ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ LAN ANH
PH¸P LUËT VÒ PHßNG, CHèNG MUA B¸N NG¦êI
QUA THùC TIÔN ë TØNH THANH HãA
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG GIAO
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lê Thị Lan Anh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHUNG PHÁP LUẬT QUỐC
TẾ, PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÕNG, CHỐNG
MUA BÁN NGƢỜI .......................................................................... 7
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI........ 7
1.1.1. Khái niệm buôn bán ngƣời; mua bán ngƣời; phòng, chống mua
bán ngƣời; pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời ....................... 7
1.1.2. Sự cần thiết, ý nghĩa của việc phòng, chống mua bán ngƣời............17
1.1.3. Đặc điểm, nội dung, yêu cầu của pháp luật về phòng, chống
mua bán ngƣời ...................................................................................20
1.2. KHUNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA
BÁN NGƢỜI ......................................................................................28
1.3. KHUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÕNG, CHỐNG
MUA BÁN NGƢỜI............................................................................29
1.3.1. Hệ thống văn bản pháp luật trong nƣớc.............................................29
1.3.2. Các điều ƣớc quốc tế..........................................................................33
1.3.3. Luật phòng, chống mua bán ngƣời....................................................33
Tiểu kết chƣơng 1..........................................................................................34
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG,
CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA......................35
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA
CỦA TỈNH THANH HÓA ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG. CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI...........35
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên..............................................................................35
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội và văn hóa ................................................36
2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÕNG, CHỐNG
MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA ........................................41
2.2.1. Tình hình có liên quan đến hoạt động mua bán ngƣời và công
tác triển khai thực hiện.......................................................................41
2.2.2. Kết quả đạt đƣợc................................................................................47
2.2.3. Những tồn tại, hạn chế trong việc phòng ngừa mua bán ngƣời
ở tỉnh Thanh Hóa ...............................................................................58
2.3. PHÁT HIỆN, XỬ LÝ HÀNH VI MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH
THANH HÓA .....................................................................................60
2.3.1. Kết quả phát hiện, xử lý hành vi mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa............60
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong việc phát hiện, xử lý mua bán
ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa.....................................................................70
2.4. BẢO VỆ, HỖ TRỢ HÕA NHẬP CỘNG ĐỒNG CHO NẠN
NHÂN BỊ BUÔN BÁN Ở TỈNH THANH HÓA ...................................72
2.4.1. Kết quả tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân ..............72
2.4.2. Kết quả giải cứu, bảo vệ nạn nhân.....................................................75
2.4.3. Kết quả hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng ..............................77
2.4.4. Kết quả bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và nhân chứng trong hoạt
động tố tụng .......................................................................................79
2.4.5. Những tồn tại, hạn chế trong việc bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bị
mua bán ở tỉnh Thanh Hóa ................................................................84
Tiểu kết chƣơng 2..........................................................................................87
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG
MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA ................................89
3.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN
NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA...........................................................89
3.1.1. Yêu cầu đƣa các chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng
và pháp luật Nhà nƣớc về phòng, chống mua bán ngƣời vào
thực tiễn đời sống của tỉnh Thanh Hóa..............................................90
3.1.2. Yêu cầu bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân trong thời
kỳ CNH, HĐH của tỉnh Thanh Hóa ..................................................91
3.1.3. Yêu cầu về khắc phục hạn chế của việc thực hiện pháp luật
phòng, chống mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa...............................93
3.2. QUAN ĐIỂM VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI TỈNH
THANH HÓA.....................................................................................94
3.2.1. Phòng, chống mua bán ngƣời là một trong những nhiệm vụ cơ
bản của Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội
của tỉnh Thanh Hóa............................................................................94
3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao ý thức pháp luật về phòng,
chống mua bán ngƣời cho nhân dân góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ............95
3.2.3. Phòng, chống mua bán ngƣời luôn gắn với mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ mới......97
3.3. GIẢI PHÁP NẦNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI TỪ THỰC
TIỄN Ở TỈNH THANH HÓA...........................................................98
3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời.............98
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế xã hội đấu tranh phòng, chống tội phạm về
mua bán ngƣời .................................................................................101
3.3.3. Nguồn lực đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật phòng, chống
mua bán ngƣời .................................................................................104
3.3.4. Tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách nhiệm
của các cơ quan trong hệ thống chính trị của tỉnh Thanh Hóa
để thực hiện tốt pháp luật phòng, chống mua bán ngƣời ................106
3.3.5. Tăng cƣờng hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời trong các
tầng lớp cán bộ, nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa...................................107
3.3.6. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về
phòng, chống mua bán ngƣời ..........................................................109
3.3.7. Tăng cƣờng công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan có
thẩm quyền trong quá trình thực hiện pháp luật về phòng,
chống mua bán ngƣời.......................................................................110
Tiểu kết chƣơng 3........................................................................................112
KẾT LUẬN..................................................................................................113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................115
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BBN: Buôn bán ngƣời
BLDS: Bộ luật dân sự
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CTXH: Công tác xã hội
MBN: Mua bán ngƣời
PCMBN: Phòng, chống mua bán ngƣời
UBND: Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Trong những năm gần đây, mua bán ngƣời (MBN) đã trở thành một vấn
nạn, gây nhiều bức xúc trong xã hội ở nƣớc ta. Tình hình tội phạm MBN diễn
biến ngày càng nghiêm trọng, tính chất và thủ đoạn hoạt động của bọn tội
phạm ngày càng phức tạp, tinh vi. Tội phạm MBN hoạt động dƣới nhiều hình
thức ngày càng đa dạng, nhiều trƣờng hợp có tổ chức chặt chẽ, có sự móc nối
với các tổ chức tội phạm ở nƣớc ngoài (mang tính chất xuyên quốc gia).
Nhận thức rõ sự nguy hiểm của tội phạm MBN, Đảng và Nhà nƣớc ta
rất quan tâm đến việc phòng, chống loại tội phạm này. Nhiều chính sách,
pháp luật đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ban hành nhằm phòng ngừa, ngăn chặn,
trừng trị tội phạm MBN. Một bộ máy tổ chức có sự tham gia của cả hệ thống
chính trị từ trung ƣơng đến địa phƣơng cũng đã đƣợc thiết lập cho công tác
này. Bên cạnh đó, Nhà nƣớc đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp tuyên
truyền, giáo dục trong nhân dân về các hành vi, thủ đoạn của những kẻ MBN,
đồng thời có các biện pháp giúp đỡ những nạn nhân bị mua bán phục hồi, hoà
nhập cộng đồng. Nhà nƣớc cũng đã phối hợp với các tổ chức quốc tế và các
quốc gia, đặc biệt là các nƣớc trong khu vực, để triển khai nhiều dự án hợp tác
về phòng, chống buôn bán ngƣời.
Nhờ những nỗ lực nêu trên, trong những năm gần đây, công tác phòng,
chống mua bán ngƣời (PCMBN) ở Việt Nam đã có những chuyển biến tích
cực, tệ nạn MBN đã từng bƣớc đƣợc ngăn chặn. Tuy nhiên, trên thực tế tình
trạng MBN ở nƣớc ta vẫn đang diễn biến nghiêm trọng và phức tạp, đòi hỏi
cần phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các cơ chế pháp lý về phòng chống tệ
nạn này ở tất cả các cấp, đặc biệt là ở cấp địa phƣơng.
Thanh Hoá là một tỉnh nằm ở phía Bắc Miền Trung, diện tích tự nhiên
11.116,34km vuông, chiếm 3,25 % tổng diện tích tự nhiên của cả nƣớc. Địa
2
hình Thanh Hoá rất phức tạp, thấp dần từ phía Tây sang phía Đông, vùng
miền núi, trung du chiếm phần lớn diện tích của tỉnh. Đồng bằng Thanh Hoá
lớn nhất khu vực miền Trung và lớn thứ 3 của cả nƣớc. Thanh Hoá có 27 đơn
vị hành chính trực thuộc, gồm một thành phố trực thuộc tỉnh, 2 thị xã và 24
huyện; có 639 đơn vị hành chính cấp xã. Theo kết quả điều tra dân số năm
2013, Thanh Hoá có 3,62 triệu ngƣời, đứng thứ 3 trong cả nƣớc, chỉ sau
Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội. Tỉnh Thanh Hóa có 7 dân tộc
chủ yếu là Kinh, Mƣờng, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú, dân cƣ phân bố
không đều giữa các vùng miền.
Trong những năm qua, công tác PCMBN luôn đƣợc các cấp ủy Đảng,
chính quyền tỉnh Thanh Hóa quan tâm, chỉ đạo thực hiện nên đã đạt đƣợc
nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, do nhận thức pháp luật của ngƣời
dân còn hạn chế cùng với những khó khăn về kinh tế và công tác tổ chức thực
hiện pháp luật về PCMBN còn chƣa đồng nhất; nên Thanh Hóa hiện vẫn là
một trong những “điểm nóng” về tình trạng MBN trên cả nƣớc.
Là một cán bộ công tác và sinh sống trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, tác
giả nhận thấy có nhiều bất cập, hạn chế trong công tác PCMBN ở địa phƣơng
và luôn trăn trở với các câu hỏi: Làm thế nào để thực hiện tốt pháp luật về
phòng, chống mua bán người? Liệu có giải pháp nào để thực hiện pháp luật
về phòng, chống mua bán người có hiệu quả hơn ở tỉnh Thanh Hóa? Vì vậy,
tác giả đã chọn đề tài "Pháp luật về phòng, chống mua bán người qua thực
tiễn ở tỉnh Thanh Hóa" để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
MBN là một vấn đề xã hội bức xúc nên trong thời gian qua việc phòng,
chống tệ nạn này ở nƣớc ta đã đƣợc nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân quan tâm
nghiên cứu. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về PCMBN từ nhiều
góc độ và lĩnh vực khác nhau đƣợc công bố ở nƣớc ta, trong đó tiêu biểu nhƣ:
3
- Lê Thị Quý, Phòng chống buôn bán phụ nữ các tỉnh phía Bắc Việt
Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1999.
- Lê Thị Quý: Vấn đề ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ ở Việt Nam,
Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2000.
- Lê Thị Quý, „Phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới‟,
Nxb Phụ nữ, HN, 2005.
- Vũ Ngọc Bình: "Phòng, chống buôn bán và mại dâm trẻ em", Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2002.
- Chu Thị Thoa, "Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ,
trẻ em ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
- Nguyễn Quang Dũng: "Tình hình tội phạm mua bán phụ nữ qua biên
giới nƣớc ta và hoạt động phòng ngừa của bộ đội biên phòng", Tạp chí Công
an nhân dân, số 7, 2003.
- Đặng Xuân Khang: "Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới
Việt Nam - thực trạng và giải pháp", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ
Công an, 2004.
- Nguyễn Thị Lan: “Bàn về tội mua bán ngƣời trong dự thảo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999”, Tạp chí Khoa học, Luật
học, ĐHQGHN, số 25, 2009.
Các công trình nêu trên đã cung cấp một khối lƣợng kiến thức, thông
tin lớn về PCMBN ở các góc độ, cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay
vẫn chƣa có công trình nào tập trung đề cập đến thực trạng pháp luật về
PCMBN ở cấp địa phƣơng nói chung, cũng nhƣ ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Thêm vào đó, hầu hết các công trình nghiên cứu nói trên đều đƣợc thực hiện
và công bố trƣớc khi Luật PCMBN đƣợc thông qua và có hiệu lực (năm 2011)
nên có nhiều thông tin, kiến thức và nhận định không còn phù hợp. Vì vậy,
4
vẫn cần có thêm những công trình nghiên cứu nữa về PCMBN ở nƣớc ta, đặc
biệt là những nghiên cứu tiếp cận, khảo sát thực trạng vấn đề ở cấp địa
phƣơng. Đề tài “Pháp luật về phòng, chống mua bán người qua thực tiễn ở
tỉnh Thanh Hóa” đƣợc thực hiện nhằm góp phần khỏa lấp khoảng trống đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là cung cấp một cái nhìn tổng thể và chi tiết về
thực trạng công tác PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa, qua đó đề xuất những quan
điểm và giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả pháp luật về PCMBN
của tỉnh, đồng thời cũng là những gợi ý cho việc nâng cao hiệu quả công tác
PCMBN ở các địa phƣơng khác trên cả nƣớc.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích làm rõ những cơ sở lý luận của công tác PCMBN, cũng nhƣ
khuôn khổ pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh
Thanh Hóa; làm rõ không chỉ những thành tựu mà cả những tồn tại, hạn chế
trong công tác này; đồng thời phân tích chỉ ra nguyên nhân của những thành
tựu và tồn tại, hạn chế đó.
- Trên cơ sở những điểm nêu trên, đề xuất những quan điểm và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh
Hóa trong những năm tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là thực trạng thực hiện pháp luật về
PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa, cụ thể là cơ sở lý luận, pháp lý và những biện
pháp mà các cơ quan, ban ngành trong tỉnh đã áp dụng để ngăn ngừa và xử lý
5
tội phạm MBN, kết quả đã đạt đƣợc trong công tác này, những tồn tại, hạn
chế, nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế và giải pháp khắc phục.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phù hợp với những yêu cầu của một luận văn thạc sĩ, tác giả đặt ra
những giới hạn cho nghiên cứu này nhƣ sau:
- Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu các biện pháp thực hiện
pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa. Vì thế, luận văn không phân tích chi
tiết mà chỉ đề cập khái quát đến khuôn khổ pháp luật quốc tế và quốc gia về
PCMBN để làm nền tảng cho việc nghiên cứu việc thực hiện khuôn khổ đó ở
tỉnh Thanh Hóa.
- Về địa lý, luận văn chỉ nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về
PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa mà không mở rộng đến công tác PCMBN trên
phạm vi cả nƣớc hoặc ở các địa phƣơng khác.
- Về thời gian, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện
pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2008 đến nay mà không mở
rộng đến việc thực hiện công tác này ở tỉnh những năm trƣớc đó. Đây là
khoảng thời gian chuyển tiếp trong đó có một sự thay đổi lớn về khuôn khổ
pháp lý của nƣớc ta về PCMBN, với sự ra đời của Luật PCMBN năm 2011.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn áp dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ
bản của Đảng và nhà nƣớc ta về Nhà nƣớc, pháp luật và về PCMBN.
Cơ sở lý luận nêu trên là nền tảng để nghiên cứu thực tiễn thực hiện
pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: thống kê,
tổng hợp, phân tích, so sánh… để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề ra.
6
6. Tính mới và những đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận các quy định của pháp
luật về phòng, chống mua bán ngƣời ở Việt Nam. Hơn nữa, đây là nghiên cứu
đầu tiên phân tích một cách toàn diện và hệ thống thực trạng thực hiện pháp
luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa, đồng thời nêu ra những quan điểm và giải
pháp nhằm tăng cƣờng hiệu quả thực hiện pháp luật về PCMBN ở trong tỉnh.
Những phân tích, đánh giá của luận văn đƣợc thực hiện sau khi Luật PCMBN
năm 2011 đƣợc thông qua và có hiệu lực pháp luật, bởi vậy cập nhật đƣợc
những sự phát triển mới nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Với đóng góp nhƣ trên, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan, ban ngành của tỉnh Thanh Hóa và các địa phƣơng khác trong
việc thực thi pháp luật về PCMBN. Ngoài ra, luận văn còn có thể dùng làm tài
liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu ở Khoa Luật Đại học
quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận và khung pháp luật quốc tế, pháp luật Việt
Nam về phòng, chống mua bán ngƣời
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán
ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về phòng, chống mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHUNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI
1.1.1. Khái niệm buôn bán ngƣời; mua bán ngƣời; phòng, chống
mua bán ngƣời; pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời
1.1.1.1. Khái niệm buôn bán người
Buôn bán ngƣời (BBN) là một hiện tƣợng xã hội đã xuất hiện từ khi xã
hội loài ngƣời bƣớc vào giai đoạn phát triển hình thái kinh tế xã hội chiếm
hữu nô lệ. Ban đầu BBN là việc mua bán nô lệ trong các cuộc chiến tranh, sau
đó là các cuộc trao đổi phụ nữ vì lợi ích chính trị, kinh tế giữa các quốc gia
thời phong kiến. Cho đến nay tệ nạn BBN mà chủ yếu là mua bán phụ nữ, trẻ
em vẫn tồn tại và có chiều hƣớng gia tăng trên phạm vi toàn thế giới, với các
mục đích phi nhân đạo nhƣ: bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động, kết hôn trái
ý muốn, lấy đi các bộ phận của cơ thể...
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), ở thời điểm
năm 2009, trên thế giới có khoảng hơn 2,4 triệu ngƣời bị buôn bán [2, tr.9]. Ở
Việt Nam, tình trạng BBN trong những năm gần đây không ngừng gia tăng và
mang tính xuyên quốc gia, trong đó qua Trung Quốc chiếm 65%, Campuchia
chiếm 11%, Lào chiếm 6,5%, số còn lại mua bán trong nƣớc và một một số
quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhƣ: Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Xinh-ga-po, Đài
Loan, Hồng Công, Ma Cao (Trung Quốc). Từ năm 2005 đến cuối năm 2012,
Việt Nam phát hiện đƣợc hơn 3.000 vụ với hơn 5.000 đối tƣợng, lừa bán trên
6.500 nạn nhân, trong đó riêng năm 2012 có gần 500 vụ, với hơn 800 đối
tƣợng, lừa bán trên 850 nạn nhân. Các cơ quan có thẩm quyền trong nƣớc và
một số tổ chức quốc tế hoạt động PCMBN đều nhận định rằng, thủ đoạn
8
MBN ở Việt Nam ngày càng phức tạp, tinh vi, trong đó có nhiều hình thức
mới nảy sinh nhƣ mua bán trẻ sơ sinh, mua bán bào thai, nội tạng, đẻ thuê,
tuyển dụng đƣa ngƣời lao động ra nƣớc ngoài trái phép sau đó thu giữ giấy tờ,
hộ chiếu và bắt lao động cƣỡng bức, lạm dụng tình dục [46, tr.9]. Do đó, việc
đấu tranh với hình thức tội phạm này đang là vấn đề cấp bách không chỉ đặt ra
đối với mỗi quốc gia mà còn là một vấn đề mang tính toàn cầu.
Theo Điều 3 Nghị định thƣ về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị hành vi
BBN đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em bổ sung Công ƣớc về chống tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Liên hợp quốc, đƣợc Đại Hội đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 15/11/2000, có hiệu lực ngày 25/12/2003 (gọi tắt là
Nghị định thƣ Palermo).
Buôn bán ngƣời có nghĩa là việc mua bán, vận chuyển, chuyển
giao, chứa chấp và nhận ngƣời nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử
dụng hay đe dọa dùng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt
cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế hay lợi nhuận
để đạt đƣợc đƣợc sự đồng ý của một ngƣời có quyền kiểm soát đối
với những ngƣời khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm ít nhất là bóc lột
vì mục đích mại dâm hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các
hình thức lao động hay dịch vụ cƣỡng bức, nô lệ hay các hình thức
tƣơng tự nô lệ, khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể [56. tr.2].
Các dấu hiệu cơ bản của tội BBN đƣợc thể hiện nhƣ sau:
Về mặt khách quan: BBN là việc thực hiện một trong các hành vi:
tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận ngƣời (đối tƣợng bị
buôn bán) và bóc lột nạn nhân. Ngƣời phạm tội có thể sử dụng các thủ đoạn
nhƣ lừa dối, hứa hẹn, man trá, đe dọa dùng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực, ép
buộc, bắt cóc, lừa gạt… nạn nhân.
Về mặt chủ quan: Ngƣời thực hiện hành vi BBN phải có mục đích tƣ
9
lợi, bóc lột; có thể là bóc lột về tình dục, lao động cƣỡng bức, làm nô lệ hoặc
lấy các bộ phận của cơ thể… Suy cho cùng thì mục đích của những ngƣời
thực hiện hành vi BBN là vì lợi nhuận, vì thế đó là lỗi cố ý trực tiếp.
Trong khái niệm nêu trên, Nghị định thƣ Palermo không đề cập đến
khách thể và chủ thể của tội phạm BBN mà chỉ mô tả về mặt chủ quan và
khách quan của hành vi phạm tội. Tuy nhiên, theo lý luận chung về tội phạm
thì hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận 4 yếu tố cấu thành tội
phạm là khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan. Đối với ngƣời
bị hại (nạn nhân) trong các vụ buôn bán không phân biệt giới tính, còn trẻ em
có nghĩa là bất kỳ ngƣời nào dƣới 18 tuổi.
Nghị định thƣ Palermo đã đƣợc Liên hợp quốc thông qua trong bối
cảnh vấn đề BBN, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em đang gia tăng ở nhiều nơi trên
toàn thế giới. Nó tạo cơ sở pháp lý quốc tế cho việc xác định thế nào là BBN,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, trợ giúp nạn nhân của tệ BBN và phòng ngừa tội
phạm BBN. Văn kiện này này đã đƣợc hầu hết quốc gia trên thế giới và chấp
nhận làm khuôn khổ pháp lý quốc tế cho việc đấu tranh phòng, chống tệ nạn
BBN hiện nay.
1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hành vi mua bán người ở Việt Nam
- Khái niệm mua bán người:
Trong pháp luật quốc tế hiện nay, các văn bản thƣờng sử dụng khái
niệm buôn bán người; buôn bán phụ nữ và trẻ em. Ở Việt Nam, các văn bản
pháp luật hiện hành không sử dụng khái niệm buôn bán người mà sử dụng
cụm từ "mua bán phụ nữ và trẻ em" hoặc "mua bán người", cụ thể là trong Bộ
luật hình sự (BLHS) năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) tại các Điều 119
và 120, Luật PCMBN năm 2011.
Tuy nhiên, trong cả hai điều luật nêu trên của BLHS và Luật PCMBN
đều chƣa đƣa ra định nghĩa về MBN. Vì vậy, khái niệm “Mua bán ngƣời”
10
hiện đƣợc hiểu tại Thông tƣ liên 01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA-
BQP-BTP ngày 23/7/2013 hƣớng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với ngƣời có hành vi MBN; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em. Điều
1 Thông tƣ quy định:
Mua bán ngƣời là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích
vật chất khác để trao đổi ngƣời (từ đủ 16 tuổi trở lên) nhƣ một loại
hàng hóa; cụ thể là một trong các hành vi: 1. Bán ngƣời cho ngƣời
khác, không phụ thuộc vào mục đích của ngƣời mua; 2. Mua ngƣời
để bán lại ngƣời cho ngƣời khác, không phân biệt bán lại cho ai và
mục đích của ngƣời mua sau này nhƣ thế nào; 3. Dùng ngƣời nhƣ là
tài sản để trao đổi, thanh toán; 4. Mua ngƣời để bóc lột, cƣỡng bức
lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật khác; 5. Ngƣời tổ chức,
ngƣời xúi giục, ngƣời giúp sức cho ngƣời thực hiện một trong các
hành vi mua bán ngƣời hƣớng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều
này đều bị truy cứu trách nhiệm về tội mua bán ngƣời [20, tr.1].
Khoản 1 Điều 4 Thông tƣ cũng xác định:
1.Mua bán trẻ em là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật
chất khác để trao đổi trẻ em (ngƣời dƣới 16 tuổi) nhƣ một loại hàng
hóa cụ thể là một trong các hành vi: a) Bán trẻ em cho ngƣời khác,
không phụ thuộc vào mục đích của ngƣời mua; b) Mua trẻ em để
bán lại cho ngƣời khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích
của ngƣời mua sau này nhƣ thế nào; c) Dùng trẻ em làm phƣơng
tiện để trao đổi, thanh toán; d) Mua trẻ em để bóc lột, cƣỡng bức
lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác [20, tr.3].
Đối với Luật PCMBN năm 2011, mặc dù không đƣa ra định nghĩa về
“mua bán ngƣời‟ nhƣng tại Điều 3 đã quy định 05 hành vi cụ thể có thể coi là
MBN, bao gồm:
11
(1) Mua bán ngƣời theo quy định tại Điều 119 và Điều 120
Bộ luật hình sự; (2) Chuyển giao, tiếp nhận ngƣời để bóc lột tình
dục, cƣỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích
vô nhân đạo khác; (3) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp ngƣời để
bóc lột tình dục, cƣỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì
mục đích vô nhân đạo khác hoặc để thực hiện hành vi (1) hoặc (2)
kể trên; (4) Cƣỡng bức ngƣời khác thực hiện hành vi (1) hoặc (2)
hoặc (3) kể trên; (5) Môi giới để ngƣời khác thực hiện hành vi (1)
hoặc (2) hoặc (3) kể trên [65, tr. 1, 2].
Về mua bán trẻ em, Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng một số quy định
trong phần các tội phạm của BLHS 1985 quy định, "mua bán trẻ em" đƣợc hiểu
là "Việc mua hoặc bán trẻ em vì mục đích tư lợi, dù là mua của kẻ bắt trộm hay
mua của chính người có con đem bán. Hành vi mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ
bị bắt trộm cũng bị xử lý về tội mua bán trẻ em…" [48, tr.1]; Bên cạnh việc sử
dụng thuật ngữ "mua bán phụ nữ, trẻ em", thì thuật ngữ "buôn bán phụ nữ, trẻ
em", cũng đƣợc một số văn bản quy phạm pháp luật sử dụng. Ví dụ, tại khoản 2
Điều 103 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Nghiêm cấm lợi dụng
việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối
với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác" [61, tr. 54] hoặc theo Khoản 2 Điều
24 Pháp lệnh phòng chống mại dâm thì: "Người nào môi giới mại dâm, chứa
mại dâm, cưỡng bức mại dâm, tổ chức mại dâm, mua bán phụ nữ, trẻ em để
phục vụ hoạt động mại dâm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự" [77, tr.15].
Nhƣ vậy, tổng hợp các định nghĩa, khái niệm nêu trên trong pháp luật
Việt Nam, có thể hiểu “mua bán ngƣời” là hành vi của một ngƣời hoặc một
nhóm ngƣời vì tƣ lợi, đã lừa dối, ép buộc, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ
lực, nhằm tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp ngƣời để bóc lột tình dục, cƣỡng
12
bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác để
đƣợc lấy tiền hoặc lợi ích vật chất.
- Đặc điểm của hành vi mua bán người:
Trƣớc hết, hành vi đƣợc hiểu là những phản ứng, cách ứng xử đƣợc
biểu hiện ra bên ngoài của con ngƣời trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất
định. Những hành vi nào của con ngƣời đƣợc pháp luật quy định, điều chỉnh
thì đƣợc xem là hành vi pháp luật. Hành vi pháp luật đƣợc thực hiện phù hợp
với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật (chủ thể tiến hành những xử sự mà pháp
luật yêu cầu nhƣ thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình; không đƣợc
làm những gì mà pháp luật cấm; hoạt động trong phạm vi pháp luật cho phép)
là hành vi hợp pháp. Hành vi đƣợc thực hiện trái với những quy định của
pháp luật nhƣ không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc
mà pháp luật cấm, hoạt động vƣợt quá phạm vi cho phép của pháp luật là
hành vi không hợp pháp (trái pháp luật) [73, tr.491, 494, 495].
Nhƣ vậy, hành vi "mua bán ngƣời" cũng đƣợc hiểu là những phản ứng,
cách ứng xử đƣợc biểu hiện ra bên ngoài của những ngƣời có đủ năng lực
(năng lực pháp lý và năng lực hành vi) thực hiện việc "mua bán ngƣời". Hành
vi "mua bán ngƣời" là hành vi bất hợp pháp (vi phạm các Điều 119, 120
BLHS năm 1999 và Luật PCMBN) và các yếu tố cấu thành hành vi "mua bán
ngƣời" sẽ bao gồm:
Một là, chủ thể thực hiện hành vi "mua bán ngƣời" phải là ngƣời có đủ
năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Hai là, những biểu hiện trong thế giới khách quan thông qua những
thao tác hành động hoặc không hành động của chủ thể thực hiện hành vi "mua
bán ngƣời" mà các chủ thể khác có thể nhận biết đƣợc điều đó.
So sánh các biểu hiện hành vi MBN (đƣợc pháp luật xác định) theo các
quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam cho thấy:
13
- Với Nghị định thƣ Palermo, hoạt động BBN (mà đƣợc hiểu tƣơng đƣơng
ở Việt Nam là MBN) sẽ bao gồm những hành vi sau: tuyển mộ, vận chuyển,
chuyển giao, chứa chấp và nhận ngƣời nhằm mục đích bóc lột bao gồm bóc lột
thông qua hoạt động mại dâm, bóc lột tình dục lao động cƣỡng bức, nô lệ hay
hành vi tƣơng tự nhƣ nô lệ, khổ sai hoặc bị lấy đi các bộ phận cơ thể.
- Theo pháp luật Việt Nam thì hoạt động MBN là hành vi chuyển giao,
tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp ngƣời để bóc lột tình dục, cƣỡng
bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.
Trong thực tế, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn để thực hiện một số quy
định trong Nghị định thƣ Palermo. Đặc biệt, những hƣớng dẫn xác định các hành vi
MBN, mua bán trẻ em trong Thông tƣ liên tịch 01/2013/TTLT/TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BQP-BTP đã làm rõ và mở rộng các dấu hiệu khách quan
của hai hành vi “mua” và “bán” quan trọng này, qua đó đã khắc phục cách
hiểu hạn hẹp trƣớc đây xem “mua bán ngƣời/trẻ em” chỉ bao gồm hai loại
hành vi “mua” và “bán” chứ không bao gồm cả những hành vi tuyển mộ, vận
chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận ngƣời nhƣ trong định nghĩa về BBN
ở Điều 3 Nghị định thƣ Palermo.
Tuy nhiên, để phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế về
PCMBN, Việt Nam cần phải hoàn thiện hơn nữa trong các quy định theo hƣớng
nêu rõ các phƣơng thức, thủ đoạn và mục đích MBN và sửa đổi quy định “Trẻ
em là công dân Việt Nam dƣới 16 tuổi” thành “Trẻ em là công dân Việt Nam
dƣới 18 tuổi” tƣơng tự nhƣ quy định tại Điều 3 Nghị định thƣ Palermo.
1.1.1.3. Khái niệm phòng, chống mua bán người
PCMBN là nhiệm vụ phức tạp liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành,
đòi hỏi phải đƣợc tiến hành đồng bộ bằng nhiều biện pháp nhằm huy động
sức mạnh của cả hệ thống chính trị mới có hiệu quả. Thực tiễn đấu tranh
PCMBN ngƣời cho thấy, việc phát hiện, bắt giữ, xử lý đối tƣợng thực hiện
14
hành vi MBN chỉ là một trong những biện pháp nhằm ngăn chặn kịp thời
hành vi MBN, biện pháp này chỉ giải quyết đƣợc phần “ngọn”, chƣa giải
quyết đƣợc “gốc rễ” của vấn đề; đó là làm giảm tiến tới loại trừ nguyên nhân,
điều kiện làm phát sinh hành vi MBN. Để công tác phòng ngừa đạt hiệu quả
cần áp dụng những biện pháp phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ;
trong đó cần tăng cƣờng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật để nâng
cao nhận thức của nhân dân, giúp ngƣời dân nhận thức đƣợc nguy cơ, mối
hiểm họa của hoạt động MBN để họ có ý thức phòng ngừa nâng cao cảnh giác
không trở thành đối tƣợng bị mua bán. Đấu tranh PCMBN chỉ đạt hiệu quả
khi thực hiện tốt nguyên tắc phòng ngừa, đồng thời đẩy mạnh công tác phát
hiện, xử lý các hành vi MBN, hành vi liên quan đến MBN cũng nhƣ những
hành vi vi phạm pháp luật khác.
Vậy, PCMBN có thể hiểu là những biện pháp phòng tránh, ngăn ngừa
và xử lý các hành vi MBN mà Luật PCMBN và các văn bản pháp lý có liên
quan quy định.
Trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi
MBN, Luật PCMBN năm 2011 đã thể hiện rõ yếu tố “phòng” và “chống”
MBN. Ở yếu tố “phòng”, Luật chú trọng nhóm các biện pháp phòng ngừa
chung nhƣ: tuyên truyền, giáo dục, tƣ vấn về phòng, ngừa MBN, hoạt động
quản lý an ninh trật tự, kiểm soát an ninh biên giới cũng nhƣ nhóm các biện
pháp phòng ngừa thông qua hoạt động của một số cơ quan, tổ chức và sự
tham gia của cá nhân, gia đình trong việc phòng ngừa MBN. Mục đích chính
của yếu tố này là nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm của cá nhân, gia
đình, cơ quan, tổ chức và cộng đồng đối với công tác phòng ngừa MBN, về
mối hiểm họa của MBN, làm cho mọi ngƣời đề cao cảnh giác, tích cực tham
gia phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh chống MBN, chống kỳ thị, phân biệt
đối xử với nạn nhân bị mua bán.
15
Luật cũng xác định rõ trọng tâm , trọng điểm của công tác thông tin,
tuyên truyền, giáo dục về phòng ngừa MBN là hƣớng tới một số đối tƣợng cụ
thể nhƣ: phụ nữ, thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên và những ngƣời cƣ
trú tại khu vực biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn và những địa bàn xảy ra nhiều vụ việc MBN. Đây là
những đối tƣợng có thể gọi là "có nguy cơ cao" dễ trở thành nạn nhân bị mua
bán. Đặc biệt, để bảo đảm sự chủ động trong công tác thông tin, giáo dục,
truyền thông ở cơ sở, Luật PCMBN năm 2011 quy định việc xây dựng mạng
lƣới tuyên truyền viên về PCMBN ở cơ sở; huy động sự tham gia tích cực của
các đoàn thể xã hội.
Bên cạnh đó yếu tố “chống” cũng đƣợc Luật PCMBN quy định cụ thể
tại Điều 4: mọi hành vi vi phạm pháp luật về PCMBN phải đƣợc ngăn chặn,
phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời, chính xác. Để quy định về việc phát
hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về PCMBN nội dung chủ yếu cần tập
trung vào 03 vấn đề: một là , nghĩa vụ của cá nhân tố giác , tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật về PCMBN; hai là , trách nhiê ̣m của cơ quan , tổ chƣ́ c trong
viê ̣c phát hiê ̣n và xƣ̉ lý vi pha ̣m theo thẩm quyền ; ba là , nhƣ̃ng nguyên tắc xƣ̉
lý vi phạm pháp luật về PCMBN.
Do đó, việc kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố “phòng” và “chống” MBN
cũng nhƣ các hành vi liên quan đến MBN đƣợc xem là yêu cầu đầu tiên, quan
trọng nhất trong công tác đấu tranh PCMBN ở nƣớc ta hiện nay.
1.1.1.4. Khái niệm pháp luật phòng, chống mua bán người
- Khái niệm pháp luật
Theo Giáo trình Lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật của Trƣờng
Đại học Luật Hà Nội thì: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà
nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
trong toàn xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội” [73, tr. 66].
16
Giáo trình Lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật của Viện nhà nƣớc
và pháp luật - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chi Minh định
nghĩa: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được đảm bảo thực
hiện bằng sắc mạnh cưỡng chế của nhà nước, là yếu tố đảm bảo sự ổn định
và trật tự xã hội” [47, tr.161].
Giáo trình Lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật của Khoa Luật -
Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội định nghĩa:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung do nhà nƣớc đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nƣớc
của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của
toàn xã hội, đƣợc đảm bảo thực hiện bằng nhà nƣớc nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì
sự phát triển vững mạnh của xã hội [74, tr.288]
Nhƣ vậy, các định nghĩa nêu trên đều có quan điểm đồng nhất về nội
dung đó là: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc do nhà
nƣớc đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đƣợc nhà
nƣớc bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích
đảm bảo trật tự và ổn định xã hội.
Trong các định nghĩa nêu trên đều thể hiện đƣợc những thuộc tính đặc
trƣng nhất của pháp luật và mục đích điều chỉnh của pháp luật. Ngoài ra,
trong lý luận pháp luật hiện đại nhiều ngƣời còn đề xuất những cách định
nghĩa, cách tiếp cận khác về pháp luật theo hƣớng mở rộng và phù hợp hơn
với tƣ duy pháp lý quốc tế. Mỗi cách tiếp cận đều có tính hợp lý nhất định,
nhƣng dù có đƣợc tiếp cận dƣới góc độ nào, thì pháp luật vẫn là phƣơng tiện
để xác định, thiết lập trật tự xã hội, có hiệu lực bắt buộc và đƣợc kiểm soát,
đảm bảo, bảo vệ bởi quyền lực nhà nƣớc.
17
- Khái niệm pháp luật phòng, chống mua bán người
PCMBN là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay của Nhà nƣớc ta. MBN là hành
vi xâm phạm trực tiếp đến quyền, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
và đời sống của con ngƣời. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh liên
quan đến hoạt động MBN, Nhà nƣớc phải ban hành các văn bản pháp luật,
những văn bản này chứa dựng đầy đủ các nguyên tắc, biện pháp phòng ngừa,
xử lý và hỗ trợ nạn nhân. Vậy, có thể hiểu pháp luật PCMBN là hệ thống các
quy tắc xử sự do nhà nước ban hành nhằm xác định, phòng ngừa, ngăn chặn,
xử lý những hành vi mua bán người và biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân.
1.1.2. Sự cần thiết, ý nghĩa của việc phòng, chống mua bán ngƣời
1.1.2.1. Sự cần thiết của việc phòng, chống mua bán người
Qua gần 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế, bên cạnh những thành tựu to
lớn về kinh tế, xã hội, Việt Nam đồng thời phải đối mặt với những thử thách to
lớn trong nhiều vấn đề, trong đó có sự gia tăng của tội phạm, bao gồm tội phạm
MBN. Việt Nam hiện là một trong những nƣớc nguồn, đồng thời là nƣớc trung
chuyển và đích đến của nạn MBN. Ở Việt Nam, MBN diễn ra cả trong nội địa
và xuyên biên giới. Nạn nhân của MBN có cả phụ nữ, nam giới và trẻ em trong
đó phụ nữ thƣờng bị mua bán để bóc lột mại dâm và cƣỡng bức kết hôn; trẻ em
thƣờng để bóc lột sức lao động hay ăn xin; còn nam giới thì thƣờng để bóc lột
sức lao động. Theo ghi nhận của các cơ quan chức năng, tình hình tội phạm ở
Việt Nam đang có diễn biến rất phức tạp với quy mô ngày càng gia tăng, nguy
hiểm nhất là hậu quả mà tội phạm gây ra; trong đó tội phạm MBN đƣợc đánh
giá là loại tội phạm có diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo
quyệt, có tổ chức chặt chẽ. Nạn nhân bị mua bán chủ yếu là phụ nữ và trẻ em
chiếm hơn 90%. Trong thực tế con số này còn có thể lớn hơn vì có căn cứ để
xác định đây là loại tội phạm có độ ẩn cao và theo Báo cáo tình hình BBN hàng
năm của Đại sứ quán Hợp chủng quốc Hoa kỳ tại Việt Nam vẫn xếp Việt Nam
18
là quốc gia nằm trong danh sách loại 2 - Những nƣớc xếp danh sách loại 2 là
những nƣớc mà chính phủ không tuân thủ đầy đủ những tiêu chuẩn của Đạo
luật bảo vệ nạn nhân của nạn buôn ngƣời (TVPA) nhƣng có nỗ lực đáng kể
nhằm tuân thủ những tiêu chuẩn đó [78].
Tội phạm MBN đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm và uy tín của con ngƣời đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em, ảnh
hƣởng đến sự phát triển của xã hội và tƣơng lai của đất nƣớc. Hầu hết nạn
nhân trong các vụ mua bán thƣờng có thái độ mặc cảm, sợ hãi, không muốn
tiết lộ hoặc để ngƣời khác biết đƣợc các bí mật về đời tƣ của mình, những hậu
quả mà họ phải gánh chịu trong thời gian bị mua bán, đặc biệt là các trƣờng
hợp mua bán để làm gái mại dâm. Họ rất dễ bị tổn thƣơng, luôn mặc cảm tự ti
coi mình là tội lỗi, là ngƣời không đƣợc xã hội tôn trọng. Do đó, PCMBN là
một yêu cầu cấp thiết của cả cộng đồng thế giới, Việt Nam và các nƣớc trên
thế giới cần có những biện pháp mạnh nhằm lên án và xử lý nghiêm khắc
hành vi MBN và các hành vi liên quan khác đến MBN. Bên cạnh đó, trong
quá trình hợp tác đa phƣơng và song phƣơng trong lĩnh vực này cần quy định
rõ quốc gia nào không chủ động tích cực hoặc dung túng cho tệ nạn MBN sẽ
phải chịu sự lên án, chỉ trích và trừng phạt của cộng đồng quốc tế.
Đối với Việt Nam, kể từ năm 2000 cho đến nay, khuôn khổ pháp luật
Việt Nam về phòng, chống MBN liên tục đƣợc sửa đổi và bổ sung, trong
đó sự kiện quan trọng gần đây nhất là việc thông qua Luật PCMBN năm
2011. Ngoài ra, một loạt văn bản pháp luật khác có liên quan đến PCMBN
trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, lao động, xuất nhập cảnh, quản lý nhà
nƣớc trong các ngành nghề kinh doanh nhạy cảm, bảo vệ một số nhóm xã
hội dễ bị tổn thƣơng trƣớc nạn MBN gần đây cũng đƣợc củng cố. Tất cả
cho thấy nỗ lực và bƣớc tiến lớn trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật
về PCMBN của Nhà nƣớc Việt Nam. Những nỗ lực và bƣớc tiến này cần
19
đƣợc phân tích bởi nhiều chủ thể, từ nhiều góc độ, để đánh giá một cách
thấu đáo những ƣu điểm và tồn tại, từ đó xác định những bƣớc đi tiếp theo
trong cuộc chiến PCMBN ở Việt Nam.
1.1.2.2. Ý nghĩa của việc phòng, chống mua bán người
Quyền con ngƣời là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là
giá trị chung của các dân tộc. Ngày nay, mức độ bảo đảm quyền con ngƣời đƣợc
xem nhƣ là một thƣớc đo của sự tiến bộ và trình độ văn minh của xã hội, không
phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa. Khoản 1 Điều
20 Hiến pháp 2013 nêu rõ “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự nhân phẩm” [59, tr.5]. Vậy, PCMBN có ý
nghĩa quan trọng về khẳng định sự tôn chỉ Hiến pháp về quyền con ngƣời,
quyền công dân cụ thể là đảm bảo quyền về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
đặc biệt là đảm bảo nhân phẩm của ngƣời phụ nữ và sự phát triển lành mạnh
của trẻ em.
PCMBN không phải là trách nhiệm của riêng ai mà của toàn xã hội, của
cá nhân, gia đình, tổ chức xã hội và nhà nƣớc. Việc thực hiện các quy định về
PCMBN không chỉ góp phần nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân với cộng
đồng mà còn ngăn chặn kịp thời tệ nạn MBN, bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của nạn nhân, của những ngƣời có nguy cơ bị mua bán. Bên cạnh đó,
thông qua công tác ngừa giúp cho mọi ngƣời có cơ hội, có cái nhìn hiểu biết
hơn nhằm nâng cao ý thức chủ động trong đấu tranh phòng, chống tội phạm
MBN, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
PCMBN còn thể hiện chức năng quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mọi công dân trong xã hội; đồng thời tiếp tục
khẳng định quyết tâm mạnh mẽ của Đảng, Chính phủ Việt Nam trong việc
thực thi pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
20
Ngoài ra, PCMBN nêu cao giá trị nhân văn sâu sắc về quan điểm, nhận
thức và quyết tâm của toàn xã hội trong việc thực hiện cam kết tôn trọng, bảo
vệ và thúc đẩy quyền con ngƣời, vì một xã hội Việt Nam hòa bình, an ninh,
tiến bộ.
1.1.3. Đặc điểm, nội dung, yêu cầu của pháp luật về phòng, chống
mua bán ngƣời
1.1.3.1. Đặc điểm của pháp luật phòng, chống mua bán người
PCMBN hiện nay đang trở thành một trong những vấn đề toàn cầu và
đƣợc mọi cộng đồng quốc gia trên thế giới quan tâm. Thực tiễn cho thấy công
tác đấu tranh PCMBN là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp không chỉ riêng
một lĩnh vực nào đó mà nó đi liền với nhiều bức xúc của xã hội.
Xem xét vấn đề PCMBN trong mối tƣơng quan với các vấn đề chính trị
- xã hội khác, có thể nêu ra các đặc điểm của pháp luật PCMBN nhƣ sau:
- Thứ nhất, pháp luật PCMBN bao gồm các quy định về hành vi bị
nghiêm cấm, nguyên tắc PCMBN; chính sách của nhà nước về PCMBN và
quyền, nghĩa vụ của nạn nhân.
Những quy định trong pháp luật PCMBN không chỉ mục đích nhằm
bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân mà còn khẳng định giá trị nhân văn
sâu sắc, khẳng định sự nhất quán của Đảng, Nhà nƣớc trong nhiệm vụ thực thi
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
- Thứ hai, pháp luật về phòng, chống mua bán người là tổng hợp nhiều
quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Nhiệm vụ của pháp luật là xác lập cơ sở pháp lý và tạo cơ sở để PCMBN.
Việc xác lập và bảo vệ quyền con ngƣời không chỉ đƣợc quy định trong Hiến
pháp mà còn đƣợc quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác
nhau nhƣ: Bộ luật Dân sự, BLHS, BLTTHS, Bộ luật Lao động, Luật hôn nhân
và gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em,
21
Luật nuôi con nuôi, Luật phòng, chống mại dâm… Đặc biệt, trong những văn
bản pháp luật này đều có những quy định riêng về PCMBN nhằm mục đích
bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện quyền con ngƣời, quyền công dân. Ngoài hệ
thống quyền con ngƣời thống nhất, việc thực hiện quyền này là cơ sở là tiền
đề cho việc bảo đảm thực hiện các quyền khác. Chính vì vậy, việc bảo đảm
thực hiện quyền con ngƣời không chỉ căn cứ vào những quy phạm pháp luật
riêng quy định về PCMBN mà còn liên quan đến nhiều quy phạm pháp luật
thuộc các lĩnh vực khác nhau. Nói cách khác, pháp luật về PCMBN là tổng
hợp của nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm bảo vệ
và bảo đảm quyền con ngƣời đƣợc thực hiện có hiệu quả trên thực tế.
- Thứ ba, pháp luật về PCMBN là sự kết hợp hài hoà giữa các quy
phạm pháp luật quốc tế và điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia.
Thúc đẩy và bảo vệ quyền con ngƣời không chỉ là mối quan tâm và trách
nhiệm của riêng một quốc gia nào mà nó đã trở thành nghĩa vụ và trách nhiệm
chung của cả cộng đồng quốc tế. Cộng đồng quốc tế đã thông qua nhiều văn kiện
pháp lý quy định về PCMBN. Những văn kiện đó thể hiện trách nhiệm cả cộng
đồng nhân loại về bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân.
Trong các văn kiện pháp lý quốc tế quy định trực tiếp hoặc gián tiếp về
PCMBN, Việt Nam đã gia nhập và phê chuẩn nhiều công ƣớc quan trọng nhƣ:
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời (UDHR) năm 1948, Nghị định
thƣ về việc phòng ngừa, trấn áp và trừng trị hành vi BBN đặc biệt là phụ nữ
và trẻ em (PALERMO), Hiệp định song phƣơng giữa Chính phủ nƣớc Cộng
hòa XHCN Việt Nam với các nƣớc Trung Quốc, Campuchia, Lào, Thái Lan
về hợp tác nhằm loại trừ nạn BBN… Trong quá trình xây dựng pháp luật, Nhà
nƣớc luôn xem xét khả năng thể chế hoá những quy định tiến bộ của pháp luật
quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia. Đây cũng là một phần trong trách
nhiệm lập pháp của quốc gia khi gia nhập và phê chuẩn các công ƣớc này.
22
Bên cạnh đó, khi xây dựng pháp luật, nhà nƣớc cũng dựa trên quan điểm
quyết tâm loại trừ tệ nạn này ra khỏi cộng đồng và phát huy trách nhiệm bảo
vệ, tạo điều kiện tốt nhất để nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng. Chính vì thế,
các quy phạm pháp luật về PCMBN trong hệ thống pháp luật Việt Nam thể
hiện rõ tƣ tƣởng trên, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên tắc bình đẳng
không phân biệt đối xử.
1.1.3.2. Nội dung của pháp luật phòng, chống mua bán người
Nội dung của pháp luật về PCMBN đề cập đến các quy phạm pháp luật
cụ thể hƣớng đến mục tiêu thực hiện tốt công tác PCMBN ở Việt Nam và hợp
tác quốc tế đấu tranh phòng ngừa tội phạm MBN hiện nay, cụ thể bao gồm:
Thứ nhất, về quy định chung:
Pháp luật PCMBN đã xác định phạm vi điều chỉnh tƣơng đối toàn diện,
quy định một cách tập trung, thống nhất những vấn đề có tính nguyên tắc, làm
định hƣớng cho công tác PCMBN với 06 nhóm vấn đề lớn hết sức quan trọng
đã đƣợc khái quát cụ thể là: Các nguyên tắc PCMBN (Điều 4 Luật PCMBN)
bao gồm: Kết hợp thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý vi
phạm; Kịp thời giải cứu, bảo vệ, tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ nạn nhân; không
kỳ thị, phân biệt đối xử, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của nạn nhân; Phát
huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức;
Ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời và chính xác mọi hành
vi vi phạm; Tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong đấu tranh PCMBN [65, tr.3].
Các nguyên tắc nêu trên đóng vai trò là những tƣ tƣởng chỉ đạo việc
xây dựng và thực thi các văn bản pháp luật về PCMBN. Nhìn tổng thể, chúng
đã tƣơng thích với năm nhóm vấn đề đƣợc xác định trong Nghị định thƣ
Palermo, bao gồm: Phòng ngừa BBN; Phát hiện, xử lý những hành vi BBN;
Bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và nhân chứng; Hồi hƣơng và tái hồi nhập cộng đồng
nạn nhân; và Hợp tác quốc tế trong phòng, chống BBN.
23
Về chính sách của Nhà nƣớc về PCMBN (Điều 5 Luật PCMBN), bao
gồm: Kết hợp PCMBN với việc thực hiện chƣơng trình khác về phát triển
kinh tế - xã hội; Khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nƣớc và ngoài
nƣớc hợp tác, tài trợ cho hoạt động PCMBN và hỗ trợ nạn nhân; Khen thƣởng
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích; bảo đảm chế độ, chính sách đối với
những ngƣời trực tiếp tham gia PCMBN bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ
hoặc tài sản; Bố trí ngân sách cho công tác PCMBN [65, tr.4].
Các chính sách này đƣợc thực hiện thông qua các văn bản hƣớng dẫn
nhƣ Nghị định số 62/2012/NĐ-CP ngày 13/8/2012 của Chính phủ quy định
căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, ngƣời
thân thích của họ; Thông tƣ liên tịch số 01/TTLT/BCA-BQP-BNG-BLĐTBXH
ngày 10/02/2014 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ LĐTBXH, Bộ Ngoại
giao hƣớng dẫn trình tự, thủ tục quan hệ phối hợp trong xác minh, xác định,
tiếp nhận và trao trả nạn nhân bị mua bán…
Về các quyền và nghĩa vụ của nạn nhân quy định tại Điều 6 Luật
PCMBN. Theo Điều này, nạn nhân bị mua bán có các quyền: Đƣợc yêu cầu
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của mình hoặc của
ngƣời thân thích; Đƣợc bồi thƣờng thiệt hại theo quy định của pháp luật;
Đƣợc hƣởng các chế độ hỗ trợ liên quan đến các nhu cầu thiết yếu, chăm sóc
y tế, tâm lý, trợ giúp pháp lý. Bên cạnh đó, nạn nhân cũng có hai nghĩa vụ là:
Cung cấp thông tin liên quan đến việc mua bán ngƣời cho cơ quan, tổ chức
hoặc ngƣời có thẩm quyền; Thực hiện yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền
liên quan đến vụ việc mua bán ngƣời [65, tr.4, 5].
Việc quy định các quyền của nạn nhân giúp nâng cao tính trách nhiệm,
chuyên nghiệp và hiệu quả của công tác tiếp nhận, trợ giúp nạn nhân bị mua
bán; còn việc quy định các nghĩa vụ của nạn nhân nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho việc điều tra, xử lý các vụ án MBN.
24
Thứ hai, công tác phòng ngừa MBN:
Phòng ngừa MBN đƣợc pháp luật PCMBN chú trọng nhóm các biện
pháp phòng ngừa chung nhƣ: tuyên truyền, giáo dục, tƣ vấn về PCMBN, hoạt
động quản lý an ninh trật tự, kiểm soát an ninh biên giới cũng nhƣ nhóm các
biện pháp phòng ngừa thông qua hoạt động của một số cơ quan, tổ chức và sự
tham gia của cá nhân, gia đình trong việc phòng ngừa MBN.
Thứ ba, xử lý vi phạm về MBN:
Luật PCMBN xác định phát hiện, xử lý kịp thời mọi hành vi MBN là
một trong những nguyên tắc cơ bản. Để cụ hóa nguyên tắc này, cần tập trung
3 vấn đề sau:
- Nghĩa vụ tố giác, báo tin về hành vi MBN, hành vi liên quan đến MBN
và các hành vi khác vi phạm pháp luật về PCMBN (Điều 19 Luật PCMBN).
Nghĩa vụ này áp dụng với mọi cá nhân. Chủ thể tiếp nhận tố giác, báo tin của
ngƣời dân bao gồm cơ quan công an, UBND cấp xã hoặc bất kỳ cơ quan, tổ
chƣ́ c nào mà ngƣời dân thấy thuận tiện. Luâ ̣t không có quy định khống chế về
hình thức báo tin , tố giác vi pha ̣m . Điều đó có nghĩa là ngƣời dân có thể sử
dụng bất kỳ hình thức nào mà họ thấy thuận tiện nhƣ trực tiếp bằng miệng,
qua điện thoại, qua mạng thông tin điện tử hoặc gửi văn bản.
- Trách nhiệm của cơ quan , tổ chứ c trong việc phá t hiện và xử lý vi
phạm. Tùy từng cơ quan, tổ chức, trách nhiệm này đƣợc thực hiện thông qua
hoạt động kiểm tra, thanh tra (Điều 20) và hoạt động nghiệp vụ (Điều 21).
Đối với hoạt động nghiệp vụ, Luật PCMBN cho phép lực Lƣợng công an
nhân dân, Quân đội nhân dân đƣợc yêu cầu cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ
chức cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc điều tra, đồng thời có
quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ nạn nhân, ngƣời tố giác,
ngƣời làm chứng, ngƣời thân thích của họ khỏi bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm
hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và tài sản.
25
- Giải quyết các tin báo, tố giác, tố cá o và xử lý vi phạm: Theo Điều 22
Luật PCMBN, việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm MBN đƣợc thực hiện
theo quy định của BLTTHS, còn với những tố cáo thì theo pháp luật về tố
cáo. Theo Điều 23, các hành vi vi phạm, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm
mà có thể bị xử lý kỷ luật, hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
và nếu gây thiệt hại thì còn phải bồi thƣờng theo luật dân sự.
Các quy định nêu trên đã cung cấp khuôn khổ pháp lý để phát hiện và
xử lý những vi phạm pháp luật về MBN. Nhìn tổng thể, phạm vi các quy định
trong Chƣơng III Luật PCMBN là toàn diện, tuy nhiên, ngoại trừ những nội
dung về phát hiện tội phạm (các Điều từ 19 đến Điều 21), những nội dung về
giải quyết tin báo, tố giác, tố cáo, xử lý tội phạm (các Điều 22, Điều 23) đều
không có giá trị áp dụng trực tiếp, mà viện dẫn đến các quy định trong các
văn bản pháp luật khác có liên quan (Luật tố cáo, BLTTHS, BLHS). Đây là
điểm khác biệt giữa Luật PCMBN của Việt Nam với các đạo luật về vấn đề
này của một số nƣớc khác, ví dụ nhƣ Thái Lan, Campuchia (luật của những
quốc gia này quy định rõ chế tài xử lý các tội BBN). Sự khác biệt đó một
phần xuất phát từ truyền thống lập pháp của Việt Nam, đó là tội phạm và hình
phạt chỉ đƣợc quy định trong BLHS.
Thứ tư, bảo vệ, hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân
Việc bảo vệ, hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân đƣợc quy định
tại các Điều 27, Điều 28 Luật PCMBN và khoản 1 Điều 5 Nghị định
62/2012/NĐ-CP ngày 13/8/2012 của Chính phủ về việc quy định căn cứ xác
định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, ngƣời thân thích
của họ là đối tƣợng của một trong những hành vi: MBN; Chuyển giao hoặc
tiếp nhận ngƣời; Ép buộc làm đối tƣợng sản xuất băng, đĩa hình, sách, tranh,
ảnh, lịch và những hình thức khác có nội dung tuyên truyền lối sống đồi trụy,
khiêu dâm; Ép buộc biểu diễn cho ngƣời khác xem thân thế mình với mục
26
đích kích động tình dục; Làm nô lệ tình dục; Cƣỡng bức lao động; Lấy các bộ
phận cơ thể một cách bất hợp pháp; Ép buộc đi ăn xin; Ép buộc làm vợ hoặc
chồng; Ép buộc đẻ con trái ý muốn của họ; Ép buộc thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật; Vì mục đích vô nhân đạo khác; Tuyển mộ, vận chuyển, chứa
chấp ngƣời để thực hiện các hành vi quy định tại các điểm a, b khoản này
hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác [65].
Tuy nhiên, cả Luật PCMBN và Nghị định số 62/2012/NĐ-CP đều chƣa
xác định rõ những tài liệu, chứng cứ (do các cơ quan nhà nƣớc có liên quan và
các chủ thể khác cung cấp) cần thiết để chứng minh một ngƣời là nạn nhân bị
mua bán cụ thể là gì điều này có thể gây khó khăn cho việc xác định nạn nhân
trong thực tế.
Thứ 5, hợp tác quốc tế về PCMBN:
Một trong những nguyên tắc định hƣớng của pháp luật PCMBN là tăng
cƣờng hợp tác quốc tế trong PCMBN. Trên cơ sở nguyên tắc này, Chƣơng
trình hành động phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011 - 2015 đã dành
hẳn Đề án 5 để “Tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong PCMBN”.
Luật PCMBN cũng quy định rõ 4 nhóm vấn đề quan trọng trong hợp
tác quốc tế về PCMBN, bao gồm: Nguyên tắc hợp tác; Phạm vi lĩnh vực hợp
tác; Giải cứu và hồi hƣơng nạn nhân; Tƣơng trợ tƣ pháp.
Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011 -
2015 xác định cơ quan chủ trì của Đề án 5 về hợp tác quốc tế trong PCMBN là
Bộ Công an, còn các cơ quan phối hợp bao gồm tất cả các bộ, ngành, tổ chức
xã hội có liên quan, trong đó đặc biệt là Bộ Ngoại giao, Bộ Tƣ pháp, Bộ LĐ-
TB-XH, Bộ Quốc phòng, VKSNDTC, TANDTC, Hội LHPN Việt Nam. Đề án
này cũng xác định những chỉ tiêu cụ thể cần đạt đƣợc đến năm 2015, đó là:
Triển khai thực hiện và có cơ chế theo dõi giám sát với 100% các điều ƣớc
quốc tế về PCMBN mà Việt Nam đã tham gia; Hàng năm, tăng ít nhất 5% số
27
vụ việc MBN đƣợc giải quyết thông qua hợp tác quốc tế; hoàn thành 100% các
dự án hợp tác quốc tế tài trợ hoặc hỗ trợ; Ký kết hiệp định hợp tác song phƣơng
về phòng, chống tội phạm MBN với ít nhất 5 quốc gia mới [30, tr.11].
1.1.3.3. Yêu cầu của pháp luật phòng, chống mua bán người
PCMBN là nhiệm vụ quan trọng trong công tác phòng chống tội phạm
nói chung nhằm bảo vệ quyền con ngƣời, giữ vững an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội. Đồng thời khẳng định vị trí, vai trò của Việt Nam trong việc
tham gia các Điều ƣớc quốc tế, các Hiệp định song và đa phƣơng trong lĩnh
vực PCMBN. Do vậy, để thực hiện tốt nội dung của pháp luật PCMBN ở Việt
Nam cần đáp ứng các yêu cầu sau đây:
Một là, làm tốt vai trò tham mƣu cho Chính phủ, UBND các cấp, chỉ
đạo, hƣớng dẫn, đôn đốc các cấp, các ngành xây dựng và tổ chức triển khai
thực hiện có hiệu quả pháp luật PCMBN, các Chƣơng trình hành động phòng,
chống tội phạm MBN.
Hai là, tăng cƣờng sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm; kết hợp chặt chẽ giữa công tác phòng, chống tội
phạm với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Công tác phòng chống tội
phạm phải đƣợc xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp ủy
đảng và chính quyền các cấp, phải lấy chủ động phòng ngừa là cơ bản, kết
hợp tích cực với tấn công trấn áp tội phạm.
Ba là, tổ chức nghiên cứu, phổ biến, quán triệt sâu rộng nội dung pháp
luật PCMBN, triển khai nội dung Chƣơng trình hành động phòng, chống tội
phạm MBN đến các Bộ, ngành, đoàn thể và địa phƣơng, làm chuyển biến cơ
bản về nhận thức và hành động trong toàn xã hội, tạo ra sức mạnh tổng hợp
nhằm chủ động phòng ngừa và tích cực tham gia đấu tranh với tội phạm MBN.
Bốn là, tăng cƣờng mối quan hệ phối hợp đồng bộ giữa các đơn vị, địa
phƣơng, các cơ quan ban ngành, đoàn thể liên quan; giữa lực lƣợng công an
28
với Bộ đội biên phòng để triển khai các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn.
Nâng cao tỉ lệ điều tra, khám phá các vụ án, rà sát giải quyết dứt điểm các vụ
án, vụ việc liên quan đến đƣờng dây, băng nhóm tội phạm MBN. Phối hợp
với Viện kiểm sát, Tòa án xử lý nghiêm minh, triệt để tội phạm MBN xuyên
quốc gia và quốc tế; xử lý hành chính triệt để các trung tâm môi giới trái pháp
luật không để chúng lợi dụng hoạt động MBN.
Năm là, Thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ nạn nhân, tiếp nhận, hồi
hƣơng, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân bị mua bán trở về. Xây
dựng và ban hành các văn bản pháp luật theo đúng tiến độ nhằm đƣa Luật
PCMBN vào thực tiễn thi hành.
Sáu là, Tăng cƣờng hợp tác quốc tế; ký kết và triển khai có hiệu quả
các Hiệp định, Thỏa thuận hợp tác song phƣơng và đa phƣơng với các nƣớc,
các tổ chức quốc tế, huy động sự hỗ trợ về tài chính, chuyên môn, kỹ thuật
trong PCMBN.
1.2. KHUNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI
BBN là một hiện tƣợng xã hội đã xuất hiện từ khi xã hội loài ngƣời
bƣớc vào giai đoạn phát triển hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ. Cho
đến nay tệ nạn BBN vẫn tồn tại và có chiều hƣớng gia tăng đáng lo ngại trên
phạm vi toàn thế giới, với các mục đích phi nhân đạo nhƣ: bóc lột tình dục,
bóc lột sức lao động, lấy đi một hoặc một số bộ phận trên cơ thể, kết hôn trái
ý muốn… Để phòng, chống tệ nạn này và bảo vệ các nạn nhân, từ trƣớc tới
nay quốc tế và khu vực đã có rất nhiều văn bản pháp luật trực tiếp, gián tiếp
đề cập đến các vấn đề này. Điển hình là các văn bản quốc tế nhƣ: Tuyên bố
toàn thế giới về nhân quyền năm 1948; Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị năm 1966, Công ƣớc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ năm 1979; Công ƣớc về quyền trẻ em năm 1989; Công ƣớc của
Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000
29
(TOC), Nghị định thƣ về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm BBN, đặc
biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000 (Nghị định thƣ Palermo), Nghị định thƣ về
phòng, chống đƣa ngƣời di cƣ trái phép bằng đƣờng bộ, đƣờng biển và đƣờng
không, bổ sung cho Công ƣớc của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia năm 2000; Nghị định thƣ không bắt buộc bổ sung cho
Công ƣớc về quyền trẻ em, buôn bán trẻ em, mua dâm trẻ em và văn hóa
phẩm khiêu dâm trẻ em năm 2000; Công ƣớc số 182 của ILO về nghiêm cấm
và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất năm
1999. Ngoài ra, còn có các Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp trong các vụ việc hình
sự giữa các quốc gia ASEAN năm 2004; Hiệp định song phƣơng trong lĩnh
vực tƣ pháp; Thỏa thuận hợp tác về phòng, chống BBN giữa các nƣớc trong
khu vực ASEAN...
Đây là những văn bản pháp luật quốc tế quan trọng về PCMBN. Là cơ
sở pháp lý để cộng đồng thế giới thực hiện nhằm đấu tranh phòng, chống tệ
nạn MBN đang ngày càng gia tăng hiện nay.
1.3. KHUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA
BÁN NGƢỜI
1.3.1. Hệ thống văn bản pháp luật trong nƣớc
Vấn đề PCMBN đƣợc đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều văn
bản pháp luật của Việt Nam, trong đó, ngoài Luật PCMBN là nòng cốt còn có
nhiều đạo luật khác, tiêu biểu nhƣ sau:
- Hiến pháp 2013, tại Chƣơng II quy định các quyền và nghĩa vụ của
công dân, trong đó có các quyền có ý nghĩa trực tiếp với việc bảo vệ mọi
ngƣời khỏi bị buôn bán, nhƣ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm (Điều 20); quyền bình đẳng nam nữ, cấm phân
biệt đối xử về giới (Điều 26); quyền của trẻ em đƣợc bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục; nghiêm cấm hành hạ, ngƣợc đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động
30
của trẻ em (Điều 37); quyền lựa chọn nghề nghiệp, việc làm, nơi làm việc,
đƣợc bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng an toàn, cấm phân biệt đối
xử, cƣỡng bức lao động (Điều 35).
- BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về tội phạm
và hình phạt. Tội MBN (Điều 119); tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt
trẻ em (Điều 120), tội tổ chức, cƣỡng ép ngƣời khác trốn đi nƣớc ngoài hoặc
ở lại nƣớc ngoài trái phép (Điều 275).
- BLTTHS năm 2003 quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử. Đây là cơ sở pháp lý để điều tra, truy tố, xét xử phạm tội MBN.
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định trình tự, thủ tục khởi kiện
và giải quyết các vụ việc dân sự. Là cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động
tố tụng dân sự trong các vụ việc MBN, đặc biệt trong việc đòi bồi thƣờng
những thiệt hại về vật chất, tinh thần cho ngƣời bị hại.
- Bộ luật Lao động năm 2012 điều chỉnh các quan hệ về lao động, việc
làm. Là nền tảng để phòng ngừa và xử lý những vi phạm quyền con ngƣời
trong quan hệ lao động, trong đó có những hành vi lao động cƣỡng bức, bóc
lột sức lao động… mà thƣờng gắn với vấn đề MBN.
- Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về các hình thức
và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Đây là nền tảng cho các Nghị định về
xử phạt những hành vi MBN, cƣỡng bức lao động, xuất cảnh, nhập cảnh trái
phép, tổ chức, cƣỡng ép ngƣời khác trốn đi nƣớc ngoài... mà chƣa đến mức bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 điều chỉnh những quan hệ
hôn nhân và gia đình. Luật bao gồm các chƣơng riêng về kết hôn (chƣơng
II), con nuôi (chƣơng III), quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc
ngoài (chƣơng XI) là những chế định có ý nghĩa phòng, chống mua bán
phụ nữ, trẻ em.
31
- Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định các nguyên tắc và biện
pháp bảo đảm bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia
đình. Luật này góp phần làm giảm nguy cơ phụ nữ, trẻ em bị mua bán
thông qua việc xoá bỏ phân biệt đối xử, tạo lập bình đẳng giới thực chất
trong xã hội và gia đình.
- Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định các nguyên
tắc và biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân.
Luật này cũng có tác dụng gián tiếp phòng ngừa tệ nạn MBN, vì bạo lực gia
đình thƣờng đẩy các thành viên, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em vào những hoàn
cảnh có nguy cơ cao bị mua bán.
- Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định các
quyền, bổn phận của trẻ em và trách nhiệm của gia đình, nhà nƣớc, xã hội
trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Luật có một chƣơng riêng
(chƣơng IV) quy định về việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt, bao gồm trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng
nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xã gia đình;
trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm phạm tình dục; trẻ em nghiện ma túy; trẻ em
vi phạm pháp luật.
- Luật Ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp
đồng năm 2006 điều chỉnh các vấn đề liên quan đến việc đƣa ngƣời lao động
đi làm việc ở nƣớc ngoài. Đạo luật này có ý nghĩa quan trọng trong việc
phòng chống những hành vi MBN thông qua việc xuất khẩu lao động.
- Luật Trợ giúp pháp lý năm 2007 quy định về vấn đề hỗ trợ dịch vụ
pháp lý miễn phí cho những nhóm yếu thế trong xã hội. Luật có ý nghĩa quan
trọng với việc cung cấp hỗ trợ pháp lý cho nạn nhân bị mua bán.
- Luật Tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007 quy định các nguyên tắc, thẩm
quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tƣơng trợ tƣ pháp giữa Việt Nam với nƣớc
32
ngoài. Đạo luật này là cơ sở pháp lý để thực hiện hợp tác giữa Việt Nam và
các quốc gia khác trong việc điều tra, truy tố, xét xử những hành vi MBN
xuyên quốc gia và bảo vệ, hỗ trợ, hồi hƣơng nạn nhân bị mua bán.
- Luật Quốc tịch năm 2008 điều chỉnh các quan hệ về quốc tịch. Luật
này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ nạn nhân bị mua bán ra
nƣớc ngoài.
- Luật Bảo vệ biên giới quốc gia năm 2003 quy định về việc quản lý
biên giới quốc gia (cả trên bộ và trên biển). Đây là cơ sở pháp lý để ngăn
ngừa việc MBN ra nƣớc ngoài và để tiếp nhận, bảo vệ, hỗ trợ, hồi hƣơng các
nạn nhân bị mua bán.
- Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003 quy định những nguyên
tắc và biện pháp phòng, chống mại dâm. Luật cũng góp phần vào việc
PCMBN, vì trong thực tế, mại dâm thƣờng đi liền với MBN vì mục đích bóc
lột tình dục.
Kèm theo những luật và pháp lệnh nêu trên là các văn bản dƣới luật
(Nghị định, Thông tƣ, Thông tƣ liên tịch, Quyết định..) để cụ thể hóa. Danh
mục các văn bản pháp luật hiện hành quan trọng của Việt Nam liên quan đến
PCMBN đƣợc nêu ở danh mục tài liệu tham khảo.
Nhằm thực hiện các văn bản pháp luật nêu trên, từ 2004 đến nay, Chính
phủ đã xây dựng và thực hiện hai Chƣơng trình Hành động quốc gia, bao gồm:
- Chƣơng trình hành động quốc gia phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ
em giai đoạn 2004-2010 (hiện đã kết thúc), gồm 4 đề án: Tuyên truyền, giáo
dục trong cộng đồng về phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em; Đấu
tranh chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em; Tiếp nhận và hỗ trợ những
phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về; Xây dựng và
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến công tác phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em [27].
33
- Chƣơng trình hành động quốc gia phòng, chống tội phạm MBN giai
đoạn 2011-2015 (hiện đang thực hiện), gồm 5 đề án: Đẩy mạnh thông tin,
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức và kỹ
năng phòng, chống tội phạm MBN trong toàn xã hội; Nâng cao hiệu quả đấu
tranh chống tội phạm MBN; Tiếp nhận, xác minh, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân
bị mua bán trở về; Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật và theo dõi thi hành pháp luật về PCMBN; Tăng cƣờng hợp tác quốc tế
trong PCMBN [30].
1.3.2. Các điều ƣớc quốc tế
Việt Nam đã tham gia, ký kết nhiều điều ƣớc và thỏa thuận quốc tế đa
phƣơng, khu vực và song phƣơng liên quan đến phòng, chống BBN, trong đó
bao gồm Công ƣớc của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia (TOC) cùng Nghị định thƣ bổ sung Công ƣớc này về trừng trị tội
BBN, đặc biệt là buôn bán phụ nữ và trẻ em (Nghị định thƣ Palermo, 2000).
Việt Nam cũng đã tham gia Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp trong các vụ việc hình
sự giữa các quốc gia ASEAN năm 2004, và ký 23 hiệp định song phƣơng trong
lĩnh vực tƣ pháp với các nƣớc (tính đến hết tháng 10/2013) trong đó có 15 hiệp
định đƣợc ký trong giai đoạn 1980-2007, số còn lại (8 hiệp định) mới đƣợc ký
từ sau khi Luật Tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007 đƣợc ban hành trở lại đây. Đặc
biệt, Việt Nam đã ký kết một số thỏa thuận hợp tác về phòng, chống BBN với
các nƣớc trong khu vực, bao gồm Trung Quốc, Campuchia, CHDCND Lào và
Thái Lan. Danh mục các điều ƣớc và thỏa thuận quốc tế đa phƣơng, khu vực và
song phƣơng liên quan đến phòng, chống BBN mà Việt Nam đã tham gia đƣợc
nêu ở Danh mục tài liệu tham khảo.
1.3.3. Luật phòng, chống mua bán ngƣời
Luật PCMBN đƣợc Quốc Hội thông qua ngày 29/3/2011, có hiệu lực từ
01/01/2012. Đây là đạo luật chuyên ngành đầu tiên về lĩnh vực này, hiện là
34
xƣơng sống của hệ thống pháp luật về PCMBN của Việt Nam. Việc ban hành
đạo luật này đƣợc coi là một bƣớc chuẩn bị để Việt Nam xem xét phê chuẩn
Công ƣớc TOC và Nghị định thƣ Palermo - hai điều ƣớc quốc tế hiện hành
quan trọng nhất về phòng, chống BBN.
Luật PCMBN bao gồm 8 chƣơng, 58 Điều với những quy định sau đây;
Chƣơng I: Những quy định chung gồm 6 điều, từ Điều 1 đến Điều 6.
Chƣơng II: Phòng, ngừa MBN gồm 12 điều, từ Điều 7 Điều 18.
Chƣơng III: Phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về PCMBN
gồm 5 điều, từ Điều19 đến Điều 23.
Chƣơng IV: Tiếp nhận, xác minh, bảo vệ nạn nhân gồm 8 điều, từ Điều
24 đến Điều 31.
Chƣơng V: Hỗ trợ nạn nhân gồm 9 điều, từ Điều 32 đến Điều 40.
Chƣơng IV: Trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ và địa phƣơng trong
PCMBN gồm 12 điều, từ Điều 41 đến Điều 52.
Chƣơng VII: Hợp tác quốc tế trong PCMBN gồm 4 điều, từ Điều 53
đến Điều 56.
Chƣơng VIII: Điều khoản thi hành gồm 2 điều, từ Điều 67 đến Điều 58 [65].
Tiểu kết chƣơng 1
Trên cơ sở phân tích các khái niệm “buôn bán ngƣời” và „mua bán
ngƣời‟, „buôn bán/mua bán phụ nữ, trẻ em” trong pháp luật quốc tế và pháp
luật Việt Nam. Luận văn đã giới thiệu định nghĩa và chỉ ra các yếu tố cấu
thành hành vi MBN. Bên cạnh đó, luận văn còn phân tích một số khái niệm
khác có liên quan, làm rõ ý nghĩa của việc PCMBN, các đặc điểm, nội dung
và các yêu cầu của pháp luật PCMBN. Trong chƣơng này, luận văn cũng mô
tả khái quát khung pháp luật quốc tế và khung pháp luật Việt Nam về
PCMBN làm cơ sở để nghiên cứu thực trạng thực thi các quy định này ở tỉnh
Thanh Hóa trong chƣơng 2.
35
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG
MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA CỦA
TỈNH THANH HÓA ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
PHÕNG. CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Thanh Hóa nằm ở phía Bắc Miền Trung, cách thủ đô Hà Nội 150km về
phía Nam, cách thành phố Hồ Chí Minh 1560km về phía Bắc. Phía Bắc giáp
với 3 tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía
Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (Cộng Hoà dân chủ nhân dân Lào), phía Đông là
Vịnh Bắc Bộ. Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hƣởng của những tác động từ
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế
Trung Bộ. Có hệ thống giao thông thuận lợi nhƣ: đƣờng sắt xuyên Việt,
đƣờng Hồ Chí Minh, các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217; Cảng hàng không Thọ
Xuân; Cảng biển nƣớc sâu Nghi Sơn và hệ thống sông ngòi thuận tiện cho lƣu
thông Bắc Nam.
Thanh Hóa có diện tích tự nhiên 11.116,34km vuông, chiếm 3,25 %
tổng diện tích tự nhiên của cả nƣớc. Địa hình Thanh Hoá rất phức tạp, thấp
dần từ phía Tây sang phía Đông, vùng miền núi, trung du chiếm phần lớn diện
tích của tỉnh. Đồng bằng Thanh Hoá lớn nhất khu vực miền Trung và lớn thứ
3 của cả nƣớc, có đầy đủ tính chất của một đồng bằng châu thổ, do phù sa các
hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Hoạt bồi đắp. Vùng ven biển với bờ biển
dài, bằng phẳng, có những vùng đất rộng lớn thuận lợi cho việc phát triển
kinh tế biển nhƣ Nga Sơn, Sầm Sơn, Nghi Sơn.
Thanh Hoá là một tỉnh chịu ảnh hƣởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa.
36
Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 23o
C đến 22o
C. Lƣợng mƣa trung bình hàng
năm khoảng 1600 đến 2300mm. Độ ẩm tƣơng đối trung bình cả năm ở vùng
biển và đồng bằng từ 85% đến 87%, ở miền núi từ 85% đến 90%. Thanh Hoá
nằm trong vùng ảnh hƣởng của bão lụt, chịu ảnh hƣởng nhiều của gió lào
khắc nghiệt, có các địa phƣơng thuộc miền núi, do đó đã ảnh hƣởng không
nhỏ tới hiệu quả thực hiện pháp luật và tình trạng vi phạm pháp luật nói
chung, pháp luật về PCMBN nói riêng của tỉnh Thanh Hoá [41. tr.1].
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội và văn hóa
* Đặc điểm kinh tế - xã hội
Thanh Hoá có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 1 thành phố trực
thuộc tỉnh, 2 thị xã và 24 huyện. Thanh Hoá có 637 đơn vị hành chính cấp xã.
Theo kết quả điều tra dân số năm 2013 Thanh Hoá có 3,62 triệu ngƣời, đứng
thứ 3 trong cả nƣớc chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Có 7 dân tộc
chủ yếu: Kinh, Mƣờng, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Dân cƣ phân bố
không đều giữa các vùng miền.
Hơn 20 năm đổi mới, kinh tế Thanh Hoá đã từng bƣớc ổn định và đang
trên đà phát triển. Từ năm 2006 trở lại đây, tăng trƣởng kinh tế bình quân
hàng năm ƣớc đạt 11,3%, cao hơn giai đoạn 2001-2005. Tổng GDP theo giá
so sánh năm 2010 gấp 1,7 lần năm 2005. GDP bình quân đầu ngƣời năm 2010
ƣớc đạt 810 USD, vƣợt mục tiêu kế hoạch. Tỷ trọng tổng sản phẩm nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản phát triển tƣơng đối ổn định, giá trị gia tăng bình quân
hàng năm tăng 2,6%. Năng suất các loại cây trồng chủ yếu đều tăng. Từ năm
2006, sản lƣợng lƣơng thực hàng năm luôn đạt trên 1,5 triệu tấn. Chăn nuôi
phát triển theo mô hình trang trại, gia trại, trồng rừng vƣợt mục tiêu kế hoạch,
tỷ lệ che phủ rừng năm 2010 ƣớc đạt 48,8%. Thủy sản phát triển toàn diện cả
đánh bắt, nuôi trồng và chế biến, sản lƣợng thủy sản năm 2010 tăng 1,4 lần so
với năm 2005; công nghiệp và xây dựng luôn duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng
37
cao, giá trị gia tăng bình quân hàng năm tăng 16%. Năm 2010, giá trị sản xuất
công nghiệp gấp 2,1 lần so với năm 2005. Các sản phẩm công nghiệp chủ lực
của tỉnh có mức tăng trƣởng khá, đã thu hút đƣợc một số dự án công nghiệp
lớn, một số ngành nghề truyền thống, nghề mới đƣợc khôi phục và phát triển.
Ngành xây dựng có bƣớc phát triển nhanh, đóng góp quan trọng cho tăng
trƣởng, giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2010 gấp 3,1 lần so với năm
2005; dịch vụ phát triển đa dạng, có chuyển biến tích cực cả về quy mô, cơ
cấu và chất lƣợng, giá trị tăng thêm bình quân hàng năm tăng 12,3%, đạt mục
tiêu kế hoạch. Thƣơng mại phát triển theo hƣớng ngày càng văn minh, thuận
tiện. Giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ năm 2010 ƣớc đạt 377 triệu USD,
vƣợt mục tiêu đề ra [44, tr.14, 15].
Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010-2015, tốc độ trăng trƣởng
bình quân 4 năm 2011 - 2014 ƣớc đạt 11,3%. Năm 2014 quy mô kinh tế ƣớc
đạt 31.210 tỷ đồng, gấp 1,54 lần năm 2010, GDP bình quân đầu ngƣời ƣớc
đạt 1.320 USD đứng thứ 7 cả nƣớc, đứng đầu khu vực Bắc Trung bộ. Cơ cấu
kinh tế năm 2014 dự ƣớc tỷ trọng nông lâm thủy sản 18,4%, công nghiệp -
xây dựng 42%, dịch vụ 39,6%. Sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản từng
bƣớc phát triển theo hƣớng sản xuất hàng hóa tập trung, tăng trƣởng bình
quân ƣớc đạt 3,8%, vƣợt mục tiêu đề ra; Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ
tăng trƣởng khá, giá trị sản xuất bình quân hàng năm đạt 13,8%; Chỉ số hội
nhập kinh tế quốc tế đứng thứ 6 cả nƣớc; Các ngành dịch vụ phát triển nhanh
cả về quy mô và loại hình dịch vụ. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ năm 2014
ƣớc đạt 18.180 tỷ đồng, bình quân hàng năm tăng trƣởng 12,7%. Kim ngạch
xuất khẩu năm 2014 ƣớc đạt 1 tỷ USD, gấp 2,7 lần năm 2010; Dịch vụ vận tải
hàng không hoạt động có hiệu quả. Thu ngân sách nhà nƣớc đạt kết quả khá,
năm 2014 ƣớc đạt 7.000 tỷ đồng, gấp 2 lần năm 2010; tỷ lệ huy động GDP
38
vào ngân sách bình quân 5,8%. Chi ngân sách địa phƣơng cơ bản đáp ứng kịp
thời nhiệm vụ [10, tr.1,2]
Thanh Hóa có nguồn lao động khá dồi dào nhƣng trình độ chuyên môn
kỹ thuật của ngƣời lao động nhìn chung còn thấp; thiếu các nhà khoa học,
quản lý giỏi, thiếu các chuyên gia đầu ngành kinh tế, kỹ thuật, đặc biệt là
trong các ngành công nghệ mới và quản lý kinh tế. Điều này lý giải Thanh
Hóa là một trong những tỉnh có nhiều lao động phổ thông đi tìm việc làm ở
ngoại tỉnh, dẫn đến công việc đồng áng và gia đình hầu hết để lại cho phụ nữ
và trẻ em gái; bên cạnh đó có một số gia đình chồng ở lại quê nhà, vợ đi làm
ăn xa nhà. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều hệ
lụy đối với hạnh phúc của nhiều gia đình, tác động không nhỏ đến các hành vi
vi phạm pháp luật về PCMBN.
* Đặc điểm về giáo dục, văn hóa và y tế
Thanh Hóa là một tỉnh nổi tiếng có truyền thống hiếu học từ xƣa, là quê
hƣơng của nhiều nho sĩ. Trong thời kì phong kiến, Thanh Hóa có 02 trạng
nguyên, hàng ngàn tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa. Nền giáo dục hiện tại của
Thanh Hóa cũng luôn đƣợc xem là cái nôi nhân tài của Việt Nam. Năm 2013,
trong kỳ thi tuyển sinh cao đẳng và đại học, Thanh Hóa có nhiều thủ khoa
nhất nƣớc. Trên địa bàn Thanh Hóa đến nay có 03 trƣờng đại học đào tạo đa
ngành là Đại học Hồng Đức, Đại học văn hóa, thể thao, du lịch và một cơ sở
của Trƣờng Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, 01 trƣờng dự bị
đại học, 01 phân hiệu Đại học y Hà Nội, 05 trƣờng cao đẳng, nhiều trƣờng
trung cấp, 125 trƣờng THPT và 27 trung tâm giáo dục thƣờng xuyên. Nhiều
năm liên tục, Thanh Hóa dẫn đầu toàn quốc về phát triển toàn diện về quy mô
và chất lƣợng đào tạo. Giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề phát triển, góp
phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 27% năm 2005 lên 40% năm 2010,
vƣợt mục tiêu kế hoạch. Xã hội hóa lĩnh vực giáo dục đào tạo đạt kết quả
39
bƣớc đầu. Phong trào khuyến học, khuyến tài đƣợc đẩy mạnh. Hầu hết các xã
phƣờng, thị trấn đã có trung tâm học tập cộng đồng, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu học tập thƣờng xuyên của nhân dân. Công tác bảo vệ và chăm
sóc sức khỏe nhân dân có chuyển biến tích cực. Cơ sở vật chất, trang thiết bị
các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện đƣợc tăng cƣờng. Công tác phòng,
chống dịch bệnh đạt kết quả, không xảy ra dịch lớn. Xã hội hóa lĩnh vực y tế
đạt kết quả khá. Các chỉ tiêu về sức khỏe dân số Kế hoạch hóa gia đình và sức
khỏe sinh sản không ngừng đƣợc cải thiện, đạt mục tiêu đề ra [10, tr.3].
Hoạt động văn hoá, thông tin phát triển đa dạng, góp phần nâng cao đời
sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Nhiều di tích quan trọng đã và đang
đƣợc trùng tu, tôn tạo. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” tiếp tục đƣợc thực hiện. Hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình đƣợc
đổi mới về nội dung, tăng thời lƣợng và mở rộng phạm vi phát sóng đến vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đến năm 2013, tỷ lệ dân số
đƣợc phủ sóng phát thanh ƣớc đạt 100%, tăng 2%; tỷ lệ dân số đƣợc phủ sóng
truyền hình ƣớc đạt 95% tăng 10,5% so với năm 2010 [10, tr. 3].
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật luôn đƣợc chú
trọng, kỷ cƣơng pháp luật đƣợc giữ vững, ý thức tuân thủ pháp luật của nhân
dân trong toàn tỉnh đƣợc nâng lên, các hành vi vi phạm pháp luật đƣợc xử lý
nghiêm minh. Công tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo đảm quốc
phòng, an ninh trên toàn địa bàn tỉnh ổn định.
Tóm lại, mức sống của nhân dân tỉnh Thanh Hóa hiện nay đã đƣợc cải
thiện đáng kể, trình độ dân trí của nhân dân đƣợc nâng lên một cách rõ rệt.
Đặc biệt, quan tâm đến công tác PCMBN và việc tổ chức thực hiện pháp luật
về PCMBN đã đƣợc cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ủy Đảng và chính
quyền quan tâm thực hiện.
40
Tuy nhiên, một số chỉ tiêu bình quân đầu ngƣời của tỉnh còn thấp so
với trung bình cả nƣớc. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động còn
chậm. Quy mô sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ nhìn chung còn
nhỏ, trình độ thấp, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất chƣa cao. Kinh tế
rừng, kinh tế biển phát triển chƣa tƣơng xứng với tiềm năng. Môi trƣờng đầu
tƣ kinh doanh chƣa thực sự thông thoáng, hấp dẫn, triển khai thực hiện các dự
án đầu tƣ thƣờng chậm tiến độ, hiệu quả chƣa cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội còn thiếu và yếu kém, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển. Tốc độ
đô thị hóa chậm. Công tác giáo dục, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chƣa đáp
ứng đƣợc yêu cầu của quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH)
đất nƣớc, chất lƣợng giáo dục toàn diện chƣa cao, trình độ dân trí ở một số địa
phƣơng miền núi còn thấp. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn thấp, còn
khó khăn, an ninh trật tự, tệ nạn xã hội có nơi còn diễn biến phức tạp. Nhiều
vấn đề xã hội phát sinh trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá chƣa giải
quyết có hiệu quả nhƣ việc làm cho ngƣời lao động tại chỗ, vấn đề nhà ở cho
công chức, viên chức, công nhân và ngƣời thu nhập thấp. Bên cạnh đó, Thanh
Hóa cũng gặp những khó khăn khác nhƣ tình trạng phát triển không đều giữa
các vùng, địa phƣơng, điều kiện địa lý, giao thông khó khăn, trình độ dân trí
còn thấp, nguồn nhân lực còn yếu; ngƣời dân phải xa quê đi khắp nơi để tìm
kiếm việc làm. Điều đáng quan tâm là tình trạng MBN vẫn còn xảy ra mặc dù
Đảng bộ và các cấp chính quyền địa phƣơng rất quan tâm và quyết tâm xóa
bỏ tệ nạn MBN trên địa bàn tỉnh. Thực trạng này cần đƣợc quan tâm nghiên
cứu, đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm đấu tranh, phòng ngừa có hiệu quả
những hành vi MBN, nhằm bảo vệ quyền con ngƣời trong sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hóa tỉnh Thanh Hóa.
41
2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÕNG, CHỐNG
MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA
2.2.1. Tình hình có liên quan đến hoạt động mua bán ngƣời và công
tác triển khai thực hiện
2.2.1.1. Tình hình có liên quan đến hoạt động buôn bán người
Trên cơ sở đánh giá đặc điểm tự nhiên; kinh tế, xã hội, văn hóa của tỉnh
Thanh Hóa đƣợc xác định Thanh Hóa là một tỉnh có diện tích rộng, dân cƣ
đông, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và nhận thức của quần chúng nhân dân
chƣa đồng đều, một số xã kinh tế còn nghèo, có một số phụ nữ đi làm ăn và
lấy chồng sinh sống tại Trung Quốc, Ma-lai-xia, Lào, Thái Lan... hàng năm số
ngƣời này trở về địa phƣơng buôn bán, thăm thân có dấu hiệu câu kết, móc
nối với một số đối tƣợng khác để dụ dỗ, lừa gạt phụ nữ, trẻ em bán sang
Trung Quốc để làm vợ, bóc lột tình dục và sức lao động.
Nạn nhân bị buôn bán thƣờng là các phụ nữ và trẻ em ở vùng nông
thôn, miền núi, miền biển có hoàn cảnh gia đình kinh tế khó khăn, trình độ
học thức thấp, ăn chơi đua đòi không chịu lao động hoặc số phụ nữ lỡ lứa khó
lấy chồng, không có công ăn việc làm, nhẹ dạ cả tin. Đối tƣợng chủ mƣu
trong các vụ án phần lớn là phụ nữ, tập trung nhiều là phụ nữ trƣớc kia là bị
hại. Số đối tƣợng này thƣờng xuyên qua lại biên giới thông thạo địa bàn, có
quan hệ với ngƣời Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Ma-lai-xia... Do lợi nhuận
kinh tế cao đã móc nối với một số đối tƣợng là ngƣời nƣớc ngoài để tổ chức
đƣờng dây và tìm cách dụ dỗ, lừa gạt đƣa những ngƣời Việt Nam bán sang
Trung Quốc và một số quốc gia khác [39, tr.1].
Về phƣơng thức và thủ đoạn phạm tội:
- Thủ đoạn các đối tƣợng phạm tội là tiếp cận phụ nữ, trẻ em ở các
vùng nông thôn, miền núi, đời sống kinh tế khó khăn, hoàn cảnh éo le, hạnh
phúc gia đình rạn nứt, nhẹ dạ cả tin hoặc thông qua gia đình, ngƣời quen để
42
tiếp cận, hứa hẹn tìm việc làm có thu nhập cao hoặc lấy chồng ngoại quốc
giàu sang, tán tỉnh yêu đƣơng lừa, rủ đi chơi, đi du lịch ở các tỉnh biên giới
sau đó lừa bán;
- Lợi dụng sự giao lƣu, mở cửa qua biên giới Việt Nam với các nƣớc
Trung Quốc, Lào, Ma-lai-xia, Thái Lan... tạo điều kiện cho nhân dân các nƣớc
trao đổi mua bán để phát triển kinh tế - xã hội, bọn chúng đã đƣa phụ nữ, trẻ
em qua biên giới với nhiều lý do: Mua bán, thăm thân, thăm quan du lịch,
chữa bệnh, xuất khẩu lao động. Ngoài ra bọn chúng thƣờng tìm đến các
đƣờng dây tiểu ngạch qua biên giới đi lại dễ dàng, bí mật để lập các điểm
dừng chân trao đổi “hàng” rồi chờ cơ hội thuận lợi để vƣợt biên;
- Tội phạm MBN hoạt động có tổ chức, có sự câu kết móc nối giữa các
đối tƣợng tiền án, tiền sự, các đối tƣợng là chủ chứa, môi giới mại dâm, một
số đối tƣợng là ngƣời Việt Nam ở Trung quốc, Lào, Ma-lai-xia, Thái lan... để
hình thành các đƣờng dây mua bán, có sự phân công vai trò của các đối tƣợng
trong các khâu tìm ngƣời, tuyển chọn làm các thủ tục vận chuyển đƣa ngƣời
sang nƣớc ngoài bán [39, tr. 2].
Một số vụ án điển hình về phƣơng thức và thủ đoạn tội phạm thực hiện
nhƣ sau:
Vụ thứ nhất: Tháng 12/2011, Bùi Xuân Giang sinh năm 1976, Nguyễn
Thị Vinh sinh năm 1974 cùng ở xã Bình Sơn, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa đã
lừa 2 phụ nữ ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đem bán cho Quách Thị Huyền ở
xã Ngọc Phụng, huyện Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hóa lấy chồng ở Quảng Đông-
Trung Quốc (đang sống tại Trung Quốc) với giá 15 triệu đồng một ngƣời với
thủ đoạn rủ rê sang Trung Quốc để giúp việc gia đình có thu nhập cao. Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Cơ quan cảnh sát điều
tra Công an tỉnh Hà Nam bắt giữ đối tƣợng. Tại cơ quan điều tra tiếp tục đấu
tranh mở rộng vụ án, các đối tƣợng còn khai nhận thêm vào ngày 16/02/2012
43
các đối tƣợng đã đến xã Cán Khê và xã Xuân Thọ, huyện Nhƣ Thanh, Thanh
Hóa lừa đƣợc 2 cháu Bùi Thị Thảo, sinh năm 1998 và cháu Vi Thị Ba, sinh
năm 1995 đi xin việc làm ở Hà Nội, rồi bán 2 cháu sang biên giới Trung Quốc.
Vụ thứ hai: Tháng 4/2013 chị Lê Thị Dung, sinh năm 1986, quê ở xã
Quảng Hợp, huyện Quảng Xƣơng, Thanh Hóa làm nghề cắt tóc. Qua giới
thiệu Nguyễn Ngọc Trình ở Thành phố Thanh Hóa gọi điện đến làm quen, sau
đó Trình thƣờng xuyên rủ Dung đi chơi, ăn uống, hát Karaoke và thuê khách
sạn, nhà nghỉ để ngủ và quan hệ tình dục. Trình rủ Dung sang Trung Quốc
làm ăn với mức lƣơng từ 15 đến 20 triệu đồng/tháng và Dung đồng ý. Đến
ngày 31/5/2013 Trình đƣa Dung sang Trung Quốc, Trình đánh Dung gẫy
xƣơng sƣờn, bắt lao động nặng và bán dâm.
Nhận đƣợc tin báo của gia đình, ngày 07/8/2013 Phòng PC 14 Công an
tỉnh Thanh Hóa phối hợp với gia đình chị Dung giải cứu chị về đoàn tụ với
gia đình [39, tr.6].
Qua hai vụ án điển hình nêu trên có thể thấy hành vi tội phạm MBN
khác với các loại tội phạm trong nhóm tội xâm phạm về tính mạng sức khỏe,
danh dự nhân phẩm của con ngƣời đƣợc quy định trong Chƣơng XII BLHS
đó là các đối tƣợng lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của nạn nhân là phụ nữ, trẻ em
gái rủ đi làm ăn xa có thu nhập cao rồi lừa bán cho ngƣời khác lấy tiền, nạn
nhân bán sang tay ngƣời khác thì bị bóc lột sức lao động hoặc phải bán dâm.
2.2.1.2. Công tác triển khai thực hiện
Để thực hiện tốt Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện nay, trong những năm qua Ban chỉ đạo 138
về phòng chống tội phạm MBN của tỉnh đã chỉ đạo triển khai thực hiện các
tốt nhiệm vụ sau đây:
Một là, tiếp tục thực hiện Chƣơng trình hành động PCMBN các giai
đoạn 2004-2010; 2011-2015 của Chính phủ, hàng năm Ban chỉ đạo 138 về
44
phòng, chống tội phạm MBN tỉnh Thanh Hóa đã ban hành nhiều kế hoạch
nhằm đồng bộ triển khai thực hiện việc PCMBN nhƣ: kế hoạch triển khai
thực hiện chƣơng trình PCMBN, kế hoạch thực hiện chƣơng trình phòng,
chống mại dâm, AIDS...
Hai là, các sở, ban, ngành trong tỉnh tích cực chủ động tham mƣu cho
UBND tỉnh và chỉ đạo quyết liệt các ngành, các cấp triển khai thực hiện nghiêm
túc Công văn số 245-CV/TƢ ngày 11/6/2009 của Ban chấp hành Trung ƣơng về
tăng cƣờng công tác chỉ đạo, quản lý hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài, phòng chống
tội phạm MBN. Trọng tâm thực hiện 5 Đề án của Chƣơng trình 130/CP theo
Quyết định số 1427/QĐ-TTg ngày 18/8/2011 của Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt
chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011 - 2015 đến
tận cơ sở, bao gồm các Đề án: Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức và kỹ năng phòng, chống tội phạm MBN;
Nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm MBN; Tiếp nhận, xác minh, bảo vệ
và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về; Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật về PCMBN; Tăng cƣờng hợp tác
quốc tế trong PCMBN [5, tr. 9].
Ba là, xây dựng và triển khai thực hiện các Kế hoạch của Ban chỉ đạo
về thực hiện chƣơng trình PCMBN, các kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật
trong năm trong đó tập trung tuyên truyền công tác phòng, chống tệ nạn xã
hội, phòng chống tội phạm.
Bốn là, tiếp tục thực hiện các Kế hoạch của Chính phủ, Bộ công an, Bộ
quốc phòng, Bộ lao động thƣơng binh xã hội, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân Tối cao, UBND tỉnh và Kế hoạch của các sở ban ngành
liên quan trong tỉnh về thực hiện chƣơng trình phòng, chống tội phạm MBN.
Cụ thể trong năm 2013, ngay sau khi tiếp nhận Kế hoạch số 114/KH-BCĐ-
C41 ngày 08/5/2013 của Ban chỉ đạo 138 Trung ƣơng về “Tổng điều tra, rà
45
soát tình hình hoạt động tội phạm MBN và các đối tƣợng khác có liên quan
giai đoạn 2008 - 2013” Ban chỉ đạo 138 tỉnh ban hành Kế hoạch số 76/KH-
BCĐ triển khai đến các ban ngành có liên quan cùng thực hiện tổng điều tra,
rà soát tình hình hoạt động tội phạm MBN và các đối tƣợng khác có liên quan
giai đoạn 2008 - 2013. Đến tháng 8 năm 2013 tất cả các đơn vị đều đã triển
khai thực hiện nghiêm túc và đã có kết của khảo sát đầy đủ.
Năm là, đẩy mạnh thực hiện Chƣơng trình hành động phòng, chống tội
phạm MBN giao đoạn 2011 - 2015; Kế hoạch thực hiện Chƣơng trình hành
động phòng, chống tội phạm MBN tại khu vực biên giới tỉnh Thanh Hóa giai
đoạn 2011 - 2015; Kế hoạch tuyên truyền phòng, chống tội phạm MBN; Kế
hoạch tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về; Kế
hoạch triển khai hoạt động tập huấn truyền thông thay đổi hành vi về PCMBN
cho đội ngũ tuyên truyền viên của một số đơn vị có nguy cơ cao phụ nữ, trẻ
em bị mua bán.
Sáu là, tập trung lực lƣợng, biện pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả các
đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm trên địa bàn tỉnh...trong đó đều xác
định tội phạm MBN là loại tội phạm cần tập trung để đấu tranh xử lý.
Bảy là, tăng cƣờng chấn chỉnh, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả các mặt
công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lƣợng cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa
đấu tranh chống tội phạm nói chung, tội phạm MBN nói riêng. Đáng chú ý đã
làm tốt công tác quản lý các loại đối tƣợng, nhất là ở một số địa bàn, tuyến
trọng điểm, nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, đấu tranh với tội phạm này
góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Tám là, tổ chức tập huấn cho hơn 2000 cán bộ các ngành Lao động -
thƣơng binh và xã hội, Mặt trận Tổ quốc, Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh
niên, lãnh đạo các xã thuộc 27 huyện, thị, thành phố tập huấn nội dung về
pháp luật, chính sách và những kiến thức cơ bản về PCMBN, bảo vệ nạn
46
nhân, công tác hỗ trợ và tiếp nhận nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng bị buôn
bán từ nƣớc ngoài trở về.
Mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể:
- Đến hết năm 2013 đạt 85% và năm 2015 đạt 100% các văn bản quy
phạm pháp luật về phòng, chống tội phạm MBN đƣợc chuyển tải thành tài
liệu tuyên truyền tới xã, phƣờng, thị trấn.
- Đến năm 2013 đạt 75% và năm 2015 đạt 100% số cán bộ cấp xã
chuyên trách có kiến thức chỉ đạo, hƣớng dẫn về chính sách pháp luật phòng,
chống tội phạm MBN.
- Đến năm 2013 ở cấp tỉnh có ít nhất 10 báo cáo viên, mỗi xã, phƣờng,
thị trấn có ít nhất 10 tuyên truyền viên
- Đến năm 2013 đạt 70% và năm 2015 đạt 85% ngƣời dân có hiểu biết
về phƣơng thức, thủ đoạn, hậu quả và cách thức phòng, chống tội phạm MBN
cũng nhƣ chính sách pháp luật có liên quan.
- 100% các tuyến, địa bàn trọng điểm về MBN đƣợc áp dụng các biên
pháp nghiệp vụ để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn; 100% phóng viên các
cơ quan truyền thông đại chúng từ tỉnh đến cơ sở theo dõi công tác nội chính
có kiến thức, kỹ năng viết và đƣa tin về PCMBN.
- Hàng năm, 100% thông tin liên quan đến tội phạm MBN chuyển đến
cơ quan có thẩm quyền đƣợc phân loại và 100% trƣờng hợp có dấu hiệu tội
phạm đƣợc xác định làm rõ theo luật định; 100% các trƣờng hợp tiếp nhận
phải đƣợc tiến hành các thủ tục để xác minh, xác nhận nạn nhân theo quy định
của pháp luật.
- Tỷ lệ phát hiện, điều tra, truy tố các vụ án MBN mỗi năm tăng ít nhất
2%; tỷ lệ xét xử vụ án MBN đạt 95% trên tổng số vụ án phải đƣa ra xét xử;
100% bản án tuyên phạm tội MBN có hiệu lực bảo đảm nghiêm minh và
không oan sai.
47
- Đến năm 2015 các địa bàn trọng điểm đảm bảo cơ sở vật chất cho
việc tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân theo quy định của pháp luật; 100% các
trƣờng hợp sau khi xác định là nạn nhân đƣợc hỗ trợ chế độ theo quy định;
100% nạn nhân có nhu cầu đƣợc cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí
của nhà nƣớc [7, tr.1, 2].
2.2.2. Kết quả đạt đƣợc
2.2.2.1. Công tác tuyên truyền phòng, chống mua bán người
Tổng kết 5 năm công tác khảo sát tình hình hoạt động phòng, chống tội
phạm MBN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nhận thấy hoạt động tuyên truyền
PCMBN trên địa bàn tỉnh đƣợc thực hiện sâu rộng bằng nhiều biện pháp, nội
dung và hình thức phù hợp với từng địa bàn, nhất là các địa bàn trọng điểm:
- Đối với Sở tƣ pháp: Thực hiện Kế hoạch của tiểu Ban chỉ đạo 130/CP
tỉnh về việc triển khai thực hiện chƣơng trình hành động phòng, chống tội
phạm MBN, Sở tƣ pháp xác định nhiệm vụ quan trọng là phải thực hiện tốt
việc phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tội phạm MBN nhƣ:
BLHS, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật PCMBN, Luật Nuôi con nuôi,
Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Lý lịch tƣ pháp, Luật Bình đẳng giới, Luật
Ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng, Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP, Nghị định số
24/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc
ngoài… và các văn bản pháp luật về lĩnh vực du lịch, xuất khẩu lao động,
xuất cảnh, nhập cảnh và các văn bản liên quan đến quyền tự do, danh dự,
nhân phẩm của phụ nữ và trẻ em.
Bên cạnh việc tuyên truyền các văn bản pháp luật trên, Sở tƣ pháp còn
chú trọng tuyên truyền các Công ƣớc quốc tế, Hiệp định song phƣơng mà Việt
Nam là thành viên hoặc tham gia ký kết nhƣ: Công ƣớc quốc tế về chống mọi
48
hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (Công ƣớc CEDAW), Công ƣớc
quốc tế về quyền trẻ em; Hiệp định giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nƣớc CHND Trung Hoa về tăng cƣờng hợp tác
PCMBN; đồng thời cung cấp các thông tin về tác hại, thủ đoạn, nguyên nhân
và tình hình công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm MBN.
Việc PBGDPL về phòng chống tội phạm MBN đƣợc tổ chức bằng các
hình thức nhƣ: tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác
PBGDPL ở cơ sở và hội nghị tuyên truyền về phòng, chống MBN cho nhân
dân cơ sở; thông qua chuyên mục “trả lời bạn nghe đài”, “trả lời bạn xem
truyền hình” trên sóng phát thanh - truyền hình tỉnh, chuyên mục “thông tin
pháp luật” trên Báo Thanh Hóa, Website của Sở Tƣ pháp; Biên soạn và phát
hành đĩa CD, đề cƣơng tuyên truyền có nội dung PCMBN để cấp phát cho các
đơn vị làm tài liệu tuyên truyền; chỉ đạo đƣa công tác tuyên truyền phòng,
chống tội phạm MBN thông qua hoạt động của các Câu lạc bộ do Sở Tƣ pháp
thành lập; Trang bị bổ sung các đầu sách pháp luật mới có liên quan đến công
tác PCMBN phát cho Tủ sách pháp luật xã, phƣờng, thị trấn.
Đối với công tác góp ý, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến PCMBN; Kịp thời góp ý, thẩm định
các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Trung ƣơng và địa phƣơng liên
quan đến lĩnh vực PCMBN, đảm bảo các văn bản sau khi ban hành đƣợc đồng
bộ, thống nhất và khả thi; Giúp UBND tỉnh tự kiểm tra và kiểm tra theo thẩm
quyền, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tội
phạm MBN nhằm kịp thời phát hiện những văn bản trái luật, hết hiệu lực,
mâu thuẫn, chồng chéo để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Bên cạnh đó công tác tuyên truyền PCMBN đƣợc Sở tƣ pháp thực hiện
thông qua một số hoạt động nhƣ:
+ Biên soạn và phát hành gần 100.000 tờ gấp pháp luật, hơn 100.000
49
cuốn tài liệu hỏi đáp pháp luật cấp cho cán bộ, nhân dân các xã miền biển,
đồng bào dân tộc miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số; tờ gấp, tài liệu pháp
luật cấp phát có nhiều nội dung thiết thực liên quan đến nhiều mặt của đời
sống xã hội, đặc biệt là các nội dung về phòng, chống tội phạm MBN. Qua
đó, đã góp phần tích cực tuyên truyền cho các tầng lớp nhân dân các quy định
của pháp luật về phòng, chống tội phạm MBN;
+ Trung tâm trợ giúp pháp lý - Sở Tƣ pháp đã tổ chức trăm đợt trợ lý
lƣu động tại tất cả các huyện trên địa bàn tỉnh, thực hiện 3.765 vụ việc và thu
hút sự tham gia của 9.452 lƣợt ngƣời. Đây là hoạt động không chỉ có ý nghĩa
tuyên truyền đến các cơ sở mà còn góp phần giải quyết đƣợc những vƣớng
mắc cho ngƣời dân cũng nhƣ cán bộ công chức cấp cơ sở, góp phần không
nhỏ trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm MBN.
- Sở lao động - Thƣơng binh và xã hội tiến hành cấp phát trên 100 tạp
chí tuyên truyền phòng, chống tệ nạn xã hội, PCMBN, thƣờng xuyên tổ chức
lớp tập huấn năng lực cho 175 tình nguyện viên Đội hoạt động xã hội tình
nguyện và gần 1.000 cộng tác viên là lãnh đạo các xã, cán bộ các ban ngành
đoàn thể liên quan nhƣ: Hội phụ nữ, đoàn thanh niên, trƣởng phố, thôn,
bản...về công tác tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở
về tái hòa nhập cộng đồng tại các xã trọng điểm thuộc các huyện Hậu Lộc,
Nông Cống, Nga Sơn, Thiệu Hóa, Yên Định, Quan Hóa.
- Hội phụ nữ thƣờng xuyên chủ động nắm bắt tình hình, diễn biến tƣ
tƣởng của các tầng lớp, các vấn đề xã hội nảy sinh liên quan trực tiếp đến
phụ nữ và trẻ em gái để có giải pháp hỗ trợ xử lý; chủ động nắm bắt tình
hình phụ nữ đi làm ăn xa, phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài, phụ nữ bị
buôn bán trong nƣớc và nƣớc ngoài để tham mƣu cho cấp ủy, chính quyền
các cấp có giải pháp tuyên truyền, giáo dục cộng đồng nâng cao nhận thức
về PCMBN, cụ thể:
50
+ Tổ chức tập huấn pháp luật về PCMBN, phòng, chống ma túy, mại
dâm... cho gần 2.000 cán bộ, hội viên phụ nữ tham gia; tƣ vấn tại gia đình
cho 1.200 phụ nữ đi làm ăn xa và có nguy cơ bị buôn bán về PCMBN;
Tuyên truyền chỉ thị 03/TTg ngày 25/2/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ về
tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc đối với quan hệ hôn nhân có yếu tố nƣớc
ngoài; nâng cao năng lực cho cán bộ tham gia hoạt động hỗ trợ tƣ vấn pháp
luật, trợ giúp pháp lý cho các đối tƣợng bị buôn bán; tập huấn về truyền
thông thay đổi hành vi PCMBN cho các tuyên truyền viên tại các huyện
giáp biên và huyện ven biển.
Lồng ghép với Trung tâm học tập cộng đồng các buổi sinh hoạt tổ,
nhóm, câu lạc bộ tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức về PCMBN cho
cán bộ, hội viên phụ nữ, kết quả có 27/27 huyện, thị, thành Hội triển khai đến
639/639 xã, phƣờng, thị trấn với 29.236 lƣợt cán bộ, hội viên tham gia học
tập. Trong đó có hơn 10 ngàn hộ gia đình cam kết thực hiện gia đình không
có con em và ngƣời thân mắc các tệ nạn xã hội.
+ Duy trì hiệu quả mô hình truyền thông bằng hình thức sân khấu hóa
về PCMBN tại thành phố Thanh Hóa và các xã ven biển. Tiếp tục chỉ đạo
hoạt động có hiệu quả mô hình phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em tại
huyện Tĩnh Gia, Thạch Thành, Hậu Lộc. Mô hình này đƣợc thông qua hoạt
động của dự án ILOIPEC đã đầu tƣ nguồn vốn vay cho chị em phụ nữ và gia
đình có đối tƣợng có nguy cơ bị mua bán vay vốn làm ăn ổn định cuộc sống.
Từ khi xây dựng mô hình cho đến nay, nhiều xã không còn phụ nữ, trẻ em bị
mua bán. Đây là mô hình hoạt động thực sự đạt hiệu quả cao; Hội phụ nữ tỉnh
đã nhiều lần tổ chức thăm hỏi và tặng quà cho những chị bị mua bán trở về tại
huyện Hậu Lộc, phối hợp với Hội phụ nữ huyện hỗ trợ nạn nhân trở về ổn
định tâm lý, sức khỏe để sớm hòa nhập cộng đồng, đƣợc vay vốn phát triển
kinh tế, tạo đƣợc việc làm ngay tại chỗ để tránh bị lừa gạt lần nữa, xóa bỏ mặc
cảm vƣơn lên tái hòa nhập cộng đồng.
51
+ Phối hợp với Đài phát thanh truyền hình tỉnh xây dựng 01 phóng sự
tuyên truyền trong chuyên mục “Phụ nữ tỉnh Thanh”; 01 bán chuyên trang
báo Thanh Hóa về PCTPMBN; 03 bài về gƣơng điển hình tiên tiến; 55 tin bài
qua hệ thống truyền thanh;
- Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh phối hợp với các ngành chức năng
thực hiện các chƣơng trình dự án ILOIPEC, ICOM lồng ghép công tác tuyên
truyền, truyền thông tại các huyện giáp biên giới và các huyện ven biển, chỉ
đạo các đồn Biên phòng chủ động phối hợp với địa phƣơng giáo dục tuyên
truyền tại cộng đồng dân cƣ về âm mƣu, thủ đoạn hoạt động của đối tƣợng
nhằm nâng cao nhận thức pháp luật, tự cảnh giác bảo vệ chính mình, đặc biệt
là bảo vệ phụ nữ và trẻ em là những đối tƣợng có nguy cơ cao tại cộng đồng
dân cƣ. [39, tr.3, 4].
2.2.2.2 Công tác phòng ngừa
- Phòng ngừa lợi dụng kết hôn có yếu tố nước ngoài để mua bán người.
Thực hiện Chỉ thị số 03/2005/CT-TTg của Chính phủ về tăng cƣờng
quản lý Nhà nƣớc đối với quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nƣớc ngoài;
Nghị định 68/2002/NĐ-CP, Nghị định 69/2006/NĐ-CP, Nghị định
24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ (thay thế Nghị định số
68/2002/NĐ-CP và 69/2006/NĐ-CP) hƣớng dẫn chi tiết thi hành một số điều
của Luật hôn nhân và gia đình về Hôn nhân gia đình có yếu tố nƣớc ngoài,
UBND tỉnh Thanh Hóa đã có công văn hƣớng dẫn chỉ đạo các sở, ban, ngành
có liên quan chủ động phối hợp với các cơ quan thành viên, UBND các
huyện, thị xã, thành phố xây dựng kế hoạch tăng cƣờng quản lý Nhà nƣớc đối
với quan hệ hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài. Đồng thời đẩy mạnh công tác
tuyên truyền trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng về nội dung của Nghị
định đến mọi tầng lớp nhân dân; củng cố, kiện toàn lại đội ngũ báo cáo viên
từ tỉnh đến cơ sở. Phối hợp với Bộ đội biên phòng, Công an, tuyên truyền cho
52
phụ nữ vùng biên giới Việt - Lào, các khu công nghiệp có đông ngƣời nƣớc
ngoài làm việc về tính chất phức tạp của việc kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài...
Do làm tốt công tác phối hợp, công tác tuyên truyền cũng nhƣ công tác đăng
ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài nên đã kịp thời phát hiện và ngăn chặn những
trƣờng hợp kết hôn qua môi giới, kết hôn giả tạo hoặc lợi dụng việc kết hôn
nhằm mục đích mua bán phụ nữ và các mục đích tƣ lợi khác.
Theo số liệu báo cáo của Sở tƣ pháp từ năm 2008 đến 2013 UBND tỉnh
Thanh Hóa đã thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn cho 624 ngƣời chủ yếu là
phụ nữ; Trong đó, kết hôn với ngƣời Đài Loan 265 ngƣời (chiếm 43%), kết
hôn với ngƣời Hàn Quốc 202 ngƣời (chiếm 32%), số còn lại là các nƣớc khác
(chiếm 25%). Trong 5 năm từ năm 2008 đến 2013 có 09 ngƣời con lai của 06
phụ nữ là nạn nhân bị mua bán trở về [70, tr. 3].
- Phòng ngừa lợi dung việc cho nhận con nuôi (trong nước và có yếu tố
nước ngoài) để mua bán người
Trƣớc khi Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đƣợc ban hành, các vấn đề
liên quan đến nuôi con nuôi đƣợc quy định trong nhiều văn bản pháp luật
khác nhau nhƣ: Luật dân sự năm 2005, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000,
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch; Quyết định số 1233/QĐ-
TTg ngày 07 tháng 9 năm 2012 của Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt Đề án
triển khai thực hiện Công ƣớc Lahay trong giai đoạn 2012 - 2015 (Việt Nam
là thành viên chính thức của Công ƣớc Lahay số 33 ngày 29 tháng 5 năm
1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế); các
văn bản pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; về phòng chống
buôn bán phụ nữ và trẻ em. Trong những năm qua, cùng với cả nƣớc thực thi
các văn bản pháp lý về nuôi con nuôi, UBND tỉnh Thanh Hóa đã xây dựng
các Kế hoạch tăng cƣờng và nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nƣớc
trong lĩnh vực nuôi con nuôi nhằm đảm bảo sự thống nhất trong chỉ đạo, thực
53
hiện các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi trên tinh thần nhân đạo, vì
lợi ích tốt nhất của trẻ em. Với yêu cầu: Xác định trách nhiệm cụ thể đối với
từng cơ quan trong việc tiếp nhận trẻ em vào cơ sở nuôi dƣỡng, cho trẻ em ở
cơ sở nuôi dƣỡng làm con nuôi; Nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ,
công chức giải quyết các việc về nuôi con nuôi, đồng triển khai các biện pháp
ngăn ngừa và xử lý hiện tƣợng mua bán trẻ em làm con nuôi hoặc lợi dụng
việc nuôi con nuôi để trục lợi; Giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật các
yêu cầu của ngƣời dân về việc nuôi con nuôi và ƣu tiên giải quyết cho trẻ em
làm con nuôi trong nƣớc và có yếu tố nƣớc ngoài, trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời nhận con nuôi.
Thực hiện quyết định phê duyệt kế hoạch, các sở, ban, ngành trong đã
tỉnh tổ chức triển khai và thực hiện tốt nhiệm vụ. Trong 3 năm thực hiện Luật
Nuôi con nuôi, UBND tỉnh đã quyết định cho ngƣời nƣớc ngoài nhận con
nuôi 6 trƣờng hợp (năm 2011: 02 trƣờng hợp; năm 2012: 01 trƣờng hợp, năm
2013: 04 trƣờng hợp). Do làm tốt công tác xác minh nên cả 06 trƣờng hợp
trên cho đến nay các sở, ban, ngành chƣa nhận đƣợc thông báo liên quan đến
hoạt động lợi dụng cho, nhận con nuôi để thực hiện MBN hay vì mục đích lợi
dụng khác [70, tr. 3].
- Phòng ngừa lợi dụng việc đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài để mua bán người
Công tác phòng ngừa lợi dụng việc đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở
nƣớc ngoài để mua bán đã đƣợc UBND tỉnh đặc biệt quan tâm. Trong những
năm qua cùng với việc thực hiện kế hoạch triển khai dự án "Hành động ba
bên nhằm bảo vệ ngƣời di cƣ thuộc tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng khỏi
nạn bóc lột lao động" do tổ chức lao động quốc tế (ILO) hỗ trợ. Sở Lao động -
Thƣơng binh và xã hội tỉnh Thanh Hóa phối hợp với các UBND huyện trong
toàn tỉnh tổ chức các lớp tập huấn "Nâng cao năng lực tƣ vấn hỗ trợ ngƣời lao
54
động di cƣ hợp pháp an toàn, phòng chống bóc lột lao động và buôn bán
ngƣời" cho lãnh đạo xã, trƣởng các tổ chức, hội, đoàn thể, cán bộ chính sách
xã và các trƣởng thôn, bí thƣ chi bộ thôn, hội phụ nữ thôn thuộc các xã nằm
trong dự án với hơn 1.500 ngƣời tham dự. Đây là chƣơng trình tập huấn đào
tạo cán bộ nòng cốt của địa phƣơng, cung cấp cho cán bộ địa phƣơng phƣơng
pháp, kỹ năng tƣ vấn, cung cấp thông tin về những quy định của Luật ngƣời
lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng, thị trƣờng tiếp nhận lao
động, thực tế cũng nhƣ các rủi ro, các vấn đề có thể gặp phải khi đi làm việc ở
nƣớc ngoài; các thông tin liên quan đến tuyển dụng, đƣa ngƣời lao động đi
làm việc ở nƣớc ngoài; tổ chức quản lý và hỗ trợ cho ngƣời lao động trong
thời gian làm việc ở nƣớc ngoài, cơ chế khiếu nại, tố cáo.
Từ những kiến thức tiếp thu đƣợc ở các lớp tập huấn, đội ngũ làm công
tác tuyên truyền đã về địa phƣơng tƣ vấn cho lao động trên địa bàn đi xuất
khẩu lao động hợp pháp và an toàn, tránh nạn "cò mồi", nạn bóc lột lao động,
nâng cao cảnh giác với các hành vi lợi dụng việc xuất khẩu lao động để MBN
góp phần đẩy mạnh phong trào xuất khẩu lao động ở đi ̣a phƣơng . Bên cạnh
đó, Sở Lao động - Thƣơng binh và xã hội tỉnh còn phối kết hợp với Trung tâm
xúc tiến việc làm tỉnh mở nhiều lớp tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ
làm công tác tƣ vấn, môi giới giúp các tƣ vấn hiểu biết và nắm đƣợc các quy
định của pháp luật về phòng, chống MBN để hỗ trợ nhân dân trong hoạt động
xuất khẩu, tuyển dụng lao động.
Tuy nhiên từ năm 2012 cho đến nay, tại một số huyện ven biển nhƣ
Hậu Lộc, Nga Sơn đã xuất hiện nhiều ngƣời xuất cảnh sang Trung Quốc trái
phép để làm ăn. Từ đầu năm 2012 đến nay, số lao động xuất cảnh trái phép
sang Trung Quốc thống kê đƣợc trên địa bàn huyện Hậu Lộc là 529 ngƣời, tập
trung ở 6 xã ven biển: Ngƣ Lộc 236 ngƣời, Minh Lộc 105 ngƣời, Hƣng Lộc
86 ngƣời, Hải Lộc 54 ngƣời, Đa Lộc 33 ngƣời và Hòa Lộc 15 ngƣời. Tính đến
55
hết tháng 7 năm 2013, mới chỉ có 120 lao động trở về nƣớc. Qua tìm hiểu
thực tế tại xã Minh Lộc - một trong hai xã có số lao động xuất cảnh trái phép
nhiều nhất huyện Hậu Lộc, cho biết xã có 2.900 hộ với 13.500 khẩu, vài năm
gần đây do nghề cá bấp bênh, nghề phụ giảm nên nguồn lao động dƣ thừa, tìm
việc làm khó khăn, thu nhập thấp nên ngƣời lao động tìm đến thị trƣờng ở
nƣớc ngoài. Chính quyền xã đã giao cho công an viên nắm chắc thông tin,
bám sát số lao động ở mỗi thôn, phân loại đối tƣợng lao động theo độ tuổi,
giới tính, nhu cầu việc làm... để nắm bắt tƣ tƣởng của họ, kịp thời ngăn chặn
những biểu hiện nếu có ý định ra nƣớc ngoài lao động tự do trái phép, UBND
xã phối hợp với cấp trên chỉ đạo quyết liệt để đƣa đƣợc toàn bộ số lao động
của xã đang làm việc bất hợp pháp trở về nƣớc nhằm tránh những rủi ro có
thể xảy ra [39, tr.4].
- Phòng ngừa mua bán người qua quản lý các hoạt động kinh doanh,
dịch vụ nhạy cảm
Thực hiện các kế hoạch, hƣớng dẫn của Ban chỉ đạo tỉnh về chƣơng
trình quốc gia phòng, chống tệ nạn xã hội trong những năm qua, các cấp
chính quyền trong tỉnh đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm phát huy
vai trò, sức mạnh của toàn dân trong việc tham gia phòng, chống tệ nạn xã
hội, gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cƣ” và xây dựng xã, phƣờng, thôn, xóm, bản, làng, tổ dân phố lành
mạnh không có tệ nạn xã hội.
Theo thống kê của ban chỉ đạo phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm,
hiện trên địa bàn tỉnh có 2.433 cơ sở kinh doanh dịch vụ có điều kiện, nhạy
cảm về an ninh trật tự, gồm: 63 khách sạn, 320 nhà nghỉ, 1.140 nhà trọ, 1
vũ trƣờng, 266 quán karaoke, 211 quán gội đầu thƣ giãn, 41 cơ sở massage
và 391 cơ sở kinh doanh khác, trong đó có nhiều cơ sở nghi vấn hoạt động
mại dâm [11].
56
Trƣớc tình hình trên, các cơ quan chức năng đã phối hợp tổ chức khảo
sát, nắm bắt tình hình các tụ điểm có biểu hiện hoạt động mại dâm, dẫn dắt
gái mại dâm ở một số cơ sở kinh doanh, dịch vụ, các tụ điểm có nghi vấn hoạt
động mại dâm trá hình. Kết quả, đã phối hợp xử lý 28 vụ phạm tội hoạt động
mại dâm với 159 đối tƣợng, trong đó gái bán dâm 62 đối tƣợng, khách mua
dâm 65 đối tƣợng, chủ chứa, môi giới là 32 đối tƣợng. Đã đƣa ra xét xử 20 vụ
với 24 đối tƣợng. Ngoài ra, Đội Kiểm tra liên ngành 814 tổ chức thanh tra,
kiểm tra 69 cơ sở, đã xử phạt 20 cơ sở vi phạm, thu nộp vào Kho bạc Nhà
nƣớc hơn 61 triệu đồng [11]. Qua thanh tra, kiểm tra đã chấn chỉnh các sai
phạm để các cơ sở kinh doanh, dịch vụ hoạt động theo đúng quy định của
pháp luật, góp phần tạo môi trƣờng kinh doanh dịch vụ lành mạnh, phòng
chống tệ nạn xã hội.
Bên cạnh việc quản lý, kiểm tra chặt chẽ các hoạt động kinh doanh,
dịch vụ nhạy cảm. Công tác tuyên truyền, vận động đƣợc xác định là khâu
trọng tâm, có tính đột phá, các tổ tuyên truyền đã lồng ghép các chƣơng trình
truyền thông về tính chất phức tạp, tác hại của tệ nạn mại dâm, cũng nhƣ nắm
đƣợc các âm mƣu, thủ đoạn, hoạt động của các loại tội phạm, tệ nạn có liên
quan đến môi giới, chứa chấp, mại dâm, buôn bán phụ nữ; đồng thời tăng
cƣờng sự hiểu biết của nhân dân về đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về phòng, chống tệ nạn xã hội, ma túy, mại
dâm, đặc biệt là pháp luật về PCMBN. Thông qua hoạt động quản lý và tuyên
truyền trong những năm qua trên toàn tỉnh không xảy ra tội phạm MBN liên
quan đến hoạt động này.
Để thực hiện tốt hơn nữa công tác quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ
nhạy cảm, ngày 20/6/2013, Chủ tịch UBND tỉnh đã có Quyết định số 2134/QĐ-
UBND về việc phê duyệt quy hoạch mạng lƣới Đội công tác xã hội (CTXH) tình
nguyện tại xã, phƣờng, thị trấn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2013-2018.
57
Thành lập mạng lƣới đội công tác xã hội tình nguyện là một trong
những biện pháp từng bƣớc xã hội hóa công tác phòng chống HIV/AIDS và
phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm; MBN; nâng cao vai trò trách nhiệm và
sự tham gia tích cực cũng nhƣ tập hợp đƣợc sức mạnh cộng đồng để nâng cao
hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội và lây nhiễm
HIV/AIDS, MBN ở xã, phƣờng, thị trấn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đội
CTXH tình nguyện là tổ chức dân sự tự nguyện, hoạt động theo quy định tại
Thông tƣ liên tịch số 24/2012/TTLTBLĐTBXH-BNV-BTC ngày 22/10/2012
của Bộ Lao động - Thƣơng bình và Xã hội, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính về thành
lập, giải thể, tổ chức hoạt động và chế độ chính sách đối với Đội CTXH tình
nguyện tại xã, phƣờng, thị trấn.
Mục tiêu của Đội CTXH tình nguyện là đến năm 2018 có 50% xã,
phƣờng, thị trấn thành lập đội công tác xã hội tình nguyện; hiện nay toàn tỉnh
thành lập đƣợc 313 Đội CTXH tình nguyện với hơn 2.000 tình nguyện viên.
Riêng trong năm 2013 thành lập 80 Đội CTXH tình nguyện. 100% tình
nguyện viên và lãnh đạo các tổ chức chính trị xã hội trực tiếp quản lý. Đội
CTXH tình nguyện đƣợc tập huấn, đào tạo, nâng cao năng lực quản lý và hoạt
động xã hội tình nguyện, phát hiện sớm, đề xuất xử lý kịp thời các cơ sở, tụ
điểm, đối tƣợng vi phạm tệ nạn ma túy, mại dâm nhằm ngăn chặn có hiệu
quả, không để phát sinh, phát triển tệ nạn ma túy để đƣa ngƣời sau cai nghiện
tái hòa nhập cộng đồng, giảm dần tỷ lệ tái nghiện. Bên cạnh đó, ngăn ngừa,
tiến tới đẩy lùi các tệ nạn xã hội trên địa bàn tỉnh, tạo sự hiểu biết của ngƣời
dân và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ các cấp về hoạt động của
Đội CTXH tình nguyện, nhằm tuyên truyền, giáo dục ngƣời dân trong cộng
đồng tích cực tham gia phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, MBN, phòng
ngừa lây nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa [76, tr. 4].
58
2.2.3. Những tồn tại, hạn chế trong việc phòng ngừa mua bán ngƣời
ở tỉnh Thanh Hóa
2.2.3.1. Những tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, công tác tuyên truyền, giáo dục về PCMBN chƣa thực sự đạt
hiệu quả bởi việc tuyên truyền chƣa đến đƣợc hết các đối tƣợng thuộc trƣờng hợp
có nguy cơ cao bị mua bán cao, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em ở vùng giáp biên giới,
vùng sâu, vùng xa nhận thức về xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần cảnh
giác của một bộ phận nhân dân đối với loại tội phạm này còn thấp.
Thứ hai, Chƣa làm tốt chính sách lồng ghép nội dung phòng ngừa
MBN vào các chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo để
bảo đảm mức sống tối thiểu của ngƣời dân, tạo việc làm cho ngƣời dân có
điều kiện ổn định cuộc sống cũng nhƣ các chƣơng trình phòng, chống tội
phạm khác, phòng, chống tệ nạn xã hội, bảo vệ trẻ em, chƣơng trình vì sự tiến
bộ của phụ nữ và các chƣơng trình khác về phát triển kinh tế - xã hội. Bởi
thực tiễn cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng MBN là
do nghèo đói, thiếu việc làm hoặc những tệ nạn xã hội khác trở thành điều
kiện cho hoạt động MBN phát sinh, phát triển.
Thứ ba, sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền cơ sở trong công tác phòng
ngừa tội phạm chƣa đủ mạnh, chƣa thƣờng xuyên liên tục; một số ngành, đoàn
thể, tổ chức xã hội chƣa quan tâm đúng mức và chƣa thực sự coi công tác phòng,
chống tội phạm nói chung và MBN nói riêng là nhiệm vụ trọng tâm của mình.
Bên cạnh đó, sự phối hợp với nhà trƣờng, các cơ quan chức năng, chính quyền,
đoàn thể các cấp có lúc, có nơi chƣa chặt chẽ, chƣa đồng bộ.
Thứ tư, phƣơng tiện, kinh phí phục vụ cho công tác phòng ngừa MBN
còn quá ít (chỉ đƣợc hỗ trợ lồng ghép trong trong kinh phí hoạt động tuyên
truyền pháp luật chung của cơ quan, đơn vị); chƣa khen thƣởng kịp thời đối
với cơ quan, cá nhân, tổ chức có thành tích trong công tác PCMBN cũng nhƣ
59
đảm bảo chế độ, chính sách đối với ngƣời tham gia PCMBN bị thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản.
Thứ năm, đội ngũ làm công tác phòng ngừa đối với loại hành vi MBN
chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu thiếu về số lƣợng, yếu về chuyên môn, nhiều cán
bộ chủ yếu là cán bộ cấp xã và cộng tác viên tại các thôn bản chƣa đƣợc đào
tạo bài bản, thiếu kiến thức và kỹ năng làm việc với đối tƣợng có nguy cơ bị
mua bán cao, trong khi mọi hoạt động của loại tội phạm này ngày càng tinh
vi, núp dƣới nhiều danh nghĩa nhƣ: môi giới tìm việc làm nhằm làm vào số
chị em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, bức xúc về việc làm... lợi dụng mối
quan hệ, tạo uy tín và thống nhất với gia đình và bản thân nạn nhân để tạo vỏ
bọc kín đáo, phòng khi bị phát hiện thì các cơ quan chức năng khó tìm chứng
cứ. Đối tƣợng liên quan đến nhiều địa bàn tỉnh, thành phố và có yếu tố nƣớc
ngoài do vậy hiệu quả công tác phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm này chƣa
cao. Bên cạnh đó chính sách thu hút cán bộ làm công tác tuyên truyền
PCMBN còn thiếu hấp dẫn, chậm đổi mới.
2.2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
- Nguyên nhân khách quan:
Do mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng và tiến trình hội nhập đã dẫn đến
sự phân tầng xã hội và sự phân hóa giàu nghèo nhanh chóng. Một bộ phận
không nhỏ dân cƣ gặp nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế đã phát sinh tiêu
cực; nhiều gia đình chƣa nhận thức về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi MBN nên việc phòng, chống bị coi nhẹ; Đôi khi họ cũng nhận thức đƣợc
một phần của sự nguy hiểm nhƣng vì hoàn cảnh, sự cám dỗ của đồng tiền họ
đành phải chấp nhận.
Bên cạnh đó, việc nhận thức và hiểu biết của các đối tƣợng có nguy
mua bán còn rất hạn chế bởi những đối tƣợng này là ngƣời vùng núi giáp
biên, ven biển ít có điều kiện đƣợc tiếp xúc, trình độ học vấn lại hạn chế. Đây
chính là nguyên nhân chính dẫn đến tội phạm MBN.
60
- Nguyên nhân chủ quan:
Nhận thức về vai trò, trách nhiệm đối với công tác bảo vệ quyền con
ngƣời nói chung và công tác PCMBN nói riêng của một số cấp ủy, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng của địa phƣơng chƣa
đầy đủ, sâu sắc; Vai trò tham mƣu Ban chỉ đạo 138 của một số địa phƣơng
chƣa phát huy đúng mức. Do đó, từ công tác chỉ đạo, điều hành đến tổ chức,
thực hiện đều chƣa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát về công tác PCMBN của một số
cơ quan Nhà nƣớc và các cấp chính quyền chƣa thƣờng xuyên; sự tham gia
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, nhất là Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh trong hoạt động giám sát, phản biện chính sách đối
với phụ nữ, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt chƣa liên tục và quyết liệt; chƣa kịp
thời phát hiện, đề xuất, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền về các giải pháp
hữu hiệu nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của nhóm đối tƣợng này.
Việc thực thi pháp luật của một bộ phận cán bộ có thẩm quyền, ý thức chấp
hành các quy định pháp luật của ngƣời dân ở nhiều địa phƣơng chƣa nghiêm; hình
thức xử lý vi phạm chƣa kịp thời nên chƣa có tác dụng giáo dục, răn đe.
Về phía các gia đình có nạn nhân bị mua bán: khi biết con em mình
vắng mặt dài ngày tại gia đình, địa phƣơng nhƣng cho rằng do họ đang đi làm
ăn xa chƣa có điều kiện về thăm nhà nên không báo cáo, đến khi có thông tin
từ ngƣời bị mua bán hay ngƣời thân nói rằng con em mình bị mua bán mới
báo cáo với chính quyền địa phƣơng và cơ quan chức năng.
2.3. PHÁT HIỆN, XỬ LÝ HÀNH VI MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA
2.3.1. Kết quả phát hiện, xử lý hành vi mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa
2.3.1.1. Kết quả điều tra, truy tố các vụ mua bán người
Thực hiện Kế hoạch số 114/KH-BCĐ-C41 ngày 08/5/2013 của Ban chỉ
đạo 138 Trung ƣơng về “Tổng điều tra, rà soát tình hình hoạt động tội phạm
61
MBN và các đối tƣợng khác có liên quan giai đoạn 2008 - 2013”, Giám đốc
Công an tỉnh Thanh Hóa đã chủ động xây dựng Kế hoạch số 111/KH-CAT-
PV11 ngày 29/5/2013 triển khai đến toàn lực lƣợng với những nội dung cụ
thể, chi tiết. Đồng thời tham mƣu với Ban chỉ đạo 138 tỉnh ký ban hành Kế
hoạch số 76/KH-BCĐ triển khai đến các ban, ngành có liên quan cùng thực
hiện tổng điều tra, rà soát tình hình hoạt động tội phạm MBN và các đối
tƣợng khác có liên quan giai đoạn 2008 - 2013. Trên cơ sở Kế hoạch trên, tất
cả các đơn vị có liên quan đều đã triển khai thực hiện nghiêm túc và có bảo
cáo kết quả khảo sát đầy đủ về Ban chỉ đạo.
Theo báo cáo tổng hợp kết quả điều tra, truy tố các vụ MBN từ năm
2008 - 2013, lực lƣợng Công an, Biên phòng tỉnh đã phối hợp điều tra, đề
nghị Viện kiểm sát tỉnh truy tố 15 vụ án MBN và liên quan đến MBN, trong
đó số vụ án xảy ra trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa 13 vụ, địa bàn tỉnh Lào Cai 02
vụ với 21 đối tƣợng và 23 nạn nhân. Trong số 21 đối tƣợng phạm tội MBN đã
xác minh, điều tra làm rõ và khởi tố điều tra 19 bị can, còn 02 đối tƣợng
không xác định đƣợc. Nhóm đối tƣợng này tuổi đời từ 20 đến 40 tuổi, trình độ
văn hóa thấp, không có nghề nghiệp ổn định, một số đối tƣợng làm nghề buôn
bán thƣờng xuyên qua lại biên giới móc nối với ngƣời nƣớc ngoài để thực
hiện hành vi phạm tội. Đối tƣợng chủ mƣu trong các vụ án chủ yếu là phụ nữ,
số phụ nữ này trƣớc đây là bị hại trong vụ MBN, nay trở về móc nối với các
đối tƣợng khác rủ rê, lôi kéo những ngƣời phụ nữ khác để lừa bán [40, tr. 2].
Thủ đoạn của các đối tƣợng phạm tội là: Tiếp cận với phụ nữ, trẻ em ở
vùng nông thôn, miền núi, không có việc làm, đời sống kinh tế khó khăn, éo
le hoặc hạnh phúc gia đình bị rạn nứt nhẹ dạ cả tinh thông qua gia đình ngƣời
quen để tiếp cận, hứa hẹn tìm việc làm có thu nhập cao hoặc lấy chồng ngoại
quốc giàu sang, tán tỉnh yêu đƣơng lừa gạt rủ đi chơi, đi du lịch đến các tỉnh
biên giới sau đó lừa bán ra nƣớc ngoài. Đa số các vụ án MBN đƣợc hoạt động
62
có tổ chức, có sự câu kết móc nối giữa các đối tƣợng có tiền án, tiền sự, các
đối tƣợng là chủ chứa, môi giới mại dâm, một số đối tƣợng là ngƣời Việt
Nam ở nƣớc ngoài để hình thành đƣờng dây buôn bán, có sự phân công vai
trò của các đối tƣợng trong khâu tìm ngƣời, tuyển chọn, làm các thủ tục vận
chuyển để đƣa đi bán. Mục đích của các vụ MBN chủ yếu là các đối tƣợng
bán sang Trung Quốc để làm gái mại dâm.
Nạn nhân trong các vụ MBN có tuổi đời dƣới 35 tuổi, nhóm ngƣời
nhiều nhất từ 20 đến 30 tuổi (chiếm 70%), trình độ học vấn thấp: không biết
chữ 13 ngƣời, tiểu học 9 ngƣời, cao đẳng 02 ngƣời, hầu hết số nạn nhân trong
các vụ MBN đều thuộc trƣờng hợp có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có
nghề nghiệp ổn định, số ngƣời chƣa lập gia đình chiếm đa phần [40, tr.2].
2.3.1.2. Kết quả xử lý hình sự các vụ mua bán người
BLHS năm 1999 quy định hai tội phạm trực tiếp liên quan đến MBN,
đó là: Tội mua bán phụ nữ (Điều 119) và Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm
đoạt trẻ em (Điều 120). Do các quy định này chƣa hình sự hoá hành vi mua
bán nam giới từ 16 tuổi trở lên nên Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS năm 2009 đã sửa đổi Điều 119 thành “Tội mua bán ngƣời” để giải
quyết bất cập đó. Ngoài ra, BLHS còn sửa đổi khoản 2 Điều 120 để bổ sung
thêm tình tiết tăng nặng “Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” vào tội mua
bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.
Cả hai tội “Mua bán ngƣời” và “Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt
trẻ em” đều đƣợc xác định là những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy,
hình phạt đối với các tội phạm này đƣợc quy định rất nghiêm khắc trong
BLHS 2009, cụ thể nhƣ sau:
- Điều 119 BLHS quy định:
Ngƣời nào MBN thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Phạm tội thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây thì bị phạt tù từ
63
năm năm đến hai mƣơi năm: a) Vì mục đích mại dâm; b) Có tổ
chức; c) Có tính chất chuyên nghiệp; d) Để đƣa ra nƣớc ngoài; đ)
Đối với nhiều ngƣời; e) Phạm tội nhiều lần. Ngoài chế tài hình sự,
ngƣời phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm
mƣơi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cƣ trú từ một năm đến
năm năm [60, tr. 80].
- Điều 120 quy định:
Ngƣời nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dƣới
bất kỳ hình thức nào có thể bị phạt tù từ ba năm đến mƣời năm.
Phạm tội thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây thì bị phạt tù từ
mƣời năm đến hai mƣơi năm hoặc tù chung thân: a) Có tổ chức; b)
Có tính chất chuyên nghiệp; c) Vì động cơ đê hèn; d) Đối với nhiều
trẻ em; đ) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; e) Để đƣa ra nƣớc
ngoài; g) Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo; h) Để sử dụng vào
mục đích mại dâm; i) Tái phạm nguy hiểm; k) Gây hậu quả nghiêm
trọng [60, tr.81].
Ngoài chế tài hình sự, ngƣời phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm
triệu đồng đến năm mƣơi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc phạt quản chế từ
một năm đến năm năm [60, tr. 81].
Ngoài hai tội danh trên, BLHS còn quy định một số tội danh khác với
một số hành vi liên quan đến quá trình MBN nhƣ: Tội tổ chức, cƣỡng ép
ngƣời khác trốn đi nƣớc ngoài hoặc ở lại nƣớc ngoài trái phép (Điều 275), Tội
xuất, nhập cảnh trái phép, Tội ở lại Việt Nam trái phép (Điều 274); Tội chứa
mại dâm (Điều 254), Tội môi giới mại dâm (Điều 255), Tội mua dâm ngƣời
chƣa thành niên (Điều 256)…
Trên cơ sở điều tra, khởi tố 15 vụ án liên quan đến MBN kể trên, Tòa
64
án nhân dân các cấp của tỉnh Thanh Hóa đã đƣa ra xét xử với mức hình phạt
cao nhất là 17 năm tù giam, thấp nhất là 04 năm tù giam.
Điển hình vụ án: Lê Đức Bảy, sinh năm 1972, Nguyễn Thị Thanh sinh
năm 1966 cùng ở xã Xuân Khánh, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, vào 9/1999
lừa bán chị Bùi Thị Xinh sinh năm 1981 xã Luận Thành, huyện Thƣờng Xuân,
Thanh Hóa sang Trung Quốc. Sau 12 năm bị bán sang Trung Quốc, ngày
10/7/2011 chị Xinh trốn về Việt Nam và tố cáo hành vi của Bảy và Thanh. Các
cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Thanh Hóa đánh giá tính chất mức độ hành vi
phạm tội của các đối tƣợng thuộc trƣờng hợp rất nghiêm trọng và đƣa ra quyết
định với mức hình phạt đƣợc áp dụng cho tội danh “Mua bán ngƣời” đối với Lê
Đức Bảy 15 năm tù giam, Nguyễn Thị Thanh 13 năm tù giam [71].
Vụ án: Bùi Xuân Giang sinh năm 1976, Nguyễn Thị Vinh sinh năm
1974 cùng ở xã Bình Sơn, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa. Tháng 12/2011, đã
lừa 2 phụ nữ ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đem bán cho Quách Thị Huyền
ở xã Ngọc Phụng, huyện Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hóa lấy chồng ở Quảng Đông-
Trung Quốc (đang sống tại Trung Quốc) với giá 15 triệu đồng một ngƣời. Thủ
đoạn mà đối tƣợng thực hiện là rủ rê nạn nhân sang Trung Quốc để giúp việc
gia đình với thu nhập cao. Tại cơ quan điều tra. qua tiếp tục đấu tranh mở
rộng vụ án, các đối tƣợng còn khai nhận thêm vào ngày 16/02/2012 các đối
tƣợng đã đến xã Cán Khê và xã Xuân Thọ, huyện Nhƣ Thanh, Thanh Hóa lừa
đƣợc 2 cháu Bùi Thị Thảo, sinh năm 1998 và cháu Vi Thị Ba, sinh năm 1995
đi xin việc làm ở Hà Nội, rồi bán 2 cháu sang biên giới Trung Quốc. Xác định
thủ đoạn hoạt động của bon tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, vừa mang tính tổ
chức, mua bán nhiều ngƣời, thực hiện nhiều lần nên Tòa án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa họp ba ngành Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án quyết định xử phạt
Bùi Xuân Giang 17 năm tù giam, Nguyễn Thị Vinh 15 năm tù giam về tội
danh “mua bán người” [71].
65
Từ những vụ án điển hình nêu trên, về cơ bản hành vi, thủ đoạn và
phƣơng thức thực hiện hành vi phạm tội của các đối tƣợng MBN trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa có dấu hiệu tƣơng tự giống nhau, đó là các đối tƣợng lợi dụng
sự nhẹ dạ cả tin của những phụ nữ nông thôn với những lời dụ dỗ rủ rê tìm
kiếm việc làm rồi đƣa sang Trung Quốc để bán kiếm tiền. Nắm bắt đƣợc mục
đích, phƣơng thức và thủ đoạn hoạt động của các đối tƣợng, trên cơ sở chỉ
đạo của cấp trên, sự quyết tâm đấu tranh phòng, chống tội phạm; Lực lƣợng
PCMBN tỉnh Thanh Hóa bằng nhiều biện pháp, cách thức khác nhau đã từng
bƣớc đẩy lùi loại tệ nạn MBN và theo báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2014
các cơ quan chức năng chƣa phát hiện điều tra và xử lý trƣờng hợp nào liên
quan đến MBN trên địa bàn tỉnh. Đây là một kết quả đáng mừng để Thanh
Hóa góp phần cùng với cả nƣớc đấu tranh phòng, chống đẩy lùi loại tội phạm
nguy hiểm này.
2.3.1.3. Kết quả xử lý hành chính các vụ mua bán người
Theo Điều 23 Luật PCMBN, không phải mọi hành vi bị cấm theo Điều
3 Luật này đều bị xử lý về hình sự, mà tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có
thể chỉ cần xử phạt hành chính. Mặc dù vậy, đây chỉ là quy định mang tính
nguyên tắc. Những chế tài hành chính cụ thể đƣợc quy định trong một số
Nghị định xử phạt hành chính trong một số lĩnh vực có liên quan đến MBN
do Chính phủ ban hành, trong đó quan trọng nhất là những văn bản sau:
- Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội, trong đó bao gồm
các quy định về quản lý một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh,
trật tự (Điều 14), xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh cƣ trú và đi lại (Điều 20), mại
dâm và các hành vi liên quan đến hoạt động mại dâm (Điều 22).
- Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/2/2013 quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đƣa ngƣời Việt
66
Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng, trong đó bao gồm các quy định
về dịch vụ việc làm (Điều 4); điều kiện hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ
(Điều 29); đăng ký hợp đồng, báo cáo việc đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở
nƣớc ngoài (Điều 30); tổ chức đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài
và quản lý ngƣời lao động ở ngoài nƣớc (Điều 34).
- Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, trong đó bao gồm các
quy định về tảo hôn, tổ chức tảo hôn (Điều 6); cƣỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc
cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ (Điều 7), đăng ký kết hôn (Điều 9); nuôi
con nuôi (Điều 14).
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định đối tƣợng bị xử lý vi
phạm hành chính bao gồm cả cá nhân (từ đủ 14 tuổi trở lên) và tổ chức của
Việt Nam và nƣớc ngoài (Điều 5). Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền; c) Tƣớc quyền sử dụng giấy phép, chứng
chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; d) Tịch thu tang
vật vi phạm hành chính, phƣơng tiện đƣợc sử dụng để vi phạm hành chính; đ)
Trục xuất (Điều 21). Luật cũng quy định những tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hành chính (Điều 10), trong đó bao gồm vi phạm có tổ chức, xúi giục, lôi kéo,
sử dụng ngƣời chƣa thành niên vi phạm; ép buộc ngƣời bị lệ thuộc vào mình về
vật chất, tinh thần thực hiện hành vi vi phạm; lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh,
thiên tai, thảm họa, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để
vi phạm; vi phạm hành chính đối với nhiều ngƣời, trẻ em, phụ nữ mang thai
[67]. Đây là những tình tiết thƣờng xảy ra trong quá trình BBN.
Về tổng quát, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Việt Nam hiện
đã bao trùm những hành vi phổ biến có liên quan đến nạn MBN. Điều này,
cùng với việc xác định đối tƣợng có thể bị xử phạt hành chính bao gồm cả
pháp nhân (tổ chức), là phù hợp với yêu cầu của Công ƣớc TOC, Nghị định
67
thƣ Palermo và Nghị định thƣ tùy chọn bổ sung Công ƣớc về quyền trẻ em về
mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và khiêu dâm trẻ em.
Đối với Thanh Hóa, trên cơ sở thực hiện Kế hoạch triển khai chƣơng
trình hành động PCMBN giai đoạn 2011-2015 của Chính Phủ và triển khai
thực hiện đợt cao điểm đấu tranh phòng, chống tội phạm MBN trên tuyến
biên giới. Ban chỉ đạo 138 tỉnh Thanh Hóa yêu cầu Công an địa phƣơng, Bộ
đội biên phòng cần tập trung lực lƣợng, thực hiện công tác điều tra cơ bản,
nắm chắc tình hình, xác định rõ địa bàn, tuyến trọng điểm cần tập trung đấu
tranh, xác định số phụ nữ, trẻ em bị mất tích, vắng mặt lâu ngày nghi bị mua
bán để tập trung xác minh làm rõ. Xác định đối tƣợng, băng nhóm, đƣờng dây
tội phạm MBN cần xác minh, lập án đấu tranh trong các đợt cao điểm.
Qua công tác điều tra cơ bản trên hai tuyến biên giới đất liền và biên
giới biển trong 5 năm từ năm 2008 - 2013, lực lƣợng Biên phòng tỉnh Thanh
Hóa xác định có 2.433 phụ nữ lấy chồng nƣớc ngoài với nhiều lý do khác
nhau. Trong đó, 1.219 phụ nữ lấy chồng Trung Quốc, 1.168 phụ nữ lấy chồng
Lào, 01 phụ nữ lấy chồng Campuchia; 15 phụ nữ lấy chồng Đài Loan, 18 phụ
nữ lấy chồng Hàn Quốc, 04 phụ nữ lấy chồng Malaixia, 03 phụ nữ lấy chồng
Mỹ; 45 phụ nữ lấy chồng đăng ký kết hôn tại Việt Nam, 2.388 phụ nữ không
đăng ký kết hôn, 557 phụ nữ nghi bị lừa bán sang Trung Quốc, phát hiện 34
đối tƣợng nghi vấn liên quan đến hoạt động mua bán phụ nữ [14, tr.1].
Trên cơ sở xác định các đối tƣợng nghi vấn, bằng hoạt động điều tra cơ
bản lực lƣợng chức năng sàng lọc đối tƣợng xác định đủ căn cứ đã xử lý về
hình sự theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, các Tổ công tác an
ninh trật tự trên địa bàn toàn tỉnh thƣờng xuyên kiểm tra các cơ sở kinh doanh
dịch vụ nhạy cảm và trung tâm môi giới lao động để nắm bắt tình hình, xác
minh thấy có dấu hiệu liên quan đến hoạt động MBN căn cứ vào quy định của
pháp luật ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
68
2.3.1.4. Kết quả xử phạt dân sự các vụ mua bán người
Theo Điều 23 Luật PCMBN, vi phạm các hành vi bị cấm theo Điều 3
của Luật này nếu gây thiệt hại thì ngoài việc chịu các trách nhiệm hành chính
hay hình sự còn phải bồi thƣờng về dân sự. Việc bồi thƣờng dân sự liên quan
đến MBN cũng thuộc phạm trù trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp
đồng mà đã đƣợc quy định trong Bộ luật dân sự (BLDS). Tại chƣơng XXI
BLDS quy định về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng. Nguyên
tắc chung đƣợc đặt ra đó là, ngƣời nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc
chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng (Điều 604). BLDS cũng quy
định cụ thể về việc bồi thƣờng thiệt hại về tài sản (Điều 608), về sức khỏe
(Điều 609), về tính mạng (Điều 610), về danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 611).
Trong trƣờng hợp bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, ngoài những chi
phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại và thu nhập thực tế bị mất hoặc bị
giảm sút, việc bồi thƣờng còn bao gồm mà cả một khoản tiền khác để bù đắp
tổn thất về tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu (Điều 611). Ngoài ra, trong
trƣờng hợp nhiều ngƣời cùng gây thiệt hại thì những ngƣời đó phải liên đới
bồi thƣờng cho ngƣời bị thiệt hại tƣơng ứng với mức độ lỗi của mỗi ngƣời,
nếu không xác định đƣợc mức độ lỗi thì họ phải bồi thƣờng thiệt hại theo
phần bằng nhau (Điều 616). Những quy định này rất có ý nghĩa trong các vụ
việc MBN vì khách thể quan trọng nhất của tội phạm này là danh dự, nhân
phẩm của con ngƣời và việc thực hiện tội phạm này thƣờng có sự phối hợp
của nhiều cá nhân.
Theo pháp luật Việt Nam, trách nhiệm dân sự có thể phát sinh trong các
vụ án hình sự. Điều 42 BLHS quy định, ngƣời phạm tội phải trả lại tài sản đã
69
chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc ngƣời quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc
bồi thƣờng thiệt hại vật chất đã đƣợc xác định do hành vi phạm tội gây ra, còn
trong trƣờng hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc ngƣời phạm
tội phải bồi thƣờng về vật chất, công khai xin lỗi ngƣời bị hại. Để bảo đảm
thực thi quy định về bồi thƣờng tài sản, Điều 146 BLTTHS quy định việc kê
biên tài sản trong trƣờng hợp bị can, bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi thƣờng
tài sản. Những quy định kể trên cũng đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp MBN và
mua bán trẻ em. Trên tinh thần đó, bất cứ ngƣời nào có hành vi MBN, mua
bán hoặc đánh tráo trẻ em hoặc có các hành vi vi phạm khác có liên quan mà
gây thiệt hại cho nạn nhân, thì ngoài việc bị xử phạt hành chính hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự còn phải chịu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại về vật
chất hoặc tinh thần cho ngƣời bị hại.
Nhƣ vậy, pháp luật Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu của Công ƣớc TOC và
các nghị định thƣ bổ sung công ƣớc này về trách nhiệm dân sự đối với những
chủ thể BBN. Tuy nhiên, nguyên tắc chung để tòa án xem xét là những chi phí
đòi bồi thƣờng phải có chứng cứ kèm theo. Vì vậy, đòi hỏi nạn nhân bị mua
bán phải thu thập chứng từ chứng minh ngay từ khi xảy ra vụ việc - điều mà rất
ít ngƣời làm đƣợc. Đây là một trở ngại cho việc thực hiện quy định về bồi
thƣờng thiệt hại vật chất, tinh thần cho nạn nhân trong các vụ MBN.
Trên cơ sở luật định. Trong quá trình xem xét trách nhiệm hình sự
ngoài việc áp dụng hình phạt chính là phạt tù, các bị cáo còn bị áp dụng các
hình phạt bổ sung nhƣ phạt tiền xung quỹ Nhà nƣớc và bồi thƣờng thiệt hại
cho ngƣời bị hại theo đúng quy định của pháp luật. Trong số 15 vụ án MBN
đã đƣợc đƣa ra xét xử trong 5 năm từ năm 2008 đến 2013 trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã xử phạt các bị cáo với mức
tiền 185.000.000 đồng [72, tr. 3].
70
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong việc phát hiện, xử lý mua bán
ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa
2.3.2.1. Những tồn tại, hạn chế
Hoạt động MBN đang diễn biến ngày càng phức tạp, có xu hƣớng gia
tăng và quốc tế hóa; nhiều đƣờng dây, băng nhóm hoạt động với hình thức tinh
vi. Do đó việc phát hiện, xử lý hành vi MBN là yêu cầu cấp bách của từng địa
phƣơng trên cả nƣớc hiện nay. Đối với Thanh Hóa, tuy là một tỉnh số vụ án
MBN và hành vi liên quan MBN đƣợc đƣa ra xử lý ít hơn so với các tỉnh phía
Bắc, song Ban chỉ đạo 138 của tỉnh nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công
tác đấu tranh PCMBN đã chỉ đạo sát sao các đơn vị chức năng nhằm giảm bớt
loại tội phạm này. Ngoài những kết quả đã đạt đƣợc nêu trên, hiện vẫn còn một
số tồn tại, hạn chế trong việc phát hiện, xử lý cần khắc phục.
Thứ nhất, các cơ quan chức năng chƣa đánh giá sát thực trạng tình hình
hoạt động của tội phạm. Việc phát hiện, xử lý các vụ án MBN và những hành vi
có liên quan theo kết quả báo cáo hàng năng thấp, trung bình một năm trên địa
bàn cả tỉnh mới phát hiện điều tra và xử lý 2 đến 3 vụ nên chƣa tham mƣu cho
các cấp lãnh đạo biện pháp đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả loại tội phạm này.
Thứ hai, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chƣa làm tốt công tác phát
hiện vi phạm thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra trong một số lĩnh vực
kinh doanh dịch vụ nhƣ: hoạt động hỗ trợ kết hôn giữa công dân Việt Nam
với ngƣời nƣớc ngoài; cho, nhận con nuôi; giới thiệu việc làm; đƣa ngƣời đi
lao động, học tập ở nƣớc ngoài; cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa, du lịch…
Đây là những lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ dễ bị tội phạm lợi dụng để thực
hiện hành vi MBN và các hành vi khác liên quan đến MBN
Thứ ba, chƣa có biện pháp hữu hiệu để khuyến khích, động viên cá
nhân, cơ quan, tổ chức và gia đình tố giác, tin báo hoặc tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật về PCMBN và các biện pháp khen thƣởng, biện pháp bảo vệ
an toàn cho ngƣời tham gia phát hiện tội phạm
71
Thứ tư, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp chƣa tổ chức
tiến hành xét xử lƣu động và công khai các vụ án điểm về tội phạm MBN để
góp phần làm tốt hơn công tác tuyên truyền, giáo dục, răn đe tội phạm.
Thứ năm, chế tài xử phạt vi phạm còn nhẹ, mức bồi thƣờng thiệt hại
cho nạn nhân thấp, việc đền bù thiệt hại cũng chỉ mang tính nguyên tắc bởi
văn bản hƣớng dẫn và cơ chế giải quyết đền bù chủ yếu theo hƣớng vụ kiện
dân sự giữa ngƣời bị thiệt hại và ngƣời gây ra thiệt hại là kẻ phạm tội.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Một là, tội phạm MBN hoạt động lƣu động, liên quan đến nhiều địa bàn,
chúng núp dƣới danh nghĩa môi giới tìm kiếm việc làm nhằm vào số chị em có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về kinh tế, bức xúc về việc làm. Do đó việc thu
thập, xác minh các đối tƣợng trong đƣờng dây tội phạm rất khó khăn, nhất là
các đối tƣợng bên Trung Quốc. Bên cạnh đó việc khai báo của bị hại, nhân thân
bị hại không đầy đủ để xác định chính xác thời gian, địa điểm do thời gian quá
lâu sau khi bị bán mới trốn đƣợc trở về đã gây khó khăn cho công tác điều tra,
xử lý nên số lƣợng vụ án bị phát hiện, điều tra, xử lý chƣa cao.
Hai là, Trong thực tế , nhiều trƣờng hợp bọn tội phạm lợi dụng hoa ̣t
đô ̣ng của các tổ chức, cơ sở hoạt động kinh doanh, dịch vụ để thực hiện hành
vi MBN, đặc biệt là các tổ chức, cơ sở hoạt động kinh doanh, dịch vụ trong
lĩnh vực hỗ trợ kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc ngoài, cho,
nhận con nuôi, giới thiệu việc làm, đƣa ngƣời Việt Nam đi lao động, học tập ở
nƣớc ngoài, tuyển dụng ngƣời nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam, dịch vụ văn
hóa, du lịch, v.v.... nhƣng các cơ quan chức năng đƣợc phân công nhiệm vụ
chƣa phát huy hết trách nhiệm trong việc thƣờng xuyên kiểm tra, cũng nhƣ
chƣa phát huy đƣợc sức mạnh của quần chúng nhân dân và toàn xã hội cùng
vào cuộc. Vì vậy, chƣa huy động triệt để nguồn lực cho công tác PCMBN.
Ba là, kinh phí chi cho công tác đấu tranh PCMBN quá ít, chỉ đƣợc hỗ
72
trợ trong kinh phí nghiệp vụ của Bộ đội biên phòng tỉnh, Công an tỉnh và chỉ
chi trong trƣờng hợp cần thiết hỗ trợ những thiết yếu ban đầu cho nạn nhân,
nên chi phí phục vụ cho việc khuyến khích các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thành tích trong hoạt động PCMBN và tố giác tội phạm MBN còn rất hạn chế,
chƣa kịp thời. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn hạn chế quan trọng trong
phát hiện, xử lý tội phạm này.
Bốn là, các cơ quan tiến hành tố tụng (Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân)
chƣa đánh giá cao tính chất mức độ nguy hiểm nghiêm trọng của loại tội
phạm MBN và coi đây chƣa phải là thực trạng nhức nhối trong địa bàn tỉnh
hiện nay, bởi các loại tội phạm khác nhƣ giết ngƣời, cố ý gây thƣơng tích,
mua bán ma túy, hiếp dâm… đang diễn ra phức tạp và có chiều hƣớng gia
tăng nhiều hơn nên tăng cƣờng xét xử lƣu động đối với những loại án này.
Năm là, việc áp dụng quy định về bồi thƣờng thiệt hại đang còn cứng
nhắc, chƣa đánh giá đúng mức độ thiệt hại mà nạn nhân phải gánh chịu về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín mà đối tƣợng mua bán
gây ra để ban hành quyết định mức bồi thƣờng hợp lý.
2.4. BẢO VỆ, HỖ TRỢ HÕA NHẬP CỘNG ĐỒNG CHO NẠN NHÂN BỊ
BUÔN BÁN Ở TỈNH THANH HÓA
2.4.1. Kết quả tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân
Tiếp nối Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ
nữ, trẻ em giai đoạn 2005- 2010 của Chính phủ. Năm 2011, Thủ tƣớng Chính
phủ ban hành Quyết định số 1427/QĐ-TTg ngày 18/8/2011 về phê duyệt
Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011- 2015.
Trên cơ sở quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ, UBND tỉnh Thanh Hóa đã
xây dựng Kế hoạch số 61/KH-UBND ngày 02 tháng 11 năm 2011 thực hiện
Chƣơng trình phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011-2015. Trong kế
hoạch UBND tỉnh xác định rõ và yêu cầu các sở, ban, ngành thực hiện tốt các
73
Tiểu đề án thuộc 5 Đề án của Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm
MBN giai đoạn 2011-2015, trong đó có Đề án 3: “tiếp nhận, xác minh, bảo vệ
và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về”.
Đối với công tác tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân đã
đƣợc Ban chỉ đạo 130 chỉ đạo quyết liệt. Trong 5 năm từ năm 2008 đến năm
2013 trên địa bàn tỉnh đã tiếp nhận, xác minh 1.917 trƣờng hợp, qua phân loại
có 557 đối tƣợng bị mua bán và nghi bị mua bán, 1.460 đối tƣợng sang Trung
Quốc, sang Lào trái phép với các lý do khác và đã có hàng nghìn trƣờng hợp
trở về, chủ yếu là tự về [40, tr. 3]. Tuy nhiên, thực tế số nạn nhân bị buôn bán
từ nƣớc ngoài trở về còn lớn hơn nhiều so với số liệu báo cáo, bởi điều kiện
địa lý và tính chất của sự việc nên việc thống kê đầy đủ số liệu là khó khăn.
Qua phân tích số liệu khảo sát tình hình nạn nhân trở về tại một số địa phƣơng
cho thấy, hầu hết nạn nhân tự giải thoát trở về, một số khác đƣợc phía nƣớc
bạn trả về qua con đƣờng chính thức và một số ít do tội phạm BBN bị tố giác,
phát hiện thả ra cho về. Nhìn chung, số phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn
bán từ nƣớc ngoài trở về chiếm tỷ lệ rất thấp so với số phụ nữ, trẻ em bị buôn
bán. Do vậy, vẫn còn một số lƣợng lớn phụ nữ, trẻ em bị buôn bán vì nhiều lý
do khác nhau chƣa xác định đƣợc.
Công tác tiếp nhận, xác minh và hỗ trợ ban đầu nạn nhân đƣợc thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật. Đối với trƣờng hợp xác minh, xác
nhận, tiếp nhân nạn nhân là công dân Việt Nam bị mua bán ra nƣớc ngoài,
Lực lƣợng Biên phòng, Công an trên địa bàn nhanh chóng triển khai kế hoạch
xác minh nhân thân, thu thập tài liệu, chứng cứ, xác định rõ đối tƣợng kịp thời
giải thoát và hỗ trợ ban đầu. Tại cửa khẩu nạn nhân nhập cảnh: lực lƣợng
chức năng thực hiện việc đối chiếu, kiểm diện và tiếp nhận nạn nhân; ký Biên
bản giao, nhận nạn nhân bị mua bán từ nƣớc ngoài trở về với cơ quan chức
năng nƣớc ngoài (nếu có); làm thủ tục nhập cảnh cho nạn nhân ; kiểm tra hồ
74
sơ của nạn nhân do phía nƣớc ngoài bàn giao hoặc đƣa cho nạn nhân mang
về; nếu chƣa có Tờ khai dùng cho nạn nhân bị mua bán tƣ̀ nƣớc ngoài trở về
thì hƣớng dẫn nạn nhân kê khai; cấp Giấy chứng nhận về nƣớc cho nạn nhân.
Nếu nạn nhân có nguyện vọng tự trở về nơi cƣ trú thì hỗ trợ tiền tàu xe
và tiền ăn trong thời gian đi đƣờng. Trƣờng hợp nạn nhân là trẻ em, ngƣời
không có khả năng tự trở về địa phƣơng nơi cƣ trú thì thông báo cho ngƣời
thân thích đến nhận hoặc bố trí ngƣời đƣa về nơi ngƣời thân thích của nạn nhân
cƣ trú. Trƣờng hợp nạn nhân không có nơi cƣ trú hoặc có nguyện vọng lƣu trú
tại cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân, nạn nhân là trẻ em không
nơi nƣơng tựa thì bàn giao nạn nhân (kèm theo các giấy tờ có liên quan) cho Sở
Lao động - Thƣơng binh và Xã hội để giải quyết theo quy định của pháp luật;
Thông báo bằng văn bản cho Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh công an tỉnh để
quản lý, theo dõi. Để xác định rõ nguyên nhân, tại cửa khẩu nạn nhân nhập
cảnh, lực lƣợng biên phòng hoặc Công an địa phƣơng lấy lời khai ban đầu của
nạn nhân để khai thác, thu thập thông tin, tài liệu về tổ chức, cá nhân thực hiện
hành vi MBN, phục vụ công tác điều tra, xử lý theo pháp luật.
Giao cho Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội tỉnh có trách nhiệm
đƣa nạn nhân vào cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân tại địa
phƣơng để thực hiện việc hỗ trợ theo quy định của pháp luật.
Các chính sách và chế độ hỗ trợ nạn nhân bị mua bán từ nƣớc ngoài trở
về đƣợc thực hiện theo Quyết định 17/2007/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính
phủ và Thông tƣ liên tịch số 116/2007/TTLT/BTC-LĐTBXH ngày 27/9/2007
của Bộ tài chính và Bộ lao động - Thƣơng binh và Xã hội nhƣ: Chế độ trợ cấp
xã hội và ban đầu; Hỗ trợ tâm lý xã hội; Hỗ trợ về thủ tục pháp lý; Trợ cấp
khó khăn, học nghề, học văn hóa.
Trƣờng hợp tiếp nhận, xác minh, xác nhận nạn nhân là công dân Việt
Nam bị mua bán trong nƣớc thì UBND hoặc Công an cấp xã khi tiếp nhận
75
nạn nhân, ngƣời đại diện hợp pháp của nạn nhân khai báo về việc bị mua bán,
có trách nhiệm hƣớng dẫn ngƣời đó kê khai, trƣờng hợp ngƣời khai báo là trẻ
em hoặc ngƣời không có khả năng tự kê khai thì cán bộ tiếp nhận ghi lại theo
lời khai của ngƣời đó; thực hiện việc hỗ trợ nhu cầu thiết yếu cho ngƣời khai
là nạn nhân trong trƣờng hợp cần thiết; Công an cấp huyện nơi ngƣời khai là
nạn nhân cƣ trú hoặc nơi họ khai xảy ra vụ việc MBN có trách nhiệm thực
hiện việc xác minh, xác định nạn nhân và gửi giấy xác nhận này về Phòng
Lao động - Thƣơng binh và Xã hội huyện bố trí cho họ trở về nơi cƣ trú hoặc
vào cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo quy định đối với trƣờng
hợp nạn nhân có đủ giấy tờ chứng nhận nạn nhân; Trƣờng hợp chƣa có giấy
tờ, tài liệu chứng nhận nạn nhân thì gửi văn bản đề nghị công an cấp huyện
nơi nạn nhân cƣ trú hoặc nơi nạn nhân khai xảy ra vụ việc MBN để xác minh.
Trong thời gian chờ xác minh ngƣời khai là nạn nhân đƣợc hỗ trợ nhu cầu
thiết yếu nhƣ nơi ở, tiền ăn.
2.4.2. Kết quả giải cứu, bảo vệ nạn nhân
Theo kết quả khảo sát số nạn nhân từ nƣớc ngoài trở về bị mua bán và
nghi bị mua bán có đến 60% nạn nhân tự trở về, có 25% đƣợc giải cứu và
15% đƣợc tiếp nhận chính thức [39, tr, 5].
Các trƣờng hợp giải cứu:
- Giải cứu nạn nhân tại các cơ sở kinh doanh mại dâm hoặc đang bị
cƣỡng bức lao động, hôn nhân tại địa bàn ngoại biên;
- Giải cứu nạn nhân tại các tụ điểm kinh doanh các dịch vụ nhạy cảm
có liên quan đến hoạt động mại dâm hoặc đang bị giữ, tập kết tại địa bàn khu
vực biên giới để chuẩn bị đƣa sang bên kia biên giới;
- Giải cứu nạn nhân khi đang bị vận chuyển trên đƣờng hoặc đang bị
chuyển giao cho đối tƣợng khác để đƣa qua biên giới.
Trong 15 vụ án MBN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2008 đến
76
năm 2013, với 23 nạn nhân, số nạn nhân đƣợc lực lƣợng Công an và Biên
phòng giải cứu là 16 [40. tr.3]. Công tác giải cứu và bảo vệ nạn nhân đƣợc
thực hiện đúng quy trình, kịp thời nhanh chóng tạo sự an tâm cho nạn nhân và
gia đình của họ. Đặc biệt là bảo đảm an toàn về tính mạng, tài sản cho nạn
nhân trong quá trình giải cứu; bảo vệ an toàn cho nạn nhân từ nơi giải cứu về
đến cơ quan Cơ quan công an hoặc Bộ đội biên phòng, không để tội phạm
hoặc các đối tƣợng quá khích ngăn cản, chống đối, nhất là những trƣờng hợp
giải cứu nạn nhân tại địa bàn biên giới hoặc những địa bàn vùng sâu, vùng
dân tộc thiểu số; một số nạn nhân đau ốm, sức khỏe yếu đã đƣợc cơ quan
Công an đƣa đến cơ sở y tế để điều trị. Sau khi giải cứu nạn nhân các lực
lƣợng chức năng đã thực hiện các việc nhƣ:
- Trƣờng hợp ngƣời đƣợc giải cƣ́ u có đủ căn cứ để xác định nạn nhân
thì thực hiện việc hỗ trợ các nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân; cấp Giấy xác
nhận nạn nhân bị mua bán; bàn giao nạn nhân cho Phòng Lao động - Thƣơng
binh và Xã hội cấp huyện nơi giải cứu để thực hiện các thủ tục quy định.
- Trƣờng hợp chƣa đủ căn cứ xác định là nạn nhân thì sau khi thực hiện
việc hỗ trợ nhu cầu thiết yếu , cơ quan giải cứu bàn giao ngƣời đƣợc giải cứu
cho Phòng Lao động - Thƣơng binh và Xã hội của địa phƣơng đó để đƣa vào
cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân.
Phòng Lao động - Thƣơng binh và Xã hội nơi giải cƣ́ u tiếp tục xác định:
- Trƣờng hợp ngƣời đƣợc giải cƣ́ u đã đƣợc cấp Giấy xác nhận nạn nhân
bị mua bán thì thực hiện việc hỗ trợ theo quy định của pháp luật;
- Trƣờng hợp chƣa đủ căn cứ xác định là nạn nhân thì gửi văn bản đề
nghị Công an cấp huyện nơi ngƣời đƣợc giải cƣ́ u xác minh , xác định nạn
nhân; khi có kết quả xác minh thì giải quyết các thủ tục nhƣ đối với trƣờng
hợp nạn nhân bị mua bán trong nƣớc quy định.
Công an cấp huyện nơi ngƣời đƣợc giải cứu thực hiện việc xác minh ,
77
xác định nạn nhân và trả lời kết quả cho Phòng Lao động - Thƣơng binh và
Xã hội. Trƣờng hợp Công an cấp huyện xác đi ̣nh không phải là na ̣n nhân ,
Trƣởng phòng Lao động - Thƣơng binh và Xã hội phối hợp với Giám đốc cơ
sở bảo trợxã hội hoặ c cơ sở hỗ trợna ̣n nhân làm các thủ tục đƣa ngƣời đƣợc
giải cứu ra khỏi cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo quy định
của pháp luật.
Thông qua việc thực hiện đúng quy trình về giải cứu, cùng với sự quan
tâm tạo điều kiện tốt nhất của các cơ quan chức năng bƣớc đầu các nạn nhân
đƣợc hỗ trợ những điều kiện thiết yếu để ổn định cuộc sống. Theo báo cáo của
chính quyền, của các tổ chức Hội ở địa phƣơng các nạn nhân bị mua bán trở
về đã ổn định cuộc sống, hòa nhập tốt với cộng đồng dân cƣ.
2.4.3. Kết quả hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng
Ngày 29/01/2007, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quyết định số
17/2007/QĐ-TTg về Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng cho
phụ nữ trẻ em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về. Theo quyết định giao Bộ Lao
động - Thƣơng binh và Xã hội là cơ quan chủ trì và chỉ đạo thực hiện công tác
hỗ trợ nạn nhân.
Sau hơn 7 năm thực hiện, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội đã
phối hợp với các bộ, ngành liên quan ban hành hệ thống các chính sách hỗ trợ
nạn nhân tƣơng đối đồng bộ, đã cụ thể đƣợc những nội dung cơ bản của
Quyết định 17/QĐ-TTg nhƣ chế độ chính sách cho nạn nhân; xác minh, xác
định nạn nhân; và thành lập các Trung tâm hỗ trợ nạn nhân trở về (Thông tƣ
Liên tịch số 116/2007/TTLT-BTC - BLĐTBXH ngày 27 tháng 9 năm 2007,
hƣớng dẫn nội dung chi, mức chi cho công tác xác minh, tiếp nhận và hỗ trợ
nạn nhân là phụ nữ trẻ em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về tái hòa nhập cộng
đồng; Thông tƣ liên tịch số 03/2007/TTLT/BCA-BQP-BNG-BLĐTBXH
ngày 8/05/2008, hƣớng dẫn trình tự, thủ tục xác minh, tiếp nhận phụ nữ, trẻ
78
em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về; Thông tƣ số 05/2009/TT- BLĐTBXH
ngày 17 tháng 02 năm 2009, hƣớng dẫn tổ chức và hoạt động của Cơ sở hỗ
trợ nạn nhân). Các văn bản trên tạo cơ sở pháp lý, giúp ngành Lao động -
Thƣơng binh và Xã hội thống nhất quản lý, chỉ đạo địa phƣơng thực hiện có
hiệu quả công tác hỗ trợ nạn nhân trở về tái hoà nhập cộng đồng.
Ban chỉ đạo 130 của tỉnh đã chỉ đạo Sở lao động - Thƣơng bình và xã
hội tỉnh, phối hợp với Bộ đội biên phòng tỉnh, Công an tỉnh, Hội liên hiệp phụ
nữ tỉnh và các ban ngành, đoàn thể liên quan khảo sát, đánh giá thực trạng
tình hình và các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị mua bán; tiếp tục khảo sát thống
kê cụ thể số nạn nhân bị buôn bán trở về để có kế hoạch hỗ trợ cho họ sớm
hòa nhập cộng đồng.
Ngoài việc tổ chức tiếp nhận, xác minh nhân thân, cấp giấy chứng
nhận, đảm bảo cơ sở vật chất để tiếp nhận và hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân,
việc trợ giúp pháp lý miễn phí; Thực hiện các biện pháp biện pháp bí mật
thông tin theo nguyện vọng của nạn nhân và áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong trƣờng hợp nạn nhân bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại; Trợ giúp
cho nạn nhân trong việc làm giấy chứng minh nhân dân, nhập hộ khẩu, xóa
mù chữ, làm giấy khai sinh, cho trẻ đi học…, một số nạn nhân đƣợc hỗ trợ đất
canh tác, đất làm nhà ở; tổ chức các hội thảo chuyên đề về hƣớng dẫn nghiệp
vụ, dạy nghề đã đƣợc các ban, ngành đoàn thể trong tỉnh hết sức quan tâm.
Bởi các nạn nhân trong vụ MBN thƣờng đều đã từng phải trải qua tình trạng
bị cƣỡng bức; bị tra tấn; nợ nần; bị giam cầm bất hợp pháp; bạn bè và gia đình
bị đe doạ; bị bạo lực về thể chất, tình dục và tâm lý. Hậu quả là nạn nhân phải
hứng chịu những tổn thƣơng về sức khoẻ và tâm lý nặng nề, có những trƣờng
hợp dẫn đến cái chết. Hơn nữa, nạn nhân bị buôn bán chịu ảnh hƣởng rất
nhiều bởi thái độ, định kiến và hành vi của cộng đồng đối với họ. Chính vì
thế, nếu chỉ tập trung vào nạn nhân mà không có những hoạt động tác động
79
vào cộng đồng nơi nạn nhân sinh sống thì khả năng nạn nhân tiếp tục bị buôn
bán hoặc rời bỏ cộng đồng là rất cao. Do vậy, trong các hình thức hỗ trợ trên,
“Ngôi nhà bình yên” - mô hình Công tác xã hội chuyên nghiệp do Hội
LHPNVN triển khai đã đƣợc Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh thực hiện với các dịch
vụ hỗ trợ toàn diện nhƣ: Nơi ăn, ở an toàn; chăm sóc sức khoẻ hỗ trợ y tế; hỗ
trợ tâm lý; hỗ trợ pháp lý; đào tạo, hỗ trợ nghề; nâng cao kỹ năng sống; tham
gia các hoạt động vui chơi giải trí… thông qua mô hình này đã chứng tỏ hiệu
quả trong việc trợ giúp cho nạn nhân bị buôn bán tái hoà nhập cộng đồng một
cách bền vững [69, tr.3]. Đặc biệt, Ban chỉ đạo yêu cầu các sở, ban ngành,
đoàn thể tạo điều kiện hỗ trợ cho phụ nữ, trẻ em tiếp cận với các nguồn vay
vốn, tạo điều kiện cho họ đƣợc học nghề tại các trung tâm dạy nghề của
huyện và tỉnh.
Trong 5 năm từ 2008 đến 2013 Sở lao động, thƣơng binh và xã hội tỉnh
Thanh hóa đã hỗ trợ khó khăn ban đầu cho 161 nạn nhân số tiền 140.000.000đ
(một trăm bốn mƣơi triệu đồng). Đối với trẻ em theo về cùng mẹ đƣợc hỗ trợ
tiền mua sách giáo khoa và đồ dùng học tập năm đầu tiên 500.000đ/trƣờng
hợp. Bên cạnh việc hỗ trợ khó khăn ban đầu, từ năm 2008 Chi cục phòng,
chống tệ nạn xã hội đã phối hợp với Tổ chức Lao động quốc tế (ILO/IPEC)
cho các nạn nhân vay vốn tại các xã Ngƣ Lộc huyện Hậu Lộc, xã Thành Vân
huyện Thạch Thành, xã Hải Hà huyện Tĩnh Gia với số tiền 210.000.000đ (hai
trăm mƣời triệu đồng) để giúp nạn nhân đầu tƣ sản xuất ổn định cuộc sống,
hòa nhập cộng đồng [69, tr. 4].
2.4.4. Kết quả bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và nhân chứng trong hoạt
động tố tụng
Hoạt động tố tụng là hoạt động của cơ quan Công an, Viện kiểm sát,
Tòa án và các lực lƣợng khác nhƣ: Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển thực
hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật tố tụng và các văn bản
80
pháp lý liên quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nạn nhân. Nạn
nhân trong các vụ án MBN đƣợc xác định với tƣ cách tham gia tố tụng là
“ngƣời bị hại”. Khái niệm “ngƣời bị hại” đƣợc quy định tại Điều 51 Bộ luật tố
tụng hình sự, theo đó “ngƣời bị hại là ngƣời bị thiệt hại về thể chất, tinh thần,
tài sản do tội phạm gây ra”. Hoạt động tố tụng đƣợc bắt đầu từ khi tiếp nhận,
xử lý tin tố giác, tin báo về tội phạm MBN cho đến khi Tòa án xét xử vụ án và
bản án có hiệu lực pháp luật. Bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và nhân chứng trƣớc,
trong và sau hoạt động tố tụng là hết sức quan trọng. Do vậy, các cơ quan tiến
hành tố tụng đã xem xét, đánh giá và tiến hành đúng trình tự thủ tục tố tụng
và cho đến nay tất cả các vụ án MBN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đƣợc giải
quyết không có vụ án nào vi phạm thủ tục tố tụng. Đây là một kết quả đáng
mừng, kết quả này minh chứng cho chúng ta thấy trình độ, nghiệp vụ của đội
ngũ những ngƣời tiến hành tố tụng đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp hiện nay.
Góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, cụ thể:
- Khi tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm MBN, giải cứu nạn
nhân đến khi phát hiện, bắt giữ tội phạm cơ quan tiến hành tố tụng phải căn
cứ vào từng trƣờng hợp cụ thể để áp dụng các biện pháp bảo vệ cho phù hợp
nhƣ: Điều động ngay lực lƣợng đến địa điểm mà theo tin báo có vụ phạm tội
MBN xảy ra để nắm bắt tình hình; Tiến hành các hoạt động nghiệp vụ để
ngăn chặn bắt giữ tội phạm, thu thập thêm thông tin về tội phạm và nạn nhân;
Triển khai các biện pháp bắt giữ tội phạm và giải cứu nạn nhân; Luôn luôn có
ý thức giữ bí mật thông tin về nạn nhân và nhân chứng; hỗ trợ ban đầu cho
nạn nhân những yêu cầu thiết yếu.
- Bảo vệ nạn nhân, nhân chứng trong hoạt động điều tra:
+ Cơ quan điều tra đảm bảo ổn định về tâm lý, an toàn về thể chất, về
các quyền lợi cho nạn nhân và những ngƣời thân trong gia đình họ;
81
+ Bảo đảm giữ bí mật về danh tính, bí mật đời tƣ của nạn nhân;
+ Kịp thời phát hiện, ngăn chặn có hiệu quả mọi hành vi mua chuộc, đe
dọa, khống chế, trả thù nạn nhân, nhân chứng của đối tƣợng và đồng bọn;
+ Đảm bảo cung cấp kịp thời, đầy đủ các dịch vụ xã hội cần thiết cho
nạn nhân nhƣ: dịch vụ pháp lý, chăm sóc sức khỏe, tƣ vấn tâm lý;
+ Đảm bảo bồi thƣờng thiệt hại cho nạn nhân, gia đình nạn nhân theo
quy định của pháp luật, bảo đảm công bằng, thỏa đáng bao gồm cả cách thức
bồi thƣờng.
Hoạt động bảo vệ nạn nhân, nhân chứng đƣợc cơ quan công an quan
tâm và thực hiện trong suốt quá trình điều tra.
- Bảo vệ nạn nhân, nhân chứng trong hoạt động thực hành quyền công tố.
Thực hành quyền công tố là nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát.
Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn này đƣợc quy định trong BLTTHS và
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, khác với các loại án hình sự
khác, nạn nhân của tội phạm MBN là những ngƣời đã bị tổn thƣơng nghiêm
trọng về mặt tâm lý do họ đã bị xâm phạm về thể xác, tinh thần, xâm hại đến
danh dự, nhân phẩm và có thể họ phải chịu đựng đau đớn về thể xác trong
một thời gian dài. Họ thƣờng dễ bị tổn thƣơng, có tâm trạng hoang mang, lo
sợ bị trả thù, lo sợ quá khứ của mình bị tiết lộ và thiếu niềm tin vào sự bảo vệ,
giúp đỡ của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng nhƣ các cơ quan chức năng
khác trong quá trình xử lý tội phạm. Còn đối với nhân chứng có thể nhân
chứng là nạn nhân có thể là ngƣời thân thích hoặc là ngƣời biết rõ về vụ việc,
họ cũng mang nặng tâm lý sợ bị trả thù. Do đó, khi thực hiện quyền công tố,
Kiểm sát viên phải rất cẩn trọng, quan tâm đến từng chi tiết nhỏ để tránh tổn
thƣơng hoặc bức xúc cho nạn nhân và nhân chứng. Đặc biệt tuân thủ đúng các
nguyên tắc trong tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nạn
nhân và nhân chứng nhƣ: Công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn
82
chặn. Việc xem xét quyết định biện pháp ngăn chặn kịp thời, nhất là bắt tạm
giữ, tạm giam không những ngăn ngừa tội phạm bỏ trốn, tiếp tục gây án, tiêu
hủy chứng cứ gây khó khăn cho công tác điều tra mà còn là biện pháp ngăn
ngừa tội phạm trả thù đe dọa nạn nhân, nhân chứng, hay kiểm sát hoạt động
đối chất, nhận dạng. khi có mâu thuẫn giữa lời khai của bị can với lời khai của
nạn nhân hoặc khi cần phải cho nạn nhân, nhân chứng nhận dạng đối tƣợng,
Kiểm sát viên cần yêu cầu Điều tra viên tiến hành đối chất, nhận dạng đúng
quy định của tố tụng hình sự và phải đảm bảo an toàn tuyệt đối, không gây
nguy hiểm cho nạn nhân, nhân chứng. Có thể sử dụng gƣơng một chiều để
nạn nhân nhận dạng đối tƣợng nhằm tránh tổn thƣơng tâm lý khi tiếp xúc đối
tƣợng, hoặc thực hành quyền công tố trong xét xử cũng là một yêu cầu quan
trọng nhằm bảo vệ nạn nhân và nhân chứng. Việc đƣa bị cáo ra xét xử và áp
dụng hình phạt một cách nhanh chóng, kịp thời, nghiêm minh và theo đúng
quy định của pháp luật hình sự. Đồng thời để bảo vệ nạn nhân, nhân chứng
tránh khỏi sự chờ đợi kéo dài, căng thẳng thêm về tâm lý, Kiểm sát viên cần
căn cứ quy định tại các Điều 176, 187, 191 và 192 BLTTHS để kiểm sát chặt
chẽ việc chuẩn bị xét xử của Tòa án, kiểm sát chặt chẽ sự có mặt của bị cáo,
ngƣời làm chứng và nạn nhân cũng nhƣ ngƣời đại diện hợp pháp của họ tại
phiên tòa nhằm đảm bảo vụ án đƣợc xét xử trong thời hạn luật định, tránh
việc trì hoãn, kéo dài không cần thiết.
- Bảo vệ nạn nhân, nhân chứng trong hoạt động xét xử
Đối với các vụ án “mua bán ngƣời”, “mua bán, đánh tráo hoặc chiếm
đoạt trẻ em”, đặc biệt là các vụ án mà ngƣời bị hại bị mua bán vì mục đích
mại dâm, nếu bị hại có yêu cầu xử kín để bảo vệ bí mật đời tƣ của họ thì Toà
án nên chấp nhận yêu cầu của họ (Điều 18 BLTTHS), hoặc tại phiên tòa khi
nạn nhân, nhân chứng khai báo, tuyệt đối không để bị cáo hoặc ngƣời thân
của bị cáo có các biểu hiện tác động đe dọa đến ngƣời bị hại hoặc nhân
83
chứng. Mọi hành vi gây rối trật tự tại phiên tòa nhằm tác động đến tâm lý
hoặc xâm hại đến tình mạng, danh dự, nhân phẩm của ngƣời bị hại, nhân thân
của họ hoặc nhân chứng cần xử lý nghiêm khắc. Bên cạnh đó, tội phạm MBN,
mua bán trẻ em trong nhiều trƣờng hợp để lại hậu quả rất nghiêm trọng đối
với ngƣời bị hại, có thể ảnh hƣớng đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, thậm
chí cả tính mạng của họ. Chính vì vậy, cần xử lý nghiêm khắc theo đúng quy
định của BLHS.
Cùng với việc áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với ngƣời phạm tội,
Tòa án cần quan tâm đặc biệt, cân nhắc kỹ khi quyết định bồi thƣờng về dân
sự đối với ngƣời bị hại và sau khi kết thúc phiên tòa, căn cứ vào tình hình
thực tế, Tòa án cần tiếp tục yêu cầu lực lƣợng cảnh sát bảo vệ có các biện
pháp phù hợp để bảo vệ nạn nhân, thân nhân họ và nhân chứng tránh sự trả
thù của bị cáo và thân nhân bị cáo.
Việc bảo vệ, hộ trợ nạn nhân và nhân chứng trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử vụ án MBN là một yêu cầu của pháp luật vừa mang tính nhân
đạo cao cả của chế độ xã hội chủ nghĩa, đặc biệt đối với nạn nhân bị mua bán.
Ngoài việc chỉ đạo quyết liệt của Ban chỉ đạo phòng, chống tội phạm MBN
của Chính phủ, Ban chỉ đạo tỉnh đã lên kế hoạch thực hiện nhiều đợt cao điểm
triệt phá các ổ nhóm tội phạm MBN. Thanh Hóa, là một tỉnh đất rộng, ngƣời
đông, nghề nghiệp của ngƣời dân chủ yếu làm nông nghiệp nên điều kiện kinh
tế khó khăn, lại là một tỉnh giáp biên giới Việt - Lào nên Ban chỉ đạo phòng,
chống tội phạm tỉnh rất quan tâm và chỉ đạo các cơ quan chức năng phải làm
tốt công tác điều tra, xử lý tội phạm MBN, tạo điều kiện tốt nhất để nạn nhân
đƣợc hƣởng những chính sách theo pháp luật hiện hành, tạo điều kiện thuận
lợi cho nạn nhân nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống.
Trong quá trình tiến hành tố tụng các cơ quan tố tụng trong tỉnh bám sát mục
tiêu yêu cầu nhiệm vụ nhằm giải quyết kịp thời nhanh chóng, đúng trình tự
84
luật định. Cho đến nay tất cả các vụ án MBN đều đƣợc giải quyết dứt điểm,
án tồn đọng năm 2013 không còn, 6 tháng đầu năm 2014 đến nay chƣa xử lý
vụ việc nào vi phạm hành vi liên quan đến tội phạm MBN.
2.4.5. Những tồn tại, hạn chế trong việc bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bị
mua bán ở tỉnh Thanh Hóa
2.4.5.1. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc nêu trên, việc bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân
bị mua bán ở tỉnh Thanh Hóa vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, Số nạn nhân đƣợc bảo vệ và hỗ trợ chiếm tỉ lệ thấp, số tiền hỗ
trợ chƣa đáng kể. Trên thực tế nạn nhân bị buôn bán trở về ở các địa bàn khảo
sát do không tập trung vào một thời điểm nhất định mà về rải rác. Số lƣợng nạn
nhân trở về có cả bằng con đƣờng trao trả chính thức, giải cứu và tự về. Từ
năm 2008 đến năm 2013, Thanh Hóa có 557 nạn nhân bị buôn bán và nghi bị
buôn bán. Tuy nhiên, đây mới chỉ là con số các cơ quan chức năng nắm bắt
đƣợc, trong thực tế còn cao hơn nhiều và cho đến nay các địa phƣơng chƣa
phát hiện đƣợc hết số nạn nhân tự trở về. Do đó, những nạn nhân thuộc diện
đƣợc hỗ trợ còn ít mới chỉ 151 ngƣời với số tiền 140.000.000 đồng [69, tr.4].
Thứ hai, các cơ sở tiếp nhận nạn nhân trở về qua cửa khẩu biên giới
chƣa có, do đó việc tiếp nhận và hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân chủ yếu đƣợc
thực hiện trong trụ sở hay các đồn của Bộ đội biên phòng. Sau khi xác minh
đầy đủ và có giấy chứng nhận nạn nhân bị mua bán mới chuyển về cho Sở lao
động - Thƣơng binh và Xã hội thực hiện việc hỗ trợ.
Thứ ba, tuy công tác hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân đƣợc
thực hiện dƣới nhiều hình thức. Các trƣờng hợp nạn nhân trở về ở các địa
phƣơng đều đƣợc hỗ trợ theo quy định. Trong đó, có 39,2% đƣợc hỗ trợ về tài
chính, 30,5% đƣợc hỗ trợ về tâm lý; 18,3% đƣợc hỗ trợ học nghề, tìm việc
làm; 25,6% đƣợc hỗ trợ pháp lý; 28,7% đƣợc chăm sóc y tế [69, tr.5], nhƣng
85
các dịch vụ hỗ trợ này còn yếu và thiếu. Cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ
nạn nhân hầu nhƣ chƣa có, hầu hết các địa phƣơng đều sử dụng một phần
kinh phí, cơ sở vật chất, nhân lực của Trung tâm Bảo trợ xã hội hoặc Trung
tâm chữa bệnh giáo dục lao động xã hội làm nơi tiếp nhận và thực hiện các
hoạt động hỗ trợ cho nạn nhân. Số nạn nhân đƣợc hỗ trợ thấp, các dịch vụ hỗ
trợ nạn nhân mới ở bƣớc ban đầu, các bƣớc tiếp hỗ trực tiếp theo nhƣ học
nghề, hƣớng nghiệp nghề, tạo việc làm để ổn định đời sống cho các đối tƣợng
chƣa làm đƣợc nhiều mới chỉ dành cho nạn nhân trở về chính thức hoặc trong
các vùng, địa phƣơng có các dự án quốc tế tài trợ.
Thứ tư, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phƣơng khi nhận
đƣợc tin báo, tố giác tội phạm thực hiện chƣa tốt công tác bảo vệ nạn nhân mà
đang có thói quen chờ đợi cấp trên và cho rằng đây là nhiệm vụ của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Do đó, có nạn nhân chờ đợi một thời gian không thấy
đƣợc bảo vệ, mặc cảm, tự ti, e thẹn về thân phận nên thôi tố giác tội phạm.
Thứ năm, công tác xác minh, tiếp nhận nạn nhân theo Quyết định
17/2007/QĐ-TTg và Thông tƣ liên tịch số 03/2008/TTLT-BCA-BQP-BNG-
BLĐTBXH ngày 08 tháng 5 năm 2008 của liên bộ Công an, Quốc phòng,
Ngoại giao, Lao động - Thƣơng binh và Xã hội vẫn còn nhiều vƣớng mắc
trong thực hiện, đặc biệt là xác minh nạn nhân, nhất là nạn nhân tự trở về, chủ
yếu dựa vào lời khai của nạn nhân, nhƣng do nhiều lý do cả từ bản thân nạn
nhân và một số cơ quan chức năng còn chƣa thật quan tâm.
Thứ sáu, đội ngũ cán bộ thực hiện công tác bảo vệ nạn nhân đều là
kiêm nhiệm, thiếu kinh nghiệm, trong khi công tác tiếp nhận hỗ trợ phụ nữ,
trẻ em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về là một nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp
nên việc giúp đỡ đối tƣợng còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc nắm bắt các thông
tin về nạn nhân chƣa kịp thời gây khó khăn cho công tác chăm sóc và giải
quyết những vấn đề bức xúc của nạn nhân.
86
2.4.5.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Những tồn tại, hạn chế nêu trên trong công tác bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân
bị mua bán ở tỉnh Thanh Hóa tập trung một số nguyên nhân sau:
Một là, về nhận thức các cơ quan có thẩm quyền và các tổ chức hội ở
địa phƣơng chƣa nhận thức sâu sắc và thực sự quan tâm đến hoạt động bảo vệ
và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, cho rằng nạn nhân trong tội phạm MBN giống
nạn nhân của các tội phạm khác và coi đây là nhiệm vụ của các cơ quan tiến
hành tố tụng, việc bồi thƣờng thiệt hại thuộc trách nhiệm của bị cáo.
Hai là, Công tác tuyên truyền về phòng, chống ngƣời còn nhiều hạn
chế, việc tuyên truyền chƣa bao phủ hết nhóm đối tƣợng có nguy bị mua bán
cao, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em ở vùng giáp biên, vùng sâu, vùng xa. Hơn nữa,
nhận thức về xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần cảnh giác của một
số bộ phận nhân dân với loại tội phạm này vẫn còn thấp.
Ba là, số nạn nhân bị mua bán từ nƣớc ngoài trở về thông qua con
đƣờng tiếp nhận của các cơ quan chức năng còn ít so với thực tế. Nhiều nạn
nhân bị mua bán trở về không khai báo, địa phƣơng không nắm đƣợc thông
tin chính xác nên không báo cáo, vì vậy khó khăn cho công tác xác minh, lập
hồ sơ hỗ trợ nạn nhân khi tái hòa nhập cộng đồng.
Bốn là, về điều kiện đảm bảo từ khâu tiếp nhận nạn nhân, đảm bảo các
điều kiện sinh hoạt bình thƣờng cho họ đến các trang thiết bị, điều kiện cần
thiết để giải quyết tốt vụ án và các dịch vụ xã hội đảm bảo cho việc hòa nhập
cộng đồng cho nạn nhân còn thiếu thốn, thiếu cả cơ sở vật chất và con ngƣời.
Năm là, mặc dù nạn nhân đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ
theo quy định của pháp luật, Tòa án quyết định bằng bản án hoặc quyết định
buộc ngƣời phạm tội phải bồi thƣờng thiệt hại cho nạn nhân, nhƣng việc thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án còn gặp nhiều khó khăn do bị cáo
đang chấp hành hình phạt tù nên chƣa thi hành đƣợc quyết định bồi thƣờng
hoặc không có điều kiện để thi hành án.
87
Tiểu kết chƣơng 2
Qua nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh
Thanh Hóa có thể khẳng định việc thực hiện pháp luật PCMBN đã đạt đƣợc
những kết quả đáng khích lệ. Thể hiện thông qua các hoạt động tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật về PCMBN; về thực hiện các Chƣơng trình mục
tiêu quốc gia về PCMBN Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010, 2011 - 2015, kế
hoạch Chƣơng trình hành động PCMBN 2005 - 2010, 2011 - 2015 của tỉnh
Thanh Hóa, nâng cao rõ rệt chất lƣợng công tác PCMBN của các cấp chính
quyền và nhân dân trong tỉnh. Thể chế đƣợc quan điểm chủ trƣơng, chính
sách của Đảng và Nhà nƣớc về PCMBN vào thực tiễn cuộc sống. Nội dung
của pháp luật về PCMBN đã đƣợc tổ chức thực hiện tƣơng đối đầy đủ,
nghiêm chỉnh trong thực tiễn của đời sống xã hội, bảo đảm cho pháp luật về
PCMBN đƣợc thực hiện trong thực tế.
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, việc thực hiện pháp luật về PCMBN
ở Thanh Hóa có nơi chƣa thực sự quan tâm, sự phối hợp giữa các cơ quan
chức năng, của chính quyền, đoàn thể các cấp có lúc chƣa chặt chẽ, chƣa
đồng bộ. Một số nội dung của pháp luật PCMBN còn chƣa đƣợc bảo đảm
thực hiện trong đời sống xã hội, mục tiêu PCMBN chƣa đạt đƣợc.
Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện pháp luật về PCMBN
ở Thanh Hóa hiện nay là do: một số đoàn thể, chính quyền cơ sở chƣa thực sự
quan tâm, chƣa có nhận thức đúng đắn, đầy đủ giá trị cả về lý luận và thực
tiễn của vấn đề PCMBN và nhận thức về xã hội, ý thức chấp hành pháp luật,
tinh thần cảnh giác của một bộ phận nhân dân đối với loại tội phạm này chƣa
cao; hạn chế trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
PCMBN đặc biệt đối với đối tƣợng có nguy cơ mua bán cao nhƣ phụ nữ, trẻ
em ở vùng giáp biên, vùng sâu, vùng xa, vùng biển có điều kiện hoàn cảnh
khó khăn; hạn chế về kinh phí phục vụ cho công tác đấu tranh với tội phạm
88
MBN, kinh phí hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng đƣợc trích từ nguồn
ngân sách địa phƣơng còn hạn hẹp chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu, nhiệm vụ; hạn
chế bởi lực lƣợng đấu tranh PCMBN chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu công tác,
trong khi đó hoạt động của tội phạm MBN ngày càng tinh vi núp dƣới danh
nghĩa môi giới tìm kiếm việc làm nhằm vào số chị em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn về kinh tế, bức xúc về việc làm… lợi dụng mối quan hệ, tạo uy tín
và thống nhất với gia đình với nạn nhân để tạo vỏ bọc kín đáo phòng khi phát
hiện thì cơ quan chức năng khó tìm đƣợc chứng cứ, hơn nữa đối tƣợng liên
quan đến nhiều địa bàn tỉnh, thành phố và có yếu tố nƣớc ngoài do vậy hiệu
quả công tác phát hiện, điều tra xử lý tội phạm này chƣa cao.
89
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI
Ở TỈNH THANH HÓA
3.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH
THANH HÓA
PCMBN đã trở thành yêu cầu mang tính toàn cầu. MBN là tệ nạn đƣợc
ghi nhận vào những năm 1990 khi BBN đƣợc xem là một bộ phận của nạn
mại dâm nhằm cung cấp nguồn phụ nữ rẻ mạt từ các vùng khác nhau. Kể từ
thời điểm đó Việt Nam trở thành một trong những đƣờng dây buôn bán phụ
nữ quốc tế và khu vực. Các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm đến
PCMBN, bởi vì PCMBN là mục tiêu quốc gia về phòng, chống tội phạm, là
tiêu chí để đánh giá tiến bộ xã hội, bảo đảm quyền con ngƣời đặc biệt là
quyền của phụ nữ và trẻ em.
Ở Việt Nam, công tác PCMBN đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta quan tâm
nhất quán. Nguyên tắc bảo vệ quyền con ngƣời, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân đã trở thành nguyên tắc hiến định xuyên suốt các Hiến pháp của
Nhà nƣớc ta, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp năm 1946. Từ đó, ở
nhiều cấp độ khác nhau, vấn đề PCMBN đã đƣợc cụ thể hoá trong các văn
bản pháp luật, làm cơ sở để chúng ta thực hiện và bảo đảm vấn đề PCMBN
trong thực tế.
Thực hiện pháp luật về PCMBN là một trong những nhiệm vụ cấp bách
hiện nay của Việt Nam nói chung và của tỉnh Thanh Hóa nói riêng. Do đó, để
đảm bảo pháp luật PCMBN đi vào thực tiễn cuộc sống cần đáp ứng các yêu
cầu khách quan sau:
90
3.1.1. Yêu cầu đƣa các chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng
và pháp luật Nhà nƣớc về phòng, chống mua bán ngƣời vào thực tiễn đời
sống của tỉnh Thanh Hóa
Pháp luật là phƣơng tiện để thể chế hoá trực tiếp, đầy đủ, nhất quán và
đồng bộ các chủ trƣơng chính sách, đƣờng lối của Đảng về PCMBN. Thể chế
hoá chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng thành pháp luật chính là phƣơng thức
thông qua nhà nƣớc, làm cho đƣờng lối đó đó trở thành những quy tắc chung
đối với mọi thành viên của xã hội và đƣợc tổ chức thực hiện vào trong đời
sống xã hội. Do đƣợc thể chế hoá thành pháp luật, chủ trƣơng đƣờng lối của
Đảng trở thành những mệnh lệnh, chỉ thị mang tính quyền lực nhà nƣớc đƣợc
thực hiện một cách chính xác và thống nhất. PCMBN là một nội dung quan
trọng trong chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam.
Việt Nam bƣớc vào thời kỳ đổi mới với nhiều cơ hội, thời cơ và thử
thách cho phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa. Công tác PCMBN đƣợc lực
lƣợng Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Viện kiểm sát, Tòa án, các bộ,
ngành có liên quan với vai trò là lực lƣợng nòng cốt, phát huy sức mạnh của
toàn xã hội trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm theo tinh
thần Nghị quyết Trung ƣơng 8 (khóa IX) về chiến lƣợc bảo vệ an ninh quốc
gia trong tình hình mới, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới,
Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hƣớng
đến năm 2020, Chỉ thị 48/CT-TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng
cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong
tình hình mới, Chỉ thị 09/CT-TW ngày 01/12/1011 Ban Bí thƣ về tăng cƣờng
sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
trong tình hình mới, Chỉ thị 1408/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về
91
phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em, mua bán trẻ em... Đặc biệt là Chƣơng
trình hành động quốc gia về phòng, chống tội phạm MBN của Chính phủ yêu
cầu các địa phƣơng triển khai tổ chức thực tốt chƣơng trình này, tổ chức các
đợt rà soát cao điểm nhằm triệt phá tận gốc hành vi MBN và các hành vi khác
liên quan đến MBN.
Trên cơ sở quan điểm chủ trƣơng của Đảng, Đảng bộ và chính quyền
tỉnh Thanh Hóa đã đã ban hành nhiều văn bản thể hiện quan điểm về
PCMBN nhằm đạt mục tiêu PCMBN ở tỉnh Thanh Hoá nhƣ: Chỉ thị 09-
CT/TU của Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy ngày 30/12/2011 về “tăng cƣờng sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo an ninh trật tự và phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, Kế hoạch số 61/KH-UBND của UBND
tỉnh Thanh Hóa về thực hiện Chƣơng trình hành động phòng, chống tội
phạm MBN giai đoạn 2011-2015…
Nhƣ vậy, đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật về PCMBN ở tỉnh
Thanh Hóa trƣớc hết xuất phát từ yêu cầu khách quan là thể chế hoá, đƣa các
chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về
PCMBN vào thực tiễn đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh.
3.1.2. Yêu cầu bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân trong thời
kỳ CNH, HĐH của tỉnh Thanh Hóa
Quyền con ngƣời, quyền công dân là quyền bất khả xâm phạm. Pháp
luật Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn đề cao trách nhiệm
trong việc bảo vệ quyền con ngƣời. Trong suốt chiều dài lịch sử dụng nƣớc và
giữ nƣớc, với truyền thống hào hùng của dân tộc, chúng ta đã chiến thắng tất
cả quân xâm lƣợc để xây dựng một đất nƣớc hòa bình, dân chủ, công bằng,
văn minh; xây dựng một nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân và Việt Nam đang xây dựng để trở thành một
nƣớc công nghiệp hiện đại. Cùng với cả nƣớc, Thanh Hóa đã và đang cố gắng
92
phấn đấu đến năm 2015 trở thành tỉnh tiến tiến, tiếp theo sẽ trở thành tỉnh
“kiểu mẫu” nhƣ sinh thời Hồ Chí Minh mong muốn.
Thể chế các quan điểm của Đảng, pháp luật của nhà nƣớc về bảo vệ
quyền con ngƣời, quyền công dân trong các Văn kiện của Đảng, trong Hiến
pháp và pháp luật đã thể hiện rõ yêu cầu trên. Để đấu tranh, ngăn ngừa các
loại tội phạm hiện nay trong đó có tội MBN và các tội liên quan đến hành vi
MBN, từ năm 2004 đến nay Đảng và nhà nƣớc ta rất quan tâm đến công tác
PCMBN, đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền con ngƣời,
quyền công dân vừa phù hợp với pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế
nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức nhân quyền
thế giới vào tháng 11 năm 2013 vừa qua.
Pháp luật về PCMBN ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền con ngƣời
nhất là quyền của phụ nữ và trẻ em, điều đó đã tạo điều kiện cho nạn nhân bị
buôn bán trở về có điều kiện tái hòa nhập cộng đồng giúp họ tự tin hoà mình
vào cuộc sống của cộng đồng.
Tuy nhiên, trƣớc yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Thanh Hóa
hiện nay, tình hình bảo vệ nạn nhân bị mua bán trở về nhất là phụ nữ, trẻ em
còn nhiều hạn chế. Tình trạng phụ nữ, trẻ em thiếu việc làm, thu nhập thấp,
lao động quá sức vẫn còn phổ biến ở một số vùng, ở một số doanh nghiệp,
việc làm của lao động nữ thiếu ổn định, chính sách tiền lƣơng, bảo hiểm xã
hội, bảo hộ lao động chƣa đƣợc thực hiện đầy đủ. Số phụ nữ nông thôn thiếu
việc làm, di cƣ tự phát ra thành phố ngày càng gia tăng tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động MBN.
Để bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, ngăn cấm triệt để các
hoạt động MBN ở Thanh Hóa trong thời kỳ CNH, HĐH cần phải thực hiện
đồng bộ các giải pháp trong đó không thể thiếu công tác đấu tranh PCMBN.
Thực hiện tốt pháp luật về PCMBN sẽ góp phần khẳng định quyền con ngƣời,
93
quyền công dân đối với quá trình phát triển, đồng thời nâng cao hơn trách
nhiệm của cả cộng đồng trong việc bảo vệ giá trị con ngƣời, ngăn cấm sự
phân biệt đối xử đối với nạn nhân trở về từ hành vi bị mua bán.
3.1.3. Yêu cầu về khắc phục hạn chế của việc thực hiện pháp luật
phòng, chống mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa
Thực hiện pháp luật PCMBN ở Thanh Hóa trong những năm qua đã đạt
đƣợc những kết quả đáng khích lệ. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền nhận thức
đƣợc vai trò của pháp luật PCMBN, từ đó quan tâm chỉ đạo và thực hiện các
chƣơng trình hành động để phòng, chống tội MBN trên địa bàn tỉnh. Tuy
nhiên, thực tế vẫn còn một bộ phận cán bộ cấp cơ sở chƣa nhận thức rõ công
tác PCMBN, chƣa chủ động trong việc phòng, chống tội phạm, có thái độ chờ
đợi công việc tự đến. Do vậy, chƣa phản ảnh đƣợc sự quyết tâm để rà soát
nắm bắt tình hình về tội phạm MBN trên địa bàn mình phụ trách.
Bên cạnh đó hiện nay trong chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng ở các
trƣờng học hay các trung tâm trên địa bàn tỉnh chƣa lồng ghép Luật PCMBN
vào chƣơng trình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nên công tác
giáo dục, truyền thông về PCMBN chƣa thực sự đủ mạnh, chƣa đi vào thực
chất; hình thức tuyên truyền chƣa thích hợp, sinh động, phong phú, việc tuyên
truyền chủ yếu bằng hình thức phát tờ rơi nhƣ hiện nay sẽ không mang lại
hiệu quả cao.
Mặt khác, một số ngƣời tuy có nhận thức, hiểu biết về PCMBN song lại
có thái độ chƣa tích cực trong thực hiện quyền này, bởi họ chính là nạn nhân,
là ngƣời thân của nạn nhân, họ ngại động chạm đến pháp luật, đến nỗi đau do
thiếu hiểu biết của mình trƣớc đây hoặc chƣa có đủ nghị lực, ý chí, niềm tin
để chuyển đổi nhận thức thành thái độ và những hành động tích cực trong
việc thực hiện tố giác tội phạm.
Hơn nữa, quá trình thực hiện pháp luật thực định cũng gặp nhiều khó
94
khăn do những nguyên nhân chủ quan từ bản thân nạn nhân, khách quan từ sự
nhìn nhận, đánh giá chƣa đúng mức của xã hội đối với việc thực hiện
PCMBN. Vì thế để khắc phục những hạn chế nêu trên, cần nâng cao hơn nữa
hiệu quả thực hiện pháp luật về PCMBN ở Thanh Hóa góp phần cùng với cả
nƣớc đẩy lùi tội phạm tiến tới xóa bỏ tệ nạn MBN.
3.2. QUAN ĐIỂM VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI TỈNH THANH HÓA
3.2.1. Phòng, chống mua bán ngƣời là một trong những nhiệm vụ
cơ bản của Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội của tỉnh
Thanh Hóa
Thực hiện pháp luật PCMBN, chính là thực hiện việc bảo vệ quyền con
ngƣời, hơn nữa nó còn bao hàm cả nội dung kinh tế, chính trị, xã hội bởi đối
tƣợng bị mua bán chủ yếu là phụ nữ và trẻ em; Phụ nữ chiếm một nửa lực
lƣợng lao động có nghĩa họ là lực lƣợng sản xuất ra một nửa tổng sản phẩm
xã hội, là bộ phận tái tạo trực tiếp ra con ngƣời; Trẻ em là hào khí, là tƣơng
lai của đất nƣớc.
Chính vì vậy, thực hiện pháp luật về PCMBN là một trong những
nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm của Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã
hội của tỉnh Thanh Hóa. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, tổ chức chính trị xã
hội từ tỉnh đến cơ sở cần thƣờng xuyên chỉ đạo thực hiện phòng, chống tội
phạm, kết hợp chặt chẽ giữa công tác phòng, chống tội phạm với nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội; huy động nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn xã hội và tăng cƣờng hợp tác trong thực hiện các Chƣơng trình hành
động về PCMBN; có kế hoạch và biện pháp khắc phục những tồn tại, yếu
kém, bất cập trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCMBN, tiếp tục bổ sung
những giải pháp thiết thực nhằm đẩy mạnh việc thực hiện có hiệu quả các
mục tiêu này. Trong đó chú trọng đến các nhiệm vụ bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân
95
tái hòa nhập cộng đồng nhƣ tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo,
chăm sóc sức khoẻ, nâng cao hiểu biết pháp luật. Tạo điều kiện thuận lợi cho
nạn nhân trong giáo dục đào tạo, phát huy vai trò của họ tham gia vào các
hoạt động chính trị, hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật; Nghiên cứu
xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để tạo nguồn lao động đối với phụ nữ, trẻ
em nông nhàn, thu hút sự tham gia tích cực của họ vào tiến trình CNH - HĐH.
Đối với các cấp Hội phụ nữ cần tiếp tục đổi mới nội dung, phƣơng thức
hoạt động, chăm lo quyền lợi thiết thực chính đáng của hội viên. Các phong
trào của Hội cần đi sâu vào mục tiêu phát triển và bảo vệ quyền lợi chính
đáng của hội viên, tạo điều kiện và cơ hội tốt nhất để chị em phụ nữ tham gia
các hoạt động chính trị, xã hội ở địa phƣơng.
Đối với Đoàn thanh niên, nhất là cấp đoàn cơ sở có những chƣơng trình
định hƣớng nghề nghiệp cho đoàn viên của mình, đồng thời lồng ghép hoạt
động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về PCMBN để các đoàn viên có ý thức
phòng tránh trong những nghề nghiệp có nguy cơ dễ bị lạm dụng nhƣ: tìm
kiếm việc làm ở thành phố hoặc đi xuất khẩu lao động...
Thực hiện tốt quan điểm này góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực
hiện pháp luật về PCMBN của tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao ý thức pháp luật về phòng,
chống mua bán ngƣời cho nhân dân góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
Ngày nay, trong sự phát triển của xã hội, quyền con ngƣời ngày càng
đƣợc nhìn nhận hoàn chỉnh hơn, với nhƣng yêu cầu, biện pháp cao hơn để
thực hiện mục tiêu PCMBN. Nâng cao nhận thức về PCMBN đã và đang
đồng hành với quá trình phát triển kinh tế, văn hoá xã hội. Nhƣng thực tế cho
thấy, hiện nay không ít ngƣời vẫn chƣa hiểu “thế nào gọi là bán ngƣời?,
những hành vi nào là hành vi mua bán ngƣời?”. Do đó, đòi hỏi mỗi ngƣời
96
phải tiếp cận thông tin, có nhận thức về lĩnh vực này để hành động phù hợp
với yêu cầu mới, nhất là đối với các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể chính
trị trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, vận động quần chúng. Vì vậy cần phải có
kiến thức về PCMBN, hiểu đúng làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến để
nhân dân nhận thức rõ hơn có biện pháp phòng ngừa tốt hơn góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn trên địa bàn tỉnh.
Cùng với các lĩnh vực khác, nâng cao nhận thức về PCMBN là hết sức
cần thiết khi chúng ta hƣớng tới mục tiêu bảo đảm quyền con ngƣời trong một
xã hội văn minh. Do đó, cần phải quán triệt các quan điểm sau:
- Các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể tổ chức
học tập, nghiên cứu, quán triệt các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà
nƣớc về PCMBN; tăng cƣờng tập huấn nâng cao trình độ, năng lực cho đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, nhất là ở cấp xã, phƣờng, thị trấn; quan
tâm bồi dƣỡng những nạn nhân bị buôn bán trở về làm cộng tác viên tích cực,
lấy ngƣời thật, việc thật để tuyên truyền.
- Ban tuyên giáo tỉnh chủ trì phối hợp với Trƣờng chính trị tỉnh, Sở tƣ
pháp nghiên cứu biên soạn tài liệu tuyên truyền giáo dục về PCMBN trong
tỉnh; đƣa nội dung Luật PCMBN để phục vụ cho việc triển khai rộng rãi ra
các tầng lớp nhân dân trong tỉnh; đƣa nội dung PCMBN dƣới dạng báo cáo
phụ khoá vào các lớp bồi dƣỡng chính trị trong trƣờng chính trị, bổ sung
chƣơng trình giáo dục pháp luật cho các trƣờng Đại học và cao đẳng, các
trung tâm học tập cộng đồng trong tỉnh, đồng thời gắn việc thực hiện cuộc
vận động “Xóa đói, giảm nghèo”, “Thanh niên lập nghiệp”, “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ” với các phong trào “Đền ơn,
đáp nghĩa”, “Mái ấm tình thƣơng”…nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho nhân dân, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em, ngƣời dân vùng sâu, vùng biên
giới, vùng có nguy cơ cao về MBN.
97
- Các cơ quan thông tin đại chúng, các bộ phận truyền thông trong tỉnh
có chƣơng trình, chuyên mục định kỳ thông tin góp phần nâng cao nhận thức
cho toàn xã hội về việc thực hiện pháp luật về PCMBN. Tập trung tuyên
truyền vào số phụ nữ và trẻ em có nguy cơ cao, phụ nữ ở độ tuổi 18 đến 35,
số ngƣời thiếu việc làm, có thu nhập thấp, gia đình hoàn cảnh khó khăn về
kinh tế, số nữ sinh phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, trẻ em gái lao động
sớm, trẻ em lang thang, số phụ nữ bị buôn bán trở về. Bên cạnh đó, các cơ
quan quản lý văn hóa du lịch, hệ thống thiết chế về văn hóa ở cơ sở thông qua
các hoạt động văn hóa du lịch, kinh doanh, dịch vụ tuyên truyền về PCMBN.
- Tổ chức các chiến dịch truyền thông tại cộng đồng, các chiến dịch
truyền thông trao đổi kinh nghiệm với các tỉnh, đặc biệt với các tỉnh nƣớc
ngoài chung đƣờng biên giới.
- Các cơ quan bảo vệ pháp luật trong tỉnh cần có kế hoạch cụ thể để
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về PCMBN cho nhân dân, nhất là
ngƣời dân vùng núi giáp biên. Đồng thời, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm
minh mọi hành vi vi phạm pháp luật về MBN.
3.2.3. Phòng, chống mua bán ngƣời luôn gắn với mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ mới
Phát triển kinh tế - xã hội là mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Mục tiêu, nhiệm vụ này đã và đang đƣợc
các cấp chính quyền và toàn thể nhân dân trong tỉnh quyết tâm thực hiện góp
phần cùng với cả nƣớc bƣớc vào thời kỳ công nghiệp hiện đại.
Thực hiện pháp luật về PCMBN là một trong những mục tiêu quan
trọng về giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nó luôn gắn với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng. Đấu tranh phòng,
chống tệ nạn MBN là mục tiêu quốc gia, bởi tội phạm MBN xâm phạm đến
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, uy tín và tính mạng của con
98
ngƣời. Do vậy, thực hiện pháp luật PCMBN phải đƣợc coi nhƣ một bộ
phận hợp thành, không thể tách rời trong việc thực hiện pháp luật nói
chung của tỉnh và nó đƣợc đặt trong một chỉnh thể với việc bảo vệ quyền
con ngƣời, quyền công dân.
Để đạt đƣợc mục tiêu phát triển về kinh tế xã hội mà Nghị quyết
Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010-2015 đề ra, trƣớc
hết cần thực hiện tốt Nghị quyết Trung ƣơng 8 (khóa XI) về “Chiến lƣợc
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới", đảm bảo vững chắc an ninh 2 tuyến
biên giới và các địa bàn trọng điểm nhằm phòng, chống tội phạm MBN.
Với sự quyết tâm và những kết quả đạt đƣợc trong công tác PCMBN trong
thời gian qua. Thanh Hóa càng phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác
PCMBN để tiến tới xóa bỏ tệ nạn MBN góp phần thực hiện tốt hơn mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
3.3. GIẢI PHÁP NẦNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI TỪ THỰC TIỄN Ở TỈNH THANH HÓA
3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời
Năm 2011, Quốc hội thông qua Luật PCMBN và Chƣơng trình hành
động phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011-2015 đã chứng minh
khung pháp luật về PCMBN của Việt Nam đã hoàn thiện hơn trƣớc một cách
đáng kể. Nhiều bất cập, hạn chế trƣớc đây đã đƣợc giải quyết, nhiều vấn đề đã
tƣơng thích với những nguyên tắc và quy định cơ bản của pháp luật quốc tế về
phòng, chống BBN.
Do pháp luật PCMBN có những đặc thù riêng, bao gồm các quy
phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến PCMBN, bảo vệ các
quyền của con ngƣời, giữ vững ổn định và trật tự xã hội nên việc hoàn
thiện các bộ phận pháp luật này phải đƣợc đặt trong mối quan hệ với hoàn
thiện pháp luật chung.
99
Qua nghiên cứu, phân tích hệ thống pháp luật PCMBN và thực tế sau 3
năm thực hiện Luật PCMBN nổi lên một số bất cập cần tiếp tục hoàn thiện
hơn và để thống nhất với Nghị định thƣ về việc ngăn ngừa phòng, chống và
trừng trị việc BBN, đặc biệt là buôn bán phụ nữ và trẻ em (Nghị định thƣ
Palermo) cụ thể: Các biện pháp phòng ngừa MBN trong Luật PCMBN chƣa
đƣợc quy định và hƣớng dẫn cụ thể, trong khi cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức có liên quan trong phòng ngừa MBN chƣa rõ ràng, nội dung
phòng ngừa MBN chƣa đƣợc lồng ghép vào hệ thống giáo dục quốc dân.
Những điều này làm giảm hiệu quả các hoạt động PNMBN; Các văn bản pháp
luật hiện hành về phòng, chống mại dâm đều không đề cập trực tiếp đến vấn
đề MBN, trong khi những quy định về cấp phép cho các cơ sở kinh doanh
dịch vụ nhạy cảm còn chƣa hợp lý, các chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực
này còn thiếu và chƣa đủ tính răn đe. Những bất cập này gây khó khăn cho
việc PCMBN vì mục đích khai thác tình dục; Quy định về các tội “mua bán
ngƣời” và “mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em” trong pháp luật Việt
Nam vẫn còn một số điểm chƣa hợp lý và chƣa tƣơng thích hoàn toàn với
định nghĩa “buôn bán ngƣời” trong Điều 3 Nghị định thƣ Palermo, vì thế làm
giảm hiệu quả ngăn chặn của pháp luật với các tội phạm MBN; Việc xử lý vi
phạm hành chính liên quan đến MBN đƣợc quy định tản mát trong nhiều văn
bản pháp luật, gây trở ngại cho việc áp dụng trong thực tế, trong khi mức phạt
tiền còn nhẹ nên hiệu quả răn đe thấp; Mặc dù pháp luật đã quy định quyền
đòi bồi thƣờng thiệt hại vật chất, tinh thần của nạn nhân bị mua bán, song
những yêu cầu pháp lý về thu thập chứng từ chứng minh thiệt hại hiện là một
trở ngại cho việc thực hiện quyền này.
Từ những hạn chế trên của pháp luật về PCMBN đã có ảnh hƣởng
không nhỏ đến việc thực hiện pháp luật về PCMBN, là nguyên nhân của tình
trạng vi phạm pháp luật về PCMBN.
100
Do đó, để tăng cƣờng hiệu lực, hiệu quả của công tác đấu tranh,
PCMBN trên cả nƣớc nói chung và ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, cần phải thực
thi đồng bộ các biện pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật PCMBN
theo hƣớng sửa đổi, bổ sung nhằm thống nhất việc áp dụng và thể hiện sự
nghiêm khắc đối với những hành vi xâm phạm quyền con ngƣời mà đặc biệt
là quyền của phụ nữ và trẻ em, vì vậy cần:
- Ban hành văn bản dƣới luật để cụ thể hóa và hƣớng dẫn thực hiện các
biện pháp phòng ngừa MBN trong Chƣơng II Luật PCMBN, trong đó xác định
cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan, đồng thời quy định
việc lồng ghép nội dung phòng ngừa MBN vào hệ thống giáo dục quốc dân.
- Sửa đổi định nghĩa về MBN, mua bán trẻ em trong Nghị định số
62/2012/NĐ-CP và Thông tƣ liên tịch 01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-
BCA-BQP-BTP cho tƣơng thích với quy định tại Điều 3 Nghị định thƣ
Palermo, cụ thể là: Không quy định việc dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật
chất khác để trao đổi là những căn cứ bắt buộc để xác định hành vi MBN,
mua bán trẻ em; Quy định rõ các phƣơng thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm
và mục đích xuyên suốt của các hành vi phạm tội là bóc lột nạn nhân (tình
dục, sức lao động và các hình thức bóc lột khác) và phân biệt rõ những cách
thức, thủ đoạn phạm tội MBN đã thành niên với những cách thức, thủ đoạn
phạm tội mua bán trẻ em.
- Sửa đổi định nghĩa trẻ em trong Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ
em từ quy định “trẻ em là công dân Việt Nam dƣới 16 tuổi” thành “trẻ em là
công dân Việt Nam dƣới 18 tuổi”.
- Nghiên cứu ban hành một Nghị định riêng về xử phạt hành chính
trong PCMBN để thuận lợi cho việc áp dụng trong thực tế, đồng thời tăng
mức phạt tiền để nâng cao hiệu quả răn đe những kẻ vi phạm.
- Nghiên cứu ban hành văn bản dƣới luật hƣớng dẫn áp dụng các quy
101
định về kiện đòi bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLTTHS theo
hƣớng đơn giản hóa các thủ tục và giấy tờ chứng minh thiệt hại trong các vụ
MBN để hỗ trợ nạn nhân trong việc đòi bồi thƣờng.
- Sửa đổi Nghị định số 62/2012/NĐ-CP ngày 13/8/2012 theo hƣớng bổ
sung quy định hƣớng dẫn trình tự, thủ tục xác minh nạn nhân theo khoản 4
Điều 24 Luật PCMBN.
- Bổ sung vào Điều 6 Luật PCMBN quy định về quyền của nạn nhân
đƣợc yêu cầu cơ quan tố tụng và các chủ thể liên quan khác giữ bí mật đời tƣ
và nhận dạng. Nghiên cứu sửa đổi Khoản 1 Điều 10 Nghị định số 62/2012/NĐ-
CP ngày 13/8/2012 theo hƣớng đơn giản hóa các yêu cầu thủ tục khi đề nghị
áp dụng biện pháp bảo vệ nạn nhân.
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế xã hội đấu tranh phòng, chống tội phạm về
mua bán ngƣời
Bảo vệ quyền con ngƣời vừa là mục tiêu, nhiệm vụ đầu tiên để phát
triển xã hội. Thực hiện PCMBN là cả một quá trình đòi hỏi sự tham gia của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội, xác định trách nhiệm đến từng cơ quan, tổ
chức, gia đình, cá nhân nhằm đảm bảo trên thực tế các quyền của con ngƣời.
Vì vậy, cần hoàn thiện cơ chế xã hội đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật
về PCMBN thông qua việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, sự
cảnh giác cao độ của các gia đình và các cá nhân trong việc thực hiện và bảo
vệ quyền con ngƣời. Để hoàn thiện cơ chế xã hội trong việc đấu tranh, phòng
chống tội phạm về MBN cần:
- Xây dựng và thực hiện cơ chế phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
bộ hệ thống chính trị, nâng cao trách nhiệm vai trò chủ động của các ngành,
đoàn thể, tổ chức xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia phòng ngừa, phát
hiện, đấu tranh đối với các hành vi vi phạm pháp luật về MBN.
- Đổi mới và thực hiện nghiêm chỉnh cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
102
bảo vệ pháp luật; nâng cao trách nhiệm, phát huy chức năng của các cơ sở
Đảng, các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức chính trị - xã hội.
- Các Bộ, ngành, UBND các cấp hàng năm phải sơ kết, tổng kết tình
hình thực hiện PCMBN từ đó có kế hoạch tiếp tục chỉ đạo thực hiện các văn
bản pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ
tƣớng Chính phủ về thực hiện pháp luật PCMBN, thực hiện các mục tiêu
quốc gia về PCMBN.
- Xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ chuyên trách
làm công tác quản lý nhà nƣớc về PCMBN từ trung ƣơng đến cơ sở. Ở Thanh
Hóa hiện nay, công tác tham mƣu, quản lý nhà nƣớc về lĩnh vực PCMBN
đƣợc bố trí gồm 01 Chánh văn phòng chuyên trách thuộc Sở Lao động -
Thƣơng binh và Xã hội. Đối với cấp huyện, cán bộ làm công tác PCMBN là
cán bộ kiêm nhiệm. Cấp xã, cán bộ làm công tác PCMBN chƣa thống nhất
tùy thuộc vào thực tế của địa phƣơng: Có địa phƣơng là cán bộ tƣ pháp, có địa
phƣơng là cán bộ công an, có địa phƣơng là cán bộ Hội phụ nữ, thậm chí
nhiều xã, phƣờng chƣa bố trí đƣợc cán bộ theo dõi công tác MBN. Thực trạng
này ảnh hƣởng không nhỏ tới việc thực hiện pháp luật về PCMBN và hiệu
quả của công tác đấu tranh phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN. Vì
vậy, để hoàn thiện cơ chế xã hội trong đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp
luật về MBN, trƣớc mắt cần phải bố trí cán bộ chuyên trách công tác PCMBN
cấp huyện và cấp xã, coi đây là lực lƣợng nòng cốt trong công tác đấu tranh,
phòng ngừa vi phạm pháp luật về MBM.
- Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội đặc biệt là Hội liên
hiệp phụ nữ trong việc phản biện các chính sách pháp luật về PCMBN, giám
sát các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật đảm bảo lồng ghép, đánh giá tác
động trong các chính sách, chƣơng trình, đề án về an sinh xã hội, xóa đói
giảm nghèo, đào tạo nghề...; Tuyên truyền, giáo dục, vận động các thành viên
103
trong tổ chức của mình thực hiện đúng các quy định của Đảng và Nhà nƣớc
về PCMBN, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào công tác đấu
tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về MBN, từng bƣớc nâng cao nhận thức
của xã hội về PCMBN; xây dựng môi trƣờng sống lành mạnh trong xã hội,
không còn sự phân biệt đối xử với nạn nhân bị mua bán trở về, đánh giá đúng
vị trí, vai trò và những đóng góp của họ trong thời kỳ mới.
- Phát huy vai trò sức mạnh của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong
việc thực hiện pháp luật về PCMBN. Với đặc thù là cấp gần dân nhất, trực
tiếp đƣa đƣờng lối, chính sách, chủ trƣơng của Đảng, pháp luật vào thực
tiễn cuộc sống, hệ thống chính trị cấp cơ sở phải xác định đây là chủ thể
quan trọng. Từ trƣớc đến nay, vẫn còn quan niệm coi vấn đề thực hiện pháp
luật PCMBN là trách nhiệm của Ban công an, Hội phụ nữ nên cần phải
nâng cao nhận thức của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, coi việc
thực hiện pháp luật về PCMBN là một trong những nội dung quan trọng
trong công tác của các tổ chức.
- Phát động quần chúng xây dựng phong trào toàn dân tham gia đấu
tranh, phòng ngừa, phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm pháp luật về MBN.
Tiếp tục nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong công tác PCMBN và
phòng ngừa vi phạm pháp luật về MBN nhƣ "Câu lạc bộ phụ nữ với pháp
luật" “Pháp luật PCMBN với cuộc sống”. Xây dựng và thực hiện quy chế
phối hợp, ngăn ngừa vi phạm pháp luật về MBN trong thôn xóm và các tổ
chức đoàn thể.
Đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN là một nhiệm vụ
khó khăn, đòi hỏi phải kiên trì, lâu dài và cần có các biện pháp, hình thức phù
hợp. Bên cạnh việc phát huy vai trò trách nhiệm của các cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền thì cần phải có sự tham gia của các tổ chức xã hội và các quy phạm
xã hội có liên quan trong đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật PCMBN.
104
3.3.3. Nguồn lực đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật phòng,
chống mua bán ngƣời
3.3.3.1. Nguồn lực về con người
Trƣớc hết, cần phải chú trọng công tác bồi dƣỡng nâng cao trình độ,
năng lực, kỹ năng cho cán bộ làm công tác tuyên truyền về PCMBN, bởi qua
thực tiễn nghiên cứu việc thực hiện pháp luật PCMBN ở Thanh Hóa cho thấy,
trình độ hiểu biết của nhân dân về tội phạm MBN còn hạn chế, đặc biệt đối với
những ngƣời dân các huyện vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên. Những địa
phƣơng này do điều kiện địa hình xa trung tâm, kinh tế khó khăn nên việc tiếp
cận thông tin hạn chế dẫn đến hiện tƣợng MBN diễn ra rõ rệt hơn ở các vùng,
miền khác. Để công tác tuyên truyền đạt hiệu quả tốt hơn, hạn chế mức thấp
nhất tình trạng MBN đang diễn ra hiện nay, các tổ chức cơ sở và cán bộ làm
công tác tuyên truyền cần đa dạng hoá các loại hình về phổ biến, giáo dục nhƣ:
- Sân khấu hóa hình thức tuyên truyền bằng một câu chuyện, một vụ
việc có thực đã đƣợc cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
- Lồng ghép việc tuyên truyền Luật PCMBN vào các buổi sinh hoạt của
chi Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, tổ chức cuộc thi tìm hiểu Luật PCMBN…
- Đƣa việc giảng dạy pháp luật về PCMBN vào hệ thống của nhà
trƣờng từ tiểu học, phổ thông đến trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học
và Trƣờng chính trị tỉnh; tổ chức nhiều đợt tập huấn hoặc hội thảo chuyên đề
về công tác PCMBN…
Đặc biệt phát huy vị trí, vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ các cấp trong
việc thực hiện pháp luật PCMBN. Hội liên hiệp phụ nữ cần thực hiện tốt một
số biện pháp sau:
- Kiện toàn bộ máy, nâng cao chất lƣợng hoạt động và trình độ cán bộ
hội ở cơ sở thông qua hoạt động lồng ghép các chƣơng trình kinh tế, văn hoá,
xã hội để tập hợp phụ nữ. Đa dạng hoá các hình thức tổ chức và mô hình hoạt
động để thu hút đông đảo phụ nữ tham gia sinh hoạt Hội.
105
- Hội liên hiệp phụ nữ cần phối hợp với Sở Lao động Thƣơng binh và
xã hội trong hoạt động bảo vệ bà mẹ và trẻ em, phát hiện kịp thời các hành vi
MBN, hỗ trợ kịp thời giúp nạn nhân hòa nhập cộng đồng, đồng thời làm chỗ
dựa tinh thần, giúp đỡ họ tìm giải pháp thoả đảng.
- Hội liên hiệp phụ nữ các cấp cần tăng cƣờng tiếng nói đại diện, các
biện pháp bảo vệ phụ nữ tại cộng đồng dân cƣ.
- Làm nòng cốt phối hợp với các đoàn thể, tổ chức xã hội trên địa bàn
dân cƣ, có biện pháp kiên quyết đấu tranh PCMBN, thực hiện tốt Chƣơng
trình hành động PCMBN.
3.3.3.2. Nguồn lực về kinh phí, vật chất bảo đảm cho việc thực hiện
pháp luật PCMBN
Thời gian qua Thanh Hóa đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức thực
hiện pháp luật về PCMBN. Tuy nhiên, hoạt động này còn mang tính thụ động,
phụ thuộc, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
về kinh phí, kinh phí thấp làm ảnh hƣởng không nhỏ đến hoạt động của các tổ
chức thực hiện công tác tuyên truyền, hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập.
Hiện nay, kinh phí phục vụ cho công tác đấu tranh PCMBN còn quá ít
đƣợc sử dụng từ nguồn phân bổ trong các Tiểu đề án thuộc Chƣơng trình
hành động PCMBN giai đoạn 2011-2015 của Chính phủ và một phần nhỏ
trong kinh phí hỗ trợ nghiệp vụ của Bộ đội biên phòng và Công an tỉnh, kinh
phí hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng phải trích từ nguồn ngân sách địa
phƣơng [39, tr.8].
Vì vậy, để tạo ra nguồn lực cần thiết đáp ứng đƣợc yêu cầu, nhiệm vụ
của hoạt động PCMBN, hàng năm UBND tỉnh cần có kế hoạch phân bổ
khoản kinh phí phù hợp nhằm khắc phục hạn chế nêu trên. Đồng thời tăng
cƣờng công tác kiểm tra giám sát trong sử dụng kinh phí sao cho đúng mục
đích, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để đạt hiệu quả tốt nhất.
106
3.3.4. Tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách
nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị của tỉnh Thanh Hóa để
thực hiện tốt pháp luật phòng, chống mua bán ngƣời
Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, trách
nhiệm của các cơ quan nhà nƣớc và sự tham gia của các tổ chức đoàn thể
trong việc trong việc PCMBN hiện nay vừa là nguyên tắc vừa là điều kiện bảo
đảm cho việc thực hiện pháp luật PCMBN có hiệu quả.
Để tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCMBN nói
chung và việc đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN nói riêng,
ngày 30/12/2011, Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy đã có Chỉ thị số 09-CT/TU về
“Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo an ninh, trật tự
và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” trong đó Ban Thƣờng vụ
Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy Đảng, chính quyền, các sở, ban, ngành, MTTQ,
các đoàn thể triển khai thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
- Tiếp tục tuyên truyền, triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận số 86-
KL/TW ngày 02/11/2010 của Bộ Chính trị về công tác bảo đảm an ninh quốc
gia; Chỉ thị 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về công tác phòng,
chống tội phạm; Chỉ thị 09-CT/TW ngày 01/12/2011 của Ban Bí thƣ về tăng
cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc trong tình hình mới nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành,
địa phƣơng, đơn vị và toàn thể nhân dân đối với công tác đảm bảo an ninh trật
tự, trên cơ sở đó phát huy động lực mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị trong
phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, an
ninh trên tuyến biên giới, tuyến biển, an ninh nội bộ, an ninh trên các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa tƣ tƣởng, tôn giáo, dân tộc, thông tin truyền thông và an ninh
các vấn đề xã hội khác.
107
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chƣơng trình quốc gia phòng, chống
tội phạm, mở các đợt cao điểm tấn công, truy quét, triệt xóa các loại tội phạm
hoạt động có tổ chức, bảo kê, sử dụng vũ khí, hung khí; tội phạm cơ bạc,
MBN,… Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả phong trào xây dựng xã, phƣờng
không có tội phạm và tệ nạn xã hội.
- Tăng cƣờng công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng và công tác quản lý
đối với cán bộ, chiến sỹ lực lƣợng công an từ tỉnh đến cơ sở nhằm nâng cao
tinh thần cảnh giác, xiết chặt kỹ cƣơng kỹ luật, làm tốt vai trò nòng cốt trong
đấu tranh phòng, chống tội phạm [9, tr. 2, 3].
3.3.5. Tăng cƣờng hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời trong các tầng lớp cán
bộ, nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nhằm
nâng cao nhận thức về PCMBN cho mọi ngƣời dân trong xã hội, trong đó có
cả đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp trong tỉnh. Những biện pháp tuyên truyền
tích cực, hiệu quả của việc thực hiện PCMBN với mục tiêu bảo vệ và bảo
đảm quyền con ngƣời là một đòi hỏi cần thiết góp phần xây dựng đất nƣớc vì
mục tiêu: dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Để thực hiện Chƣơng trình PCMBN và đƣa công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật PCMBN cho nhân dân ở địa phƣơng thực hiện có
hiệu quả, trƣớc hết cần tập trung các giải pháp sau:
- Thƣờng xuyên mở các lớp đạo tạo về PCMBN cho các đối tƣợng là
cán bộ lãnh đạo của các ban ngành, đoàn thể cán bộ Hội phụ nữ các cấp và
nhân dân. Cần lồng ghép vấn đề PCMBN vào các hoạt động kinh tế - xã
hội của địa phƣơng. Thông qua các đợt tập huấn đó góp phần nâng cao kiến
thức và kỹ năng PCMBN cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, giúp họ có
108
khả năng lồng ghép vào các chƣơng trình kinh tế - xã hội ở địa phƣơng có
hiệu quả hơn.
- Tăng cƣờng việc lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật PCMBN vào
các chuyên mục, chuyển tải trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ:
chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo của tỉnh, xây
dựng nông thôn mới…
- Mở các chuyên mục nhƣ “Phụ nữ với pháp luật”; “Tìm hiểu pháp
luật” trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng, trên các trang báo của tỉnh trên
cơ sở kết hợp giữa báo Phụ nữ và Sở Tƣ pháp của tỉnh.
- Tăng cƣờng việc huy động nhiều nguồn lực cho việc tuyên truyền
PCMBN. Để phòng ngừa đạt hiệu quả cao, không chỉ cần đến kinh phí cho
hoạt động này, mà còn cần đến các phƣơng tiện, các “kênh” thông tin để qua
đó truyền tải những thông điệp về PCMBN. Vì lẽ đó ngoài những chƣơng
trình, chuyên mục dành riêng cho tuyên truyền PCMBN, các phƣơng tiện
truyền thông còn phải thận trọng khi truyền tải các thông tin mang định kiến,
bí mật, các chƣơng trình, chuyên mục phải đƣợc thẩm định về nội dung trƣớc
khi đƣa đến với công chúng.
Cần xác định trách nhiệm cụ thể về những nội dung và hình ảnh đƣợc
truyền tải và phát sóng xét từ góc độ phòng, chống; cung cấp đa dạng thông
tin về hành vi mua bán, nhất là ở những huyện còn nhiều khó khăn, dân trí
còn thấp, những tài liệu này phải đầy đủ, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ.
Tăng cƣờng công tác truyền thông trực tiếp đƣa nội dung pháp luật
PCMBN vào trong các chƣơng trình phát thanh ở địa phƣơng. Hơn nữa,
cần lồng ghép nội dung giáo dục pháp luật về PCMBN vào các đợt sinh
hoạt chính trị của các tổ chức chính trị - xã hội nhƣ: Đoàn thanh niên; Hội
phụ nữ; Công đoàn.
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật PCMBN phải đƣợc
109
thực hiện thƣờng xuyên, phải quan tâm đến tính đặc thù của lĩnh vực này vì
nhận thức về PCMBN đang còn rất hạn chế trên thực tế hiện nay.
- Nội dung và hình thức truyền thông cần tuỳ thuộc vào từng nhóm đối
tƣợng để có chƣơng trình phù hợp. Đối với ngƣời dân ở nông thôn, vùng miền
núi, trình độ dân trí và và hiểu biết văn hoá còn hạn chế thì nội dung tuyên
truyền cần dễ hiểu, hình thức cần đa dạng, có thể thông qua các phƣơng tiện
thông tin đại chúng hoặc tuyên truyền trực tiếp trong các cuộc hội họp, sinh
hoạt cộng đồng. Bên cạnh đó, cần lồng ghép tuyên truyền, giáo dục PCMBN
vào chƣơng trình giảng dạy trong các nhà trƣờng phổ thông, trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học và hệ thống các trung tâm chính trị của toàn tỉnh.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đặc biệt
là phƣơng tiện thông tin đại chúng về PCMBN, về quyền con ngƣời là mục
tiêu yêu cầu tất yếu đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc nói chung, của
tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
3.3.6. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật
về phòng, chống mua bán ngƣời
Để đảm bảo cho sự công bằng, tiến bộ xã hội, đảm bảo quyền con
ngƣời thì vấn đề phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp
luật về MBN là vấn đề có tính nguyên tắc. Để đấu tranh, phòng ngừa vi phạm
pháp luật về MBN có hiệu quả, phải giải quyết kịp thời từ những vụ việc vi
phạm pháp luật điều quan trọng là các cơ quan quản lý nhà nƣớc, các cơ quan
bảo vệ pháp luật không đƣợc vì bất cứ lý do gì mà bỏ qua, không xử lý cho dù
vụ việc đó thuộc trƣờng hợp ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
hay đặc biệt nghiêm trọng.
Thực tế hàng năm các cơ quan chức năng đã xử lý hành chính, xử lý
dân sự và xử lý hình sự các hành vi vi phạm pháp luật về MBN và liên quan
đến hành vi MBN song mới ở mức độ hạn chế. Việc phát hiện, ngăn chặn và
110
xử lý hành vi vi phạm còn ít so với thực tế tình hình vi phạm hiện nay. Điều
đó cho thấy công tác chỉ đạo, quản lý về PCMBN ở Thanh Hóa còn chƣa tích
cực, chƣa chủ động trong đấu tranh, trấn áp tội phạm MBN và các hành vi vi
phạm pháp luật có liên quan.
Để pháp luật PCMBN đƣợc thực hiện đầy đủ, công tác đấu tranh phòng
ngừa vi phạm pháp luật về MBN có hiệu quả, một trong những giải pháp quan
trọng là cần phải xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về MBN.
Bên cạnh đó cần phải kiên quyết chống lại những biểu hiện nể nang, bao che
hoặc thờ ơ với những hành vi vi phạm pháp luật về MBN của những ngƣời có
thẩm quyền. Có đƣợc nhƣ vậy thì pháp luật PCMBN mới đƣợc tôn trọng và
bảo đảm giá trị thực thi.
3.3.7. Tăng cƣờng công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan có
thẩm quyền trong quá trình thực hiện pháp luật về phòng, chống mua
bán ngƣời
Công tác thanh tra, giám sát cũng là một giải pháp quan trọng trong
việc ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về MBN.
Cùng với việc phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật, thanh tra, giám sát
còn đóng vai trò nhƣ một biện pháp phòng ngừa hữu hiệu các vi phạm pháp
luật về MBN. Thanh tra cùng với các phƣơng thức kiểm tra, giám sát luôn là
hiện thân của kỷ cƣơng pháp luật; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát dù
đƣợc thực hiện dƣới bất cứ hình thức nào cũng luôn có tác dụng hạn chế, răn
đe những hành vi vi phạm pháp luật của các đối tƣợng quản lý. Mặt khác, các
giải pháp đƣợc đƣa ra từ hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát không chỉ
hƣớng vào việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, mà còn có tác dụng khắc
phục các kẽ hở của chính sách, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát
sinh những vi phạm pháp luật.
Thanh tra, giám sát trong lĩnh vực PCMBN còn là một phƣơng thức phát
111
huy dân chủ, tăng cƣờng pháp chế, phát hiện và xử lý những biểu hiện thờ ơ,
thiếu trách nhiệm của một bộ phận cán bộ trong việc đấu tranh phòng, chống
tội phạm và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân.
Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra mới biết chủ trƣơng, nghị
quyết của Đảng, cơ chế, chính sách của Nhà nƣớc về PCMBN đƣợc thực
hiện trong thực tế cuộc sống ra sao? Có đƣợc thực hiện đầy đủ hay không?
Cũng qua việc thƣờng xuyên thanh tra, giám sát mà các nhà lãnh đạo, quản
lý có đƣợc những thông tin phản hồi từ thực tế cuộc sống, đó là những dữ
liệu quan trọng để đề ra những chủ trƣơng, chính sách về PCMBN sát hợp
với đòi hỏi của thực tiễn.
Ở Thanh Hóa hiện nay, công tác thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp
luật PCMBN do Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội phối hợp với Hội liên
hiệp phụ nữ tỉnh tiến hành. Hàng năm, các cơ quan này thƣờng tổ chức các
đoàn đi kiểm tra công tác PCMBN và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Kết
quả kiểm tra cũng đã đánh giá đƣợc phần nào những ƣu điểm, hạn chế trong
công tác thực hiện pháp luật về PCMBN. Bên cạnh đó, tại các kỳ họp của Hội
đồng nhân dân các cấp ở địa phƣơng, cũng có đề cập tới vấn đề giám sát đối
với hoạt động quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, việc xử lý vi
phạm pháp luật về MBN vẫn còn đang hạn chế.
Vì vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng
ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN. Muốn đảm bảo cho pháp luật PCMBN
đƣợc thực hiện đúng đắn, các hành vi vi phạm pháp luật về MBN đƣợc phát
hiện và xử lý kịp thời, yêu cầu cần thiết đặt ra là tăng cƣờng công tác thanh
tra, giám sát trong việc thực hiện pháp luật về PCMBN, ngƣời lãnh đạo,
quản lý phải tạo điều kiện cho tổ chức thanh tra hoạt động theo đúng chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, có sự nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan
trọng của PCMBN.
112
Tiểu kết chƣơng 3
Căn cứ vào đặc điểm tình hình cụ thể ở địa phƣơng tỉnh Thanh Hóa
trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về PCMBN. Để pháp luật
PCMBN thực sự đi vào cuộc sống nhằm bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công
dân, thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các cấp ủy đảng,
chính quyền và toàn thể nhân dân tỉnh Thanh Hóa cần phải quán triệt, phát
huy và thực hiện đồng bộ các quan điểm và giải pháp trong Chƣơng III mà
luận văn đã nêu. Đây là những giải pháp căn bản mang tính đặc thù đối với
loại hình vi phạm nguy hiểm và có độ ẩn cao đang xảy ra trên địa bàn của tỉnh
và các địa phƣơng khác trên cả nƣớc hiện nay.
113
KẾT LUẬN
1. PCMBN là vấn đề quan tâm của hầu hết các quốc gia và đƣợc xác
định là một trong những mục tiêu Thiên niên kỷ của toàn cầu. Đồng thời,
PCMBN cũng đƣợc quan tâm trong các chƣơng trình, dự án phát triển hợp tác
song phƣơng và đa phƣơng giữa các quốc gia, sở dĩ cần phải thực hiện
PCMBN vì PCMBN bảo đảm cho quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ công
dân đƣợc thực hiện đầy đủ; đảm bảo không có sự lợi dụng điều kiện sống để
phân biệt, đối xử, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con ngƣời gây ảnh hƣởng
xấu đến sức khỏe, thân thể, tình cảm, tinh thần và nhân cách của con ngƣời,
gây hại đến các mối quan hệ xã hội và giá trị đạo đức, đặc biệt là đối với phụ
nữ và trẻ em, tạo nên sự không công bằng và làm hạn chế sự phát triển.
Chính vì vậy, pháp luật về PCMBN ngày càng có vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội. Song hiệu quả và giá trị của nó phụ thuộc vào quá trình
tổ chức thực hiện pháp luật PCMBN, làm cho các quy định của pháp luật đi
vào thực tế cuộc sống và phụ thuộc vào hiệu quả của công tác đấu tranh,
phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN.
2. Pháp luật về PCMBN là những quy định mang tính bắt buộc của nhà
nƣớc đối với mọi chủ thể và đƣợc nhà nƣớc bảo đảm thực hiện để điều chỉnh
các hành vi liên quan đến hoạt động MBN. Vì vậy, mỗi chúng ta cần phải
hiểu rõ và nhận thức đúng đắn khái niệm MBN, những hành vi bị nghiêm
cấm, các nguyên tắc PCMBN, chính sách của nhà nƣớc về PCMBN và quyền,
nghĩa vụ của nạn nhân. Trên cơ sở đó có biện pháp cụ thể để thực hiện pháp
luật về PCMBN.
3. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về PCMBN ở
Thanh Hóa trong những năm qua cho thấy: việc thực hiện pháp luật về
PCMBN ở Thanh Hóa đã đạt đƣợc những kết quả quan trọng, góp phần thực
114
hiện mục tiêu PCMBN. Tuy nhiên, hiện tƣợng vi phạm pháp luật về PCMBN
vẫn xảy ra trong địa bàn tỉnh do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có
nguyên nhân nổi cộm và phổ biến nhất đó là điều kiện kinh tế gia đình của
các nạn nhân khó khăn, họ đã nhẹ dạ tin lời kẻ xấu lừa gạt đi làm ăn xa nhà
kiếm đƣợc nhiều tiền để có cuộc sống sung túc hơn. Tiếp đến là sự nhận thức
về lý luận cũng nhƣ thực tiễn về pháp luật PCMBN của các cấp ủy Đảng,
chính quyền còn nhiều bất cập nên chƣa có ý thức cao trong việc chỉ đạo thực
hiện pháp luật PCMBN.
4. Để đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN cần phải
thực hiện đồng bộ các giải pháp: Hoàn thiện pháp luật về PCMBN; Đảm bảo
nguồn lực về cán bộ và kinh phí phục vụ cho công tác PCMBN; Đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức pháp luật về
PCMBN cho nhân dân; hoàn thiện cơ chế xã hội trong việc đấu tranh, phòng
ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN; Xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi
vi phạm pháp luật về MBN; Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của
các cấp uỷ Đảng và sự tham gia của các tổ chức đoàn thể trong việc thực hiện
pháp luật về PCMBN; Tăng cƣờng thanh tra, giám sát của các cơ quan có
thẩm quyền trong quá trình thực hiện pháp luật về PCMBN./.
115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ƣơng (2010), Chỉ thị số 48-CT/TW, ngày 22/10/2010
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội
phạm trong tình hình mới, Hà Nội.
2. Ban chỉ đạo 130/CP (2009), Tài liệu tập huấn bảo vệ nạn nhân trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án mua bán người, Hà Nội
3. Ban chỉ đạo 130/CP (2011), Kế hoạch số 191/KH-BCĐ-130/CP của Ban
chỉ đạo 130/CP ngày 26/10/2011 triển khai chương trình hành động
phòng, chống tội phạm mua bán người giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.
4. Ban chỉ đạo 138 Chính phủ (2013), Quyết định 236/QĐ-BCĐ 138/CP ngày
01/10/2013 của Ban chỉ đạo 138 Chính phủ quyết định ban hành quy chế
hoạt động Ban chỉ đạo phòng, chống tội phạm của Chính phủ, Hà Nội.
5. Ban chỉ đạo 138 tỉnh Thanh Hóa (2011), Báo cáo sơ kết 01 năm triển
khai thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới”, Thanh Hóa.
6. Ban chỉ đạo 138 tỉnh Thanh Hóa (2011), Quyết định của số 3602/QĐ-
BCĐ ngày 01/11/2011 về Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm
tỉnh Thanh Hóa, Thanh Hóa.
7. Ban chỉ đạo 138 tỉnh Thanh Hóa (2012, 2013, 2014), Kế hoạch phòng,
chống tội phạm mua bán người, Thanh Hóa.
8. Ban chỉ đạo chƣơng trình 130/CP (2006), Chương trình hành động
phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em và các văn bản chỉ đạo,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
9. Ban thƣờng vụ tỉnh ủy Thanh Hóa (2011), Chỉ thị số 09-CT/TU ngày
30/12/2011 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo
an ninh trật tự và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, Thanh Hóa.
116
10. Ban tuyên giáo tỉnh ủy Thanh Hóa (2014), Báo cáo (tóm tắt) đánh giá
kết quả 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII nhiệm kỳ 2010-2015, Thanh Hóa.
11. Báo điện tử Thanh Hóa (2014), Kiểm soát, xử lý các cơ sở kinh doanh doanh
dịch vụ mại dâm trá hình, ngày 06/3/2014, http//: www.baothanhhoa.vn.
12. Vũ Ngọc Bình (1998), “Phòng chống buôn bán và mại dâm trẻ em”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa (2010, 2011), Báo cáo
tổng kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em
năm 2010, 2011, Thanh Hóa.
14. Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa (2012, 2013), Báo cáo
tổng kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người năm
2012, 2013, Thanh Hóa.
15. Bộ Công an (2012), Kế hoạch số 2592/C41-C45 ngày 03/7/2012 về việc
thực hiện đợt cao điểm đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người
trên tuyến biên giới năm 2012, Hà Nội.
16. Bộ Công an (2012), Tài liệu tập huấn chuyên sâu Luật phòng, chống
mua bán người, Nxb Lao động, Hà Nội.
17. Bộ Công an (2013), Kế hoạch số 374/C45 ngày 22/3/2013 về nâng cao hiệu
quả công tác đấu tranh chống tội phạm mua bán người năm 2013, Hà Nội.
18. Bộ Công an (2013), Kế hoạch thực hiện các Đề án thuộc Chương trình hành
động phòng, chống tội phạm mua bán người giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.
19. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Bộ
ngoại giao (2014), Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLTBCA-BQP-
BLĐTBXH-BNG ngày 10/02/2014, hướng dẫn trình tự, thủ tục và quan
hệ phối hợp trong việc xác minh, xác định, tiếp nhận và trao trả nạn
nhân bị mua bán, Hà Nội.
117
20. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Bộ
Tƣ pháp (2013), Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-
BCA-BQP-BTP ngày 23/7/2013 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm
đối với người có hành vi mua bán người, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm
đoạt trẻ em, Hà Nội.
21. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2009), Thông tư số 05/2009/TT-
TBXH ngày 17/2/2009 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về
hướng dẫn tổ chức và hoạt động của Cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo Quyết
định số 17/QĐ/TTg, Hà Nội.
22. Bộ quốc phòng (2014), Thông tư số 78/2013/TT-BQP ngày 25/6/2013
của Bộ quốc phòng quy định các biện pháp của Bộ đội biên phòng và
Cảnh sát biển trong phòng, chống mua bán người, Hà Nội.
23. Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thƣơng binh và xã hội (2007), Thông tư số
116/LB-TC-TBXH ngày 27/9/2007 hướng dẫn nội dung chi, mức chi cho
công tác xác minh, tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán từ nước
ngoài trở về, Hà Nội.
24. Bộ Tƣ pháp (2004), Báo cáo đánh giá và một số kiến nghị về hoàn thiện
hệ thống pháp luật liên quan đến phòng chống tội phạm buôn bán phụ
nữ và trẻ em, Hà Nội.
25. Bộ Tƣ pháp (2004), Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam
trên tinh thần các nghị định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống
buôn bán người và di cư trái phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
26. Bộ Tƣ pháp (2010), Báo cáo số 133/BC-BTP ngày 12/7/2010 về đánh
giá tác động của dự án Luật phòng, chống mua bán người, Hà Nội.
27. Chính phủ (2005), Quyết định số 321/2005/QĐ-TTg ngày 30/11/2005
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các đề án thuộc Chương trình hành
động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến
năm 2010, Hà Nội.
118
28. Chính phủ (2007), Chỉ thị số 16/2007/CT-TTg ngày 27/06/2007 của Thủ
tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện chương trình hành động
phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, Hà Nội.
29. Chính phủ (2007), Quyết định số 17/2007/QĐ/TTG ngày 29/01/2007 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy chế tiếp nhận tái hòa nhập cộng
đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về, Hà Nội.
30. Chính phủ (2011), Quyết định số 1427/QĐ-TTg ngày 18/8/2002 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động phòng, chống tội
phạm mua bán người giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.
31. Chính phủ (2012), Nghị định số 62/2012/NĐ-CP ngày 13/8/2012 của
Chính phủ quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an
toàn cho nạn nhân, người thân thích của họ, Hà Nội.
32. Chính phủ (2013), Nghị định số 09/2013/NĐ-CP ngày 11/01/2013 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống
mua bán người, Hà Nội.
33. Chính phủ (2005), Hiệp định giữa Việt Nam - Campuchia về hợp tác
song phương nhằm loại trừ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em và giúp đỡ nạn
nhân bị buôn bán, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
34. Chính phủ (2008), Hiệp định giữa Việt Nam - Thái Lan về hợp tác song
phương nhằm loại trừ nạn buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em
và giúp đỡ nạn nhân bị buôn bán, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Chính phủ (2010), Hiệp định hợp tác Việt Nam - Lào về phòng, chống
buôn bán người và bảo vệ nạn nhân bị mua bán, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
36. Chính phủ (2010), Hiệp định hợp tác Việt Nam - Trung Quốc về phòng,
chống buôn bán người, Nxb Công an nhân dân.
37. Chính phủ (2012), “Chủ đề pháp luật phòng, chống mua bán ngƣời”,
Đặc san tuyên truyền pháp luật, (02), Hà Nội.
119
38. Công an tỉnh Thanh Hóa (2009, 2010, 2011), Báo cáo tình hình, kết quả
công tác phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em năm 2009,
2010,2011, Thanh Hóa.
39. Công an tỉnh Thanh Hóa (2012, 2013), Báo cáo tình hình, kết quả công
tác phòng, chống tội phạm mua bán người năm 2012, 2013, Thanh Hóa.
40. Công an tỉnh Thanh Hóa (2013), Báo cáo kết quả khảo sát tình hình hoạt
động tội phạm mua bán người và các đối tượng khác có liên quan giai
đoạn 2008-2013, Thanh Hóa.
41. Cổng thông tin điện tử Thanh Hóa (2014), Tổng quan về Thanh Hóa,
http//:www.thanhhoa.gov.vn.
42. Đảng cộng sản Việt nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (2012), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
lần thứ XVII, Thanh Hóa.
45. Đoàn kiểm tra - Tỉnh ủy Thanh Hóa (2012), Báo cáo kết quả kiểm tra
công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW của Bộ Chính trị
và Chỉ thị 09-CT/TU của Ban Thường Tỉnh ủy, Thanh Hóa.
46. Vũ Công Giao (2014), “Báo cáo đánh giá khuôn khổ pháp luật hiện
hành của Việt Nam về phòng, chống mua bán người”, Tổ chức tầm
nhìn Thế giới.
47. Học viện Chính trị- Hành Chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Giáo
trình Những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa,
Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
48. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao (1986), Nghị quyết số
04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của
Bộ Luật hình sự năm 1985, Hà Nội.
120
49. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Thanh Hóa (2012), Báo cáo đánh giá 5 năm
thực hiện Luật Bình đẳng giới, Hà Nội.
50. ILO (1999), Công ước số 182 về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp
xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, tại hr.law.vnu.vn/cac
cong uoc chinh ve nhan quyen?.
51. Đặng Xuân Khang (2004), "Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên
giới Việt Nam - thực trạng và giải pháp", Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp bộ, Bộ Công an.
52. Nguyễn Thị Lan (2009), “Bàn về tội mua bán ngƣời trong dự thảo Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999”, Tạp chí Khoa
học, ĐHQGHN, Luật học, (25).
53. Liên đoàn lao động tỉnh Thanh Hóa (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm
thực hiện chương trình hành động “Vì sự tiến bộ của phụ nữ” (2001 –
2010), phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2010 – 2012, Thanh Hóa.
54. Liên hợp quốc (1981), Công ước về xóa bỏ các hình thức phân biệt, đối
xử đối với phụ nữ (Công ƣớc CRDAW), tại hr.law.vnu.vn/cac cong uoc
chinh ve nhan quyen?.
55. Liên hợp quốc (2000), Nghị định thư không bắt buộc bổ sung công ước
về quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mua dâm trẻ em và văn hóa phẩm
khiêu dâm trẻ em năm 2000.
56. Liên hợp quốc (2000), Nghị định thư về ngăn ngừa, phòng chống và trừng
trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000, bổ sung
công ước về chống tội phạm có tổ chức và xuyên quốc gia (Nghị đinh thư
Palermo), tại hr.law.vnu.vn/cac cong uoc chinh ve nhan quyen?.
57. Liên hợp quốc (2000), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Liên
hợp quốc thông qua (ngày 10/12/1948).
58. Nguyễn Quang Lộc (2013), “Kỹ năng xét xử và bảo vệ nạn nhân trong
các vụ án về mua bán ngƣời”, Tạp chí Tòa án, (3).
121
59. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013),
Hiến pháp các năm, Hà Nội.
60. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (1999), Bộ luật hình sự, sửa
đổi, bổ sung 2009, Hà Nội.
61. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2000), Luật hôn nhân và gia
đình, Hà Nội.
62. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2003), Bộ luật tố tụng hình
sự, Hà Nội.
63. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2004), Luật Bảo vệ, Chăm
sóc và Giáo dục trẻ em, Hà Nội.
64. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
65. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2011), Luật phòng, chống
mua bán người, Hà Nội.
66. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2012), Bộ luật lao động, Hà Nội.
67. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2012), Luật xử lý vi phạm
hành chính, Hà Nội.
68. Lê Thị Quý (2000), Vấn đề ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ ở Việt Nam,
Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
69. Sở Lao động - Thƣơng binh và xã hội tỉnh Thanh Hóa (2013), Báo cáo
công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán tái hòa nhập cộng đồng, Thanh Hóa.
70. Sở Tƣ pháp tỉnh Thanh Hóa (2009, 2010, 2011, 2012, 2013), Báo cáo công
tác hộ tịch, các năm, tại hr.law.vnu.vn/cac cong uoc chinh ve nhan quyen?.
71. Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2009, 2010, 2011, 2012), Báo cáo kết
quả tình hình xét xử, Thanh Hóa.
72. Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2013), Báo cáo tổng hợp kết quả xét
xử tội phạm mua bán người từ năm 2008 đến năm 2013, Thanh Hóa.
122
73. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
74. Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2004), Giáo trình lý luận
chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
75. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2011), Kế hoạch số 61/KH-UBND
ngày 01/11/2011 về thực hiện Chương trình hành động phòng, chống tội
phạm mua bán người giai đoạn 2011-2015, Thanh Hóa.
76. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2013), Quyết định số 2134/QĐ-UBND
ngày 20/6/2013 về việc phê duyệt đội công tác xã hội (CTXH) tình
nguyện tại xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn
2013-2018, Thanh Hóa.
77. Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh phòng, chống mại dâm
năm, Hà Nội.
78. Văn phòng theo dõi và đấu tranh chống buôn bán ngƣời của Đại sứ quán
Hợp chủng quốc Hoa kỳ tại Việt Nam (2011, 2012, 2013, 2014), Báo
cáo tình hình buôn bán người, tại http://vietnam.usembassy.gov.
79. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2008, 2009, 2010), Báo cáo kết
quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em,
các năm 2008, 2009, 2010, Thanh Hóa.
80. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2011,2012, 2013), Báo cáo kết
quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, các năm
2011. 2012, 2013, Thanh Hóa.

More Related Content

DOC
Pháp luật quốc tế về chống biến đổi khí hậu và vấn đề Thực thi tại việt nam.doc
DOC
Một số câu hỏi đúng sai về luật thương mại
PDF
Luận văn: Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế
PDF
Luận văn: Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá
PDF
Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAY
PDF
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
PDF
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
DOC
BÀI MẪU Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường biển,9 ĐIỂM
Pháp luật quốc tế về chống biến đổi khí hậu và vấn đề Thực thi tại việt nam.doc
Một số câu hỏi đúng sai về luật thương mại
Luận văn: Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế
Luận văn: Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá
Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAY
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
BÀI MẪU Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường biển,9 ĐIỂM

What's hot (20)

PPT
BÀI GIẢNG LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TS. BÙI QUANG XUÂN
DOCX
CHỦ THỂ KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
PPTX
[123doc] - luat-hang-khong-dan-dung-quoc-te.pptx
PDF
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
PDF
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
PPTX
Tổng quan về Tư pháp quốc tế
DOC
Bài mẫu Luận văn Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9 ĐIỂM
DOC
Câu hỏi ôn tập môn luật ngân hàng có dan an
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
PDF
Luận văn: Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam, HOT
PDF
Luận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAY
DOCX
Tham Khảo Ngay 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Luật Thương Mại Quốc Tế, 9 Điểm
PDF
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
DOCX
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương Mại
PPTX
BG. LUÂT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI QUÔC TẾ. TS. BÙI QUANG XUÂN
PDF
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
PDF
Tư pháp quốc tế pgs.ts. lê thị nam giang
PDF
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
DOCX
TRỌN BỘ 200 ĐỀ TÀI BÁO CÁO THỰC TẬP NGÀNH LUẬT, 9 ĐIỂM
DOCX
Giao trinh luat canh tranh
BÀI GIẢNG LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TS. BÙI QUANG XUÂN
CHỦ THỂ KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
[123doc] - luat-hang-khong-dan-dung-quoc-te.pptx
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Tổng quan về Tư pháp quốc tế
Bài mẫu Luận văn Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9 ĐIỂM
Câu hỏi ôn tập môn luật ngân hàng có dan an
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Luận văn: Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAY
Tham Khảo Ngay 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Luật Thương Mại Quốc Tế, 9 Điểm
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương Mại
BG. LUÂT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI QUÔC TẾ. TS. BÙI QUANG XUÂN
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Tư pháp quốc tế pgs.ts. lê thị nam giang
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
TRỌN BỘ 200 ĐỀ TÀI BÁO CÁO THỰC TẬP NGÀNH LUẬT, 9 ĐIỂM
Giao trinh luat canh tranh
Ad

Similar to Luận văn: Pháp luật về phòng, chống mua bán người, HOT (20)

PDF
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
PDF
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
PDF
Đề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAY
PDF
Luận văn: Hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý, HOT
PDF
Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...
PDF
Luận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOT
DOC
Luận văn: Thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, 9 ĐIỂM
PDF
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
PDF
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
PDF
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
PDF
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
PDF
Luận văn: Tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế về hoàn thuế, HOT
PDF
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải, HAY
PDF
Luận văn: Các tội xâm phạm bí mật nhà nước trong Luật Hình sự
PDF
Đề tài: Các tội xâm phạm bí mật nhà nước theo pháp Luật, HAY
PDF
Luận văn: Pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống ma túy, HOT
DOC
Khóa luận: Pháp luật về phòng chống tham nhung, HAY, 9 ĐIỂM
PDF
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
PDF
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
PDF
Luận văn: Pháp luật quản lý về hộ tịch tại quận Hai Bà Trưng, 9đ
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
Đề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAY
Luận văn: Hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý, HOT
Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...
Luận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế về hoàn thuế, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm bí mật nhà nước trong Luật Hình sự
Đề tài: Các tội xâm phạm bí mật nhà nước theo pháp Luật, HAY
Luận văn: Pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống ma túy, HOT
Khóa luận: Pháp luật về phòng chống tham nhung, HAY, 9 ĐIỂM
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
Luận văn: Pháp luật quản lý về hộ tịch tại quận Hai Bà Trưng, 9đ
Ad

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

DOCX
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
DOCX
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
DOCX
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
DOCX
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu

Recently uploaded (20)

PPT
CH4 1 Van bagggggggggggggggggggggggggggggn QH.ppt
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 CẦU LÔNG - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO C...
PDF
Giáo Dục Minh Triết: Tâm thế - Tâm thức bước vào kỷ nguyên mới
PDF
Slide bài giảng môn Tâm lý Học Giao tiếp - Chủ đề Phong Cách Giao Tiếp
PDF
10 phương pháp rèn luyên tâm trí vững vàng • Sống Vững Vàng #1
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 10 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
PDF
dfmnghjkdh hỳh fhtrydr. ỷey rỷtu dfyy ỳy rt y y ytyr t rty rt
PPTX
bai thuyet trinh Presentation-PPNCKH.pptx
PPTX
Rung chuông vàng về kiến thức tổng quan về giáo dục
PDF
FULL TN LSĐ 2024 HUIT. LICH SU DANGGGGGG
PDF
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 4 năm 2025 - 2026 có đáp án
PPTX
Cách viết mô tả chi tiết và thêm nhiều thẻ để tăng điểm số nội dung trên hệ t...
PPT
QH. PHÂN TíhjjjjjjjjjjjjCH CHíNH Sá CH.ppt
DOCX
bao cao thuc tap nhan thuc_marketing_pary2
PDF
Bài giảng Xã hội học đại cương chuyên ngành
PDF
DANH SACH TRUNG TUYEN DHCQ_DOT 1_2025_TUNG NGANH.pdf
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
PPTX
Chương 4: Vận dụng tư tưởng HCM Vào công tác xây dựng Đảng và Nhà nước
PDF
8. Đỏ da toàn thân do tổn thương cơ bản.pdf
PPTX
GIỚI THIỆU SÁCH GIÁO KHOA TOÁN 4_CTST.pptx
CH4 1 Van bagggggggggggggggggggggggggggggn QH.ppt
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 CẦU LÔNG - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO C...
Giáo Dục Minh Triết: Tâm thế - Tâm thức bước vào kỷ nguyên mới
Slide bài giảng môn Tâm lý Học Giao tiếp - Chủ đề Phong Cách Giao Tiếp
10 phương pháp rèn luyên tâm trí vững vàng • Sống Vững Vàng #1
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 10 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
dfmnghjkdh hỳh fhtrydr. ỷey rỷtu dfyy ỳy rt y y ytyr t rty rt
bai thuyet trinh Presentation-PPNCKH.pptx
Rung chuông vàng về kiến thức tổng quan về giáo dục
FULL TN LSĐ 2024 HUIT. LICH SU DANGGGGGG
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 4 năm 2025 - 2026 có đáp án
Cách viết mô tả chi tiết và thêm nhiều thẻ để tăng điểm số nội dung trên hệ t...
QH. PHÂN TíhjjjjjjjjjjjjCH CHíNH Sá CH.ppt
bao cao thuc tap nhan thuc_marketing_pary2
Bài giảng Xã hội học đại cương chuyên ngành
DANH SACH TRUNG TUYEN DHCQ_DOT 1_2025_TUNG NGANH.pdf
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
Chương 4: Vận dụng tư tưởng HCM Vào công tác xây dựng Đảng và Nhà nước
8. Đỏ da toàn thân do tổn thương cơ bản.pdf
GIỚI THIỆU SÁCH GIÁO KHOA TOÁN 4_CTST.pptx

Luận văn: Pháp luật về phòng, chống mua bán người, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ LAN ANH PH¸P LUËT VÒ PHßNG, CHèNG MUA B¸N NG¦êI QUA THùC TIÔN ë TØNH THANH HãA Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG GIAO HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Lê Thị Lan Anh
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHUNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI .......................................................................... 7 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI........ 7 1.1.1. Khái niệm buôn bán ngƣời; mua bán ngƣời; phòng, chống mua bán ngƣời; pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời ....................... 7 1.1.2. Sự cần thiết, ý nghĩa của việc phòng, chống mua bán ngƣời............17 1.1.3. Đặc điểm, nội dung, yêu cầu của pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời ...................................................................................20 1.2. KHUNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI ......................................................................................28 1.3. KHUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI............................................................................29 1.3.1. Hệ thống văn bản pháp luật trong nƣớc.............................................29 1.3.2. Các điều ƣớc quốc tế..........................................................................33 1.3.3. Luật phòng, chống mua bán ngƣời....................................................33 Tiểu kết chƣơng 1..........................................................................................34 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA......................35
  • 4. 2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA CỦA TỈNH THANH HÓA ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG. CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI...........35 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên..............................................................................35 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội và văn hóa ................................................36 2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA ........................................41 2.2.1. Tình hình có liên quan đến hoạt động mua bán ngƣời và công tác triển khai thực hiện.......................................................................41 2.2.2. Kết quả đạt đƣợc................................................................................47 2.2.3. Những tồn tại, hạn chế trong việc phòng ngừa mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa ...............................................................................58 2.3. PHÁT HIỆN, XỬ LÝ HÀNH VI MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA .....................................................................................60 2.3.1. Kết quả phát hiện, xử lý hành vi mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa............60 2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong việc phát hiện, xử lý mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa.....................................................................70 2.4. BẢO VỆ, HỖ TRỢ HÕA NHẬP CỘNG ĐỒNG CHO NẠN NHÂN BỊ BUÔN BÁN Ở TỈNH THANH HÓA ...................................72 2.4.1. Kết quả tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân ..............72 2.4.2. Kết quả giải cứu, bảo vệ nạn nhân.....................................................75 2.4.3. Kết quả hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng ..............................77 2.4.4. Kết quả bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và nhân chứng trong hoạt động tố tụng .......................................................................................79 2.4.5. Những tồn tại, hạn chế trong việc bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán ở tỉnh Thanh Hóa ................................................................84 Tiểu kết chƣơng 2..........................................................................................87
  • 5. Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA ................................89 3.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA...........................................................89 3.1.1. Yêu cầu đƣa các chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nƣớc về phòng, chống mua bán ngƣời vào thực tiễn đời sống của tỉnh Thanh Hóa..............................................90 3.1.2. Yêu cầu bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân trong thời kỳ CNH, HĐH của tỉnh Thanh Hóa ..................................................91 3.1.3. Yêu cầu về khắc phục hạn chế của việc thực hiện pháp luật phòng, chống mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa...............................93 3.2. QUAN ĐIỂM VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI TỈNH THANH HÓA.....................................................................................94 3.2.1. Phòng, chống mua bán ngƣời là một trong những nhiệm vụ cơ bản của Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội của tỉnh Thanh Hóa............................................................................94 3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao ý thức pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời cho nhân dân góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ............95 3.2.3. Phòng, chống mua bán ngƣời luôn gắn với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ mới......97 3.3. GIẢI PHÁP NẦNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI TỪ THỰC TIỄN Ở TỈNH THANH HÓA...........................................................98
  • 6. 3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời.............98 3.3.2. Hoàn thiện cơ chế xã hội đấu tranh phòng, chống tội phạm về mua bán ngƣời .................................................................................101 3.3.3. Nguồn lực đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật phòng, chống mua bán ngƣời .................................................................................104 3.3.4. Tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị của tỉnh Thanh Hóa để thực hiện tốt pháp luật phòng, chống mua bán ngƣời ................106 3.3.5. Tăng cƣờng hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời trong các tầng lớp cán bộ, nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa...................................107 3.3.6. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời ..........................................................109 3.3.7. Tăng cƣờng công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời.......................................................................110 Tiểu kết chƣơng 3........................................................................................112 KẾT LUẬN..................................................................................................113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................115
  • 7. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT BBN: Buôn bán ngƣời BLDS: Bộ luật dân sự BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CTXH: Công tác xã hội MBN: Mua bán ngƣời PCMBN: Phòng, chống mua bán ngƣời UBND: Ủy ban nhân dân
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận văn Trong những năm gần đây, mua bán ngƣời (MBN) đã trở thành một vấn nạn, gây nhiều bức xúc trong xã hội ở nƣớc ta. Tình hình tội phạm MBN diễn biến ngày càng nghiêm trọng, tính chất và thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm ngày càng phức tạp, tinh vi. Tội phạm MBN hoạt động dƣới nhiều hình thức ngày càng đa dạng, nhiều trƣờng hợp có tổ chức chặt chẽ, có sự móc nối với các tổ chức tội phạm ở nƣớc ngoài (mang tính chất xuyên quốc gia). Nhận thức rõ sự nguy hiểm của tội phạm MBN, Đảng và Nhà nƣớc ta rất quan tâm đến việc phòng, chống loại tội phạm này. Nhiều chính sách, pháp luật đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ban hành nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, trừng trị tội phạm MBN. Một bộ máy tổ chức có sự tham gia của cả hệ thống chính trị từ trung ƣơng đến địa phƣơng cũng đã đƣợc thiết lập cho công tác này. Bên cạnh đó, Nhà nƣớc đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân về các hành vi, thủ đoạn của những kẻ MBN, đồng thời có các biện pháp giúp đỡ những nạn nhân bị mua bán phục hồi, hoà nhập cộng đồng. Nhà nƣớc cũng đã phối hợp với các tổ chức quốc tế và các quốc gia, đặc biệt là các nƣớc trong khu vực, để triển khai nhiều dự án hợp tác về phòng, chống buôn bán ngƣời. Nhờ những nỗ lực nêu trên, trong những năm gần đây, công tác phòng, chống mua bán ngƣời (PCMBN) ở Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, tệ nạn MBN đã từng bƣớc đƣợc ngăn chặn. Tuy nhiên, trên thực tế tình trạng MBN ở nƣớc ta vẫn đang diễn biến nghiêm trọng và phức tạp, đòi hỏi cần phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các cơ chế pháp lý về phòng chống tệ nạn này ở tất cả các cấp, đặc biệt là ở cấp địa phƣơng. Thanh Hoá là một tỉnh nằm ở phía Bắc Miền Trung, diện tích tự nhiên 11.116,34km vuông, chiếm 3,25 % tổng diện tích tự nhiên của cả nƣớc. Địa
  • 9. 2 hình Thanh Hoá rất phức tạp, thấp dần từ phía Tây sang phía Đông, vùng miền núi, trung du chiếm phần lớn diện tích của tỉnh. Đồng bằng Thanh Hoá lớn nhất khu vực miền Trung và lớn thứ 3 của cả nƣớc. Thanh Hoá có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm một thành phố trực thuộc tỉnh, 2 thị xã và 24 huyện; có 639 đơn vị hành chính cấp xã. Theo kết quả điều tra dân số năm 2013, Thanh Hoá có 3,62 triệu ngƣời, đứng thứ 3 trong cả nƣớc, chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội. Tỉnh Thanh Hóa có 7 dân tộc chủ yếu là Kinh, Mƣờng, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú, dân cƣ phân bố không đều giữa các vùng miền. Trong những năm qua, công tác PCMBN luôn đƣợc các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Thanh Hóa quan tâm, chỉ đạo thực hiện nên đã đạt đƣợc nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, do nhận thức pháp luật của ngƣời dân còn hạn chế cùng với những khó khăn về kinh tế và công tác tổ chức thực hiện pháp luật về PCMBN còn chƣa đồng nhất; nên Thanh Hóa hiện vẫn là một trong những “điểm nóng” về tình trạng MBN trên cả nƣớc. Là một cán bộ công tác và sinh sống trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, tác giả nhận thấy có nhiều bất cập, hạn chế trong công tác PCMBN ở địa phƣơng và luôn trăn trở với các câu hỏi: Làm thế nào để thực hiện tốt pháp luật về phòng, chống mua bán người? Liệu có giải pháp nào để thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán người có hiệu quả hơn ở tỉnh Thanh Hóa? Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài "Pháp luật về phòng, chống mua bán người qua thực tiễn ở tỉnh Thanh Hóa" để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu MBN là một vấn đề xã hội bức xúc nên trong thời gian qua việc phòng, chống tệ nạn này ở nƣớc ta đã đƣợc nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về PCMBN từ nhiều góc độ và lĩnh vực khác nhau đƣợc công bố ở nƣớc ta, trong đó tiêu biểu nhƣ:
  • 10. 3 - Lê Thị Quý, Phòng chống buôn bán phụ nữ các tỉnh phía Bắc Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1999. - Lê Thị Quý: Vấn đề ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ ở Việt Nam, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2000. - Lê Thị Quý, „Phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới‟, Nxb Phụ nữ, HN, 2005. - Vũ Ngọc Bình: "Phòng, chống buôn bán và mại dâm trẻ em", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002. - Chu Thị Thoa, "Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. - Nguyễn Quang Dũng: "Tình hình tội phạm mua bán phụ nữ qua biên giới nƣớc ta và hoạt động phòng ngừa của bộ đội biên phòng", Tạp chí Công an nhân dân, số 7, 2003. - Đặng Xuân Khang: "Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam - thực trạng và giải pháp", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Công an, 2004. - Nguyễn Thị Lan: “Bàn về tội mua bán ngƣời trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999”, Tạp chí Khoa học, Luật học, ĐHQGHN, số 25, 2009. Các công trình nêu trên đã cung cấp một khối lƣợng kiến thức, thông tin lớn về PCMBN ở các góc độ, cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa có công trình nào tập trung đề cập đến thực trạng pháp luật về PCMBN ở cấp địa phƣơng nói chung, cũng nhƣ ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng. Thêm vào đó, hầu hết các công trình nghiên cứu nói trên đều đƣợc thực hiện và công bố trƣớc khi Luật PCMBN đƣợc thông qua và có hiệu lực (năm 2011) nên có nhiều thông tin, kiến thức và nhận định không còn phù hợp. Vì vậy,
  • 11. 4 vẫn cần có thêm những công trình nghiên cứu nữa về PCMBN ở nƣớc ta, đặc biệt là những nghiên cứu tiếp cận, khảo sát thực trạng vấn đề ở cấp địa phƣơng. Đề tài “Pháp luật về phòng, chống mua bán người qua thực tiễn ở tỉnh Thanh Hóa” đƣợc thực hiện nhằm góp phần khỏa lấp khoảng trống đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Mục đích của luận văn là cung cấp một cái nhìn tổng thể và chi tiết về thực trạng công tác PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa, qua đó đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả pháp luật về PCMBN của tỉnh, đồng thời cũng là những gợi ý cho việc nâng cao hiệu quả công tác PCMBN ở các địa phƣơng khác trên cả nƣớc. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây: - Phân tích làm rõ những cơ sở lý luận của công tác PCMBN, cũng nhƣ khuôn khổ pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về vấn đề này. - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa; làm rõ không chỉ những thành tựu mà cả những tồn tại, hạn chế trong công tác này; đồng thời phân tích chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu và tồn tại, hạn chế đó. - Trên cơ sở những điểm nêu trên, đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa trong những năm tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là thực trạng thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa, cụ thể là cơ sở lý luận, pháp lý và những biện pháp mà các cơ quan, ban ngành trong tỉnh đã áp dụng để ngăn ngừa và xử lý
  • 12. 5 tội phạm MBN, kết quả đã đạt đƣợc trong công tác này, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế và giải pháp khắc phục. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phù hợp với những yêu cầu của một luận văn thạc sĩ, tác giả đặt ra những giới hạn cho nghiên cứu này nhƣ sau: - Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu các biện pháp thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa. Vì thế, luận văn không phân tích chi tiết mà chỉ đề cập khái quát đến khuôn khổ pháp luật quốc tế và quốc gia về PCMBN để làm nền tảng cho việc nghiên cứu việc thực hiện khuôn khổ đó ở tỉnh Thanh Hóa. - Về địa lý, luận văn chỉ nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa mà không mở rộng đến công tác PCMBN trên phạm vi cả nƣớc hoặc ở các địa phƣơng khác. - Về thời gian, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2008 đến nay mà không mở rộng đến việc thực hiện công tác này ở tỉnh những năm trƣớc đó. Đây là khoảng thời gian chuyển tiếp trong đó có một sự thay đổi lớn về khuôn khổ pháp lý của nƣớc ta về PCMBN, với sự ra đời của Luật PCMBN năm 2011. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn áp dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ bản của Đảng và nhà nƣớc ta về Nhà nƣớc, pháp luật và về PCMBN. Cơ sở lý luận nêu trên là nền tảng để nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh… để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề ra.
  • 13. 6 6. Tính mới và những đóng góp của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận các quy định của pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời ở Việt Nam. Hơn nữa, đây là nghiên cứu đầu tiên phân tích một cách toàn diện và hệ thống thực trạng thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa, đồng thời nêu ra những quan điểm và giải pháp nhằm tăng cƣờng hiệu quả thực hiện pháp luật về PCMBN ở trong tỉnh. Những phân tích, đánh giá của luận văn đƣợc thực hiện sau khi Luật PCMBN năm 2011 đƣợc thông qua và có hiệu lực pháp luật, bởi vậy cập nhật đƣợc những sự phát triển mới nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Với đóng góp nhƣ trên, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, ban ngành của tỉnh Thanh Hóa và các địa phƣơng khác trong việc thực thi pháp luật về PCMBN. Ngoài ra, luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu ở Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác của Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Cơ sở lý luận và khung pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam về phòng, chống mua bán ngƣời Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa
  • 14. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHUNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI 1.1.1. Khái niệm buôn bán ngƣời; mua bán ngƣời; phòng, chống mua bán ngƣời; pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời 1.1.1.1. Khái niệm buôn bán người Buôn bán ngƣời (BBN) là một hiện tƣợng xã hội đã xuất hiện từ khi xã hội loài ngƣời bƣớc vào giai đoạn phát triển hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ. Ban đầu BBN là việc mua bán nô lệ trong các cuộc chiến tranh, sau đó là các cuộc trao đổi phụ nữ vì lợi ích chính trị, kinh tế giữa các quốc gia thời phong kiến. Cho đến nay tệ nạn BBN mà chủ yếu là mua bán phụ nữ, trẻ em vẫn tồn tại và có chiều hƣớng gia tăng trên phạm vi toàn thế giới, với các mục đích phi nhân đạo nhƣ: bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động, kết hôn trái ý muốn, lấy đi các bộ phận của cơ thể... Theo số liệu thống kê của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), ở thời điểm năm 2009, trên thế giới có khoảng hơn 2,4 triệu ngƣời bị buôn bán [2, tr.9]. Ở Việt Nam, tình trạng BBN trong những năm gần đây không ngừng gia tăng và mang tính xuyên quốc gia, trong đó qua Trung Quốc chiếm 65%, Campuchia chiếm 11%, Lào chiếm 6,5%, số còn lại mua bán trong nƣớc và một một số quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhƣ: Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Xinh-ga-po, Đài Loan, Hồng Công, Ma Cao (Trung Quốc). Từ năm 2005 đến cuối năm 2012, Việt Nam phát hiện đƣợc hơn 3.000 vụ với hơn 5.000 đối tƣợng, lừa bán trên 6.500 nạn nhân, trong đó riêng năm 2012 có gần 500 vụ, với hơn 800 đối tƣợng, lừa bán trên 850 nạn nhân. Các cơ quan có thẩm quyền trong nƣớc và một số tổ chức quốc tế hoạt động PCMBN đều nhận định rằng, thủ đoạn
  • 15. 8 MBN ở Việt Nam ngày càng phức tạp, tinh vi, trong đó có nhiều hình thức mới nảy sinh nhƣ mua bán trẻ sơ sinh, mua bán bào thai, nội tạng, đẻ thuê, tuyển dụng đƣa ngƣời lao động ra nƣớc ngoài trái phép sau đó thu giữ giấy tờ, hộ chiếu và bắt lao động cƣỡng bức, lạm dụng tình dục [46, tr.9]. Do đó, việc đấu tranh với hình thức tội phạm này đang là vấn đề cấp bách không chỉ đặt ra đối với mỗi quốc gia mà còn là một vấn đề mang tính toàn cầu. Theo Điều 3 Nghị định thƣ về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị hành vi BBN đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em bổ sung Công ƣớc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Liên hợp quốc, đƣợc Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 15/11/2000, có hiệu lực ngày 25/12/2003 (gọi tắt là Nghị định thƣ Palermo). Buôn bán ngƣời có nghĩa là việc mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận ngƣời nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hay đe dọa dùng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế hay lợi nhuận để đạt đƣợc đƣợc sự đồng ý của một ngƣời có quyền kiểm soát đối với những ngƣời khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm ít nhất là bóc lột vì mục đích mại dâm hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cƣỡng bức, nô lệ hay các hình thức tƣơng tự nô lệ, khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể [56. tr.2]. Các dấu hiệu cơ bản của tội BBN đƣợc thể hiện nhƣ sau: Về mặt khách quan: BBN là việc thực hiện một trong các hành vi: tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận ngƣời (đối tƣợng bị buôn bán) và bóc lột nạn nhân. Ngƣời phạm tội có thể sử dụng các thủ đoạn nhƣ lừa dối, hứa hẹn, man trá, đe dọa dùng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực, ép buộc, bắt cóc, lừa gạt… nạn nhân. Về mặt chủ quan: Ngƣời thực hiện hành vi BBN phải có mục đích tƣ
  • 16. 9 lợi, bóc lột; có thể là bóc lột về tình dục, lao động cƣỡng bức, làm nô lệ hoặc lấy các bộ phận của cơ thể… Suy cho cùng thì mục đích của những ngƣời thực hiện hành vi BBN là vì lợi nhuận, vì thế đó là lỗi cố ý trực tiếp. Trong khái niệm nêu trên, Nghị định thƣ Palermo không đề cập đến khách thể và chủ thể của tội phạm BBN mà chỉ mô tả về mặt chủ quan và khách quan của hành vi phạm tội. Tuy nhiên, theo lý luận chung về tội phạm thì hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận 4 yếu tố cấu thành tội phạm là khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan. Đối với ngƣời bị hại (nạn nhân) trong các vụ buôn bán không phân biệt giới tính, còn trẻ em có nghĩa là bất kỳ ngƣời nào dƣới 18 tuổi. Nghị định thƣ Palermo đã đƣợc Liên hợp quốc thông qua trong bối cảnh vấn đề BBN, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em đang gia tăng ở nhiều nơi trên toàn thế giới. Nó tạo cơ sở pháp lý quốc tế cho việc xác định thế nào là BBN, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, trợ giúp nạn nhân của tệ BBN và phòng ngừa tội phạm BBN. Văn kiện này này đã đƣợc hầu hết quốc gia trên thế giới và chấp nhận làm khuôn khổ pháp lý quốc tế cho việc đấu tranh phòng, chống tệ nạn BBN hiện nay. 1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hành vi mua bán người ở Việt Nam - Khái niệm mua bán người: Trong pháp luật quốc tế hiện nay, các văn bản thƣờng sử dụng khái niệm buôn bán người; buôn bán phụ nữ và trẻ em. Ở Việt Nam, các văn bản pháp luật hiện hành không sử dụng khái niệm buôn bán người mà sử dụng cụm từ "mua bán phụ nữ và trẻ em" hoặc "mua bán người", cụ thể là trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) tại các Điều 119 và 120, Luật PCMBN năm 2011. Tuy nhiên, trong cả hai điều luật nêu trên của BLHS và Luật PCMBN đều chƣa đƣa ra định nghĩa về MBN. Vì vậy, khái niệm “Mua bán ngƣời”
  • 17. 10 hiện đƣợc hiểu tại Thông tƣ liên 01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA- BQP-BTP ngày 23/7/2013 hƣớng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời có hành vi MBN; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em. Điều 1 Thông tƣ quy định: Mua bán ngƣời là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để trao đổi ngƣời (từ đủ 16 tuổi trở lên) nhƣ một loại hàng hóa; cụ thể là một trong các hành vi: 1. Bán ngƣời cho ngƣời khác, không phụ thuộc vào mục đích của ngƣời mua; 2. Mua ngƣời để bán lại ngƣời cho ngƣời khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của ngƣời mua sau này nhƣ thế nào; 3. Dùng ngƣời nhƣ là tài sản để trao đổi, thanh toán; 4. Mua ngƣời để bóc lột, cƣỡng bức lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật khác; 5. Ngƣời tổ chức, ngƣời xúi giục, ngƣời giúp sức cho ngƣời thực hiện một trong các hành vi mua bán ngƣời hƣớng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này đều bị truy cứu trách nhiệm về tội mua bán ngƣời [20, tr.1]. Khoản 1 Điều 4 Thông tƣ cũng xác định: 1.Mua bán trẻ em là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để trao đổi trẻ em (ngƣời dƣới 16 tuổi) nhƣ một loại hàng hóa cụ thể là một trong các hành vi: a) Bán trẻ em cho ngƣời khác, không phụ thuộc vào mục đích của ngƣời mua; b) Mua trẻ em để bán lại cho ngƣời khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của ngƣời mua sau này nhƣ thế nào; c) Dùng trẻ em làm phƣơng tiện để trao đổi, thanh toán; d) Mua trẻ em để bóc lột, cƣỡng bức lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác [20, tr.3]. Đối với Luật PCMBN năm 2011, mặc dù không đƣa ra định nghĩa về “mua bán ngƣời‟ nhƣng tại Điều 3 đã quy định 05 hành vi cụ thể có thể coi là MBN, bao gồm:
  • 18. 11 (1) Mua bán ngƣời theo quy định tại Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự; (2) Chuyển giao, tiếp nhận ngƣời để bóc lột tình dục, cƣỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; (3) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp ngƣời để bóc lột tình dục, cƣỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác hoặc để thực hiện hành vi (1) hoặc (2) kể trên; (4) Cƣỡng bức ngƣời khác thực hiện hành vi (1) hoặc (2) hoặc (3) kể trên; (5) Môi giới để ngƣời khác thực hiện hành vi (1) hoặc (2) hoặc (3) kể trên [65, tr. 1, 2]. Về mua bán trẻ em, Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS 1985 quy định, "mua bán trẻ em" đƣợc hiểu là "Việc mua hoặc bán trẻ em vì mục đích tư lợi, dù là mua của kẻ bắt trộm hay mua của chính người có con đem bán. Hành vi mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ bị bắt trộm cũng bị xử lý về tội mua bán trẻ em…" [48, tr.1]; Bên cạnh việc sử dụng thuật ngữ "mua bán phụ nữ, trẻ em", thì thuật ngữ "buôn bán phụ nữ, trẻ em", cũng đƣợc một số văn bản quy phạm pháp luật sử dụng. Ví dụ, tại khoản 2 Điều 103 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác" [61, tr. 54] hoặc theo Khoản 2 Điều 24 Pháp lệnh phòng chống mại dâm thì: "Người nào môi giới mại dâm, chứa mại dâm, cưỡng bức mại dâm, tổ chức mại dâm, mua bán phụ nữ, trẻ em để phục vụ hoạt động mại dâm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự" [77, tr.15]. Nhƣ vậy, tổng hợp các định nghĩa, khái niệm nêu trên trong pháp luật Việt Nam, có thể hiểu “mua bán ngƣời” là hành vi của một ngƣời hoặc một nhóm ngƣời vì tƣ lợi, đã lừa dối, ép buộc, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực, nhằm tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp ngƣời để bóc lột tình dục, cƣỡng
  • 19. 12 bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác để đƣợc lấy tiền hoặc lợi ích vật chất. - Đặc điểm của hành vi mua bán người: Trƣớc hết, hành vi đƣợc hiểu là những phản ứng, cách ứng xử đƣợc biểu hiện ra bên ngoài của con ngƣời trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Những hành vi nào của con ngƣời đƣợc pháp luật quy định, điều chỉnh thì đƣợc xem là hành vi pháp luật. Hành vi pháp luật đƣợc thực hiện phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật (chủ thể tiến hành những xử sự mà pháp luật yêu cầu nhƣ thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình; không đƣợc làm những gì mà pháp luật cấm; hoạt động trong phạm vi pháp luật cho phép) là hành vi hợp pháp. Hành vi đƣợc thực hiện trái với những quy định của pháp luật nhƣ không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm, hoạt động vƣợt quá phạm vi cho phép của pháp luật là hành vi không hợp pháp (trái pháp luật) [73, tr.491, 494, 495]. Nhƣ vậy, hành vi "mua bán ngƣời" cũng đƣợc hiểu là những phản ứng, cách ứng xử đƣợc biểu hiện ra bên ngoài của những ngƣời có đủ năng lực (năng lực pháp lý và năng lực hành vi) thực hiện việc "mua bán ngƣời". Hành vi "mua bán ngƣời" là hành vi bất hợp pháp (vi phạm các Điều 119, 120 BLHS năm 1999 và Luật PCMBN) và các yếu tố cấu thành hành vi "mua bán ngƣời" sẽ bao gồm: Một là, chủ thể thực hiện hành vi "mua bán ngƣời" phải là ngƣời có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Hai là, những biểu hiện trong thế giới khách quan thông qua những thao tác hành động hoặc không hành động của chủ thể thực hiện hành vi "mua bán ngƣời" mà các chủ thể khác có thể nhận biết đƣợc điều đó. So sánh các biểu hiện hành vi MBN (đƣợc pháp luật xác định) theo các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam cho thấy:
  • 20. 13 - Với Nghị định thƣ Palermo, hoạt động BBN (mà đƣợc hiểu tƣơng đƣơng ở Việt Nam là MBN) sẽ bao gồm những hành vi sau: tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận ngƣời nhằm mục đích bóc lột bao gồm bóc lột thông qua hoạt động mại dâm, bóc lột tình dục lao động cƣỡng bức, nô lệ hay hành vi tƣơng tự nhƣ nô lệ, khổ sai hoặc bị lấy đi các bộ phận cơ thể. - Theo pháp luật Việt Nam thì hoạt động MBN là hành vi chuyển giao, tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp ngƣời để bóc lột tình dục, cƣỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. Trong thực tế, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn để thực hiện một số quy định trong Nghị định thƣ Palermo. Đặc biệt, những hƣớng dẫn xác định các hành vi MBN, mua bán trẻ em trong Thông tƣ liên tịch 01/2013/TTLT/TANDTC- VKSNDTC-BCA-BQP-BTP đã làm rõ và mở rộng các dấu hiệu khách quan của hai hành vi “mua” và “bán” quan trọng này, qua đó đã khắc phục cách hiểu hạn hẹp trƣớc đây xem “mua bán ngƣời/trẻ em” chỉ bao gồm hai loại hành vi “mua” và “bán” chứ không bao gồm cả những hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận ngƣời nhƣ trong định nghĩa về BBN ở Điều 3 Nghị định thƣ Palermo. Tuy nhiên, để phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế về PCMBN, Việt Nam cần phải hoàn thiện hơn nữa trong các quy định theo hƣớng nêu rõ các phƣơng thức, thủ đoạn và mục đích MBN và sửa đổi quy định “Trẻ em là công dân Việt Nam dƣới 16 tuổi” thành “Trẻ em là công dân Việt Nam dƣới 18 tuổi” tƣơng tự nhƣ quy định tại Điều 3 Nghị định thƣ Palermo. 1.1.1.3. Khái niệm phòng, chống mua bán người PCMBN là nhiệm vụ phức tạp liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, đòi hỏi phải đƣợc tiến hành đồng bộ bằng nhiều biện pháp nhằm huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị mới có hiệu quả. Thực tiễn đấu tranh PCMBN ngƣời cho thấy, việc phát hiện, bắt giữ, xử lý đối tƣợng thực hiện
  • 21. 14 hành vi MBN chỉ là một trong những biện pháp nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi MBN, biện pháp này chỉ giải quyết đƣợc phần “ngọn”, chƣa giải quyết đƣợc “gốc rễ” của vấn đề; đó là làm giảm tiến tới loại trừ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh hành vi MBN. Để công tác phòng ngừa đạt hiệu quả cần áp dụng những biện pháp phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ; trong đó cần tăng cƣờng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật để nâng cao nhận thức của nhân dân, giúp ngƣời dân nhận thức đƣợc nguy cơ, mối hiểm họa của hoạt động MBN để họ có ý thức phòng ngừa nâng cao cảnh giác không trở thành đối tƣợng bị mua bán. Đấu tranh PCMBN chỉ đạt hiệu quả khi thực hiện tốt nguyên tắc phòng ngừa, đồng thời đẩy mạnh công tác phát hiện, xử lý các hành vi MBN, hành vi liên quan đến MBN cũng nhƣ những hành vi vi phạm pháp luật khác. Vậy, PCMBN có thể hiểu là những biện pháp phòng tránh, ngăn ngừa và xử lý các hành vi MBN mà Luật PCMBN và các văn bản pháp lý có liên quan quy định. Trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi MBN, Luật PCMBN năm 2011 đã thể hiện rõ yếu tố “phòng” và “chống” MBN. Ở yếu tố “phòng”, Luật chú trọng nhóm các biện pháp phòng ngừa chung nhƣ: tuyên truyền, giáo dục, tƣ vấn về phòng, ngừa MBN, hoạt động quản lý an ninh trật tự, kiểm soát an ninh biên giới cũng nhƣ nhóm các biện pháp phòng ngừa thông qua hoạt động của một số cơ quan, tổ chức và sự tham gia của cá nhân, gia đình trong việc phòng ngừa MBN. Mục đích chính của yếu tố này là nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và cộng đồng đối với công tác phòng ngừa MBN, về mối hiểm họa của MBN, làm cho mọi ngƣời đề cao cảnh giác, tích cực tham gia phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh chống MBN, chống kỳ thị, phân biệt đối xử với nạn nhân bị mua bán.
  • 22. 15 Luật cũng xác định rõ trọng tâm , trọng điểm của công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về phòng ngừa MBN là hƣớng tới một số đối tƣợng cụ thể nhƣ: phụ nữ, thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên và những ngƣời cƣ trú tại khu vực biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và những địa bàn xảy ra nhiều vụ việc MBN. Đây là những đối tƣợng có thể gọi là "có nguy cơ cao" dễ trở thành nạn nhân bị mua bán. Đặc biệt, để bảo đảm sự chủ động trong công tác thông tin, giáo dục, truyền thông ở cơ sở, Luật PCMBN năm 2011 quy định việc xây dựng mạng lƣới tuyên truyền viên về PCMBN ở cơ sở; huy động sự tham gia tích cực của các đoàn thể xã hội. Bên cạnh đó yếu tố “chống” cũng đƣợc Luật PCMBN quy định cụ thể tại Điều 4: mọi hành vi vi phạm pháp luật về PCMBN phải đƣợc ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời, chính xác. Để quy định về việc phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về PCMBN nội dung chủ yếu cần tập trung vào 03 vấn đề: một là , nghĩa vụ của cá nhân tố giác , tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về PCMBN; hai là , trách nhiê ̣m của cơ quan , tổ chƣ́ c trong viê ̣c phát hiê ̣n và xƣ̉ lý vi pha ̣m theo thẩm quyền ; ba là , nhƣ̃ng nguyên tắc xƣ̉ lý vi phạm pháp luật về PCMBN. Do đó, việc kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố “phòng” và “chống” MBN cũng nhƣ các hành vi liên quan đến MBN đƣợc xem là yêu cầu đầu tiên, quan trọng nhất trong công tác đấu tranh PCMBN ở nƣớc ta hiện nay. 1.1.1.4. Khái niệm pháp luật phòng, chống mua bán người - Khái niệm pháp luật Theo Giáo trình Lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội thì: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong toàn xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội” [73, tr. 66].
  • 23. 16 Giáo trình Lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật của Viện nhà nƣớc và pháp luật - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chi Minh định nghĩa: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được đảm bảo thực hiện bằng sắc mạnh cưỡng chế của nhà nước, là yếu tố đảm bảo sự ổn định và trật tự xã hội” [47, tr.161]. Giáo trình Lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật của Khoa Luật - Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội định nghĩa: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nƣớc đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nƣớc của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, đƣợc đảm bảo thực hiện bằng nhà nƣớc nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển vững mạnh của xã hội [74, tr.288] Nhƣ vậy, các định nghĩa nêu trên đều có quan điểm đồng nhất về nội dung đó là: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc do nhà nƣớc đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đƣợc nhà nƣớc bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích đảm bảo trật tự và ổn định xã hội. Trong các định nghĩa nêu trên đều thể hiện đƣợc những thuộc tính đặc trƣng nhất của pháp luật và mục đích điều chỉnh của pháp luật. Ngoài ra, trong lý luận pháp luật hiện đại nhiều ngƣời còn đề xuất những cách định nghĩa, cách tiếp cận khác về pháp luật theo hƣớng mở rộng và phù hợp hơn với tƣ duy pháp lý quốc tế. Mỗi cách tiếp cận đều có tính hợp lý nhất định, nhƣng dù có đƣợc tiếp cận dƣới góc độ nào, thì pháp luật vẫn là phƣơng tiện để xác định, thiết lập trật tự xã hội, có hiệu lực bắt buộc và đƣợc kiểm soát, đảm bảo, bảo vệ bởi quyền lực nhà nƣớc.
  • 24. 17 - Khái niệm pháp luật phòng, chống mua bán người PCMBN là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay của Nhà nƣớc ta. MBN là hành vi xâm phạm trực tiếp đến quyền, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và đời sống của con ngƣời. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh liên quan đến hoạt động MBN, Nhà nƣớc phải ban hành các văn bản pháp luật, những văn bản này chứa dựng đầy đủ các nguyên tắc, biện pháp phòng ngừa, xử lý và hỗ trợ nạn nhân. Vậy, có thể hiểu pháp luật PCMBN là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành nhằm xác định, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý những hành vi mua bán người và biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân. 1.1.2. Sự cần thiết, ý nghĩa của việc phòng, chống mua bán ngƣời 1.1.2.1. Sự cần thiết của việc phòng, chống mua bán người Qua gần 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế, bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội, Việt Nam đồng thời phải đối mặt với những thử thách to lớn trong nhiều vấn đề, trong đó có sự gia tăng của tội phạm, bao gồm tội phạm MBN. Việt Nam hiện là một trong những nƣớc nguồn, đồng thời là nƣớc trung chuyển và đích đến của nạn MBN. Ở Việt Nam, MBN diễn ra cả trong nội địa và xuyên biên giới. Nạn nhân của MBN có cả phụ nữ, nam giới và trẻ em trong đó phụ nữ thƣờng bị mua bán để bóc lột mại dâm và cƣỡng bức kết hôn; trẻ em thƣờng để bóc lột sức lao động hay ăn xin; còn nam giới thì thƣờng để bóc lột sức lao động. Theo ghi nhận của các cơ quan chức năng, tình hình tội phạm ở Việt Nam đang có diễn biến rất phức tạp với quy mô ngày càng gia tăng, nguy hiểm nhất là hậu quả mà tội phạm gây ra; trong đó tội phạm MBN đƣợc đánh giá là loại tội phạm có diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, có tổ chức chặt chẽ. Nạn nhân bị mua bán chủ yếu là phụ nữ và trẻ em chiếm hơn 90%. Trong thực tế con số này còn có thể lớn hơn vì có căn cứ để xác định đây là loại tội phạm có độ ẩn cao và theo Báo cáo tình hình BBN hàng năm của Đại sứ quán Hợp chủng quốc Hoa kỳ tại Việt Nam vẫn xếp Việt Nam
  • 25. 18 là quốc gia nằm trong danh sách loại 2 - Những nƣớc xếp danh sách loại 2 là những nƣớc mà chính phủ không tuân thủ đầy đủ những tiêu chuẩn của Đạo luật bảo vệ nạn nhân của nạn buôn ngƣời (TVPA) nhƣng có nỗ lực đáng kể nhằm tuân thủ những tiêu chuẩn đó [78]. Tội phạm MBN đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín của con ngƣời đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em, ảnh hƣởng đến sự phát triển của xã hội và tƣơng lai của đất nƣớc. Hầu hết nạn nhân trong các vụ mua bán thƣờng có thái độ mặc cảm, sợ hãi, không muốn tiết lộ hoặc để ngƣời khác biết đƣợc các bí mật về đời tƣ của mình, những hậu quả mà họ phải gánh chịu trong thời gian bị mua bán, đặc biệt là các trƣờng hợp mua bán để làm gái mại dâm. Họ rất dễ bị tổn thƣơng, luôn mặc cảm tự ti coi mình là tội lỗi, là ngƣời không đƣợc xã hội tôn trọng. Do đó, PCMBN là một yêu cầu cấp thiết của cả cộng đồng thế giới, Việt Nam và các nƣớc trên thế giới cần có những biện pháp mạnh nhằm lên án và xử lý nghiêm khắc hành vi MBN và các hành vi liên quan khác đến MBN. Bên cạnh đó, trong quá trình hợp tác đa phƣơng và song phƣơng trong lĩnh vực này cần quy định rõ quốc gia nào không chủ động tích cực hoặc dung túng cho tệ nạn MBN sẽ phải chịu sự lên án, chỉ trích và trừng phạt của cộng đồng quốc tế. Đối với Việt Nam, kể từ năm 2000 cho đến nay, khuôn khổ pháp luật Việt Nam về phòng, chống MBN liên tục đƣợc sửa đổi và bổ sung, trong đó sự kiện quan trọng gần đây nhất là việc thông qua Luật PCMBN năm 2011. Ngoài ra, một loạt văn bản pháp luật khác có liên quan đến PCMBN trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, lao động, xuất nhập cảnh, quản lý nhà nƣớc trong các ngành nghề kinh doanh nhạy cảm, bảo vệ một số nhóm xã hội dễ bị tổn thƣơng trƣớc nạn MBN gần đây cũng đƣợc củng cố. Tất cả cho thấy nỗ lực và bƣớc tiến lớn trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về PCMBN của Nhà nƣớc Việt Nam. Những nỗ lực và bƣớc tiến này cần
  • 26. 19 đƣợc phân tích bởi nhiều chủ thể, từ nhiều góc độ, để đánh giá một cách thấu đáo những ƣu điểm và tồn tại, từ đó xác định những bƣớc đi tiếp theo trong cuộc chiến PCMBN ở Việt Nam. 1.1.2.2. Ý nghĩa của việc phòng, chống mua bán người Quyền con ngƣời là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là giá trị chung của các dân tộc. Ngày nay, mức độ bảo đảm quyền con ngƣời đƣợc xem nhƣ là một thƣớc đo của sự tiến bộ và trình độ văn minh của xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa. Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp 2013 nêu rõ “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự nhân phẩm” [59, tr.5]. Vậy, PCMBN có ý nghĩa quan trọng về khẳng định sự tôn chỉ Hiến pháp về quyền con ngƣời, quyền công dân cụ thể là đảm bảo quyền về tính mạng, sức khỏe, danh dự, đặc biệt là đảm bảo nhân phẩm của ngƣời phụ nữ và sự phát triển lành mạnh của trẻ em. PCMBN không phải là trách nhiệm của riêng ai mà của toàn xã hội, của cá nhân, gia đình, tổ chức xã hội và nhà nƣớc. Việc thực hiện các quy định về PCMBN không chỉ góp phần nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân với cộng đồng mà còn ngăn chặn kịp thời tệ nạn MBN, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nạn nhân, của những ngƣời có nguy cơ bị mua bán. Bên cạnh đó, thông qua công tác ngừa giúp cho mọi ngƣời có cơ hội, có cái nhìn hiểu biết hơn nhằm nâng cao ý thức chủ động trong đấu tranh phòng, chống tội phạm MBN, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. PCMBN còn thể hiện chức năng quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mọi công dân trong xã hội; đồng thời tiếp tục khẳng định quyết tâm mạnh mẽ của Đảng, Chính phủ Việt Nam trong việc thực thi pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
  • 27. 20 Ngoài ra, PCMBN nêu cao giá trị nhân văn sâu sắc về quan điểm, nhận thức và quyết tâm của toàn xã hội trong việc thực hiện cam kết tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con ngƣời, vì một xã hội Việt Nam hòa bình, an ninh, tiến bộ. 1.1.3. Đặc điểm, nội dung, yêu cầu của pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời 1.1.3.1. Đặc điểm của pháp luật phòng, chống mua bán người PCMBN hiện nay đang trở thành một trong những vấn đề toàn cầu và đƣợc mọi cộng đồng quốc gia trên thế giới quan tâm. Thực tiễn cho thấy công tác đấu tranh PCMBN là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp không chỉ riêng một lĩnh vực nào đó mà nó đi liền với nhiều bức xúc của xã hội. Xem xét vấn đề PCMBN trong mối tƣơng quan với các vấn đề chính trị - xã hội khác, có thể nêu ra các đặc điểm của pháp luật PCMBN nhƣ sau: - Thứ nhất, pháp luật PCMBN bao gồm các quy định về hành vi bị nghiêm cấm, nguyên tắc PCMBN; chính sách của nhà nước về PCMBN và quyền, nghĩa vụ của nạn nhân. Những quy định trong pháp luật PCMBN không chỉ mục đích nhằm bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân mà còn khẳng định giá trị nhân văn sâu sắc, khẳng định sự nhất quán của Đảng, Nhà nƣớc trong nhiệm vụ thực thi pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. - Thứ hai, pháp luật về phòng, chống mua bán người là tổng hợp nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau. Nhiệm vụ của pháp luật là xác lập cơ sở pháp lý và tạo cơ sở để PCMBN. Việc xác lập và bảo vệ quyền con ngƣời không chỉ đƣợc quy định trong Hiến pháp mà còn đƣợc quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhƣ: Bộ luật Dân sự, BLHS, BLTTHS, Bộ luật Lao động, Luật hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em,
  • 28. 21 Luật nuôi con nuôi, Luật phòng, chống mại dâm… Đặc biệt, trong những văn bản pháp luật này đều có những quy định riêng về PCMBN nhằm mục đích bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện quyền con ngƣời, quyền công dân. Ngoài hệ thống quyền con ngƣời thống nhất, việc thực hiện quyền này là cơ sở là tiền đề cho việc bảo đảm thực hiện các quyền khác. Chính vì vậy, việc bảo đảm thực hiện quyền con ngƣời không chỉ căn cứ vào những quy phạm pháp luật riêng quy định về PCMBN mà còn liên quan đến nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau. Nói cách khác, pháp luật về PCMBN là tổng hợp của nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm bảo vệ và bảo đảm quyền con ngƣời đƣợc thực hiện có hiệu quả trên thực tế. - Thứ ba, pháp luật về PCMBN là sự kết hợp hài hoà giữa các quy phạm pháp luật quốc tế và điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia. Thúc đẩy và bảo vệ quyền con ngƣời không chỉ là mối quan tâm và trách nhiệm của riêng một quốc gia nào mà nó đã trở thành nghĩa vụ và trách nhiệm chung của cả cộng đồng quốc tế. Cộng đồng quốc tế đã thông qua nhiều văn kiện pháp lý quy định về PCMBN. Những văn kiện đó thể hiện trách nhiệm cả cộng đồng nhân loại về bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân. Trong các văn kiện pháp lý quốc tế quy định trực tiếp hoặc gián tiếp về PCMBN, Việt Nam đã gia nhập và phê chuẩn nhiều công ƣớc quan trọng nhƣ: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời (UDHR) năm 1948, Nghị định thƣ về việc phòng ngừa, trấn áp và trừng trị hành vi BBN đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (PALERMO), Hiệp định song phƣơng giữa Chính phủ nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam với các nƣớc Trung Quốc, Campuchia, Lào, Thái Lan về hợp tác nhằm loại trừ nạn BBN… Trong quá trình xây dựng pháp luật, Nhà nƣớc luôn xem xét khả năng thể chế hoá những quy định tiến bộ của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia. Đây cũng là một phần trong trách nhiệm lập pháp của quốc gia khi gia nhập và phê chuẩn các công ƣớc này.
  • 29. 22 Bên cạnh đó, khi xây dựng pháp luật, nhà nƣớc cũng dựa trên quan điểm quyết tâm loại trừ tệ nạn này ra khỏi cộng đồng và phát huy trách nhiệm bảo vệ, tạo điều kiện tốt nhất để nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng. Chính vì thế, các quy phạm pháp luật về PCMBN trong hệ thống pháp luật Việt Nam thể hiện rõ tƣ tƣởng trên, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử. 1.1.3.2. Nội dung của pháp luật phòng, chống mua bán người Nội dung của pháp luật về PCMBN đề cập đến các quy phạm pháp luật cụ thể hƣớng đến mục tiêu thực hiện tốt công tác PCMBN ở Việt Nam và hợp tác quốc tế đấu tranh phòng ngừa tội phạm MBN hiện nay, cụ thể bao gồm: Thứ nhất, về quy định chung: Pháp luật PCMBN đã xác định phạm vi điều chỉnh tƣơng đối toàn diện, quy định một cách tập trung, thống nhất những vấn đề có tính nguyên tắc, làm định hƣớng cho công tác PCMBN với 06 nhóm vấn đề lớn hết sức quan trọng đã đƣợc khái quát cụ thể là: Các nguyên tắc PCMBN (Điều 4 Luật PCMBN) bao gồm: Kết hợp thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý vi phạm; Kịp thời giải cứu, bảo vệ, tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ nạn nhân; không kỳ thị, phân biệt đối xử, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của nạn nhân; Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức; Ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời và chính xác mọi hành vi vi phạm; Tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong đấu tranh PCMBN [65, tr.3]. Các nguyên tắc nêu trên đóng vai trò là những tƣ tƣởng chỉ đạo việc xây dựng và thực thi các văn bản pháp luật về PCMBN. Nhìn tổng thể, chúng đã tƣơng thích với năm nhóm vấn đề đƣợc xác định trong Nghị định thƣ Palermo, bao gồm: Phòng ngừa BBN; Phát hiện, xử lý những hành vi BBN; Bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và nhân chứng; Hồi hƣơng và tái hồi nhập cộng đồng nạn nhân; và Hợp tác quốc tế trong phòng, chống BBN.
  • 30. 23 Về chính sách của Nhà nƣớc về PCMBN (Điều 5 Luật PCMBN), bao gồm: Kết hợp PCMBN với việc thực hiện chƣơng trình khác về phát triển kinh tế - xã hội; Khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nƣớc và ngoài nƣớc hợp tác, tài trợ cho hoạt động PCMBN và hỗ trợ nạn nhân; Khen thƣởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích; bảo đảm chế độ, chính sách đối với những ngƣời trực tiếp tham gia PCMBN bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản; Bố trí ngân sách cho công tác PCMBN [65, tr.4]. Các chính sách này đƣợc thực hiện thông qua các văn bản hƣớng dẫn nhƣ Nghị định số 62/2012/NĐ-CP ngày 13/8/2012 của Chính phủ quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, ngƣời thân thích của họ; Thông tƣ liên tịch số 01/TTLT/BCA-BQP-BNG-BLĐTBXH ngày 10/02/2014 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ LĐTBXH, Bộ Ngoại giao hƣớng dẫn trình tự, thủ tục quan hệ phối hợp trong xác minh, xác định, tiếp nhận và trao trả nạn nhân bị mua bán… Về các quyền và nghĩa vụ của nạn nhân quy định tại Điều 6 Luật PCMBN. Theo Điều này, nạn nhân bị mua bán có các quyền: Đƣợc yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của mình hoặc của ngƣời thân thích; Đƣợc bồi thƣờng thiệt hại theo quy định của pháp luật; Đƣợc hƣởng các chế độ hỗ trợ liên quan đến các nhu cầu thiết yếu, chăm sóc y tế, tâm lý, trợ giúp pháp lý. Bên cạnh đó, nạn nhân cũng có hai nghĩa vụ là: Cung cấp thông tin liên quan đến việc mua bán ngƣời cho cơ quan, tổ chức hoặc ngƣời có thẩm quyền; Thực hiện yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến vụ việc mua bán ngƣời [65, tr.4, 5]. Việc quy định các quyền của nạn nhân giúp nâng cao tính trách nhiệm, chuyên nghiệp và hiệu quả của công tác tiếp nhận, trợ giúp nạn nhân bị mua bán; còn việc quy định các nghĩa vụ của nạn nhân nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, xử lý các vụ án MBN.
  • 31. 24 Thứ hai, công tác phòng ngừa MBN: Phòng ngừa MBN đƣợc pháp luật PCMBN chú trọng nhóm các biện pháp phòng ngừa chung nhƣ: tuyên truyền, giáo dục, tƣ vấn về PCMBN, hoạt động quản lý an ninh trật tự, kiểm soát an ninh biên giới cũng nhƣ nhóm các biện pháp phòng ngừa thông qua hoạt động của một số cơ quan, tổ chức và sự tham gia của cá nhân, gia đình trong việc phòng ngừa MBN. Thứ ba, xử lý vi phạm về MBN: Luật PCMBN xác định phát hiện, xử lý kịp thời mọi hành vi MBN là một trong những nguyên tắc cơ bản. Để cụ hóa nguyên tắc này, cần tập trung 3 vấn đề sau: - Nghĩa vụ tố giác, báo tin về hành vi MBN, hành vi liên quan đến MBN và các hành vi khác vi phạm pháp luật về PCMBN (Điều 19 Luật PCMBN). Nghĩa vụ này áp dụng với mọi cá nhân. Chủ thể tiếp nhận tố giác, báo tin của ngƣời dân bao gồm cơ quan công an, UBND cấp xã hoặc bất kỳ cơ quan, tổ chƣ́ c nào mà ngƣời dân thấy thuận tiện. Luâ ̣t không có quy định khống chế về hình thức báo tin , tố giác vi pha ̣m . Điều đó có nghĩa là ngƣời dân có thể sử dụng bất kỳ hình thức nào mà họ thấy thuận tiện nhƣ trực tiếp bằng miệng, qua điện thoại, qua mạng thông tin điện tử hoặc gửi văn bản. - Trách nhiệm của cơ quan , tổ chứ c trong việc phá t hiện và xử lý vi phạm. Tùy từng cơ quan, tổ chức, trách nhiệm này đƣợc thực hiện thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra (Điều 20) và hoạt động nghiệp vụ (Điều 21). Đối với hoạt động nghiệp vụ, Luật PCMBN cho phép lực Lƣợng công an nhân dân, Quân đội nhân dân đƣợc yêu cầu cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc điều tra, đồng thời có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ nạn nhân, ngƣời tố giác, ngƣời làm chứng, ngƣời thân thích của họ khỏi bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và tài sản.
  • 32. 25 - Giải quyết các tin báo, tố giác, tố cá o và xử lý vi phạm: Theo Điều 22 Luật PCMBN, việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm MBN đƣợc thực hiện theo quy định của BLTTHS, còn với những tố cáo thì theo pháp luật về tố cáo. Theo Điều 23, các hành vi vi phạm, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ luật, hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, và nếu gây thiệt hại thì còn phải bồi thƣờng theo luật dân sự. Các quy định nêu trên đã cung cấp khuôn khổ pháp lý để phát hiện và xử lý những vi phạm pháp luật về MBN. Nhìn tổng thể, phạm vi các quy định trong Chƣơng III Luật PCMBN là toàn diện, tuy nhiên, ngoại trừ những nội dung về phát hiện tội phạm (các Điều từ 19 đến Điều 21), những nội dung về giải quyết tin báo, tố giác, tố cáo, xử lý tội phạm (các Điều 22, Điều 23) đều không có giá trị áp dụng trực tiếp, mà viện dẫn đến các quy định trong các văn bản pháp luật khác có liên quan (Luật tố cáo, BLTTHS, BLHS). Đây là điểm khác biệt giữa Luật PCMBN của Việt Nam với các đạo luật về vấn đề này của một số nƣớc khác, ví dụ nhƣ Thái Lan, Campuchia (luật của những quốc gia này quy định rõ chế tài xử lý các tội BBN). Sự khác biệt đó một phần xuất phát từ truyền thống lập pháp của Việt Nam, đó là tội phạm và hình phạt chỉ đƣợc quy định trong BLHS. Thứ tư, bảo vệ, hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân Việc bảo vệ, hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân đƣợc quy định tại các Điều 27, Điều 28 Luật PCMBN và khoản 1 Điều 5 Nghị định 62/2012/NĐ-CP ngày 13/8/2012 của Chính phủ về việc quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, ngƣời thân thích của họ là đối tƣợng của một trong những hành vi: MBN; Chuyển giao hoặc tiếp nhận ngƣời; Ép buộc làm đối tƣợng sản xuất băng, đĩa hình, sách, tranh, ảnh, lịch và những hình thức khác có nội dung tuyên truyền lối sống đồi trụy, khiêu dâm; Ép buộc biểu diễn cho ngƣời khác xem thân thế mình với mục
  • 33. 26 đích kích động tình dục; Làm nô lệ tình dục; Cƣỡng bức lao động; Lấy các bộ phận cơ thể một cách bất hợp pháp; Ép buộc đi ăn xin; Ép buộc làm vợ hoặc chồng; Ép buộc đẻ con trái ý muốn của họ; Ép buộc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; Vì mục đích vô nhân đạo khác; Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp ngƣời để thực hiện các hành vi quy định tại các điểm a, b khoản này hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác [65]. Tuy nhiên, cả Luật PCMBN và Nghị định số 62/2012/NĐ-CP đều chƣa xác định rõ những tài liệu, chứng cứ (do các cơ quan nhà nƣớc có liên quan và các chủ thể khác cung cấp) cần thiết để chứng minh một ngƣời là nạn nhân bị mua bán cụ thể là gì điều này có thể gây khó khăn cho việc xác định nạn nhân trong thực tế. Thứ 5, hợp tác quốc tế về PCMBN: Một trong những nguyên tắc định hƣớng của pháp luật PCMBN là tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong PCMBN. Trên cơ sở nguyên tắc này, Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011 - 2015 đã dành hẳn Đề án 5 để “Tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong PCMBN”. Luật PCMBN cũng quy định rõ 4 nhóm vấn đề quan trọng trong hợp tác quốc tế về PCMBN, bao gồm: Nguyên tắc hợp tác; Phạm vi lĩnh vực hợp tác; Giải cứu và hồi hƣơng nạn nhân; Tƣơng trợ tƣ pháp. Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011 - 2015 xác định cơ quan chủ trì của Đề án 5 về hợp tác quốc tế trong PCMBN là Bộ Công an, còn các cơ quan phối hợp bao gồm tất cả các bộ, ngành, tổ chức xã hội có liên quan, trong đó đặc biệt là Bộ Ngoại giao, Bộ Tƣ pháp, Bộ LĐ- TB-XH, Bộ Quốc phòng, VKSNDTC, TANDTC, Hội LHPN Việt Nam. Đề án này cũng xác định những chỉ tiêu cụ thể cần đạt đƣợc đến năm 2015, đó là: Triển khai thực hiện và có cơ chế theo dõi giám sát với 100% các điều ƣớc quốc tế về PCMBN mà Việt Nam đã tham gia; Hàng năm, tăng ít nhất 5% số
  • 34. 27 vụ việc MBN đƣợc giải quyết thông qua hợp tác quốc tế; hoàn thành 100% các dự án hợp tác quốc tế tài trợ hoặc hỗ trợ; Ký kết hiệp định hợp tác song phƣơng về phòng, chống tội phạm MBN với ít nhất 5 quốc gia mới [30, tr.11]. 1.1.3.3. Yêu cầu của pháp luật phòng, chống mua bán người PCMBN là nhiệm vụ quan trọng trong công tác phòng chống tội phạm nói chung nhằm bảo vệ quyền con ngƣời, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đồng thời khẳng định vị trí, vai trò của Việt Nam trong việc tham gia các Điều ƣớc quốc tế, các Hiệp định song và đa phƣơng trong lĩnh vực PCMBN. Do vậy, để thực hiện tốt nội dung của pháp luật PCMBN ở Việt Nam cần đáp ứng các yêu cầu sau đây: Một là, làm tốt vai trò tham mƣu cho Chính phủ, UBND các cấp, chỉ đạo, hƣớng dẫn, đôn đốc các cấp, các ngành xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả pháp luật PCMBN, các Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN. Hai là, tăng cƣờng sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm; kết hợp chặt chẽ giữa công tác phòng, chống tội phạm với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Công tác phòng chống tội phạm phải đƣợc xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp, phải lấy chủ động phòng ngừa là cơ bản, kết hợp tích cực với tấn công trấn áp tội phạm. Ba là, tổ chức nghiên cứu, phổ biến, quán triệt sâu rộng nội dung pháp luật PCMBN, triển khai nội dung Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN đến các Bộ, ngành, đoàn thể và địa phƣơng, làm chuyển biến cơ bản về nhận thức và hành động trong toàn xã hội, tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm chủ động phòng ngừa và tích cực tham gia đấu tranh với tội phạm MBN. Bốn là, tăng cƣờng mối quan hệ phối hợp đồng bộ giữa các đơn vị, địa phƣơng, các cơ quan ban ngành, đoàn thể liên quan; giữa lực lƣợng công an
  • 35. 28 với Bộ đội biên phòng để triển khai các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn. Nâng cao tỉ lệ điều tra, khám phá các vụ án, rà sát giải quyết dứt điểm các vụ án, vụ việc liên quan đến đƣờng dây, băng nhóm tội phạm MBN. Phối hợp với Viện kiểm sát, Tòa án xử lý nghiêm minh, triệt để tội phạm MBN xuyên quốc gia và quốc tế; xử lý hành chính triệt để các trung tâm môi giới trái pháp luật không để chúng lợi dụng hoạt động MBN. Năm là, Thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ nạn nhân, tiếp nhận, hồi hƣơng, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân bị mua bán trở về. Xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật theo đúng tiến độ nhằm đƣa Luật PCMBN vào thực tiễn thi hành. Sáu là, Tăng cƣờng hợp tác quốc tế; ký kết và triển khai có hiệu quả các Hiệp định, Thỏa thuận hợp tác song phƣơng và đa phƣơng với các nƣớc, các tổ chức quốc tế, huy động sự hỗ trợ về tài chính, chuyên môn, kỹ thuật trong PCMBN. 1.2. KHUNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI BBN là một hiện tƣợng xã hội đã xuất hiện từ khi xã hội loài ngƣời bƣớc vào giai đoạn phát triển hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ. Cho đến nay tệ nạn BBN vẫn tồn tại và có chiều hƣớng gia tăng đáng lo ngại trên phạm vi toàn thế giới, với các mục đích phi nhân đạo nhƣ: bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động, lấy đi một hoặc một số bộ phận trên cơ thể, kết hôn trái ý muốn… Để phòng, chống tệ nạn này và bảo vệ các nạn nhân, từ trƣớc tới nay quốc tế và khu vực đã có rất nhiều văn bản pháp luật trực tiếp, gián tiếp đề cập đến các vấn đề này. Điển hình là các văn bản quốc tế nhƣ: Tuyên bố toàn thế giới về nhân quyền năm 1948; Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ƣớc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979; Công ƣớc về quyền trẻ em năm 1989; Công ƣớc của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000
  • 36. 29 (TOC), Nghị định thƣ về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm BBN, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000 (Nghị định thƣ Palermo), Nghị định thƣ về phòng, chống đƣa ngƣời di cƣ trái phép bằng đƣờng bộ, đƣờng biển và đƣờng không, bổ sung cho Công ƣớc của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000; Nghị định thƣ không bắt buộc bổ sung cho Công ƣớc về quyền trẻ em, buôn bán trẻ em, mua dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em năm 2000; Công ƣớc số 182 của ILO về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất năm 1999. Ngoài ra, còn có các Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp trong các vụ việc hình sự giữa các quốc gia ASEAN năm 2004; Hiệp định song phƣơng trong lĩnh vực tƣ pháp; Thỏa thuận hợp tác về phòng, chống BBN giữa các nƣớc trong khu vực ASEAN... Đây là những văn bản pháp luật quốc tế quan trọng về PCMBN. Là cơ sở pháp lý để cộng đồng thế giới thực hiện nhằm đấu tranh phòng, chống tệ nạn MBN đang ngày càng gia tăng hiện nay. 1.3. KHUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI 1.3.1. Hệ thống văn bản pháp luật trong nƣớc Vấn đề PCMBN đƣợc đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam, trong đó, ngoài Luật PCMBN là nòng cốt còn có nhiều đạo luật khác, tiêu biểu nhƣ sau: - Hiến pháp 2013, tại Chƣơng II quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân, trong đó có các quyền có ý nghĩa trực tiếp với việc bảo vệ mọi ngƣời khỏi bị buôn bán, nhƣ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm (Điều 20); quyền bình đẳng nam nữ, cấm phân biệt đối xử về giới (Điều 26); quyền của trẻ em đƣợc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục; nghiêm cấm hành hạ, ngƣợc đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động
  • 37. 30 của trẻ em (Điều 37); quyền lựa chọn nghề nghiệp, việc làm, nơi làm việc, đƣợc bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng an toàn, cấm phân biệt đối xử, cƣỡng bức lao động (Điều 35). - BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về tội phạm và hình phạt. Tội MBN (Điều 119); tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120), tội tổ chức, cƣỡng ép ngƣời khác trốn đi nƣớc ngoài hoặc ở lại nƣớc ngoài trái phép (Điều 275). - BLTTHS năm 2003 quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Đây là cơ sở pháp lý để điều tra, truy tố, xét xử phạm tội MBN. - Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định trình tự, thủ tục khởi kiện và giải quyết các vụ việc dân sự. Là cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động tố tụng dân sự trong các vụ việc MBN, đặc biệt trong việc đòi bồi thƣờng những thiệt hại về vật chất, tinh thần cho ngƣời bị hại. - Bộ luật Lao động năm 2012 điều chỉnh các quan hệ về lao động, việc làm. Là nền tảng để phòng ngừa và xử lý những vi phạm quyền con ngƣời trong quan hệ lao động, trong đó có những hành vi lao động cƣỡng bức, bóc lột sức lao động… mà thƣờng gắn với vấn đề MBN. - Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về các hình thức và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Đây là nền tảng cho các Nghị định về xử phạt những hành vi MBN, cƣỡng bức lao động, xuất cảnh, nhập cảnh trái phép, tổ chức, cƣỡng ép ngƣời khác trốn đi nƣớc ngoài... mà chƣa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 điều chỉnh những quan hệ hôn nhân và gia đình. Luật bao gồm các chƣơng riêng về kết hôn (chƣơng II), con nuôi (chƣơng III), quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài (chƣơng XI) là những chế định có ý nghĩa phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em.
  • 38. 31 - Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định các nguyên tắc và biện pháp bảo đảm bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Luật này góp phần làm giảm nguy cơ phụ nữ, trẻ em bị mua bán thông qua việc xoá bỏ phân biệt đối xử, tạo lập bình đẳng giới thực chất trong xã hội và gia đình. - Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định các nguyên tắc và biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân. Luật này cũng có tác dụng gián tiếp phòng ngừa tệ nạn MBN, vì bạo lực gia đình thƣờng đẩy các thành viên, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em vào những hoàn cảnh có nguy cơ cao bị mua bán. - Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định các quyền, bổn phận của trẻ em và trách nhiệm của gia đình, nhà nƣớc, xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Luật có một chƣơng riêng (chƣơng IV) quy định về việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, bao gồm trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xã gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm phạm tình dục; trẻ em nghiện ma túy; trẻ em vi phạm pháp luật. - Luật Ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng năm 2006 điều chỉnh các vấn đề liên quan đến việc đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài. Đạo luật này có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng chống những hành vi MBN thông qua việc xuất khẩu lao động. - Luật Trợ giúp pháp lý năm 2007 quy định về vấn đề hỗ trợ dịch vụ pháp lý miễn phí cho những nhóm yếu thế trong xã hội. Luật có ý nghĩa quan trọng với việc cung cấp hỗ trợ pháp lý cho nạn nhân bị mua bán. - Luật Tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007 quy định các nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tƣơng trợ tƣ pháp giữa Việt Nam với nƣớc
  • 39. 32 ngoài. Đạo luật này là cơ sở pháp lý để thực hiện hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia khác trong việc điều tra, truy tố, xét xử những hành vi MBN xuyên quốc gia và bảo vệ, hỗ trợ, hồi hƣơng nạn nhân bị mua bán. - Luật Quốc tịch năm 2008 điều chỉnh các quan hệ về quốc tịch. Luật này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ nạn nhân bị mua bán ra nƣớc ngoài. - Luật Bảo vệ biên giới quốc gia năm 2003 quy định về việc quản lý biên giới quốc gia (cả trên bộ và trên biển). Đây là cơ sở pháp lý để ngăn ngừa việc MBN ra nƣớc ngoài và để tiếp nhận, bảo vệ, hỗ trợ, hồi hƣơng các nạn nhân bị mua bán. - Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003 quy định những nguyên tắc và biện pháp phòng, chống mại dâm. Luật cũng góp phần vào việc PCMBN, vì trong thực tế, mại dâm thƣờng đi liền với MBN vì mục đích bóc lột tình dục. Kèm theo những luật và pháp lệnh nêu trên là các văn bản dƣới luật (Nghị định, Thông tƣ, Thông tƣ liên tịch, Quyết định..) để cụ thể hóa. Danh mục các văn bản pháp luật hiện hành quan trọng của Việt Nam liên quan đến PCMBN đƣợc nêu ở danh mục tài liệu tham khảo. Nhằm thực hiện các văn bản pháp luật nêu trên, từ 2004 đến nay, Chính phủ đã xây dựng và thực hiện hai Chƣơng trình Hành động quốc gia, bao gồm: - Chƣơng trình hành động quốc gia phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2004-2010 (hiện đã kết thúc), gồm 4 đề án: Tuyên truyền, giáo dục trong cộng đồng về phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em; Đấu tranh chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em; Tiếp nhận và hỗ trợ những phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về; Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em [27].
  • 40. 33 - Chƣơng trình hành động quốc gia phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011-2015 (hiện đang thực hiện), gồm 5 đề án: Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức và kỹ năng phòng, chống tội phạm MBN trong toàn xã hội; Nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm MBN; Tiếp nhận, xác minh, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về; Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật về PCMBN; Tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong PCMBN [30]. 1.3.2. Các điều ƣớc quốc tế Việt Nam đã tham gia, ký kết nhiều điều ƣớc và thỏa thuận quốc tế đa phƣơng, khu vực và song phƣơng liên quan đến phòng, chống BBN, trong đó bao gồm Công ƣớc của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (TOC) cùng Nghị định thƣ bổ sung Công ƣớc này về trừng trị tội BBN, đặc biệt là buôn bán phụ nữ và trẻ em (Nghị định thƣ Palermo, 2000). Việt Nam cũng đã tham gia Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp trong các vụ việc hình sự giữa các quốc gia ASEAN năm 2004, và ký 23 hiệp định song phƣơng trong lĩnh vực tƣ pháp với các nƣớc (tính đến hết tháng 10/2013) trong đó có 15 hiệp định đƣợc ký trong giai đoạn 1980-2007, số còn lại (8 hiệp định) mới đƣợc ký từ sau khi Luật Tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007 đƣợc ban hành trở lại đây. Đặc biệt, Việt Nam đã ký kết một số thỏa thuận hợp tác về phòng, chống BBN với các nƣớc trong khu vực, bao gồm Trung Quốc, Campuchia, CHDCND Lào và Thái Lan. Danh mục các điều ƣớc và thỏa thuận quốc tế đa phƣơng, khu vực và song phƣơng liên quan đến phòng, chống BBN mà Việt Nam đã tham gia đƣợc nêu ở Danh mục tài liệu tham khảo. 1.3.3. Luật phòng, chống mua bán ngƣời Luật PCMBN đƣợc Quốc Hội thông qua ngày 29/3/2011, có hiệu lực từ 01/01/2012. Đây là đạo luật chuyên ngành đầu tiên về lĩnh vực này, hiện là
  • 41. 34 xƣơng sống của hệ thống pháp luật về PCMBN của Việt Nam. Việc ban hành đạo luật này đƣợc coi là một bƣớc chuẩn bị để Việt Nam xem xét phê chuẩn Công ƣớc TOC và Nghị định thƣ Palermo - hai điều ƣớc quốc tế hiện hành quan trọng nhất về phòng, chống BBN. Luật PCMBN bao gồm 8 chƣơng, 58 Điều với những quy định sau đây; Chƣơng I: Những quy định chung gồm 6 điều, từ Điều 1 đến Điều 6. Chƣơng II: Phòng, ngừa MBN gồm 12 điều, từ Điều 7 Điều 18. Chƣơng III: Phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về PCMBN gồm 5 điều, từ Điều19 đến Điều 23. Chƣơng IV: Tiếp nhận, xác minh, bảo vệ nạn nhân gồm 8 điều, từ Điều 24 đến Điều 31. Chƣơng V: Hỗ trợ nạn nhân gồm 9 điều, từ Điều 32 đến Điều 40. Chƣơng IV: Trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ và địa phƣơng trong PCMBN gồm 12 điều, từ Điều 41 đến Điều 52. Chƣơng VII: Hợp tác quốc tế trong PCMBN gồm 4 điều, từ Điều 53 đến Điều 56. Chƣơng VIII: Điều khoản thi hành gồm 2 điều, từ Điều 67 đến Điều 58 [65]. Tiểu kết chƣơng 1 Trên cơ sở phân tích các khái niệm “buôn bán ngƣời” và „mua bán ngƣời‟, „buôn bán/mua bán phụ nữ, trẻ em” trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Luận văn đã giới thiệu định nghĩa và chỉ ra các yếu tố cấu thành hành vi MBN. Bên cạnh đó, luận văn còn phân tích một số khái niệm khác có liên quan, làm rõ ý nghĩa của việc PCMBN, các đặc điểm, nội dung và các yêu cầu của pháp luật PCMBN. Trong chƣơng này, luận văn cũng mô tả khái quát khung pháp luật quốc tế và khung pháp luật Việt Nam về PCMBN làm cơ sở để nghiên cứu thực trạng thực thi các quy định này ở tỉnh Thanh Hóa trong chƣơng 2.
  • 42. 35 Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA 2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA CỦA TỈNH THANH HÓA ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG. CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên Thanh Hóa nằm ở phía Bắc Miền Trung, cách thủ đô Hà Nội 150km về phía Nam, cách thành phố Hồ Chí Minh 1560km về phía Bắc. Phía Bắc giáp với 3 tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (Cộng Hoà dân chủ nhân dân Lào), phía Đông là Vịnh Bắc Bộ. Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hƣởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế Trung Bộ. Có hệ thống giao thông thuận lợi nhƣ: đƣờng sắt xuyên Việt, đƣờng Hồ Chí Minh, các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217; Cảng hàng không Thọ Xuân; Cảng biển nƣớc sâu Nghi Sơn và hệ thống sông ngòi thuận tiện cho lƣu thông Bắc Nam. Thanh Hóa có diện tích tự nhiên 11.116,34km vuông, chiếm 3,25 % tổng diện tích tự nhiên của cả nƣớc. Địa hình Thanh Hoá rất phức tạp, thấp dần từ phía Tây sang phía Đông, vùng miền núi, trung du chiếm phần lớn diện tích của tỉnh. Đồng bằng Thanh Hoá lớn nhất khu vực miền Trung và lớn thứ 3 của cả nƣớc, có đầy đủ tính chất của một đồng bằng châu thổ, do phù sa các hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Hoạt bồi đắp. Vùng ven biển với bờ biển dài, bằng phẳng, có những vùng đất rộng lớn thuận lợi cho việc phát triển kinh tế biển nhƣ Nga Sơn, Sầm Sơn, Nghi Sơn. Thanh Hoá là một tỉnh chịu ảnh hƣởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa.
  • 43. 36 Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 23o C đến 22o C. Lƣợng mƣa trung bình hàng năm khoảng 1600 đến 2300mm. Độ ẩm tƣơng đối trung bình cả năm ở vùng biển và đồng bằng từ 85% đến 87%, ở miền núi từ 85% đến 90%. Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hƣởng của bão lụt, chịu ảnh hƣởng nhiều của gió lào khắc nghiệt, có các địa phƣơng thuộc miền núi, do đó đã ảnh hƣởng không nhỏ tới hiệu quả thực hiện pháp luật và tình trạng vi phạm pháp luật nói chung, pháp luật về PCMBN nói riêng của tỉnh Thanh Hoá [41. tr.1]. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội và văn hóa * Đặc điểm kinh tế - xã hội Thanh Hoá có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 2 thị xã và 24 huyện. Thanh Hoá có 637 đơn vị hành chính cấp xã. Theo kết quả điều tra dân số năm 2013 Thanh Hoá có 3,62 triệu ngƣời, đứng thứ 3 trong cả nƣớc chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Có 7 dân tộc chủ yếu: Kinh, Mƣờng, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Dân cƣ phân bố không đều giữa các vùng miền. Hơn 20 năm đổi mới, kinh tế Thanh Hoá đã từng bƣớc ổn định và đang trên đà phát triển. Từ năm 2006 trở lại đây, tăng trƣởng kinh tế bình quân hàng năm ƣớc đạt 11,3%, cao hơn giai đoạn 2001-2005. Tổng GDP theo giá so sánh năm 2010 gấp 1,7 lần năm 2005. GDP bình quân đầu ngƣời năm 2010 ƣớc đạt 810 USD, vƣợt mục tiêu kế hoạch. Tỷ trọng tổng sản phẩm nông, lâm nghiệp và thuỷ sản phát triển tƣơng đối ổn định, giá trị gia tăng bình quân hàng năm tăng 2,6%. Năng suất các loại cây trồng chủ yếu đều tăng. Từ năm 2006, sản lƣợng lƣơng thực hàng năm luôn đạt trên 1,5 triệu tấn. Chăn nuôi phát triển theo mô hình trang trại, gia trại, trồng rừng vƣợt mục tiêu kế hoạch, tỷ lệ che phủ rừng năm 2010 ƣớc đạt 48,8%. Thủy sản phát triển toàn diện cả đánh bắt, nuôi trồng và chế biến, sản lƣợng thủy sản năm 2010 tăng 1,4 lần so với năm 2005; công nghiệp và xây dựng luôn duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng
  • 44. 37 cao, giá trị gia tăng bình quân hàng năm tăng 16%. Năm 2010, giá trị sản xuất công nghiệp gấp 2,1 lần so với năm 2005. Các sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh có mức tăng trƣởng khá, đã thu hút đƣợc một số dự án công nghiệp lớn, một số ngành nghề truyền thống, nghề mới đƣợc khôi phục và phát triển. Ngành xây dựng có bƣớc phát triển nhanh, đóng góp quan trọng cho tăng trƣởng, giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2010 gấp 3,1 lần so với năm 2005; dịch vụ phát triển đa dạng, có chuyển biến tích cực cả về quy mô, cơ cấu và chất lƣợng, giá trị tăng thêm bình quân hàng năm tăng 12,3%, đạt mục tiêu kế hoạch. Thƣơng mại phát triển theo hƣớng ngày càng văn minh, thuận tiện. Giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ năm 2010 ƣớc đạt 377 triệu USD, vƣợt mục tiêu đề ra [44, tr.14, 15]. Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010-2015, tốc độ trăng trƣởng bình quân 4 năm 2011 - 2014 ƣớc đạt 11,3%. Năm 2014 quy mô kinh tế ƣớc đạt 31.210 tỷ đồng, gấp 1,54 lần năm 2010, GDP bình quân đầu ngƣời ƣớc đạt 1.320 USD đứng thứ 7 cả nƣớc, đứng đầu khu vực Bắc Trung bộ. Cơ cấu kinh tế năm 2014 dự ƣớc tỷ trọng nông lâm thủy sản 18,4%, công nghiệp - xây dựng 42%, dịch vụ 39,6%. Sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản từng bƣớc phát triển theo hƣớng sản xuất hàng hóa tập trung, tăng trƣởng bình quân ƣớc đạt 3,8%, vƣợt mục tiêu đề ra; Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trƣởng khá, giá trị sản xuất bình quân hàng năm đạt 13,8%; Chỉ số hội nhập kinh tế quốc tế đứng thứ 6 cả nƣớc; Các ngành dịch vụ phát triển nhanh cả về quy mô và loại hình dịch vụ. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ năm 2014 ƣớc đạt 18.180 tỷ đồng, bình quân hàng năm tăng trƣởng 12,7%. Kim ngạch xuất khẩu năm 2014 ƣớc đạt 1 tỷ USD, gấp 2,7 lần năm 2010; Dịch vụ vận tải hàng không hoạt động có hiệu quả. Thu ngân sách nhà nƣớc đạt kết quả khá, năm 2014 ƣớc đạt 7.000 tỷ đồng, gấp 2 lần năm 2010; tỷ lệ huy động GDP
  • 45. 38 vào ngân sách bình quân 5,8%. Chi ngân sách địa phƣơng cơ bản đáp ứng kịp thời nhiệm vụ [10, tr.1,2] Thanh Hóa có nguồn lao động khá dồi dào nhƣng trình độ chuyên môn kỹ thuật của ngƣời lao động nhìn chung còn thấp; thiếu các nhà khoa học, quản lý giỏi, thiếu các chuyên gia đầu ngành kinh tế, kỹ thuật, đặc biệt là trong các ngành công nghệ mới và quản lý kinh tế. Điều này lý giải Thanh Hóa là một trong những tỉnh có nhiều lao động phổ thông đi tìm việc làm ở ngoại tỉnh, dẫn đến công việc đồng áng và gia đình hầu hết để lại cho phụ nữ và trẻ em gái; bên cạnh đó có một số gia đình chồng ở lại quê nhà, vợ đi làm ăn xa nhà. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều hệ lụy đối với hạnh phúc của nhiều gia đình, tác động không nhỏ đến các hành vi vi phạm pháp luật về PCMBN. * Đặc điểm về giáo dục, văn hóa và y tế Thanh Hóa là một tỉnh nổi tiếng có truyền thống hiếu học từ xƣa, là quê hƣơng của nhiều nho sĩ. Trong thời kì phong kiến, Thanh Hóa có 02 trạng nguyên, hàng ngàn tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa. Nền giáo dục hiện tại của Thanh Hóa cũng luôn đƣợc xem là cái nôi nhân tài của Việt Nam. Năm 2013, trong kỳ thi tuyển sinh cao đẳng và đại học, Thanh Hóa có nhiều thủ khoa nhất nƣớc. Trên địa bàn Thanh Hóa đến nay có 03 trƣờng đại học đào tạo đa ngành là Đại học Hồng Đức, Đại học văn hóa, thể thao, du lịch và một cơ sở của Trƣờng Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, 01 trƣờng dự bị đại học, 01 phân hiệu Đại học y Hà Nội, 05 trƣờng cao đẳng, nhiều trƣờng trung cấp, 125 trƣờng THPT và 27 trung tâm giáo dục thƣờng xuyên. Nhiều năm liên tục, Thanh Hóa dẫn đầu toàn quốc về phát triển toàn diện về quy mô và chất lƣợng đào tạo. Giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề phát triển, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 27% năm 2005 lên 40% năm 2010, vƣợt mục tiêu kế hoạch. Xã hội hóa lĩnh vực giáo dục đào tạo đạt kết quả
  • 46. 39 bƣớc đầu. Phong trào khuyến học, khuyến tài đƣợc đẩy mạnh. Hầu hết các xã phƣờng, thị trấn đã có trung tâm học tập cộng đồng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập thƣờng xuyên của nhân dân. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân có chuyển biến tích cực. Cơ sở vật chất, trang thiết bị các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện đƣợc tăng cƣờng. Công tác phòng, chống dịch bệnh đạt kết quả, không xảy ra dịch lớn. Xã hội hóa lĩnh vực y tế đạt kết quả khá. Các chỉ tiêu về sức khỏe dân số Kế hoạch hóa gia đình và sức khỏe sinh sản không ngừng đƣợc cải thiện, đạt mục tiêu đề ra [10, tr.3]. Hoạt động văn hoá, thông tin phát triển đa dạng, góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Nhiều di tích quan trọng đã và đang đƣợc trùng tu, tôn tạo. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục đƣợc thực hiện. Hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình đƣợc đổi mới về nội dung, tăng thời lƣợng và mở rộng phạm vi phát sóng đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đến năm 2013, tỷ lệ dân số đƣợc phủ sóng phát thanh ƣớc đạt 100%, tăng 2%; tỷ lệ dân số đƣợc phủ sóng truyền hình ƣớc đạt 95% tăng 10,5% so với năm 2010 [10, tr. 3]. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật luôn đƣợc chú trọng, kỷ cƣơng pháp luật đƣợc giữ vững, ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân trong toàn tỉnh đƣợc nâng lên, các hành vi vi phạm pháp luật đƣợc xử lý nghiêm minh. Công tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên toàn địa bàn tỉnh ổn định. Tóm lại, mức sống của nhân dân tỉnh Thanh Hóa hiện nay đã đƣợc cải thiện đáng kể, trình độ dân trí của nhân dân đƣợc nâng lên một cách rõ rệt. Đặc biệt, quan tâm đến công tác PCMBN và việc tổ chức thực hiện pháp luật về PCMBN đã đƣợc cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ủy Đảng và chính quyền quan tâm thực hiện.
  • 47. 40 Tuy nhiên, một số chỉ tiêu bình quân đầu ngƣời của tỉnh còn thấp so với trung bình cả nƣớc. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động còn chậm. Quy mô sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ nhìn chung còn nhỏ, trình độ thấp, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất chƣa cao. Kinh tế rừng, kinh tế biển phát triển chƣa tƣơng xứng với tiềm năng. Môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh chƣa thực sự thông thoáng, hấp dẫn, triển khai thực hiện các dự án đầu tƣ thƣờng chậm tiến độ, hiệu quả chƣa cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thiếu và yếu kém, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển. Tốc độ đô thị hóa chậm. Công tác giáo dục, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nƣớc, chất lƣợng giáo dục toàn diện chƣa cao, trình độ dân trí ở một số địa phƣơng miền núi còn thấp. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn thấp, còn khó khăn, an ninh trật tự, tệ nạn xã hội có nơi còn diễn biến phức tạp. Nhiều vấn đề xã hội phát sinh trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá chƣa giải quyết có hiệu quả nhƣ việc làm cho ngƣời lao động tại chỗ, vấn đề nhà ở cho công chức, viên chức, công nhân và ngƣời thu nhập thấp. Bên cạnh đó, Thanh Hóa cũng gặp những khó khăn khác nhƣ tình trạng phát triển không đều giữa các vùng, địa phƣơng, điều kiện địa lý, giao thông khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, nguồn nhân lực còn yếu; ngƣời dân phải xa quê đi khắp nơi để tìm kiếm việc làm. Điều đáng quan tâm là tình trạng MBN vẫn còn xảy ra mặc dù Đảng bộ và các cấp chính quyền địa phƣơng rất quan tâm và quyết tâm xóa bỏ tệ nạn MBN trên địa bàn tỉnh. Thực trạng này cần đƣợc quan tâm nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm đấu tranh, phòng ngừa có hiệu quả những hành vi MBN, nhằm bảo vệ quyền con ngƣời trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa tỉnh Thanh Hóa.
  • 48. 41 2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA 2.2.1. Tình hình có liên quan đến hoạt động mua bán ngƣời và công tác triển khai thực hiện 2.2.1.1. Tình hình có liên quan đến hoạt động buôn bán người Trên cơ sở đánh giá đặc điểm tự nhiên; kinh tế, xã hội, văn hóa của tỉnh Thanh Hóa đƣợc xác định Thanh Hóa là một tỉnh có diện tích rộng, dân cƣ đông, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và nhận thức của quần chúng nhân dân chƣa đồng đều, một số xã kinh tế còn nghèo, có một số phụ nữ đi làm ăn và lấy chồng sinh sống tại Trung Quốc, Ma-lai-xia, Lào, Thái Lan... hàng năm số ngƣời này trở về địa phƣơng buôn bán, thăm thân có dấu hiệu câu kết, móc nối với một số đối tƣợng khác để dụ dỗ, lừa gạt phụ nữ, trẻ em bán sang Trung Quốc để làm vợ, bóc lột tình dục và sức lao động. Nạn nhân bị buôn bán thƣờng là các phụ nữ và trẻ em ở vùng nông thôn, miền núi, miền biển có hoàn cảnh gia đình kinh tế khó khăn, trình độ học thức thấp, ăn chơi đua đòi không chịu lao động hoặc số phụ nữ lỡ lứa khó lấy chồng, không có công ăn việc làm, nhẹ dạ cả tin. Đối tƣợng chủ mƣu trong các vụ án phần lớn là phụ nữ, tập trung nhiều là phụ nữ trƣớc kia là bị hại. Số đối tƣợng này thƣờng xuyên qua lại biên giới thông thạo địa bàn, có quan hệ với ngƣời Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Ma-lai-xia... Do lợi nhuận kinh tế cao đã móc nối với một số đối tƣợng là ngƣời nƣớc ngoài để tổ chức đƣờng dây và tìm cách dụ dỗ, lừa gạt đƣa những ngƣời Việt Nam bán sang Trung Quốc và một số quốc gia khác [39, tr.1]. Về phƣơng thức và thủ đoạn phạm tội: - Thủ đoạn các đối tƣợng phạm tội là tiếp cận phụ nữ, trẻ em ở các vùng nông thôn, miền núi, đời sống kinh tế khó khăn, hoàn cảnh éo le, hạnh phúc gia đình rạn nứt, nhẹ dạ cả tin hoặc thông qua gia đình, ngƣời quen để
  • 49. 42 tiếp cận, hứa hẹn tìm việc làm có thu nhập cao hoặc lấy chồng ngoại quốc giàu sang, tán tỉnh yêu đƣơng lừa, rủ đi chơi, đi du lịch ở các tỉnh biên giới sau đó lừa bán; - Lợi dụng sự giao lƣu, mở cửa qua biên giới Việt Nam với các nƣớc Trung Quốc, Lào, Ma-lai-xia, Thái Lan... tạo điều kiện cho nhân dân các nƣớc trao đổi mua bán để phát triển kinh tế - xã hội, bọn chúng đã đƣa phụ nữ, trẻ em qua biên giới với nhiều lý do: Mua bán, thăm thân, thăm quan du lịch, chữa bệnh, xuất khẩu lao động. Ngoài ra bọn chúng thƣờng tìm đến các đƣờng dây tiểu ngạch qua biên giới đi lại dễ dàng, bí mật để lập các điểm dừng chân trao đổi “hàng” rồi chờ cơ hội thuận lợi để vƣợt biên; - Tội phạm MBN hoạt động có tổ chức, có sự câu kết móc nối giữa các đối tƣợng tiền án, tiền sự, các đối tƣợng là chủ chứa, môi giới mại dâm, một số đối tƣợng là ngƣời Việt Nam ở Trung quốc, Lào, Ma-lai-xia, Thái lan... để hình thành các đƣờng dây mua bán, có sự phân công vai trò của các đối tƣợng trong các khâu tìm ngƣời, tuyển chọn làm các thủ tục vận chuyển đƣa ngƣời sang nƣớc ngoài bán [39, tr. 2]. Một số vụ án điển hình về phƣơng thức và thủ đoạn tội phạm thực hiện nhƣ sau: Vụ thứ nhất: Tháng 12/2011, Bùi Xuân Giang sinh năm 1976, Nguyễn Thị Vinh sinh năm 1974 cùng ở xã Bình Sơn, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa đã lừa 2 phụ nữ ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đem bán cho Quách Thị Huyền ở xã Ngọc Phụng, huyện Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hóa lấy chồng ở Quảng Đông- Trung Quốc (đang sống tại Trung Quốc) với giá 15 triệu đồng một ngƣời với thủ đoạn rủ rê sang Trung Quốc để giúp việc gia đình có thu nhập cao. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam bắt giữ đối tƣợng. Tại cơ quan điều tra tiếp tục đấu tranh mở rộng vụ án, các đối tƣợng còn khai nhận thêm vào ngày 16/02/2012
  • 50. 43 các đối tƣợng đã đến xã Cán Khê và xã Xuân Thọ, huyện Nhƣ Thanh, Thanh Hóa lừa đƣợc 2 cháu Bùi Thị Thảo, sinh năm 1998 và cháu Vi Thị Ba, sinh năm 1995 đi xin việc làm ở Hà Nội, rồi bán 2 cháu sang biên giới Trung Quốc. Vụ thứ hai: Tháng 4/2013 chị Lê Thị Dung, sinh năm 1986, quê ở xã Quảng Hợp, huyện Quảng Xƣơng, Thanh Hóa làm nghề cắt tóc. Qua giới thiệu Nguyễn Ngọc Trình ở Thành phố Thanh Hóa gọi điện đến làm quen, sau đó Trình thƣờng xuyên rủ Dung đi chơi, ăn uống, hát Karaoke và thuê khách sạn, nhà nghỉ để ngủ và quan hệ tình dục. Trình rủ Dung sang Trung Quốc làm ăn với mức lƣơng từ 15 đến 20 triệu đồng/tháng và Dung đồng ý. Đến ngày 31/5/2013 Trình đƣa Dung sang Trung Quốc, Trình đánh Dung gẫy xƣơng sƣờn, bắt lao động nặng và bán dâm. Nhận đƣợc tin báo của gia đình, ngày 07/8/2013 Phòng PC 14 Công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với gia đình chị Dung giải cứu chị về đoàn tụ với gia đình [39, tr.6]. Qua hai vụ án điển hình nêu trên có thể thấy hành vi tội phạm MBN khác với các loại tội phạm trong nhóm tội xâm phạm về tính mạng sức khỏe, danh dự nhân phẩm của con ngƣời đƣợc quy định trong Chƣơng XII BLHS đó là các đối tƣợng lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của nạn nhân là phụ nữ, trẻ em gái rủ đi làm ăn xa có thu nhập cao rồi lừa bán cho ngƣời khác lấy tiền, nạn nhân bán sang tay ngƣời khác thì bị bóc lột sức lao động hoặc phải bán dâm. 2.2.1.2. Công tác triển khai thực hiện Để thực hiện tốt Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện nay, trong những năm qua Ban chỉ đạo 138 về phòng chống tội phạm MBN của tỉnh đã chỉ đạo triển khai thực hiện các tốt nhiệm vụ sau đây: Một là, tiếp tục thực hiện Chƣơng trình hành động PCMBN các giai đoạn 2004-2010; 2011-2015 của Chính phủ, hàng năm Ban chỉ đạo 138 về
  • 51. 44 phòng, chống tội phạm MBN tỉnh Thanh Hóa đã ban hành nhiều kế hoạch nhằm đồng bộ triển khai thực hiện việc PCMBN nhƣ: kế hoạch triển khai thực hiện chƣơng trình PCMBN, kế hoạch thực hiện chƣơng trình phòng, chống mại dâm, AIDS... Hai là, các sở, ban, ngành trong tỉnh tích cực chủ động tham mƣu cho UBND tỉnh và chỉ đạo quyết liệt các ngành, các cấp triển khai thực hiện nghiêm túc Công văn số 245-CV/TƢ ngày 11/6/2009 của Ban chấp hành Trung ƣơng về tăng cƣờng công tác chỉ đạo, quản lý hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài, phòng chống tội phạm MBN. Trọng tâm thực hiện 5 Đề án của Chƣơng trình 130/CP theo Quyết định số 1427/QĐ-TTg ngày 18/8/2011 của Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011 - 2015 đến tận cơ sở, bao gồm các Đề án: Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức và kỹ năng phòng, chống tội phạm MBN; Nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm MBN; Tiếp nhận, xác minh, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về; Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật về PCMBN; Tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong PCMBN [5, tr. 9]. Ba là, xây dựng và triển khai thực hiện các Kế hoạch của Ban chỉ đạo về thực hiện chƣơng trình PCMBN, các kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật trong năm trong đó tập trung tuyên truyền công tác phòng, chống tệ nạn xã hội, phòng chống tội phạm. Bốn là, tiếp tục thực hiện các Kế hoạch của Chính phủ, Bộ công an, Bộ quốc phòng, Bộ lao động thƣơng binh xã hội, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, UBND tỉnh và Kế hoạch của các sở ban ngành liên quan trong tỉnh về thực hiện chƣơng trình phòng, chống tội phạm MBN. Cụ thể trong năm 2013, ngay sau khi tiếp nhận Kế hoạch số 114/KH-BCĐ- C41 ngày 08/5/2013 của Ban chỉ đạo 138 Trung ƣơng về “Tổng điều tra, rà
  • 52. 45 soát tình hình hoạt động tội phạm MBN và các đối tƣợng khác có liên quan giai đoạn 2008 - 2013” Ban chỉ đạo 138 tỉnh ban hành Kế hoạch số 76/KH- BCĐ triển khai đến các ban ngành có liên quan cùng thực hiện tổng điều tra, rà soát tình hình hoạt động tội phạm MBN và các đối tƣợng khác có liên quan giai đoạn 2008 - 2013. Đến tháng 8 năm 2013 tất cả các đơn vị đều đã triển khai thực hiện nghiêm túc và đã có kết của khảo sát đầy đủ. Năm là, đẩy mạnh thực hiện Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN giao đoạn 2011 - 2015; Kế hoạch thực hiện Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN tại khu vực biên giới tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 - 2015; Kế hoạch tuyên truyền phòng, chống tội phạm MBN; Kế hoạch tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về; Kế hoạch triển khai hoạt động tập huấn truyền thông thay đổi hành vi về PCMBN cho đội ngũ tuyên truyền viên của một số đơn vị có nguy cơ cao phụ nữ, trẻ em bị mua bán. Sáu là, tập trung lực lƣợng, biện pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm trên địa bàn tỉnh...trong đó đều xác định tội phạm MBN là loại tội phạm cần tập trung để đấu tranh xử lý. Bảy là, tăng cƣờng chấn chỉnh, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lƣợng cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm nói chung, tội phạm MBN nói riêng. Đáng chú ý đã làm tốt công tác quản lý các loại đối tƣợng, nhất là ở một số địa bàn, tuyến trọng điểm, nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, đấu tranh với tội phạm này góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Tám là, tổ chức tập huấn cho hơn 2000 cán bộ các ngành Lao động - thƣơng binh và xã hội, Mặt trận Tổ quốc, Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên, lãnh đạo các xã thuộc 27 huyện, thị, thành phố tập huấn nội dung về pháp luật, chính sách và những kiến thức cơ bản về PCMBN, bảo vệ nạn
  • 53. 46 nhân, công tác hỗ trợ và tiếp nhận nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về. Mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể: - Đến hết năm 2013 đạt 85% và năm 2015 đạt 100% các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tội phạm MBN đƣợc chuyển tải thành tài liệu tuyên truyền tới xã, phƣờng, thị trấn. - Đến năm 2013 đạt 75% và năm 2015 đạt 100% số cán bộ cấp xã chuyên trách có kiến thức chỉ đạo, hƣớng dẫn về chính sách pháp luật phòng, chống tội phạm MBN. - Đến năm 2013 ở cấp tỉnh có ít nhất 10 báo cáo viên, mỗi xã, phƣờng, thị trấn có ít nhất 10 tuyên truyền viên - Đến năm 2013 đạt 70% và năm 2015 đạt 85% ngƣời dân có hiểu biết về phƣơng thức, thủ đoạn, hậu quả và cách thức phòng, chống tội phạm MBN cũng nhƣ chính sách pháp luật có liên quan. - 100% các tuyến, địa bàn trọng điểm về MBN đƣợc áp dụng các biên pháp nghiệp vụ để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn; 100% phóng viên các cơ quan truyền thông đại chúng từ tỉnh đến cơ sở theo dõi công tác nội chính có kiến thức, kỹ năng viết và đƣa tin về PCMBN. - Hàng năm, 100% thông tin liên quan đến tội phạm MBN chuyển đến cơ quan có thẩm quyền đƣợc phân loại và 100% trƣờng hợp có dấu hiệu tội phạm đƣợc xác định làm rõ theo luật định; 100% các trƣờng hợp tiếp nhận phải đƣợc tiến hành các thủ tục để xác minh, xác nhận nạn nhân theo quy định của pháp luật. - Tỷ lệ phát hiện, điều tra, truy tố các vụ án MBN mỗi năm tăng ít nhất 2%; tỷ lệ xét xử vụ án MBN đạt 95% trên tổng số vụ án phải đƣa ra xét xử; 100% bản án tuyên phạm tội MBN có hiệu lực bảo đảm nghiêm minh và không oan sai.
  • 54. 47 - Đến năm 2015 các địa bàn trọng điểm đảm bảo cơ sở vật chất cho việc tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân theo quy định của pháp luật; 100% các trƣờng hợp sau khi xác định là nạn nhân đƣợc hỗ trợ chế độ theo quy định; 100% nạn nhân có nhu cầu đƣợc cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí của nhà nƣớc [7, tr.1, 2]. 2.2.2. Kết quả đạt đƣợc 2.2.2.1. Công tác tuyên truyền phòng, chống mua bán người Tổng kết 5 năm công tác khảo sát tình hình hoạt động phòng, chống tội phạm MBN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nhận thấy hoạt động tuyên truyền PCMBN trên địa bàn tỉnh đƣợc thực hiện sâu rộng bằng nhiều biện pháp, nội dung và hình thức phù hợp với từng địa bàn, nhất là các địa bàn trọng điểm: - Đối với Sở tƣ pháp: Thực hiện Kế hoạch của tiểu Ban chỉ đạo 130/CP tỉnh về việc triển khai thực hiện chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN, Sở tƣ pháp xác định nhiệm vụ quan trọng là phải thực hiện tốt việc phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tội phạm MBN nhƣ: BLHS, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật PCMBN, Luật Nuôi con nuôi, Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Lý lịch tƣ pháp, Luật Bình đẳng giới, Luật Ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP, Nghị định số 24/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài… và các văn bản pháp luật về lĩnh vực du lịch, xuất khẩu lao động, xuất cảnh, nhập cảnh và các văn bản liên quan đến quyền tự do, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ và trẻ em. Bên cạnh việc tuyên truyền các văn bản pháp luật trên, Sở tƣ pháp còn chú trọng tuyên truyền các Công ƣớc quốc tế, Hiệp định song phƣơng mà Việt Nam là thành viên hoặc tham gia ký kết nhƣ: Công ƣớc quốc tế về chống mọi
  • 55. 48 hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (Công ƣớc CEDAW), Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em; Hiệp định giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nƣớc CHND Trung Hoa về tăng cƣờng hợp tác PCMBN; đồng thời cung cấp các thông tin về tác hại, thủ đoạn, nguyên nhân và tình hình công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm MBN. Việc PBGDPL về phòng chống tội phạm MBN đƣợc tổ chức bằng các hình thức nhƣ: tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL ở cơ sở và hội nghị tuyên truyền về phòng, chống MBN cho nhân dân cơ sở; thông qua chuyên mục “trả lời bạn nghe đài”, “trả lời bạn xem truyền hình” trên sóng phát thanh - truyền hình tỉnh, chuyên mục “thông tin pháp luật” trên Báo Thanh Hóa, Website của Sở Tƣ pháp; Biên soạn và phát hành đĩa CD, đề cƣơng tuyên truyền có nội dung PCMBN để cấp phát cho các đơn vị làm tài liệu tuyên truyền; chỉ đạo đƣa công tác tuyên truyền phòng, chống tội phạm MBN thông qua hoạt động của các Câu lạc bộ do Sở Tƣ pháp thành lập; Trang bị bổ sung các đầu sách pháp luật mới có liên quan đến công tác PCMBN phát cho Tủ sách pháp luật xã, phƣờng, thị trấn. Đối với công tác góp ý, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến PCMBN; Kịp thời góp ý, thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Trung ƣơng và địa phƣơng liên quan đến lĩnh vực PCMBN, đảm bảo các văn bản sau khi ban hành đƣợc đồng bộ, thống nhất và khả thi; Giúp UBND tỉnh tự kiểm tra và kiểm tra theo thẩm quyền, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tội phạm MBN nhằm kịp thời phát hiện những văn bản trái luật, hết hiệu lực, mâu thuẫn, chồng chéo để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý. Bên cạnh đó công tác tuyên truyền PCMBN đƣợc Sở tƣ pháp thực hiện thông qua một số hoạt động nhƣ: + Biên soạn và phát hành gần 100.000 tờ gấp pháp luật, hơn 100.000
  • 56. 49 cuốn tài liệu hỏi đáp pháp luật cấp cho cán bộ, nhân dân các xã miền biển, đồng bào dân tộc miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số; tờ gấp, tài liệu pháp luật cấp phát có nhiều nội dung thiết thực liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là các nội dung về phòng, chống tội phạm MBN. Qua đó, đã góp phần tích cực tuyên truyền cho các tầng lớp nhân dân các quy định của pháp luật về phòng, chống tội phạm MBN; + Trung tâm trợ giúp pháp lý - Sở Tƣ pháp đã tổ chức trăm đợt trợ lý lƣu động tại tất cả các huyện trên địa bàn tỉnh, thực hiện 3.765 vụ việc và thu hút sự tham gia của 9.452 lƣợt ngƣời. Đây là hoạt động không chỉ có ý nghĩa tuyên truyền đến các cơ sở mà còn góp phần giải quyết đƣợc những vƣớng mắc cho ngƣời dân cũng nhƣ cán bộ công chức cấp cơ sở, góp phần không nhỏ trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm MBN. - Sở lao động - Thƣơng binh và xã hội tiến hành cấp phát trên 100 tạp chí tuyên truyền phòng, chống tệ nạn xã hội, PCMBN, thƣờng xuyên tổ chức lớp tập huấn năng lực cho 175 tình nguyện viên Đội hoạt động xã hội tình nguyện và gần 1.000 cộng tác viên là lãnh đạo các xã, cán bộ các ban ngành đoàn thể liên quan nhƣ: Hội phụ nữ, đoàn thanh niên, trƣởng phố, thôn, bản...về công tác tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về tái hòa nhập cộng đồng tại các xã trọng điểm thuộc các huyện Hậu Lộc, Nông Cống, Nga Sơn, Thiệu Hóa, Yên Định, Quan Hóa. - Hội phụ nữ thƣờng xuyên chủ động nắm bắt tình hình, diễn biến tƣ tƣởng của các tầng lớp, các vấn đề xã hội nảy sinh liên quan trực tiếp đến phụ nữ và trẻ em gái để có giải pháp hỗ trợ xử lý; chủ động nắm bắt tình hình phụ nữ đi làm ăn xa, phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài, phụ nữ bị buôn bán trong nƣớc và nƣớc ngoài để tham mƣu cho cấp ủy, chính quyền các cấp có giải pháp tuyên truyền, giáo dục cộng đồng nâng cao nhận thức về PCMBN, cụ thể:
  • 57. 50 + Tổ chức tập huấn pháp luật về PCMBN, phòng, chống ma túy, mại dâm... cho gần 2.000 cán bộ, hội viên phụ nữ tham gia; tƣ vấn tại gia đình cho 1.200 phụ nữ đi làm ăn xa và có nguy cơ bị buôn bán về PCMBN; Tuyên truyền chỉ thị 03/TTg ngày 25/2/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ về tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc đối với quan hệ hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài; nâng cao năng lực cho cán bộ tham gia hoạt động hỗ trợ tƣ vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho các đối tƣợng bị buôn bán; tập huấn về truyền thông thay đổi hành vi PCMBN cho các tuyên truyền viên tại các huyện giáp biên và huyện ven biển. Lồng ghép với Trung tâm học tập cộng đồng các buổi sinh hoạt tổ, nhóm, câu lạc bộ tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức về PCMBN cho cán bộ, hội viên phụ nữ, kết quả có 27/27 huyện, thị, thành Hội triển khai đến 639/639 xã, phƣờng, thị trấn với 29.236 lƣợt cán bộ, hội viên tham gia học tập. Trong đó có hơn 10 ngàn hộ gia đình cam kết thực hiện gia đình không có con em và ngƣời thân mắc các tệ nạn xã hội. + Duy trì hiệu quả mô hình truyền thông bằng hình thức sân khấu hóa về PCMBN tại thành phố Thanh Hóa và các xã ven biển. Tiếp tục chỉ đạo hoạt động có hiệu quả mô hình phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em tại huyện Tĩnh Gia, Thạch Thành, Hậu Lộc. Mô hình này đƣợc thông qua hoạt động của dự án ILOIPEC đã đầu tƣ nguồn vốn vay cho chị em phụ nữ và gia đình có đối tƣợng có nguy cơ bị mua bán vay vốn làm ăn ổn định cuộc sống. Từ khi xây dựng mô hình cho đến nay, nhiều xã không còn phụ nữ, trẻ em bị mua bán. Đây là mô hình hoạt động thực sự đạt hiệu quả cao; Hội phụ nữ tỉnh đã nhiều lần tổ chức thăm hỏi và tặng quà cho những chị bị mua bán trở về tại huyện Hậu Lộc, phối hợp với Hội phụ nữ huyện hỗ trợ nạn nhân trở về ổn định tâm lý, sức khỏe để sớm hòa nhập cộng đồng, đƣợc vay vốn phát triển kinh tế, tạo đƣợc việc làm ngay tại chỗ để tránh bị lừa gạt lần nữa, xóa bỏ mặc cảm vƣơn lên tái hòa nhập cộng đồng.
  • 58. 51 + Phối hợp với Đài phát thanh truyền hình tỉnh xây dựng 01 phóng sự tuyên truyền trong chuyên mục “Phụ nữ tỉnh Thanh”; 01 bán chuyên trang báo Thanh Hóa về PCTPMBN; 03 bài về gƣơng điển hình tiên tiến; 55 tin bài qua hệ thống truyền thanh; - Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh phối hợp với các ngành chức năng thực hiện các chƣơng trình dự án ILOIPEC, ICOM lồng ghép công tác tuyên truyền, truyền thông tại các huyện giáp biên giới và các huyện ven biển, chỉ đạo các đồn Biên phòng chủ động phối hợp với địa phƣơng giáo dục tuyên truyền tại cộng đồng dân cƣ về âm mƣu, thủ đoạn hoạt động của đối tƣợng nhằm nâng cao nhận thức pháp luật, tự cảnh giác bảo vệ chính mình, đặc biệt là bảo vệ phụ nữ và trẻ em là những đối tƣợng có nguy cơ cao tại cộng đồng dân cƣ. [39, tr.3, 4]. 2.2.2.2 Công tác phòng ngừa - Phòng ngừa lợi dụng kết hôn có yếu tố nước ngoài để mua bán người. Thực hiện Chỉ thị số 03/2005/CT-TTg của Chính phủ về tăng cƣờng quản lý Nhà nƣớc đối với quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nƣớc ngoài; Nghị định 68/2002/NĐ-CP, Nghị định 69/2006/NĐ-CP, Nghị định 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ (thay thế Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và 69/2006/NĐ-CP) hƣớng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về Hôn nhân gia đình có yếu tố nƣớc ngoài, UBND tỉnh Thanh Hóa đã có công văn hƣớng dẫn chỉ đạo các sở, ban, ngành có liên quan chủ động phối hợp với các cơ quan thành viên, UBND các huyện, thị xã, thành phố xây dựng kế hoạch tăng cƣờng quản lý Nhà nƣớc đối với quan hệ hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài. Đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng về nội dung của Nghị định đến mọi tầng lớp nhân dân; củng cố, kiện toàn lại đội ngũ báo cáo viên từ tỉnh đến cơ sở. Phối hợp với Bộ đội biên phòng, Công an, tuyên truyền cho
  • 59. 52 phụ nữ vùng biên giới Việt - Lào, các khu công nghiệp có đông ngƣời nƣớc ngoài làm việc về tính chất phức tạp của việc kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài... Do làm tốt công tác phối hợp, công tác tuyên truyền cũng nhƣ công tác đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài nên đã kịp thời phát hiện và ngăn chặn những trƣờng hợp kết hôn qua môi giới, kết hôn giả tạo hoặc lợi dụng việc kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ và các mục đích tƣ lợi khác. Theo số liệu báo cáo của Sở tƣ pháp từ năm 2008 đến 2013 UBND tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn cho 624 ngƣời chủ yếu là phụ nữ; Trong đó, kết hôn với ngƣời Đài Loan 265 ngƣời (chiếm 43%), kết hôn với ngƣời Hàn Quốc 202 ngƣời (chiếm 32%), số còn lại là các nƣớc khác (chiếm 25%). Trong 5 năm từ năm 2008 đến 2013 có 09 ngƣời con lai của 06 phụ nữ là nạn nhân bị mua bán trở về [70, tr. 3]. - Phòng ngừa lợi dung việc cho nhận con nuôi (trong nước và có yếu tố nước ngoài) để mua bán người Trƣớc khi Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đƣợc ban hành, các vấn đề liên quan đến nuôi con nuôi đƣợc quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhƣ: Luật dân sự năm 2005, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch; Quyết định số 1233/QĐ- TTg ngày 07 tháng 9 năm 2012 của Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt Đề án triển khai thực hiện Công ƣớc Lahay trong giai đoạn 2012 - 2015 (Việt Nam là thành viên chính thức của Công ƣớc Lahay số 33 ngày 29 tháng 5 năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế); các văn bản pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; về phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em. Trong những năm qua, cùng với cả nƣớc thực thi các văn bản pháp lý về nuôi con nuôi, UBND tỉnh Thanh Hóa đã xây dựng các Kế hoạch tăng cƣờng và nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nƣớc trong lĩnh vực nuôi con nuôi nhằm đảm bảo sự thống nhất trong chỉ đạo, thực
  • 60. 53 hiện các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi trên tinh thần nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Với yêu cầu: Xác định trách nhiệm cụ thể đối với từng cơ quan trong việc tiếp nhận trẻ em vào cơ sở nuôi dƣỡng, cho trẻ em ở cơ sở nuôi dƣỡng làm con nuôi; Nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức giải quyết các việc về nuôi con nuôi, đồng triển khai các biện pháp ngăn ngừa và xử lý hiện tƣợng mua bán trẻ em làm con nuôi hoặc lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi; Giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật các yêu cầu của ngƣời dân về việc nuôi con nuôi và ƣu tiên giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong nƣớc và có yếu tố nƣớc ngoài, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời nhận con nuôi. Thực hiện quyết định phê duyệt kế hoạch, các sở, ban, ngành trong đã tỉnh tổ chức triển khai và thực hiện tốt nhiệm vụ. Trong 3 năm thực hiện Luật Nuôi con nuôi, UBND tỉnh đã quyết định cho ngƣời nƣớc ngoài nhận con nuôi 6 trƣờng hợp (năm 2011: 02 trƣờng hợp; năm 2012: 01 trƣờng hợp, năm 2013: 04 trƣờng hợp). Do làm tốt công tác xác minh nên cả 06 trƣờng hợp trên cho đến nay các sở, ban, ngành chƣa nhận đƣợc thông báo liên quan đến hoạt động lợi dụng cho, nhận con nuôi để thực hiện MBN hay vì mục đích lợi dụng khác [70, tr. 3]. - Phòng ngừa lợi dụng việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài để mua bán người Công tác phòng ngừa lợi dụng việc đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài để mua bán đã đƣợc UBND tỉnh đặc biệt quan tâm. Trong những năm qua cùng với việc thực hiện kế hoạch triển khai dự án "Hành động ba bên nhằm bảo vệ ngƣời di cƣ thuộc tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng khỏi nạn bóc lột lao động" do tổ chức lao động quốc tế (ILO) hỗ trợ. Sở Lao động - Thƣơng binh và xã hội tỉnh Thanh Hóa phối hợp với các UBND huyện trong toàn tỉnh tổ chức các lớp tập huấn "Nâng cao năng lực tƣ vấn hỗ trợ ngƣời lao
  • 61. 54 động di cƣ hợp pháp an toàn, phòng chống bóc lột lao động và buôn bán ngƣời" cho lãnh đạo xã, trƣởng các tổ chức, hội, đoàn thể, cán bộ chính sách xã và các trƣởng thôn, bí thƣ chi bộ thôn, hội phụ nữ thôn thuộc các xã nằm trong dự án với hơn 1.500 ngƣời tham dự. Đây là chƣơng trình tập huấn đào tạo cán bộ nòng cốt của địa phƣơng, cung cấp cho cán bộ địa phƣơng phƣơng pháp, kỹ năng tƣ vấn, cung cấp thông tin về những quy định của Luật ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng, thị trƣờng tiếp nhận lao động, thực tế cũng nhƣ các rủi ro, các vấn đề có thể gặp phải khi đi làm việc ở nƣớc ngoài; các thông tin liên quan đến tuyển dụng, đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài; tổ chức quản lý và hỗ trợ cho ngƣời lao động trong thời gian làm việc ở nƣớc ngoài, cơ chế khiếu nại, tố cáo. Từ những kiến thức tiếp thu đƣợc ở các lớp tập huấn, đội ngũ làm công tác tuyên truyền đã về địa phƣơng tƣ vấn cho lao động trên địa bàn đi xuất khẩu lao động hợp pháp và an toàn, tránh nạn "cò mồi", nạn bóc lột lao động, nâng cao cảnh giác với các hành vi lợi dụng việc xuất khẩu lao động để MBN góp phần đẩy mạnh phong trào xuất khẩu lao động ở đi ̣a phƣơng . Bên cạnh đó, Sở Lao động - Thƣơng binh và xã hội tỉnh còn phối kết hợp với Trung tâm xúc tiến việc làm tỉnh mở nhiều lớp tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác tƣ vấn, môi giới giúp các tƣ vấn hiểu biết và nắm đƣợc các quy định của pháp luật về phòng, chống MBN để hỗ trợ nhân dân trong hoạt động xuất khẩu, tuyển dụng lao động. Tuy nhiên từ năm 2012 cho đến nay, tại một số huyện ven biển nhƣ Hậu Lộc, Nga Sơn đã xuất hiện nhiều ngƣời xuất cảnh sang Trung Quốc trái phép để làm ăn. Từ đầu năm 2012 đến nay, số lao động xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc thống kê đƣợc trên địa bàn huyện Hậu Lộc là 529 ngƣời, tập trung ở 6 xã ven biển: Ngƣ Lộc 236 ngƣời, Minh Lộc 105 ngƣời, Hƣng Lộc 86 ngƣời, Hải Lộc 54 ngƣời, Đa Lộc 33 ngƣời và Hòa Lộc 15 ngƣời. Tính đến
  • 62. 55 hết tháng 7 năm 2013, mới chỉ có 120 lao động trở về nƣớc. Qua tìm hiểu thực tế tại xã Minh Lộc - một trong hai xã có số lao động xuất cảnh trái phép nhiều nhất huyện Hậu Lộc, cho biết xã có 2.900 hộ với 13.500 khẩu, vài năm gần đây do nghề cá bấp bênh, nghề phụ giảm nên nguồn lao động dƣ thừa, tìm việc làm khó khăn, thu nhập thấp nên ngƣời lao động tìm đến thị trƣờng ở nƣớc ngoài. Chính quyền xã đã giao cho công an viên nắm chắc thông tin, bám sát số lao động ở mỗi thôn, phân loại đối tƣợng lao động theo độ tuổi, giới tính, nhu cầu việc làm... để nắm bắt tƣ tƣởng của họ, kịp thời ngăn chặn những biểu hiện nếu có ý định ra nƣớc ngoài lao động tự do trái phép, UBND xã phối hợp với cấp trên chỉ đạo quyết liệt để đƣa đƣợc toàn bộ số lao động của xã đang làm việc bất hợp pháp trở về nƣớc nhằm tránh những rủi ro có thể xảy ra [39, tr.4]. - Phòng ngừa mua bán người qua quản lý các hoạt động kinh doanh, dịch vụ nhạy cảm Thực hiện các kế hoạch, hƣớng dẫn của Ban chỉ đạo tỉnh về chƣơng trình quốc gia phòng, chống tệ nạn xã hội trong những năm qua, các cấp chính quyền trong tỉnh đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm phát huy vai trò, sức mạnh của toàn dân trong việc tham gia phòng, chống tệ nạn xã hội, gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ” và xây dựng xã, phƣờng, thôn, xóm, bản, làng, tổ dân phố lành mạnh không có tệ nạn xã hội. Theo thống kê của ban chỉ đạo phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, hiện trên địa bàn tỉnh có 2.433 cơ sở kinh doanh dịch vụ có điều kiện, nhạy cảm về an ninh trật tự, gồm: 63 khách sạn, 320 nhà nghỉ, 1.140 nhà trọ, 1 vũ trƣờng, 266 quán karaoke, 211 quán gội đầu thƣ giãn, 41 cơ sở massage và 391 cơ sở kinh doanh khác, trong đó có nhiều cơ sở nghi vấn hoạt động mại dâm [11].
  • 63. 56 Trƣớc tình hình trên, các cơ quan chức năng đã phối hợp tổ chức khảo sát, nắm bắt tình hình các tụ điểm có biểu hiện hoạt động mại dâm, dẫn dắt gái mại dâm ở một số cơ sở kinh doanh, dịch vụ, các tụ điểm có nghi vấn hoạt động mại dâm trá hình. Kết quả, đã phối hợp xử lý 28 vụ phạm tội hoạt động mại dâm với 159 đối tƣợng, trong đó gái bán dâm 62 đối tƣợng, khách mua dâm 65 đối tƣợng, chủ chứa, môi giới là 32 đối tƣợng. Đã đƣa ra xét xử 20 vụ với 24 đối tƣợng. Ngoài ra, Đội Kiểm tra liên ngành 814 tổ chức thanh tra, kiểm tra 69 cơ sở, đã xử phạt 20 cơ sở vi phạm, thu nộp vào Kho bạc Nhà nƣớc hơn 61 triệu đồng [11]. Qua thanh tra, kiểm tra đã chấn chỉnh các sai phạm để các cơ sở kinh doanh, dịch vụ hoạt động theo đúng quy định của pháp luật, góp phần tạo môi trƣờng kinh doanh dịch vụ lành mạnh, phòng chống tệ nạn xã hội. Bên cạnh việc quản lý, kiểm tra chặt chẽ các hoạt động kinh doanh, dịch vụ nhạy cảm. Công tác tuyên truyền, vận động đƣợc xác định là khâu trọng tâm, có tính đột phá, các tổ tuyên truyền đã lồng ghép các chƣơng trình truyền thông về tính chất phức tạp, tác hại của tệ nạn mại dâm, cũng nhƣ nắm đƣợc các âm mƣu, thủ đoạn, hoạt động của các loại tội phạm, tệ nạn có liên quan đến môi giới, chứa chấp, mại dâm, buôn bán phụ nữ; đồng thời tăng cƣờng sự hiểu biết của nhân dân về đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về phòng, chống tệ nạn xã hội, ma túy, mại dâm, đặc biệt là pháp luật về PCMBN. Thông qua hoạt động quản lý và tuyên truyền trong những năm qua trên toàn tỉnh không xảy ra tội phạm MBN liên quan đến hoạt động này. Để thực hiện tốt hơn nữa công tác quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ nhạy cảm, ngày 20/6/2013, Chủ tịch UBND tỉnh đã có Quyết định số 2134/QĐ- UBND về việc phê duyệt quy hoạch mạng lƣới Đội công tác xã hội (CTXH) tình nguyện tại xã, phƣờng, thị trấn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2013-2018.
  • 64. 57 Thành lập mạng lƣới đội công tác xã hội tình nguyện là một trong những biện pháp từng bƣớc xã hội hóa công tác phòng chống HIV/AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm; MBN; nâng cao vai trò trách nhiệm và sự tham gia tích cực cũng nhƣ tập hợp đƣợc sức mạnh cộng đồng để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS, MBN ở xã, phƣờng, thị trấn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đội CTXH tình nguyện là tổ chức dân sự tự nguyện, hoạt động theo quy định tại Thông tƣ liên tịch số 24/2012/TTLTBLĐTBXH-BNV-BTC ngày 22/10/2012 của Bộ Lao động - Thƣơng bình và Xã hội, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính về thành lập, giải thể, tổ chức hoạt động và chế độ chính sách đối với Đội CTXH tình nguyện tại xã, phƣờng, thị trấn. Mục tiêu của Đội CTXH tình nguyện là đến năm 2018 có 50% xã, phƣờng, thị trấn thành lập đội công tác xã hội tình nguyện; hiện nay toàn tỉnh thành lập đƣợc 313 Đội CTXH tình nguyện với hơn 2.000 tình nguyện viên. Riêng trong năm 2013 thành lập 80 Đội CTXH tình nguyện. 100% tình nguyện viên và lãnh đạo các tổ chức chính trị xã hội trực tiếp quản lý. Đội CTXH tình nguyện đƣợc tập huấn, đào tạo, nâng cao năng lực quản lý và hoạt động xã hội tình nguyện, phát hiện sớm, đề xuất xử lý kịp thời các cơ sở, tụ điểm, đối tƣợng vi phạm tệ nạn ma túy, mại dâm nhằm ngăn chặn có hiệu quả, không để phát sinh, phát triển tệ nạn ma túy để đƣa ngƣời sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng, giảm dần tỷ lệ tái nghiện. Bên cạnh đó, ngăn ngừa, tiến tới đẩy lùi các tệ nạn xã hội trên địa bàn tỉnh, tạo sự hiểu biết của ngƣời dân và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ các cấp về hoạt động của Đội CTXH tình nguyện, nhằm tuyên truyền, giáo dục ngƣời dân trong cộng đồng tích cực tham gia phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, MBN, phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa [76, tr. 4].
  • 65. 58 2.2.3. Những tồn tại, hạn chế trong việc phòng ngừa mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa 2.2.3.1. Những tồn tại, hạn chế Thứ nhất, công tác tuyên truyền, giáo dục về PCMBN chƣa thực sự đạt hiệu quả bởi việc tuyên truyền chƣa đến đƣợc hết các đối tƣợng thuộc trƣờng hợp có nguy cơ cao bị mua bán cao, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em ở vùng giáp biên giới, vùng sâu, vùng xa nhận thức về xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần cảnh giác của một bộ phận nhân dân đối với loại tội phạm này còn thấp. Thứ hai, Chƣa làm tốt chính sách lồng ghép nội dung phòng ngừa MBN vào các chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo để bảo đảm mức sống tối thiểu của ngƣời dân, tạo việc làm cho ngƣời dân có điều kiện ổn định cuộc sống cũng nhƣ các chƣơng trình phòng, chống tội phạm khác, phòng, chống tệ nạn xã hội, bảo vệ trẻ em, chƣơng trình vì sự tiến bộ của phụ nữ và các chƣơng trình khác về phát triển kinh tế - xã hội. Bởi thực tiễn cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng MBN là do nghèo đói, thiếu việc làm hoặc những tệ nạn xã hội khác trở thành điều kiện cho hoạt động MBN phát sinh, phát triển. Thứ ba, sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền cơ sở trong công tác phòng ngừa tội phạm chƣa đủ mạnh, chƣa thƣờng xuyên liên tục; một số ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội chƣa quan tâm đúng mức và chƣa thực sự coi công tác phòng, chống tội phạm nói chung và MBN nói riêng là nhiệm vụ trọng tâm của mình. Bên cạnh đó, sự phối hợp với nhà trƣờng, các cơ quan chức năng, chính quyền, đoàn thể các cấp có lúc, có nơi chƣa chặt chẽ, chƣa đồng bộ. Thứ tư, phƣơng tiện, kinh phí phục vụ cho công tác phòng ngừa MBN còn quá ít (chỉ đƣợc hỗ trợ lồng ghép trong trong kinh phí hoạt động tuyên truyền pháp luật chung của cơ quan, đơn vị); chƣa khen thƣởng kịp thời đối với cơ quan, cá nhân, tổ chức có thành tích trong công tác PCMBN cũng nhƣ
  • 66. 59 đảm bảo chế độ, chính sách đối với ngƣời tham gia PCMBN bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản. Thứ năm, đội ngũ làm công tác phòng ngừa đối với loại hành vi MBN chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu thiếu về số lƣợng, yếu về chuyên môn, nhiều cán bộ chủ yếu là cán bộ cấp xã và cộng tác viên tại các thôn bản chƣa đƣợc đào tạo bài bản, thiếu kiến thức và kỹ năng làm việc với đối tƣợng có nguy cơ bị mua bán cao, trong khi mọi hoạt động của loại tội phạm này ngày càng tinh vi, núp dƣới nhiều danh nghĩa nhƣ: môi giới tìm việc làm nhằm làm vào số chị em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, bức xúc về việc làm... lợi dụng mối quan hệ, tạo uy tín và thống nhất với gia đình và bản thân nạn nhân để tạo vỏ bọc kín đáo, phòng khi bị phát hiện thì các cơ quan chức năng khó tìm chứng cứ. Đối tƣợng liên quan đến nhiều địa bàn tỉnh, thành phố và có yếu tố nƣớc ngoài do vậy hiệu quả công tác phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm này chƣa cao. Bên cạnh đó chính sách thu hút cán bộ làm công tác tuyên truyền PCMBN còn thiếu hấp dẫn, chậm đổi mới. 2.2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại - Nguyên nhân khách quan: Do mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng và tiến trình hội nhập đã dẫn đến sự phân tầng xã hội và sự phân hóa giàu nghèo nhanh chóng. Một bộ phận không nhỏ dân cƣ gặp nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế đã phát sinh tiêu cực; nhiều gia đình chƣa nhận thức về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi MBN nên việc phòng, chống bị coi nhẹ; Đôi khi họ cũng nhận thức đƣợc một phần của sự nguy hiểm nhƣng vì hoàn cảnh, sự cám dỗ của đồng tiền họ đành phải chấp nhận. Bên cạnh đó, việc nhận thức và hiểu biết của các đối tƣợng có nguy mua bán còn rất hạn chế bởi những đối tƣợng này là ngƣời vùng núi giáp biên, ven biển ít có điều kiện đƣợc tiếp xúc, trình độ học vấn lại hạn chế. Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến tội phạm MBN.
  • 67. 60 - Nguyên nhân chủ quan: Nhận thức về vai trò, trách nhiệm đối với công tác bảo vệ quyền con ngƣời nói chung và công tác PCMBN nói riêng của một số cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng của địa phƣơng chƣa đầy đủ, sâu sắc; Vai trò tham mƣu Ban chỉ đạo 138 của một số địa phƣơng chƣa phát huy đúng mức. Do đó, từ công tác chỉ đạo, điều hành đến tổ chức, thực hiện đều chƣa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát về công tác PCMBN của một số cơ quan Nhà nƣớc và các cấp chính quyền chƣa thƣờng xuyên; sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, nhất là Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong hoạt động giám sát, phản biện chính sách đối với phụ nữ, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt chƣa liên tục và quyết liệt; chƣa kịp thời phát hiện, đề xuất, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền về các giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của nhóm đối tƣợng này. Việc thực thi pháp luật của một bộ phận cán bộ có thẩm quyền, ý thức chấp hành các quy định pháp luật của ngƣời dân ở nhiều địa phƣơng chƣa nghiêm; hình thức xử lý vi phạm chƣa kịp thời nên chƣa có tác dụng giáo dục, răn đe. Về phía các gia đình có nạn nhân bị mua bán: khi biết con em mình vắng mặt dài ngày tại gia đình, địa phƣơng nhƣng cho rằng do họ đang đi làm ăn xa chƣa có điều kiện về thăm nhà nên không báo cáo, đến khi có thông tin từ ngƣời bị mua bán hay ngƣời thân nói rằng con em mình bị mua bán mới báo cáo với chính quyền địa phƣơng và cơ quan chức năng. 2.3. PHÁT HIỆN, XỬ LÝ HÀNH VI MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA 2.3.1. Kết quả phát hiện, xử lý hành vi mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa 2.3.1.1. Kết quả điều tra, truy tố các vụ mua bán người Thực hiện Kế hoạch số 114/KH-BCĐ-C41 ngày 08/5/2013 của Ban chỉ đạo 138 Trung ƣơng về “Tổng điều tra, rà soát tình hình hoạt động tội phạm
  • 68. 61 MBN và các đối tƣợng khác có liên quan giai đoạn 2008 - 2013”, Giám đốc Công an tỉnh Thanh Hóa đã chủ động xây dựng Kế hoạch số 111/KH-CAT- PV11 ngày 29/5/2013 triển khai đến toàn lực lƣợng với những nội dung cụ thể, chi tiết. Đồng thời tham mƣu với Ban chỉ đạo 138 tỉnh ký ban hành Kế hoạch số 76/KH-BCĐ triển khai đến các ban, ngành có liên quan cùng thực hiện tổng điều tra, rà soát tình hình hoạt động tội phạm MBN và các đối tƣợng khác có liên quan giai đoạn 2008 - 2013. Trên cơ sở Kế hoạch trên, tất cả các đơn vị có liên quan đều đã triển khai thực hiện nghiêm túc và có bảo cáo kết quả khảo sát đầy đủ về Ban chỉ đạo. Theo báo cáo tổng hợp kết quả điều tra, truy tố các vụ MBN từ năm 2008 - 2013, lực lƣợng Công an, Biên phòng tỉnh đã phối hợp điều tra, đề nghị Viện kiểm sát tỉnh truy tố 15 vụ án MBN và liên quan đến MBN, trong đó số vụ án xảy ra trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa 13 vụ, địa bàn tỉnh Lào Cai 02 vụ với 21 đối tƣợng và 23 nạn nhân. Trong số 21 đối tƣợng phạm tội MBN đã xác minh, điều tra làm rõ và khởi tố điều tra 19 bị can, còn 02 đối tƣợng không xác định đƣợc. Nhóm đối tƣợng này tuổi đời từ 20 đến 40 tuổi, trình độ văn hóa thấp, không có nghề nghiệp ổn định, một số đối tƣợng làm nghề buôn bán thƣờng xuyên qua lại biên giới móc nối với ngƣời nƣớc ngoài để thực hiện hành vi phạm tội. Đối tƣợng chủ mƣu trong các vụ án chủ yếu là phụ nữ, số phụ nữ này trƣớc đây là bị hại trong vụ MBN, nay trở về móc nối với các đối tƣợng khác rủ rê, lôi kéo những ngƣời phụ nữ khác để lừa bán [40, tr. 2]. Thủ đoạn của các đối tƣợng phạm tội là: Tiếp cận với phụ nữ, trẻ em ở vùng nông thôn, miền núi, không có việc làm, đời sống kinh tế khó khăn, éo le hoặc hạnh phúc gia đình bị rạn nứt nhẹ dạ cả tinh thông qua gia đình ngƣời quen để tiếp cận, hứa hẹn tìm việc làm có thu nhập cao hoặc lấy chồng ngoại quốc giàu sang, tán tỉnh yêu đƣơng lừa gạt rủ đi chơi, đi du lịch đến các tỉnh biên giới sau đó lừa bán ra nƣớc ngoài. Đa số các vụ án MBN đƣợc hoạt động
  • 69. 62 có tổ chức, có sự câu kết móc nối giữa các đối tƣợng có tiền án, tiền sự, các đối tƣợng là chủ chứa, môi giới mại dâm, một số đối tƣợng là ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài để hình thành đƣờng dây buôn bán, có sự phân công vai trò của các đối tƣợng trong khâu tìm ngƣời, tuyển chọn, làm các thủ tục vận chuyển để đƣa đi bán. Mục đích của các vụ MBN chủ yếu là các đối tƣợng bán sang Trung Quốc để làm gái mại dâm. Nạn nhân trong các vụ MBN có tuổi đời dƣới 35 tuổi, nhóm ngƣời nhiều nhất từ 20 đến 30 tuổi (chiếm 70%), trình độ học vấn thấp: không biết chữ 13 ngƣời, tiểu học 9 ngƣời, cao đẳng 02 ngƣời, hầu hết số nạn nhân trong các vụ MBN đều thuộc trƣờng hợp có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có nghề nghiệp ổn định, số ngƣời chƣa lập gia đình chiếm đa phần [40, tr.2]. 2.3.1.2. Kết quả xử lý hình sự các vụ mua bán người BLHS năm 1999 quy định hai tội phạm trực tiếp liên quan đến MBN, đó là: Tội mua bán phụ nữ (Điều 119) và Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120). Do các quy định này chƣa hình sự hoá hành vi mua bán nam giới từ 16 tuổi trở lên nên Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 đã sửa đổi Điều 119 thành “Tội mua bán ngƣời” để giải quyết bất cập đó. Ngoài ra, BLHS còn sửa đổi khoản 2 Điều 120 để bổ sung thêm tình tiết tăng nặng “Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” vào tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em. Cả hai tội “Mua bán ngƣời” và “Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em” đều đƣợc xác định là những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, hình phạt đối với các tội phạm này đƣợc quy định rất nghiêm khắc trong BLHS 2009, cụ thể nhƣ sau: - Điều 119 BLHS quy định: Ngƣời nào MBN thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Phạm tội thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây thì bị phạt tù từ
  • 70. 63 năm năm đến hai mƣơi năm: a) Vì mục đích mại dâm; b) Có tổ chức; c) Có tính chất chuyên nghiệp; d) Để đƣa ra nƣớc ngoài; đ) Đối với nhiều ngƣời; e) Phạm tội nhiều lần. Ngoài chế tài hình sự, ngƣời phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mƣơi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cƣ trú từ một năm đến năm năm [60, tr. 80]. - Điều 120 quy định: Ngƣời nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dƣới bất kỳ hình thức nào có thể bị phạt tù từ ba năm đến mƣời năm. Phạm tội thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây thì bị phạt tù từ mƣời năm đến hai mƣơi năm hoặc tù chung thân: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Vì động cơ đê hèn; d) Đối với nhiều trẻ em; đ) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; e) Để đƣa ra nƣớc ngoài; g) Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo; h) Để sử dụng vào mục đích mại dâm; i) Tái phạm nguy hiểm; k) Gây hậu quả nghiêm trọng [60, tr.81]. Ngoài chế tài hình sự, ngƣời phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mƣơi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc phạt quản chế từ một năm đến năm năm [60, tr. 81]. Ngoài hai tội danh trên, BLHS còn quy định một số tội danh khác với một số hành vi liên quan đến quá trình MBN nhƣ: Tội tổ chức, cƣỡng ép ngƣời khác trốn đi nƣớc ngoài hoặc ở lại nƣớc ngoài trái phép (Điều 275), Tội xuất, nhập cảnh trái phép, Tội ở lại Việt Nam trái phép (Điều 274); Tội chứa mại dâm (Điều 254), Tội môi giới mại dâm (Điều 255), Tội mua dâm ngƣời chƣa thành niên (Điều 256)… Trên cơ sở điều tra, khởi tố 15 vụ án liên quan đến MBN kể trên, Tòa
  • 71. 64 án nhân dân các cấp của tỉnh Thanh Hóa đã đƣa ra xét xử với mức hình phạt cao nhất là 17 năm tù giam, thấp nhất là 04 năm tù giam. Điển hình vụ án: Lê Đức Bảy, sinh năm 1972, Nguyễn Thị Thanh sinh năm 1966 cùng ở xã Xuân Khánh, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, vào 9/1999 lừa bán chị Bùi Thị Xinh sinh năm 1981 xã Luận Thành, huyện Thƣờng Xuân, Thanh Hóa sang Trung Quốc. Sau 12 năm bị bán sang Trung Quốc, ngày 10/7/2011 chị Xinh trốn về Việt Nam và tố cáo hành vi của Bảy và Thanh. Các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Thanh Hóa đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của các đối tƣợng thuộc trƣờng hợp rất nghiêm trọng và đƣa ra quyết định với mức hình phạt đƣợc áp dụng cho tội danh “Mua bán ngƣời” đối với Lê Đức Bảy 15 năm tù giam, Nguyễn Thị Thanh 13 năm tù giam [71]. Vụ án: Bùi Xuân Giang sinh năm 1976, Nguyễn Thị Vinh sinh năm 1974 cùng ở xã Bình Sơn, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa. Tháng 12/2011, đã lừa 2 phụ nữ ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đem bán cho Quách Thị Huyền ở xã Ngọc Phụng, huyện Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hóa lấy chồng ở Quảng Đông- Trung Quốc (đang sống tại Trung Quốc) với giá 15 triệu đồng một ngƣời. Thủ đoạn mà đối tƣợng thực hiện là rủ rê nạn nhân sang Trung Quốc để giúp việc gia đình với thu nhập cao. Tại cơ quan điều tra. qua tiếp tục đấu tranh mở rộng vụ án, các đối tƣợng còn khai nhận thêm vào ngày 16/02/2012 các đối tƣợng đã đến xã Cán Khê và xã Xuân Thọ, huyện Nhƣ Thanh, Thanh Hóa lừa đƣợc 2 cháu Bùi Thị Thảo, sinh năm 1998 và cháu Vi Thị Ba, sinh năm 1995 đi xin việc làm ở Hà Nội, rồi bán 2 cháu sang biên giới Trung Quốc. Xác định thủ đoạn hoạt động của bon tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, vừa mang tính tổ chức, mua bán nhiều ngƣời, thực hiện nhiều lần nên Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa họp ba ngành Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án quyết định xử phạt Bùi Xuân Giang 17 năm tù giam, Nguyễn Thị Vinh 15 năm tù giam về tội danh “mua bán người” [71].
  • 72. 65 Từ những vụ án điển hình nêu trên, về cơ bản hành vi, thủ đoạn và phƣơng thức thực hiện hành vi phạm tội của các đối tƣợng MBN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có dấu hiệu tƣơng tự giống nhau, đó là các đối tƣợng lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của những phụ nữ nông thôn với những lời dụ dỗ rủ rê tìm kiếm việc làm rồi đƣa sang Trung Quốc để bán kiếm tiền. Nắm bắt đƣợc mục đích, phƣơng thức và thủ đoạn hoạt động của các đối tƣợng, trên cơ sở chỉ đạo của cấp trên, sự quyết tâm đấu tranh phòng, chống tội phạm; Lực lƣợng PCMBN tỉnh Thanh Hóa bằng nhiều biện pháp, cách thức khác nhau đã từng bƣớc đẩy lùi loại tệ nạn MBN và theo báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm 2014 các cơ quan chức năng chƣa phát hiện điều tra và xử lý trƣờng hợp nào liên quan đến MBN trên địa bàn tỉnh. Đây là một kết quả đáng mừng để Thanh Hóa góp phần cùng với cả nƣớc đấu tranh phòng, chống đẩy lùi loại tội phạm nguy hiểm này. 2.3.1.3. Kết quả xử lý hành chính các vụ mua bán người Theo Điều 23 Luật PCMBN, không phải mọi hành vi bị cấm theo Điều 3 Luật này đều bị xử lý về hình sự, mà tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể chỉ cần xử phạt hành chính. Mặc dù vậy, đây chỉ là quy định mang tính nguyên tắc. Những chế tài hành chính cụ thể đƣợc quy định trong một số Nghị định xử phạt hành chính trong một số lĩnh vực có liên quan đến MBN do Chính phủ ban hành, trong đó quan trọng nhất là những văn bản sau: - Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội, trong đó bao gồm các quy định về quản lý một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự (Điều 14), xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh cƣ trú và đi lại (Điều 20), mại dâm và các hành vi liên quan đến hoạt động mại dâm (Điều 22). - Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/2/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đƣa ngƣời Việt
  • 73. 66 Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng, trong đó bao gồm các quy định về dịch vụ việc làm (Điều 4); điều kiện hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ (Điều 29); đăng ký hợp đồng, báo cáo việc đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài (Điều 30); tổ chức đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài và quản lý ngƣời lao động ở ngoài nƣớc (Điều 34). - Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, trong đó bao gồm các quy định về tảo hôn, tổ chức tảo hôn (Điều 6); cƣỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ (Điều 7), đăng ký kết hôn (Điều 9); nuôi con nuôi (Điều 14). Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định đối tƣợng bị xử lý vi phạm hành chính bao gồm cả cá nhân (từ đủ 14 tuổi trở lên) và tổ chức của Việt Nam và nƣớc ngoài (Điều 5). Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền; c) Tƣớc quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; d) Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phƣơng tiện đƣợc sử dụng để vi phạm hành chính; đ) Trục xuất (Điều 21). Luật cũng quy định những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hành chính (Điều 10), trong đó bao gồm vi phạm có tổ chức, xúi giục, lôi kéo, sử dụng ngƣời chƣa thành niên vi phạm; ép buộc ngƣời bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần thực hiện hành vi vi phạm; lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm; vi phạm hành chính đối với nhiều ngƣời, trẻ em, phụ nữ mang thai [67]. Đây là những tình tiết thƣờng xảy ra trong quá trình BBN. Về tổng quát, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Việt Nam hiện đã bao trùm những hành vi phổ biến có liên quan đến nạn MBN. Điều này, cùng với việc xác định đối tƣợng có thể bị xử phạt hành chính bao gồm cả pháp nhân (tổ chức), là phù hợp với yêu cầu của Công ƣớc TOC, Nghị định
  • 74. 67 thƣ Palermo và Nghị định thƣ tùy chọn bổ sung Công ƣớc về quyền trẻ em về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và khiêu dâm trẻ em. Đối với Thanh Hóa, trên cơ sở thực hiện Kế hoạch triển khai chƣơng trình hành động PCMBN giai đoạn 2011-2015 của Chính Phủ và triển khai thực hiện đợt cao điểm đấu tranh phòng, chống tội phạm MBN trên tuyến biên giới. Ban chỉ đạo 138 tỉnh Thanh Hóa yêu cầu Công an địa phƣơng, Bộ đội biên phòng cần tập trung lực lƣợng, thực hiện công tác điều tra cơ bản, nắm chắc tình hình, xác định rõ địa bàn, tuyến trọng điểm cần tập trung đấu tranh, xác định số phụ nữ, trẻ em bị mất tích, vắng mặt lâu ngày nghi bị mua bán để tập trung xác minh làm rõ. Xác định đối tƣợng, băng nhóm, đƣờng dây tội phạm MBN cần xác minh, lập án đấu tranh trong các đợt cao điểm. Qua công tác điều tra cơ bản trên hai tuyến biên giới đất liền và biên giới biển trong 5 năm từ năm 2008 - 2013, lực lƣợng Biên phòng tỉnh Thanh Hóa xác định có 2.433 phụ nữ lấy chồng nƣớc ngoài với nhiều lý do khác nhau. Trong đó, 1.219 phụ nữ lấy chồng Trung Quốc, 1.168 phụ nữ lấy chồng Lào, 01 phụ nữ lấy chồng Campuchia; 15 phụ nữ lấy chồng Đài Loan, 18 phụ nữ lấy chồng Hàn Quốc, 04 phụ nữ lấy chồng Malaixia, 03 phụ nữ lấy chồng Mỹ; 45 phụ nữ lấy chồng đăng ký kết hôn tại Việt Nam, 2.388 phụ nữ không đăng ký kết hôn, 557 phụ nữ nghi bị lừa bán sang Trung Quốc, phát hiện 34 đối tƣợng nghi vấn liên quan đến hoạt động mua bán phụ nữ [14, tr.1]. Trên cơ sở xác định các đối tƣợng nghi vấn, bằng hoạt động điều tra cơ bản lực lƣợng chức năng sàng lọc đối tƣợng xác định đủ căn cứ đã xử lý về hình sự theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, các Tổ công tác an ninh trật tự trên địa bàn toàn tỉnh thƣờng xuyên kiểm tra các cơ sở kinh doanh dịch vụ nhạy cảm và trung tâm môi giới lao động để nắm bắt tình hình, xác minh thấy có dấu hiệu liên quan đến hoạt động MBN căn cứ vào quy định của pháp luật ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
  • 75. 68 2.3.1.4. Kết quả xử phạt dân sự các vụ mua bán người Theo Điều 23 Luật PCMBN, vi phạm các hành vi bị cấm theo Điều 3 của Luật này nếu gây thiệt hại thì ngoài việc chịu các trách nhiệm hành chính hay hình sự còn phải bồi thƣờng về dân sự. Việc bồi thƣờng dân sự liên quan đến MBN cũng thuộc phạm trù trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng mà đã đƣợc quy định trong Bộ luật dân sự (BLDS). Tại chƣơng XXI BLDS quy định về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng. Nguyên tắc chung đƣợc đặt ra đó là, ngƣời nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thƣờng (Điều 604). BLDS cũng quy định cụ thể về việc bồi thƣờng thiệt hại về tài sản (Điều 608), về sức khỏe (Điều 609), về tính mạng (Điều 610), về danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 611). Trong trƣờng hợp bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, ngoài những chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại và thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút, việc bồi thƣờng còn bao gồm mà cả một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu (Điều 611). Ngoài ra, trong trƣờng hợp nhiều ngƣời cùng gây thiệt hại thì những ngƣời đó phải liên đới bồi thƣờng cho ngƣời bị thiệt hại tƣơng ứng với mức độ lỗi của mỗi ngƣời, nếu không xác định đƣợc mức độ lỗi thì họ phải bồi thƣờng thiệt hại theo phần bằng nhau (Điều 616). Những quy định này rất có ý nghĩa trong các vụ việc MBN vì khách thể quan trọng nhất của tội phạm này là danh dự, nhân phẩm của con ngƣời và việc thực hiện tội phạm này thƣờng có sự phối hợp của nhiều cá nhân. Theo pháp luật Việt Nam, trách nhiệm dân sự có thể phát sinh trong các vụ án hình sự. Điều 42 BLHS quy định, ngƣời phạm tội phải trả lại tài sản đã
  • 76. 69 chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc ngƣời quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại vật chất đã đƣợc xác định do hành vi phạm tội gây ra, còn trong trƣờng hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc ngƣời phạm tội phải bồi thƣờng về vật chất, công khai xin lỗi ngƣời bị hại. Để bảo đảm thực thi quy định về bồi thƣờng tài sản, Điều 146 BLTTHS quy định việc kê biên tài sản trong trƣờng hợp bị can, bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi thƣờng tài sản. Những quy định kể trên cũng đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp MBN và mua bán trẻ em. Trên tinh thần đó, bất cứ ngƣời nào có hành vi MBN, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em hoặc có các hành vi vi phạm khác có liên quan mà gây thiệt hại cho nạn nhân, thì ngoài việc bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn phải chịu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho ngƣời bị hại. Nhƣ vậy, pháp luật Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu của Công ƣớc TOC và các nghị định thƣ bổ sung công ƣớc này về trách nhiệm dân sự đối với những chủ thể BBN. Tuy nhiên, nguyên tắc chung để tòa án xem xét là những chi phí đòi bồi thƣờng phải có chứng cứ kèm theo. Vì vậy, đòi hỏi nạn nhân bị mua bán phải thu thập chứng từ chứng minh ngay từ khi xảy ra vụ việc - điều mà rất ít ngƣời làm đƣợc. Đây là một trở ngại cho việc thực hiện quy định về bồi thƣờng thiệt hại vật chất, tinh thần cho nạn nhân trong các vụ MBN. Trên cơ sở luật định. Trong quá trình xem xét trách nhiệm hình sự ngoài việc áp dụng hình phạt chính là phạt tù, các bị cáo còn bị áp dụng các hình phạt bổ sung nhƣ phạt tiền xung quỹ Nhà nƣớc và bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị hại theo đúng quy định của pháp luật. Trong số 15 vụ án MBN đã đƣợc đƣa ra xét xử trong 5 năm từ năm 2008 đến 2013 trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã xử phạt các bị cáo với mức tiền 185.000.000 đồng [72, tr. 3].
  • 77. 70 2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong việc phát hiện, xử lý mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa 2.3.2.1. Những tồn tại, hạn chế Hoạt động MBN đang diễn biến ngày càng phức tạp, có xu hƣớng gia tăng và quốc tế hóa; nhiều đƣờng dây, băng nhóm hoạt động với hình thức tinh vi. Do đó việc phát hiện, xử lý hành vi MBN là yêu cầu cấp bách của từng địa phƣơng trên cả nƣớc hiện nay. Đối với Thanh Hóa, tuy là một tỉnh số vụ án MBN và hành vi liên quan MBN đƣợc đƣa ra xử lý ít hơn so với các tỉnh phía Bắc, song Ban chỉ đạo 138 của tỉnh nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác đấu tranh PCMBN đã chỉ đạo sát sao các đơn vị chức năng nhằm giảm bớt loại tội phạm này. Ngoài những kết quả đã đạt đƣợc nêu trên, hiện vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong việc phát hiện, xử lý cần khắc phục. Thứ nhất, các cơ quan chức năng chƣa đánh giá sát thực trạng tình hình hoạt động của tội phạm. Việc phát hiện, xử lý các vụ án MBN và những hành vi có liên quan theo kết quả báo cáo hàng năng thấp, trung bình một năm trên địa bàn cả tỉnh mới phát hiện điều tra và xử lý 2 đến 3 vụ nên chƣa tham mƣu cho các cấp lãnh đạo biện pháp đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả loại tội phạm này. Thứ hai, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chƣa làm tốt công tác phát hiện vi phạm thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra trong một số lĩnh vực kinh doanh dịch vụ nhƣ: hoạt động hỗ trợ kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc ngoài; cho, nhận con nuôi; giới thiệu việc làm; đƣa ngƣời đi lao động, học tập ở nƣớc ngoài; cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa, du lịch… Đây là những lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ dễ bị tội phạm lợi dụng để thực hiện hành vi MBN và các hành vi khác liên quan đến MBN Thứ ba, chƣa có biện pháp hữu hiệu để khuyến khích, động viên cá nhân, cơ quan, tổ chức và gia đình tố giác, tin báo hoặc tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về PCMBN và các biện pháp khen thƣởng, biện pháp bảo vệ an toàn cho ngƣời tham gia phát hiện tội phạm
  • 78. 71 Thứ tư, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp chƣa tổ chức tiến hành xét xử lƣu động và công khai các vụ án điểm về tội phạm MBN để góp phần làm tốt hơn công tác tuyên truyền, giáo dục, răn đe tội phạm. Thứ năm, chế tài xử phạt vi phạm còn nhẹ, mức bồi thƣờng thiệt hại cho nạn nhân thấp, việc đền bù thiệt hại cũng chỉ mang tính nguyên tắc bởi văn bản hƣớng dẫn và cơ chế giải quyết đền bù chủ yếu theo hƣớng vụ kiện dân sự giữa ngƣời bị thiệt hại và ngƣời gây ra thiệt hại là kẻ phạm tội. 2.3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế Một là, tội phạm MBN hoạt động lƣu động, liên quan đến nhiều địa bàn, chúng núp dƣới danh nghĩa môi giới tìm kiếm việc làm nhằm vào số chị em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về kinh tế, bức xúc về việc làm. Do đó việc thu thập, xác minh các đối tƣợng trong đƣờng dây tội phạm rất khó khăn, nhất là các đối tƣợng bên Trung Quốc. Bên cạnh đó việc khai báo của bị hại, nhân thân bị hại không đầy đủ để xác định chính xác thời gian, địa điểm do thời gian quá lâu sau khi bị bán mới trốn đƣợc trở về đã gây khó khăn cho công tác điều tra, xử lý nên số lƣợng vụ án bị phát hiện, điều tra, xử lý chƣa cao. Hai là, Trong thực tế , nhiều trƣờng hợp bọn tội phạm lợi dụng hoa ̣t đô ̣ng của các tổ chức, cơ sở hoạt động kinh doanh, dịch vụ để thực hiện hành vi MBN, đặc biệt là các tổ chức, cơ sở hoạt động kinh doanh, dịch vụ trong lĩnh vực hỗ trợ kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc ngoài, cho, nhận con nuôi, giới thiệu việc làm, đƣa ngƣời Việt Nam đi lao động, học tập ở nƣớc ngoài, tuyển dụng ngƣời nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam, dịch vụ văn hóa, du lịch, v.v.... nhƣng các cơ quan chức năng đƣợc phân công nhiệm vụ chƣa phát huy hết trách nhiệm trong việc thƣờng xuyên kiểm tra, cũng nhƣ chƣa phát huy đƣợc sức mạnh của quần chúng nhân dân và toàn xã hội cùng vào cuộc. Vì vậy, chƣa huy động triệt để nguồn lực cho công tác PCMBN. Ba là, kinh phí chi cho công tác đấu tranh PCMBN quá ít, chỉ đƣợc hỗ
  • 79. 72 trợ trong kinh phí nghiệp vụ của Bộ đội biên phòng tỉnh, Công an tỉnh và chỉ chi trong trƣờng hợp cần thiết hỗ trợ những thiết yếu ban đầu cho nạn nhân, nên chi phí phục vụ cho việc khuyến khích các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động PCMBN và tố giác tội phạm MBN còn rất hạn chế, chƣa kịp thời. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn hạn chế quan trọng trong phát hiện, xử lý tội phạm này. Bốn là, các cơ quan tiến hành tố tụng (Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân) chƣa đánh giá cao tính chất mức độ nguy hiểm nghiêm trọng của loại tội phạm MBN và coi đây chƣa phải là thực trạng nhức nhối trong địa bàn tỉnh hiện nay, bởi các loại tội phạm khác nhƣ giết ngƣời, cố ý gây thƣơng tích, mua bán ma túy, hiếp dâm… đang diễn ra phức tạp và có chiều hƣớng gia tăng nhiều hơn nên tăng cƣờng xét xử lƣu động đối với những loại án này. Năm là, việc áp dụng quy định về bồi thƣờng thiệt hại đang còn cứng nhắc, chƣa đánh giá đúng mức độ thiệt hại mà nạn nhân phải gánh chịu về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín mà đối tƣợng mua bán gây ra để ban hành quyết định mức bồi thƣờng hợp lý. 2.4. BẢO VỆ, HỖ TRỢ HÕA NHẬP CỘNG ĐỒNG CHO NẠN NHÂN BỊ BUÔN BÁN Ở TỈNH THANH HÓA 2.4.1. Kết quả tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân Tiếp nối Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2005- 2010 của Chính phủ. Năm 2011, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quyết định số 1427/QĐ-TTg ngày 18/8/2011 về phê duyệt Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011- 2015. Trên cơ sở quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ, UBND tỉnh Thanh Hóa đã xây dựng Kế hoạch số 61/KH-UBND ngày 02 tháng 11 năm 2011 thực hiện Chƣơng trình phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011-2015. Trong kế hoạch UBND tỉnh xác định rõ và yêu cầu các sở, ban, ngành thực hiện tốt các
  • 80. 73 Tiểu đề án thuộc 5 Đề án của Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011-2015, trong đó có Đề án 3: “tiếp nhận, xác minh, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về”. Đối với công tác tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân đã đƣợc Ban chỉ đạo 130 chỉ đạo quyết liệt. Trong 5 năm từ năm 2008 đến năm 2013 trên địa bàn tỉnh đã tiếp nhận, xác minh 1.917 trƣờng hợp, qua phân loại có 557 đối tƣợng bị mua bán và nghi bị mua bán, 1.460 đối tƣợng sang Trung Quốc, sang Lào trái phép với các lý do khác và đã có hàng nghìn trƣờng hợp trở về, chủ yếu là tự về [40, tr. 3]. Tuy nhiên, thực tế số nạn nhân bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về còn lớn hơn nhiều so với số liệu báo cáo, bởi điều kiện địa lý và tính chất của sự việc nên việc thống kê đầy đủ số liệu là khó khăn. Qua phân tích số liệu khảo sát tình hình nạn nhân trở về tại một số địa phƣơng cho thấy, hầu hết nạn nhân tự giải thoát trở về, một số khác đƣợc phía nƣớc bạn trả về qua con đƣờng chính thức và một số ít do tội phạm BBN bị tố giác, phát hiện thả ra cho về. Nhìn chung, số phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về chiếm tỷ lệ rất thấp so với số phụ nữ, trẻ em bị buôn bán. Do vậy, vẫn còn một số lƣợng lớn phụ nữ, trẻ em bị buôn bán vì nhiều lý do khác nhau chƣa xác định đƣợc. Công tác tiếp nhận, xác minh và hỗ trợ ban đầu nạn nhân đƣợc thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Đối với trƣờng hợp xác minh, xác nhận, tiếp nhân nạn nhân là công dân Việt Nam bị mua bán ra nƣớc ngoài, Lực lƣợng Biên phòng, Công an trên địa bàn nhanh chóng triển khai kế hoạch xác minh nhân thân, thu thập tài liệu, chứng cứ, xác định rõ đối tƣợng kịp thời giải thoát và hỗ trợ ban đầu. Tại cửa khẩu nạn nhân nhập cảnh: lực lƣợng chức năng thực hiện việc đối chiếu, kiểm diện và tiếp nhận nạn nhân; ký Biên bản giao, nhận nạn nhân bị mua bán từ nƣớc ngoài trở về với cơ quan chức năng nƣớc ngoài (nếu có); làm thủ tục nhập cảnh cho nạn nhân ; kiểm tra hồ
  • 81. 74 sơ của nạn nhân do phía nƣớc ngoài bàn giao hoặc đƣa cho nạn nhân mang về; nếu chƣa có Tờ khai dùng cho nạn nhân bị mua bán tƣ̀ nƣớc ngoài trở về thì hƣớng dẫn nạn nhân kê khai; cấp Giấy chứng nhận về nƣớc cho nạn nhân. Nếu nạn nhân có nguyện vọng tự trở về nơi cƣ trú thì hỗ trợ tiền tàu xe và tiền ăn trong thời gian đi đƣờng. Trƣờng hợp nạn nhân là trẻ em, ngƣời không có khả năng tự trở về địa phƣơng nơi cƣ trú thì thông báo cho ngƣời thân thích đến nhận hoặc bố trí ngƣời đƣa về nơi ngƣời thân thích của nạn nhân cƣ trú. Trƣờng hợp nạn nhân không có nơi cƣ trú hoặc có nguyện vọng lƣu trú tại cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân, nạn nhân là trẻ em không nơi nƣơng tựa thì bàn giao nạn nhân (kèm theo các giấy tờ có liên quan) cho Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội để giải quyết theo quy định của pháp luật; Thông báo bằng văn bản cho Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh công an tỉnh để quản lý, theo dõi. Để xác định rõ nguyên nhân, tại cửa khẩu nạn nhân nhập cảnh, lực lƣợng biên phòng hoặc Công an địa phƣơng lấy lời khai ban đầu của nạn nhân để khai thác, thu thập thông tin, tài liệu về tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi MBN, phục vụ công tác điều tra, xử lý theo pháp luật. Giao cho Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội tỉnh có trách nhiệm đƣa nạn nhân vào cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân tại địa phƣơng để thực hiện việc hỗ trợ theo quy định của pháp luật. Các chính sách và chế độ hỗ trợ nạn nhân bị mua bán từ nƣớc ngoài trở về đƣợc thực hiện theo Quyết định 17/2007/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ và Thông tƣ liên tịch số 116/2007/TTLT/BTC-LĐTBXH ngày 27/9/2007 của Bộ tài chính và Bộ lao động - Thƣơng binh và Xã hội nhƣ: Chế độ trợ cấp xã hội và ban đầu; Hỗ trợ tâm lý xã hội; Hỗ trợ về thủ tục pháp lý; Trợ cấp khó khăn, học nghề, học văn hóa. Trƣờng hợp tiếp nhận, xác minh, xác nhận nạn nhân là công dân Việt Nam bị mua bán trong nƣớc thì UBND hoặc Công an cấp xã khi tiếp nhận
  • 82. 75 nạn nhân, ngƣời đại diện hợp pháp của nạn nhân khai báo về việc bị mua bán, có trách nhiệm hƣớng dẫn ngƣời đó kê khai, trƣờng hợp ngƣời khai báo là trẻ em hoặc ngƣời không có khả năng tự kê khai thì cán bộ tiếp nhận ghi lại theo lời khai của ngƣời đó; thực hiện việc hỗ trợ nhu cầu thiết yếu cho ngƣời khai là nạn nhân trong trƣờng hợp cần thiết; Công an cấp huyện nơi ngƣời khai là nạn nhân cƣ trú hoặc nơi họ khai xảy ra vụ việc MBN có trách nhiệm thực hiện việc xác minh, xác định nạn nhân và gửi giấy xác nhận này về Phòng Lao động - Thƣơng binh và Xã hội huyện bố trí cho họ trở về nơi cƣ trú hoặc vào cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo quy định đối với trƣờng hợp nạn nhân có đủ giấy tờ chứng nhận nạn nhân; Trƣờng hợp chƣa có giấy tờ, tài liệu chứng nhận nạn nhân thì gửi văn bản đề nghị công an cấp huyện nơi nạn nhân cƣ trú hoặc nơi nạn nhân khai xảy ra vụ việc MBN để xác minh. Trong thời gian chờ xác minh ngƣời khai là nạn nhân đƣợc hỗ trợ nhu cầu thiết yếu nhƣ nơi ở, tiền ăn. 2.4.2. Kết quả giải cứu, bảo vệ nạn nhân Theo kết quả khảo sát số nạn nhân từ nƣớc ngoài trở về bị mua bán và nghi bị mua bán có đến 60% nạn nhân tự trở về, có 25% đƣợc giải cứu và 15% đƣợc tiếp nhận chính thức [39, tr, 5]. Các trƣờng hợp giải cứu: - Giải cứu nạn nhân tại các cơ sở kinh doanh mại dâm hoặc đang bị cƣỡng bức lao động, hôn nhân tại địa bàn ngoại biên; - Giải cứu nạn nhân tại các tụ điểm kinh doanh các dịch vụ nhạy cảm có liên quan đến hoạt động mại dâm hoặc đang bị giữ, tập kết tại địa bàn khu vực biên giới để chuẩn bị đƣa sang bên kia biên giới; - Giải cứu nạn nhân khi đang bị vận chuyển trên đƣờng hoặc đang bị chuyển giao cho đối tƣợng khác để đƣa qua biên giới. Trong 15 vụ án MBN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2008 đến
  • 83. 76 năm 2013, với 23 nạn nhân, số nạn nhân đƣợc lực lƣợng Công an và Biên phòng giải cứu là 16 [40. tr.3]. Công tác giải cứu và bảo vệ nạn nhân đƣợc thực hiện đúng quy trình, kịp thời nhanh chóng tạo sự an tâm cho nạn nhân và gia đình của họ. Đặc biệt là bảo đảm an toàn về tính mạng, tài sản cho nạn nhân trong quá trình giải cứu; bảo vệ an toàn cho nạn nhân từ nơi giải cứu về đến cơ quan Cơ quan công an hoặc Bộ đội biên phòng, không để tội phạm hoặc các đối tƣợng quá khích ngăn cản, chống đối, nhất là những trƣờng hợp giải cứu nạn nhân tại địa bàn biên giới hoặc những địa bàn vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số; một số nạn nhân đau ốm, sức khỏe yếu đã đƣợc cơ quan Công an đƣa đến cơ sở y tế để điều trị. Sau khi giải cứu nạn nhân các lực lƣợng chức năng đã thực hiện các việc nhƣ: - Trƣờng hợp ngƣời đƣợc giải cƣ́ u có đủ căn cứ để xác định nạn nhân thì thực hiện việc hỗ trợ các nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân; cấp Giấy xác nhận nạn nhân bị mua bán; bàn giao nạn nhân cho Phòng Lao động - Thƣơng binh và Xã hội cấp huyện nơi giải cứu để thực hiện các thủ tục quy định. - Trƣờng hợp chƣa đủ căn cứ xác định là nạn nhân thì sau khi thực hiện việc hỗ trợ nhu cầu thiết yếu , cơ quan giải cứu bàn giao ngƣời đƣợc giải cứu cho Phòng Lao động - Thƣơng binh và Xã hội của địa phƣơng đó để đƣa vào cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân. Phòng Lao động - Thƣơng binh và Xã hội nơi giải cƣ́ u tiếp tục xác định: - Trƣờng hợp ngƣời đƣợc giải cƣ́ u đã đƣợc cấp Giấy xác nhận nạn nhân bị mua bán thì thực hiện việc hỗ trợ theo quy định của pháp luật; - Trƣờng hợp chƣa đủ căn cứ xác định là nạn nhân thì gửi văn bản đề nghị Công an cấp huyện nơi ngƣời đƣợc giải cƣ́ u xác minh , xác định nạn nhân; khi có kết quả xác minh thì giải quyết các thủ tục nhƣ đối với trƣờng hợp nạn nhân bị mua bán trong nƣớc quy định. Công an cấp huyện nơi ngƣời đƣợc giải cứu thực hiện việc xác minh ,
  • 84. 77 xác định nạn nhân và trả lời kết quả cho Phòng Lao động - Thƣơng binh và Xã hội. Trƣờng hợp Công an cấp huyện xác đi ̣nh không phải là na ̣n nhân , Trƣởng phòng Lao động - Thƣơng binh và Xã hội phối hợp với Giám đốc cơ sở bảo trợxã hội hoặ c cơ sở hỗ trợna ̣n nhân làm các thủ tục đƣa ngƣời đƣợc giải cứu ra khỏi cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo quy định của pháp luật. Thông qua việc thực hiện đúng quy trình về giải cứu, cùng với sự quan tâm tạo điều kiện tốt nhất của các cơ quan chức năng bƣớc đầu các nạn nhân đƣợc hỗ trợ những điều kiện thiết yếu để ổn định cuộc sống. Theo báo cáo của chính quyền, của các tổ chức Hội ở địa phƣơng các nạn nhân bị mua bán trở về đã ổn định cuộc sống, hòa nhập tốt với cộng đồng dân cƣ. 2.4.3. Kết quả hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng Ngày 29/01/2007, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg về Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng cho phụ nữ trẻ em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về. Theo quyết định giao Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội là cơ quan chủ trì và chỉ đạo thực hiện công tác hỗ trợ nạn nhân. Sau hơn 7 năm thực hiện, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan ban hành hệ thống các chính sách hỗ trợ nạn nhân tƣơng đối đồng bộ, đã cụ thể đƣợc những nội dung cơ bản của Quyết định 17/QĐ-TTg nhƣ chế độ chính sách cho nạn nhân; xác minh, xác định nạn nhân; và thành lập các Trung tâm hỗ trợ nạn nhân trở về (Thông tƣ Liên tịch số 116/2007/TTLT-BTC - BLĐTBXH ngày 27 tháng 9 năm 2007, hƣớng dẫn nội dung chi, mức chi cho công tác xác minh, tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân là phụ nữ trẻ em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về tái hòa nhập cộng đồng; Thông tƣ liên tịch số 03/2007/TTLT/BCA-BQP-BNG-BLĐTBXH ngày 8/05/2008, hƣớng dẫn trình tự, thủ tục xác minh, tiếp nhận phụ nữ, trẻ
  • 85. 78 em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về; Thông tƣ số 05/2009/TT- BLĐTBXH ngày 17 tháng 02 năm 2009, hƣớng dẫn tổ chức và hoạt động của Cơ sở hỗ trợ nạn nhân). Các văn bản trên tạo cơ sở pháp lý, giúp ngành Lao động - Thƣơng binh và Xã hội thống nhất quản lý, chỉ đạo địa phƣơng thực hiện có hiệu quả công tác hỗ trợ nạn nhân trở về tái hoà nhập cộng đồng. Ban chỉ đạo 130 của tỉnh đã chỉ đạo Sở lao động - Thƣơng bình và xã hội tỉnh, phối hợp với Bộ đội biên phòng tỉnh, Công an tỉnh, Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh và các ban ngành, đoàn thể liên quan khảo sát, đánh giá thực trạng tình hình và các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị mua bán; tiếp tục khảo sát thống kê cụ thể số nạn nhân bị buôn bán trở về để có kế hoạch hỗ trợ cho họ sớm hòa nhập cộng đồng. Ngoài việc tổ chức tiếp nhận, xác minh nhân thân, cấp giấy chứng nhận, đảm bảo cơ sở vật chất để tiếp nhận và hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân, việc trợ giúp pháp lý miễn phí; Thực hiện các biện pháp biện pháp bí mật thông tin theo nguyện vọng của nạn nhân và áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong trƣờng hợp nạn nhân bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại; Trợ giúp cho nạn nhân trong việc làm giấy chứng minh nhân dân, nhập hộ khẩu, xóa mù chữ, làm giấy khai sinh, cho trẻ đi học…, một số nạn nhân đƣợc hỗ trợ đất canh tác, đất làm nhà ở; tổ chức các hội thảo chuyên đề về hƣớng dẫn nghiệp vụ, dạy nghề đã đƣợc các ban, ngành đoàn thể trong tỉnh hết sức quan tâm. Bởi các nạn nhân trong vụ MBN thƣờng đều đã từng phải trải qua tình trạng bị cƣỡng bức; bị tra tấn; nợ nần; bị giam cầm bất hợp pháp; bạn bè và gia đình bị đe doạ; bị bạo lực về thể chất, tình dục và tâm lý. Hậu quả là nạn nhân phải hứng chịu những tổn thƣơng về sức khoẻ và tâm lý nặng nề, có những trƣờng hợp dẫn đến cái chết. Hơn nữa, nạn nhân bị buôn bán chịu ảnh hƣởng rất nhiều bởi thái độ, định kiến và hành vi của cộng đồng đối với họ. Chính vì thế, nếu chỉ tập trung vào nạn nhân mà không có những hoạt động tác động
  • 86. 79 vào cộng đồng nơi nạn nhân sinh sống thì khả năng nạn nhân tiếp tục bị buôn bán hoặc rời bỏ cộng đồng là rất cao. Do vậy, trong các hình thức hỗ trợ trên, “Ngôi nhà bình yên” - mô hình Công tác xã hội chuyên nghiệp do Hội LHPNVN triển khai đã đƣợc Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh thực hiện với các dịch vụ hỗ trợ toàn diện nhƣ: Nơi ăn, ở an toàn; chăm sóc sức khoẻ hỗ trợ y tế; hỗ trợ tâm lý; hỗ trợ pháp lý; đào tạo, hỗ trợ nghề; nâng cao kỹ năng sống; tham gia các hoạt động vui chơi giải trí… thông qua mô hình này đã chứng tỏ hiệu quả trong việc trợ giúp cho nạn nhân bị buôn bán tái hoà nhập cộng đồng một cách bền vững [69, tr.3]. Đặc biệt, Ban chỉ đạo yêu cầu các sở, ban ngành, đoàn thể tạo điều kiện hỗ trợ cho phụ nữ, trẻ em tiếp cận với các nguồn vay vốn, tạo điều kiện cho họ đƣợc học nghề tại các trung tâm dạy nghề của huyện và tỉnh. Trong 5 năm từ 2008 đến 2013 Sở lao động, thƣơng binh và xã hội tỉnh Thanh hóa đã hỗ trợ khó khăn ban đầu cho 161 nạn nhân số tiền 140.000.000đ (một trăm bốn mƣơi triệu đồng). Đối với trẻ em theo về cùng mẹ đƣợc hỗ trợ tiền mua sách giáo khoa và đồ dùng học tập năm đầu tiên 500.000đ/trƣờng hợp. Bên cạnh việc hỗ trợ khó khăn ban đầu, từ năm 2008 Chi cục phòng, chống tệ nạn xã hội đã phối hợp với Tổ chức Lao động quốc tế (ILO/IPEC) cho các nạn nhân vay vốn tại các xã Ngƣ Lộc huyện Hậu Lộc, xã Thành Vân huyện Thạch Thành, xã Hải Hà huyện Tĩnh Gia với số tiền 210.000.000đ (hai trăm mƣời triệu đồng) để giúp nạn nhân đầu tƣ sản xuất ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng [69, tr. 4]. 2.4.4. Kết quả bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và nhân chứng trong hoạt động tố tụng Hoạt động tố tụng là hoạt động của cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án và các lực lƣợng khác nhƣ: Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật tố tụng và các văn bản
  • 87. 80 pháp lý liên quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nạn nhân. Nạn nhân trong các vụ án MBN đƣợc xác định với tƣ cách tham gia tố tụng là “ngƣời bị hại”. Khái niệm “ngƣời bị hại” đƣợc quy định tại Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự, theo đó “ngƣời bị hại là ngƣời bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Hoạt động tố tụng đƣợc bắt đầu từ khi tiếp nhận, xử lý tin tố giác, tin báo về tội phạm MBN cho đến khi Tòa án xét xử vụ án và bản án có hiệu lực pháp luật. Bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và nhân chứng trƣớc, trong và sau hoạt động tố tụng là hết sức quan trọng. Do vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng đã xem xét, đánh giá và tiến hành đúng trình tự thủ tục tố tụng và cho đến nay tất cả các vụ án MBN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đƣợc giải quyết không có vụ án nào vi phạm thủ tục tố tụng. Đây là một kết quả đáng mừng, kết quả này minh chứng cho chúng ta thấy trình độ, nghiệp vụ của đội ngũ những ngƣời tiến hành tố tụng đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp hiện nay. Góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, cụ thể: - Khi tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm MBN, giải cứu nạn nhân đến khi phát hiện, bắt giữ tội phạm cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng trƣờng hợp cụ thể để áp dụng các biện pháp bảo vệ cho phù hợp nhƣ: Điều động ngay lực lƣợng đến địa điểm mà theo tin báo có vụ phạm tội MBN xảy ra để nắm bắt tình hình; Tiến hành các hoạt động nghiệp vụ để ngăn chặn bắt giữ tội phạm, thu thập thêm thông tin về tội phạm và nạn nhân; Triển khai các biện pháp bắt giữ tội phạm và giải cứu nạn nhân; Luôn luôn có ý thức giữ bí mật thông tin về nạn nhân và nhân chứng; hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân những yêu cầu thiết yếu. - Bảo vệ nạn nhân, nhân chứng trong hoạt động điều tra: + Cơ quan điều tra đảm bảo ổn định về tâm lý, an toàn về thể chất, về các quyền lợi cho nạn nhân và những ngƣời thân trong gia đình họ;
  • 88. 81 + Bảo đảm giữ bí mật về danh tính, bí mật đời tƣ của nạn nhân; + Kịp thời phát hiện, ngăn chặn có hiệu quả mọi hành vi mua chuộc, đe dọa, khống chế, trả thù nạn nhân, nhân chứng của đối tƣợng và đồng bọn; + Đảm bảo cung cấp kịp thời, đầy đủ các dịch vụ xã hội cần thiết cho nạn nhân nhƣ: dịch vụ pháp lý, chăm sóc sức khỏe, tƣ vấn tâm lý; + Đảm bảo bồi thƣờng thiệt hại cho nạn nhân, gia đình nạn nhân theo quy định của pháp luật, bảo đảm công bằng, thỏa đáng bao gồm cả cách thức bồi thƣờng. Hoạt động bảo vệ nạn nhân, nhân chứng đƣợc cơ quan công an quan tâm và thực hiện trong suốt quá trình điều tra. - Bảo vệ nạn nhân, nhân chứng trong hoạt động thực hành quyền công tố. Thực hành quyền công tố là nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát. Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn này đƣợc quy định trong BLTTHS và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, khác với các loại án hình sự khác, nạn nhân của tội phạm MBN là những ngƣời đã bị tổn thƣơng nghiêm trọng về mặt tâm lý do họ đã bị xâm phạm về thể xác, tinh thần, xâm hại đến danh dự, nhân phẩm và có thể họ phải chịu đựng đau đớn về thể xác trong một thời gian dài. Họ thƣờng dễ bị tổn thƣơng, có tâm trạng hoang mang, lo sợ bị trả thù, lo sợ quá khứ của mình bị tiết lộ và thiếu niềm tin vào sự bảo vệ, giúp đỡ của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng nhƣ các cơ quan chức năng khác trong quá trình xử lý tội phạm. Còn đối với nhân chứng có thể nhân chứng là nạn nhân có thể là ngƣời thân thích hoặc là ngƣời biết rõ về vụ việc, họ cũng mang nặng tâm lý sợ bị trả thù. Do đó, khi thực hiện quyền công tố, Kiểm sát viên phải rất cẩn trọng, quan tâm đến từng chi tiết nhỏ để tránh tổn thƣơng hoặc bức xúc cho nạn nhân và nhân chứng. Đặc biệt tuân thủ đúng các nguyên tắc trong tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nạn nhân và nhân chứng nhƣ: Công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn
  • 89. 82 chặn. Việc xem xét quyết định biện pháp ngăn chặn kịp thời, nhất là bắt tạm giữ, tạm giam không những ngăn ngừa tội phạm bỏ trốn, tiếp tục gây án, tiêu hủy chứng cứ gây khó khăn cho công tác điều tra mà còn là biện pháp ngăn ngừa tội phạm trả thù đe dọa nạn nhân, nhân chứng, hay kiểm sát hoạt động đối chất, nhận dạng. khi có mâu thuẫn giữa lời khai của bị can với lời khai của nạn nhân hoặc khi cần phải cho nạn nhân, nhân chứng nhận dạng đối tƣợng, Kiểm sát viên cần yêu cầu Điều tra viên tiến hành đối chất, nhận dạng đúng quy định của tố tụng hình sự và phải đảm bảo an toàn tuyệt đối, không gây nguy hiểm cho nạn nhân, nhân chứng. Có thể sử dụng gƣơng một chiều để nạn nhân nhận dạng đối tƣợng nhằm tránh tổn thƣơng tâm lý khi tiếp xúc đối tƣợng, hoặc thực hành quyền công tố trong xét xử cũng là một yêu cầu quan trọng nhằm bảo vệ nạn nhân và nhân chứng. Việc đƣa bị cáo ra xét xử và áp dụng hình phạt một cách nhanh chóng, kịp thời, nghiêm minh và theo đúng quy định của pháp luật hình sự. Đồng thời để bảo vệ nạn nhân, nhân chứng tránh khỏi sự chờ đợi kéo dài, căng thẳng thêm về tâm lý, Kiểm sát viên cần căn cứ quy định tại các Điều 176, 187, 191 và 192 BLTTHS để kiểm sát chặt chẽ việc chuẩn bị xét xử của Tòa án, kiểm sát chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, ngƣời làm chứng và nạn nhân cũng nhƣ ngƣời đại diện hợp pháp của họ tại phiên tòa nhằm đảm bảo vụ án đƣợc xét xử trong thời hạn luật định, tránh việc trì hoãn, kéo dài không cần thiết. - Bảo vệ nạn nhân, nhân chứng trong hoạt động xét xử Đối với các vụ án “mua bán ngƣời”, “mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em”, đặc biệt là các vụ án mà ngƣời bị hại bị mua bán vì mục đích mại dâm, nếu bị hại có yêu cầu xử kín để bảo vệ bí mật đời tƣ của họ thì Toà án nên chấp nhận yêu cầu của họ (Điều 18 BLTTHS), hoặc tại phiên tòa khi nạn nhân, nhân chứng khai báo, tuyệt đối không để bị cáo hoặc ngƣời thân của bị cáo có các biểu hiện tác động đe dọa đến ngƣời bị hại hoặc nhân
  • 90. 83 chứng. Mọi hành vi gây rối trật tự tại phiên tòa nhằm tác động đến tâm lý hoặc xâm hại đến tình mạng, danh dự, nhân phẩm của ngƣời bị hại, nhân thân của họ hoặc nhân chứng cần xử lý nghiêm khắc. Bên cạnh đó, tội phạm MBN, mua bán trẻ em trong nhiều trƣờng hợp để lại hậu quả rất nghiêm trọng đối với ngƣời bị hại, có thể ảnh hƣớng đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, thậm chí cả tính mạng của họ. Chính vì vậy, cần xử lý nghiêm khắc theo đúng quy định của BLHS. Cùng với việc áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với ngƣời phạm tội, Tòa án cần quan tâm đặc biệt, cân nhắc kỹ khi quyết định bồi thƣờng về dân sự đối với ngƣời bị hại và sau khi kết thúc phiên tòa, căn cứ vào tình hình thực tế, Tòa án cần tiếp tục yêu cầu lực lƣợng cảnh sát bảo vệ có các biện pháp phù hợp để bảo vệ nạn nhân, thân nhân họ và nhân chứng tránh sự trả thù của bị cáo và thân nhân bị cáo. Việc bảo vệ, hộ trợ nạn nhân và nhân chứng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án MBN là một yêu cầu của pháp luật vừa mang tính nhân đạo cao cả của chế độ xã hội chủ nghĩa, đặc biệt đối với nạn nhân bị mua bán. Ngoài việc chỉ đạo quyết liệt của Ban chỉ đạo phòng, chống tội phạm MBN của Chính phủ, Ban chỉ đạo tỉnh đã lên kế hoạch thực hiện nhiều đợt cao điểm triệt phá các ổ nhóm tội phạm MBN. Thanh Hóa, là một tỉnh đất rộng, ngƣời đông, nghề nghiệp của ngƣời dân chủ yếu làm nông nghiệp nên điều kiện kinh tế khó khăn, lại là một tỉnh giáp biên giới Việt - Lào nên Ban chỉ đạo phòng, chống tội phạm tỉnh rất quan tâm và chỉ đạo các cơ quan chức năng phải làm tốt công tác điều tra, xử lý tội phạm MBN, tạo điều kiện tốt nhất để nạn nhân đƣợc hƣởng những chính sách theo pháp luật hiện hành, tạo điều kiện thuận lợi cho nạn nhân nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống. Trong quá trình tiến hành tố tụng các cơ quan tố tụng trong tỉnh bám sát mục tiêu yêu cầu nhiệm vụ nhằm giải quyết kịp thời nhanh chóng, đúng trình tự
  • 91. 84 luật định. Cho đến nay tất cả các vụ án MBN đều đƣợc giải quyết dứt điểm, án tồn đọng năm 2013 không còn, 6 tháng đầu năm 2014 đến nay chƣa xử lý vụ việc nào vi phạm hành vi liên quan đến tội phạm MBN. 2.4.5. Những tồn tại, hạn chế trong việc bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán ở tỉnh Thanh Hóa 2.4.5.1. Những tồn tại, hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc nêu trên, việc bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán ở tỉnh Thanh Hóa vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau: Thứ nhất, Số nạn nhân đƣợc bảo vệ và hỗ trợ chiếm tỉ lệ thấp, số tiền hỗ trợ chƣa đáng kể. Trên thực tế nạn nhân bị buôn bán trở về ở các địa bàn khảo sát do không tập trung vào một thời điểm nhất định mà về rải rác. Số lƣợng nạn nhân trở về có cả bằng con đƣờng trao trả chính thức, giải cứu và tự về. Từ năm 2008 đến năm 2013, Thanh Hóa có 557 nạn nhân bị buôn bán và nghi bị buôn bán. Tuy nhiên, đây mới chỉ là con số các cơ quan chức năng nắm bắt đƣợc, trong thực tế còn cao hơn nhiều và cho đến nay các địa phƣơng chƣa phát hiện đƣợc hết số nạn nhân tự trở về. Do đó, những nạn nhân thuộc diện đƣợc hỗ trợ còn ít mới chỉ 151 ngƣời với số tiền 140.000.000 đồng [69, tr.4]. Thứ hai, các cơ sở tiếp nhận nạn nhân trở về qua cửa khẩu biên giới chƣa có, do đó việc tiếp nhận và hỗ trợ ban đầu cho nạn nhân chủ yếu đƣợc thực hiện trong trụ sở hay các đồn của Bộ đội biên phòng. Sau khi xác minh đầy đủ và có giấy chứng nhận nạn nhân bị mua bán mới chuyển về cho Sở lao động - Thƣơng binh và Xã hội thực hiện việc hỗ trợ. Thứ ba, tuy công tác hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân đƣợc thực hiện dƣới nhiều hình thức. Các trƣờng hợp nạn nhân trở về ở các địa phƣơng đều đƣợc hỗ trợ theo quy định. Trong đó, có 39,2% đƣợc hỗ trợ về tài chính, 30,5% đƣợc hỗ trợ về tâm lý; 18,3% đƣợc hỗ trợ học nghề, tìm việc làm; 25,6% đƣợc hỗ trợ pháp lý; 28,7% đƣợc chăm sóc y tế [69, tr.5], nhƣng
  • 92. 85 các dịch vụ hỗ trợ này còn yếu và thiếu. Cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ nạn nhân hầu nhƣ chƣa có, hầu hết các địa phƣơng đều sử dụng một phần kinh phí, cơ sở vật chất, nhân lực của Trung tâm Bảo trợ xã hội hoặc Trung tâm chữa bệnh giáo dục lao động xã hội làm nơi tiếp nhận và thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho nạn nhân. Số nạn nhân đƣợc hỗ trợ thấp, các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân mới ở bƣớc ban đầu, các bƣớc tiếp hỗ trực tiếp theo nhƣ học nghề, hƣớng nghiệp nghề, tạo việc làm để ổn định đời sống cho các đối tƣợng chƣa làm đƣợc nhiều mới chỉ dành cho nạn nhân trở về chính thức hoặc trong các vùng, địa phƣơng có các dự án quốc tế tài trợ. Thứ tư, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phƣơng khi nhận đƣợc tin báo, tố giác tội phạm thực hiện chƣa tốt công tác bảo vệ nạn nhân mà đang có thói quen chờ đợi cấp trên và cho rằng đây là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, có nạn nhân chờ đợi một thời gian không thấy đƣợc bảo vệ, mặc cảm, tự ti, e thẹn về thân phận nên thôi tố giác tội phạm. Thứ năm, công tác xác minh, tiếp nhận nạn nhân theo Quyết định 17/2007/QĐ-TTg và Thông tƣ liên tịch số 03/2008/TTLT-BCA-BQP-BNG- BLĐTBXH ngày 08 tháng 5 năm 2008 của liên bộ Công an, Quốc phòng, Ngoại giao, Lao động - Thƣơng binh và Xã hội vẫn còn nhiều vƣớng mắc trong thực hiện, đặc biệt là xác minh nạn nhân, nhất là nạn nhân tự trở về, chủ yếu dựa vào lời khai của nạn nhân, nhƣng do nhiều lý do cả từ bản thân nạn nhân và một số cơ quan chức năng còn chƣa thật quan tâm. Thứ sáu, đội ngũ cán bộ thực hiện công tác bảo vệ nạn nhân đều là kiêm nhiệm, thiếu kinh nghiệm, trong khi công tác tiếp nhận hỗ trợ phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nƣớc ngoài trở về là một nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp nên việc giúp đỡ đối tƣợng còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc nắm bắt các thông tin về nạn nhân chƣa kịp thời gây khó khăn cho công tác chăm sóc và giải quyết những vấn đề bức xúc của nạn nhân.
  • 93. 86 2.4.5.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế Những tồn tại, hạn chế nêu trên trong công tác bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán ở tỉnh Thanh Hóa tập trung một số nguyên nhân sau: Một là, về nhận thức các cơ quan có thẩm quyền và các tổ chức hội ở địa phƣơng chƣa nhận thức sâu sắc và thực sự quan tâm đến hoạt động bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, cho rằng nạn nhân trong tội phạm MBN giống nạn nhân của các tội phạm khác và coi đây là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, việc bồi thƣờng thiệt hại thuộc trách nhiệm của bị cáo. Hai là, Công tác tuyên truyền về phòng, chống ngƣời còn nhiều hạn chế, việc tuyên truyền chƣa bao phủ hết nhóm đối tƣợng có nguy bị mua bán cao, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em ở vùng giáp biên, vùng sâu, vùng xa. Hơn nữa, nhận thức về xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần cảnh giác của một số bộ phận nhân dân với loại tội phạm này vẫn còn thấp. Ba là, số nạn nhân bị mua bán từ nƣớc ngoài trở về thông qua con đƣờng tiếp nhận của các cơ quan chức năng còn ít so với thực tế. Nhiều nạn nhân bị mua bán trở về không khai báo, địa phƣơng không nắm đƣợc thông tin chính xác nên không báo cáo, vì vậy khó khăn cho công tác xác minh, lập hồ sơ hỗ trợ nạn nhân khi tái hòa nhập cộng đồng. Bốn là, về điều kiện đảm bảo từ khâu tiếp nhận nạn nhân, đảm bảo các điều kiện sinh hoạt bình thƣờng cho họ đến các trang thiết bị, điều kiện cần thiết để giải quyết tốt vụ án và các dịch vụ xã hội đảm bảo cho việc hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân còn thiếu thốn, thiếu cả cơ sở vật chất và con ngƣời. Năm là, mặc dù nạn nhân đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ theo quy định của pháp luật, Tòa án quyết định bằng bản án hoặc quyết định buộc ngƣời phạm tội phải bồi thƣờng thiệt hại cho nạn nhân, nhƣng việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án còn gặp nhiều khó khăn do bị cáo đang chấp hành hình phạt tù nên chƣa thi hành đƣợc quyết định bồi thƣờng hoặc không có điều kiện để thi hành án.
  • 94. 87 Tiểu kết chƣơng 2 Qua nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa có thể khẳng định việc thực hiện pháp luật PCMBN đã đạt đƣợc những kết quả đáng khích lệ. Thể hiện thông qua các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về PCMBN; về thực hiện các Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về PCMBN Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010, 2011 - 2015, kế hoạch Chƣơng trình hành động PCMBN 2005 - 2010, 2011 - 2015 của tỉnh Thanh Hóa, nâng cao rõ rệt chất lƣợng công tác PCMBN của các cấp chính quyền và nhân dân trong tỉnh. Thể chế đƣợc quan điểm chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về PCMBN vào thực tiễn cuộc sống. Nội dung của pháp luật về PCMBN đã đƣợc tổ chức thực hiện tƣơng đối đầy đủ, nghiêm chỉnh trong thực tiễn của đời sống xã hội, bảo đảm cho pháp luật về PCMBN đƣợc thực hiện trong thực tế. Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, việc thực hiện pháp luật về PCMBN ở Thanh Hóa có nơi chƣa thực sự quan tâm, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, của chính quyền, đoàn thể các cấp có lúc chƣa chặt chẽ, chƣa đồng bộ. Một số nội dung của pháp luật PCMBN còn chƣa đƣợc bảo đảm thực hiện trong đời sống xã hội, mục tiêu PCMBN chƣa đạt đƣợc. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện pháp luật về PCMBN ở Thanh Hóa hiện nay là do: một số đoàn thể, chính quyền cơ sở chƣa thực sự quan tâm, chƣa có nhận thức đúng đắn, đầy đủ giá trị cả về lý luận và thực tiễn của vấn đề PCMBN và nhận thức về xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần cảnh giác của một bộ phận nhân dân đối với loại tội phạm này chƣa cao; hạn chế trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về PCMBN đặc biệt đối với đối tƣợng có nguy cơ mua bán cao nhƣ phụ nữ, trẻ em ở vùng giáp biên, vùng sâu, vùng xa, vùng biển có điều kiện hoàn cảnh khó khăn; hạn chế về kinh phí phục vụ cho công tác đấu tranh với tội phạm
  • 95. 88 MBN, kinh phí hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng đƣợc trích từ nguồn ngân sách địa phƣơng còn hạn hẹp chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu, nhiệm vụ; hạn chế bởi lực lƣợng đấu tranh PCMBN chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu công tác, trong khi đó hoạt động của tội phạm MBN ngày càng tinh vi núp dƣới danh nghĩa môi giới tìm kiếm việc làm nhằm vào số chị em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về kinh tế, bức xúc về việc làm… lợi dụng mối quan hệ, tạo uy tín và thống nhất với gia đình với nạn nhân để tạo vỏ bọc kín đáo phòng khi phát hiện thì cơ quan chức năng khó tìm đƣợc chứng cứ, hơn nữa đối tƣợng liên quan đến nhiều địa bàn tỉnh, thành phố và có yếu tố nƣớc ngoài do vậy hiệu quả công tác phát hiện, điều tra xử lý tội phạm này chƣa cao.
  • 96. 89 Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA 3.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI Ở TỈNH THANH HÓA PCMBN đã trở thành yêu cầu mang tính toàn cầu. MBN là tệ nạn đƣợc ghi nhận vào những năm 1990 khi BBN đƣợc xem là một bộ phận của nạn mại dâm nhằm cung cấp nguồn phụ nữ rẻ mạt từ các vùng khác nhau. Kể từ thời điểm đó Việt Nam trở thành một trong những đƣờng dây buôn bán phụ nữ quốc tế và khu vực. Các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm đến PCMBN, bởi vì PCMBN là mục tiêu quốc gia về phòng, chống tội phạm, là tiêu chí để đánh giá tiến bộ xã hội, bảo đảm quyền con ngƣời đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em. Ở Việt Nam, công tác PCMBN đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta quan tâm nhất quán. Nguyên tắc bảo vệ quyền con ngƣời, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đã trở thành nguyên tắc hiến định xuyên suốt các Hiến pháp của Nhà nƣớc ta, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp năm 1946. Từ đó, ở nhiều cấp độ khác nhau, vấn đề PCMBN đã đƣợc cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật, làm cơ sở để chúng ta thực hiện và bảo đảm vấn đề PCMBN trong thực tế. Thực hiện pháp luật về PCMBN là một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Việt Nam nói chung và của tỉnh Thanh Hóa nói riêng. Do đó, để đảm bảo pháp luật PCMBN đi vào thực tiễn cuộc sống cần đáp ứng các yêu cầu khách quan sau:
  • 97. 90 3.1.1. Yêu cầu đƣa các chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nƣớc về phòng, chống mua bán ngƣời vào thực tiễn đời sống của tỉnh Thanh Hóa Pháp luật là phƣơng tiện để thể chế hoá trực tiếp, đầy đủ, nhất quán và đồng bộ các chủ trƣơng chính sách, đƣờng lối của Đảng về PCMBN. Thể chế hoá chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng thành pháp luật chính là phƣơng thức thông qua nhà nƣớc, làm cho đƣờng lối đó đó trở thành những quy tắc chung đối với mọi thành viên của xã hội và đƣợc tổ chức thực hiện vào trong đời sống xã hội. Do đƣợc thể chế hoá thành pháp luật, chủ trƣơng đƣờng lối của Đảng trở thành những mệnh lệnh, chỉ thị mang tính quyền lực nhà nƣớc đƣợc thực hiện một cách chính xác và thống nhất. PCMBN là một nội dung quan trọng trong chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam. Việt Nam bƣớc vào thời kỳ đổi mới với nhiều cơ hội, thời cơ và thử thách cho phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa. Công tác PCMBN đƣợc lực lƣợng Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Viện kiểm sát, Tòa án, các bộ, ngành có liên quan với vai trò là lực lƣợng nòng cốt, phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm theo tinh thần Nghị quyết Trung ƣơng 8 (khóa IX) về chiến lƣợc bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới, Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hƣớng đến năm 2020, Chỉ thị 48/CT-TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Chỉ thị 09/CT-TW ngày 01/12/1011 Ban Bí thƣ về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới, Chỉ thị 1408/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về
  • 98. 91 phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em, mua bán trẻ em... Đặc biệt là Chƣơng trình hành động quốc gia về phòng, chống tội phạm MBN của Chính phủ yêu cầu các địa phƣơng triển khai tổ chức thực tốt chƣơng trình này, tổ chức các đợt rà soát cao điểm nhằm triệt phá tận gốc hành vi MBN và các hành vi khác liên quan đến MBN. Trên cơ sở quan điểm chủ trƣơng của Đảng, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thanh Hóa đã đã ban hành nhiều văn bản thể hiện quan điểm về PCMBN nhằm đạt mục tiêu PCMBN ở tỉnh Thanh Hoá nhƣ: Chỉ thị 09- CT/TU của Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy ngày 30/12/2011 về “tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo an ninh trật tự và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, Kế hoạch số 61/KH-UBND của UBND tỉnh Thanh Hóa về thực hiện Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011-2015… Nhƣ vậy, đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật về PCMBN ở tỉnh Thanh Hóa trƣớc hết xuất phát từ yêu cầu khách quan là thể chế hoá, đƣa các chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về PCMBN vào thực tiễn đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh. 3.1.2. Yêu cầu bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân trong thời kỳ CNH, HĐH của tỉnh Thanh Hóa Quyền con ngƣời, quyền công dân là quyền bất khả xâm phạm. Pháp luật Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn đề cao trách nhiệm trong việc bảo vệ quyền con ngƣời. Trong suốt chiều dài lịch sử dụng nƣớc và giữ nƣớc, với truyền thống hào hùng của dân tộc, chúng ta đã chiến thắng tất cả quân xâm lƣợc để xây dựng một đất nƣớc hòa bình, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng một nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và Việt Nam đang xây dựng để trở thành một nƣớc công nghiệp hiện đại. Cùng với cả nƣớc, Thanh Hóa đã và đang cố gắng
  • 99. 92 phấn đấu đến năm 2015 trở thành tỉnh tiến tiến, tiếp theo sẽ trở thành tỉnh “kiểu mẫu” nhƣ sinh thời Hồ Chí Minh mong muốn. Thể chế các quan điểm của Đảng, pháp luật của nhà nƣớc về bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân trong các Văn kiện của Đảng, trong Hiến pháp và pháp luật đã thể hiện rõ yêu cầu trên. Để đấu tranh, ngăn ngừa các loại tội phạm hiện nay trong đó có tội MBN và các tội liên quan đến hành vi MBN, từ năm 2004 đến nay Đảng và nhà nƣớc ta rất quan tâm đến công tác PCMBN, đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân vừa phù hợp với pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức nhân quyền thế giới vào tháng 11 năm 2013 vừa qua. Pháp luật về PCMBN ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền con ngƣời nhất là quyền của phụ nữ và trẻ em, điều đó đã tạo điều kiện cho nạn nhân bị buôn bán trở về có điều kiện tái hòa nhập cộng đồng giúp họ tự tin hoà mình vào cuộc sống của cộng đồng. Tuy nhiên, trƣớc yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, tình hình bảo vệ nạn nhân bị mua bán trở về nhất là phụ nữ, trẻ em còn nhiều hạn chế. Tình trạng phụ nữ, trẻ em thiếu việc làm, thu nhập thấp, lao động quá sức vẫn còn phổ biến ở một số vùng, ở một số doanh nghiệp, việc làm của lao động nữ thiếu ổn định, chính sách tiền lƣơng, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động chƣa đƣợc thực hiện đầy đủ. Số phụ nữ nông thôn thiếu việc làm, di cƣ tự phát ra thành phố ngày càng gia tăng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động MBN. Để bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, ngăn cấm triệt để các hoạt động MBN ở Thanh Hóa trong thời kỳ CNH, HĐH cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trong đó không thể thiếu công tác đấu tranh PCMBN. Thực hiện tốt pháp luật về PCMBN sẽ góp phần khẳng định quyền con ngƣời,
  • 100. 93 quyền công dân đối với quá trình phát triển, đồng thời nâng cao hơn trách nhiệm của cả cộng đồng trong việc bảo vệ giá trị con ngƣời, ngăn cấm sự phân biệt đối xử đối với nạn nhân trở về từ hành vi bị mua bán. 3.1.3. Yêu cầu về khắc phục hạn chế của việc thực hiện pháp luật phòng, chống mua bán ngƣời ở tỉnh Thanh Hóa Thực hiện pháp luật PCMBN ở Thanh Hóa trong những năm qua đã đạt đƣợc những kết quả đáng khích lệ. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền nhận thức đƣợc vai trò của pháp luật PCMBN, từ đó quan tâm chỉ đạo và thực hiện các chƣơng trình hành động để phòng, chống tội MBN trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn một bộ phận cán bộ cấp cơ sở chƣa nhận thức rõ công tác PCMBN, chƣa chủ động trong việc phòng, chống tội phạm, có thái độ chờ đợi công việc tự đến. Do vậy, chƣa phản ảnh đƣợc sự quyết tâm để rà soát nắm bắt tình hình về tội phạm MBN trên địa bàn mình phụ trách. Bên cạnh đó hiện nay trong chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng ở các trƣờng học hay các trung tâm trên địa bàn tỉnh chƣa lồng ghép Luật PCMBN vào chƣơng trình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nên công tác giáo dục, truyền thông về PCMBN chƣa thực sự đủ mạnh, chƣa đi vào thực chất; hình thức tuyên truyền chƣa thích hợp, sinh động, phong phú, việc tuyên truyền chủ yếu bằng hình thức phát tờ rơi nhƣ hiện nay sẽ không mang lại hiệu quả cao. Mặt khác, một số ngƣời tuy có nhận thức, hiểu biết về PCMBN song lại có thái độ chƣa tích cực trong thực hiện quyền này, bởi họ chính là nạn nhân, là ngƣời thân của nạn nhân, họ ngại động chạm đến pháp luật, đến nỗi đau do thiếu hiểu biết của mình trƣớc đây hoặc chƣa có đủ nghị lực, ý chí, niềm tin để chuyển đổi nhận thức thành thái độ và những hành động tích cực trong việc thực hiện tố giác tội phạm. Hơn nữa, quá trình thực hiện pháp luật thực định cũng gặp nhiều khó
  • 101. 94 khăn do những nguyên nhân chủ quan từ bản thân nạn nhân, khách quan từ sự nhìn nhận, đánh giá chƣa đúng mức của xã hội đối với việc thực hiện PCMBN. Vì thế để khắc phục những hạn chế nêu trên, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện pháp luật về PCMBN ở Thanh Hóa góp phần cùng với cả nƣớc đẩy lùi tội phạm tiến tới xóa bỏ tệ nạn MBN. 3.2. QUAN ĐIỂM VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI TỈNH THANH HÓA 3.2.1. Phòng, chống mua bán ngƣời là một trong những nhiệm vụ cơ bản của Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội của tỉnh Thanh Hóa Thực hiện pháp luật PCMBN, chính là thực hiện việc bảo vệ quyền con ngƣời, hơn nữa nó còn bao hàm cả nội dung kinh tế, chính trị, xã hội bởi đối tƣợng bị mua bán chủ yếu là phụ nữ và trẻ em; Phụ nữ chiếm một nửa lực lƣợng lao động có nghĩa họ là lực lƣợng sản xuất ra một nửa tổng sản phẩm xã hội, là bộ phận tái tạo trực tiếp ra con ngƣời; Trẻ em là hào khí, là tƣơng lai của đất nƣớc. Chính vì vậy, thực hiện pháp luật về PCMBN là một trong những nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm của Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội của tỉnh Thanh Hóa. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, tổ chức chính trị xã hội từ tỉnh đến cơ sở cần thƣờng xuyên chỉ đạo thực hiện phòng, chống tội phạm, kết hợp chặt chẽ giữa công tác phòng, chống tội phạm với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; huy động nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội và tăng cƣờng hợp tác trong thực hiện các Chƣơng trình hành động về PCMBN; có kế hoạch và biện pháp khắc phục những tồn tại, yếu kém, bất cập trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCMBN, tiếp tục bổ sung những giải pháp thiết thực nhằm đẩy mạnh việc thực hiện có hiệu quả các mục tiêu này. Trong đó chú trọng đến các nhiệm vụ bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân
  • 102. 95 tái hòa nhập cộng đồng nhƣ tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao hiểu biết pháp luật. Tạo điều kiện thuận lợi cho nạn nhân trong giáo dục đào tạo, phát huy vai trò của họ tham gia vào các hoạt động chính trị, hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật; Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để tạo nguồn lao động đối với phụ nữ, trẻ em nông nhàn, thu hút sự tham gia tích cực của họ vào tiến trình CNH - HĐH. Đối với các cấp Hội phụ nữ cần tiếp tục đổi mới nội dung, phƣơng thức hoạt động, chăm lo quyền lợi thiết thực chính đáng của hội viên. Các phong trào của Hội cần đi sâu vào mục tiêu phát triển và bảo vệ quyền lợi chính đáng của hội viên, tạo điều kiện và cơ hội tốt nhất để chị em phụ nữ tham gia các hoạt động chính trị, xã hội ở địa phƣơng. Đối với Đoàn thanh niên, nhất là cấp đoàn cơ sở có những chƣơng trình định hƣớng nghề nghiệp cho đoàn viên của mình, đồng thời lồng ghép hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về PCMBN để các đoàn viên có ý thức phòng tránh trong những nghề nghiệp có nguy cơ dễ bị lạm dụng nhƣ: tìm kiếm việc làm ở thành phố hoặc đi xuất khẩu lao động... Thực hiện tốt quan điểm này góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp luật về PCMBN của tỉnh Thanh Hóa hiện nay. 3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao ý thức pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời cho nhân dân góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa Ngày nay, trong sự phát triển của xã hội, quyền con ngƣời ngày càng đƣợc nhìn nhận hoàn chỉnh hơn, với nhƣng yêu cầu, biện pháp cao hơn để thực hiện mục tiêu PCMBN. Nâng cao nhận thức về PCMBN đã và đang đồng hành với quá trình phát triển kinh tế, văn hoá xã hội. Nhƣng thực tế cho thấy, hiện nay không ít ngƣời vẫn chƣa hiểu “thế nào gọi là bán ngƣời?, những hành vi nào là hành vi mua bán ngƣời?”. Do đó, đòi hỏi mỗi ngƣời
  • 103. 96 phải tiếp cận thông tin, có nhận thức về lĩnh vực này để hành động phù hợp với yêu cầu mới, nhất là đối với các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, vận động quần chúng. Vì vậy cần phải có kiến thức về PCMBN, hiểu đúng làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến để nhân dân nhận thức rõ hơn có biện pháp phòng ngừa tốt hơn góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn trên địa bàn tỉnh. Cùng với các lĩnh vực khác, nâng cao nhận thức về PCMBN là hết sức cần thiết khi chúng ta hƣớng tới mục tiêu bảo đảm quyền con ngƣời trong một xã hội văn minh. Do đó, cần phải quán triệt các quan điểm sau: - Các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể tổ chức học tập, nghiên cứu, quán triệt các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về PCMBN; tăng cƣờng tập huấn nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, nhất là ở cấp xã, phƣờng, thị trấn; quan tâm bồi dƣỡng những nạn nhân bị buôn bán trở về làm cộng tác viên tích cực, lấy ngƣời thật, việc thật để tuyên truyền. - Ban tuyên giáo tỉnh chủ trì phối hợp với Trƣờng chính trị tỉnh, Sở tƣ pháp nghiên cứu biên soạn tài liệu tuyên truyền giáo dục về PCMBN trong tỉnh; đƣa nội dung Luật PCMBN để phục vụ cho việc triển khai rộng rãi ra các tầng lớp nhân dân trong tỉnh; đƣa nội dung PCMBN dƣới dạng báo cáo phụ khoá vào các lớp bồi dƣỡng chính trị trong trƣờng chính trị, bổ sung chƣơng trình giáo dục pháp luật cho các trƣờng Đại học và cao đẳng, các trung tâm học tập cộng đồng trong tỉnh, đồng thời gắn việc thực hiện cuộc vận động “Xóa đói, giảm nghèo”, “Thanh niên lập nghiệp”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ” với các phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Mái ấm tình thƣơng”…nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em, ngƣời dân vùng sâu, vùng biên giới, vùng có nguy cơ cao về MBN.
  • 104. 97 - Các cơ quan thông tin đại chúng, các bộ phận truyền thông trong tỉnh có chƣơng trình, chuyên mục định kỳ thông tin góp phần nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về việc thực hiện pháp luật về PCMBN. Tập trung tuyên truyền vào số phụ nữ và trẻ em có nguy cơ cao, phụ nữ ở độ tuổi 18 đến 35, số ngƣời thiếu việc làm, có thu nhập thấp, gia đình hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, số nữ sinh phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, trẻ em gái lao động sớm, trẻ em lang thang, số phụ nữ bị buôn bán trở về. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý văn hóa du lịch, hệ thống thiết chế về văn hóa ở cơ sở thông qua các hoạt động văn hóa du lịch, kinh doanh, dịch vụ tuyên truyền về PCMBN. - Tổ chức các chiến dịch truyền thông tại cộng đồng, các chiến dịch truyền thông trao đổi kinh nghiệm với các tỉnh, đặc biệt với các tỉnh nƣớc ngoài chung đƣờng biên giới. - Các cơ quan bảo vệ pháp luật trong tỉnh cần có kế hoạch cụ thể để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về PCMBN cho nhân dân, nhất là ngƣời dân vùng núi giáp biên. Đồng thời, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật về MBN. 3.2.3. Phòng, chống mua bán ngƣời luôn gắn với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ mới Phát triển kinh tế - xã hội là mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Mục tiêu, nhiệm vụ này đã và đang đƣợc các cấp chính quyền và toàn thể nhân dân trong tỉnh quyết tâm thực hiện góp phần cùng với cả nƣớc bƣớc vào thời kỳ công nghiệp hiện đại. Thực hiện pháp luật về PCMBN là một trong những mục tiêu quan trọng về giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nó luôn gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng. Đấu tranh phòng, chống tệ nạn MBN là mục tiêu quốc gia, bởi tội phạm MBN xâm phạm đến đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, uy tín và tính mạng của con
  • 105. 98 ngƣời. Do vậy, thực hiện pháp luật PCMBN phải đƣợc coi nhƣ một bộ phận hợp thành, không thể tách rời trong việc thực hiện pháp luật nói chung của tỉnh và nó đƣợc đặt trong một chỉnh thể với việc bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân. Để đạt đƣợc mục tiêu phát triển về kinh tế xã hội mà Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010-2015 đề ra, trƣớc hết cần thực hiện tốt Nghị quyết Trung ƣơng 8 (khóa XI) về “Chiến lƣợc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới", đảm bảo vững chắc an ninh 2 tuyến biên giới và các địa bàn trọng điểm nhằm phòng, chống tội phạm MBN. Với sự quyết tâm và những kết quả đạt đƣợc trong công tác PCMBN trong thời gian qua. Thanh Hóa càng phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác PCMBN để tiến tới xóa bỏ tệ nạn MBN góp phần thực hiện tốt hơn mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 3.3. GIẢI PHÁP NẦNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI TỪ THỰC TIỄN Ở TỈNH THANH HÓA 3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời Năm 2011, Quốc hội thông qua Luật PCMBN và Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm MBN giai đoạn 2011-2015 đã chứng minh khung pháp luật về PCMBN của Việt Nam đã hoàn thiện hơn trƣớc một cách đáng kể. Nhiều bất cập, hạn chế trƣớc đây đã đƣợc giải quyết, nhiều vấn đề đã tƣơng thích với những nguyên tắc và quy định cơ bản của pháp luật quốc tế về phòng, chống BBN. Do pháp luật PCMBN có những đặc thù riêng, bao gồm các quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến PCMBN, bảo vệ các quyền của con ngƣời, giữ vững ổn định và trật tự xã hội nên việc hoàn thiện các bộ phận pháp luật này phải đƣợc đặt trong mối quan hệ với hoàn thiện pháp luật chung.
  • 106. 99 Qua nghiên cứu, phân tích hệ thống pháp luật PCMBN và thực tế sau 3 năm thực hiện Luật PCMBN nổi lên một số bất cập cần tiếp tục hoàn thiện hơn và để thống nhất với Nghị định thƣ về việc ngăn ngừa phòng, chống và trừng trị việc BBN, đặc biệt là buôn bán phụ nữ và trẻ em (Nghị định thƣ Palermo) cụ thể: Các biện pháp phòng ngừa MBN trong Luật PCMBN chƣa đƣợc quy định và hƣớng dẫn cụ thể, trong khi cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong phòng ngừa MBN chƣa rõ ràng, nội dung phòng ngừa MBN chƣa đƣợc lồng ghép vào hệ thống giáo dục quốc dân. Những điều này làm giảm hiệu quả các hoạt động PNMBN; Các văn bản pháp luật hiện hành về phòng, chống mại dâm đều không đề cập trực tiếp đến vấn đề MBN, trong khi những quy định về cấp phép cho các cơ sở kinh doanh dịch vụ nhạy cảm còn chƣa hợp lý, các chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực này còn thiếu và chƣa đủ tính răn đe. Những bất cập này gây khó khăn cho việc PCMBN vì mục đích khai thác tình dục; Quy định về các tội “mua bán ngƣời” và “mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em” trong pháp luật Việt Nam vẫn còn một số điểm chƣa hợp lý và chƣa tƣơng thích hoàn toàn với định nghĩa “buôn bán ngƣời” trong Điều 3 Nghị định thƣ Palermo, vì thế làm giảm hiệu quả ngăn chặn của pháp luật với các tội phạm MBN; Việc xử lý vi phạm hành chính liên quan đến MBN đƣợc quy định tản mát trong nhiều văn bản pháp luật, gây trở ngại cho việc áp dụng trong thực tế, trong khi mức phạt tiền còn nhẹ nên hiệu quả răn đe thấp; Mặc dù pháp luật đã quy định quyền đòi bồi thƣờng thiệt hại vật chất, tinh thần của nạn nhân bị mua bán, song những yêu cầu pháp lý về thu thập chứng từ chứng minh thiệt hại hiện là một trở ngại cho việc thực hiện quyền này. Từ những hạn chế trên của pháp luật về PCMBN đã có ảnh hƣởng không nhỏ đến việc thực hiện pháp luật về PCMBN, là nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật về PCMBN.
  • 107. 100 Do đó, để tăng cƣờng hiệu lực, hiệu quả của công tác đấu tranh, PCMBN trên cả nƣớc nói chung và ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, cần phải thực thi đồng bộ các biện pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật PCMBN theo hƣớng sửa đổi, bổ sung nhằm thống nhất việc áp dụng và thể hiện sự nghiêm khắc đối với những hành vi xâm phạm quyền con ngƣời mà đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em, vì vậy cần: - Ban hành văn bản dƣới luật để cụ thể hóa và hƣớng dẫn thực hiện các biện pháp phòng ngừa MBN trong Chƣơng II Luật PCMBN, trong đó xác định cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan, đồng thời quy định việc lồng ghép nội dung phòng ngừa MBN vào hệ thống giáo dục quốc dân. - Sửa đổi định nghĩa về MBN, mua bán trẻ em trong Nghị định số 62/2012/NĐ-CP và Thông tƣ liên tịch 01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC- BCA-BQP-BTP cho tƣơng thích với quy định tại Điều 3 Nghị định thƣ Palermo, cụ thể là: Không quy định việc dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để trao đổi là những căn cứ bắt buộc để xác định hành vi MBN, mua bán trẻ em; Quy định rõ các phƣơng thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm và mục đích xuyên suốt của các hành vi phạm tội là bóc lột nạn nhân (tình dục, sức lao động và các hình thức bóc lột khác) và phân biệt rõ những cách thức, thủ đoạn phạm tội MBN đã thành niên với những cách thức, thủ đoạn phạm tội mua bán trẻ em. - Sửa đổi định nghĩa trẻ em trong Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ quy định “trẻ em là công dân Việt Nam dƣới 16 tuổi” thành “trẻ em là công dân Việt Nam dƣới 18 tuổi”. - Nghiên cứu ban hành một Nghị định riêng về xử phạt hành chính trong PCMBN để thuận lợi cho việc áp dụng trong thực tế, đồng thời tăng mức phạt tiền để nâng cao hiệu quả răn đe những kẻ vi phạm. - Nghiên cứu ban hành văn bản dƣới luật hƣớng dẫn áp dụng các quy
  • 108. 101 định về kiện đòi bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLTTHS theo hƣớng đơn giản hóa các thủ tục và giấy tờ chứng minh thiệt hại trong các vụ MBN để hỗ trợ nạn nhân trong việc đòi bồi thƣờng. - Sửa đổi Nghị định số 62/2012/NĐ-CP ngày 13/8/2012 theo hƣớng bổ sung quy định hƣớng dẫn trình tự, thủ tục xác minh nạn nhân theo khoản 4 Điều 24 Luật PCMBN. - Bổ sung vào Điều 6 Luật PCMBN quy định về quyền của nạn nhân đƣợc yêu cầu cơ quan tố tụng và các chủ thể liên quan khác giữ bí mật đời tƣ và nhận dạng. Nghiên cứu sửa đổi Khoản 1 Điều 10 Nghị định số 62/2012/NĐ- CP ngày 13/8/2012 theo hƣớng đơn giản hóa các yêu cầu thủ tục khi đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ nạn nhân. 3.3.2. Hoàn thiện cơ chế xã hội đấu tranh phòng, chống tội phạm về mua bán ngƣời Bảo vệ quyền con ngƣời vừa là mục tiêu, nhiệm vụ đầu tiên để phát triển xã hội. Thực hiện PCMBN là cả một quá trình đòi hỏi sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, xác định trách nhiệm đến từng cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân nhằm đảm bảo trên thực tế các quyền của con ngƣời. Vì vậy, cần hoàn thiện cơ chế xã hội đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN thông qua việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, sự cảnh giác cao độ của các gia đình và các cá nhân trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con ngƣời. Để hoàn thiện cơ chế xã hội trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm về MBN cần: - Xây dựng và thực hiện cơ chế phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị, nâng cao trách nhiệm vai trò chủ động của các ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh đối với các hành vi vi phạm pháp luật về MBN. - Đổi mới và thực hiện nghiêm chỉnh cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
  • 109. 102 bảo vệ pháp luật; nâng cao trách nhiệm, phát huy chức năng của các cơ sở Đảng, các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức chính trị - xã hội. - Các Bộ, ngành, UBND các cấp hàng năm phải sơ kết, tổng kết tình hình thực hiện PCMBN từ đó có kế hoạch tiếp tục chỉ đạo thực hiện các văn bản pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ về thực hiện pháp luật PCMBN, thực hiện các mục tiêu quốc gia về PCMBN. - Xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý nhà nƣớc về PCMBN từ trung ƣơng đến cơ sở. Ở Thanh Hóa hiện nay, công tác tham mƣu, quản lý nhà nƣớc về lĩnh vực PCMBN đƣợc bố trí gồm 01 Chánh văn phòng chuyên trách thuộc Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội. Đối với cấp huyện, cán bộ làm công tác PCMBN là cán bộ kiêm nhiệm. Cấp xã, cán bộ làm công tác PCMBN chƣa thống nhất tùy thuộc vào thực tế của địa phƣơng: Có địa phƣơng là cán bộ tƣ pháp, có địa phƣơng là cán bộ công an, có địa phƣơng là cán bộ Hội phụ nữ, thậm chí nhiều xã, phƣờng chƣa bố trí đƣợc cán bộ theo dõi công tác MBN. Thực trạng này ảnh hƣởng không nhỏ tới việc thực hiện pháp luật về PCMBN và hiệu quả của công tác đấu tranh phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN. Vì vậy, để hoàn thiện cơ chế xã hội trong đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về MBN, trƣớc mắt cần phải bố trí cán bộ chuyên trách công tác PCMBN cấp huyện và cấp xã, coi đây là lực lƣợng nòng cốt trong công tác đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về MBM. - Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội đặc biệt là Hội liên hiệp phụ nữ trong việc phản biện các chính sách pháp luật về PCMBN, giám sát các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật đảm bảo lồng ghép, đánh giá tác động trong các chính sách, chƣơng trình, đề án về an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nghề...; Tuyên truyền, giáo dục, vận động các thành viên
  • 110. 103 trong tổ chức của mình thực hiện đúng các quy định của Đảng và Nhà nƣớc về PCMBN, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào công tác đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về MBN, từng bƣớc nâng cao nhận thức của xã hội về PCMBN; xây dựng môi trƣờng sống lành mạnh trong xã hội, không còn sự phân biệt đối xử với nạn nhân bị mua bán trở về, đánh giá đúng vị trí, vai trò và những đóng góp của họ trong thời kỳ mới. - Phát huy vai trò sức mạnh của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong việc thực hiện pháp luật về PCMBN. Với đặc thù là cấp gần dân nhất, trực tiếp đƣa đƣờng lối, chính sách, chủ trƣơng của Đảng, pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, hệ thống chính trị cấp cơ sở phải xác định đây là chủ thể quan trọng. Từ trƣớc đến nay, vẫn còn quan niệm coi vấn đề thực hiện pháp luật PCMBN là trách nhiệm của Ban công an, Hội phụ nữ nên cần phải nâng cao nhận thức của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, coi việc thực hiện pháp luật về PCMBN là một trong những nội dung quan trọng trong công tác của các tổ chức. - Phát động quần chúng xây dựng phong trào toàn dân tham gia đấu tranh, phòng ngừa, phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm pháp luật về MBN. Tiếp tục nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong công tác PCMBN và phòng ngừa vi phạm pháp luật về MBN nhƣ "Câu lạc bộ phụ nữ với pháp luật" “Pháp luật PCMBN với cuộc sống”. Xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp, ngăn ngừa vi phạm pháp luật về MBN trong thôn xóm và các tổ chức đoàn thể. Đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN là một nhiệm vụ khó khăn, đòi hỏi phải kiên trì, lâu dài và cần có các biện pháp, hình thức phù hợp. Bên cạnh việc phát huy vai trò trách nhiệm của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thì cần phải có sự tham gia của các tổ chức xã hội và các quy phạm xã hội có liên quan trong đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật PCMBN.
  • 111. 104 3.3.3. Nguồn lực đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật phòng, chống mua bán ngƣời 3.3.3.1. Nguồn lực về con người Trƣớc hết, cần phải chú trọng công tác bồi dƣỡng nâng cao trình độ, năng lực, kỹ năng cho cán bộ làm công tác tuyên truyền về PCMBN, bởi qua thực tiễn nghiên cứu việc thực hiện pháp luật PCMBN ở Thanh Hóa cho thấy, trình độ hiểu biết của nhân dân về tội phạm MBN còn hạn chế, đặc biệt đối với những ngƣời dân các huyện vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên. Những địa phƣơng này do điều kiện địa hình xa trung tâm, kinh tế khó khăn nên việc tiếp cận thông tin hạn chế dẫn đến hiện tƣợng MBN diễn ra rõ rệt hơn ở các vùng, miền khác. Để công tác tuyên truyền đạt hiệu quả tốt hơn, hạn chế mức thấp nhất tình trạng MBN đang diễn ra hiện nay, các tổ chức cơ sở và cán bộ làm công tác tuyên truyền cần đa dạng hoá các loại hình về phổ biến, giáo dục nhƣ: - Sân khấu hóa hình thức tuyên truyền bằng một câu chuyện, một vụ việc có thực đã đƣợc cơ quan có thẩm quyền giải quyết. - Lồng ghép việc tuyên truyền Luật PCMBN vào các buổi sinh hoạt của chi Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, tổ chức cuộc thi tìm hiểu Luật PCMBN… - Đƣa việc giảng dạy pháp luật về PCMBN vào hệ thống của nhà trƣờng từ tiểu học, phổ thông đến trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học và Trƣờng chính trị tỉnh; tổ chức nhiều đợt tập huấn hoặc hội thảo chuyên đề về công tác PCMBN… Đặc biệt phát huy vị trí, vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ các cấp trong việc thực hiện pháp luật PCMBN. Hội liên hiệp phụ nữ cần thực hiện tốt một số biện pháp sau: - Kiện toàn bộ máy, nâng cao chất lƣợng hoạt động và trình độ cán bộ hội ở cơ sở thông qua hoạt động lồng ghép các chƣơng trình kinh tế, văn hoá, xã hội để tập hợp phụ nữ. Đa dạng hoá các hình thức tổ chức và mô hình hoạt động để thu hút đông đảo phụ nữ tham gia sinh hoạt Hội.
  • 112. 105 - Hội liên hiệp phụ nữ cần phối hợp với Sở Lao động Thƣơng binh và xã hội trong hoạt động bảo vệ bà mẹ và trẻ em, phát hiện kịp thời các hành vi MBN, hỗ trợ kịp thời giúp nạn nhân hòa nhập cộng đồng, đồng thời làm chỗ dựa tinh thần, giúp đỡ họ tìm giải pháp thoả đảng. - Hội liên hiệp phụ nữ các cấp cần tăng cƣờng tiếng nói đại diện, các biện pháp bảo vệ phụ nữ tại cộng đồng dân cƣ. - Làm nòng cốt phối hợp với các đoàn thể, tổ chức xã hội trên địa bàn dân cƣ, có biện pháp kiên quyết đấu tranh PCMBN, thực hiện tốt Chƣơng trình hành động PCMBN. 3.3.3.2. Nguồn lực về kinh phí, vật chất bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật PCMBN Thời gian qua Thanh Hóa đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về PCMBN. Tuy nhiên, hoạt động này còn mang tính thụ động, phụ thuộc, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về kinh phí, kinh phí thấp làm ảnh hƣởng không nhỏ đến hoạt động của các tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập. Hiện nay, kinh phí phục vụ cho công tác đấu tranh PCMBN còn quá ít đƣợc sử dụng từ nguồn phân bổ trong các Tiểu đề án thuộc Chƣơng trình hành động PCMBN giai đoạn 2011-2015 của Chính phủ và một phần nhỏ trong kinh phí hỗ trợ nghiệp vụ của Bộ đội biên phòng và Công an tỉnh, kinh phí hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng phải trích từ nguồn ngân sách địa phƣơng [39, tr.8]. Vì vậy, để tạo ra nguồn lực cần thiết đáp ứng đƣợc yêu cầu, nhiệm vụ của hoạt động PCMBN, hàng năm UBND tỉnh cần có kế hoạch phân bổ khoản kinh phí phù hợp nhằm khắc phục hạn chế nêu trên. Đồng thời tăng cƣờng công tác kiểm tra giám sát trong sử dụng kinh phí sao cho đúng mục đích, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để đạt hiệu quả tốt nhất.
  • 113. 106 3.3.4. Tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị của tỉnh Thanh Hóa để thực hiện tốt pháp luật phòng, chống mua bán ngƣời Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, trách nhiệm của các cơ quan nhà nƣớc và sự tham gia của các tổ chức đoàn thể trong việc trong việc PCMBN hiện nay vừa là nguyên tắc vừa là điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật PCMBN có hiệu quả. Để tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCMBN nói chung và việc đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN nói riêng, ngày 30/12/2011, Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy đã có Chỉ thị số 09-CT/TU về “Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo an ninh, trật tự và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” trong đó Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy Đảng, chính quyền, các sở, ban, ngành, MTTQ, các đoàn thể triển khai thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau: - Tiếp tục tuyên truyền, triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận số 86- KL/TW ngày 02/11/2010 của Bộ Chính trị về công tác bảo đảm an ninh quốc gia; Chỉ thị 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về công tác phòng, chống tội phạm; Chỉ thị 09-CT/TW ngày 01/12/2011 của Ban Bí thƣ về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, địa phƣơng, đơn vị và toàn thể nhân dân đối với công tác đảm bảo an ninh trật tự, trên cơ sở đó phát huy động lực mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. - Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, an ninh trên tuyến biên giới, tuyến biển, an ninh nội bộ, an ninh trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa tƣ tƣởng, tôn giáo, dân tộc, thông tin truyền thông và an ninh các vấn đề xã hội khác.
  • 114. 107 - Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chƣơng trình quốc gia phòng, chống tội phạm, mở các đợt cao điểm tấn công, truy quét, triệt xóa các loại tội phạm hoạt động có tổ chức, bảo kê, sử dụng vũ khí, hung khí; tội phạm cơ bạc, MBN,… Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả phong trào xây dựng xã, phƣờng không có tội phạm và tệ nạn xã hội. - Tăng cƣờng công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng và công tác quản lý đối với cán bộ, chiến sỹ lực lƣợng công an từ tỉnh đến cơ sở nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác, xiết chặt kỹ cƣơng kỹ luật, làm tốt vai trò nòng cốt trong đấu tranh phòng, chống tội phạm [9, tr. 2, 3]. 3.3.5. Tăng cƣờng hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời trong các tầng lớp cán bộ, nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức về PCMBN cho mọi ngƣời dân trong xã hội, trong đó có cả đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp trong tỉnh. Những biện pháp tuyên truyền tích cực, hiệu quả của việc thực hiện PCMBN với mục tiêu bảo vệ và bảo đảm quyền con ngƣời là một đòi hỏi cần thiết góp phần xây dựng đất nƣớc vì mục tiêu: dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện Chƣơng trình PCMBN và đƣa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật PCMBN cho nhân dân ở địa phƣơng thực hiện có hiệu quả, trƣớc hết cần tập trung các giải pháp sau: - Thƣờng xuyên mở các lớp đạo tạo về PCMBN cho các đối tƣợng là cán bộ lãnh đạo của các ban ngành, đoàn thể cán bộ Hội phụ nữ các cấp và nhân dân. Cần lồng ghép vấn đề PCMBN vào các hoạt động kinh tế - xã hội của địa phƣơng. Thông qua các đợt tập huấn đó góp phần nâng cao kiến thức và kỹ năng PCMBN cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, giúp họ có
  • 115. 108 khả năng lồng ghép vào các chƣơng trình kinh tế - xã hội ở địa phƣơng có hiệu quả hơn. - Tăng cƣờng việc lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật PCMBN vào các chuyên mục, chuyển tải trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ: chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo của tỉnh, xây dựng nông thôn mới… - Mở các chuyên mục nhƣ “Phụ nữ với pháp luật”; “Tìm hiểu pháp luật” trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng, trên các trang báo của tỉnh trên cơ sở kết hợp giữa báo Phụ nữ và Sở Tƣ pháp của tỉnh. - Tăng cƣờng việc huy động nhiều nguồn lực cho việc tuyên truyền PCMBN. Để phòng ngừa đạt hiệu quả cao, không chỉ cần đến kinh phí cho hoạt động này, mà còn cần đến các phƣơng tiện, các “kênh” thông tin để qua đó truyền tải những thông điệp về PCMBN. Vì lẽ đó ngoài những chƣơng trình, chuyên mục dành riêng cho tuyên truyền PCMBN, các phƣơng tiện truyền thông còn phải thận trọng khi truyền tải các thông tin mang định kiến, bí mật, các chƣơng trình, chuyên mục phải đƣợc thẩm định về nội dung trƣớc khi đƣa đến với công chúng. Cần xác định trách nhiệm cụ thể về những nội dung và hình ảnh đƣợc truyền tải và phát sóng xét từ góc độ phòng, chống; cung cấp đa dạng thông tin về hành vi mua bán, nhất là ở những huyện còn nhiều khó khăn, dân trí còn thấp, những tài liệu này phải đầy đủ, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ. Tăng cƣờng công tác truyền thông trực tiếp đƣa nội dung pháp luật PCMBN vào trong các chƣơng trình phát thanh ở địa phƣơng. Hơn nữa, cần lồng ghép nội dung giáo dục pháp luật về PCMBN vào các đợt sinh hoạt chính trị của các tổ chức chính trị - xã hội nhƣ: Đoàn thanh niên; Hội phụ nữ; Công đoàn. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật PCMBN phải đƣợc
  • 116. 109 thực hiện thƣờng xuyên, phải quan tâm đến tính đặc thù của lĩnh vực này vì nhận thức về PCMBN đang còn rất hạn chế trên thực tế hiện nay. - Nội dung và hình thức truyền thông cần tuỳ thuộc vào từng nhóm đối tƣợng để có chƣơng trình phù hợp. Đối với ngƣời dân ở nông thôn, vùng miền núi, trình độ dân trí và và hiểu biết văn hoá còn hạn chế thì nội dung tuyên truyền cần dễ hiểu, hình thức cần đa dạng, có thể thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng hoặc tuyên truyền trực tiếp trong các cuộc hội họp, sinh hoạt cộng đồng. Bên cạnh đó, cần lồng ghép tuyên truyền, giáo dục PCMBN vào chƣơng trình giảng dạy trong các nhà trƣờng phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và hệ thống các trung tâm chính trị của toàn tỉnh. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đặc biệt là phƣơng tiện thông tin đại chúng về PCMBN, về quyền con ngƣời là mục tiêu yêu cầu tất yếu đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc nói chung, của tỉnh Thanh Hóa nói riêng. 3.3.6. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời Để đảm bảo cho sự công bằng, tiến bộ xã hội, đảm bảo quyền con ngƣời thì vấn đề phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật về MBN là vấn đề có tính nguyên tắc. Để đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về MBN có hiệu quả, phải giải quyết kịp thời từ những vụ việc vi phạm pháp luật điều quan trọng là các cơ quan quản lý nhà nƣớc, các cơ quan bảo vệ pháp luật không đƣợc vì bất cứ lý do gì mà bỏ qua, không xử lý cho dù vụ việc đó thuộc trƣờng hợp ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Thực tế hàng năm các cơ quan chức năng đã xử lý hành chính, xử lý dân sự và xử lý hình sự các hành vi vi phạm pháp luật về MBN và liên quan đến hành vi MBN song mới ở mức độ hạn chế. Việc phát hiện, ngăn chặn và
  • 117. 110 xử lý hành vi vi phạm còn ít so với thực tế tình hình vi phạm hiện nay. Điều đó cho thấy công tác chỉ đạo, quản lý về PCMBN ở Thanh Hóa còn chƣa tích cực, chƣa chủ động trong đấu tranh, trấn áp tội phạm MBN và các hành vi vi phạm pháp luật có liên quan. Để pháp luật PCMBN đƣợc thực hiện đầy đủ, công tác đấu tranh phòng ngừa vi phạm pháp luật về MBN có hiệu quả, một trong những giải pháp quan trọng là cần phải xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về MBN. Bên cạnh đó cần phải kiên quyết chống lại những biểu hiện nể nang, bao che hoặc thờ ơ với những hành vi vi phạm pháp luật về MBN của những ngƣời có thẩm quyền. Có đƣợc nhƣ vậy thì pháp luật PCMBN mới đƣợc tôn trọng và bảo đảm giá trị thực thi. 3.3.7. Tăng cƣờng công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán ngƣời Công tác thanh tra, giám sát cũng là một giải pháp quan trọng trong việc ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về MBN. Cùng với việc phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật, thanh tra, giám sát còn đóng vai trò nhƣ một biện pháp phòng ngừa hữu hiệu các vi phạm pháp luật về MBN. Thanh tra cùng với các phƣơng thức kiểm tra, giám sát luôn là hiện thân của kỷ cƣơng pháp luật; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát dù đƣợc thực hiện dƣới bất cứ hình thức nào cũng luôn có tác dụng hạn chế, răn đe những hành vi vi phạm pháp luật của các đối tƣợng quản lý. Mặt khác, các giải pháp đƣợc đƣa ra từ hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát không chỉ hƣớng vào việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, mà còn có tác dụng khắc phục các kẽ hở của chính sách, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh những vi phạm pháp luật. Thanh tra, giám sát trong lĩnh vực PCMBN còn là một phƣơng thức phát
  • 118. 111 huy dân chủ, tăng cƣờng pháp chế, phát hiện và xử lý những biểu hiện thờ ơ, thiếu trách nhiệm của một bộ phận cán bộ trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra mới biết chủ trƣơng, nghị quyết của Đảng, cơ chế, chính sách của Nhà nƣớc về PCMBN đƣợc thực hiện trong thực tế cuộc sống ra sao? Có đƣợc thực hiện đầy đủ hay không? Cũng qua việc thƣờng xuyên thanh tra, giám sát mà các nhà lãnh đạo, quản lý có đƣợc những thông tin phản hồi từ thực tế cuộc sống, đó là những dữ liệu quan trọng để đề ra những chủ trƣơng, chính sách về PCMBN sát hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Ở Thanh Hóa hiện nay, công tác thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật PCMBN do Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội phối hợp với Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh tiến hành. Hàng năm, các cơ quan này thƣờng tổ chức các đoàn đi kiểm tra công tác PCMBN và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Kết quả kiểm tra cũng đã đánh giá đƣợc phần nào những ƣu điểm, hạn chế trong công tác thực hiện pháp luật về PCMBN. Bên cạnh đó, tại các kỳ họp của Hội đồng nhân dân các cấp ở địa phƣơng, cũng có đề cập tới vấn đề giám sát đối với hoạt động quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, việc xử lý vi phạm pháp luật về MBN vẫn còn đang hạn chế. Vì vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN. Muốn đảm bảo cho pháp luật PCMBN đƣợc thực hiện đúng đắn, các hành vi vi phạm pháp luật về MBN đƣợc phát hiện và xử lý kịp thời, yêu cầu cần thiết đặt ra là tăng cƣờng công tác thanh tra, giám sát trong việc thực hiện pháp luật về PCMBN, ngƣời lãnh đạo, quản lý phải tạo điều kiện cho tổ chức thanh tra hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, có sự nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của PCMBN.
  • 119. 112 Tiểu kết chƣơng 3 Căn cứ vào đặc điểm tình hình cụ thể ở địa phƣơng tỉnh Thanh Hóa trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về PCMBN. Để pháp luật PCMBN thực sự đi vào cuộc sống nhằm bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn thể nhân dân tỉnh Thanh Hóa cần phải quán triệt, phát huy và thực hiện đồng bộ các quan điểm và giải pháp trong Chƣơng III mà luận văn đã nêu. Đây là những giải pháp căn bản mang tính đặc thù đối với loại hình vi phạm nguy hiểm và có độ ẩn cao đang xảy ra trên địa bàn của tỉnh và các địa phƣơng khác trên cả nƣớc hiện nay.
  • 120. 113 KẾT LUẬN 1. PCMBN là vấn đề quan tâm của hầu hết các quốc gia và đƣợc xác định là một trong những mục tiêu Thiên niên kỷ của toàn cầu. Đồng thời, PCMBN cũng đƣợc quan tâm trong các chƣơng trình, dự án phát triển hợp tác song phƣơng và đa phƣơng giữa các quốc gia, sở dĩ cần phải thực hiện PCMBN vì PCMBN bảo đảm cho quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ công dân đƣợc thực hiện đầy đủ; đảm bảo không có sự lợi dụng điều kiện sống để phân biệt, đối xử, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con ngƣời gây ảnh hƣởng xấu đến sức khỏe, thân thể, tình cảm, tinh thần và nhân cách của con ngƣời, gây hại đến các mối quan hệ xã hội và giá trị đạo đức, đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em, tạo nên sự không công bằng và làm hạn chế sự phát triển. Chính vì vậy, pháp luật về PCMBN ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Song hiệu quả và giá trị của nó phụ thuộc vào quá trình tổ chức thực hiện pháp luật PCMBN, làm cho các quy định của pháp luật đi vào thực tế cuộc sống và phụ thuộc vào hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN. 2. Pháp luật về PCMBN là những quy định mang tính bắt buộc của nhà nƣớc đối với mọi chủ thể và đƣợc nhà nƣớc bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các hành vi liên quan đến hoạt động MBN. Vì vậy, mỗi chúng ta cần phải hiểu rõ và nhận thức đúng đắn khái niệm MBN, những hành vi bị nghiêm cấm, các nguyên tắc PCMBN, chính sách của nhà nƣớc về PCMBN và quyền, nghĩa vụ của nạn nhân. Trên cơ sở đó có biện pháp cụ thể để thực hiện pháp luật về PCMBN. 3. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về PCMBN ở Thanh Hóa trong những năm qua cho thấy: việc thực hiện pháp luật về PCMBN ở Thanh Hóa đã đạt đƣợc những kết quả quan trọng, góp phần thực
  • 121. 114 hiện mục tiêu PCMBN. Tuy nhiên, hiện tƣợng vi phạm pháp luật về PCMBN vẫn xảy ra trong địa bàn tỉnh do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân nổi cộm và phổ biến nhất đó là điều kiện kinh tế gia đình của các nạn nhân khó khăn, họ đã nhẹ dạ tin lời kẻ xấu lừa gạt đi làm ăn xa nhà kiếm đƣợc nhiều tiền để có cuộc sống sung túc hơn. Tiếp đến là sự nhận thức về lý luận cũng nhƣ thực tiễn về pháp luật PCMBN của các cấp ủy Đảng, chính quyền còn nhiều bất cập nên chƣa có ý thức cao trong việc chỉ đạo thực hiện pháp luật PCMBN. 4. Để đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp: Hoàn thiện pháp luật về PCMBN; Đảm bảo nguồn lực về cán bộ và kinh phí phục vụ cho công tác PCMBN; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức pháp luật về PCMBN cho nhân dân; hoàn thiện cơ chế xã hội trong việc đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật về PCMBN; Xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về MBN; Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và sự tham gia của các tổ chức đoàn thể trong việc thực hiện pháp luật về PCMBN; Tăng cƣờng thanh tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình thực hiện pháp luật về PCMBN./.
  • 122. 115 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ƣơng (2010), Chỉ thị số 48-CT/TW, ngày 22/10/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Hà Nội. 2. Ban chỉ đạo 130/CP (2009), Tài liệu tập huấn bảo vệ nạn nhân trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án mua bán người, Hà Nội 3. Ban chỉ đạo 130/CP (2011), Kế hoạch số 191/KH-BCĐ-130/CP của Ban chỉ đạo 130/CP ngày 26/10/2011 triển khai chương trình hành động phòng, chống tội phạm mua bán người giai đoạn 2011-2015, Hà Nội. 4. Ban chỉ đạo 138 Chính phủ (2013), Quyết định 236/QĐ-BCĐ 138/CP ngày 01/10/2013 của Ban chỉ đạo 138 Chính phủ quyết định ban hành quy chế hoạt động Ban chỉ đạo phòng, chống tội phạm của Chính phủ, Hà Nội. 5. Ban chỉ đạo 138 tỉnh Thanh Hóa (2011), Báo cáo sơ kết 01 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”, Thanh Hóa. 6. Ban chỉ đạo 138 tỉnh Thanh Hóa (2011), Quyết định của số 3602/QĐ- BCĐ ngày 01/11/2011 về Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm tỉnh Thanh Hóa, Thanh Hóa. 7. Ban chỉ đạo 138 tỉnh Thanh Hóa (2012, 2013, 2014), Kế hoạch phòng, chống tội phạm mua bán người, Thanh Hóa. 8. Ban chỉ đạo chƣơng trình 130/CP (2006), Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em và các văn bản chỉ đạo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 9. Ban thƣờng vụ tỉnh ủy Thanh Hóa (2011), Chỉ thị số 09-CT/TU ngày 30/12/2011 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo an ninh trật tự và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, Thanh Hóa.
  • 123. 116 10. Ban tuyên giáo tỉnh ủy Thanh Hóa (2014), Báo cáo (tóm tắt) đánh giá kết quả 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII nhiệm kỳ 2010-2015, Thanh Hóa. 11. Báo điện tử Thanh Hóa (2014), Kiểm soát, xử lý các cơ sở kinh doanh doanh dịch vụ mại dâm trá hình, ngày 06/3/2014, http//: www.baothanhhoa.vn. 12. Vũ Ngọc Bình (1998), “Phòng chống buôn bán và mại dâm trẻ em”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa (2010, 2011), Báo cáo tổng kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em năm 2010, 2011, Thanh Hóa. 14. Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa (2012, 2013), Báo cáo tổng kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người năm 2012, 2013, Thanh Hóa. 15. Bộ Công an (2012), Kế hoạch số 2592/C41-C45 ngày 03/7/2012 về việc thực hiện đợt cao điểm đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người trên tuyến biên giới năm 2012, Hà Nội. 16. Bộ Công an (2012), Tài liệu tập huấn chuyên sâu Luật phòng, chống mua bán người, Nxb Lao động, Hà Nội. 17. Bộ Công an (2013), Kế hoạch số 374/C45 ngày 22/3/2013 về nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm mua bán người năm 2013, Hà Nội. 18. Bộ Công an (2013), Kế hoạch thực hiện các Đề án thuộc Chương trình hành động phòng, chống tội phạm mua bán người giai đoạn 2011-2015, Hà Nội. 19. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Bộ ngoại giao (2014), Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLTBCA-BQP- BLĐTBXH-BNG ngày 10/02/2014, hướng dẫn trình tự, thủ tục và quan hệ phối hợp trong việc xác minh, xác định, tiếp nhận và trao trả nạn nhân bị mua bán, Hà Nội.
  • 124. 117 20. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Bộ Tƣ pháp (2013), Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC- BCA-BQP-BTP ngày 23/7/2013 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm đối với người có hành vi mua bán người, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, Hà Nội. 21. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2009), Thông tư số 05/2009/TT- TBXH ngày 17/2/2009 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về hướng dẫn tổ chức và hoạt động của Cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo Quyết định số 17/QĐ/TTg, Hà Nội. 22. Bộ quốc phòng (2014), Thông tư số 78/2013/TT-BQP ngày 25/6/2013 của Bộ quốc phòng quy định các biện pháp của Bộ đội biên phòng và Cảnh sát biển trong phòng, chống mua bán người, Hà Nội. 23. Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thƣơng binh và xã hội (2007), Thông tư số 116/LB-TC-TBXH ngày 27/9/2007 hướng dẫn nội dung chi, mức chi cho công tác xác minh, tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về, Hà Nội. 24. Bộ Tƣ pháp (2004), Báo cáo đánh giá và một số kiến nghị về hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em, Hà Nội. 25. Bộ Tƣ pháp (2004), Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam trên tinh thần các nghị định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán người và di cư trái phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội. 26. Bộ Tƣ pháp (2010), Báo cáo số 133/BC-BTP ngày 12/7/2010 về đánh giá tác động của dự án Luật phòng, chống mua bán người, Hà Nội. 27. Chính phủ (2005), Quyết định số 321/2005/QĐ-TTg ngày 30/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các đề án thuộc Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến năm 2010, Hà Nội.
  • 125. 118 28. Chính phủ (2007), Chỉ thị số 16/2007/CT-TTg ngày 27/06/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, Hà Nội. 29. Chính phủ (2007), Quyết định số 17/2007/QĐ/TTG ngày 29/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy chế tiếp nhận tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về, Hà Nội. 30. Chính phủ (2011), Quyết định số 1427/QĐ-TTg ngày 18/8/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động phòng, chống tội phạm mua bán người giai đoạn 2011-2015, Hà Nội. 31. Chính phủ (2012), Nghị định số 62/2012/NĐ-CP ngày 13/8/2012 của Chính phủ quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân thích của họ, Hà Nội. 32. Chính phủ (2013), Nghị định số 09/2013/NĐ-CP ngày 11/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống mua bán người, Hà Nội. 33. Chính phủ (2005), Hiệp định giữa Việt Nam - Campuchia về hợp tác song phương nhằm loại trừ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em và giúp đỡ nạn nhân bị buôn bán, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 34. Chính phủ (2008), Hiệp định giữa Việt Nam - Thái Lan về hợp tác song phương nhằm loại trừ nạn buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em và giúp đỡ nạn nhân bị buôn bán, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 35. Chính phủ (2010), Hiệp định hợp tác Việt Nam - Lào về phòng, chống buôn bán người và bảo vệ nạn nhân bị mua bán, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 36. Chính phủ (2010), Hiệp định hợp tác Việt Nam - Trung Quốc về phòng, chống buôn bán người, Nxb Công an nhân dân. 37. Chính phủ (2012), “Chủ đề pháp luật phòng, chống mua bán ngƣời”, Đặc san tuyên truyền pháp luật, (02), Hà Nội.
  • 126. 119 38. Công an tỉnh Thanh Hóa (2009, 2010, 2011), Báo cáo tình hình, kết quả công tác phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em năm 2009, 2010,2011, Thanh Hóa. 39. Công an tỉnh Thanh Hóa (2012, 2013), Báo cáo tình hình, kết quả công tác phòng, chống tội phạm mua bán người năm 2012, 2013, Thanh Hóa. 40. Công an tỉnh Thanh Hóa (2013), Báo cáo kết quả khảo sát tình hình hoạt động tội phạm mua bán người và các đối tượng khác có liên quan giai đoạn 2008-2013, Thanh Hóa. 41. Cổng thông tin điện tử Thanh Hóa (2014), Tổng quan về Thanh Hóa, http//:www.thanhhoa.gov.vn. 42. Đảng cộng sản Việt nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020. 43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (2012), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, Thanh Hóa. 45. Đoàn kiểm tra - Tỉnh ủy Thanh Hóa (2012), Báo cáo kết quả kiểm tra công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị 09-CT/TU của Ban Thường Tỉnh ủy, Thanh Hóa. 46. Vũ Công Giao (2014), “Báo cáo đánh giá khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam về phòng, chống mua bán người”, Tổ chức tầm nhìn Thế giới. 47. Học viện Chính trị- Hành Chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình Những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 48. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao (1986), Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ Luật hình sự năm 1985, Hà Nội.
  • 127. 120 49. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Thanh Hóa (2012), Báo cáo đánh giá 5 năm thực hiện Luật Bình đẳng giới, Hà Nội. 50. ILO (1999), Công ước số 182 về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, tại hr.law.vnu.vn/cac cong uoc chinh ve nhan quyen?. 51. Đặng Xuân Khang (2004), "Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam - thực trạng và giải pháp", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Công an. 52. Nguyễn Thị Lan (2009), “Bàn về tội mua bán ngƣời trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999”, Tạp chí Khoa học, ĐHQGHN, Luật học, (25). 53. Liên đoàn lao động tỉnh Thanh Hóa (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện chương trình hành động “Vì sự tiến bộ của phụ nữ” (2001 – 2010), phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2010 – 2012, Thanh Hóa. 54. Liên hợp quốc (1981), Công ước về xóa bỏ các hình thức phân biệt, đối xử đối với phụ nữ (Công ƣớc CRDAW), tại hr.law.vnu.vn/cac cong uoc chinh ve nhan quyen?. 55. Liên hợp quốc (2000), Nghị định thư không bắt buộc bổ sung công ước về quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mua dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em năm 2000. 56. Liên hợp quốc (2000), Nghị định thư về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000, bổ sung công ước về chống tội phạm có tổ chức và xuyên quốc gia (Nghị đinh thư Palermo), tại hr.law.vnu.vn/cac cong uoc chinh ve nhan quyen?. 57. Liên hợp quốc (2000), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Liên hợp quốc thông qua (ngày 10/12/1948). 58. Nguyễn Quang Lộc (2013), “Kỹ năng xét xử và bảo vệ nạn nhân trong các vụ án về mua bán ngƣời”, Tạp chí Tòa án, (3).
  • 128. 121 59. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013), Hiến pháp các năm, Hà Nội. 60. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (1999), Bộ luật hình sự, sửa đổi, bổ sung 2009, Hà Nội. 61. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2000), Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội. 62. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội. 63. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2004), Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, Hà Nội. 64. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội. 65. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2011), Luật phòng, chống mua bán người, Hà Nội. 66. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2012), Bộ luật lao động, Hà Nội. 67. Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội. 68. Lê Thị Quý (2000), Vấn đề ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ ở Việt Nam, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội. 69. Sở Lao động - Thƣơng binh và xã hội tỉnh Thanh Hóa (2013), Báo cáo công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán tái hòa nhập cộng đồng, Thanh Hóa. 70. Sở Tƣ pháp tỉnh Thanh Hóa (2009, 2010, 2011, 2012, 2013), Báo cáo công tác hộ tịch, các năm, tại hr.law.vnu.vn/cac cong uoc chinh ve nhan quyen?. 71. Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2009, 2010, 2011, 2012), Báo cáo kết quả tình hình xét xử, Thanh Hóa. 72. Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2013), Báo cáo tổng hợp kết quả xét xử tội phạm mua bán người từ năm 2008 đến năm 2013, Thanh Hóa.
  • 129. 122 73. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 74. Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2004), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 75. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2011), Kế hoạch số 61/KH-UBND ngày 01/11/2011 về thực hiện Chương trình hành động phòng, chống tội phạm mua bán người giai đoạn 2011-2015, Thanh Hóa. 76. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2013), Quyết định số 2134/QĐ-UBND ngày 20/6/2013 về việc phê duyệt đội công tác xã hội (CTXH) tình nguyện tại xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2013-2018, Thanh Hóa. 77. Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm, Hà Nội. 78. Văn phòng theo dõi và đấu tranh chống buôn bán ngƣời của Đại sứ quán Hợp chủng quốc Hoa kỳ tại Việt Nam (2011, 2012, 2013, 2014), Báo cáo tình hình buôn bán người, tại http://vietnam.usembassy.gov. 79. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2008, 2009, 2010), Báo cáo kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, các năm 2008, 2009, 2010, Thanh Hóa. 80. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2011,2012, 2013), Báo cáo kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, các năm 2011. 2012, 2013, Thanh Hóa.