hội nghị gặp gỡ các nhà đầu tư trong lĩnh vực du lịch - dịch vụ, tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư, tổ chức các cuộc họp báo công bố các sự kiện và chương trình du lịch trong năm, tổ chức thành công các sự kiện trong Chương trình "Du lịch về cội nguồn" (hợp tác giữa 3 tỉnh Lào Cai - Yên Bái - Phú Thọ), tổ chức hoạt động xúc tiến du lịch tại các hội chợ du lịch quốc tế tại thành phố Hồ Chí Minh, hội chợ du lịch quốc tế Côn Minh - Trung Quốc;... Thứ năm, công tác tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao ý thức cho người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch diễn ra ở một số địa phương. Thông qua các chương trình tuyên truyền pháp luật, các cuộc hội thảo,… nhằm cung cấp cho người dân hiểu được tầm quan trọng cũng như vai trò mà tài nguyên du lịch mang lại. Để cho mọi người nhận thức được vai trò, giá trị của các loại tài nguyên du lịch hiện có. Thông qua đó, giúp người dân địa phương, du khách tham quan, các cơ quan chức năng dễ dàng hơn trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Tình trạng vứt rác bừa bãi ở các bãi biển, hay trong chùa, đền đã hạn chế. Thay vào đó, là các biển báo cấm, thùng rác công cộng và lực
  • 81. 76 lượng dọn vệ sinh môi trường đã làm sạch cảnh quan, giữ sạch môi trường du lịch. Ví dụ: Ở Nghệ An, một số địa phương như thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, Diễn Thành (Diễn Châu), Quỳnh Phương (Quỳnh Lưu), khu di tích Kim Liên (Nam Đàn)... đã ban hành và thực hiện tốt các quy chế về bảo vệ môi trường, xây dựng được nhiều mô hình quần chúng tham gia bảo vệ môi trường ở các phường, xã, vận động nhân dân không đổ rác, phế thải ra đường, nơi công cộng, thành lập tổ thu gom rác tại cụm dân cư, thực hiện tốt công tác tổng vệ sinh môi trường đảm bảo không để rác tồn đọng trên các trục đường, khu dân cư, khu vực công cộng và dọc bãi biển. 100% các điểm du lịch trên địa bàn tỉnh đều được trang bị thùng đựng rác, lắp biển báo chỉ dẫn nhằm nâng cao ý thức của du khách trong công tác bảo vệ môi trường và thực hiện nghiêm túc quy định của chính quyền địa phương, thường xuyên vệ sinh khu vực du lịch. Đặc biệt, tại thành phố Vinh và thị xã Cửa Lò, 100% nhà hàng, khách sạn, ki ốt kinh doanh thực hiện việc đổ rác đến điểm tập trung từ 20h đến 24h hằng ngày. Tại các khu du lịch trọng điểm khác trên địa bàn tỉnh đều đã thành lập tổ thu gom rác thải và thực hiện khá tốt công tác vệ sinh môi trường (đạt 75-80%), không để xảy ra hiện tượng rác tồn đọng tại các trục đường, điểm du lịch như tại khu di tích Kim Liên, khu di tích mộ bà Hoàng Thị Loan, quảng trường Hồ Chí Minh, khu tâm viên núi Quyết, bãi tắm Cửa Lò, bãi Lữ [36];... Thứ sáu, công tác kết hợp giữa địa phương và doanh nghiệp tư nhân kinh doanh du lịch trong công tác bảo tồn và khai thác giá trị di sản đang là xu hướng đem lại nhiều hiệu quả và được sự ủng hộ của cộng đồng trong thời gian qua. Quảng Bình và Ninh Bình là hai địa phương sở hữu nhiều di sản hiếm có và công tác kết hợp giữa địa phương với doanh nghiệp tư nhân đang đi đúng hướng, đạt hiệu quả cao trong công tác bảo vệ tài nguyên du lịch. Ông Nguyễn Cao Tấn, Phó giám đốc Ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng An khẳng định:
  • 82. 77 Ban quản lý luôn xác định công tác quản lý về hoạt động du lịch trong phạm vi Quần thể danh thắng Tràng An có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị của di sản. Vì vậy, việc phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các doanh nghiệp làm du lịch để đảm bảo tốt các hoạt động du lịch là một nhiệm vụ trọng tâm của Ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng An [39]. Trong công tác kết hợp này thì doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm đầu tư hạ tầng, toàn quyền trong việc tổ chức tuyến du lịch, việc đưa đón khách thăm quan, điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp cần phải bảo vệ tốt nguồn tài nguyên du lịch để đem lại cho du khách những sản phẩm du lịch chất lượng cao. Nhưng bên cạnh đó địa phương cũng có riêng một đơn vị trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh trực tiếp giám sát mọi công tác đầu tư hạ tầng, xây dựng và tổ chức tua, tuyến trong lòng di sản. Điều này đảm bảo nếu xảy ra bất cứ xâm phạm di sản nào từ phía doanh nghiệp đều sẽ bị phát hiện và ngăn chặn kịp thời. 2.2.2 Những hạn chế trong việc thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng từ tài nguyên du lịch nhân văn đến tài nguyên du lịch tự nhiên như: Vịnh Hạ Long, Thành nhà Hồ, Ca trù, phố cổ Hội An, Tràng An,… Những tài nguyên du lịch đã góp phần không nhỏ trong việc giới thiệu những nét đẹp của quê hương ta với bạn bè trên thế giới. Đồng thời cũng tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển hơn. Tuy nhiên, nếu con người chỉ biết khai thác, sử dụng các tài nguyên du lịch mà không bảo vệ, giữ gìn chúng thì tài nguyên sẽ ngày càng mai một đi. Trước nhu cầu đòi hỏi cấp thiết của thực tế, Luật Du lịch Việt Nam ra đời năm 2005 nhằm bảo vệ, phát triển tài nguyên du lịch của đất nước. Công cuộc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du
  • 83. 78 lịch ở một số địa phương đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, khiếm khuyết. 2.2.2.1. Hạn chế trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở một số địa phương Hạn chế lớn nhất trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở các địa phương là công tác bảo vệ tài nguyên du lịch mới dừng lại ở trách nhiệm của Nhà nước chưa trở thành mối quan tâm của cả cộng đồng, doanh nghiệp hoạt động du lịch. Tình trạng phổ biến là các nhà máy, xí nghiệp còn xả thải trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm môi trường nói chung và gây ô nhiễm, ảnh hưởng xấu đến các nguồn tài nguyên du lịch làm ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch của đất nước. Một số trường hợp điển hình như theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22 tháng 4 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ thì tỉnh Ninh Bình có 8 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải xử lý triệt để thuộc các lĩnh vực vật liệu xây dựng, sản xuất phân bón, hóa chất hay chế biến nông nghiệp; tại tỉnh Bình Thuận, chất thải từ đất liền theo bảy dòng sông lớn đổ ra biển rồi bị sóng đánh tấp vào bờ gây ô nhiễm các bãi tắm, khu du lịch. Đặc biệt, tại Vịnh Phan Thiết, chất thải từ sông Cà Ty và sông Cái đổ ra ứ đọng dài ngày với nhiều loại rác sinh hoạt, sản xuất, chế biến thủy sản. Bãi biển Thuận An đang dần trở thành một “bãi rác” lớn. Dọc bãi biển có rất nhiều các loại rác thải, từ túi nilon, bao bì, vỏ bánh, kẹo, vỏ hoa quả, hộp sữa… Rác thải ra đã gây ô nhiễm nghiêm trọng bờ biển, gây ấn tượng không tốt cho du khách đến tham quan;... Tại một số làng nghề truyền thống trên địa bàn thành phố Hà Nội, người dân còn chưa có ý thức trong việc bảo vệ môi trường, không chấp hành quy định pháp luật về việc bảo vệ môi trường du lịch trong làng nghề (vi phạm điều cấm trong Luật Du lịch năm 2005, Luật Tài nguyên nước năm 2012, Luật Bảo vệ môi trường 2005, 2014,…). Theo quan trắc môi trường
  • 84. 79 không khí tại 46 làng nghề của Hà Nội, gần 98% làng nghề có từ một chỉ tiêu chất lượng không khí vượt quy chuẩn cho phép; 100% số lượng làng nghề đều có từ một chỉ tiêu phân tích nước thải vượt tiêu chuẩn. Tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề đang có xu hướng tăng. Ở các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, nước mặt nhiều nơi có hàm lượng COD, BOD5, NH4+, Coliform vượt hàng chục lần đến hàng trăm lần quy chuẩn. Nước mặt ở làng nghề dệt nhuộm cũng bị ô nhiễm nặng. Đáng chú ý, tại làng nghề gỗ Vân Hà và Liên Hà, hàm lượng các chất hữu cơ dễ bay hơi cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 3 đến 5 lần, nhiệt độ ở làng gốm Bát Tràng cao hơn xung quanh từ 1,5 đến 30 độ C; hai làng nghề Xuân Phương và Dục Tú tiếng ồn cao hơn tiêu chuẩn cho phép 3 - 4 lần [32]. Tại Nha Trang, hiện nay một số nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vịnh Nha Trang đang suy giảm nhanh chóng và ảnh hưởng đến môi trường rõ rệt. Các rạn san hô tự nhiên đang dần mất đi trong khi đó sự khôi phục tự nhiên diễn ra quá chậm, có nơi thậm chí không còn nữa.Trước đây rong mơ được xem là nguồn lợi dồi dào bậc nhất và có thể tìm thấy bất kỳ nơi đâu trong vịnh Nha Trang. Con người chỉ thu gom số lượng rong mơ trưởng thành trôi dạt vào bờ để bán thì vài năm trở lại đây tình trạng khai thác rong mở ồ ạt theo hướng tận diệt đã làm nguồn lợi này giảm đi nhanh chóng và đáng báo động. Một số nguồn lợi khác cũng đã giảm đi đáng kể như cỏ biển, rùa biển,… Mặt khác, nguồn chất thải chủ yếu từ rác thải sinh hoạt dân cư, nước thải sinh hoạt và nước thải của các công ty, nhà máy sản xuất đóng trên địa bàn thành phố theo các cống rãnh, nước mưa rồi tập trung vào hai con sông lớn (sông Cái và sông Tắc), sau đó đổ thẳng ra vịnh Nha Trang. Bên cạnh đó chất thải từ nuôi trồng thủy sản và hoạt động du lịch cũng ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường vịnh Nha Trang [35]. Từ thực trạng trên cho ta thấy, việc thực thi pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch vẫn chưa hiệu quả ở một số địa phương. Các địa phương vẫn
  • 85. 80 chưa thể quản lý và thực hiện đúng theo quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch. 2.2.2.2. Hạn chế trong việc triển khai các hoạt động quản lý bảo vệ tài nguyên du lịch, xử lý vi phạm trong khai thác tài nguyên du lịch Công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên du lịch cũng như xử lý vi phạm trong khai thác tài nguyên du lịch chưa được thực hiện triệt để ở một số địa phương. Hoạt động quản lý tài nguyên du lịch còn lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm trong bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan trung ương và cơ quan địa phương trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Chất lượng hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch còn hạn chế, chưa có chế tài xử lý vi phạm rõ ràng. Những quy định hiện đang được nhiều cơ quan ban hành với sự quan tâm rất ít tới lợi ích của công tác bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, công tác thực thi các quy định về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch chưa được nghiêm ngặt và không được thực hiện bởi những sở ngành độc lập, không có mối liên kết với các ngành. Hoạt động kiểm tra, đánh giá trong việc bảo vệ, xử lý vi phạm về tài nguyên du lịch không được thực hiện thường xuyên. Có nhiều cơ quan chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhưng lại thiếu sự phối hợp dẫn đến tính hiệu quả không cao. Công tác quản lý môi trường du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn dẫn đến tình trạng xâm hại, có nguy cơ làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và nhân văn. Các huyện, thành, thị và các đơn vị, doanh nghiệp hoạt động du lịch chưa có đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực môi trường nên rất khó khăn trong công tác quản lý, bảo vệ môi trường du lịch. 2.2.2.3. Hạn chế về ý thức của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch Hiện nay tình trạng khách du lịch đi đến các địa điểm du lịch xả rác bừa bãi gây mất cảnh quan và ô nhiễm môi trường là khá phổ biến. Trước tình hình
  • 86. 81 đó ngành Du lịch phải có biện pháp cụ thể để ngăn chặn nếu không sẽ để lại hình ảnh xấu trong mắt khách du lịch quốc tế và ảnh hưởng tới môi trường sống. Người dân chưa có ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch, chưa nhận biết được tầm quan trọng của việc bảo vệ tài nguyên du lịch khiến việc tu sửa, bảo tồn, phát triển gặp khó khăn. Tài nguyên và môi trường đang có sự suy giảm do khai thác, sử dụng thiếu hợp lý và những tác động của thiên tai ngày càng tăng, diễn ra ở nhiều vùng, nhiều địa phương trên cả nước. Nhiều tài nguyên có tiềm năng khai thác nhưng do bị mai một, lãng quên và bị hủy hoại nên vẫn bỏ ngỏ. Do vậy, các cơ quan chức năng cần có những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Có như vậy, tài nguyên du lịch mới được giữ gìn và phát triển. Đây cũng là vấn đề cấp thiết cần được quan tâm trong công cuộc xây dựng và phát triển ngành công nghiệp không khói này. 2.2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch Ngoài nguyên nhân từ những tồn tại trong quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam như đã phân tích ở trên, sự bất cập, hạn chế trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch còn bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: Thứ nhất, công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch cho người dân còn hạn chế. Công tác tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch đã được thực hiện nhưng kết quả mang lại còn hạn chế. Bên cạnh những người chấp hành nghiêm chỉnh theo luật pháp, ra sức giữ gìn, bảo vệ tài nguyên du lịch vẫn còn không ít người không tuân theo quy định pháp luật, vẫn phá hoại tài nguyên. Hiện nay việc tuyên truyền, giáo dục người dân về vai trò của tài nguyên du lịch đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và giá trị của
  • 87. 82 nó mới chỉ được tuyên truyền, phổ biến trong các cuộc họp, hội nghị hoặc phần nào nhắc tới qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, internet,… nhưng không có sự nhấn mạnh, chưa có biện pháp tuyên truyền cụ thể, sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân. Mặt khác, không phải bất cứ ai cũng đi họp hay mọi người đều thường xuyên tiếp cận với internet hay nghe các thông tin tuyên truyền về việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Từ thực tế này dẫn đến, người dân chưa có ý thức cao trong việc bảo vệ, phát triển tài nguyên. Do vậy, một bộ phận người dân đã có hành vi xâm phạm, phá hoại tài nguyên như: vất rác vừa bãi ở các khu di tích, danh lam thắng cảnh, đổ nước thải trực tiếp ra sông ngoài, ao hồ, gây mất vệ sinh, ô nhiễm tài nguyên,… Vì không nhận thức được tầm quan trọng của tài nguyên du lịch nên một số người đã không ngừng xâm hại đến nó. Đây là nguyên nhân dẫn đến tài nguyên du lịch của nước ta đang ngày càng bị mai một dần, cạn kiệt dần. Thứ hai, công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc bảo vệ tài nguyên du lịch chưa được tiến hành thường xuyên Công tác quản lý nhà nước về du lịch chưa thật sự chặt chẽ và còn khá nhiều bất cập. công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển du lịch thực hiện chậm. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên du lịch được kiểm tra, giám sát nhưng chất lượng kiểm tra, giám sát chưa được tốt ở một số địa phương. Tần suất lập báo cáo hiện nay không đáp ứng được yêu cầu cần xử lý ngay những sai phạm trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Mặt khác, chất lượng nguồn nhân lực trong công tác quản lý, bảo vệ, xử lý vi phạm còn yếu. Các sở, ban ngành chủ chốt thường thiếu nguồn nhân lực, không được đào tạo đầy đủ và không đủ thẩm quyền để giám sát và xử lý vấn đề một cách hiệu quả. Nhận thức về vai trò và sự phát triển bền vững du lịch của cộng đồng và chính quyền các cấp đặc biệt là các doanh nghiệp chưa theo kịp với yêu cầu hội nhập. Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch hầu hết thuộc hạng vừa và nhỏ, năng lực
  • 88. 83 quản lý còn yếu kém. Công tác quản lý tài nguyên du lịch còn bất cập. Sự phân cấp ngành trong công tác quản lý môi trường du lịch còn chưa thực sự rõ ràng, rành mạch dẫn đến sự không thống nhất, chồng chéo trong hoạt động giám sát, kiểm tra, xử phạt hành chính trong lĩnh vực môi trường. Thứ ba, tốc độ gia tăng các loại hình du lịch dịch vụ. Việc tăng nhanh về số lượng các khu du lịch, các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch đã làm thu hẹp diện tích đất tự nhiên, đặc biệt là diện tích đất nông nghiệp dẫn đến giảm diện tích đất ngập nước, phá rừng lấy đất gây xói mòn, rửa trôi... Phát triển du lịch ở khu vực ven biển với hệ thống đường giao thông, các khách sạn, sân golf... cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng nhu cầu khai thác cát, giảm diện tích rừng phòng hộ ven biển dẫn đến nguy cơ gây xói mòn bờ biển, gây ra các hiện tượng cát bay và các hình thức suy thoái đất khác. Rác thải sinh hoạt trong khuôn viên các điểm du lịch được quét dọn hằng ngày và thu gom vào các thùng rác công cộng để đưa đi xử lý, tuy nhiên xung quanh một số điểm du lịch hiện tượng vứt rác bừa bãi vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi. Tại các khu du lịch biển, rác thải do sóng biển đánh dạt vào và do các cơ sở kinh doanh thải ra chưa được thu gom triệt để làm mất mỹ quan không gian du lịch.
  • 89. 84 Kết luận chương 2 Việt Nam là quốc gia được thiên nhiên ưu đãi tạo ra nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp vô cùng với những tài sản cô cùng quý giá. Đây là những tài sản để phát triển ngành Du lịch phát triển mạnh mẽ, làm giàu cho đất nước. Để khai thác những điều kiện thuận lợi đó thì pháp luật Việt Nam đã có những quy định riêng về bảo vệ tài nguyên du lịch. Các quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhưng quy định chung nhất tại Luật Du lịch năm 2005. Pháp luật đã có những quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch đem lại những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần bảo vệ tài nguyên du lịch tránh được tác động xấu, hành vi xâm phạm. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch cũng có những bất cập, hạn chế nhất định. Bên cạnh đó, quá trình thực hiện pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch cũng gặp những khó khăn, vướng mắc vì nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó chủ yếu là nguyên nhân chủ quan.
  • 90. 85 Chương 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH VIỆT NAM 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp mà sự phát triển của nó gắn liền với tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch phong phú đồng nghĩa với việc nền kinh tế du lịch phát triển và ngược lại nếu tài nguyên du lịch bị suy thoái và ngày càng mai một kéo theo sự đi xuống của hoạt động du lịch, đồng thời làm ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nếu như điểm du lịch có tài nguyên du lịch đa dạng và đảm bảo chất lượng thì sẽ kích thích được thị hiếu của khách du lịch và giúp cho nền kinh tế ở đó phát triển hơn. Chỉ những nơi có nguồn tài nguyên du lịch phong phú và vẫn giữ nguyên được những nét đặc trưng mới có thể tạo được sức cạnh tranh khi thu hút du khách. Từ đó các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch, cộng đồng dân cư địa phương mới có thể thu lợi từ du lịch. Hiện nay, do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, dân số ngày càng gia tăng và có xu hướng chạy theo lợi nhuận dẫn tới việc khai thác và sử dụng quá mức, làm suy thoái và cạn kiệt nguồn tài nguyên du lịch, nhiều nơi những bản sắc văn hóa tốt đẹp - chính là một nguồn của tài nguyên du lịch nhân văn đã bị mất đi hoặc biến dạng gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của ngành Du lịch địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng của ngành Du lịch đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương: Phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, góp phần
  • 91. 86 thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực... Như vậy, bảo vệ tài nguyên du lịch không chỉ là nhiệm vụ cấp bách của ngành Du lịch mà còn là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, toàn xã hội, của quốc gia để phát triển ngành du lịch bền vững, nâng cao đời sống xã hội. Do đó, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch vì những lý do sau đây: Thứ nhất, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng du lịch phong phú. Với 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới (đứng đầu các nước Đông Nam Á) và 9 di sản được UNESCO công nhận là di sản thế giới như Vịnh Hạ Long, Thánh địa Mỹ Sơn, Phố cổ Hội An và Cố đô Huế… cùng rất nhiều kiệt tác văn hóa phi vật thể của nhân loại như Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, quan họ Bắc Ninh, ca Trù…, nên Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia ở Châu Á - Thái Bình Dương có tiềm năng lớn về du lịch. Muốn khai thác có hiệu quả tiềm năng này cùng với việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ, đào tạo nguồn nhân lực và đẩy mạnh quảng bá, tiếp thị du lịch, chúng ta càng phải chú trọng hơn nữa công tác bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch tránh khỏi sự suy thoái và mai một hướng tới một nền du lịch lành mạnh, hội nhập nhưng vẫn giữ được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thứ hai, du lịch đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, bảo vệ tài nguyên du lịch để phát triển du lịch bền vững cũng là góp phần phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân. Du lịch phát triển đã góp phần tăng tỷ lệ GDP của ngành Du lịch trong khu vực dịch vụ. Ở đâu du lịch phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông thôn
  • 92. 87 được chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt như Sapa (Lào Cai), Hạ Long (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Huế (Thừa- Thiên Huế), Hội An (Quảng Nam), Nha Trang (Khánh Hòa), Mỹ Sơn (Quảng Nam), Bình Châu (Bà Rịa - Vũng Tàu), mốt số địa phương khác…; Mặt khác, tạo khả năng tiêu thụ tại chỗ hàng hóa, dịch vụ, thúc đẩy các ngành khác phát triển; khôi phục các lễ hội và nghề thủ công truyền thống; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở từng địa phương, tăng thu nhập của người dân, xóa đói, giảm nghèo và vươn lên làm giàu, mở rộng sự giao lưu giữa các vùng miền trong nước, giữa trong nước với nước ngoài. Ước tính hiện nay, hoạt động du lịch đã tạo ra việc làm cho hơn 500.000 lao động trực tiếp và khoảng 800.000 lao động gián tiếp cho nhiều tầng lớp dân cư, đặc biệt là thanh niên mới lập nghiệp và phụ nữ. Vì vậy, cần có cơ chế bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch để tạo điều kiện cho ngành du lịch phát triển. Thứ ba, du lịch nước ta đang đứng trước những thách thức to lớn do ô nhiễm môi trường, suy thoái giá trị văn hóa và ảnh hưởng tiêu cực từ quá trình hội nhập. Du lịch là ngành kinh tế nhạy cảm với môi trường tự nhiên và xã hội. Du lịch được nhìn nhận như là một trong những ngành chịu ảnh hưởng lớn từ nhiều phía, không chỉ có điều kiện tự nhiên mà còn các vấn đề nan giải của điều kiện xã hội. Ở từng thời kỳ, sự tác động của các yếu tố này đến du lịch là khác nhau. Song trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, không chỉ các giá trị văn hóa - xã hội bị thay đổi mà môi trường cũng có những biến đổi lớn theo hướng tiêu cực. Nhìn chung, nguồn tài nguyên du lịch của nước ta dưới sự tác động tiêu cực của các yếu tố kể trên đã có những hệ quả đáng lo ngại. Vì vậy, bảo vệ tài nguyên du lịch chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành trong thời gian tới, cần có sự nỗ lực ứng phó với tác động tiêu cực của sự hội nhập của nền kinh tế, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của ngành Du lịch Việt Nam.
  • 93. 88 Nói về sự tác động tiêu cực của yếu tố môi trường đối với tài nguyên du lịch của nước ta, theo báo cáo về phát triển con người 2007 - 2008 của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), nếu nhiệt độ trên trái đất tăng thêm 2 độ C, thì 22 triệu người ở Việt Nam sẽ mất nhà và 45% diện tích đất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất của Việt Nam sẽ ngập chìm trong nước biển [37]. Nước biển dâng sẽ làm cho tài nguyên du lịch bị suy thoái, biến đổi, mất mát về lượng cũng như giá trị phục vụ. Điều này sẽ làm cho khả năng phát triển sản phẩm du lịch bị ảnh hưởng nghiêm trọng và tất yếu sẽ dẫn tới làm suy giảm các tiền đề phát triển du lịch biển đảo nói riêng và cả nước nói chung. Biến đổi khí hậu có thể dẫn đến năm nguy cơ lớn, giảm năng suất nông nghiệp, gia tăng tình trạng thiếu nước, thời tiết cực đoan, các hệ sinh thái tan vỡ và bệnh tật sẽ gia tăng. Những tác hại của biến đổi khí hậu không chỉ tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà còn ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động du lịch. Biến đổi khí hậu tác động trực tiếp tới phát triển du lịch thể hiện ở ba hình thức: tác động đến tài nguyên du lịch (tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn), tác dộng đến hệ thống cơ sở hạ tầng (đường xá, sân bay, bến cảng, đường sắt… hệ thống cung cấp điện nước, hệ thống thông tin liên lạc), các cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; tác động đến các hoạt động du lịch như: nghĩ dưỡng, vui chơi giải trí và hoạt động lữ hành bị phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, thậm chí các tour du lịch có thể bị hủy do điều kiện thời tiết xấu liên tiếp, bão lụt, lũ quét do biến đổi khí hậu gây ra. Về sự tác động của yếu tố xã hội, hội nhập đến tài nguyên du lịch: Hiện nay cùng với sự hội nhập kinh tế bên cạnh những mặt tích cực mà hội nhập mang lại cho ngành Du lịch nói riêng và nền kinh tế nói chung nó cũng đặt ra câu hỏi lớn đối với nhà quản lý khi đem lại không ít những vấn đề tiêu cực, đặc biệt là tác động tiêu cực đến tài nguyên du lịch. Tuy là một quốc gia có nguồn
  • 94. 89 tài nguyên du lịch phong phú, được đánh giá là có tiềm lực du lịch mạnh. Song do hội nhập, nước ta thực hiện mở rộng giao lưu với các quốc gia khác, lượng khách du lịch cũng theo đó tăng lên, người dân cũng như các tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch có điều kiện phát triển kinh tế nhưng do sức cạnh tranh quá cao nên đôi khi họ bỏ qua sự tác động tiêu cực này mà khai thác bừa bãi, cạn kiệt và trách nhiệm của các bên không rõ ràng dẫn tới nguy cơ suy thoái nhanh giá trị của tài nguyên. Việc khai thác thường xuyên mà không có sự trùng tu, chiến lược bảo vệ dài lâu dẫn đến việc các tài nguyên du lịch mất đi giá trị vốn có của nó, khách du lịch không được tiếp xúc với tài nguyên du lịch một cách đúng nghĩa như từ khi nó được hình thành. Mặt khác, sự xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế và các ngành, tầm nhìn ngắn hạn và hạn chế về công nghệ dẫn tới một số tài nguyên du lịch bị tàn phá, sử dụng sai mục đích… tác động tiêu cực đến sự phát triển du lịch bền vững. Thứ tư, mặc dù xác định du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn thúc đẩy phát triển kinh tế nhưng hiện nay pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở nước ta vẫn còn “thiếu” và “yếu”. Mặc dù Việt Nam đã ban hành nhiều quy định về bảo vệ tài nguyên du lịch nhưng các quy định này còn tản mạn trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, khó áp dụng và tính khả thi chưa cao. Mặt khác, các nghĩa vụ đối với tài nguyên du lịch của các tổ chức và cá nhân khi tiến hành hoạt động du lịch cũng đã được quy định nhưng còn chung chung, đặc biệt còn có quá ít những nghĩa vụ đối với việc bảo vệ tài nguyên du lịch của du khách. Hơn nữa, đây chỉ là những quy định chung mà chưa có chế tài pháp luật cụ thể để ràng buộc họ. Không thúc đẩy được sự phát triển du lịch theo đúng hướng mà những quy định này còn hạn chế sự phát triển du lịch của nước ta. So với các nước có tiềm năng phát triển du lịch trên khu vực thì du lịch nước ta có phần tụt hậu hơn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do pháp luật nước ta chưa hoàn chỉnh nên chưa thúc đẩy được sự phát triển của du lịch.
  • 95. 90 Có thể nói, để phát triển du lịch bền vững, trước hết chúng ta cần có cơ chế xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch. Những quy định này sẽ như là một khung pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể tham gia vào lĩnh vực du lịch. Bên cạnh đó còn giúp khai thác tài nguyên du lịch một cách hợp lý và hiệu quả, tránh được việc khai thác tài nguyên bừa bãi, không đem lại hiệu quả kinh tế mà còn làm cho nguồn tài nguyên du lịch này bị suy thoái. Nếu có một hệ thống pháp luật vững chắc thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn để phát triển du lịch, qua đó quảng bá hình ảnh của Việt Nam đến bạn bè thế giới. 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam 3.2.1. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch Có thể nhận định du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng, đa lĩnh vực và mang nội dung văn hóa sâu sắc. Do đó, quá trình thực hiện việc bảo vệ tài nguyên du lịch phải có sự kết hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các ngành, các cấp, dưới sự chỉ đạo thống nhất của Nhà nước, từ đó phát triển du lịch trong nước theo hướng bền vững trên cơ sở phát huy bản sắc dân tộc, văn hóa truyền thống và bảo vệ tốt môi trường cảnh quan. Vì vậy Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần sớm hoàn chỉnh và ban hành chiến lược quy hoạch và phát triển ngành Du lịch của nước ta đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 để thống nhất quản lý và phát triển ngành Du lịch. Bên cạnh đó, việc kết hợp hài hòa giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan nhà nước khác, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên du lịch nhưng vẫn cần có các Thông tư liên tịch để xác định cơ chế pháp lý phối hợp đồng bộ và hiệu quả giữa các bên có liên quan. Trên cơ sở đó Thông tư liên tịch phải cụ thể
  • 96. 91 hóa các nội dung phối hợp được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014; Luật Di sản văn hóa sửa đổi, bổ sung năm 2009; Luật Du lịch năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật trên…, có sự phân công cụ thể về trách nhiệm giữa các bên trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình môi trường, tuyên truyền giáo dục pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch về kết hợp giải quyết các vấn đề vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch phát sinh. 3.2.2. Hoàn thiện các quy định về quyền và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch Luật Du lịch năm 2005 cần bổ sung một số điều quy định cụ thể về trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức kinh tế trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Các quy định về quyền lợi, chính sách hỗ trợ... mà người dân được hưởng khi tham gia bảo tồn, lưu giữ những giá trị văn hóa tự nhiên, nhất là những văn hóa phi vật thể mang đậm bản sắc của dân tộc đang ngày càng bị phai mờ, lãng quên. Đưa ra khái niệm về bảo vệ tài nguyên du lịch để thể hiện rõ được tầm quan trọng của tài nguyên du lịch, là nguồn không thể thiếu trong sự phát triển của ngành Du lịch nói riêng và nằm trong sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia nói chung. Trên thực tế cũng đã có những văn bản quy định về vấn đề bảo vệ tài nguyên du lịch nhưng phần lớn mới chỉ dừng lại ở mức độ chung hoặc chú trọng vào vấn đề cụ thể như bảo vệ môi trường du lịch, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các văn bản này mặc dù đã đề ra những yêu cầu về trách nhiệm của tổ chức, cán nhân bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch song không phản ánh được hết những nét đặc trưng, cụ thể. Do đó, cần xây dựng hệ thống văn bản để cụ thể hóa các yêu cầu quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân về bảo vệ tài nguyên du lịch theo hướng đặc trưng của hoạt động du lịch. Những quy định có thể được thể hiện dưới hình thức các “quy chế”. Trong đó, các
  • 97. 92 quy chế chứa đựng quy định pháp luật sao cho phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực hoạt động của du lịch. Như vậy, hoạt động bảo vệ tài nguyên du lịch sẽ đạt hiệu quả cao hơn vì có sự phối hợp thống nhất và đồng bộ giữa các cơ quan, ban ngành có liên quan. 3.2.3. Hoàn thiện các quy chuẩn về tài nguyên du lịch Nhà nước cần xây dựng quy chuẩn về tài nguyên du lịch; quy định như thế nào là tài nguyên du lịch đạt chuẩn chất lượng. Không chỉ xây dựng các quy chuẩn này bằng các quy phạm an toàn mang tính quản lý mà cần có những quy phạm kỹ thuật. Việc xây dựng hệ thống quy chuẩn quốc gia cho tài nguyên du lịch có ý nghĩa rất to lớn. Nó không chỉ là nền tảng để đánh giá chất lượng du lịch mà còn là thước đo sự quản lý của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và từ đó làm cơ sở xác định hành vi vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch và có biện pháp xử lý. Hiện nay, đã có nhiều quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch song không thể đi vào thực tiễn cuộc sống vì thiếu các quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện. Chính vì vậy, cần phải bổ sung các quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện công tác bảo vệ tài nguyên du lịch. Đây chính là những biện pháp đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch. Cụ thể cần bổ sung các quy định về cơ chế đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, quy định cụ thể về xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến tài nguyên du lịch. Đối với các quy phạm về xử lý vi phạm cần được bổ sung trong cả pháp luật môi trường, pháp luật di sản văn hóa và pháp luật du lịch, trao cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, di sản và du lịch quyền năng xử lý vi phạm. Đồng thời cần xây dựng các chế tài phù hợp để thực hiện mục tiêu giáo dục ý thức, thuyết phục nhưng cũng đủ mạnh mẽ để răn đe, tránh tình trạng coi thường pháp luật.
  • 98. 93 3.2.4. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý đối với các vi phạm pháp luật về tài nguyên du lịch Có thể thấy mức xử phạt hành chính trong lĩnh vực du lịch hiện nay tồn tại rất nhiều bất cập như đã phân tích ở trên. Do vậy, trước mắt cần phải nâng cao mức xử phạt tiền, Nghị định 16/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2012 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch để đủ sức răn đe đối với tổ chức, cá nhân vi phạm, bởi mức phạt cao nhất tại Nghị định này là 40.000.000 đồng là chưa đủ lớn và chưa đủ đủ sức răn đe. Mặt khác, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là một năm còn quá ngắn vì những thiệt hại đối với tài nguyên du lịch thường không bộc phát ngay, nhất là đối với lĩnh vực môi trường du lịch thì biểu hiện của nó lại từ từ trong một thời gian dài. Vì vậy, pháp luật cần có quy định kéo dài thời hiệu để xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường để có thể xử phạt hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân một cách thỏa đáng. Vấn đề xử lý hành vi xâm phạm đến tài nguyên du lịch được quy định rải rác trong quá nhiều các văn bản liên quan từ Luật Du lịch, Luật Môi Trường, Luật Di sản văn hóa… nên việc áp dụng các chế tài này gặp khó khăn khi nhà quản lý tiến hành xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, thiết nghĩ cần bổ sung thêm các điều luật quy định về hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền khi tiến hành xử phạt vi phạm hành chính. Như trên đã phân tích việc xử phạt đối với một số hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực du lịch cụ thể thì lại quy định rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau. Ví dụ như hành vi sử dụng trái phép thực vật, động vật hoang dã quý hiếm vào mục đích kinh doanh du lịch thì áp dụng theo quy định tại Nghị định 99/2009/NĐ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản để xử phạt. Có thể nhận định đây là một khó khăn lớn đối
  • 99. 94 với các cơ quan có thẩm quyền bởi cùng là hành vi sử dụng trái phép thực vật, động vật hoang dã, quý hiếm nhưng nếu sử dụng vào mục đích khác nhau thì mức xử phạt hoặc hình thức xử phạt đối với những hành vi này cũng khác nhau. Do đó, nếu áp dụng Nghị định 99/2009/NĐ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản để xử phạt đối với các hành vi vi phạm nhưng trong lĩnh vực du lịch thì sẽ không đủ mạnh để răn đe đối với tổ chức, cá nhân vi phạm. Mặt khác, các hệ thống động vật, thực vật là một nguồn tài nguyên quan trọng để phát triển du lịch nên hành vi xâm hại đến hệ thống các tài nguyên này càng cần được quy định cụ thể và rõ ràng hơn để tạo sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên du lịch. Mặc dù Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009) đã có nhiều điểm mới trong phần các tội phạm môi trường. Tuy nhiên, vẫn chưa có một quy định cụ thể nào về tội phạm môi trường trong lĩnh vực du lịch. Bên cạnh đó, một số tội như tội hủy hoại rừng (Điều 189), tội xâm phạm các quy định về quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 191)… chỉ mới nêu chung chung mà vẫn chưa có một quy định đặc thù, cụ thể về việc hủy hoại rừng hoặc các khu bảo tồn tài nguyên thiên nhiên trong trường hợp tài nguyên rừng hoặc các khu bảo tồn tài nguyên thiên nhiên được đưa vào khai thác trong lĩnh vực du lịch bởi hành vi phạm tội trong lĩnh vực này mang lại hậu quả rất lớn và lớn hơn nhiều so với các hành vi phạm tội cùng loại khác. Các hành vi cố ý tuyên truyền sai lệch bản chất văn hóa Việt, làm ảnh hưởng tới các tài nguyên nhân văn cũng cần được xem xét, nghiên cứu để xử phạt hình sự ở tùy mức độ khác nhau. Với tốc độ phát triển nhanh chóng của ngành Du lịch như hiện nay thì việc pháp luật thiếu quy định cụ thể về bảo vệ tài nguyên du lịch như nêu trên là một lỗ hổng lớn. Vấn đề bức thiết đặt ra cho các nhà làm luật là cần hoàn thiện các quy định về pháp luật hình sự để dễ
  • 100. 95 dàng khi áp dụng pháp luật trên thực tế, không bỏ sót bất cứ hành vi phạm tội nào có liên quan đến tài nguyên du lịch. Hiện nay, nước ta đã xây dựng được hệ thống các chế tài xử phạt các hành vi xâm phạm tài nguyên du lịch song do nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau nên trên thực tế có rất ít các tội phạm xâm phạm tài nguyên du lịch được đưa ra xét xử. Vì vậy, vấn đề trước mắt phải đặt ra là cần sửa đổi, bổ sung những quy định trong Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch và về lâu dài pháp luật cần có quy định rõ ràng và cụ thể về tội phạm xâm phạm tài nguyên du lịch. Có như vậy nền du lịch của nước ta mới có điều kiện hơn nữa để phát triển, góp phần phát triển kinh tế. 3.3. Một số giải pháp khác nhằm tăng hiệu quả bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam 3.3.1. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch Cần thiết phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan quản lí nhà nước về du lịch. Qua thực tiễn cho ta thấy rằng, hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Trong những năm qua, các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, do nhiều lí do khác nhau đòi hỏi cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của cơ quan quản lí nhà nước về du lịch ở một số nội dung quản lý như sau: Thứ nhất, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan nhà nước trong việc quy hoạch khu, điểm du lịch. Quy hoạch du lịch là một hoạt động không thể thiếu đối với bất kỳ một đất nước nào nhằm khai thác các tài nguyên du lịch để phát triển bền vững. Hiện nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
  • 101. 96 năm 2030 để xác định một lộ trình cụ thể cho du lịch Việt Nam. Điểm đột phá trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 thể hiện trong quan điểm phát triển du lịch bền vững theo hướng có chất lượng, có thương hiệu, chuyên nghiệp, hiện đại; khai thác hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm mọi nguồn lực và lợi thế quốc gia; phát huy tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa với vai trò động lực của các doanh nghiệp. Do vậy, đòi hỏi nước ta cần xây dựng được một quy hoạch vùng du lịch phù hợp với quy hoạch tổng thể về du lịch để khai thác tốt nguồn tài nguyên đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng đến môi trường do hậu quả của khai thác du lịch đem lại như: Thành lập tổ công tác gồm các sở, ngành liên quan; chính quyền địa phương; ban quản lý các khu, điểm du lịch để tiến hành rà soát, sắp xếp và quy hoạch lại hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch tại tất cả các điểm tham quan du lịch; tăng cường công tác quản lý bảo đảm về an ninh trật tự, vệ sinh môi trường; phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hiện tượng, vụ việc có nguy cơ gây ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch; nghiên cứu cứu lắp đặt các biển báo, biển cấm đỗ xe, cấm bán hàng rong và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Kiểm tra, rà soát lại hệ thống biển quảng cáo, tháo dỡ các biển quảng cáo sai quy định; đôn đốc, hướng dẫn thực hiện các hoạt động nhằm hạn chế sự suy thoái và bảo vệ phát triển các hệ sinh thái: Không đốt phá rừng, tăng cường trồng cây xanh, thu gom và xử lý chất thải rắn, thực hiện đảm bảo vệ sinh môi trường. Thứ hai, tăng cường công tác quản lý nhà nước với các đơn vị kinh doanh du lịch. Việc để cho địa phương vừa khai thác, vừa quản lý tài nguyên du lịch thực tế đã cho thấy nhiều bất cập trong thời gian qua khi chất lượng dịch vụ không đáp ứng được nhu cầu của du khách trong khi công tác bảo tồn di sản cũng không thực sự hiệu quả. Chính vì vậy mà sự kết hợp giữa địa phương và
  • 102. 97 doanh nghiệp trong quá trình quảng bá, khai thác và bảo tồn giá trị di sản sẽ là một giải pháp hợp lý nếu việc phối hợp và giám sát hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành một cách cẩn trọng. Để đạt được điều đó thì trước hết cần đến công tác giám sát chặt chẽ, nghiêm túc của địa phương. Đối với các doanh nghiệp cần phải phối hợp tích cực với các đơn vị trên địa bàn đưa ra những nội dung, quy tắc ứng xử với môi trường, đồng thời phối kết hợp với các đơn vị chức năng Kiểm lâm, Công an, người dân trên địa bàn để tổ chức tốt việc vừa khai thác vừa bảo tồn môi trường cảnh quan, tài nguyên du lịch nhằm phục vụ tốt cho sự phát triển của kinh tế. Bên cạnh đó yêu cầu các cơ sở kinh doanh du lịch thực hiện niêm yết giá theo quy định, bán đúng giá, bảo đảm chất lượng, số lượng, trọng lượng; triển khai các giải pháp nhằm bảo vệ an toàn cho du khách, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch. Mặt khác, tăng cường công tác thẩm định, xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch; thẩm định công nhận các khu, điểm du lịch. Bên cạnh đó, việc quản lý các dịch vụ vận chuyển khách công cộng và khách du lịch cũng cần chú trọng hơn. Rà soát nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hành khách, tăng cường việc tiếp cận phương tiện được an toàn, thuận lợi, bảo đảm an toàn cho khách du lịch khi tham gia giao thông và đẩy mạnh các hoạt động nâng cao chất lượng phục vụ trong hệ thống khách sạn, nhà hàng du lịch; trong hoạt động hướng dẫn, vận chuyển khách du lịch và các khâu đón tiếp, dịch vụ khác; đa dạng hoá các loại hình lưu trú, các tour, tuyến, loại hình du lịch, hàng lưu niệm cung cấp cho khách du lịch. Thứ ba, nâng cao chất lượng của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Cần nâng cao cả chất lượng và số lượng những cán bộ có trình độ chuyên môn cao để tăng hiệu quả công việc, hạn chế việc ảnh hưởng đến môi trường du lịch. Mặt khác, cần xây dựng một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan để việc quản lý, bảo vệ tài nguyên du lịch đạt hiệu quả cao nhất.
  • 103. 98 3.3.2. Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật nhằm nâng cao ý thức người dân trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch: Sau khi xây dựng các dự án khả thi và tiến hành đánh giá tác động của con người, của môi trường thì nhà quản lý triển khai các dự án phát triển du lịch. Cần phải có sự phối hợp tham gia của các ban ngành có liên quan và cộng đồng địa phương trong suốt quá trình quy hoạch và thực hiện dự án. Xây dựng các chương trình giáo dục ý thức pháp luật cho các đối tượng (khách du lịch, người dân địa phương và du khách). Nội dung giáo dục ý thức pháp luật phải phù hợp với các đối tượng và dựa trên các vấn đề tồn tại hiện có của môi trường, nguồn lực, phong tục tập quán, lối sống văn hóa và tình hình cụ thể của từng địa bàn. Các nội dung chủ yếu cụ thể là: nâng cao nhận thức của các đối tượng về giá trị của tài nguyên du lịch: đó là nơi bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên, những kho dự trữ thiên nhiên quý giá, bảo tồn những cảnh quan độc đáo, các loài động vật và thực vật đặc hữu và quý hiếm của Việt Nam, nơi nghiên cứu khoa học và tham quan du lịch, điều hòa dòng chảy, hạn chế lũ lụt, nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc…; giáo dục một số kỹ năng bảo vệ tài nguyên du lịch bằng việc bảo vệ môi trường như phòng chống cháy rừng, bảo vệ các loài động vật quý hiếm, giáo dục về đạo đức với tài nguyên du lịch và việc đối xử thân thiện, tôn trọng đối với tài nguyên du lịch. Việc lựa chọn phương tiện, phương pháp áp dụng đối với mỗi nhóm đối tượng phải rất linh hoạt và đa dạng. Đối với nhóm đối tượng là người địa phương phải lựa chọn các phương pháp giáo dục, tuyên truyền hướng tới cộng đồng bao gồm: Thông qua phương tiện thông tin đại chúng như: đài phát thanh, truyền thanh, báo tường, bảng tin nơi công cộng, thi viết, thơ, nghệ thuật về một số vấn đề của môi trường, của tài nguyên du lịch…; bổ sung và sử dụng rộng rãi các thiết bị nghe, nhìn: Chiếu phim tư liệu ngoài trời…; giao tiếp
  • 104. 99 giữa mọi người trong tổ dân phố, biểu diễn ca nhạc, múa rối, kể chuyện…; sinh hoạt câu lạc bộ với các chủ đề và tên hấp dẫn như: Câu lạc bộ bảo tồn Sao La, Hổ, quan họ…; tổ chức tuyên truyền, giáo dục người dân nhân dịp các sự kiện đặc biệt như lễ hội, phong trào thể thao, ngày môi trường thế giới, ngày đa dạng sinh học, ngày được công nhận di sản văn hóa…; và các phương tiện hướng tới cộng đồng khác như áp phích, quà lưu niệm (dây đeo chìa khóa, lịch, tem thư…). Đối với học sinh, sinh viên: Tùy vào từng đối tượng mà lựa chọn các hình thức giáo dục cho phù hợp: Lồng ghép các chương trình giáo dục ý thức pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch vào chương trình giáo dục chính khóa như môn đạo đức, hoạt động ngoại khóa; biên soạn giáo trình giáo dục về bảo vệ tài nguyên du lịch và tài liệu tham khảo cho giáo viên các cấp, tổ chức đi tham quan thực tế ở các khu du lịch thiên nhiên; tổ chức các câu lạc bộ xanh, câu lạc bộ bảo tồn, câu lạc bộ nghiên cứu về nét đẹp văn hóa và lịch sử của các tài nguyên thiên nhiên trên cả nước…; tổ chức các chương trình sáng tác văn, thơ, kịch, vẽ… về bảo vệ tài nguyên du lịch tại địa phương; tổ chức biểu diễn văn nghệ, ca nhạc… mang nhiều nội dung bảo vệ tài nguyên du lịch. Đối với du khách: Người hướng dẫn viên phải có lương tâm nghề nghiệp và thực sự hiểu tường tận về văn hóa xã hội của thành phố nơi có điểm du lịch để giúp cho du khách dễ gần với môi trường, yêu mến, tôn trọng môi trường văn hóa, thái độ gần gũi với con người bản địa hơn, như vậy sẽ tránh được sự xung đột một cách đáng tiếc. Đồng thời phải có những chỉ dẫn hoặc những quy định cụ thể đối với du khách tham gia du lịch tại địa phương, nâng cao ý thức giữ gìn bảo vệ tài nguyên du lịch của đất nước cũng như là nâng cao lòng tự trọng của du khách. Cần phải quy hoạch phát triển du lịch sinh thái, xây dựng các trung tâm diễn giải, giới thiệu chuyên nghiệp về các tài nguyên du lịch hiện có ở mỗi địa
  • 105. 100 phương, xây dựng các chương trình diễn giải lưu động để tất cả mọi người cùng biết đến qua đó nâng cao được lòng tự hào của người dân đối với tài nguyên du lịch của địa phương, đất nước từ đó ý thức bảo vệ sẽ tự nâng lên; đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên diễn giải chuyên trách, có am hiểu sâu để có thể giải thích một cách rõ ràng nhất, cụ thể nhất để tránh những cách hiểu sai lầm về tài nguyên; làm bảng hướng dẫn các tuyến thăm quan, tờ rơi, tờ gấp, bản đồ du lịch và các sách hướng dẫn du lịch. Việc sử dụng các nguồn năng lượng mới như gió, ánh sáng mặt trời, khí sinh học sẽ giúp giảm chi phí cho các khu du lịch đồng thời cũng giám được lượng tiêu thụ gỗ củi… và giảm lượng phát khí thải nhà kính. Xây dựng các công trình vệ sinh công cộng tại các điểm du lịch để bảo vệ môi trường và cảnh quan du lịch. Xây dựng các mô hình quản lý với sự tham gia của các bên liên quan và cộng đồng địa phương. Vấn đề đặt ra là muốn xây dựng mối quan hệ, phối hợp, liên kết ở cấp nào và quy mô ra sao để đạt được mục tiêu bảo tồn để đạt được hiệu quả kinh doanh du lịch, phát triển nhanh chóng, góp phần hỗ trợ cộng tác bảo tồn thiên nhiên và phát triển kinh tế cho cộng đồng địa phương. Cũng nhờ cơ chế này mà nhiều nguồn vốn của trung ương và địa phương được huy động để phát triển cơ sở hạ tầng như phục hồi các khu di tích cổ, các khu nhà cổ, làm đường mòn thiên nhiên, làm đường điện trong các khu du lịch, người dân địa phương đó được huy động tham gia và hưởng lợi trong việc thu gom giác thải, bảo vệ rừng, bảo vệ biển và các tài nguyên du lịch khác. Vì vậy, mặc dù vào mùa du lịch nhưng các điểm du lịch ở đây vẫn có chất lượng tốt nên thu hút ngày càng nhiều lượng khách du lịch hơn. Tăng cường hiệu lực của các văn bản pháp luật được Chính phủ và các ngành liên quan ban hành. Cho đến nay có đã có nhiều văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ và quản lý tài nguyên du lịch được ban hành nhưng đối với
  • 106. 101 các tài nguyên du lịch thiên nhiên như động vật hoang dã vẫn chưa thực sự được bảo vệ chặt chẽ. Nhiều cửa hàng ăn với các món ăn đặc sản từ thú rừng vẫn ngang nhiên hoạt động. Một số công ty tự gắn cho mình mác “sinh thái” hoặc “du lịch sinh thái” để lôi kéo khách. Vì vậy công tác giáo dục để người dân hiểu và thực hiện đúng các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý, bảo vệ tài nguyên du lịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bên cạnh những công tác và phương pháp giáo dục nêu trên còn cần đến sự tham gia của đài truyền hình, phát thanh trung ương và địa phương vào công tác giáo dục, tuyên truyền và phổ biến các quy phạm pháp luật liên quan đến bảo vệ tài nguyên du lịch cũng mang lại nhiều kết quả.
  • 107. 102 Kết luận chương 3 Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch là vô cùng cấp bách, cần thiết để đưa các quy định pháp luật vào thực tiễn giải quyết. Bên cạnh đó, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp quản lý các nguồn tài nguyên du lịch và giám sát cơ quan chức năng. Công tác bảo vệ tài nguyên du lịch còn cần sự chỉ đạo sâu sát; sự tham gia tích cực, đóng góp của các cấp, ngành liên quan cùng với ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch của người dân cũng cần được nâng cao để các nguồn tài nguyên du lịch được lưu giữ, tồn tại lâu dài.
  • 108. 103 KẾT LUẬN Du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Ở đâu du lịch phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông thôn được chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Mặt khác, du lịch tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy các ngành khác phát triển; khôi phục nhiều lễ hội và ngành nghề thủ công truyền thống; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước và từng địa phương, tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu, mở rộng giao lưu giữa các vùng miền trong nước và với nước ngoài. Tuy nhiên, ngành Du lịch phát triển cũng kéo theo những ảnh hưởng tiêu cực đến các loại tài nguyên du lịch nên việc bảo vệ tài nguyên du lịch là vấn đề cấp thiết cần phải được tiến hành để thúc đẩy ngành Du lịch Việt Nam phát triển bền vững. Đề tài: “Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam” được đặt ra do yêu cầu cấp thiết đó mà trọng tâm là xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch. Luận văn đã đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra và có những đóng góp mới vào việc phát triển lý luận cũng như thực tiễn về pháp luật bảo vệ tài nguyên du lịch; đồng thời góp phần tích cực hoàn thiện những quy định pháp luật trong lĩnh vực này. Để giải quyết những vấn đề đặt ra, đòi hỏi cần phải nghiên cứu, đánh giá sâu sắc, toàn diện tất cả các văn bản pháp luật khác nhau có liên quan trong hệ thống pháp luật. Trong khuôn khổ có giới hạn của luận văn, tác giả chỉ đề cấp đến vấn đề cơ bản nhất, liên quan trực tiếp đến đề tài.
  • 109. 104 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nội vụ (2008), Thông tư liên tịch số 43/2008/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 6/6/2008 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Văn hóa, Thể thao và Du lịch thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, Hà Nội. 2. C.Mac và Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. 3. Chính phủ (2010), Nghị định số 65/2010/NĐ-CP ngày 11/6/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đa dạng sinh học, Hà Nội. 4. Chính phủ (2012), Nghị định số 16/2012/NĐ-CP ngày 12/3/2012 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch, Hà Nội. 5. Chính phủ (2013), Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng và phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, Hà Nội. 6. Chính phủ (2013), Nghị định số 180/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 92/2007/NQ-CP ngày 1/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch, Hà Nội. 7. Chính phủ (2013), Nghị định số 76/2013/NĐ-CP ngày 16/7/2013 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hà Nội. 8. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội (2000), Tập bài giảng về Nhà nước và Pháp luật, tập 1 – Lý luận chung, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. 9. Hội văn học nghệ thuật Hưng Yên (1998), Phố Hiến lịch sử văn hóa, Nxb Sở Văn hóa Thông tin, Hưng Yên. 10. Phạm Trung Lương và nhóm tác giả (2000), Tài nguyên và môi trường di lịch Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  • 110. 105 11. Quốc Hội (2001), Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10 ngày 29/6/2001, có hiệu lực từ ngày 1/1/2002, Hà Nội. 12. Quốc Hội (2004), Luật Bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 ngày 3/12/2004, có hiệu lực từ ngày 1/4/2005, Hà Nội. 13. Quốc Hội (2005), Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11 ngày 29/11/2005, có hiệu lực từ ngày 1/7/2006, Hà Nội. 14. Quốc Hội (2005), Luật Du lịch số 44/2005/QH11 ngày 14/6/2005, có hiệu lực ngày 1/1/2006, Hà Nội. 15. Quốc Hội (2008), Luật Đa dạng sinh học số 20/2008/QH12 ngày 13/11/2008, có hiệu lực từ ngày 1/7/2009, Hà Nội. 16. Quốc Hội (2009), Bộ Luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009, có hiệu lực từ ngày 1/1/2010, Hà Nội. 17. Quốc Hội (2009), Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa số 32/2009/QH12 ngày 18/6/2009, có hiệu lực từ ngày 1/1/2010, Hà Nội. 18. Quốc Hội (2012), Luật Biển Việt Nam số 18/2012/QH13 ngày 21/6/2012, có hiệu lực từ ngày 1/1/2013, Hà Nội. 19. Quốc Hội (2012), Luật Tài nguyên nước số 17/2012/QH13 ngày 21/6/2012, có hiệu lực từ ngày 1/1/2013, Hà Nội. 20. Quốc Hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 ngày 23/6/2014, có hiệu lực từ ngày 1/1/2015, Hà Nội. 21. Trần Đức Thanh (2006), Nhập môn khoa học du lịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 22. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 23/2014/QĐ-TTg ngày 13/3/2014 quy đinh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch, Hà Nội. 23. Nguyễn Minh Tuệ (1997), Địa lý du lịch, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
  • 111. 106 24. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1999), Pháp lệnh Du lịch số 11/1999/PL- UBTVUQH10 ngày 8/2/1999, có hiệu lực từ ngày 1/5/1999, Hà Nội. 25. Bùi Thị Hải Yến, Phạm Hồng Long (2011), Tài nguyên du lịch, Nxb Giáo dục. Trang Web 26. http://vov.vn/doi-song/mat-trom-3-pho-tuong-phat-tai-chua-chan-tien- 139988.vov, cập nhật ngày 6/4/2004. 27. http://tintuc.wada.vn/e/5208277/Chu-dong-ung-pho-voi-bien-doi-khi- 30hau-va-bao-ve-tai-nguyen-moi-truong, cập nhật ngày 3/6/2014. 28. http://mcdvietnam.org/mcd-cung-nhon-hai-bao-ve-ran-san-ho-va-moi- truong-bien-ung-pho-voi-bien-doi-khi-hau/, cập nhật ngày 23/5/2014. 29. http://www.vietnamplus.vn/bao-ton-di-tich-uy-ban-hanh-chinh-khang- chien-dau-tien-o-yen-bai/268273.vnp, cập nhật ngày 30/6/2014. 30. http://baotintuc.vn/van-hoa/phu-tho-bao-ton-di-san-van-hoa-phi-vat-the- 20140904084637545.htm, cập nhật ngày 4/9/2014. 31. http://baobacninh.com.vn/news_detail/84584/ubnd-tinh-so-ket-cong-tac- xu-ly-o-nhiem-moi-truong-tai-phuong-phong-khe-va-xa-phu-lam.html, cập nhật ngày 5/11/2014. 32. http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/moi-truong/giam-thieu-o-nhiem- lang-nghe-de-phat-trien-du-lich-2394526.html, cập nhật ngày 13/6/2012. 33. http://www.dulichvn.org.vn/index.php?category=20&itemid=21423, cập nhật ngày 31/11/2013. 34. http://btdienbienphu.svhttdldienbien.gov.vn/Article/115/Cong-tac-bao- ton-di-tich-tinh-Dien-Bien-Thuc-trang-va-giai-phap.html. 35. http://nhatrangxanhsachdep.vn/bao-ve-moi-truong-bao-ve-he-sinh-thai-bien- la-van-de-can-quan-tam_72_183_2_vca.html, cập nhật ngày 3/3/2014.
  • 112. 107 36. http://www.mientay24h.vn/archive/index.php/t-469025.html, cập nhật ngày 25/11/2013. 37. http://agro.gov.vn/news/tID15276_Bien-doi-khi-hau-de-doa-truc-tiep- den-nen-an-ninh-luong-thuc.htm, cập nhật ngày 25/8/2009. 38. http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=89638, cập nhật ngày 18/9/2014. 39. http://hoalu.ninhbinh.gov.vn/news.do?action=detail&id=596, cập nhật ngày 29/11/2014.