ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
ĐẶNG THỊ KIM LIÊN
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO LẬP VĂN BẢN
MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC (Giáo dục Tiểu học)
THEO ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU
Thừa Thiên Huế, 2017
i
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
ĐẶNG THỊ KIM LIÊN
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO LẬP VĂN BẢN
MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4
Chuyên nghành: Giáo dục học (Giáo dục tiểu học)
Mã số: 60 14 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
THEO ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Lê Thị Ngọc Anh
Thừa Thiên Huế, 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các
đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ
một công trình nào khác.
Họ tên tác giả
Đặng Thị Kim Liên
ii
Lời Cảm Ơn
Bằng tấm lòng trân trọng và sự biết ơn sâu sắc của mình, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến cô giáo TS. Lê Thị Ngọc Anh, người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn
tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong Khoa Giáo
dục Tiểu học trường Đại học Sư phạm Huế đã giảng dạy và luôn tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt hành trình khóa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu và tập thể giáo viên, học sinh
Trường Tiểu học Số 2 Kim Long và Trường Tiểu học Phú Cát – Thành phố Huế đã
tạo điều kiện tốt nhất để tôi được học Cao học và hoàn thành luận văn.
Lời sau cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè đã luôn
quan tâm, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Đặng Thị Kim Liên
ii
iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan .............................................................................................................. i
Lời cảm ơn ................................................................................................................. ii
Mục lục....................................................................................................................... ii
Bảng chữ cái viết tắt.................................................................................................. vi
Danh mục các bảng, biểu đồ .................................................................................... vii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................6
3.1. Mục đích nghiên cứu............................................................................................6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu...........................................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................7
4.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................7
4.2. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................7
5.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp.......................................................................7
5.2. Phương pháp quan sát - điều tra...........................................................................7
5.3. Phương pháp thống kê, phân loại toán học..........................................................7
5.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.....................................................................7
6. Cấu trúc của luận văn..............................................................................................7
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC TẠO TẬP VĂN BẢN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4............8
1.1. Cơ sở lí luận .........................................................................................................8
1.1.1. Định hướng phát triển năng lực trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học ..............8
1.1.2. Văn miêu tả và năng lực tạo lập văn bản miêu tả trong phân môn Tập làm văn.17
1.1.3. Đặc điểm tâm lí và tư duy của học sinh lớp 4 ảnh hưởng đến việc tạo lập văn
bản miêu tả ................................................................................................................23
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................25
iv
1.2.1. Nội dung dạy học làm văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 4 hiện
hành ........................................................................................................................25
1.2.2. Thực trạng dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 tại một số
trường Tiểu học ở Thành phố Huế............................................................................31
Tiểu kết chương 1......................................................................................................38
Chƣơng 2. BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO VĂN BẢN MIÊU
TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4..................................................................................39
2.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp ............................................................................39
2.1.1. Đảm bảo mục tiêu và nội dung dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh
lớp 4 ........................................................................................................................39
2.1.2. Đảm bảo phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.............39
2.1.3. Đảm bảo tính hệ thống, tính vừa sức ..............................................................40
2.2. Hệ thống biện pháp phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 40
2.2.1. Phát triển kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong tạo lập văn bản.....40
2.2.2. Phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu tả ..............................54
2.2.3. Phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong
tạo lập văn bản miêu tả..............................................................................................67
Tiểu kết chương 2......................................................................................................85
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ..............................................................86
3.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................................86
3.2. Đối tượng và phạm vi thực nghiệm ...................................................................86
3.2.1. Đối tượng thực nghiệm ...................................................................................86
3.2.2. Phạm vi thực nghiệm ......................................................................................86
3.3. Phương pháp và nguyên tắc thực nghiệm ..........................................................86
3.3.1. Phương pháp thực nghiệm ..............................................................................86
3.3.2. Nguyên tắc thực nghiệm .................................................................................87
3.4. Nội dung thực nghiệm........................................................................................87
3.4.1. Thời gian thực nghiệm ....................................................................................87
3.4.2.Giáo án thực nghiệm ........................................................................................87
3.4.3. Tiến hành thực nghiệm....................................................................................88
v
3.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả thực nghiệm ............................................................88
3.5.1. Hình thức kiểm tra ..........................................................................................88
3.5.2. Tiêu chí đánh giá.............................................................................................88
3.5.3.Kết quả thực nghiệm sư phạm .........................................................................89
Tiểu kết chương 3......................................................................................................95
KẾT LUẬN..............................................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................99
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
GV Giáo viên
HS Học sinh
SGK Sách giáo khoa
NL Năng lực
SL Số lượng
TL Tỉ lệ
LTN Lớp thực nghiệm
LĐC Lớp đối chứng
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1.4. Cấu trúc chương trình tập làm văn lớp 4.................................................25
Bảng 1.5. Kết quả khảo sát GV ...............................................................................31
Bảng 1.6. Kết quả khảo sát HS.................................................................................35
Bảng 3.3. Kết quả làm bài văn miêu tả của HS trường Tiểu học Số 2 Kim Long ...89
Bảng 3.4. Kết quả làm bài văn miêu tả của HS trường Tiểu học Phú Cát ...............89
Bảng 3.5. Kết quả tổng hợp bài làm văn miêu tả của HS.........................................89
Bảng 3.6. Bảng thống kê mức độ hứng thú học tập của HS.....................................94
Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh kết quả lớp đối chứng và lớp thực nghiệm ................90
(theo Số lượng)..........................................................................................................90
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ so sánh kết quả lớp đối chứng và lớp thực nghiệm ................90
(theo Tỉ lệ).................................................................................................................90
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện chương trình giáo dục phổ
thông Việt Nam: Trong chiến lược phát triển đất nước, giáo dục luôn được xem là
“quốc sách hàng đầu”, là “tương lai của dân tộc”. Nghị quyết 29-NQ/TW của Hội
nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI xác định mục tiêu: “Tạo chuyển
biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày
càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân.
Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng,
khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống
tốt và làm việc hiệu quả”; trong đó, đối với giáo dục phổ thông, Đảng và Nhà nước
chú trọng “tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, NL công dân,
phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho HS. Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối
sống, ngoại ngữ, tin học, NL và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực
tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời” [1]. Từ
những yêu cầu mang tính cấp thiết đó, những năm gần đây, giáo dục phổ thông Việt
Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, thường xuyên cập nhật các thông tin
khoa học mới, góp phần phong phú hoá tư liệu dạy học. Giáo dục Tiểu học, với vị
thế nền tảng, khởi đầu, cũng từng bước hoà nhập không khí đổi mới, mạnh dạn đề
xuất, thử nghiệm và tiếp tục phát triển các mô hình đào tạo như CGD (Công nghệ
giáo dục - áp dụng chủ yếu với môn Tiếng Việt) hay dạy học Mĩ thuật theo phương
pháp mới của Đan Mạch,... Việc dạy học tiếng mẹ đẻ, lẽ tất nhiên, không nằm ngoài
sự vận động tích cực đó.
1.2. Xuất phát từ định hướng phát triển NL trong dạy học Tiếng Việt ở nhà trường
tiểu học: Nghị quyết về Đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông (số
88/2014/QH13) thông qua ngày 28/11/2014 tại kì họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII
nhấn mạnh việc “xây dựng chương trình giáo dục phổ thông theo hướng phát triển
NL người học” [2]. Bên cạnh hệ thống “năng lực chung”, giáo dục cần hướng tới
phát triển ở người học các “năng lực chuyên biệt”, trong đó có NL ngôn ngữ
(linguistic competence) và NL sử dụng ngôn ngữ (hay NL giao tiếp -communicative
competence). Quan điểm “dạy tiếng Việt để giao tiếp và dạy bằng giao tiếp” cũng
2
được các nhà sư phạm chú trọng, xem đó là yếu tố cơ bản chi phối toàn bộ quá trình
dạy học tiếng mẹ đẻ ở nhà trường phổ thông.
Dạy học Tiếng Việt ở tiểu học một mặt tiếp tục phát triển trên những nền
tảng vững chắc về khoa học ngôn ngữ và khoa học sư phạm, mặt khác tiếp cận với
những định hướng chiến lược mới nhằm phát triển ở người học các NL vận hành
tiếng mẹ đẻ. Điều này đồng nghĩa với việc HS được rèn luyện một cách hệ thống
các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết; các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so
sánh,... NL của người học được đo bằng những sản phẩm lời nói tạo lập được. Đó
có thể là bài đọc (kể) diễn cảm tác phẩm văn học, là một đoạn văn, bài văn hay một
phát ngôn biểu thị chính xác nghi thức giao tiếp. Tựu trung, từ điểm nhìn năng lực,
nhân tố con người được đặt trong một chuỗi các hoạt động mang tính kết nối, khoa
học, có khả năng khơi nguồn cảm hứng sáng tạo...
1.3. Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn đối với việc dạy học tạo lập văn bản miêu tả
cho học sinh lớp 4: Chương trình Tiếng Việt tiểu học hiện hành là hợp phần gồm
bảy phân môn, trong đó có Tập làm văn - phân môn đảm nhiệm việc “rèn cho học
sinh NL tạo lập, sản sinh ngôn bản” [10]. Ở các lớp cuối bậc Tiểu học, các kiểu bài
làm văn cũng có sự phát triển đa dạng hơn. Văn miêu tả, với những đặc trưng riêng,
luôn hấp dẫn trẻ nhỏ. Bởi với kiểu bài này, các em được thoả mãn khả năng sáng
tạo, “tô điểm” cho bức tranh muôn màu của cuộc sống bằng chất liệu ngôn từ. Năm
dạng thức văn miêu tả (tả đồ vật, tả con vật, tả cây cối, tả cảnh, tả người) đặt ra
những yêu cầu riêng về quá trình quan sát, tìm ý, chuyển ý thành lời,... Điều này
làm nên sự phong phú trong cách thức biểu đạt song cũng gây không ít khó khăn
cho HS, nhất là khi vốn sống, sự trải nghiệm, trình độ ngôn ngữ, tư duy của các em
còn nhiều hạn chế.
Dạy tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 là một bước khởi đầu của dạy tạo
lập văn bản nghệ thuật trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. Vận hành vốn từ đã
tích luỹ để dệt nên những "bức vẽ" về cỏ cây hoa lá, về chim muông, về những đồ
vật gần gũi quanh mình sẽ giúp trẻ có được những trải nghiệm thú vị. Đây cũng là
cách các em “chạm vào cuộc sống”, cảm nhận từ thế giới xung quanh những gì thân
yêu nhất. Thực hành tạo lập văn bản miêu tả còn góp phần hình thành ở HS lớp 4
NL quan sát, tri nhận sự vật, thể hiện cá tính sáng tạo qua từ ngữ, qua các biện pháp
tu từ từ vựng, cú pháp,...
Mặc dù vậy, thực tiễn dạy học Tập làm văn lớp 4 cho thấy những hạn chế
nhất định về quy trình, cách thức tổ chức hoạt động tạo lập văn bản miêu tả. Các kĩ
3
năng tiền sản sinh ngôn bản như quan sát, trải nghiệm, tìm ý, lập dàn ý chưa được
chú trọng. Từ phía HS, có thể thấy các em còn gặp một số khó khăn khi vận hành
ngôn ngữ. Không ít bài văn của HS lớp 4 còn mắc lỗi diễn đạt, lỗi cú pháp, nghèo
nàn về hình ảnh và thiếu tính sáng tạo. Đa số các em đã nắm được cấu trúc của một
bài văn miêu tả song còn viết theo một lối mòn khuôn sáo, kém hấp dẫn, ít xúc cảm;
đặc biệt, các em chưa biết cách sắp xếp ý trong đoạn văn, bài để tạo lập một văn bản
hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, khả năng đánh giá, hiệu chỉnh sản phẩm lời nói của HS
cũng chưa cao.
Đứng trước những yêu cầu cấp thiết về dạy học theo định hướng phát triển
NL, trong đó có phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả và những bài toán xuất phát
từ đòi hỏi của thực tiễn đối với việc dạy tạo lập văn bản miêu tả, chúng tôi quyết
định nghiên cứu đề tài “Phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh
lớp 4”. Đề tài một mặt hình thành, rèn luyện và phát triển các kĩ năng tạo lập văn
bản miêu tả cho HS, mặt khác góp phần tạo nên những thay đổi về cách thức dạy
học Tập làm văn theo định hướng mới.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Năng lực và dạy học theo định hướng phát triển năng lực là địa hạt nghiên cứu
của nhiều nhà tâm lí học, giáo dục học trong và ngoài nước. Các tác giả đã xây
dựng, đề xuất khá nhiều mô hình, cấu trúc NL. Trong Hội nghị chuyên đề về những
năng lực cơ bản, tác giả J. Coolahan xem NL là những khả năng cơ bản dựa trên cơ
sở tri thức, kinh nghiệm, các giá trị và thiên hướng của một con người được phát
triển thông qua thực hành giáo dục. Tài liệu của các nhà sư phạm nghề Đức cũng đề
xuất mô hình NL gồm bốn thành tố: (1) NL chuyên môn; (2) NL phương pháp; (3)
NL xã hội; (4) NL cá thể.
Trong hệ thống NL mà người học cần hướng tới, NL sử dụng ngôn ngữ có
vai trò vô cùng quan trọng. Nhiệm vụ phát triển các kĩ năng tiếng Việt, trong đó có
hệ thống kĩ năng tạo lập văn bản miêu tả, được các nhà phương pháp về dạy học
tiếng xác lập một cách rõ ràng trong nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu. Tiêu
biểu có thể kể đến tác giả Hoàng Hoà Bình với “Dạy văn cho học sinh tiểu học”
(2002), tác giả Lê Phương Nga với nhóm công trình “Phương pháp dạy học Tiếng
Việt ở tiểu học II” (2006), “Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở tiểu học” (2009);
tác giả Hoàng Thị Tuyết với “Lí luận dạy học Tiếng Việt ở tiểu học” (2012). Gần đây
nhất, hai nhà khoa học Hoàng Hoà Bình - Nguyễn Minh Thuyết đã lấy điểm nhìn tiểu
học để soi chiếu các vấn đề về dạy học tiếng. Công trình “Phương pháp dạy học
Tiếng Việt nhìn từ tiểu học” (2012) có thể xem là một “điểm nối” hữu ích giữa
chương trình Tiếng Việt hiện hành và những định hướng phát triển trong tương lai.
4
Ở Việt Nam, gắn với việc dạy học Ngữ văn (THCS và THPT), Tiếng Việt
(tiểu học), các nhà khoa học như Đỗ Ngọc Thống, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn
Thị Hạnh, Nguyễn Thị Hồng Vân cũng lần lượt nêu lên những quan điểm riêng về
NL và việc chú trọng phát triển NL ngôn ngữ cho HS. Các bài nghiên cứu giới thiệu
trong Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông
Việt Nam của các tác giả nêu trên đã phần nào khẳng định chiến lược dạy học ngôn
ngữ, dạy học tiếng mẹ đẻ theo nguyên tắc mới. Nếu tác giả Đỗ Ngọc Thống khái
quát thực trạng và khẳng định hướng phát triển qua bài viết “Dạy học Ngữ văn
trong nhà trường Việt Nam - hiện trạng, hướng phát triển và những vấn đề liên
quan” (2013) thì tác giả Nguyễn Minh Thuyết lại đi vào phân tích và đề xuất những
cách thức cấu trúc chương trình, SGK mới với “Một số vấn đề về đánh giá chương
trình, SGK Ngữ văn hiện hành và đề xuất định hướng biên soạn chương trình, SGK
mới” (2013). Trong một nghiên cứu khác của mình, “Về mô hình SGK Tiếng Việt
tiểu học tương lai” (2014), nhà khoa học Nguyễn Minh Thuyết tiếp tục phác thảo
mô hình chương trình, SGK Tiếng Việt dành cho HS tiểu học.
Tựu chung lại, những công trình nghiên cứu về NL và dạy học Tiếng Việt theo
định hướng phát triển NL trên đã góp phần rất lớn đáp ứng chủ trương chuyển đổi
cách tiếp cận chương trình giáo dục từ hướng cung cấp nội dung sang cách tiếp cận
hình thành và phát triển NL HS và đó chính là một trong những nhiệm vụ đổi mới
căn bản mà người GV phải thực hiện trong quá trình dạy học nói chung và dạy học
Tiếng Việt nói riêng theo định hướng phát triển NL.
2.2. Đề cập cụ thể đến văn miêu tả và dạy học văn miêu tả, nhà nghiên cứu Nguyễn
Trí đã lần lượt nêu bật những đặc trưng cơ bản của “kiểu bài mang tính nghệ thuật”,
từ đó chỉ dẫn các bước để tổ chức giờ học tạo lập văn miêu tả. “Văn miêu tả và
phương pháp dạy học văn miêu tả ở tiểu học” (2007) là một quyển sách có giá trị
đối với những đề tài nghiên cứu về việc dạy và học văn trong nhà trường tiểu học.
Nhóm tác giả Đỗ Ngọc Thống - Phạm Minh Diệu với “Văn miêu tả trong nhà
trường phổ thông” (2008) cũng đã tổng hợp khá đầy đủ các nhận định khác nhau từ
các nhà khoa học ngôn ngữ, khoa học sư phạm về văn miêu tả và viết văn miêu tả,
từ đó cung cấp tư liệu để HS có khả năng rèn luyện và phát triển NL tạo lập ngôn
bản với kiểu bài thú vị này.
Hay trong cuốn Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả [9] nhà văn Tô Hoài đã
nêu lên những kinh nghiệm viết văn quý báu của mình, đó là bài học về quan sát và
bài học về diễn đạt, sáng tạo trong miêu tả khi nói về độ chân thực và gợi cảm của
5
hình tượng. Song chưa thật sự chú trọng một cách đầy đủ các NL khác trong tạo lập
văn bản miêu tả. Các tác giả Vũ Tú Nam, Phạm Hổ, Bùi Hiển, Nguyễn Quang Sáng
với Văn miêu tả và kể chuyện [12] cũng đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm, những suy
nghĩ của bản thân khi viết văn miêu tả và văn kể chuyện. Với Phạm Hổ - nhà văn có
nhiều sáng tác hay dành cho lứa tuổi thiếu nhi, trong cuốn Văn miêu tả và kể
chuyện nói trên, ông đã chú ý tìm ra cái riêng, cái mới cũng như cái chân thật trong
miêu tả. Vì thế mà trong bộ sách giáo khoa Tiếng Việt ở tiểu học chúng ta bắt gặp
rất nhiều những tác phẩm của ông, bài nào cũng hay, cũng gây sự tò mò và hứng thú
cho HS. Còn với nhà văn Bùi Hiển thì ông đã đặc biệt lưu ý đến kiểu miêu tả thiếu
trung thực và sáo mòn của các bạn nhỏ, điều này thể hiện qua mục Trò chuyện về
cách làm bài văn miêu tả và văn kể chuyện trong cuốn sách đã dẫn ở trên. Tác giả
phê bình gây gắt cái lối viết “trơn bút, trơn tay” làm cho con người, sự vật khi miêu
tả không có nét riêng, ai cũng đẹp hoàn hảo như nhau, như thế được gọi là bệnh
“công thức ước lệ”, “nó không xuất phát từ sự quan sát trực tiếp, từ cảm nhận trực
tiếp và cụ thể”. Nhà văn đưa ra bài học quý giá cho HS trong viết văn miêu tả là
miêu tả phải trung thực, phát huy trí tưởng tượng của mỗi cá nhân.
Các tác giả Lê Phương Nga và Lê Hữu Tỉnh trong cuốn sách Tiếng Việt nâng
cao các lớp 3,4,5 [16, 17, 18] cũng đã đưa ra một số bài tập thực hành để rèn luyện
cho HS kĩ năng sử dụng từ ngữ, hình ảnh so sánh, nhân hóa và các phương tiện
ngôn ngữ khác để vận dụng vào viết các đoạn văn, bài văn miêu tả. Tuy nhiên, do
sách chuyên về bài tập và bài tập chia đều cho tất cả các phân môn Tiếng Việt nên
chưa tập trung rèn luyện tất cả các kĩ năng chi tiết cho phân môn tập làm văn, mà cụ
thể là các kĩ năng nhằm phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả.
Trong sự suy tư, trăn trở đi tìm sự đồng điệu về cách viết, sự khát khao bộc
bạch tâm hồn thi thơ, một số tác giả tâm huyết cũng đã chú ý đến việc rèn cho HS kĩ
năng viết văn miêu tả từ việc sử dụng bút pháp tu từ so sánh và nhân hóa. Có thể kể
đến luận văn thạc sỹ “Luyện kĩ năng sử dụng biện pháp tư từ so sánh và nhân hóa
trong viết văn miêu tả cho HS tiểu học” của Phạm Thị Hương Giang hay luận văn
thạc sĩ “Quy trình hướng dẫn học sinh lớp 4,5 luyện tập về phép tu từ so sánh”
trong văn miêu tả của Lê Thị Bích Hợi. Tuy nhiên cả hai luận văn này mới chỉ dừng
lại ở biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa. Như chúng ta đã biết để HS có thể tạo lập
nên một văn bản miêu tả hay thì GV cần phát triển ở các em nhiều kĩ năng. Có thể
kể đến một số kĩ năng như quan sát, trải nghiệm sáng tạo, kĩ năng tìm ý và lập dàn
ý, kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và bút pháp tư từ, chú ý phát triển tư
duy sáng tạo.
6
Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu về xây dựng hệ thống bài tập rèn kĩ
năng viết văn miêu tả cho HS nhưng mới chỉ dừng lại một số kiểu văn chứ chưa bao
quát cũng như chưa đi sâu vào từng kiểu văn miêu tả cụ thể. Ngữ liệu sử dụng trong
các bài tập nhiều lúc còn xa lạ với cuộc sống của các em, các kiểu bài chưa đa dạng,
chưa hấp dẫn và cuốn hút HS.
Các bài viết, các công trình nghiên cứu nói trên đều là những phát hiện đáng
trân trọng, có bài viết là những chia sẻ đầy tâm huyết về kinh nghiệm viết văn của
các nhà văn; có bài viết là đi phân tích quy trình dạy học một bài văn miêu tả, có
công trình chỉ điểm xuyết đến biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong viết văn,
cũng có những tác giả đã đưa ra một số bài tập thực hành để rèn luyện kĩ năng sử
dụng so sánh, nhân hóa trong viết văn.
Điểm qua lịch sử vấn đề như trên để thấy rằng văn miêu tả là một vấn đề hấp
dẫn, tạo nên nhiều bàn luận sâu sắc, những phát hiện từ nhiều góc độ. Mặc dù có
khá nhiều các công trình nghiên cứu về cả lí luận dạy học và thực trạng tổ chức hoạt
động sản sinh ngôn bản ở tiểu học song vấn đề phát triển NL tạo lập văn bản miêu
tả cho HS lớp 4 vẫn thiếu những chỉ dẫn cụ thể, gắn với đặc trưng của từng kiểu bài.
Kế thừa những thành tựu khoa học nói trên, đề tài hi vọng sẽ góp phần giải quyết
một số câu hỏi đặt ra về đường hướng và thực tiễn dạy học Tập làm văn nói chung,
dạy học văn miêu tả nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ những tiền đề lí luận và thực tiễn, luận văn tập trung đề xuất các biện
pháp phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4, từng bước góp phần phát
triển NL sử dụng tiếng Việt ở HS các lớp cuối bậc Tiểu học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lí luận cơ bản về văn miêu tả, NL tạo lập văn miêu
tả ở tiểu học.
- Khảo sát, đánh giá thực tiễn tổ chức hoạt động tạo lập văn bản miêu tả cho
HS lớp 4 theo định hướng phát triển NL hiện nay ở một số trường tiểu học.
- Đề xuất các biện pháp phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học
sinh lớp 4.
- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra, đánh giá và kết luận về tính khả thi
của các biện pháp đã đề xuất.
7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Quá trình dạy học tạo lập văn bản miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 4.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phần khảo sát chương trình dạy học được tiến hành ở khối lớp 4.
- Hoạt động thực nghiệm được thực hiện tại một số trường tiểu học tại Thành
phố Huế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp
Luận văn dùng phương pháp này để phân tích, khái quát, thu thập các cơ sở
lí luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5.2. Phƣơng pháp quan sát - điều tra
Sử dụng phiếu khảo sát, phiếu bài tập để thu mẫu sản phẩm lời nói (bài làm
văn miêu tả); dự giờ, quan sát nhằm nắm bắt và đánh giá chính xác thực trạng tổ
chức hoạt động tạo lập văn bản miêu tả ở nhà trường tiểu học cũng như thu nhận
phản hồi về các biện pháp dạy học mà luận văn đề xuất.
5.3. Phƣơng pháp thống kê, phân loại
Sử dụng để thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu điều tra, số liệu thực
nghiệm, phân loại... làm cơ sở cho việc rút ra kết luận về tính hiệu quả của các giải
pháp đã đề xuất trong đề tài.
5.4. Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm
Chúng tôi dùng phương pháp này đề tiến hành thực nghiệm dạy học tại các
trường Tiểu học nhằm kiểm tra và đánh giá hiệu quả việc phát triển các kĩ năng bộ
phận (quan sát, tìm ý, lập dàn ý, sử dụng phương tiện ngôn từ,...), tạo cơ sở cho việc
phát triển NL tạo lập ngôn bản ở HS tiểu học.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung
của luận văn được cấu trúc thành 03 chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phát triển năng lực tạo lập văn
bản miêu tả cho học sinh lớp 4
Chƣơng 2. Biện pháp phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học
sinh lớp 4
Chƣơng 3. Thực nghiệm sư phạm
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO TẬP VĂN BẢN MIÊU TẢ
CHO HỌC SINH LỚP 4
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Định hướng phát triển năng lực trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học
1.1.1.1. Năng lực và định hướng phát triển năng lực trong dạy học
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình tiếp
cận nội dung sang tiếp cận NL người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc HS học
được cái gì đến việc HS vận dụng được cái gì, vận dụng như thế nào các kiến thức
thu nhận được qua việc học. Để đảm bảo điều đó thì bắt buộc phải thực hiện thành
công việc chuyển đổi từ phương thức dạy học theo lối truyền thụ một chiều sang
dạy cách học, cách vận dụng kiến thức và rèn luyện các kĩ năng cần thiết để hình
thành các phẩm chất, NL. Thực ra, điều này lâu nay chúng ta đã làm qua các đợt đổi
mới dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng nhưng nhìn chung chưa triệt để, chúng ta
vẫn còn quá chú trọng vào nội dung bài học mà chưa thực sự chú trọng một cách
đầy đủ đến chủ thể người học cũng như khả năng ứng dụng tri thức đã học trong
những tình huống thực tiễn.
Trước bối cảnh đó và để chuẩn bị cho quá trình đổi mới chương trình, SGK
giáo dục phổ thông sau 2018, BGDĐT đã ban hành nhiều thông tư liên quan để tạo
tiền đề vững chắc cho những đổi mới về giáo dục phổ thông trong thời gian tới.
Trong đó, thông tư 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28/8/2014 của Bộ GD và ĐT về Ban
hành Quy định đánh giá HS tiểu học được coi là bước khởi điểm đột phá về thực
hiện nghị quyết số 29 NQ/TƯ ngày 4 tháng 11 năm 2013 “Về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”[1].
Sau hai năm thực hiện, Thông tư 30/2014 được điều chỉnh, bổ sung bởi Thông tư
22/2016/TT-BGDĐT (Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT ngày 28/9/2016 của
Bộ GDĐT), về căn bản vẫn giữ vững mục tiêu và yêu cầu về đánh giá HS trên hai
phương diện gồm: kiến thức- kĩ năng, năng lực- phẩm chất; thay cho Thông tư
32/2009/TT-BGDĐT trước đây chủ yếu trên 2 mặt Kiến thức - kĩ năng và Hạnh
kiểm (đạo đức). Mục tiêu số 1 của Thông tư 30/2014 vẫn được Thông tư 22/2016
giữ nguyên là “Giúp GV điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt
động dạy học, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình và kết thúc mỗi giai đoạn
9
dạy học, giáo dục; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của HS để động viên,
khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của HS để hướng dẫn,
giúp đỡ; đưa ra nhận định đúng những ưu điểm nổi bật và những hạn chế của mỗi
HS để có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập,
rèn luyện của HS; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học”[2].
Tổ chức dạy học nhằm giúp HS hình thành và phát triển NL, phẩm chất cũng
không phải là mới. Tuy nhiên quá trình tổ chức dạy học để thể hiện được rõ nét việc
phát huy NL cá nhân, tạo điều kiện cho HS phát huy được tính sáng tạo và phối
hợp, tương trợ lẫn nhau trong học tập trong mỗi đơn vị kiến thức, mỗi tiết học, hoạt
động giáo dục vẫn cần sự thay đổi và thay đổi trong chính mỗi GV. Một thay đổi
cần làm cụ thể, thiết thực và quan trọng để dạy học hình thành, phát triển phẩm
chất, NL là đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo
dục theo định hướng phát triển NL người học.
Trong chương trình dạy học định hướng phát triển NL thì khái niệm NL được
hiểu là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng
thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng
của cuộc sống. Còn theo Hoàng Thị Tuyết thì “năng lực được xem như sự tích hợp
sâu sắc của kiến thức, kĩ năng, thái độ làm nên khả năng thực hiện một công việc
chuyên môn và được thể hiện trong thực tiễn hoạt động”[21]. Đối chiếu quan điểm
này với thực tiễn đánh giá HS hiện nay chủ yếu dựa trên kết quả học tập - tức là kết
quả của các bài thi hơn là mục tiêu dạy học. Sự ra đời của thông tư 30 rồi thông tư
22 đã phần nào giải thích rõ hơn việc đánh giá theo NL HS - đánh giá theo quá
trình, vì sự tiến bộ của người học, ghi rõ những nhận xét về kiến thức, kĩ năng, thái
độ mà HS thể hiện qua các hoạt động học tập và bài kiểm tra. Trong một bài viết
gần đây Đỗ Ngọc Thống có nhận định: Nói đến NL là phải nói đến khả năng thực
hiện, phải “biết làm” chứ không chỉ “biết và hiểu”. “Biết” ở đây bao gồm hệ thống
những tri thức, kiến thức, kĩ năng, thái độ mà người học thực hiện trong các hoạt
động cụ thể và vận dụng nó để giải quyết các tình huống cuộc sống thực tiễn.
Vậy Năng lực có những đặc trưng gì?
Để phân biệt NL với những khái niệm khác cùng phạm trù, các tài liệu trong
nước và nước ngoài đều thống nhất quan niệm NL mang tính cá nhân, được bộc lộ ở
hoạt động (hành động, công việc) nhằm đáp ứng những yêu cầu cụ thể trong bối
cảnh (điều kiện) cụ thể. Đây là đặc trưng phân biệt NL với tiềm năng (potential) -
khả năng ẩn giấu bên trong, chưa bộc lộ ra, chưa phải là hiện thực. Một số tài liệu
10
của Việt Nam còn cho rằng NL gắn với các “dạng hoạt động” (Từ điển Bách khoa
Việt Nam, Đặng Thành Hưng), “loại hoạt động” (Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn
ngữ học), “loại công việc” (Tài liệu hội thảo CTGDPT tổng thể trong CTGDPT mới
của Bộ GD&ĐT) [24]. Theo chúng tôi, việc quy chiếu NL với loại hoạt động giúp
chúng ta phân biệt NL với kĩ năng (skill) - một thành tố của NL. Mỗi NL gắn với
một loại hoạt động, chẳng hạn: NL giao tiếp, NL tư duy, NL hợp tác… Các NL này
được thể hiện ở những kĩ năng gắn với những hoạt động cụ thể, như: kĩ năng nói, kĩ
năng đặt câu hỏi, kĩ năng làm việc nhóm,... So sánh: Nhìn rộng ra, sự phân biệt NL
và kĩ năng bằng tiêu chí này cũng giúp chúng ta làm rõ được sự khác nhau về cấp
độ giữa phương pháp dạy học (PPDH) với biện pháp dạy học (BPDH) - vấn đề
được giải quyết rất khác nhau giữa các nhà sư phạm. Phải chăng có thể hiểu: PPDH
là những giải pháp tác động vào sự hình thành, phát triển một hoặc một số NL ở
HS; còn BPDH là những giải pháp tác động vào sự hình thành, phát triển một hoặc
một số kĩ năng nhất định.
Đặc trưng thứ hai của NL được hầu hết các tài liệu nghiên cứu trong nước và
nước ngoài thống nhất là tính “hiệu quả”, “thành công” hoặc “chất lượng cao” của
hoạt động. Đặc trưng này giúp ta phân biệt NL với một khái niệm ở vị trí giữa nó
với tiềm năng là khả năng. Khả năng là cái tồn tại ở dạng tiềm năng, có thể biến
thành hiện thực khi cần thiết và khi có các điều kiện thích hợp, nhưng cũng có thể
không biến thành hiện thực [31, tr.478]. Thực ra, đó là sự phối hợp nhiều nguồn lực
liên quan đến cấu trúc của NL (thường được cho là bao gồm kiến thức, kĩ năng, thái
độ...) và một số NL cụ thể (như NL hợp tác, NL giao tiếp...). Có thể xem đó là một
đặc điểm của NL nhưng khó có thể xem là một đặc trưng phân biệt NL với những
khái niệm khác như tiềm năng, khả năng hay năng khiếu - những thuộc tính vốn
cũng có tính tổng hợp.
Đặc trưng thứ ba, NL là tổng hòa cả kiến thức, kĩ năng và thái độ. Trong đó,
kiến thức được hiểu là những NL về thu thập tin dữ liệu, NL hiểu các vấn đề
(comprehension), NL ứng dụng (application), NL phân tích (analysis), NL tổng hợp
(synthethis), NL đánh giá (evaluation). Đây là những NL cơ bản mà một cá nhân
cần hội tụ khi tiếp nhận một công việc. Công việc càng phức tạp thì cấp độ yêu cầu
về các NL này càng cao. Thái độ thường bao gồm các nhân tố thuộc về thế giới
quan tiếp nhận và phản ứng lại các thực tế (receiving, responding to phenomena),
xác định giá trị (valuing), giá trị ưu tiên. Các phẩm chất và hành vi thể hiện thái độ
của cá nhân với công việc, động cơ, cũng như những tố chất cần có để đảm nhận tốt
11
công việc (Harrow, 1972). Về kĩ năng, chính là NL thực hiện các công việc, biến
kiến thức thành hành động. Thông thường kĩ năng được chia thành các cấp độ chính
như: bắt chước (quan sát và hành vi khuôn mẫu), ứng dụng (thực hiện một số hành
động bằng cách làm theo hướng dẫn), vận dụng (chính xác hơn với mỗi hoàn cảnh),
vận dụng sáng tạo (trở thành phản xạ tự nhiên) (Dave, 1975).
Đặc trưng cuối cùng của NL là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá
nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho
hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Các NL hình thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên
đóng vai trò quan trọng, NL con người không phải hoàn toàn tự nhiên mà có, phần
lớn do công tác và tập luyện. NL đó được hình thành và phát triển trong suốt cả quá
trình tập luyện chứ không phải ngày một ngày hai mà có.
Tóm lại, có thể hiểu NL là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ
tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người thực hiện thành
công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện
cụ thể. Bốn đặc trưng cơ bản của NL là: 1) Được bộc lộ, thể hiện qua hoạt động; 2)
Đảm bảo hoạt động có hiệu quả, đạt kết quả mong muốn. 3) NL là tổng hòa các
kiến thức, kĩ năng và thái độ. 4) NL được hình thành và phát triển trong cả quá
trình. Quan niệm về NL như trên giúp chúng ta hình dung một CT định hướng NL
cho người học phải là một CT chú trọng tổ chức hoạt động cho HS. Qua hoạt động,
bằng hoạt động, HS hình thành, phát triển NL, bộc lộ được tiềm năng của bản thân;
tự tin, có niềm hạnh phúc bởi thành công và tiếp tục phát triển.
Giáo dục định hướng NL nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học,
thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng NL vận
dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người NL
giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn
mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức. Thử đặt
một phép tính so sánh một số đặt trưng của chương trình định hướng nội dung với
chương trình định hướng NL thì kết quả cho thấy rằng, khác với chương trình định
hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng phát triển NL tập trung vào việc
mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học.
Việc quản lý chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều
khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của HS. Chương trình dạy học định hướng
phát triển NL không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định
những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục, trên cở sở đó đưa ra
12
những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh
giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học, tức là đạt được
kết quả đầu ra mong muốn. Trong chương trình định hướng phát triển NL, mục tiêu
học tập, tức là kết quả học tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống
các năng lực (Competency). Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có
thể quan sát, đánh giá được. HS cần đạt được những kết quả yêu cầu đã quy định
trong chương trình. Việc đưa ra các chuẩn đào tạo cũng là nhằm đảm bảo quản lí
chất lượng giáo dục theo định hướng kết quả đầu ra.
Trong mục tiêu về chuẩn chương trình giáo dục phổ thông sau 2015 (Dự
thảo), khi xác định các nhóm NL cần hình thành và phát triển cho HS, Đinh Quang
Báo đã chia NL thành hai loại chính: NL chung và NL chuyên biệt. NL chung được
hình thành và phát triển từ nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học. Trong khi
đó, NL chuyên biệt được hình thành và phát triển từ một môn học chuyên biệt,
mang nét đặc trưng của một môn học cụ thể. Các NL chung gồm: nhóm NL làm chủ
và phát triển bản thân (NL tự học, NL giải quyết vấn đề, NL tư duy, NL tự quản lí);
nhóm NL về quan hệ xã hội (NL giao tiếp, NL hợp tác) và nhóm NL công cụ (NL
sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, NL sử dụng ngôn ngữ, NL tính toán).
Ở đây nhận thấy rằng, NL sử dụng ngôn ngữ nằm trong nhóm NL công cụ, còn NL
giao tiếp nằm trong nhóm NL về quan hệ xã hội, mặc dù nằm trong hai nhóm NL
khác nhau nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau bởi vì ngôn ngữ
tiếng Việt là một trong những phương tiện để thực hiện giao tếp, hiệu quả của việc
giao tiếp lại phụ thuộc vào NL sử dụng ngôn ngữ (NL tiếng Việt). Vì thế muốn hình
thành và phát triển NL giao tiếp phải hình thành và phát triển NL tiếng Việt. Hay
nói cách khác, muốn hình thành và phát triển NL thì phải đặt trong mối quan hệ
chặt chẽ với NL giao tiếp. Mỗi cấp học khác nhau thì kết quả đầu ra cần đạt về NL
sử dụng ngôn ngữ cũng khác nhau. Với bậc tiểu học, Đinh Quang Báo [4] xác định
như sau:
- Nghe hiểu trong giao tiếp thông thường và các chủ đề quen thuộc; nói rõ
ràng rành mạch, kể các câu chuyện ngắn, đơn giản về các chủ đề quen thuộc; viết
được bài văn ngắn về các chủ đề quen thuộc, điền được thông tin về các mẫu văn
bản đơn giản.
- Phát âm đúng các từ; hiểu những từ thông dụng và có số lượng từ vựng cần
thiết cho giao tiếp hàng ngày; biết sử dụng các loại câu giao tiếp chủ yếu như câu
13
trần thuật, câu hỏi, câu mệnh lệnh, câu khẳng định, các câu đơn, câu phức trong
trường hợp cần thiết.
Các kết quả đầu ra thể hiện được mức độ sử dụng ngôn ngữ về các nội dung
giao tiếp từ đơn giản đến phức tạp theo cách tăng dần từ lớp nhỏ đến lớp lớn trong
cùng một cấp học. Từ những định hướng phát triển NL trong dạy học nói chung,
chúng ta cần phát triển những NL sử dụng tiếng Việt cụ thể cho HS trong nhà
trường tiểu học để hướng tới mục tiêu dạy học tiếng Việt theo định hướng phát triển
NL người học.
1.1.1.2. Mục tiêu phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt cho học sinh ở nhà trường
tiểu học
Để khẳng định rõ vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp phát triển
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa
đã đề ra: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung,
phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lí giáo dục, thực
hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”... Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ
và sáng tạo của HS. Trước thực tế đó, chất lượng dạy học trong các nhà trường tiểu
học là vấn đề quan tâm của toàn xã hội, bởi đây là cấp học nền tảng chi phối, ảnh
hưởng đến cả quá trình và hiệu quả học tập của các em sau này. Chất lượng dạy
học ấy được thể hiện bằng chất lượng toàn diện của tất cả các môn học trong nhà
trường tiếu học: Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội, Khoa học, Lịch Sử, Địa lí,
Thể dục, Âm nhạc, Mĩ thuật, Đạo đức,... trong đó Tiếng Việt là môn học đặc biệt
gồm nhiều phân môn, ở mỗi phân môn cụ thể lại có nội dung, phương pháp và cách
thức dạy học khác nhau nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau tạo nên một chỉnh thể
hoàn chỉnh, những kĩ năng của phân môn này hỗ trợ cho phân môn kia để hướng tới
mục tiêu của môn Tiếng Việt là:
- Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói,
đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường học tập của lứa tuổi.
- Cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ
giản về tự nhiên, xã hội, con người, về văn hóa, văn học Việt Nam và nước ngoài.
- Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng
Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mục đích cuối cùng của dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học là hình hành và phát
triển cho HS các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Dạy Tiếng Việt chính là dạy tổ chức
giao tiếp bằng ngôn ngữ, quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ đó có đạt hiệu qua hay
14
không phụ thuộc vào NL tiếng Việt của mỗi người. Như vậy, NL là khả năng vận
dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động một
cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống.
Trong dạy học tiếng Việt, NL hành động được hiểu là NL giải quyết một
nhiệm vụ giao tiếp – NL giao tiếp. NL giao tiếp vừa là NL đặc thù của môn Tiếng
Việt vừa là một NL chung mà trường học phải hình thành và phát triển. Chương
trình giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp tiếng Việt cho học sinh ở tất cả các
hình thức: nghe, nói đọc, viết ở mức độ căn bản. Theo quan điểm phát triển NL,
việc đánh giá HS không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm
trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá HS theo NL chú trọng khả năng vận dụng
sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Nói cách khác, đánh
giá theo NL là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa .
Kết thúc cấp tiểu học, học sinh biết cách đọc, đọc hiểu được các văn bản văn học và
văn bản thông tin có chủ đề thiết thực, gần gũi với lứa tuổi; viết được các văn bản
kể chuyện, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh đơn giản theo đúng quy trình và đảm bảo
các yêu cầu về chữ viết, chính tả, đặc điểm của kiểu loại văn bản; biết phát biểu ý
kiến, kể lại câu chuyện; biết lắng nghe để hiểu đúng ý kiến của người khác, biết trao
đổi với người nói trong quá trình nghe.
Về cơ bản, chúng ta có thể hình dung về NL tiếng Việt như sau:
NĂNG LỰC TIẾNG VIỆT
Năng lực nói Năng lực nghe Năng lực đọc Năng lực viết
Theo thông tư 22 của BGDĐT: Mỗi NL bộ phận lại được chia tiếp tục thành
các NL cụ thể theo các mức độ từ đơn giản đến phức tạp, trong đó có những NL có
thể rèn luyện độc lập nhưng cũng có những NL phải rèn luyện tổng hợp. Các NL bộ
phận có thể được chia thành các NL cụ thể như sau:
* NL nghe bao gồm:
- NL nghe – hiểu nghĩa tường minh: nghe người khác nói, nghe người khác
đọc, nghe đài, ti vi v.v...
- NL nghe – hiểu nghĩa hàm ẩn trong hội thoại.
- NL đánh giá, nhận xét về lời nói của người khác.
- NL nghe – phản hồi ý kiến của người khác.
- NL nghe – ghi, nghe – tóm tắt ý chính v.v...
- NL nghe – cảm nhận văn bản văn chương nghệ thuật.
15
* NL nói bao gồm:
- NL phát âm: phát âm đúng các phụ âm, nguyên âm, âm tiết tiếng Việt.
- NL đặt câu để nói được ý trọn vẹn, đúng ngữ điệu, thể hiện đúng suy nghĩa
cá nhân, bộc lộ tình cảm thích hợp.
- NL thực hiện các hành động ngôn ngữ một cách hiệu quả: kể, trình bày, báo
cáo, hỏi, yêu cầu, đề nghị, khuyên v.v...
- NL độc thoại, đối thoại trong gia đình, lớp học, nhà trường và trong cuộc
sống v.v...
- NL nói về một nội dung cho trước.
- NL thuyết phục: nói đúng chủ đề, lập luận logic, nhất quán.
- NL phát biểu ý kiến, thuyết trình, thuyết minh, giải thích trước đám đông.
- NL đối thoại, trao đổi, thoả thuận, đàm phán.
* NL đọc bao gồm:
- NL đọc đúng, đọc diễn cảm, đúng ngữ điệu các loại văn bản khác nhau: đọc
văn bản nhật dụng, văn bản hành chính, văn bản văn chương nghệ thuật,...
- NL đánh giá về các câu, đoạn, văn bản đã đọc.
- NL đọc thầm.
- NL đọc – hiểu văn bản thuộc các lĩnh vực giao tiếp khác nhau trong đời
sống: văn bản hành chính, báo chí, xã luận, phổ biến khoa học v.v...
- NL đọc nhanh, đọc lướt để xác định nội dung chính của văn bản.
- NL đọc – hiểu, cảm nhận, phân tích hình tượng v.v... văn bản văn chương
nghệ thuật.
- NL đọc để tóm tắt văn bản.
- NL đọc để thu thập thông tin phục vụ cho một chủ đề cho trước, năng lực
đọc để tổng thuật các ý kiến.
* NL viết bao gồm:
- NL viết đúng: chuyển từ âm nghe được đến chữ.
- NL viết đúng chính tả, sử dụng dấu câu thích hợp.
- NL viết câu phản ánh đúng tư tưởng, suy nghĩ của cá nhân, bộc lộ cảm xúc
phù hợp.
- NL viết thư, lời nhắn cá nhân.
- NL điền các mẫu tờ khai v.v...
- NL trích dẫn ý kiến người khác trong bài viết.
16
- NL viết đoạn văn, văn bản: miêu tả, kể chuyện, nghị luận, phân tích, bình
giảng v.v...
- NL viết các loại văn bản: công văn, báo cáo, tờ trình v.v...
- NL viết văn bản văn chương nghệ thuật.
Trên đây là những NL cần được hình thành và phát triển ở HS phổ thông.
Các NL cụ thể sẽ được sắp xếp thành bảng các NL tối thiểu cho mọi HS và những
NL nâng cao, có tính phân hoá dành cho HS theo học chuyên sâu ở các môn học
khác nhau. Chúng tôi lấy NL viết để minh họa cho các mức độ mà HS cần đạt trong
một bài kiểm tra như sau:
1/ Biết
Viết đúng mẫu chữ/ cỡ chữ.
Viết đúng chính tả những điều được nghe, được đọc và tự suy nghĩ.
Viết đúng các mẫu câu; sử dụng đúng dấu câu.
Biết trình bày một văn bản theo đúng thể loại.
2/ Hiểu
Sử dụng từ ngữ phù hợp ngữ cảnh/tình huống.
Sử dụng mẫu câu phù hợp mục đích lời nói.
Sử dụng các biện pháp tu từ.
Xác định được thể loại văn bản cần trình bày phù hợp yêu cầu (mục đích lời nói).
3/Vận dụng
Tạo câu theo yêu cầu.
Viết đoạn văn có yêu cầu cụ thể về phương diện cấu trúc, ngữ pháp,…
Viết đoạn văn/ bài văn theo mẫu ngôn ngữ.
Đánh giá trên 02 phương diện: nội dung ý tưởng và kĩ năng trình bày (bao
gồm những yêu cầu của Biết và Hiểu).
4/ Vận dụng phản hồi
Viết được đoạn/bài theo đúng yêu cầu/mục đích. Đánh giá trên 02 phương
diện: nội dung ý tưởng và kĩ năng trình bày (bao gồm những yêu cầu của Biết; Hiểu
và Vận dụng).
Sử dụng kĩ năng viết trong các hoạt động giáo dục và cuộc sống.
Việc xây dựng một bảng các NL cụ thể cần xuất phát từ Chuẩn năng lực
tiếng Việt đối với HS từng lớp trong cấp học. Việc rèn luyện NL cũng cần được
chú ý đến sự khác nhau của đối tượng HS - đặc điểm dân tộc, điều kiện địa lí - xã
hội, văn hoá, kinh tế v.v. Việc hình thành và phát triển các NL cụ thể không thể
17
không gắn với những nội dung giao tiếp hằng ngày trong đời sống cũng như trong
học tập. Việc lựa chọn các nội dung để rèn luyện các kĩ năng tiếng Việt có ý nghĩa
quan trọng trong việc tích hợp môn Tiếng Việt với những môn học khác như Giáo
dục đạo đức, Giáo dục công dân, tăng cường những hiểu biết về lịch sử, địa lí, kinh
tế - xã hội,... của đất nước. Có thể nói định hướng dạy tiếng Việt theo hướng hình
thành và phát triển NL vừa hướng tới được tính thực tiễn của môn học vừa tạo điều
kiện để thực hiện tích hợp trong dạy học.
1.1.2. Văn miêu tả và năng lực tạo lập văn bản miêu tả trong phân môn Tập làm văn
1.1.2.1. Đặc trưng cơ bản của văn miêu tả
Theo từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, miêu tả là “lấy nét vẽ hoặc câu văn
để biểu hiện cái chân tướng của sự vật ra” [3, tr.97]. Hoàng Phê trong cuốn Từ
điển Tiếng Việt lại cho rằng: “Miêu tả là dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện
nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung được cụ thể các sự vật, sự
việc hoặc thế giới nội tâm của con người” [21, tr.628]. Còn SGK lớp 4 định nghĩa:
“Văn miêu tả là vẽ lại bằng những lời hoặc những đặc điểm nổi bật của cảnh, của
người, của vật giúp người đọc, người nghe có thể hình dung được các đối tượng
ấy”[25 tr.140].
Văn miêu tả là thể loại văn dùng ngôn ngữ để tả sự vật, hiện tượng, con
người,... một cách sinh động, cụ thể như nó vốn có. Đây là loại văn giàu cảm xúc,
giàu trí tưởng tượng, sáng tạo của người viết. Đối với người họa sĩ họ dùng cây cọ
để vẻ lại, tả lại các sự vật, để tạo hình các sự vật thì các nhà điêu khắc lại phải dùng
đến các vật liệu như đất, nhựa, đồng, đá, kim loại,... hay để ghi lại một khoảnh khắc
đẹp trong cuộc sống thì các nhiếp ảnh gia phải dùng đến chiếc máy ảnh của mình.
Còn nhà văn, họ dùng ngôn từ nghệ thuật để “tô vẽ” lại bằng lời những bức tranh về
các sự vật, hiện tượng, con người một cách sinh động, cụ thể giúp người đọc, người
nghe hình dung rõ các đối tượng đó qua các trang văn miêu tả. Nhờ có văn miêu tả,
con người có thể lạc vào thế giới của những cảm xúc, những âm thanh, tiếng động,
hương vị của những cánh đồng, khu rừng, làng quê, dòng sông,... thấy rõ cả tư
tưởng, tình cảm của mỗi con người, mỗi sự vật. Đó là sự kết tinh của những nhận
xét tinh tế, những rung động sâu sắc mà người viết thu lượm được, chắt chiu được
khi quan sát cuộc sống. Hãy cùng ngắm nhìn một buổi chiều thanh bình tại một
vùng quê dưới ngòi bút của tác giả Đỗ Chu: “Đó là một buổi chiều mùa hạ có mây
trắng xô đuổi nhau trên cao. Nền trời xanh vời vợi. Con chim sơn ca cất lên tiếng
hót tự do, tha thiết đến nỗi khiến người ta phải ao ước giá mà mình có một đôi
18
cánh. Trải khắp cánh đồng là nắng chiều vàng dịu và thơm hơi đất, là gió đưa
thoang thoảng hương lúa ngậm đòng và hương sen.” (Chiều trên quê hương). Chỉ
ngắn gọn có bốn câu văn mà Đỗ Chu đã cho ta nhìn thấy được một làng quê hài hòa
vào một buổi chiều mùa hạ vừa động vừa tĩnh. Động đó là mây đùa giỡn nhau, tiếng
chim hót. Tĩnh đó là nắng vàng dịu, hương lúa ngậm đòng và hương sen. Một cuộc
sống khát khao nhưng cũng rất yên bình. Sự hòa hợp giữa đất với trời, giữa thiên
nhiên cỏ cây hoa lá. Một buổi chiều thật đẹp, làm cho tâm hồn người đọc cũng cảm
thấy được yên bình, nhẹ nhàng hơn. Ngòi bút của tác giả thật tinh tế.
Hay ta cảm nhận vẻ đẹp độc đáo của hoa phượng qua ngòi bút miêu tả tinh tế
của Xuân Diệu:“Phượng không phải là một đóa, không phải vài cành, phượng đây
là một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực. Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cả
xã hội thắm tươi, người ta quên đóa hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán
hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”(Hoa học trò).
Hoa phượng - loài hoa gắn liền với lứa tuổi học trò, với những kỉ niệm của
tuổi cắp sách đến trường. Tại sao Xuân Diệu lại gọi hoa phượng là hoa học trò? Hoa
phượng có gì đặc biệt mà lại làm cho ta có cảm giác xao xuyến, bồi hồi? Đọc bài
viết của nhà thơ Xuân Diệu, ta càng thấy được vẻ đẹp đặc biệt của hoa phượng qua
những từ ngữ chọn lọc và những hình ảnh độc đáo. Hoa phượng ở đây nở rất nhiều:
“Cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực, người ta chỉ nghĩ đến cây, đến
hàng, đến những tán lá lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”.
Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh để miêu tả số lượng hoa phượng, so sánh hoa
phượng với “muôn ngàn con bướm thắm” làm ta cảm nhận được hoa phượng ở đây
nở rất nhiều và đẹp. Tác giả gọi hoa phượng là hoa học trò vì phượng là loài hoa
gần gũi quen thuộc với tuổi học trò; phượng được trồng rất nhiều trên các sân
trường; h oa phượng thường nở vào mùa hè, mùa thi của tuổi học trò. Hoa phượng
thường gắn liền với những kỉ niệm buồn vui của tuổi học trò. Buồn vì phải xa thầy
cô, bạn bè. Vui vì được nghỉ hè, hứa hẹn những ngày hè lí thú. Dưới ngòi bút của
Xuân Diệu, hoa phượng rất đặc biệt bởi “hoa phượng nở nhanh đến bất ngờ”,
“màu phượng mạnh mẽ” làm “thành phố rực lên như Tết đến nhà nhà đều dán câu
đối đỏ”. Tác giả dùng nhiều giác quan để miêu tả vẻ đẹp của lá phượng “Bình minh
của hoa phượng là màu đỏ còn non, có mưa hoa càng tươi dịu. Dần dần, số hoa
tăng, màu cũng đậm dần, rồi hòa với mặt trời chói lọi, màu phượng rực lên.” Nhà
thơ Xuân Diệu đã rất tài tình khi miêu tả vẻ đẹp đặc biệt của hoa phượng bằng
những từ ngữ chọn lọc và hình ảnh đặc sắc đúng với “danh hiệu” nghệ sĩ bậc thầy
19
của ngôn ngữ. Bài văn đầy chất thơ của Xuân Diệu giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp
độc đáo, rất riêng của hoa phượng - loài hoa gần gũi, thân thiết và gắn liền với
những kỉ niệm buồn vui của lứa tuổi học trò.
Trong cuốn “Văn miêu tả và phương pháp dạy văn miêu tả”, tác giả
Nguyễn Trí đã nêu rõ ba đặc điểm của văn miêu tả: văn miêu tả mang tính thông
báo thẩm mĩ, chứa đựng tình cảm của người viết; văn miêu tả mang tính sinh động,
tạo hình; ngôn ngữ miêu tả giàu cảm xúc, hình ảnh.
a. Văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mỹ, chứa đựng tình cảm của
người viết.
Mọi sự vật hiện tượng đều có thể trở thành đối tượng của văn miêu tả.
Trong văn miêu tả, sự vật và hiện tượng không được tái hiện theo kiểu sao chép một
cách máy móc, khô cứng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết
sức phong phú. Bởi văn miêu tả phát huy trí tưởng tượng, sự sáng tạo của người viết
dựa trên những đặc điểm, tính chất chân thật như nó vốn có. Từ đó thể hiện cái nhìn,
cách quan sát, cách cảm nhận mới mẻ của người viết với đối tượng miêu tả. Cái mới,
cái riêng bắt đầu có thể chỉ là ở những quan sát và kết quả của sự quan sát, sau đó tiến
lên thể hiện cái mới, cái riêng trong tư tưởng, tình cảm đối với đối tượng miêu tả.
Cùng một đối tượng quan sát nhưng giữa hai người sẽ có cái nhìn, cách cảm nhận, ý
nghĩ, cảm xúc khác nhau. Vì vậy mà văn miêu tả bao giờ cũng mang đậm dấu ấn cá
nhân, cảm xúc chủ quan của người viết. Đây chính là điểm khác biệt giữa miêu tả
trong văn học và miêu tả trong khoa học - thường mang tính chính xác cao, nhưng lại
không thể hiện cảm xúc, hay điệu hồn riêng của người viết. Dù đối tượng của bài văn
miêu tả là gì đi chăng nữa thì bao giờ người viết cũng đánh giá chúng theo một quan
điểm thẩm mỹ, cũng gửi gắm vào trong đó những suy nghĩ, tình cảm hay ý kiến nhận
xét, đánh giá, bình luận của bản thân mình. Chính vì vậy mà trong từng chi tiết của
bài văn miêu tả đều mang đậm dấu ấn chủ quan của người viết.
Cùng là vầng trăng, cùng là bầu trời nhưng mỗi người lại cảm nhận theo
cách riêng của mình. Nhìn bầu trời sao Vich-tô Huy-gô thấy như “một cánh đồng
lúa chín” mà ở đó người gặt đã “để quên một cái liềm con” (Vành trăng non). Đối
với nhà văn Nam Cao thì vầng trăng và ánh sao lại được nhìn và cảm nhận theo một
cách khác: “Trăng là cái liềm vàng giữa cánh đồng đầy sao, trăng là cái đĩa bạc
trên tấm thảm nhung da trời. Trăng tỏa mộng xuống trần gian. Trăng tuôn suối mát
để những tâm hồn khao khát ngụp lặn...” (Mảnh trăng cuối rừng). Với Trần Đăng
Khoa thì trăng không phải là một cánh đồng lúa chín, cái liềm vàng, cái đĩa bạc nữa
20
mà bằng tình yêu của một tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên, trong sáng, nhà thơ thấy trăng
rất ngộ nghĩnh, rất đáng yêu, có lúc “như mắt cá chẳng bao giờ chớp mi”, có lúc
“như quả bóng bạn nào đá lên trời”, lại có khi “như quả chín lơ lửng trước nhà”
(Trăng ơi từ đâu đến?). Ở một hoàn cảnh khác, nhà văn Thép Mới lại lấy cảm hứng
của anh chiến sĩ đang mơ về tương lai của đất nước khi ngắm trăng trong đêm
Trung thu độc lập đầu tiên của đất nước “Trăng sáng mùa thu vằng vặc chiếu khắp
làng mạc, núi rừng...”. Với Nguyễn Minh Châu, ông lại tả trăng với cái nhìn đầy
lãng mạn trước những đổ vỡ, khốc liệt của chiến tranh. Đó là “mảnh trăng khuyết
đứng yên ở cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc” (Mảnh trăng cuối rừng). Hay
vầng trăng khuyết hiện ra rất sinh động và thú vị qua con mắt nhìn và cảm nhận của
các thành viên trong gia đình dưới ngòi bút tinh tế của Lê Hồng Thiện. Vì mẹ
thường gắn liền với những công việc đồng áng nên nhìn trăng như “lưỡi liềm”, ông
thì nghĩ đến những chiếc thuyền ngược xuôi nên nghĩ trăng như “con thuyền cong
mui”, còn sở thích của bà là nhai trầu nên nghĩ trăng là “hạt cau khô”, với cháu là
một đứa trẻ hồn nhiên, trong sáng nên bé nhìn trăng như “quả chuối vàng tươi”,
còn đối với bố là bộ đội Trường Sơn nên thấy trăng giống hệt “cánh võng chập
chờn trên mây” (Trăng của mỗi người). Với miêu tả vầng trăng thôi cũng đã thấy
mỗi người có một cách cảm nhận khác nhau, trăng tròn nó khác với trăng khuyết,
đêm trăng độc lập nó khác với đêm trăng tiền tuyến. Điều này tạo nên sự khác biệt,
cái cảm nhận riêng, cái phát hiện mới mẻ, thể hiện rõ quan điểm, cách nhìn nhận đối
tượng miêu tả của mỗi người.
b. Văn miêu tả mang tính sinh động, tạo hình
Tính sinh động, tạo hình của văn miêu tả thể hiện ở con vật, đồ vật, cây cối,
con người, phong cảnh, sự vật và hiện tượng được miêu tả hiện lên qua từng câu
văn, đoạn văn như trong thực tế cuộc sống khiến người đọc, người nghe như được
ngắm nhìn, được sờ, được nghe, được ngửi thấy những gì mà tác giả đang cảm
nhận. Muốn bài văn miêu tả được sinh động thì người viết phải tạo nên được những
câu văn, những đoạn văn, bài văn sống động, gây ấn tượng. Điều quan trọng để có
thể làm được điều đó, trước hết người viết phải có sự quan sát tỉ mỉ, ghi nhớ và
chọn lọc những gì tinh túy nhất những điều mình đã quan sát được kết hợp với khả
năng sử dụng ngôn từ, các thủ pháp nghệ thuật một cách khéo léo để đưa vào trang
văn tạo lập nên những văn bản miêu tả sinh động, lôi cuốn.
Trong bài “Cây gạo” (Vũ Tú Nam), khi tả hoa gạo, nhiều câu hỏi được đặt ra
là vì sao tác giả không tả hoa gạo trên cây, không tả hoa gạo lúc đang ra nụ hay tả
21
hoa gạo lúc nở mà lại tả hoa gạo lúc đã lìa cành rơi xuống mặt đất. Là bởi vì tác giả
đã phát hiện ra cách rơi đặc biệt của hoa gạo “Những bông hoa rơi từ trên cao, đài
hoa nặng chúi xuống, những cánh hoa đỏ rực quay tít như chong chóng trông thật
đẹp”. Và càng đặc biệt hơn nữa là cái tư thế quay tít của những cánh hoa được Vũ
Tú Nam “chộp” lấy và so sánh với chiếc chong chóng. Sự so sánh này vừa giúp
người đọc hình dung rõ cái dáng rơi kì lạ của hoa gạo, vừa mang đậm chất tạo hình,
tưởng như có một chiếc chong chóng đỏ rực đang quay tít làm cho hình ảnh hoa gạo
trong bài hiện ra trước mắt người đọc. Qua cách so sánh trong miêu tả khiến cho
hình ảnh hoa gạo trong bài hiện ra rất sống động và gợi cảm. Hay trong bài “Quả cà
chua” của Ngô Văn Phú. Tác giả đã miêu tả hoa cà chua như thế nào, tác giả không
miêu tả cụ thể mà chỉ dùng chữ “lăn” và chữ “biến đi” đã gợi lên sự huyền diệu
của hoa cà chua theo vòng thời gian để “tạo ra những chùm quả nõn chung màu với
cây và lá”. Một sự miêu tả “tinh khiết” đến bất ngờ mà chỉ có những nghệ sĩ ngôn
từ mới làm được điều đó. Ngô Văn Phú đã dùng các chữ “sum suê”, “chi chít” và
các hình ảnh “quả chùm, quả sinh đôi, quả chùm ba, chùm bốn” để đặc tả cây cà
chua, luống cà chua sai quả và quả trĩu cành. Tác giả còn ví von những quả cà chua
“như đàn gà mẹ đông con” rồi nhân hóa “leo nghịch ngợm lên ngọn”. Một cách
miêu tả đầy hóm hỉnh, ý vị. Và rồi hương vị và màu sắc của quả cà chua chín dưới
ngòi bút của Ngô Văn Phú cũng hết sức độc đáo, có “vị thơm mát”. Như ta đã biết
thì quả cà chua chín luôn có màu đỏ, còn với ông thì mỗi quả cà chua “là một mặt
trời nhỏ hiền dịu”, là “chiếc đèn lồng” được cây cà chua “thắp lên”. Quả cà chua
đầu mùa gieo vào lòng người “sự náo nức”. Đúng là một cách viết tài hoa, tác giả
đã dùng cả xúc giác và cảm giác để mang quả cà chua chín đầy sức gợi hình ảnh và
phảng phất hương vị đam mê từ một góc vườn nhỏ xinh đến với độc giả.
c. Ngôn ngữ miêu tả giàu cảm xúc, hình ảnh.
Đặc điểm nổi bật của văn miêu tả là ngôn ngữ giàu cảm xúc, hình ảnh. Đây
là đặc điểm làm nên sự khác biệt giữa văn miêu tả với các thể loại văn khác như
văn bản tự sự, văn bản trữ tình hay văn nghị luận. Ngôn ngữ văn miêu tả giàu cảm
xúc bởi trong bài viết bao giờ người viết cũng bộc lộ tình cảm, cảm xúc hay ý
kiến nhận xét, đánh giá hay bình luận của người viết với đối tượng miêu tả. Tình
cảm đó có thể là sự yêu mến, yêu quý, thán phục hay sự gắn bó với đối tượng được
miêu tả. Ngôn ngữ văn miêu tả giàu hình ảnh bởi trong bài viết thường được sử
dụng từ ngữ gợi hình như: tính từ, động từ, từ láy hay các biện pháp tu từ như: so
sánh, nhân hóa, ẩn dụ,… chính điều này đã tạo cho ngôn ngữ trong văn miêu tả có
22
sự uyển chuyển, nhịp nhàng, diễn tả tốt cảm xúc của người viết. Hơn thế nó có
tác dụng khắc họa được bức tranh miêu tả sinh động như cuộc sống thực. Hai yếu tố
giàu cảm xúc và giàu hình ảnh gắn bó khăng khít với nhau làm nên đặc điểm riêng
biệt và làm cho những trang văn miêu tả trở nên có hồn, cuốn hút người đọc, gây ấn
tượng mạnh mẽ và tác động sâu sắc vào vị trí tưởng tượng cũng như của người đọc.
Đã có nhiều dòng sông đã đi vào thơ ca nhưng không có dòng sông nào lại
đáng yêu, lại dịu dàng, lại đỏng đảnh như Dòng sông mặc áo của Nguyễn Trọng
Tạo. Dòng sông được tác giả miêu tả thật đẹp. Bằng biện pháp nhân hóa, kết hợp
điệp từ nhà thơ đã gắn cho nó những đặc điểm của con người để làm nổi bật màu
sắc của dòng sông. Dòng sông hiện lên thật điệu đà “Dòng sông mới điệu làm sao”,
tác giả đã nói sông “điệu” vì trong một ngày mà nó đã thay đổi đến mấy lần màu
áo. Nào là “áo lụa đào thướt tha”, “áo xanh như mới thay”, “áo hây hây ráng
vàng”, “áo đen” rồi cả “áo hoa”. Từ “mặc” là từ nhân hóa để miêu tả màu sắc của
con sông, một loạt các từ “mặc” được lặp đi lặp lại để nói lên sự thay đổi màu sắc
của dòng sông. Ở đây tác giả không nói sông thay đổi màu mà lại nói “sông mặc
áo” vì thế mà dòng sông trở nên sinh động, đẹp hơn, điệu hơn và đặc biệt hơn trong
mắt người đọc. Nhờ sự miêu tả tinh tế đó mà nhà thơ đã phát hiện ra những sắc
màu, những nét đẹp của dòng sông quê hương luôn biết đổi. Rồi cả một loạt các từ
láy “thướt tha”, “hây hây”, “thơ thẩn” gợi cho ta cảm giác dòng sông trở nên mềm
mại, uyển chuyển và duyên dáng đến nhường nào. Trong hai câu thơ “Áo xanh sông
mặc như là mới may”, “Chiều trôi thơ thẩn áng mây” ta bắt gặp một kiểu miêu tả
“lạ” và “độc” trong cách dùng từ đặt câu của tác giả nữa là từ “áo xanh” và “thơ
thẩn” được đảo lên trước chủ thể như là để nhấn mạnh màu sắc của dòng sông và
vẻ đẹp của trời chiều. Với sự miêu tả khéo léo và sự “gọt giũa” ngôn từ tinh tế, ý
nhị mà Nguyễn Trọng Tạo đã “tạc” nên một bức tranh đẹp về dòng sông bằng ngôn
ngữ nghệ thuật. Đọc bài thơ ta có thể nhìn thấy một dòng sông điệu đà, thướt tha
như người phụ nữ muốn làm duyên, sông thay đổi màu sắc như người phụ nữ thay
đổi màu áo. Vì thế mà dòng sông dưới ngòi bút của ông trở nên thơ mộng, sinh
động và có hồn hơn; đồng thời cũng thể hiện một cách thắm thiết, trong sáng tình
yêu dòng sông quê hương hòa với tình yêu quê hương đất nước của tác giả.
1.1.2.2. Yêu cầu về năng lực tạo lập văn bản miêu tả đối với học sinh lớp 4
Như đã giới thiệu ở trên, văn miêu tả là loại văn căn cứ vào những điều quan
sát, ghi chép, cảm nhận được về đối tượng (đồ vật, con vật, cây cối, hiện tượng
thiên nhiên, con người,...), dùng ngôn ngữ để vẽ hình ảnh chân thực, sinh động của
23
đối tượng đó, trình bày theo một bố cục hợp lý, khiến cho người đọc, người nghe
cùng cảm thấy và cùng cảm nhận như mình. Để làm được điều đó, khi viết văn miêu
tả, người viết cần có những kĩ năng cần thiết.
Một là kĩ năng quan sát và tìm ý. Quan sát ở đây không chỉ là nhìn để nhận
diện đối tượng mà còn phải mở rộng mọi giác quan để mà cảm nhận, phải biết chọn
vị trí thích hợp để quan sát, trình tự quan sát, từ quan sát để ghi chép lại, chắt lọc lấy
những chi tiết có thể phản ánh được cụ thể, chân thực, sinh động những đặc điểm
nổi bật của đối tượng miêu tả.
Hai là kĩ năng lập dàn ý. Dàn ý là xương sống của bài văn. Nếu không có nó
bài văn thường bỏ sót ý hoặc rối rắm, lộn xộn. Viết văn miêu tả, người viết phải biết
cách xây dựng những ý đã tìm được thành dàn ý với bố cục rõ ràng, rành mạch, tạo
khung xương vững chắc cho bài văn.
Ba là kĩ năng dựng đoạn. Từ dàn ý đã lập, người viết phải biết cách diễn đạt,
sử dụng từ ngữ để tạo các đoạn văn ngắn.
Bốn là kĩ năng viết bài văn. Đây là cấp độ cao nhất của các kĩ năng, đòi hỏi
người viết biết liên kết các đoạn văn đã dựng thành một bài văn miêu tả hoàn chỉnh.
Bài văn phải cân đối về hình thức, sáng rõ về nội dung, ngôn ngữ giàu hình ảnh và
cảm xúc, tả được một cách thật chân thực đối tượng miêu tả.
Đó là các kĩ năng nền để viết được một bài văn miêu tả đúng. Nhưng để tả
hay, sinh động, hấp dẫn với những câu văn gợi hình, gợi cảm, người viết cần hình
thành ở bản thân các kĩ năng bổ trợ không kém phần quan trọng như kĩ năng dùng
từ, kĩ năng đặt câu,... và đặc biệt là kĩ năng sử dụng các biện pháp tu từ và phương
tiện nghệ thuật trong viết văn.
1.1.3. Đặc điểm tâm lí và tư duy của học sinh lớp 4 ảnh hưởng đến việc tạo lập
văn bản miêu tả
Như chúng ta đã biết, tâm lý chung của HS Tiểu học là luôn muốn khám phá,
tìm hiểu về những điều mới mẻ. Trong con mắt trẻ thơ với cái nhìn hồn nhiên, trong
trẻo ấy khiến những sự vật, hiện tượng nào cũng trở nên đầy bí ẩn với chúng. Các
em luôn tò mò, muốn khám phá, các em phải trả lời cho muôn vàn câu hỏi vì sao
trong cuộc sống. Để giúp các em giải đáp những thắc mắc đó thì trước hết người
GV cần giúp các em nhận thức được sự đa dạng, muôn màu, muôn sắc của sự vật,
hiện tượng tồn tại xung quanh các em. Với HS đầu cấp thì các em sẽ tri giác lại các
sự vật quan sát được qua những nét vẽ ngây ngô, đáng yêu bởi tư duy của các em
24
lúc này là trực quan sinh động. Nhưng khi các em bước vào những lớp cuối cấp, tư
duy các em có bước chuyển đổi mãnh liệt từ cảm tính sáng lý tính, từ tư duy trực
quan sang trừu tượng. Vì thế GV phải nắm rõ để rèn luyện cho các em cách quan
sát, kích thích hứng thú với các em hơn. Các em sẽ tô vẽ lại những bức tranh đó
bằng ngôn ngữ của mình. Với thể loại văn miêu tả, cần tư duy đối tượng miêu tả
một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là quan sát sự vật, hiện tượng ở nhiều
khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau mới đem lại cảm nhận sâu sắc khi miêu tả. Bởi
lứa tuổi các em từ hình thức cho đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu của một
quá trình. Do đó những tri thức các em tiếp thu phải được sắp xếp lại theo những
trình tự nhất định, GV cần nắm rõ để có định hướng và giúp các em có được những
cảm nhận tinh tế. Sự cảm nhận bắt đầu từ óc quan sát, từ sự nhạy bén của trí nhớ, từ
sự cảm nhận vẻ đẹp của sự vật, hiện tượng qua sự rung cảm của tâm hồn. Mọi suy
nghĩ của các em đều rất hồn nhiên, trong sáng và nhận thức còn ở mức độ đơn giản.
Một tiếng lá rơi, một ngọn gió nhẹ hay những âm thanh tí tách của giọt nước trước
hiên nhà cũng đã tạo nên những rung động trong tâm hồn của các em. Chính vì thế,
những gì càng gần gũi, dễ hiểu thân quen với các em bao nhiêu thì việc tiếp thu
càng dễ dàng bấy nhiêu nên cần hướng các em đến đối tượng miêu tả gần gũi, quen
thân với cuộc sống hằng ngày của chính các em.
Một đặc điểm nữa mà ta nhận thấy rõ ở các em là sự trải nghiệm cuộc sống
còn quá hạn chế dẫn đến một thực trạng là vốn từ, vốn sống có ít nên khi ứng dụng
vào tạo lập nên một văn bản miêu tả sẽ gặp nhiều trở ngại, khiến cho bài viết khô
khan, câu văn lủng củng, thiếu đi yếu tố mượt mà, mềm mại vốn có của bài văn
miêu tả. Chúng ta cứ thử nghĩ đi, trước kia không gian vui chơi của các em là gì, là
những trò chơi dân gian, là những buổi chiều thả diều trên đê, là những buổi tắm
sông cùng tụi bạn trong xóm, hay chơi trò đá cỏ gà, ô làng, được ngắm bình minh từ
từ nhô lên phía đông của chân trời hay ông mặt trời “đi ngủ” sau rặng tre cuối làng,
rồi cả ngắm nhìn cánh đồng lúa chín, cảnh bà con gặt lúa, nghe tiếng gà gáy sáng,
tiếng côn trùng rả rích trong đêm mùa đông giá rét,... Còn cuộc sống bây giờ của
các em là ngoài thời gian học kiến thức văn hóa ở trường, các em phải có mặt đúng
giờ để học thêm ở các trung tâm, nào là tin học, ngoại ngữ, vẽ vợi hay thể thao gì gì
đó, nói chung là kín mít thời gian. Sau khi hoàn thành các nhiệm vụ đó xong trở về
nhà thì các em lại phải nhốt mình trong bốn bức tường với các trò chơi điện tử hấp
dẫn, các bộ phim hoạt hình mà đứa trẻ nào cũng mê. Thử hỏi với một lịch trình dày
25
đặc, với một cuộc sống hiện đại như thế, các em có được trải nghiệm đâu mà có vốn
sống, vốn hiếu biết về cuộc sống xung quanh. Kết quả là có rất ít bài văn hay, sinh
động, chân thật, có em khi tả con gà mái dẫn đàn con đi ăn mà “gáy ò ò o”, rồi cả
“trèo lên cây chuối để hái chuối” hay “bình minh mà mọc trên núi”,... Vì thế trong
dạy học tạo lập văn bản miêu tả GV cần chú ý đến đặc điểm tâm sinh lí và khả năng
nhận thức của các em để kịp thời uốn nắn, giúp đỡ các em nhằm phát triển các kĩ
năng cần thiết để tô vẽ nên những bức tranh miêu tả đang còn dang dở trở nên hoàn
hảo hơn, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn và tạo nên sự quan tâm của các em với thế
giới xung quanh, trong đó quan trọng nhất là với thiên nhiên. Học và làm văn miêu
tả, HS có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất giữa tư duy, tình cảm, ngôn ngữ
và cuộc sống, con người với thiên nhiên, với xã hội. Lúc ấy trẻ sẽ bộc lộ được cảm
xúc cá nhân, mở rộng tâm hồn, phát triển nhân cách của một con người có ích cho
xã hội.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nội dung dạy học làm văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 4 hiện
hành
1.2.1.1. Các kiểu bài văn miêu tả
Bảng 1.4. Cấu trúc chƣơng trình tập làm văn lớp 4
Nội dung
Số tiết dạy (tiết)
Học kỳ 1 Học kỳ 2 Cả năm
Kể chuyện 19 0 19
Miêu tả
- Khái niệm miêu tả
- Miêu tả đồ vật
- Miêu tả cây cối
- Miêu tả con vật
1
6 4
11
8
1
10
11
8
Các loại văn khác
- Viết thư
- Trao đổi ý kiến
- Giao thông địa phương
- Tóm tắt tin tức
- Điền vào giấy tờ in sẵn
3
2
1 1
3
3
3
2
2
3
3
Tổng số 32 30 62
26
Qua bảng thống kê trên, cho thấy số tiết dạy văn miêu tả là 30 tiết chiếm
48,4% trong tổng số 62 tiết Tập làm văn của cả năm học, rõ ràng văn miêu tả chiếm
gần nửa số tiết học cả năm (không kể những tiết ôn tập); còn Kể chuyện là 19 tiết
chiếm 31,7% và các loại văn khác như viết thư, trao đổi ý kiến, giao thông địa
phương, tóm tắt tin tức, điền váo giấy tờ in sẵn là 16 tiết chiếm 25,8%. Trong khi đó,
Kể chuyện học sinh được học hoàn toàn trong học kì 1, các loại văn khác thì rải rác
trong cả hai kì, còn văn miêu tả chỉ học ở học kì 1 là 7 tiết còn chủ yếu phân bố trong
học kì 2 (23 tiết). Cũng thấy rằng, văn miêu tả đóng vai trò trọng tâm và tập trung ở
học kì 2 của lớp 4 tạo điều kiện và cơ sở để cho các em học tiếp hai dạng thức còn lại
của văn miêu tả là tả người và tả cảnh khi các em học lên lớp 5. Phải chăng ý đồ của
các nhà biên soạn sách và phân phối chương trình là quá hợp lí. Sự phân phối chương
trình đó khiến văn miêu tả chiếm vị trí quan trọng trong chương trình Tập làm văn
lớp 4. Trong đó HS được trang bị kiến thức cần thiết về kĩ năng viết đoạn văn, bài
văn miêu tả. Các kiến thức này được cung cấp qua các nội dung: Cấu tạo bài văn
miêu tả, Luyện tập quan sát, Luyện tập lập dàn ý, Luyện tập xây dựng đoạn văn, Bài
viết và trả bài viết. Các nội dung này là một khuôn mẫu được lặp lại ở tất cả các kiểu
bài văn miêu tả lớp 4 (đồ vật, con vật, cây cối). (Xem Phụ lục bảng 1.1)
Ở lớp 4 nói riêng, HS được luyện kĩ năng viết văn miêu tả qua các kiểu bài:
tả đồ vật, tả con vật và tả cây cối. Với mỗi kiểu bài sẽ có những điều cần lưu ý :
 Tả đồ vật
Để làm tốt bài văn tả các đồ vật đơn giản, gàn gũi với cuộc sống xung quanh,
các em cần phải:
- Xác định rõ đồ vật cần tả là gì.
- Quan sát rõ đồ vật sẽ tả để tìm những nét nổi bật riêng của vật đó về hình
dáng, màu sắc, cấu tạo, công dụng....
- Trong khi quan sát, các em cần vân dụng quan sát bằng mắt (thị giác) để
thấy rõ về hình dáng, kích thước, màu sắc,...; bằng tai (thính giác) để nghe âm
thanh, tiếng động của vật khi ta sử dụng (ví dụ như đồng hồ, chiếc quạt máy...);
bằng xúc giác để cảm nhận độ bóng, mịn, bằng phẳng, nhám...của vật
- Dùng từ ngữ thích hợp để làm nổi bật các đặc điểm riêng của đồ vật, dùng
từ ngữ hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa để việc miêu tả được cụ thể, sinh động hơn.
27
 Tả cây cối
Tả cây cối là dùng lời văn miêu tả để giúp người đọc hình dung rõ cây được
tả với những đặc điểm nổi bật về hình dáng, màu sắc, các bộ phận của cây, sự phát
triển của cây ...
Để làm tốt bài văn tả cây cối, các em cần phải:
- Xác định rõ cây sẽ tả là cây gì, thuộc loại cây hoa, cây bóng mát hay cây ăn quả.
- Sử dụng nhiều giác quan để quan sát cây định tả. Từ đó, các em có thể nhận
biết được những đặc điểm nổi bật về hình dáng, độ cao, lá (hoặc tán lá), hoa, thân,
cành, gốc, rễ ... của cây.
Có thể quan sát các bộ phận của cây theo trình tự từ dưới lên trên hoặc từ trên
xuống dưới. Cũng có thể quan sát các giai đoạn phát triển của cây hoặc sự thay đổi
của cây qua từng thời điểm cụ thể.
- Trong khi miêu tả, các em cần chọn lựa từ ngữ để làm nổi bật các đặc điểm
của cây hoặc đặc điểm của từng bộ phận, có thể dùng các từ ngữ, hình ảnh so sánh
hoặc nhân hóa để bài văn miêu tả được cụ thể, sinh động hơn. Cần miêu tả xen kẽ
các sự vật có liên quan đến đời sống của cây như chim chóc hoặc sinh hoạt của con
người ...
 Tả con vật
Tả con vật là dùng lời văn để vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh con vật
một cách sinh động với những đặc điểm về hình dáng, hoạt động và thói quen
sinh hoạt.
Muốn làm tốt bài văn tả loài vật, các em cần phải chú ý:
- Xác định rõ con vật định tả là con gì, một con vật cụ thể hay cả bầy, đàn.
- Mỗi loài vật đều có những đặc điểm khác nhau. Trong cùng một loài, mỗi
con vật lại có những nét riêng độc đáo. Vì vậy, phải quan sát kĩ con vật định tả để
tìm ra những đặc điểm về hình dáng (màu lông, thân hình, đầu, tai, mắt, chân, cánh
...), về hoạt động, về các thói quen sinh hoạt...
- Cần phải miêu tả theo một trình tự hợp lí:
+ Tả hình dáng thì phải tả bao quát trước rồi mới tả từng bộ phận.
+ Tả hoạt động và thói quen sinh hoạt của con vật có thể kết hợp với việc tả
hình dáng cũng như môi trường mà con vật đang sống.
- Trong miêu tả, cần chọn từ ngữ, hình ảnh so sánh, nhân hóa để bài văn sinh
động và gợi cảm xúc.
28
1.2.1.2. Đặc điểm nội dung các bài Tập làm văn tạo lập văn miêu tả
Trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học, văn miêu tả chiếm một vị trí quan
trọng. Ngay từ các lớp học đầu cấp Tiểu học các em đã bắt đầu làm quen với văn
miêu tả qua các bài tập quan sát trả lời câu hỏi ở lớp 2, 3. Lên lớp 4, 5 các em được
bắt đầu học các kiểu bài văn miêu tả.
Kĩ năng viết văn miêu tả của HS được nâng cao dần theo các lớp với những
chủ đề khác nhau. Ở lớp 2, HS dựa trên các câu hỏi gợi ý để viết một đoạn văn ngắn
từ 5 – 7 câu. Có khi là sự sắp xếp các câu văn theo thứ tự để tạo thành một đoạn văn
hoàn chỉnh. Lúc này các em cũng biết được “con lợn kêu eng - éc”, “con gà gáy ò ó
o”, “tiếng nước chảy róc rách”, “tiếng chim hót líu lo” hay mùi thơm của mít chín,
mùi hơi đất của cơn mưa mùa hạ, mùi ẩm mốc của tường rêu,... nhưng những cảm
xúc đó chỉ dừng lại ở mức độ biết, còn các em có miêu tả được cái bên trong, cái thể
hiện được tâm trạng buồn, vui, yêu, ghét các sự vật, hiện tượng ấy thì lên lớp 4, 5 các
em mới thể hiện được qua bài văn miêu tả của mình. Tuy nhiên nội dung các bài tập
làm văn tạo lập văn bản miêu tả ở Tiểu học chỉ dừng lại ở mức độ đơn giản, chủ yếu
xung quanh những gì vốn gần gũi thân thuộc với các em. Các bài văn miêu tả chỉ yêu
cầu các em tả những đối tượng mà các em thường thấy trong cuộc sống và rất thân
thiết với các em như chiếc cặp sách, quyển vở, chiếc bút, thước kẻ, chiếc trống
trường, cái bàn, cuốn lịch, cũng có thể là những cây phượng, cây bàng, hoa bằng
lăng, cây hoa hồng, cây mít,... mà các em vẫn bắt gặp đâu đó trên đường đi học về,
trong sân trường, vườn nhà bà, hay là những chú cún con, chị mèo hay em ngan mà
các em thường rất yêu mến và chơi với chúng mỗi ngày. Ở đó các em sẽ gửi gắm tình
yêu thương và những kỉ niệm của mình với những gì các em miêu tả.
Nội dung kiến thức văn miêu tả lớp 4 được cụ thể hóa qua hai loại bài: Hình
thành kiến thức và Luyện tập thực hành.
Loại bài Hình thành kiến thức: được cấu trúc theo 3 phần:
1. Nhận xét: Bao gồm các câu hỏi, bài tập gợi ý HS khảo sát văn bản để tự rút
ra một số nhận xét về đặc điểm loại văn, kiến thức cần ghi nhớ.
2. Ghi nhớ: Gồm những kiến thức cơ bản rút ra từ phần nhận xét.
3. Luyện tập: Gồm từ 1 đến 3 bài tập thực hành đơn giản nhằm giúp HS củng
cố và vận dụng kiến thức tiếp nhận trong bài học.
Các bài thuộc loại bài Hình thành kiến thức trong chương trình văn miêu tả lớp 4:
- Thế nào là miêu tả?
- Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật
29
- Quan sát đồ vật
- Đoạn văn trong bài miêu tả đồ vật
- Cấu tạo bài văn miêu tả cây cối
- Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối
- Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật
Loại bài Luyện tập thực hành: kiểu bài này chủ yếu nhằm mục đích rèn
luyện các kĩ năng tập lập văn, vì thế mà nội dung của nó bao gồm một tổ hợp bài
tập gồm 2 loại: Bài tập nhận diện giúp HS củng cố các kiến thức lý thuyết đã được
hình thành trong bài và kiểm tra các em đã học được ở những tiết trước, loại thứ hai
là bài tập vận dụng với mục đích giúp HS ứng dụng lý thuyết đã học để thực hành
viết bài văn miêu tả.
Các bài thuộc loại bài Luyện tập thực hành trong Chương trình văn miêu tả lớp 4:
- Luyện tập miêu tả đồ vật.
- Luyện tập miêu tả đồ vật.
- Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả đồ vật.
- Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả đồ vật.
- Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu tả đồ vật.
- Miêu tả đồ vật (Kiểm tra viết)
- Trả bài miêu tả đồ vật.
- Luyện tập quan sát cây cối
- Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối
- Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối
- Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối
- Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả cây cối
- Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu tả cây cối
- Luyện tập miêu tả cây cối
- Miêu tả cây cối (Kiểm tra viết)
- Trả bài văn miêu tả cây cối
- Luyện tập quan sát con vật
- Luyện tập miêu tả các bộ phận của con vật
- Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật
- Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật
- Luyện tập xây dựng mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả con vật
- Miêu tả con vật (Kiểm tra viết)
- Trả bài văn miêu tả con vật
30
Văn miêu tả được dạy 30 tiết trong đó loại bài hình thành kiến thức mới là 7
tiết chiếm 23,3% còn loại bài luyện tập thực hành là 23 tiết chiếm 76,7% tổng số
tiết văn miêu tả HS được học trong chương trình tập làm văn lớp 4. Như vậy là loại
bài luyện tập thực hành chiếm hơn ba phần tư số tiết văn miêu tả mà các em được
học. Điều này cho thấy rõ mục tiêu của dạy học văn miêu tả ở lớp 4 là chú trọng rèn
luyện kĩ năng tạo lập văn bản miêu tả. Đó là các kĩ năng quan sát; kĩ năng lập dàn
bài; kĩ năng viết đoạn mở bài, kết bài; đoạn văn miêu tả các bộ phận của đồ vật, con
vật và cây cối rồi nâng cao lên là kĩ năng viết bài văn miêu tả đồ vật, con vật và cây
cối. Các kĩ năng này được hình thành và phát triển qua hệ thống 23 bài luyện tập
thực hành trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4 tập 1 và tập 2.
Nội dung 23 bài luyện tập thực hành này là hệ thống các bài tập rèn kĩ năng
tạo lập văn bản miêu tả sau:
Miêu tả đồ vật
Bài tập SGK TV4
Lập dàn ý cho bài văn miêu tả đồ vât T1 trang 152
Tả đồ chơi mà em thích T1 trang 162
Viết đoạn văn miêu tả bao quát chiếc bút T1 trang 170
Viết đoạn văn miêu tả bên ngoài, bên trong chiếc cặp T1 trang 173
Viết Mở bài (gián tiếp, trực tiếp) cho bài văn miêu tả các bài học T2 trang 10
Viết Kết bài (Mở rộng, không mở rộng) cho các đề:
a. Thước kẻ b. Bàn học c. Cái trống trường
T2 trang 12
Kiểm tra viết: Miêu tả đồ vật T2 trang 18
Trả bài viết T2 trang 28
Miêu tả cây cối
Bài tập SGK TV4
Quan sát một cây em thích trong vườn trường và ghi lại những gì
em quan sát được.
T2 trang 40
Viết đoạn văn miêu tả lá, thân hay gốc của một cây em yêu thích. T2 trang 42
Viết đoạn văn tả một loài hoa hoặc một thứ quả mà em yêu thích T2 trang 51
Viết đoạn văn nói về lợi ích của một loài cây mà em biết
Viết hoàn chỉnh đoạn văn cho sẵn T2 trang 53
Viết đoạn mở bài cho bài văn miêu tả cây cối T2 trang 61
Viết đoạn kết bài cho bài văn miêu tả cây cối T2 trang 75
Tả một cây bóng mát mà em biết T2 trang 82
Kiểm tra viết: Miêu tả cây cối T2 trang 92
Trả bài viết T2 trang 94
31
Miêu tả con vật
Bài tập SGK TV4
Quan sát và miêu tả đặc điểm ngoại hình của con mèo T2 trang 120
Quan sát và miêu tả hoạt động thường xuyên của con mèo T2 trang 120
Sắp xếp các câu văn thành đoạn văn miêu tả con vật T2 trang 130
Viết đoạn văn có chứa câu mở đoạn tả con gà trống T2 trang 130
Viết đoạn văn miêu tả ngoại hình của con vật T2 trang 140
Viết đoạn văn miêu tả hoạt động của con vật T2 trang 140
Viết đoạn văn Mở bài, Kết bài cho bài văn miêu tả con vật T2 trang 142
Kiểm tra viết: Miêu tả con vật T2 trang 149
Trả bài viết T2 trang 159
Có thể thấy rằng, hệ thống nội dung các bài tập làm văn tạo lập văn bản miêu tả
trong chương trình Tiếng Việt 4 chiếm một số lượng rất lớn. Với cả ba dạng thức (tả đồ
vật, tả con vật, tả cây cối), các bài tập chú trọng rèn luyện các kĩ năng quan sát; tìm ý
và lập dàn ý; sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và các biện pháp tu từ để viết câu,
đoạn và bài văn miêu tả được phân bổ rõ ràng qua từng tiết dạy tập làm văn.
1.2.2. Thực trạng dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 tại một số
trường Tiểu học ở Thành phố Huế
1.2.2.1. Thực trạng tổ chức hoạt động tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 từ
quan điểm phát triển năng lực
Để khảo sát thực trạng tổ chức hoạt động tạo lập văn bản miêu tả cho HS
lớp 4 ở trường Tiểu học, chúng tôi đã tiến hành dự giờ, quan sát và sử dụng phiếu
điều tra, phỏng vấn, trong đó hình thức phỏng vấn là cơ bản. Số lượng tham gia
khảo sát là 40 GV. (Nội dung phiếu, xem phụ lục).
Kết quả khảo sát như sau:
Bảng 1.5. Kết quả khảo sát GV
Câu
hỏi
Nội dung khảo sát
Số
lƣợng
Tỷ lệ
%
1
Nhận thức đúng về sự cần thiết của việc phát triển NL tạo
lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4
39 97,5
2 Nắm được tiêu chí đánh giá bài văn của HS 30 75
3
Đánh giá về năng lực tạo lập văn bản miêu tả của HS
Giỏi 5 12,5
32
Khá 10 25
Trung bình 20 50
Yếu 5 12,5
4 Nắm được các kĩ năng cần thiết để tạo lập văn miêu tả 35 87,5
5
Khảo sát mức độ chú ý rèn luyện kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo
Rất chú ý 15 37,5
Chú ý 10 25
Có chú ý 10 25
Hầu như không chú ý 5 12,5
6
Nhận biết tác dụng của việc phát triển sử dụng các phương
tiện ngôn ngữ, biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả
37 92,5
7
Khảo sát sự lựa chọn các phương pháp, hình thức dạy học hỗ trợ phát triển
cho HS trong tạo lập văn bản miêu tả miêu tả
Xây dựng hệ thống bài tập 19 22,5
Tổ chức các trò chơi học tập 14 35
Ứng dụng CNTT, kĩ thuật hiện đại 6 15
Tích lũy kiến thức qua các phân môn khác của Tiếng Việt 11 27,5
8
Nhận biết vai trò của việc phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý của việc tạo
lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4
Rất quan trọng 20 50
Quan trọng 10 25
Bình thường 10 25
Không quan trọng 0 0
9
Khảo sát mức độ hứng thú của GV trước NL học tạo lập văn bản miêu tả
cho HS lớp 4
Rất hứng thú 8 20
Hứng thú 10 25
Bình thường 22 55
10
Tài liệu tham khảo cho việc dạy phát triển các NL tạo lập văn bản miêu tả
Phong phú, đầy đủ 10 25
Có nhưng ít 22 55
Không có 8 20
33
Qua kết quả khảo sát, từ góc độ người dạy thì hầu hết các GV đã thấy được
sự cần thiết phải phát triển các NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS (97,5%), nhận
thức được phần nào tầm quan trọng của việc phát triển các NL quan sát, trải nghiệm
sáng tạo, tìm ý, lập dàn ý, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ
trong tạo lập văn bản miêu tả cho HS. Biết rằng để HStạo lập nên những văn bản
miêu tả hay thì cần phát triển những NL đó. Đa số các GV cũng đã nắm chắc tiêu
chí để đánh bài văn miêu tả của HS (chiếm 75%). Với kết quả khảo sát thì có đến
12,5 % khi được hỏi thì hầu như không chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng quan sát
và trải nghiệm sáng tạo cho HS, có 50 % GV cho rằng kĩ năng tìm ý và lập dàn ý
đóng vai trò rất quan trọng, 50 % GV nhận thấy được sự rất cần thiết phải phát triển
tư duy sáng tạo trong tạo lập văn bản miêu tả cho HS, có đến 37 GV trong tổng số
40 GV (chiếm 92,5 %) được phỏng vấn thừa nhận việc phát triển kĩ năng sử dụng
các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tập lập văn bản miêu tả cho HS
sẽ làm cho bài văn của các em trở nên mượt mà, sống động hơn, đối tượng miêu tả
trở nên có “hồn” hơn, gần gũi thân thiết hơn với con người, qua đó bồi dưỡng ở các
em sự trong sáng trong tâm hồn và tình yêu cái đẹp, giúp các em thể hiện và phát
huy hết khả năng sáng tạo tiềm ẩn trong mỗi cá nhân các em.
Tuy nhiên, bên cạnh phần đông GV đồng tình, thấy được tầm quan trọng của
việc phát triển những kĩ năng trên trong quá trình dạy tạo lập văn bản miêu tả cho
HS lớp 4 thì vẫn còn một số ít GV chưa thực sự chú trọng, quan tâm, có chăng thì
cũng ở mức độ bình thường. Cụ thể là có đến 7,5 % GV xem việc rèn luyện kĩ năng
sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ ở mức rất ít, 25 % GV cho
rằng việc phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý là bình thường. Theo kết quả khảo sát
cho thấy, thời gian gần đây đã có nhiều nhà giáo dục, nhà nghiên cứu, thầy cô giáo
quan tâm đến vần đề này và đặc biệt cũng có nhiều tài liệu dạy học đề cập đến nội
dung dạy học tạo lập văn bản cho HS lớp 4 nhưng sau tất cả thì vẫn chưa đầy đủ,
thấu đáo, chỉ dừng lại ở mức độ có nhưng ít (22/ 40 chiếm 55%).
Điều này tạo nên sự trở ngại, khó khăn cho GV trong dạy học văn miêu tả ở
nhà trường cho HS, các em khó mà viết tốt, viết hay được (đặc biệt là vận dụng các
phương tiện ngôn ngữ, biện pháp tu từ và phát huy hết tư duy sáng tạo của bản thân
trong quá trình làm bài văn miêu tả để tạo lập nên những văn bản miêu tả mượt mà
mang đậm dấu ấn cá nhân. Trong quá trình khảo sát mức độ hứng thú của GV trước
năng lực học tạo lập văn bản miêu tả của HS thì chỉ có 20% GV cảm thấy HS học
tốt và rất hứng thú, 25% xem là hứng thú trước NL học tạo lập văn bản miêu tả của
34
HS và có đến 55% GV xem NL học tạo lập văn bản miêu tả của HS là ở mức bình
thường. Với mức độ này thì có thể nói rằng việc thầy cô có hứng thú không khi dạy
tạo lập văn bản miêu tả cho HS thì câu trả lời mới chỉ dừng lại ở mức độ trung bình
chứ chưa cao. Và khi được hỏi trong dạy học tạo lập văn bản miêu tả GV lựa chọn
những phương pháp và hình thức gì để mang lại hiệu quả cao thì nhận được nhiều ý
kiến khác nhau, có 35 % GV chọn cách tổ chức các trò chơi học tâp; GV chọn phương
pháp tích lũy kiến thức qua các phân môn khác của Tiếng Việt là 27,5 %, còn 22,5 % là
chọn biện pháp xây dựng các bài tập hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả,
chiếm tỉ lệ thấp nhất là phương án ứng dụng công nghệ thông tin, kĩ thuật hiện đại
trong dạy học. Điều đó thấy rằng bước đầu GV cũng đã biết vận dụng nhiều phương
pháp và hình thức dạy học tích cực trong dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4.
Tuy nhiên sự vận dụng này cũng còn cục bộ, chưa đồng đều, thiếu tính chặt chẽ và
khoa học nên hiệu quả mang lại chưa cao. Có lẽ những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng
ít nhiều đến chất lượng bài văn miêu tả của HS. Kết quả khảo sát cho thấy NL tạo lập
văn bản miêu tả của HS hiện nay dừng lại ở mức độ trung bình khá.
Ngoài ra, trong quá trình dạy học, các buổi dự giờ, thao giảng, thăm lớp,
chúng tôi nhận thấy rằng GV dạy tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 hiện nay còn
tồn tại một số nhược điểm sau:
- Giờ học tập làm văn nói chung và thể loại văn miêu tả nói riêng chỉ được
tiến hành trong lớp, HS căn cứ theo các gợi ý trong SGK rồi thực hành các bài tập.
GV chưa tạo ra môi trường học tập tích cực cho HS, chưa tạo cơ hội để các em
được quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong tiến trình viết bài.
- GV còn quá phụ thuộc vào SGK, SGV trong quá trình dạy bởi hiện nay thì
chỉ có một con đường duy nhất để hình thành kiến thức, kĩ năng làm văn miêu tả
thông qua việc phân tích mẫu trong SGK, mà việc phát triển này lại không làm bật
lên được hết giá trị của những bài văn.
- Sự quá phụ thuộc vào SGK dẫn đến một tình trạng nữa là GV khi ra đề
không cần biết đề bài đó có phù hợp với đặc điểm tâm sinh lứa tuổi và trình độ nhận
thức của HS mình hay không.
- GVchưa thực sự chú trọng rèn luyện kĩ năng lập dàn ý trong dạy học tạo lập
văn miêu tả cho HS dẫn đến tình trạng bài viết của các em lủng củng, thừa trước
thiếu sau, bố cục không rõ ràng.
- Trong quá trình dạy tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4, GV chưa
thực sự quan tâm đến việc rèn luyện kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và
35
biện pháp tu từ trong viết văn. Có chăng thì chỉ có nói qua loa mà chưa có các biện
pháp hướng dẫn cụ thể và giải thích rõ cho các em biết hết ý nghĩa hết sức to lớn
của các kĩ năng này góp phần làm cho bài văn của các em hay hơn, “chất” hơn.
1.2.2.2. Năng lực tạo lập văn bản miêu tả của học sinh lớp 4 tại một số trường Tiểu
học ở Thành phố Huế
Để khảo sát văn bản tạo lập miêu tả của học sinh ở một số trường Tiểu học
hiện nay, ngoài hình thức phỏng vấn, chúng tôi dùng hình thức khảo sát bằng các
phiếu điều tra. Số lượng HS được khảo sát là 150 em. Phiếu điều tra phần: Phần
Trắc nghiệm gồm 10 câu hỏi (các câu hỏi đều có sẵn phương án trả lời) và Phiếu
điều tra phần Tự luận để HS làm bài kiểm tra tự luận để chấm điểm và đánh giá NL
tạo lập văn bản miêu tả của HS lớp 4.
(Nội dung phiếu, xem Phụ lục)
Kết quả khảo sát như sau:
Bảng 1.6. Kết quả khảo sát HS
Phần trắc nghiệm:
Câu
hỏi
Nội dung khảo sát Số lƣợng Tỉ lệ %
1 Hiểu được thế nào là văn miêu tả 140 93,3
2 Biết cách quan sát một đồ vật 90 60
3 Nắm được trình tự miêu tả một đồ vật 86 57,3
4 Biết được trình tự tạo lập nên 1 văn bản miêu tả 80 53,3
5 Nhận biết từ láy trong đoạn văn miêu tả con vật 89 59,3
6
Nhận biết được biện pháp so sánh trong đoạn văn
miêu tả cây cối
86 57,3
7
Nhận biết được biện pháp nhân hóa trong câu
văn miêu tả
86 57,3
8
Mức độ hứng thú của học sinh khi học tạo lập văn bản miêu tả
Rất hứng thú 36 24
Hứng thú 45 30
Bình thường 54 36
Không hứng thú 15 10
9
Sự hứng thú của học sinh về cách dạy của GV
Hấp dẫn, hứng thú 25 16,7
36
Câu
hỏi
Nội dung khảo sát Số lƣợng Tỉ lệ %
Dễ hiểu 40 26,7
Bình thường 70 46,7
Nhàm chán 15 10
10
Mức độ cung cấp tài liệu học tập văn miêu tả của nhà trường
Rất nhiều 15 10
Nhiều 30 20
Có nhưng chưa đầy đủ 80 53,3
Không có 25 16,7
Phần tự luận:
Tổng số
học sinh
tham gia
Kết quả
G
(9 – 10 điểm)
K
(7 – 8 điểm)
TB
(5 – 6 điểm)
Y
(< 5 điểm)
SL % SL % SL % SL %
150 10 6,6 58 38,6 63 42 19 12.6
Kết quả Trắc nghiệm cho thấy rằng: nhìn chung các em đã hiểu được thế nào
là văn miêu tả (93,3%), biết cách quan sát đối tượng miêu tả (60%), phần đông các
em biết được trình tự miêu tả một đồ vật (57,3%) hầu hết đều nhận diện đúng từ láy,
các hình ảnh so sánh, các sự vật được nhân hóa trong câu văn, đoạn văn cho sẵn.
Tuy nhiên khi được hỏi các em có hứng thú với nội dung học lập văn bản miêu tả
không thì nhận được một kết quả không như mong đợi, có đến 10% cho là không
hứng thú, chỉ có 24% là rất hứng thú và nhiều nhất là ở mức bình thường(36%),
hứng thú chiếm 30 %. Đây phải chăng là một trong những lí do khiến cho năng lực
viết văn của học sinh luôn ở mức trung bình, ít có nhiều bài văn hay, đặc sắc? Trong
một câu hỏi khác của quá trình điều tra thì chỉ có 16,7% cho rằng cách dạy của GV
là lí thú, hấp dẫn, có đến 10% HS nghĩ GV dạy nhàm chán. Điều này ảnh hưởng ít
nhiều đến kết quả học tập của các em. Trong phần tự luận để kiểm tra thực tế văn
miêu tả và kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, biện pháp tu từ trong viết
văn của HS thì chỉ có 10 HS chiếm 6,6% số HS được khảo sát đạt loại giỏi, có đến
12,6% HS (19 HS) đạt điểm dưới 5, HS đạt điểm trung bình cao nhất (chiếm 42%)
còn điểm khá chiếm 38,6%. HS đạt điểm kém còn nhiều (19/ 150), HS đạt điểm giỏi
37
rất ít (10/ 150). Qua quá trình điều tra, thấy rằng hầu hết HS đã tả đúng về đối tượng
miêu tả. Khi tả cây cối, các em đã tả được các bộ phận của cây như rễ, thân, cành,
lá, hoa, quả (nếu có) hay tả con vật thì các em biết tả được những bộ phận của con
vật từ đầu, thân, bộ lông, tai, mũi, miệng và cả hoạt động, các em bộc lộ cảm xúc
yêu mến của mình đối với chúng. Một số em đã sử dụng từ láy như “dong dỏng” để
tả hai cái tai con chó, “duyên dáng” để tả cái đuôi con mèo, cái chân “lủn củn” của
đàn ngan mới nở, ... biết ví von so sánh “hương sầu riêng ngan ngát như hương cau,
hương bưởi”, “rễ cây bàng ngoằn ngoèo trườn lên mặt đất như con rắn hổ mang
giận dữ”, “cái đồng hồ như cô bé làm công việc báo thức”,... rồi cả nhân hóa “dưới
ánh nắng mặt trời, chú gà trống như một vị hoàng đế đang khoác trên mình một
chiếc hoàng bào lấp lánh”, “các chị hoa gọi nhau đi chúc Tết mọi nhà”, “cây
phượng vĩ xòe bàn tay ôm ấp, che chở cái nắng chói chang ngày hè cho chúng em
chơi đùa”,... làm cho bài viết khá thú vị, gây ấn tượng cho người đọc. Tuy nhiên thì
số bài này ở mức hạn chế. Đa số bài viết của các em mắc khá nhiều lỗi. Trước hết
phải kể đến lỗi dùng từ đặt câu, dù trước đó các em đã học và nắm vững kiến thức
này trong phân môn Luyện từ & câu nhưng khi áp dụng vào viết văn lại không đạt.
Thứ hai là sự quan sát chưa đúng cộng với vốn sống, vốn từ và sự trải nghiệm sáng
tạo ở các em còn hạn chế dẫn đến bài văn khô khan, ít xúc cảm, nghèo nàn hình
ảnh. Qua chấm bài, một đặc điểm nổi lên mà nhiều HS vướng mắc đó là bố cục bài
viết lủng củng, thiếu trước thừa sau, điều này phải chăng do các em chưa chú ý đến
việc cần làm là tìm ý và lập dàn ý cho bài văn trước khi làm bài viết. Đa số các em
chưa sử dụng nhiều từ láy, biện pháp tu từ trong viết văn để tạo nên sự hấp dẫn, sinh
động cho bài văn của mình. Một số em đã có sự tưởng tượng, liên tưởng để so sánh
và nhân hóa một số hình ảnh trong bài viết nhưng vẫn còn miễn cưỡng, ngô nghê,
chưa hay, chưa gợi tả, gợi cảm và hiệu quả mang lại chưa cao. Một thực tế hiện nay,
trên thị trường đã có nhiều sách tham khảo, văn mẫu cho HS và PH tham khảo, mà
HS của chúng ta thì NL còn hạn chế nên để bài văn được điểm cao thì không có
cách nào khác là các em học thuộc văn mẫu rồi “sao chép” vào bài viết của mình, có
nhiều em dựa vào dàn ý mà GV hướng dẫn rồi chép y hệt vào chứ không sáng tạo,
liên tưởng gì khác mang dấu ấn cá nhân khiến cho nhiều bài viết của các em na ná
nhau. Từ thực tế trên cho thấy bài viết của HS Tiểu học là miêu tả chung chung, hời
hợt, nghèo nàn hình ảnh, ít cảm xúc và chưa phát huy NL sáng tạo cá nhân.
38
Qua quá trình lên lớp, các buổi thao giảng, dự giờ, phỏng vấn và điều tra HS,
chúng tôi nhận thấy chất lượng hiệu quả học tạo lập văn bản miêu tả của HS lớp 4
bị ảnh hưởng bởi những mặt hạn chế sau:
- HS chưa thực sự có hứng thú khi học tạo lập văn bản miêu tả một phần vì
cách dạy của GV và một phần do yêu cầu, đặc thù môn học đòi hỏi ở HS nhiều
mảng kiến thức từ các phân môn khác nhau của TV.
- HS chưa biết vận dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong
viết văn bởi vì các kiến thức này mặc dù HS đã học từ lớp 3 nhưng mới dừng lại ở
mức độ nhận biết và đặt câu nên khi HS vận dụng vào để viết thành đoạn văn, bài
văn miêu tả sẽ gặp nhiều khó khăn.
- HS quá phụ thuộc vào sách văn mẫu, tham khảo nên bài viết của các em
chưa phát huy hết NL sáng tạo để tạo lập nên những văn bản miêu tả hay.
- Cách dạy của GV chưa gây được hứng thú và kích thích niềm đam mê học
văn miêu tả ở các em.
Tiểu kết chƣơng 1
Từ việc nghiên cứu những cơ sở lí luận cơ bản cũng như khảo sát, đánh giá
thực tiễn những vấn đề liên quan đến đề tài như trên, chúng tôi rút ra những kết luận
định hướng cho quá trình nghiên cứu, cụ thể là việc đề xuất biện pháp ở chương 2:
- Chương trình Tập làm văn mà cụ thể là văn miêu tả trong SGK Tiếng Việt
lớp 4 đã rất chú trọng đến kĩ năng tạo lập văn bản miêu tả và hình thành kĩ năng này
qua thực hành luyện tập.
- Thực tế dạy học văn miêu tả, GV chưa có biện pháp tích cực, hiệu quả để
phát triển NL tạo lập văn miêu tả cho HS. Đặc biệt, GV chưa chú trọng phát triển tư
duy sáng tạo của HS trong tạo lập văn bản miêu tả dẫn đến kết quả là ít có những
bài văn hay, đặc sắc và mang đậm dấu ấn cá nhân.
Vì vậy, việc đề xuất những biện pháp dạy học nhằm phát triển NL tạo lập
văn miêu tả cho HS vừa có ý nghĩa giải quyết bất cập của thực tiễn vừa đáp ứng
mục tiêu dạy học đổi mới.
- Tạo lập nên một văn bản miêu tả là cả một quá trình từ quan sát đối tượng
đến tìm chi tiết tiêu biểu rồi lập dàn ý, lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ và biện
pháp tu từ để viết đoạn văn, bài văn tạo lập nên những văn bản miêu tả hay, hấp
dẫn. NL tạo lập văn bản miêu tả là một chỉnh thể thống nhất của nhiều kĩ năng. Do
đó để phát triển NL tạo lập văn miêu tả cho HS cũng cần được thực hiện có tính quá
trình, tích hợp rèn luyện tất cả các kĩ năng trên.
39
Chƣơng 2
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO VĂN BẢN MIÊU TẢ
CHO HỌC SINH LỚP 4
2.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp
2.1.1. Đảm bảo mục tiêu và nội dung dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho học
sinh lớp 4
Môn Tiếng Việt nói chung và làm văn miêu tả nói riêng hướng đến mục tiêu
phát triển kĩ năng tạo lập văn bản, góp phần hình thành cho HS những kiến thức sơ
giản về tiếng Việt, những hiểu biết sơ giản về tự nhiên xã hội, con người, về văn
hóa của Việt Nam và của nước ngoài, bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và thói quen
giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách của
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mọi sự tìm tòi, đổi mới về PPDH đều phải xuất phát từ việc đảm bảo mục
tiêu, nội dung dạy học và đó cũng được xem như một cơ sở khoa học, một chuẩn
đánh giá. Có như vậy những đề xuất mới có ý nghĩa góp phần khắc phục, cải thiện
bài viết của HS đồng thời nâng cao hiệu quả dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho
HS lớp 4. Cụ thể là trong các biện pháp đề ra, luận văn chú trọng đến việc rèn
luyện, hướng dẫn HS các kĩ năng tạo lập, luyện tập thực hành nhiều bài tập vận
dụng sáng tạo, các trò chơi tích cực hướng tới mục tiêu phát triển NL tạo lập văn
bản miêu tả. Khi các em được thực hiện nhiều bài tập, nhiều trò chơi thì HS sẽ tiếp
nhận nhiều tri thức về cách quan sát trải nghiệm sáng tạo, kĩ năng tìm ý, lập dàn ý,
vận dụng các biện pháp tu từ và phương tiện ngôn ngữ vào bài viết với mục đích
cuối cùng là tạo lập nên những văn bản miêu tả sinh động, hấp dẫn. Từ đó, HS có
thêm nhiều trải nghiệm, nhiều hiểu biết về cuộc sống, con người, cảnh vật thiên
nhiên tươi đẹp xung quanh và tâm hồn trí tuệ của các em luôn rộng mở hơn.
2.1.2. Đảm bảo phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
Cũng như các phân môn khác của Tiếng Việt, một trong những nhiệm vụ của
phân môn Tập làm văn là bồi dưỡng ý thức và thói quen sử dụng Tiếng Việt. Để
làm được điều này, GV cần bồi dưỡng hứng thú học tập, ý thức học tập đúng đắn và
ý thức được lợi ích của việc học tập để tạo động lực học tập. Việc xây dựng biện
pháp để phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS phải dựa trên các tiêu chí nói
trên. GV đưa ra các ngữ liệu để xây dựng các bài tập luyện tập cho HS phải phù hợp
với nhận thức của các em, cộng với nội dung hay, có chọn lọc thì sẽ kích thích ở các
40
em sự hứng thú, tò mò khám phá kiến thức. Đó có thể là các câu đố, trò chơi hay bài
tập vận dụng mức độ cao để gây sự hấp dẫn, giảm bớt căng thẳng trong giờ học mà
HS lại chiếm lĩnh tri thức một cách nhẹ nhàng và nhớ lâu hơn. Người ta thường hay
nói “học mà chơi, chơi mà học”, nếu áp dụng thành công phương châm này thì chắc
chắn kết quả học tập của HS luôn đạt kết quả cao.
Khi các em được kích thích sự hứng thú, tò mò khám phá, chủ động tích cực
thì GV dễ dàng đánh thức được những cảm xúc bất ngờ, sáng tạo của các em trước
mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc sống, GV sẽ chấp cánh cho những sáng tạo HS để
tạo tạc nên những trang văn miêu tả mượt mà bằng chính thế giới ngôn từ giàu xúc
cảm của các em.
2.1.3. Đảm bảo tính hệ thống, tính vừa sức
HS tiểu học có những đặc điểm tâm lí và tư duy đặc thù. Ở các em luôn có sự
tò mò, mong muốn khám phá, chiếm lĩnh những cái mới mẻ, trí tưởng tượng, sự
quan sát cũng khác lạ mà chỉ có các em mới nhìn và nghĩ như thế. Song ở góc độ
nào đó, trình độ ngôn ngữ và khả năng tư duy của các em chưa đủ để giải mã hết
những điều thú vị cuộc sống xung quanh. Vì thế GV cần căn cứ vào trình độ nhận
thức và đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của người học cụ thể để đưa ra các biện pháp
nhằm phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 đảm bảo tính hệ thống mà
lại vừa sức đối với các em.
Tính hệ thống ở đây có nghĩa là các biện pháp đề ra phù hợp với quy trình
dạy tạo lập một văn bản miêu tả, hướng tới hình thành hệ thống kĩ năng cơ bản cấu
thành nên NL tạo lập văn miêu tả cho HS lớp 4. Tuy nhiên, GV không yêu cầu mức
độ quá cao so với trình độ của HS mà phải đảm bảo tính vừa sức và cũng không vì
thế mà kìm hãm sự sáng tạo và tích cực hoạt động của HS. Ngược lại yêu cầu của
biện pháp đề ra vừa đảm bảo các nguyên tắc đó, vừa phải hấp dẫn các em, khơi gợi
những khát vọng hiểu biết, những hứng thú và đam mê của trẻ. Nếu GV làm tốt
những việc nêu trên sẽ góp phần phát triển tư duy cho HS một cách toàn diện.
2.2. Hệ thống biện pháp phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học
sinh lớp 4
2.2.1. Phát triển kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong tạo lập văn bản
2.2.1.1. Vai trò và yêu cầu của hoạt động quan sát, trải nghiệm sáng tạo đối với
quá trình tạo lập văn bản miêu tả
Các nhà tâm lí học cho rằng, quan sát không chỉ là nhìn, là thấy…, mà
phải được hiểu là tổng thể hoạt động của các giác quan, bao gồm nhìn thấy nghe
thấy, ngửi thấy, sờ mó thấy, nội cảm thấy… Quan sát trong tạo lập văn bản miêu
tả có vai trò rất quan trọng, là cửa ngõ nối liền thế giới khách quan với chủ quan.
41
Nếu không có quan sát thì vốn hiểu biết, trí tưởng tượng và nói chung là toàn bộ
trí tuệ, tâm hồn của chúng ta không chỉ nghèo nàn mà còn không thể nào hình
dung được. Tục ngữ có câu: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Muốn mở
rộng hiểu biết, phát triển tâm hồn mình, cần phải đi nhiều biết rộng, như thế
cũng tức là phải quan sát được thật nhiều, thật sâu sắc những cảnh vật, những
con người ở nhiều nơi. Về phương diện này, khác với bất cứ một kiểu dạng nào
khác, văn miêu tả gắn chặt với tâm hồn, cũng như óc quan sát tinh tế của con
người. Chính những kết quả quan sát đã đem lại sự giàu có trong nhận thức và
tâm hồn của người viết. Ví dụ như phải viết một bài văn miêu tả con gà, cây
bàng hay chiếc cặp sách mà nếu ta chưa từng quan sát nó thì chẳng những chúng
ta chẳng có gì để viết về con gà, cây bàng, chiếc cặp sách mà trong chúng ta
cũng sẽ chẳng có một ấn tượng hay nhận thức gì về chúng.
Nếu chỉ nhìn một cách bình thường, giản đơn, chẳng hạn như nhìn thấy một
cánh đồng, đó chưa phải là hoạt động quan sát. Quan sát là một hoạt động có chủ
đích, có động cơ, có hứng thú và cuối cùng là phải có kết quả. Tức là sự quan sát
đem lại một nhận thức mới, một cảm xúc mới, hay ít ra cũng là một nét gì mới mẻ
mang giá trị thẩm mỹ trong cảm nhận về đối tượng. Từ đó, ta mới có những tư liệu
quý để viết văn miêu tả cũng như bồi bổ tâm hồn mình.
Bất kì sự tưởng tượng nào dù có phong phú và kì vĩ đến đâu đều phải bắt đầu
từ thực tế, gắn với đời sống thực tế. Muốn có những trang văn miêu tả hay, có hồn
và sống động thì đòi hỏi người viết phải có sự từng trải, sự hiểu biết. Đó mới là
những người biết quan sát. Sở dĩ nhà văn Tô Hoài đã làm đắm say nhiều thế hệ
thiếu niên bằng những trang văn miêu tả về hoạt động, tính nết, “phong tục” của
những chú Dế Mèn, Dế Trũi, đại vương Ếch Đốm, thầy đồ Cóc,… là do ông đã gắn
bó, bầu bạn và say mê quan sát cái thế giới đầy cỏ cây và các loài vật trên bãi sông
trước cổng làng ông. Hay nhà thơ Trần Đăng Khoa, ông cho biết ngày nhỏ đã từng
say mê ngồi quan sát đàn kiến tha mồi, thậm chí còn bắt từng loại kiến bỏ vào lọ để
ngắm nhìn và quan sát, để rồi mới tả được cái Đám ma bác giun hay đến thế:
“Bác giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau”
Cầm hương kiến đất bạc đầu
Khóc than kiến cánh khoác màu áo tang
Kiến lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến kim chống gậy, kiến càng nặng vai”…
42
Quan sát không chỉ là quan sát vẻ bên ngoài, mà nhiều khi còn phải quan sát
bên trong để thấu hiểu và thể hiện nội tâm của nhân vật. Trong trường hợp này, nhà
văn cần phải nhập thân vào nhân vật. Quả là muốn viết được, nhất thiết phải biết
quan sát để ấn sâu thêm trí nhớ, giúp sức cho tưởng tượng, sáng tạo như nhà văn Tô
Hoài đã khẳng định: “quan sát là mài dũa cái nhìn, cái nghe, cái nghĩ”, “cái cách,
cái lối quan sát ấy không có gì đặc biệt và bí ẩn”. Đó là một thói quen luôn biết
mài dũa cái nhìn, cái nghe, cái nghĩ và là công việc lúc nào cũng bắt sức óc phải
chăm chú tìm tòi và đổi mới.
Muốn quan sát tốt còn phải lựa chọn cho mình một điểm nhìn, góc nhìn hợp
lí. Khi viết một văn bản tự sự hay miêu tả, bao giờ người viết cũng phải xuất phát từ
một vị trí, đóng vai trò một người nào đó để quan sát, miêu tả, thuật lại câu chuyện.
Chẳng hạn, với góc nhìn của một đứa trẻ thời kháng chiến, Trần Đăng Khoa đưa
vào trong thơ mình cả một không gian chiến tranh, mới có thể thấy “cây dừa”
giống như “một người lính”.
“Đứng canh trời đất bao la
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi”
(Cây dừa)
Và thấy bông lúa như “băng đạn”
“Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng
Bát ngát mùa gặt
Thơm hào giao thông”
(Hạt gạo làng ta)
Và nói chung, chỉ với nhãn quan của trẻ thơ, các nhà thơ thiếu nhi như Trần
Đăng Khoa mới có thể có được những cái nhìn đầy ngạc nhiên trước thế giới xung
quanh mà đối với người lớn đã quá quen thuộc. Mục tiêu cuối cùng của dạy học văn
nói chung là phát triển tâm hồn, nhân cách cho HS. Nhưng văn miêu tả có cách
riêng, đó là nuôi dưỡng tâm hồn thông qua rèn luyện năng lực quan sát và phát triển
trí tưởng tượng.
SGK Tiếng Viết đã rất quan tâm đến việc rèn luyện năng lực quan sát. Ở các
lớp 2-3, quan sát là một nội dung rèn luyện được chuẩn bị công phu và chiếm phần
lớn số tiết. Ở lớp 4, 5 quan sát vẫn là một nội dung dạy học quan trọng, chiếm 15-
20% số tiết của chương trình văn miêu tả.
43
Những yêu cầu cơ bản của quan sát, trải nghiệm sáng tạo là sử dụng các giác
quan để phát hiện các đặc điểm của đối tượng, như về hình dáng, màu sắc,… SGK
cũng có chú ý tới quan sát bên trong “bằng cách lưu ý học sinh” lột tả được cái thần
“của đối tượng hoặc đơn giản hơn”, phát triển cảm nghĩ về đối tượng miêu tả. Cuối
cùng, quan sát phải trung thực, tránh bắt chước, mòn sáo và giả tạo.
Về việc rèn luyện và nâng cao năng lực tưởng tượng, sáng tạo của HS, SGK
cũng đã rất chú ý tới cả tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo. Tưởng tượng tái
tạo là làm cho đối tượng miêu tả được hiện lên với những chi tiết vốn có của nó. Tưởng
tượng sáng tạo là hư cấu, thêm thắt,… dựa trên cơ sở của sự trải nghiệm thực tế. SGK
Tiếng Việt 4 tập một có đề văn yêu cầu HS tả mẹ con nhà gà và hình dung câu chuyện
của chúng trong lúc kiếm mồi. Đây là một đề văn hay, khuyến khích được cả tưởng
tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo của HS. Cũng cần lưu ý là trong thực tế, ở một số
trường tiểu học khi nhấn mạnh tính trung thực trong miêu tả đã không chú ý rằng tính
trung thực không hề mâu thuẫn với sự hư cấu và trí tưởng tượng, miêu tả trung thực
không có nghĩa là “thật như đếm” mà trái lại, những hư cấu, thêm thắt, tưởng tượng,…
của người viết nhiều khi còn “thật hơn cả sự thật” nữa.
Tựu chung lại, quan sát và trải nghiệm sáng tạo có một vai trò quan trọng trong
sáng tạo nghệ thuật. Hiểu được tầm quan trọng của hoạt động quan sát từng trải trong
dạy học văn miêu tả như thế nên GV cần đưa ra cách thức tổ chức hoạt động quan sát
và trải nghiệm sáng tạo một cách phù hợp để HS thấy rõ vai trò và yêu cầu của hoạt
động quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong viết văn nhằm hỗ trợ phát triển NL tạo
lập văn bản miêu tả cho HS khi bài dạy kiểu bài Văn miêu tả.
2.2.1.2. Cách thức tổ chức hoạt động quan sát và trải nghiệm sáng tạo hỗ trợ phát
triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả
Quan sát và trải nghiệm sáng tạo là một khâu rất quan trọng để hình thành và
phát triển ở các em các kĩ năng cần thiết hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu
tả cho HS lớp 4. Song qua thực tế giảng dạy ở nhà trường Tiểu học hiện nay thì còn
nhiều GV rất lơ là, lúng túng trong việc hướng dẫn HS cách quan sát, sáng tạo
những trải nghiệm trong cuộc sống, cảm nhận các sự vật, hiện tượng xung quanh.
Các bài văn thường nghèo nàn hình ảnh, ít xúc cảm, thiếu tính chân thực, sinh động
và gợi cảm là do HS chưa biết cách quan sát các đối tượng cần miêu tả. Qua quan
sát HS sẽ thu nhận được những hình ảnh, âm thanh và hương sắc cuộc đời bằng
lăng kính riêng của chính các em. Từ những quan sát và trải nghiệm trong thực tế
của cuộc sống, các em mới làm giàu được vốn sống, vốn hiểu biết của bản thân, làm
44
cơ sở để có thể liên tưởng, tưởng tượng lại các đối tượng đã quan sát, từ đó vận
dụng vào viết văn để sáng tạo, tô vẽ nên bức tranh miêu tả đầy mới mẻ, y vị, hấp
dẫn, lôi cuốn người đọc. Để làm được điều này, GV cần:
Hướng dẫn HS vận dụng tất cả các giác quan để tri nhận về đối tượng
miêu tả từ nhiều góc độ và phương diện. Nếu chỉ nhìn một cách bình thường, giản
đơn, chẳng hạn như nhìn thấy một cánh đồng, đó chưa phải là hoạt động quan sát.
Quan sát là một hoạt động có chủ đích, có động cơ, có hứng thú và cuối cùng là
phải có kết quả. Tức là sự quan sát đem lại một nhận thức mới, một cảm xúc mới,
hay ít ra cũng là một nét gì mới mẻ mang giá trị thẩm mỹ trong cảm nhận về đối
tượng. Từ đó ta mới có những tư liệu quý để viết văn miêu tả, cũng như bồi bổ tâm
hồn mình. Quan sát không chỉ là nhìn, mà là sự mở rộng mọi giác quan để cảm nhận
cuộc sống. GV hãy cho HS thử nhắm mắt để tưởng tượng và cảm nhận về khu vườn
một buổi sớm tinh mơ, cánh đồng mùa lúa chín vàng, con đường làng em đi học hay
cảnh bình minh ló dạng từ phía xa của chân trời… Cuộc sống sẽ hiện ra thật bất
ngờ, thi vị mà trước đến giờ ta chưa biết, chưa cảm nhận được. Các em sẽ có cảm
giác như nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần đã chia sẽ trong “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa
sổ”: “Bạn hãy tưởng tượng một buổi sáng mờ sương, bạn vừa nhắm mắt, vừa mở
cửa sổ và bạn chợt hiểu khu vườn nói gì. Bạn hiểu bây giờ là mùa gì và bông hoa
này đây nở, tên gì. Tiếng bước chân trong vườn, bạn biết chính xác người có bước
chân đó cách bạn bao nhiêu mét. Bạn còn biết bước chân đó của ai, bố hay mẹ…
Đó là một điều bí mật mà tôi muốn chia sẻ với các bạn. Bạn hãy thử đi, rồi bạn sẽ
thấy, khu vườn sẽ lớn lên rất nhiều. Những bông hoa thơm hơn và khi nhắm mắt
bạn vẫn nhìn thấy nó. Không chỉ vậy bạn còn có thể thấy nguyên cả khu vườn. Bạn
có thể nhìn thấy bông hồng trong đêm tối.”
Vậy là khi ta nhắm mắt lại ta cảm nhận được bông hoa đang nở qua mùi
hương của nó (khứu giác), ta biết được bước chân đang đi là của ai, cách ta bao xa
(thính giác) và biết được khu vườn đang nói với ta điều gì. Đó chính là sự tổng hòa
các giác quan để cảm nhận sự đẹp đẽ, tươi mới của một khu vườn buổi sớm mai.
Qua các tiết luyện tập thực hành, GV hãy hướng dẫn HS để chính các em
được trực tiếp và thực sự tri cảm về những gì trong cuộc sống. Chẳng hạn, tả khu
vườn vào buổi sáng thì hãy dùng đôi tai của mình để lắng nghe âm thanh của
tiếng chim hót, sự xao động của khu vượn sớm mai, sự tí tách của những hạt
sương rơi trên lá hay dùng cánh mũi để cảm nhận mùi thơm của cỏ cây, hoa lá,
đất đai, hay là nhắm mắt để cảm nhận cái cảm giác se lạnh khi có làn gió “hôn”
45
nhẹ lên da thịt ta của một buổi sớm mai trong lành… Tất cả, tất cả những điều đó
nếu được chính các em khám phá, trải nghiệm và cảm nhận thì sẽ rất chân thực,
sống động và mang dấu ấn rất riêng của mỗi em. Có em cảm thấy hương hoa
nhài, hoa hồng “chảy” qua cánh mũi nồng nàng quyến rũ; có em lại thấy mùi cỏ
ngai ngái, say say; có em nghe thấy tiếng hót ríu ran chào ngày mới của nhà
chim Sâu; có em lại nghe thấy tiếng kêu lích nhích nhảy múa chuyền cành của
mẹ con chị Chích; rồi cả tiếng tí tách của những hạt sương sớm; hay cả tiếng xì
xào như nói chuyện của cỏ cây, hoa lá…
Khi mà chính các em dùng mọi giác quan của mình để quan sát thì những
trang văn của các em sẽ có khả năng đánh thức nhiều xúc cảm của người đọc hơn.
Sự quan sát tỉ mỉ, theo một trình tự hợp lí cộng với sử dụng linh hoạt mọi giác quan
sẽ giúp HS có cái nhìn chính xác và sâu sắc hơn về đối tượng miêu tả. Qua đó, các
em có cơ hội thể hiện những điều mà các em cảm nhận được bằng vốn ngôn ngữ
của mình nhằm thể hiện rõ ràng trước mắt người đọc về đối tượng một cách chân
thực và sống động nhất. Đặc biệt qua quan sát, HS có sự nhìn nhận, phát hiện được
những đặc điểm khác nhau của các sự vật, hiện tượng xung quanh. Từ đấy, HS sẽ
vận dụng để so sánh, đối chiếu giữa các sự vật với nhau khi miêu tả nhằm tạo ra sự
thú vị hấp dẫn và làm nổi bật được đối tượng miêu tả.
Hướng dẫn quan sát gắn liền với so sánh, nhân hóa, liên tưởng và tưởng
tượng. Liên tưởng là từ chuyện này nghĩ đến chuyện khác, từ hình ảnh này nhắc
nhớ đến hình ảnh kia. Liên tưởng cùng với tưởng tượng giúp dựng lại các đối tượng
miêu tả trước mắt bạn đọc một cách sinh động. Nó xuất phát, phụ thuộc vào NL
quan sát thực tế, từ vốn sống đã tích lũy được, tạo ra những hình ảnh bất ngờ đầy
thú vị. Tuy nhiên, bất kì sự tưởng tượng nào dù có phong phú, hấp dẫn đến đâu đều
bắt đầu từ thực tế, gắn với đời sống thực tế. Do đó, muốn có những trang văn miêu
tả hay, có hồn và sống động; muốn có được trí tưởng tưởng, liên tưởng phong phú,
sinh động, tinh tế thì đòi hỏi người viết phải có sự từng trải, sự hiểu biết.
Chẳng hạn quan sát nền trời mùa thu, không chỉ thấy nó xanh, xanh biếc,
xanh ngắt, mà còn có thể thấy “Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị” (Vũ Ngân
Chi); quan sát con cào cào, Tô Hoài đã thấy chúng giống như “các chị” cho nên mới
“nghiêng nghiêng gương mặt trái xoan, như làm dáng, như ngượng ngừng…” Hay
từ sự quan sát sau mưa xuân, cây cối đâm chồi nảy lộc, vạn vật tràn đầy sức sống,
HS có thể liên tưởng đến hình ảnh chị Mưa Xuân dịu dàng vẫy những hạt mưa
trong lành, mát dịu đánh thức vạn vật bừng tỉnh sau giấc ngủ dài, chị giục những
46
hạt giống nảy mầm, giúp hàng cây già khoác lên tấm áo mưa xanh mướt. Hay là sự
xao động của cây cối trong vườn khiến ta tưởng như rằng chúng thì thầm trò chuyện
to nhỏ với nhau. Hoặc là hình ảnh những cánh diều trên bầu trời với những đám
mây trắng gợi ra cảm giác như những cánh buồn mà bầu trời là những đợt sóng
đang đuổi nhau. Thế là có cả một vùng biển cả rộng lớn trên bầu trời xanh kia. Rồi
thì trăng sáng của những đêm rằm khi ta tưởng như có ai đó đang thắp một cây đèn
lồng lơ lửng trên không trung, rồi có bạn nói có ai đó lỡ chân đá quả bóng tròn lên
trời, có bạn lại nghĩ trăng khuyết như lưỡi liềm, như con thuyền cong mui, như quả
chuối chín vàng, như cái lưng còng của bà, như chiếc võng ở chiến trường. Hay với
sự liên tưởng thú vị khiến hình ảnh những cây nấm hiện lên qua ngòi bút của
Nguyễn Phan Hách thật kì diệu, tinh tế: “Những chiếc nấm to bằng cái ấm tích,
màu sực sỡ rực lên. Mỗi chiếc nấm là một lâu đài kiến trúc tân kì. Tôi có cảm giác
mình là một con người khổng lồ đi lạc vào kinh đô của vương quốc những người tí
hon. Đền đài, miếu mạo, cung điện của họ lúp xúc dưới chân.” (Kì diệu rừng xanh).
Chỉ có sự liên tưởng trong miêu tả mới đem lại những hình ảnh đắt giá như vậy, làm
cho “cảnh vật trở nên lãng mạn, thần bí như trong truyện cổ tích”.
Từ sự quan sát các sự vật, phát huy trí tưởng tượng, HS có thể nảy ra những ý
tưởng bất ngờ, những hình ảnh so sánh, ví von ngộ nghĩnh, đáng yêu đem đến
những bài văn ấn tượng, lôi cuốn người đọc. Đó chính là mối quan hệ độc đáo giữa
các sự vật, không chỉ thể hiện cái tài năng, sự nhạy cảm trong quan sát của các em
mà còn thể hiện cả một tình yêu, một thái độ của các em trước cuộc sống.
Đặt đối tượng trong những tình huống có vấn đề khi quan sát. Bởi lẽ
không phải sự vật, hiện tượng nào cũng có thể trở thành đối tượng miêu tả của văn
chương. Cái mà chúng ta cần là những đối tượng thẩm mĩ cụ thể chứ không phải
một đối tượng bất kỳ. Chẳng hạn, tả sân trường không thể tả sân trường một cách
chung chung mà phải là cảnh sân trường giờ ra chơi, sân trường ngày nghỉ học, sân
trường mùa lá rụng,… thì mới có thể làm nổi bật lên vẻ đẹp riêng biệt và độc đáo và
hấp dẫn được người học. Chẳng hạn, khi tả cây phượng vĩ trong sân trường em, sau
lời giới thiệu thì các em không nên vội đi vào miêu tả một cách chung chung mà
phải đặt cây phượng vĩ vào trong những thời gian khác nhau. Cây phượng vĩ đang
đơm hoa đở rực (vẻ sặc rỡ), cây phượng vĩ đang ra lá xanh non (vẻ tươi mới), cây
phượng vĩ đang mùa thay lá (vẻ trầm tư),… Trong mỗi thời gian khác nhau, các em
dễ dàng tìm ra những chi tiết, những vẻ đẹp mới mẻ của đối tượng miêu tả, tạo điểm
nhấn riêng cho bài văn miêu tả.
47
Hướng dẫn cho HS tìm hiểu và nhận xét cách quan sát. GV hướng dẫn
HS tìm đọc những bài thơ, những đoạn văn miêu tả hấp dẫn để suy ngẫm về cách
miêu tả của họ khiến mình ấn tượng, cần học hỏi. Điều mà các em cần học là cách
quan sát của tác giả chứ không phải là “nhái lại” kết quả quan sát của các nhà văn.
Sau khi đọc trong sách vở, trải nghiệm quan sát trong thực tế các em sẽ có vốn tri
thức cần thiết về những phát hiện mới mẻ trong cuộc sống để vận dụng vào viết
văn miêu tả.
Ở lớp 4 HS được học ba dạng thức văn miêu tả, với từng kiểu bài ta có
những cách quan sát khác nhau. Đối với kiểu bài tả đồ vật ta có thể quan sát theo
trình tự: mắt nhìn, tay sờ, tai nghe, mũi ngửi,... nhưng đối với bài văn tả con vật
cần phải quan sát: ngoại hình rồi mới đến những thói quen sinh hoạt và những hoạt
động của con vật. Còn đối với bài văn tả cây cối cần phải quan sát theo một trình
tự: từ xa đến gần, từ bao quát đến bộ phận, quan sát nét khác biệt của cây so với cây
khác. Tóm lại, các sự vật trong tự nhiên, mỗi sự vật có đặc điểm riêng, chỉ khi nào
ta nắm được đặc điểm riêng của mỗi một sự vật thì khi viết ra mới có hình ảnh như
thật. Thế nhưng, chỉ làm nổi bật đặc điểm bên ngoài thôi chưa đủ, cần nêu được cái
đặc sắc ẩn chứa bên trong sự vật đó để nói lên những suy tư, những tình cảm không
chỉ của người viết gửi gắm vào đó mà còn là của sự vật đó. Muốn làm được điều
này, dứt khoát phải có sự quan sát tỉ mĩ và phải có được những phát hiện rất riêng,
sự rung cảm tinh tế về đối tượng đó. Với sự quan sát tài tình của mình mà nhà thơ
Trần Đăng Khoa khi tả: “Bác mặt trời đạp xe qua đỉnh núi”, “Lá rơi rất mỏng như
là rơi nghiêng” khiến độc giả thực sự bất ngờ và thích thú trước những phát hiện
độc đáo và mới mẻ này. Quan sát luôn đi liền ghi chép. Ghi chép làm giàu thêm cho
trí nhớ, giúp HS lựa chọn những chi tiết, những hình ảnh đặc sắc. Vậy thì phải ghi
chép thế nào? Cần phải xây dựng cho HS thói quen ghi chép khi quan sát. Phải ghi
được những đặc điểm cơ bản, nổi bật của đối tượng miêu tả, hãy cố tìm và viết được
những điều mà người khác không nhìn thấy để bài viết của mình có cái mới, cái
riêng, cái độc đáo. Quan sát và biết ghi chép lại những gì đã quan sát một cách có
chọn lựa, đó là một yếu tố rất quan trọng trong học tập phân môn Tập làm văn nói
chung và văn miêu tả nói riêng.
Lựa chọn hình thức tổ chức quan sát. Với mỗi kiểu bài và với từng tiết học
cụ thể, GV sẽ lựa chọn những phương pháp và hình thức dạy học cho phù hợp với
trình độ nhận thức của HS và nội dung của bài dạy. Với tả đồ vật, GV có thể cho
HS quan sát vật thật để HS được tận mắt nhìn thấy, tận tay sờ, tận tai nghe âm thanh
48
của đồ vật phát ra,... vì những đồ vật HS lớp 4 miêu tả rất gần gũi và quen thuộc với
các em trong cuộc sống hằng ngày như chiếc cặp, cái áo em mặc đến trường, cái
đồng hồ, con búp bê, rô bốt, gấu bông, lật đật, chiếc bút, quyển sách,... Với tả con
vật thì GV có thể cho HS quan sát và ghi chép qua các buổi tham quan dã ngoại trải
nghiệm cuộc sống về với những trang trại chăn nuôi, về với những miền quê (nếu
có điều kiện), qua tranh ảnh hay sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học cho HS
xem các video về các con vật mà HS sẽ miêu tả để các em có cái nhìn chính xác, cụ
thể về hình dáng và hoạt động của chúng. Với tả cây cối thì GV ưu tiên tiết học ngoài
sân trường để HS tận mắt quan sát và trải nghiệm rồi ghi chép những gì quan sát
được từ đối tượng miêu tả (cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây hoa,..), như thế các em sẽ
hứng thú hơn và tiết học trở nên vui vẻ hấp dẫn hơn, hay đối với một số loại cây khác
(cây rau, cây ăn quả,...) GV có thể sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học để cho
HS xem các video, các tranh ảnh động, các phần mềm hiệu ứng... để dạy cho HS.
Tùy theo tình hình dạy học thực tế để GV linh động trong lựa chọn các cách
thức tổ chức quan sát cho phù hợp (vật thật, tham quan dã ngoại, tiết học ngoài
trời, ứng dụng công nghệ thông tin, tranh ảnh,...) để HS có những trải nghiệm
sáng tạo về đối tượng mà các em miêu tả, góp phần phát triển NL tạo lập văn bản
miêu tả cho HS. Việc tham quan, dã ngoại cũng như ứng dụng công nghệ thông tin
vào tiết học nhằm phát triển kĩ năng quan sát cho HS cần diễn ra có kế hoạch, có
nội dung; vừa đảm bảo tính tự nhiên nhưng cũng phải chú ý định hướng HS bằng hệ
thống câu hỏi hoặc bài tập. Điều này rất cần thiết với yêu cầu của giáo dục hiện nay là
đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học ở bậc Tiểu học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động và sáng tạo của HS. Dạy tạo lập văn bản miêu tả cũng không nằm
ngoài sự vận động tích cực này. Đối với cách thức tổ chức các hoạt động quan sát,
trải nghiệm sáng tạo phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 do đó cần
đặc biệt chú trọng hơn nữa chứ không phải cứ gò bó các em trong bốn bức tường lớp
học với lối dạy truyền thống như trước đây; cần phải cho các em được trải nghiệm
sáng tạo ra thế giới bên ngoài để quan sát và ghi chép bằng những tiết học ngoài trời,
những chuyến tham quan dã ngoại (nếu có điều kiện) hay những tiết học công nghệ
thông tin với các video, các hình ảnh động, các tranh ảnh và cả những vật thật...Cùng
với đó là sự kết hợp lồng ghép một số kiểu bài tập quan sát giúp các em được quan
sát, tri giác đối tượng miêu tả một cách cụ thể hơn. Qua đó tạo cho các em niềm say
mê, hứng thú học Tập làm văn nói chung và học tạo lập văn bản miêu tả nói riêng,
góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
49
Ngoài ra, GV có thể xây dựng các kiểu bài tập sau để phát triển kĩ năng
quan sát và trải nghiệm sáng tạo cho HS khi học tạo lập văn bản miêu tả:
 Kiểu bài tập sử dụng các giác quan trong quan sát:
Khi quan sát phải sử dụng các giác quan như: mắt, mũi, tai, lưỡi… để nhìn,
nghe, sờ, ngửi, nếm… nhằm nhận biết sự vật về hình dạng, màu sắc, âm thanh, mùi
vị… Ở lớp 4, chọn những đề tài các em có khả năng trực tiếp quan sát (thực tế, vật
thật hoặc tranh ảnh): Tả đồ vật: cái bàn học, quyển vở, cái bút, thước kẻ, cái trống,
cái áo, ...; Tả con vật: con gà, lợn, chó, mèo, thỏ, trâu, bò, ....; Tả cây cối: cây bóng
mát (bàng, phượng vĩ,...); cây hoa (hoa hồng, hoa giấy, hoa cúc,...); cây ăn quả
(cam, bưởi, chuổi, ổi, na,...).
Bài tập 1: Hãy quan sát một số đồ vật sau và ghi đặc điểm nổi bật của chúng
vào các cột cho phù hợp:
Tên đồ vật
Các đặc điểm chính
Công dụng
(Dùng để
làm gì?)
Liên
tƣởng,
tƣởng
tƣợng
Chất liệu
Hình dáng,
đường nét,
hình khối ...
Màu sắc,
ánh sáng
Cái cốc Thủy tinh
Hình trụ có
nét lượn
cong
Trong suốt,
có ánh sáng
long lanh
Uống nước
hàng ngày
Bàn học
Cặp sách
Bút
Chiếc áo em
mặc đến trƣờng
Bài tập 2: Mỗi hình ảnh gợi lên những đặc điểm gì về ngoại hình và hoạt
động của chú gà trống?
50
Trả lời: (Đáp án mong đợi)
1. Chiếc mào gà đỏ chói trên đầu chú giống bông hoa mào gà khiến cho chú
nổi bật trước đám gà mái.
2. Bộ lông đẹp tuyệt trần, xen kẽ nhiều sắc màu rực rỡ như chiếc quạt nhiều
màu sắc.
3. Chú dùng những móng vuốt sắc bén của mình để bới giun.
4. “Tán tỉnh” chị mái mơ “duyên dáng”.
5. Hai mắt sáng và trong suốt như hon bi ve.
6. Chùm lông đuôi óng ả với sắc xanh và tím biếc cong vồng lên như chiếc
cầu vòng sau mưa.
7. Chú dùng chiếc cựa rất nhọn làm thứ vũ khí lợi hại để “giao chiến” trong
cuộc thi tìm ra “chàng hiệp sĩ” dũng mãnh.
8. Chú nhảy tót lên cành cây cao rướn dài cổ hót một hồi lảnh lót báo hiệu
ngày mới bắt đầu.
 Kiểu bài tập xác định trình tự quan sát:
Kiểu bài này giúp HS quan sát có trình tự. Quan sát theo trình tự thời gian,
không gian hoặc phối hợp cả không gian và thời gian; quan sát theo đặc điểm của
đối tượng miêu tả. Dạng bài xác định trình tự quan sát là một dạng bài không khó
nhưng rất quan trọng trong việc HS triển khai bài viết của mình.
Bài tập 3: Một bạn tả về quả cam như sau: “Chao ôi! Trông những quả cam
mới thích mắt làm sao! Mới ngày nào quả còn nhỏ xíu như trái bóng tennis, da dày
và xanh lét. Vậy mà giờ đây, nhờ được uống sương mai và tắm trong nắng sớm
cùng nguồn dinh dưỡng mát lành từ đất mẹ mà chúng như được thay áo mới. Trong
những tán lá xanh mướt mỡ màng còn thấm đẫm sương đêm, lấp ló những trái cam
vàng óng. Với lớp da mỏng căng mượt. Mỗi lần cô gió ngang qua trêu đùa, những
chú cam tinh nghịch lại đùa rúc rích và khẽ đung đưa thân hình tròn lẳn của mình
làm xôn xao cả vườn cam. Không chỉ đẹp mà các chú cam còn thơm mát nữa đấy
các bạn ạ! Khi bổ cam ra bạn sẽ thấy những tép cam vàng óng, ngọt lành. Hương
cam thơm mát như mật ong lan tỏa khắp căn phòng”.
- Bạn nhỏ miêu tả quả cam theo trình tự nào?
- Bạn đã sử dụng những giác quan nào để miêu tả quả cam?
Trả lời:
- Bạn nhỏ tả quả cam theo thời gian từ khi còn là một quả cam nhỏ xíu, xanh
lét đến một quả cam chín vàng mọng nước.
51
- Các giác quan là: mắt (hình dáng của quả cam), tai (nghe tiếng gió làm vườn
cam xôn xao), mũi (hương thơm của cam), lưỡi (vị ngọt mát của quả cam khi bổ ra).
 Kiểu bài tập lựa chọn chi tiết trong quan sát:
Với dạng bài này GV có thể cho HS quan sát thực tế hoặc quan sát tranh ảnh,
các video, clip; có thể để các em tự lựa chọn các chi tiết quan sát, nếu HS gặp khó
khăn, GV có thể hỗ trợ cá nhân bằng hệ thống câu hỏi gợi ý.
Bài tập 4: Quan sát các loài cây sau và ghi chép theo những câu hỏi gợi ý:
1. Cây gì? Mọc ở đâu? Toàn cảnh cây ấy như thế nào?
2. Các chi tiết chính (cành, lá, thân, rễ,... có màu sắc, kiểu dáng,... thế nào?
Trông giống cái gì, con gì?). Chi tiết nào làm em chú ý nhất? Vì sao?
3. Những suy nghĩ và cảm xúc của em khi quan sát (nếu có).
Trả lời: HS quan sát rồi ghi theo cách riêng của mình.
Mỗi kiểu nhóm bài tập đều được tính toán thiết kế dựa vào tính hướng đích
cụ thể, nhằm giải quyết những khó khăn nhất định trong quá trình quan sát, ghi chép
kiếm tìm ngôn từ để diễn đạt. Chẳng hạn, bài tập 1 trong kiểu bài sử dụng các giác
quan trong quan sát nêu trên đem đến những gợi ý về cách quan sát các đồ vật xung
quanh em qua cái nhìn tổng thể để đối chiếu giữa các sự vật với nhau, bài tập 2 phát
triển ở các em kĩ năng so sánh, nhân hóa, liên tưởng, tưởng tượng trong quan sát;
bài tập 3 trong kiểu bài xác định trình tự quan sát giúp HS thấy được để có bài văn
miêu tả hay cần quan sát ở nhiều góc độ và phương diện; trong khi đó, bài tập 4
trong kiểu bài lựa chọn chọn chi tiết quan sát để HS nắm được cách thức ghi chép
trong quan sát những tình huống cụ thể, nói cách khác sẽ quy định cách triển khai ý
khi quan sát để đảm bảo tính chặt chẽ, sự liên kết cả hình thức lẫn nội dung.
Chúng tôi vận dụng cách thức tổ chức các hoạt động quan sát và trải nghiệm
sáng tạo để hỗ trợ phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả trên vào dạy học:
Tiết “Luyện tập quan sát cây cối” (Tiếng Việt 4, tuần 22)
1. Đọc lại ba bài văn tả cây cối mới học (Sầu riêng, Bãi ngô, Cây gạo) và
nhận xét:
a. Tác giả mỗi bài văn quan sát cây theo trình tự như thế nào?
b. Các tác giả quan sát cây bằng những giác quan nào?
52
c. Chỉ ra hình ảnh so sánh và nhân hóa mà em thích. Theo em, các hình ảnh
nhân hóa có tác dụng gì?
d. Trong ba bài văn trên, bài nào miêu tả một loại cây, bài nào miêu tả một
cây cụ thể?
e. Theo em, miêu tả một loại cây có đặc điểm gì giống và điểm gì khác miêu
tả một cây cụ thể?
2. Quan sát một cây mà em thích trong khu vực trường em (hoặc nơi em ở)
và ghi lại những gì em đã quan sát được. Chú ý kiểm tra xem:
a. Trình tự quan sát của em có hợp lý không?
b. Em đã quan sát bằng các giác quan nào?
c. Cái cây em quan sát có khác với những cây cùng loại?
Gợi ý: GV cho HS đọc lại văn bản và phát hiện câu trả lời mà câu hỏi đặt ra.
GV chốt lại vấn đề: trình tự quan sát cây cối như thế nào, dùng giác quan gì để cảm
nhận, khi miêu tả cần sử dụng biện pháp nghệ thuật nào.
1. Với bài tập 1, có thể lập bảng để thấy rõ được các ý:
Nhận xét Sầu riêng Bãi ngô Cây gạo
a. Trình tự quan sát
Quan sát từng bộ
phận của cây
Quan sát từng thời
kì phát triển của
cây ngô
Quan sát từng thời
kì phát triển của
cây gạo
b. Giác quan
- Thị giác (để thấy
hình dáng và màu
sắc của hoa, trái,
dáng cây, thân,
cành, lá)
-Khứu giác (hương
thơm)
- Vị giác (vị béo
ngọt của trái sầu
riêng)
- Thị giác (cây, lá,
búp ngô, bướm
trắng, bướm vàng,
bắp ngô, hoa ngô
...)
- Thính giác (tiếng
tu hú)
- Thị giác (cây,
cành, hoa gạo, quả
gạo, chim chóc, sợi
bông, múi bông ...)
- Thính giác (tiếng
chim)
c.Hình
ảnh và
tác
dụng
So sánh
- Hương sầu riêng
ngan ngát như
hương cau, hương
bưởi.
- Những cây ngô
mới dạo này còn
lấm tấm như mạ
non.
- Những cành hoa
đỏ mọng quay tít
như chong chóng.
- Hai đầu quả gạo
53
Nhận xét Sầu riêng Bãi ngô Cây gạo
- Cành hoa nhỏ
nhử vảy cá, hao
hao giống những
cánh sen con.
- Trái lủng lẳng
dưới cành giống tổ
kiến.
- Một thứ búp như
kết bằng nhung và
phấn.
- Hoa ngô xơ xác
như cỏ may.
thon vút như con
thoi.
- Cây như treo rung
rinh hàng ngàn nồi
cơm gạo mới.
Nhân hóa
- Búp ngô non núp
trong cuống lá.
- Những sợi tơ
hung hung bọc
trong làn áo mỏng
manh.
- Những bắp ngô
mập và chắc chờ
tay người đến bẻ
mang về.
- Cây gạo già mỗi
năm lại trở lại tuổi
xuân.
- Cây gạo lại trở về
với dáng vẻ xanh
mát, trầm tư.
- Cây đứng im, cao
lớn, hiền lành.
- Múi nở đều như
nồi cơm điện đội
vung mà cười
d.Đối tượng miêu tả Loài cây Loài cây Một cây cụ thể
c. Tác dụng của biện pháp so sánh và nhân hóa: Làm cho bài văn miêu tả cây
cối thêm hấp dẫn, giàu hình ảnh, tăng sức gợi cảm và biểu cảm khiến thế giới xung
quanh trở nên gần gũi hơn với con người.
e. Điểm giống và khác nhau giữa cách tả một loài cây và tả một cây cụ thể:
- Điểm giống:
+ Đều phải quan sát kĩ (theo trình tự)
+ Sử dụng nhiều giác quan để quan sát các bộ phận của cây, khung cảnh
xung quanh...
+ Sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa để gợi sự liên tưởng, làm cho sự vật
(cây) có hồn hơn.
+ Bộc lộ cảm xúc, tình cảm khi miêu tả.
54
- Điểm khác:
+ Tả loài cây cần chú ý đặc điểm chung, khái quát của loài đó, so với các loài
cây khác.
+ Tả một cây cụ thể phải tập trung vào điểm riêng, cụ thể của cây, nét khác
biệt của nó với cây cùng loài.
1. Với bài tập , GV lưu ý cho HS các vấn đề sau khi luyện quan sát cây cối:
- Quan sát một cây cụ thể (trong khu vực vườn trường hoặc nơi em ở)
- Dựa vào kết quả bài tập 1, lựa chọn trình tự quan sát, mở rộng các giác quan
khác nhau để quan sát, tìm các đặc điểm riêng của cây (so với các cây khác cùng
loài), sử dụng biện pháp so sánh và nhân hóa để tạo độ sinh động cho sự vật.
- Ghi chép lại kết quả quan sát (dưới dạng dàn ý).
GV có thể thay đổi không gian lớp học, cho học sinh dã ngoại, tham quan
vườn trường, quan sát, ghi chép, báo cáo kết quả bài tập.
2.2.2. Phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu tả
2.2.2.1. Vai trò và yêu cầu của hoạt động tìm ý, lập dàn ý trong quá trình tạo lập
văn bản miêu tả
Quan sát là hành động thường xuyên, thường trực của con người. Không phải
chỉ khi học văn miêu tả, các em mới quan sát. Quan sát cũng là một hoạt động tổng
hòa và phức tạp: nó không chỉ được thực hiện bằng mắt mà còn bằng tất cả các giác
quan khác như tai, mũi, da thịt,... và bằng cả tâm hồn, không chỉ quan sát bề mặt mà
còn quan sát cả “bên trong”, tức là ý nghĩa tinh thần của sự vật, không chỉ là cảm
giác, tri giác đơn thuần mà còn gắn liền với suy nghĩ, cảm xúc... Chính vì vậy, quan
sát luôn có quan hệ mật thiết với tìm ý và chọn ý.
Tìm ý và chọn ý là một khâu hết sức quan trọng, nhờ có nó mà văn miêu tả
không sa vào kể lể, thống kê,... cũng nhờ có nó mà miêu tả định hướng được tới
những giá trị thẩm mỹ của đối tượng. Điều quan trọng nhất của quá trình này là ở
chỗ phải xây dựng được ý tưởng cho bài văn. Như đã phân tích ở trên, miêu tả là đi
tìm kiếm, là khám phá, là phát hiện,... chứ không phải là sự mô tả tản mạn, lang
thang. Tìm ý - chọn ý phải vừa là sự tìm kiếm ý tưởng nghệ thuật chung, thống nhất
cho toàn bài. Tìm ý và lập dàn ý là những hoạt động rất quan trọng để hình thành và
phát triển ở các em các kĩ năng cần thiết hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu
tả cho HS lớp 4. Song thực tế giảng dạy ở nhà trường Tiểu học hiện nay thì còn
nhiều GV chưa chú trọng việc hướng dẫn HS cách tìm ý và lập dàn ý bài văn miêu
tả trước khi viết bài văn, có chăng thì cũng hướng dẫn một cách qua loa chứ không
55
trọng tâm. Còn về phía HS thì các em thường bỏ qua khâu lập dàn ý, các em chỉ bỏ
ra một vài phút để đọc đề rồi cắm cúi viết. Chính vì vậy trong bài viết của các em
việc sắp xếp ý rất lộn xộn, nhiều ý trùng lặp hoặc thiếu ý… Có nhiều trường hợp
HS phát hiện thiếu ý muốn quay lại để bổ sung nhưng không kịp nữa đành viết
thêm vào khiến bài viết rời rạc chắp vá hoặc bỏ hẳn ý đó. Các bài văn HS thường
lủng củng, bố cục không rõ ràng, mạch lạc và rất ít bài văn trơn mượt như đúng bản
chất của kiểu văn bản miêu tả thường thấy. Vậy nên việc rèn luyện kĩ năng tìm ý và
lập dàn ý đóng vai trò quan trọng trong tạo lập văn bản miêu tả và là việc làm cần
thiết đối với HS trước khi đặt bút viết bài văn bởi dàn ý chính là cái khung, sườn
của bài văn, dàn ý giúp cho HS có định hướng không bị lạc đề, không bị thiếu ý khi
viết. Khi các em đã biết yêu cầu của đề, phương pháp lập dàn ý, các em sẽ nhanh
chóng thiết lập được dàn ý khoa học, đầy đủ tạo tiền đề cho việc viết thành bài văn
hoàn chỉnh bởi “Dàn ý là bản thiết kế và khi viết bài văn là giai đoạn thi công trên
cơ sở bản thiết kế đó”. Từ đó, các em sẽ vận dụng vào viết văn để sáng tạo, tô vẽ
nên bức tranh miêu tả đầy mới mẻ, ý vị, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
Sau khi đã tìm được ý và chọn được những ý cơ bản thì bước tiếp theo là tiến
hành sắp xếp, tổ chức các ý. Đây chính là bước xây dựng dàn ý. Để có thể viết được
bất kì một bài văn nào dù ngắn hay dài, dù là bài văn hay báo cáo khoa học, người
viết cũng không thể bỏ qua khâu hết sức quan trọng là lập dàn ý. Dàn ý còn gọi là
dàn bài hay đề cương. Dàn ý là sự sắp xếp những điều cốt yếu trong một bài văn.
Nói cách khác đó là một hệ thống những ý chính trong một bài viết. Dàn ý thực chất
là bản kế hoạch, là sơ đồ, là phác thảo về đối tượng mà ta miêu tả. Đúng như lời quả
quyết của nhà văn nổi tiếng người Đức: “Tất cả đều phụ thuộc vào bố cục”. Còn
Đôx - tôi - ép - xki nhà văn Nga lại ao ước: “Nếu tìm được bản bố cục đạt thì công
việc sẽ nhanh như trượt mỡ”. Đúng thế, nếu có một dàn ý bố cục rõ ràng thì quá
trình tạo lập nên một văn bản là điều dễ dàng.
Kĩ năng lập dàn ý rất cần cho những ai muốn truyền đạt (viết hay nói) một
vấn đề nào đó đến mọi người. Trong phạm vi nhà trường Tiểu học thì kĩ năng này
rất quan trọng đối với HS để làm bất kì một bài văn nào. Nắm vững kĩ năng này các
em sẽ làm được một bài văn có tính hệ thống và lôgic cao, đúng và đủ ý, tránh được
hiện tượng lạc đề hay bài văn lủng củng. Dàn ý giúp định hướng một cách bao quát,
toàn cục nội dung chủ yếu và những yêu cầu cơ bản mà bài viết cần đạt được và đáp
ứng yêu cầu của đề bài. Khi có dàn ý cụ thể người viết sẽ nắm được nét lớn, ý nhỏ
56
của bài viết. Nhờ có sự chuẩn bị và định hướng đúng sẽ làm cho văn bản triển khai
đúng trọng tâm, chặt chẽ và mạch lạc.
Dàn ý của một bài văn miêu tả cũng như dàn ý của một bài văn phổ biến
chung đều có ba phần: phần mở đầu (đặt vấn đề), phần thân bài (giải quyết vấn đề),
phần kết luận (kết thúc vấn đề). Dàn ý bài văn miêu tả thường có 2 loại: Dàn ý đại
cương và Dàn ý chi tiết.
 Dàn ý đại cƣơng: là dàn ý chỉ ghi những hệ thống đề mục lớn nhất, những
ý chủ yếu nhất. Nhìn vào dàn ý đại cương người đọc sẽ thấy được nội dung chính
của bài, thấy ngay người làm bài có bám sát yêu cầu của đề bài hay không. Một dàn
bài tốt là một dàn bài bao quát được toàn bộ nội dung và phạm vi vấn đề do đề bài
nêu ra, đúng như câu nói của một nhà văn nước ngoài:“Một bố cục xây dựng chẳng
khác nào một cây sồi và mọi chim chóc từ các rừng lân cận tự bay đến làm tổ”. Dàn
ý đại cương là cái khung bước đầu tập trung các ý chính để người viết hình dung
được bài viết, cách viết của mình và thường có 3 phần:
I. Phần mở đầu: Giới thiệu về đối tượng cần tả.
II. Thân bài: 1. Luận điểm 1: luận cứ 1, luận cứ 2
2. Luận điểm 2: luận cứ 1, luận cứ 2
III. Phần kết luận: Nêu cảm nghĩ, nhận xét đánh giá.
 Dàn ý chi tiết: là dàn ý lấy cơ sở từ dàn ý đại cương. Dàn ý chi tiết là dàn ý
ngoài các luận điểm, luận cứ còn các ý nhỏ phát triển, các ý chi tiết sẽ giúp HS hình
dung cụ thể hơn các bộ phận của bài viết nhằm giúp các em chuẩn bị tốt cho bài
viết. Người viết đưa vào các chi tiết cụ thể trong dàn ý chi tiết để lắp ráp hành văn
cho hoàn chỉnh.
Các đề mục trong dàn ý thể hiện các ý lớn, ý nhỏ của bài văn. Một dàn ý bao
gồm hệ thống các đề mục. Một điều cần lưu ý là các đề mục đó phải được sắp xếp
theo cùng một hệ thống tương ứng với nhau và theo một trình tự chặt chẽ. Các đề
mục được kí hiệu có thể là chữ số La Mã (I, II, III,...), chữ cái (A, B, C,...), hay chữ
số thường (1, 2, 3,...). Khi đánh các đề mục ta phải tuân theo nguyên tắc sau: Các đề
mục cung cấp phải được ghi bằng hệ thống số thứ tự liên tiếp nhau, không được
cách quãng. Có như vậy, khi làm bài hình thành văn bản mới có những đoạn văn
mạch lạc, rõ ràng theo một trình tự hợp lý.
Ngôn ngữ trong dàn ý không đòi hỏi phải viết thành từng câu văn hoàn chỉnh
như khi viết thành bài văn. Dù là dàn ý đại cương hay dàn ý chi tiết thì cách viết
thông thường vẫn là ghi ý từ những đề mục lớn hơn những ý nhỏ, những chi tiết cụ
57
thể,... đều viết theo lối thông báo vắn tắt. Đó là những câu không đầy đủ thành phần
chủ - vị hoặc những câu rút gọn. Cách viết như thế sẽ giúp chúng ta ghi được nhiều
ý và tiết kiệm thời gian.
Trên đây là những yêu cầu cần thiết mà GV cần hướng dẫn HS khi làm một
dàn ý cho bài văn miêu tả. Nắm được vai trò và yêu cầu của hoạt động tìm ý, lập
dàn ý trong quá trình tạo lập văn bản, GV sẽ dễ dàng hướng dẫn HS cách thức tổ
chức hoạt động tìm ý, lập dàn ý hỗ trợ phát triển NL tạo lập những văn bản miêu tả
cụ thể.
2.2.2.2. Cách thức tổ chức hoạt động tìm ý, lập dàn ý hỗ trợ phát triển năng lực tạo
lập văn bản miêu tả
Đối với cách thức tổ chức các hoạt động tìm ý và lập dàn ý hỗ trợ phát triển
NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 cũng cần được thực hiện theo định hướng
tích cực phát triển NL người học nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy
học hiện nay. Thực tế GV cứ nghĩ rằng bài văn mới là kết quả quan trọng nhưng để đi
đến kết quả tối ưu thì không thể bỏ qua việc tìm ý và lập dàn ý - một khâu hết sức
quan trọng, góp phần làm cho bài văn của các em có bố cục rõ ràng và mạch lạc. Vậy
GV phải làm gì để rèn kĩ năng tìm ý và lập dàn ý bài văn miêu tả cho HS? Trước tiên,
bắt buộc các em phải ý thức tự giác, coi lập dàn ý là công việc quan trọng, cần phải
thực hiện khi làm văn. Sau đó, GV vận dụng nhiều phương pháp hình thức dạy học
tích cực và kết hợp với việc xây dựng các bài tâp, trò chơi rèn luyện kĩ năng tìm ý,
lập dàn ý nhằm hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS. Sự ý thức của
HS cộng với sự khéo léo trong cách dạy của GV sẽ giúp HS phát triển kĩ năng tìm ý,
lập dàn ý và có thói quen lập dàn ý mỗi khi viết bài văn. Vì thế khi hướng dẫn HS
quan sát, GV giúp cho các em có thói quen chọn lọc các chi tiết quan sát được và sắp
xếp chúng thành một dàn bài cụ thể. Để các em thành thạo kĩ năng này, GV cần tổ
chức cho HS thực hiện các hoạt động sau:
1. Chọn lọc các chi tiết:
Quá trình lập dàn ý phải trải qua hai khâu: tìm ý và lập dàn ý. Đây là hai thao
tác và cũng là hai kĩ năng cơ bản cần rèn luyện cho học sinh. Sẽ chẳng bao giờ có
được một dàn bài hoàn chỉnh nếu không có ý và không biết sắp xếp các ý.Tìm ý -
chọn ý phải vừa là sự tìm kiếm ý tưởng nghệ thuật chung, thống nhất cho toàn bài.
Ví dụ đơn giản: khi gặp đề văn yêu cầu miêu tả cái bàn học của em, em sẽ định
hướng miêu tả như thế nào? Tất nhiên, không phải cứ “thấy gì tả nấy”. Chắc chúng
ta sẽ phải suy nghĩ để tìm một cái “mạch”, cái "tứ" cho bài văn: Một cái bàn học
58
xinh xắn ở nhà? Một cái bàn học gắn bó ở trường?... Chính những hướng miêu tả ấy
sẽ dẫn các em tới những phát hiện mới mẻ, riêng biệt về cái bàn học của mình. Đó
chính là ý tưởng của bài viết. Mặt khác, kết quả các em quan sát được bao gồm cả
phần “thô” và phần “tinh”. Vậy làm thế nào để giúp các em sàng lọc bỏ phần thô,
chỉ giữ lại phần tinh. Để làm được công việc này thì các em phải xác định rõ yêu
cầu của đề bài (kĩ năng tìm hiểu đề) và đặc điểm đối tượng miêu tả để lược bỏ các
chi tiết không cần thiết. Chẳng hạn, quan sát cây bàng ở sân trường em. GV giúp
HS tập trung vào quan sát hình dáng (thân, gốc, rễ) và đặc biệt chú trọng đến tán lá
và sự thay đổi màu sắc của lá bàng qua các mùa trong năm. Hay quan sát cây hoa
hồng ở vườn nhà em hoặc ở vườn nhà hàng xóm. GV gợi ý cho các em tập trung
vào quan sát về hình dáng của cây, thân, lá, nụ, đặc điểm và màu sắc của hoa, nhụy
hoa, hương thơm của hoa. Cùng với những ý đã được tinh chọn đó, phải định hướng
cho các em chọn ý nào mà bản thân chú ý nhất, ấn tượng nhất để tập trung miêu tả
như một dấu ấn trong bài viết.
2. Sắp xếp, tổ chức các ý: Đây là bước xây dựng logic dàn ý. Kĩ năng lập dàn
bài là kĩ năng rất cần cho những ai muốn truyền đạt (viết hay nói) một vấn đề nào
đó đến mọi người. Trong phạm vi nhà trường Tiểu học thì kĩ năng này rất quan
trọng đối với HS để làm bất kì một bài văn nào. Nắm vững kĩ năng này các em sẽ
làm được một bài văn có tính hệ thống và lôgic cao, đúng và đủ ý, tránh được hiện
tượng lạc đề hay bài văn lủng củng. Dàn ý giúp định hướng một cách bao quát, toàn
cục nội dung chủ yếu và những yêu cầu cơ bản mà bài viết cần đạt được và đáp ứng
yêu cầu của đề bài. Khi có dàn ý cụ thể người viết sẽ nắm được nét lớn, ý nhỏ của
bài viết. Tùy theo đối tượng miêu tả mà các ý có thể được sắp xếp theo trình tự thời
gian: thấy trước tả trước, thấy sau tả sau và các ý cũng có thể được sắp xếp theo
trình tự không gian: tả từ xa đến gần, từ trong ra ngoài, từ bộ phận này đến bộ
phận khác... Sau khi chọn lọc và sắp xếp đúng các ý thì bài văn của các em sẽ
không còn lủng củng, lộn xộn. Vì thế GV phải lưu ý với HS rằng: một bài văn miêu
tả dù ngắn hay dài cũng được kết cấu theo kiểu ba phần (Mở bài, Thân bài, Kết bài).
Nhờ có sự định hướng đúng trong khi quan sát, chú ý các chi tiết tiêu biểu, trọng
tâm nên việc lựa chọn các chi tiết và sắp xếp các ý của HS sẽ không còn lủng củng
nữa mà trở nên chặt chẽ, mạch lạc hơn góp phần tạo lập văn bản miêu tả đúng.
3. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý
Dàn ý sẽ có dàn ý đại cương và dàn ý chi tiết. Dàn ý đại cương là dàn ý chỉ
ghi hệ thống những đề mục lớn nhất , những ý chủ yếu nhất. Nhìn vào dàn ý đại
59
cương người đọc thấy ngay nội dung của bài viết , xác định được người viết có bỏ
sót yêu cầu của đề bài hay không . Dàn ý chi tiết là dàn ý lấy cơ sở từ dàn ý đại
cương. Dàn ý chi tiết là dàn ý ngoài các luận điểm, luận cứ còn các ý nhỏ phát triển,
các ý chi tiết sẽ giúp HS hình dung cụ thể hơn các bộ phận của bài viết nhằm giúp
các em chuẩn bị tốt cho bài viết. Người viết đưa vào các chi tiết cụ thể trong dàn ý
chi tiết để lắp ráp hành văn cho hoàn chỉnh. Dàn ý đại cương hay chi tiết của một
bài văn miêu tả đều được kết cấu theo ba phần gồm Mở bài, Thân bài, Kết bài.
Trong chương trình tập làm văn lớp 4 HS được học ba dạng thức của văn miêu tả là
tả đồ vật, tả con vật và tả cây cối. Cũng như các kĩ năng khác thì kĩ năng tìm ý và
lập dàn ý cũng thế, cách thức tổ chức hoạt động tìm ý và lập dàn ý hỗ trợ phát triển
NL tạo lập văn bản miêu tả giữa các dạng thức văn miêu tả cũng khác nhau. GV có
thể sử dụng các phương pháp sau để hướng dẫn HS lập dàn ý:
 Hƣớng dẫn học sinh lập dàn ý theo mẫu
Khi dạy các bài lập dàn ý GV thường hướng dẫn các em học và làm theo
mẫu. Việc làm này đối với HS lớp 4 là rất cần thiết vì các em là HS tiểu học nên kĩ
năng lập dàn ý chưa được thành thạo cho nên các dàn ý tham khảo chính là sự "trợ
giúp" cần thiết với các em.Tuy nhiên khi học và làm theo mẫu GV cũng cần có
những hướng dẫn cụ thể để tránh tình trạng sao chép mẫu làm giảm khả năng sáng
tạo của HS. Với mỗi dạng thức văn miêu tả, GV nên xây dựng dàn bài điển hình
hay nói cách khác là dàn bài mẫu để HS dựa vào đó mà triển khai cho bài văn miêu
tả các đối tượng khác của cùng một dạng thức miêu tả.
Ví dụ: Khi dạy bài Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật (SGK Tiếng Việt 4,
tập hai, trang 112), sau khi giúp HS rút được nội dung ghi nhớ như trong SGK, GV
sẽ chủ động bám vào nội dung phần ghi nhớ, dùng câu hỏi gợi ý, dẫn dắt cho các
em nêu để xây dựng dàn bài chung cho bài văn miêu tả con vật:
Mở bài: Giới thiệu con vật sẽ tả.
- Để giới thiệu con vật sẽ tả, em cần giới thiệu những gì? (Tên con vật, nơi
nó ở, lí do em thích nó,…)
Thân bài:
a) Tả hình dáng.
- Mỗi con vật thường đều có những bộ phận nào? (đầu: Mắt, mũi, miệng (mõm,
mỏ), tai,…; mình: thân, lưng, bụng, ngực,…; chi: móng vuốt, cựa,…; đuôi, cánh,….),...
b) Tả thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của con vật.
- Thói quen sinh hoạt là những thói quen nào? (ăn, ngủ, đùa giỡn,…).
60
- Những hoạt động chính của con vật là gì? Ví dụ? (con mèo: bắt chuột; con
chó: giữ nhà, mừng chủ;…).
Kết luận: Nêu cảm nghĩ đối với con vật.
- Cảm nghĩ của em đối với con vật có thể là gì? (yêu, thích, thấy thiếu vắng
khi đi đâu về mà không trông thấy nó,…); Em làm gì để thể hiện tình cảm của em
đối với nó? (chăm sóc, bảo vệ,…).
 Hƣớng dẫn học sinh tự lập dàn ý
Thông thường dàn ý gồm có 3 phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài. Căn cứ vào
từng kiểu bài để hướng dẫn HS sắp xếp ý ở mỗi phần sao cho phù hợp. SGK có
hướng dẫn HS lập dàn ý nhưng chưa cụ thể. GV nên hướng dẫn HS triển khai ý bằng
cách sắp xếp các ý đã tìm được (ở phần tìm ý) theo trình tự thời gian hoặc không
gian. Đặc biệt khi sắp xếp các ý cần xác định mức độ trình bày mỗi ý. Trong bài văn
không phải các ý bao giờ cũng trình bày dàn đều mà nên có chỗ đậm, chỗ nhạt, chỗ
nói kỹ, chỗ nói lướt qua. Do đó khi sắp xếp ý ta phải cân nhắc, định trước tỉ lệ dành
cho mỗi ý. Thông thường ý được nói kỹ là ý trọng tâm làm rõ đối tượng miêu tả.
Ví dụ: Lập dàn ý tả chiếc nón lá xứ Huế.
Có thể lập dàn ý nhƣ sau:
Mở bài: Giới thiệu chiếc nón bài thơ (Một người thân đi Huế về mua làm
quà cho mẹ em).
Thân bài:
a) Tả tổng quát:
- Chiếc nón mỏng mảnh và rất xinh.
- Chất liệu: bằng lá gồi.
- Hình dáng: hình chóp rỗng.
b) Tả các bộ phận:
- Vành nón: 16 vòng tre vót thon nhẵn bóng, cách đều, càng lên chóp càng
nhỏ dần.
- Thân nón: những lớp lá trắng xanh, phẳng và bóng xếp chồng mép lên
nhau, tỏa từ chóp nón xuống, may vào vành nón bằng chỉ cước, mũi may ngắn và
đều, sắc sảo.
- Quai nón: dải nhung tím.
- Soi lên ánh sáng, lòng nón hiện ra hình cầu Tràng Tiền, con đò, chùa Linh Mụ,...
Kết bài:
- Chiếc nón làm tăng thêm vẻ đẹp cho người phụ nữ.
- Món quà có ý nghĩa.
61
 Hƣớng dẫn học sinh lập dàn ý thông qua làm bài tập sửa lại dàn ý
Khi rèn luyện kĩ năng lập dàn ý, GV nên đưa ra các bài tập để rèn luyện kĩ
năng lập dàn ý bằng cách yêu cầu HS sửa lại dàn ý đã thiết lập chưa chính xác.
Cách làm này thiết thực với HS bởi qua những bài tập này các em không những biết
sắp xếp ý mà còn có khả năng nhận biết một dàn ý hoàn chỉnh.
Với cách lập dàn ý bằng cách sửa lại dàn ý này GV nên yêu cầu HS thảo luận
nhóm để thiết lập lại một dàn ý chuẩn mực. Thực tế giảng dạy HS sẽ rất thích thú
với dạng bài tập này. Qua quan sát dàn ý trên, đối chiếu những yêu cầu của một dàn
ý thì các em sẽ phát hiện ra những chỗ chưa hợp lí trong dàn bài và sửa lại cho
đúng, khi đó các em sẽ nắm chắc kĩ năng lập dàn ý và nhớ lâu hơn.
Ví dụ: Lập dàn ý tả một cây bóng mát (hoặc cây ăn quả, cây hoa) mà em yêu
thích. Bạn Tâm Liên lập dàn ý tả giàn hoa thiên lí trước nhà bạn như sau:
- Giới thiệu cây định tả: Giàn thiên lí bên nhà xanh tốt.
- Tả từng bộ phận của cây:
+ Thân: leo chằng chịt đeo bám đầy giàn.
+ Lá: xanh non như hình quả tim.
+ Hoa: từng chùm, cánh hoa nhỏ, nhìn lên thấy chi chít như chùm sao xanh.
+ Mùi hương: dịu nhẹ mà thơm quyến rũ, chỉ tỏa mùi thơm về đêm.
- Tả bao quát: Từ một đoạn rễ được bố giâm xuống đất nay đã bò ra leo khắp
phủ cả giàn.
- Nêu ích lợi của cây, nêu cảm nghĩ của em:
+ Giàn thiên tỏa bóng mát hiên nhà.
+ Tỏa mùi thơm lúc đêm về, đem lại cảm giác thư thái, dễ chịu.
+ Hoa lí xào hoặc nấu canh làm món ăn ngon và mát.
+ Yêu thích giàn thiên lí, thân thiết với “những ngôi sao xanh” của đêm hè.
Theo em dàn ý trên đã hợp lí chưa? Nếu chưa thì hãy bổ sung và sắp xếp lại
cho phù hợp.
Gợi ý đáp án: Dàn ý trên chưa hợp lí vì chưa chia thành ba phần Mở bài,
Thân bài, Kết bài cụ thể. Sắp xếp ý cũng chưa hợp lí. Các em sẽ sắp xếp lại như sau:
Mở bài: Giới thiệu cây định tả: Giàn thiên lí bên nhà xanh tốt.
Thân bài:
a) Tả bao quát: Từ một đoạn rễ được bố giâm xuống đất nay đã bò ra leo
khắp phủ cả giàn.
62
b) Tả từng bộ phận của cây:
+ Thân: leo chằng chịt đeo bám đầy giàn.
+ Lá: xanh non như hình quả tim.
+ Hoa: từng chùm, cánh hoa nhỏ, nhìn lên thấy chi chít như chùm sao xanh.
+ Mùi hương: dịu nhẹ mà thơm quyến rũ, chỉ tỏa mùi thơm về đêm.
c) Nêu ích lợi của cây
+ Giàn thiên tỏa bóng mát hiên nhà.
+ Tỏa mùi thơm lúc đêm về, đem lại cảm giác thư thái, dễ chịu.
+ Hoa lí xào hoặc nấu canh làm món ăn ngon và mát.
Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em đối với giàn hoa thiên lí: Yêu thích giàn thiên
lí, thân thiết với “những ngôi sao xanh” của đêm hè.
Để thực hiện các hoạt động trên khi hướng dẫn học sinh tìm ý và lập dàn ý
bài văn miêu tả hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4, GV có
thể xây dựng các trò chơi và bài tập hỗ trợ sau:
 Trò chơi tích cực hóa hoạt động tìm ý và lập dàn ý hỗ trợ phát triển NL
tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4
Trò chơi: "Hộp thƣ chạy" Bằng một hệ thống câu hỏi chuẩn bị sẵn mang
tính gợi mở đòi hỏi HS phải độc lập suy nghĩ, quan sát để tìm hiểu được vấn đề.
Tuỳ dạng bài mà GV chọn hệ thống câu hỏi phù hợp cho trò chơi.
Cách chơi: Hộp thư sẽ được chuyền từ bạn này sang bạn khác một cách khẩn
trương, gọn gàng theo nhịp bài hát nào đó. Khi kết thúc một bài hát, hộp thư dừng
chạy. HS nào đang cầm hộp trên tay phải mở hộp ra bốc câu hỏi trả lời. Nếu trả lời
đúng được cả lớp tuyên dương, nếu không trả lời được sẽ phải thực hiện một hình
phạt nhẹ nhàng do GV quy định và HS khác sẽ xung phong trả lời thay bạn.
Ví dụ: "Hộp thƣ chạy" của Bài "Tả cái cặp sách":
1. Em hãy kể các bộ phận của cái cặp?
2. Cặp làm bằng gì?
3. Quai cặp thế nào?
4. Mặt cặp được trang trí thế nào?
5.Từ nào tả vẻ đẹp của ổ khoá?
6. Em hãy tìm những từ ngữ chỉ màu sắc của cái cặp?
7. Em gìn giữ cặp ra sao?
"Hộp thƣ chạy" của Bài “Tả cây co bóng mát”
63
1. Em hãy nêu các bộ phân của cây?
2. Thân cây thế nào?
3. Gốc cây ra sao?
4. Nêu đặc điểm của cành cây?
5. Tìm từ tả màu sắc và hình dáng của lá?
6. Cây có hoa không? Hãy nêu hình dáng màu sắc của hoa?
7. Hãy nêu ích lợi của cây?
8. Những hoạt động có liên quan đến cây?
"Hộp thƣ chạy" của Bài : “Tả con gà trống”
1. Gà trống to chừng nào?
2. Thân hình gà thế nào?
3. Em hãy tìm từ tả màu lông của gà trống?
4. Đầu gà,chân gà thế nào?
5. Móng vuốt gà dùng để làm gì?
6. Gà có những thói quen gì trong sinh hoạt?
7. Tìm từ tả tiếng gáy của gà trống?
8. Nuôi gà có ích lợi gì?
Trò chơi: "Ai nói nhanh"
Từ hệ thống câu hỏi trên, GV có thể lựa chọn một số câu hỏi để thực hiện trò
chơi "Ai nói nhanh".
Cách chơi: Chia lớp thành 4 - 5 nhóm, mỗi thành viên trong nhóm đều có
quyền trả lời giống nhau, bổ sung cho nhau. Với mỗi câu hỏi đưa ra, chia thành các
lượt chơi khác nhau, trong mỗi lượt, nhóm nào đưa tay nhanh nhất sẽ giành được
quyền trả lời trước. Cuối cùng tổng hợp lại, nhận xét nhóm nào nói được nhiều ý
đúng nhất sẽ là nhóm chiến thắng.
Đây là những trò chơi đồng thời kết hợp kĩ thuật động não. Theo lẽ thường
sau khi đọc đề, tìm hiểu đề xong, HS sẽ có hàng loạt ý xuất hiện một cách đột ngột
chưa có hệ thống chặt chẽ trong đầu. Những ý đó có khi rất độc đáo, đúng với yêu
cầu của đề, cũng có khi xa đề. GV cần tạo điều kiện, kích thích các em phát biểu
ngay nếu không có thể các ý này sẽ bị quên đi không bao giờ trở lại. Kĩ thuật động
não trong trường hợp này sẽ phát huy tính tích cực của HS, đặc biệt giúp các em tìm
được những ý hay, ý độc đáo.
64
Bài tập tìm ý và lập dàn ý hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả
cho HS lớp 4
Bài tập 1: Tìm ý chính cho các đề văn sau:
a. Hãy tả cái trống trường.
b. Hãy tả một cây ăn quả.
c. Hãy tả con gà mái.
Trả lời: (Đáp án tham khảo)
a. Anh chàng trống này thân tròn như cái chum, lúc nào cũng chiễm trệ trên
một cái giá gỗ kê ở trước phòng bảo vệ.
b. Chao ôi! Trông những quả cam mới thích mắt làm sao!
c. Chị gà mái trông mập mạp làm sao! Phần đuôi hơi bành ra dáng một bà mẹ
đã qua nhiều lứa đẻ và ấp trứng.
Bài tập 2: Sử dụng sơ đồ tư duy để Lập dàn ý cho các đề văn sau:
a. Miêu tả một đồ vật quen thuộc.
b. Miêu tả cây phượng già.
c. Miêu tả con mèo.
Trả lời: HS lập dàn ý bằng sơ đồ tư duy theo cách cảm nhận riêng.
Chúng tôi tiến hành dạy học tiết Tập làm văn “Cấu tạo bài văn miêu tả con
vật” SGK TV4 Tập 2 (Trang 112, 113) để vận dụng các cách thức tổ chức các hoạt
động tìm ý và lập dàn ý hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả trên:
Tiết “Cấu tạo bài văn miêu tả con vật”
I. Nhận xét:
1. Đọc bài sau:
Con Mèo Hung
“Meo, meo”. Đấy, chú bạn mới của tôi lại đến chơi với tôi đấy.
Chà, nó có bộ lông mới đẹp làm sao! Màu lông hung hung có sắc vằn đo đỏ,
rất đúng với cái tên mà tôi đặt cho nó. Mèo Hung có cái đầu tròn tròn, hai tai dong
dỏng dựng đứng rất thính nhạy. Đôi mắt Mèo Hung hiền lành nhưng ban đêm đôi
mắt ấy sáng lên giúp mèo nhìn rõ mọi vật. Bộ ria mép vểnh lên có vẻ oai lắm, bốn
chân thì thon thon, bước đi một cách nhẹ nhàng như lướt trên mặt đất. Cái đuôi dài
trông thướt tha duyên dáng... Mèo Hung trông thật đáng yêu.
Có một hôm, tôi đang ngồi học, bỗng thấy nó rón rén bước từng bước nhẹ
nhàng đến bên hồ thóc ngồi rình. A! Con mèo này khôn thật! Chả là ngày thường
chuột hay vào bồ ăn vụng thóc nên mèo mới rình ở đây. Bỗng nhiên nó chụm bốn
65
chân lại, dặt dặt cái đuôi lấy đà rồi “phốc” một cái. Thế là một con chuột đã nằm
gọn trong vuốt của nó... Nhiều lúc tôi đang học bài, chú ta đến dụi dụi vào tay,
muốn tôi vuốt ve bộ lông mượt như nhung hoặc đùa với chú một tí.
Con mèo của tôi là thế đấy.
Theo HOÀNG ĐỨC HẢI
2. Phân đoạn bài văn trên.
3. Nội dung chính của mỗi đoạn văn trên là gì?
4. Từ bài văn trên, nhận xét về cấu tạo của bài văn miêu tả con vật.
Gợi ý:
- GV cho HS thảo luận nhóm 4 để trả lời.
- Các nhóm trình bày kết quả thảo luận trước lớp để GV kiểm tra chốt lại đáp
án đúng.
Đoạn 1: ““Meo, meo”. Đấy chú bạn mới của tôi lại đến chơi với tôi đấy.”:
Giới thiệu về con mèo định tả.
Đoạn 2: “Chà, chú có bộ lông mới đẹp làm sao ... Mèo Hung trong thật đáng
yêu.”: Tả hình dáng con mèo.
Đoạn 3: “Có một hôm ... đùa với chú một tí.”: Tả hoạt động, thói quen của
con mèo.
Đoạn 4: “Con mèo của tôi là thế đấy.”: Nêu cảm nghĩ về con mèo.
Từ bài văn Con Mèo Hung, em có nhận xét gì về cấu tạo của bài văn miêu tả
con vật?
- HS trả lời: Bài văn có 3 phần, 4 đoạn
1. Mở bài (đoạn 1)
Giới thiệu con mèo sẽ được tả trong bài.
2. Thân bài (đoạn 2 + đoạn 3)
Đoạn 2: Tả hình dung con mèo.
Đoạn 3: Tả hoạt động, thói quen của con mèo
3. Kết bài (đoạn 4)
Nêu cảm nghĩ về con mèo.
- GV nhận xét và chốt lại kiến thức cần nắm.
II. Ghi nhớ:
Bài văn miêu tả con vật thường có 3 phần:
1. Mở bài: Giới thiệu con vật sẽ tả.
66
2. Thân bài:
a. Tả hình dáng.
b. Tả thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của con vật.
3. Kết luận: Nêu cảm nghĩ đối với con vật.
GV yêu cầu HS đọc phần ghi nhớ nhiều lần cho thuộc.
III. Luyện tập
Lập dàn ý chi tiết tả một con vật nuôi trong nhà (gà, chim, chó, lợn, trâu, bò ...)
GV hướng dẫn HS lập dàn ý một con vật cụ thể sau đó các em sẽ chọn con
vật mình thích rồi thực hiện tương tự dàn ý mẫu của GV. (Sử dụng sơ đồ tư duy để
lập dàn ý)
Gợi ý đáp án:
Dàn ý miêu tả con mèo.
Dàn ý miêu tả con gà
67
Tựu chung, dạy học nói chung và dạy tạo lập văn bản miêu tả nói riêng vừa
là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Không có một khuôn mẫu nào cho bài văn
miêu tả, vì thế GV cần nắm rõ đặc trưng của từng kiểu bài để hướng dẫn HS lập dàn
ý cho phù hợp. Bên cạnh đó, HS cũng cần có ý thức tự giác, coi việc lập dàn ý là
một khâu quan trọng cần phải thực hiện trước khi viết bài văn. Đồng thời phải biết
vận dụng một cách sáng tạo sự hướng dẫn của thầy cô giáo để lập dàn ý phù hợp
với từng kiểu bài văn miêu tả cụ thể. Với cách thức tổ chức hoạt động tìm ý, lập dàn
ý hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả trên nhằm tạo nên sơ đồ phác thảo
cấu tạo của một bài văn miêu tả có bố cục rõ ràng, hợp lý, đúng đề, hay về nội dung,
đồng thời rèn luyện cho HS thói quen lập dàn ý trước khi làm bài - một kĩ năng mà
các em ngại nhất trong phân môn Tập làm văn hiện nay, giúp các em có một bài văn
miêu tả hay hơn. Và đấy cũng chính là một bước “bàn đạp” cho việc rèn luyện kĩ
năng tiếp theo - kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong
tạo lập văn bản để đưa các em đến gần hơn với cái đích cuối cùng là tạo lập nên văn
bản miêu tả hoàn chỉnh - một văn bản miêu tả của “vòng nguyệt quế”.
2.2.3. Phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ
trong tạo lập văn bản miêu tả
2.2.3.1. Vai trò và yêu cầu của quá trình chuyển ý thành lời văn trong quá trình tạo
lập văn bản miêu tả
Để tạo lập nên một văn bản miêu tả, người viết phải tiến hành theo các bước sau:
1. Định hướng tạo lập văn bản miêu tả: Đây là khâu quan trọng, có ý nghĩa
tiên quyết đối với việc tạo lập một văn bản miêu tả. Để định hướng cho quá trình
tạo lập văn bản cần xác định những vấn đề xoay quanh những câu hỏi sau:
- Viết vềcái gì? (giúp cho người đọc xác định được đề tài, đối tượng, nội
dung cụ thể).
- Viết như thế nào? (giúp cho người tạo lập văn bản xác định được cách thức
tạo lập, các phương tiện biểu đạt gắn với nội dung cụ thể để được định hình, hình
thức ngôn ngữ để biểu đạt nội dung đó một cách hiệu quả nhất).
2. Tìm ý và sắp xếp thành dàn ý theo bố cục rõ ràng, đáp ứng yêu cầu của đề
bài. Từ những nội dung đã xác định được trong bước định hướng, đến đây người tạo
lập văn bản tiến hành thiết lập hệ thống các ý, sắp xếp chúng theo bố cục hợp lí,
đảm bảo tính liên kết nội dung, mạch lạc văn bản.
68
3. Viết thành văn bản hoàn chỉnh: Đây là khâu trực tiếp cho ra “sản phẩm”.
Người tạo lập văn bản dùng lời văn của mình diễn đạt các ý thành câu, đoạn, phần
hoàn chỉnh.
4. Kiểm tra lại văn bản: Đây là khâu cuối cùng của quá trình tạo lập văn bản.
“Sản phẩm” được kiểm tra lại, điều chỉnh những nội dung, cách diễn đạt chưa hợp
lí, sửa các lỗi về dùng từ, đặt câu, viết đoạn, chuyển ý,...
Trong các bước để tạo lập nên một văn bản nói trên thì ta nhận thấy rằng ở
bước viết thành văn bản hoàn chỉnh - là quá trình chuyển ý thành lời văn hay nói
cách khác là “hành văn”, ở bước này các phương tiện liên kết hình thức được huy
động tối đa để triển khai chủ đề, thể hiện tính liên kết nội dung, đảm bảo tính mạch
lạc cho văn bản. Việc “hành văn” này cần đạt được các yêu cầu là đúng chính tả,
đúng ngữ pháp, dùng từ chính xác, sát với dàn bài chi tiết, có tính liên kết, mạch lạc,
lời văn trong sáng.
Ở Tiểu học, chương trình văn miêu tả yêu cầu rèn luyện cho HS năng lực
diễn đạt bằng cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Ở lớp 2 - 3, các bài quan sát và trả
lời câu hỏi chỉ mới yêu cầu HS trả lời rõ ý, dùng câu có đủ hai bộ phận chủ - vị,
tránh lặp lại các từ khi trả lời. Ở lớp 4 - 5, các bài văn miêu tả chính thức có yêu cầu
ngày càng cao hơn, HS dựa vào các câu hỏi để trả lời, rồi phát triển thành đoạn,
thành bài, bằng văn nói trước khi chuyển thành văn viết. Đặc biệt lưu ý trong diễn
đạt, hành văn là văn viết phải sinh động, “có hồn”.
Chúng ta nhận thấy rằng, văn miêu tả như là một hình thức sáng tạo ra “thế
giới thứ hai” từ thế giới hiện thực thông qua cái nhìn mới mẻ và cách cảm nhận
riêng của người viết. Văn miêu tả là cách thức tiếp xúc, đón nhận cuộc sống để trình
bày vẻ đẹp kì diệu tiềm ẩn của cuộc sống và là cách bày tỏ xúc động thẩm mỹ và
NL chữ nghĩa của người viết. Vì thế, sau khi đã lập dàn ý, có được một dàn ý hay
rồi thì cần phải đòi hỏi một người thợ khéo tay sử dụng các “vật liệu” tốt để tạo tạc
nên một “công trình” hoàn hảo và chắc chắn. “Vật liệu” đó chính là các phương tiện
ngôn ngữ. Người viết phải huy động, lựa chọn từ ngữ, các mô hình câu, mô hình
đoạn phù hợp để tạo nên lời văn hợp chuẩn mực, giàu cảm xúc và hấp dẫn. Bài văn
còn là một chỉnh thể thống nhất chặt chẽ nên người viết cũng phải sử dụng các
phương tiện để liên kết các câu thành đoạn, các đoạn thành bài. Việc sử dụng các
phương tiện ngôn ngữ cần phải phù hợp với các đặc điểm của phong cách văn bản,
tức là phù hợp với từng kiểu loại (cây cối, đồ vật, con vật) của bài viết. Như vậy sau
khi đã có các ý rồi thì vấn đề quan trọng hơn cả là biết cách diễn đạt một cách khéo
69
léo những ý của bài viết thành lời văn cụ thể. Tuy nhiên, khi đã có dàn ý chi tiết của
bài văn rồi, do cách diễn đạt của mỗi người khác nhau nên hiệu quả của bài viết còn
hạn chế, chưa đạt. Vì thế quá trình chuyển ý thành lời văn để tạo thành một văn bản
miêu tả hay cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết, để tránh sự nhàm chán và
bài viết sinh động, phong phú, người viết cần linh hoạt trong hành văn, tránh kiểu
viết một giọng đều đều từ đầu đến cuối tạo cảm giác đơn điệu, liệt kê, rời rạc giữa
các câu trong đoạn, làm mất đi sự liên kết chặt chẽ giữa các câu và không làm nổi
bật được đối tượng miêu tả. Thứ hai là ở cách dùng từ “độc đáo” trong Tập làm văn
mà cụ thể là văn miêu tả, phải dùng những từ hay, đoạn hay thì mới có một bài văn
hay. Để vận dụng từ ngữ cho hay, độc đáo thì người viết cần tích lũy cho mình vốn
từ ngữ phong phú và có ý thức vận dụng khi viết văn. Tuy vậy, cũng cần sử dụng
đúng lúc, đúng chỗ để có đoạn văn, bài văn hay tránh lạm dụng rơi vào tình trạng
sáo rỗng, khoe chữ. Thứ ba là thể hiện được tính linh hoạt trong viết câu, tức là tùy
từng lúc, từng nơi, tùy vào từng đoạn văn mà có những câu văn tương ứng để diễn
đạt cho phù hợp. Sau cùng là các bài văn mang tính nghệ thuật cao như văn miêu tả
cần phải giàu hình ảnh, bởi chỉ có hình ảnh mới tái tạo được tưởng tượng của người
đọc những bức tranh cụ thể, sinh động về cuộc sống con người và cảnh vật. Lời văn
giàu hình ảnh tạo nên sức hấp dẫn, cái hay và vẻ đẹp của bài viết. Lời văn giàu hình
ảnh đó thể hiện ở cách lựa chọn các hình ảnh, chi tiết đặc sắc, có hồn của đối tượng
được tả và được diễn tả bằng ngôn ngữ gợi tả. Để tạo được hiệu ứng của sức gợi tả
đó thì đặc biệt chú ý đến cách dùng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn
dụ, hoán dụ, cách thức sử dụng nhịp điệu âm thanh và cách kết hợp sử dụng các
kiểu câu một cách linh hoạt.
Tóm lại, quá trình chuyển ý thành lời văn trong quá trình tạo lập văn bản
nhằm tạo ra những văn bản miêu tả hay, có sự liên kết chặt chẽ của các câu, đoạn
trong bài văn và có những hình ảnh gợi tả hấp dẫn. Nhận thấy được vai trò quan
trọng và yêu cầu của quá trình chuyển ý thành lời văn trong quá trình tạo lập văn
bản miêu tả nên GV cần tổ chức, hướng dẫn cho HS cách thức tổ chức sử dụng các
phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả để giúp các
em tạo lập nên những văn bản hay, nâng cao chất lượng bài viết.
2.2.3.2. Cách thức tổ chức hoạt động phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện
ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả
Nhà văn M. Goóc - ki viết: “Văn học là nghệ thuật của ngôn từ”. Nhiều bạn cứ
tưởng có hình mẫu trước mắt là tả được ngay. Thực ra không phải như vậy. Hằng ngày
70
chúng ta vẫn thường gặp bao nhiêu là con người thân thiết, bao nhiêu cảnh vật và sự
việc đầy ấn tượng. Xa rồi vẫn thấy như còn ngời lên tất cả, thân thuộc và gần gũi như
đang trước mắt mình. Nhưng bây giờ, hãy thử cầm bút và miêu tả lại thì khi ấy sẽ thấy
không phải đơn giản, mặc dù vẫn ở ngay trước mắt của ta. Sở dĩ như vậy vì những cái
đó mới để lại trong đầu óc chúng ta những cảm giác miên man mà không có một cái gì
sâu sắc đủ sức sống bằng hình ảnh để sáng tạo. Như Tô Hoài đã nói: “Nghĩ thì hay
nhưng không đủ chữ để viết ra”. Đó là chưa nói tới phải tả thế nào đó để toát lên được
linh hồn và sắc thái riêng của mỗi con người, mỗi sự vật. Vì thế đòi hỏi muốn tả hay,
người viết phải giàu chữ nghĩa và có vốn từ phong phú, đa dạng.
Mặt khác, “Tiếng Việt giàu và đẹp”, đó là điều mà cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng luôn nhắc nhở chúng ta. Người còn nói thêm: “Không sợ tiếng ta nghèo, chỉ
sợ chúng ta không biết dùng tiếng ta”. Tiếng Việt hoàn hảo trong mọi chức năng
của nó: trong giao tiếp, trong nghiên cứu khoa học, dịch thuật, trong sáng tác văn
học nói chung và trong văn miêu tả nói riêng. Tiếng Việt giàu về mặt âm thanh, từ
ngữ, ngữ pháp, cách diễn đạt... Nó đủ sức miêu tả, tái hiện mọi sự vật, hiện tượng,
mọi khía cạnh phong phú và tinh tế của con người. Qua đó, để thấy rằng ngôn ngữ
Tiếng Việt là một chất liệu miêu tả hoàn hảo. Thế nên, một trong những con đường
đi đến phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 thì không thể thiếu được
con đường phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ
trong tạo lập văn bản. Để phát triển được kĩ năng này thì GV phải đưa ra cách thức
tổ chức hoạt động sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất.
Một trong những yếu tố giúp cho bài văn diễn đạt thành công những cung bậc
tình cảm và sắc thái hiện thực là hệ thống từ gợi hình ảnh và cảm giác. GV cần lưu
ý cho HS trong văn miêu tả thường xuất hiện các lớp từ có giá trị hình tượng, có giá
trị biểu cảm, gợi hình ảnh và cảm giác, đó là tính từ và từ láy. Chúng là thế mạnh
đặc trưng của Tiếng Việt và là phương tiện miêu tả hiệu quả.
Đầu tiên phải kể đến sự phong phú và đa dạng của lớp từ gợi hình ảnh và
cảm giác. Ta có gợi tâm trạng như: xao xuyến, bâng khuâng, phân vân,... Gợi về thị
giác như: la đà, lơ lửng, chấp chới,... Gợi về thính giác như sầm sập, rì rào, thánh
thót,... Gợi về vị giác như mặn chát, chua lòm, ngọt lịm,... Gợi về xúc giác như:
lạnh ngắt, nóng bỏng, xù xì,... rồi cả những lớp từ tượng thanh, tượng hình mà khi
dạy văn miêu tả GV cần hướng dẫn HS khai thác sử dụng có hiệu quả. Từ tượng
thanh như: tiếng gió vi vu, lao xao xào xạc,... tiếng mưa lộp bộp, tí tách, bong bong,
tiếng nước chảy róc rách, rào rào, ào ào,... và cả thế giới âm thanh xung quanh các
71
em, nào là tiếng chim hót, tiếng gà gáy, tiếng lợn ủn ỉn, tiếng bát đũa, những rỗ
đồng tiền xu va vào nhau, rồi cả tiếng cười cười nói nói của mọi người,... Những từ
có giá trị tượng hình như: đỏ chon chót, sâu hun hút, xanh ngăn ngắt, sâu thăm
thẳm, rộng mênh mông,... Với một loạt các từ gợi tả, gợi cảm tác giả đã tái hiện lại
cuộc sống của thành phố gắn liền với những âm thanh “Từ cái căn gác nhỏ của
mình, Hải có thể nghe thấy tất cả các âm thanh náo nhiệt, ồn ã của thành phố thủ
đô. Tiếng chuông xe đạp lanh canh. Tiếng kéo lách cách bận rộn của những người
bán thịt bò khô. Tiếng thùng nước va vào nhau loảng xoảng ở một cái vòi nước
công cộng. Tiếng ve kêu rền rĩ trong những đám lá cây trên đại lộ. Tiếng còi ô tô
xin đường gay gắt. Tiếng xả hơi của một cái đầu máy hơi nước. Tiếng còi tàu hỏa
thét lên và tiếng bánh xe đập trên đường ray ầm ầm như sắp lao vào thành phố.”
(Tô Ngọc Hiến)
Hãy xem sự tài tình trong cách dùng từ miêu tả âm thanh của các con vật:
“Rừng núi còn chìm đắm trong màn đêm. Trong bầu không khí đấy hơi ẩm và lành
lạnh, mọi người đang ngon giấc trong những chiến chăn đơn. Bỗng một con gà
trống vỗ cánh phành phạch và cất tiếng gáy lanh lảnh ở đầu bản. Tiếp đó, rải rác
khắp thung lũng, tiếng gà gáy râm ran. Mấy con gà rừng trên núi cũng thức dậy
gáy te te. Trên mấy cành cây cao cạnh nhà, ve đua nhau kêu ra rả. Ngoài suối,
tiếng chim cuốc vọng vào đều đều. Bản làng đã thức giấc”. Với một loạt các từ
miêu tả âm thanh của các chú gà vào một buổi sớm mai ở vùng cao, chỉ vỏn vẹn
trong một đoạn văn ngắn mà xuất hiện đầy đủ mọi thứ âm thanh khác nhau của con
gà để đánh thức bản làng thức giấc.
Thứ hai là phải kể đến hệ thống tính từ trong Tiếng Việt là hết sức tinh diệu.
Đã khi nào bạn thử thống kê tất cả các màu trắng, đỏ, vàng hay xanh chưa? Cứ thử đi
rồi bạn sẽ thấy từ chỉ màu sắc trong Tiếng Việt thật vi diệu nhường nào. Này nhé, nếu
là trắng ta có trắng bệch, trắng tinh, trắng nuột, trắng trẻo, trắng trong,... Nếu là
xanh lại có xanh um, xanh mát, xanh lè, xanh ngắt, xanh thẳm,... Với màu đỏ có thể
kể đến như là đỏ chói, đỏ bừng, đỏ chót, đỏ tươi, đỏ lòm, đỏ hoe, đỏ chon chót,... Hệ
thống tính từ đa dạng này chúng ta cũng có thể phân nó thành các nhóm như sau: Các
tính từ chỉ màu sắc: vàng hoe, vàng xuồm, vàng lịm,..: xanh um, xanh thẳm, xanh
trong,... ; đỏ chót, đỏ chói, đỏ rực,...; tím ngắt, tím biếc, tím hoa cà,... Các tính từ chỉ
mùi vị: thơm ngát, thơm phức, thơm nức, thơm thoang thoảng, thơm ngan ngát,... Thế
giới xung quanh của các em thật đa dạng và phong phú. Đó là thế giới của âm thanh
72
hình tượng và màu sắc, chính các yếu tố này tạo cho bài văn miêu tả của các em thật
hơn, sinh động hơn, đóng góp một phần không nhỏ làm nên vẻ đẹp bài văn.
Mới chỉ dừng lại ở hệ thống tính từ thôi đã thấy sự đa dạng tinh tế của ngôn
ngữ Tiếng Việt. Đúng thật không “ngoa” khi nói: “Tiếng Việt giàu và đẹp”. Có thể
thấy rõ điều này qua đoạn văn: “Vai kĩu kịt, tay vung vẩy, chân bước thoăn thoắt.
Tiếng lợn eng éc, tiếng gà chíp chíp, tiếng vịt cạc cạc, tiếng người nói léo xéo. Thỉnh
thoảng lại điểm thêm những tiếng ăng ẳng của con chó lại lôi sau sợi xích sắt, mặt
buồn rầu, sợ sệt”. Ngô Tất Tố đã phác họa một phiên chợ vùng trung du như một bức
tranh có những mảng màu lớn, đậm nét khái quát cao. Mọi màu sắc, âm thanh, hoạt
động miêu tả qua một loạt từ tượng thanh: eng éc, chíp chíp, cạc cạc, léo xéo, ăng
ẳng và các từ tượng hình như : kĩu kịt, vung vẩy, thoăn thoắt, sợ sệt.
Từ ngữ Tiếng Việt có số lượng vô cùng lớn, đủ để “định hình” sự vật và hiện
tượng. Tiếng Việt còn có một bộ phận từ đồng nghĩa cho phép phân biệt những hiện
tượng, trạng thái gần giống nhau một cách rất tinh tế. Như đã nói ở trên, đặc biệt
phải nói tới một bộ phận từ ngữ khá phong phú có khả năng “tạo hình” rất tốt, đó là
từ láy. Từ láy luôn có giá trị gợi tả, có khả năng tạo nên nhịp điệu và hình ảnh cho
bài văn. Bởi từ láy là lớp từ có sức diễn tả gợi cảm, gợi tả cao nên được sử dụng
nhiều trong ngôn ngữ giao tiếp đời sống, trong văn chương và đặc biệt là trong viết
văn miêu tả. Vì thế, GV cần hướng dẫn, khuyến khích HS sử dụng linh hoạt từ láy
khi làm bài nhằm mang lại chất lượng cao cho bài viết của các em.
Các văn bản trong sách Tiếng Việt ở Tiểu học là những tác phẩm văn chương
có sự xuất hiện của từ láy là rất lớn. Dụng ý mà tác giả sử dụng các từ láy đó cũng
hết sức phong phú, đa dạng và sinh động. Khi dạy những bài đó, GV có thể xây
dựng một số câu hỏi để giúp HS hiểu và cảm nhận được giá trị cụ thể của từ láy có
trong bài học đó.
Ví dụ: : Khi dạy bài: “Cánh diều tuổi thơ” (SGK Tiếng Việt 4, tập 1 - trang
146) GV có thể hỏi thêm: Tác giả đã dùng từ láy nào để miêu tả cánh diều và tiếng
sáo diều? Qua đó, các em có cảm nhận gì về cánh diều và tiếng sáo?
Hay khi dạy bài: “Sầu riêng” (SGK Tiếng Việt 4, tập 2 - trang 146) GV nêu câu
hỏi: Tác giả miêu tả hương thơm sầu riêng bằng từ láy gì? Cách miêu tả đó có gì hay?
Cũng cần phải lưu ý các câu hỏi hay bài tập GV đưa ra phải khéo léo, phù
hợp và hay để khai thác hết ý đồ của tác giả, giúp HS hiểu được giá trị của từ láy
trong văn bản miêu tả đó. Từ đấy, các em sẽ biết cách sử dụng từ láy trong viết văn
73
cũng như trong giao tiếp một cách linh hoạt hơn, mang lại hiệu quả ngôn bản giàu
xúc cảm, còn lời nói thì hoạt ngôn hơn.
Với ba dạng thức văn miêu tả mà HS học ở lớp 4 (con vật, đồ vật, cây cối),
với mỗi dạng thức miêu tả sẽ sử dụng những từ láy khác nhau.
Tả đồ vật: Thường dùng nhiều từ ngữ gợi hình dạng, đặc điểm (ví dụ như
tròn tròn, vuông vắn, nhỏ nhắn, xinh xắn, đo đỏ,lim dim, duyên dáng, thon thon,...).
Tả con vật: Thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, âm thanh, hoạt động
và trạng thái của con vật (ví dụ như: oai vệ, rón rén, lặc lè, nhanh thoăn thoắt,
chậm chạp, ì ạch, phành phạch, tinh nhanh, ranh mãnh, eng éc, cạc cạc, léo xéo, te
te, ăng ẳng,...).
Tả cây cối: Thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, màu sắc, hương
thơm, mùi vị (ví dụ như xanh mươn mướt, mơn mởn, rung rinh, um tùm, khẳng
khiu, rực rỡ, mơ màng, xào xạc, xơ xác, lác đác,...).
Chúng ta phải thừa nhận rằng, với ba dạng thức văn miêu tả trên có chung
một điểm là trong khi viết văn các em cần sử dụng các từ láy để bài văn mượt mà
đúng bản chất của kiểu bài văn miêu tả. Bởi một văn bản có sử dụng từ láy khi ta
đọc vào sẽ có cảm giác hay hơn so với văn bản không sử dụng từ láy để miêu tả. Vì
vậy, để viết được đoạn văn, bài văn miêu tả hay thì các em cần có vốn từ và biết
cách sử dụng từ ngữ nói trên đúng lúc, đúng chỗ, biết dựa vào từ để tạo ra cái mới,
cái riêng, cái độc đáo trong những câu văn, đoạn văn và bài văn của mình.
Vấn đề tiếp theo mà chúng tôi muốn nhắc đến là về ngữ pháp và cách diễn
đạt, Tiếng Việt cũng rất giàu khả năng miêu tả. Như ta đã biết trật tự trước - sau của
các từ trong câu văn Tiếng Việt đem lại ý nghĩa khác nhau. Trật tự ấy cũng rất có
tác dụng trong văn miêu tả. Chẳng hạn, viết “nước chảy róc rách” chắc sẽ không
tạo hình bằng “nước róc rách chảy”. Hay trong đoạn văn miêu tả con bọ ngựa, Tô
Hoài viết: “Anh đi cứ chân nhấc từng bước cao ngang đầu gối kiểu bước chân
ngỗng, cách thức rất ta đây...”, ta thấy nhà văn đã sử dụng một trật tự từ, một mẫu
câu tuyệt giỏi: “cứ chân nhấc từng bước” chứ không phải “cứ nhấc chân từng
bước”. Có như vậy mới tả đúng cái dáng ngông nghênh, ngật ngưỡng của anh
chàng Bọ Ngựa. Hay trong đoan văn “Trắng tròn như hạt nếp hạt tẻ đầu mùa, hoa
sấu kéo dài con đường hoa nhiều quãng cộm hẳn lên như cót gạo nào của khu phố
bung vãi ra” (Nguyễn Tuân). Tác giả đã viết câu văn theo lối đảo ngữ nhằm diễn tả
vẻ đẹp tinh khôi, độc đáo, gợi cảm và giàu ý nghĩa của hoa sấu, nhằm làm cơ sở cho
sự xuất hiện hình ảnh so sánh độc đáo ở cuối câu. Đó là hoa sấu “như cót gạo nào
74
của khu phố bung vãi ra.” Tuy nhiên GV không đòi hỏi quá cao ở HS kĩ năng này
vì kĩ năng này tương đối khó so với năng lực viết văn miêu tả của đại đa số HS Tiểu
học hiện nay. Vì thế GV chỉ khuyến khích HS khá giỏi làm tốt kĩ năng này sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả viết văn cho các em.
Đặc biệt hơn cả là sự xuất hiện rất nhiều của các biện pháp tu từ trong tạo lập
văn bản miêu tả. Đó là một thế mạnh đặc trưng của Tiếng Việt. Đó là biện pháp so
sánh, nhân hóa với việc làm giàu khả năng biểu đạt trong văn miêu tả. Là hệ thống
kiến thức các em được học qua phân môn Luyện từ và câu ở chương trình lớp 3.
(Xem phụ lục Bảng 1.2 và 1.3).
Sử dụng so sánh tu từ, những trang văn miêu tả không chỉ có giá trị về mặt
nhận thức mà còn được tăng cường giá trị biểu cảm. Qua so sánh, đối tượng được
nói đến hiểu rõ hơn, dễ hình dung hơn. Thêm vào đó, biện pháp so sánh ví von còn
là tăng thêm sức gợi cảm, gợi hình cho sự diễn đạt. Nhờ vậy, bài văn trở nên sinh
động và đầy thú vị.
Trong bài “Cây gạo” của nhà văn Vũ Tú Nam có đoạn: “Cây gạo già mỗi
năm lại trở lại mùa xuân, cành nặng trĩu những cây hoa đỏ mọng và đầy tiếng chim
hót. Chỉ cần một làn gió nhẹ hay một đôi chim mới đến là có ngay mấy bông gạo lìa
cành. Những bông hoa rơi từ trên cao, đài hoa nặng chúi xuống, những cành hoa
đỏ rực quay tít như chong chóng trông thật đẹp”. Đoạn văn tả trên có một chi tiết
bất ngờ và độc đáo, đó là chi tiết so sánh khi tác giả tả bông hoa gạo đang rơi. Bất
ngờ vì tác giả không tả hoa gạo trên cây, không tả hoa gạo lúc đang nụ hay đã nở.
Tác giả lại tả hoa gạo đã lìa cành, đã rụng và đang rơi xuống. Tác giả đã phát hiện
ra cách rơi đặc biệt của hoa gạo, đài hoa nằm ở dưới, rơi xuống trước vì đài hoa
nặng chúi xuống. Độc đáo hơn, cái tư thế quay tít của hoa khi rơi xuống còn được
tác giả chụp lấy và so sánh với chong chóng. Sự so sánh vừa giúp người đọc hình
dung một cách dễ dàng cái dáng rơi của hoa gạo, vừa mang đậm chất tạo hình,
tưởng như hiện ra trước mắt người đọc một cánh chong chóng đỏ rực đang quay tít
giữa không trung thật sống động và gợi cảm.
Hay bằng sự so sánh “Từ những cành sấu non bật ra những chùm hoa trắng
muốt, nhỏ như những chiếc chuông tí hon” (Mùa hoa sấu), nhà văn Băng Sơn đã thể
hiện năng lực quan sát thực tế của mình, đồng thời mang đến cho độc giả hình ảnh
thật sinh động về hoa sấu. Nhà văn không tả kĩ hình dáng của những bông hoa sấu,
tuy nhiên với cách so sánh chùm hoa sấu “nhỏ như những chiếc chuông tí hon”,
người đọc có thể hình dung ngay được những bông hoa sấu trông như thế nào. Cách
75
so sánh này cũng đầy thi vị, thử tưởng tượng hoa sấu như chiếc chuông tí hon ấy có
khi nào sẽ ngân vang mỗi khi có làn gió nhẹ thoảng qua? So sánh như vậy vừa gợi
hình, gợi cảm và xét ở một góc độ nào đó, lại vừa gợi âm thanh. Với giá trị to lớn
đó, so sánh tu từ thường được sử dụng nhiều trong các trang văn miêu tả. Nó không
chỉ đem lại sự nhận thức chính xác, mới mẻ, gợi hình ảnh bất ngờ, mà còn mang lại
sức sống cho hình ảnh, khiến bài văn trở nên sinh động, để lại ấn tượng sâu đậm
trong lòng bạn đọc.
Nếu như biện pháp so sánh làm cho đối tượng miêu tả trở nên rõ hình dung,
gợi sự liên tưởng bất ngờ, mới mẻ cho bạn đọc, thì biện pháp nhân hóa có khả năng
làm cho bài văn miêu tả đầy sinh động, hấp dẫn. Qua nhân hóa, các sự vật vô tri
được “thổi hồn”, đầy sức sống. Những đối tượng không phải là người nhưng có
cuộc sống của con người, cũng có tính cách, biết cảm nhận, biết suy nghĩ và hành
động của con người. Thế giới của vật trở nên thật gần gũi, ngộ nghĩnh, đáng yêu.
Có thể thấy nhân hoá là con đường thú vi ̣nhất , ngắn nhất đưa những vấn đề trìu
tượng đến với nhâ ̣n thứ c của con người . Khi sử dụng nhân hoá , người viết thỏa sứ c
vùng vẫy, lựa chọn ngôn từ để làm tăng sự uyển chuyển , mềm mại khi diễn đạt. Khi
tả hình dáng bên ngoài của chào mào , nhà văn Tô Hoài viết: “Mắt, mỏ Chào Mào
nhâng nháo, phởn phơ. Đứng đâu cũng nhún nhảy làm điệu. Đã thế đỉnh đầu lại
chênh vênh đội lệch cái mũ nhung đen nháy.” Hay khi đi sâu tả nội tâm , tính nết
của từng con bò , nhà văn Hồ Phương đã viết như sau “ Con Ba Bớ p phàm ăn tục
uống nhất…Con Hoa hùng hục ăn. Mẹ con chị Vàng ăn riêng một chỗ…, cu Tũn dở
hơi chốc chốc lại ăn tranh mảng cỏ của mẹ, chị Vàng lại dịu dàng nhườ ng cho nó.”
Bài thơ “Buổi sáng nhà em” cũng là một ví dụcho sự nhân hóa đầy thi vị, cả bài thơ
là một bức tranh sinh hoạt vui tươi và sinh động qua cái nhìn của Trần Đăng Khoa .
Mọi vật đều được nhân hoá : Từ ông trờ i, bà sân, đến cậu mèo, mụ gà, cái na, cu
chuối, chị tre, bác nồi đồng, bà chổi với những công viê ̣c như : đi cày, tát nướ c, vấn
khăn, chải tóc, soi gương, quét nhà, những hoa ̣t động reo vui : vỗ tay cười, vỗ bùng
boong, những âm thanh rộn ràng của tiếng gà cục tác, tiếng loẹt quẹt quét nhà. Tất
cả được nhân hoá trong thơ vừa gợi hình vừa biểu cảm . Nhờ thế mà thế giới đó đi
vào nhận thức của con người một cách tự nhiên, thú vị.
Khi sử dụng nhân hóa, sự uyển chuyển, mềm mại trong diễn đạt cũng sẽ được
nâng cao. Tả cảnh sông quê mùa xuân, nhà văn Kim Viên đã mang đến chất trữ tình
cho từng câu viết. Sông quê cũng im dìm trong giấc ngủ buổi sáng mùa xuân, để rồi
em bé Mây phải đến đánh thức: “Mây đến sát bờ sông. Chân em khẽ khàng giẫm
76
lên đám cỏ bên sông còn ướt sương đêm. Em thận trọng vén bức màn sương và cất
tiếng gọi: “Sông ơi, dậy đi! Dậy đi!”. Im lặng! Tiếng Mây gọi lọt thỏm xuống dòng
sông nghe xa vời như tiếng gọi từ đâu vọng lại. Nhưng rồi dòng sông cựa mình. Nó
uốn éo làm nũng với Mây khiến mặt nước gợn sóng lăn tăn” (Sông quê mùa xuân).
Dòng sông từ trạng thái tĩnh lặng đến xao động trong buổi sớm mai đã được tác giả
miêu tả thật sinh động. Nó cũng biết “cựa mình”, “uốn éo, làm nũng” với con
người. Dòng sông quê như một người bạn thân thiết của em bé, em khẽ khàng cất
tiếng gọi để đánh thức dòng sông dậy. Ý tưởng của tác giả về một em bé trò chuyện
với dòng sông quê và dòng sông đáp trả bằng cái cựa mình, ngái ngủ thật thú vị.
Bức tranh dòng sông một sáng mùa xuân dần trở nên sống động, thơ mộng qua mối
liên hệ thân thiết giữa người bạn nhỏ với dòng sông quê. Hay trong đoạn văn tả Cây
sồi già của Lép Tôn - Xtôi, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh “nó như con quái
vật già nua cau có khinh khỉnh đứng giữa đám bạch dương tươi cười” và sự nhân
hóa “với những cánh tay to xù xì không cân đối, với những ngón tay quều quào xòe
rộng”; cây sồi già đã thay đổi hẳn “đang say sưa ngây ngất, khẽ đung đưa trong
nắng chiều. Không còn thấy những ngón tay co quắp, những vết sẹo và vẻ ngờ vực,
buồn rầu trước kia” để tả sự thay đổi của cây sồi già theo thời gian, từ một cây sồi
với vỏ cây nứt nẻ đầy vết sẹo, sau một tháng đã thành cây sồi tỏa rộng vòm lá sum
suê xanh tốt thẫm màu.
Trong văn miêu tả, việc sử dụng biện pháp nhân hóa cũng góp phần thể hiện
được tình cảm, thái độ của người viết đối với sự vật được nhân hóa. Phải yêu quý
thế nào thì với “Vầng trăng quê em”, tác giả Phan Sĩ Châu mới tả một đêm trăng
tuyệt đẹp đến vậy bằng nghệ thuật nhân hóa. Ở đó, trăng tinh nghịch “lẩn trốn
trong các tán lá cây xanh rì của những cây đa cổ thụ đầu thôn”, trăng “óng ánh
trên hàm răng, trăng đậu trong đáy mắt”, trăng “ôm ấp mái tóc bạc của các cụ
già”. Vầng trăng dường như cũng như con người, biết suy nghĩ, biết bày tỏ cảm xúc
của mình. Đọc văn, người ta bỗng thấy vầng trăng trên trời cao thăm thẳm kia thật
gần gũi, thân thương.
Đọc các trang văn miêu tả có sử dụng phép nhân hóa, bạn đọc cũng được bồi
dưỡng vốn sống, tăng khả năng nhạy cảm, cảm xúc, nâng cao sức tưởng tượng để từ
đó cũng có thể viết được những dòng văn đầy biểu cảm. Chẳng hạn, tả cảnh trường
học mùa hè, một HS đã viết rất cảm xúc thế này: “Tiếng trống trường cuối cùng của
năm học đã kết thúc. Sân trường vắng lặng, chỉ còn bác trống trường lim dim ngủ và
những bông hoa phượng vĩ đang thao thức chờ đợi các bạn nhỏ quay lại trường”.
77
Một học sinh khác thì lại viết câu kết thúc giờ ra chơi như sau: “Đến giờ học rồi, vào
học thôi. Đó là tiếng gọi thân thuộc của chiếc trống của trường em đấy.” Vậy đó,
phép nhân hóa vừa có giá trị về nhận thức, vừa có giá trị biểu cảm, mang đến sự
sinh động, hấp dẫn cho trang viết. Nó tạo được chất mơ mộng, hồn nhiên, sống
động để thu hút đông đảo bạn đọc, nhất là những bạn đọc nhỏ tuổi. Vì thế mà văn
miêu tả rất hay dùng và dùng rất có kết quả các biện pháp tu từ nói trên. Với các
biện pháp tu từ này, con người và cảnh vật tìm thấy chỗ hòa đồng trong nhau, bởi
cảnh vật thì trở nên có hồn giống như con người, còn tâm hồn con người thì hòa tan
vào cảnh vật.
Để giúp HS vận dụng các từ ngữ, các biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa
trong viết văn miêu tả một cách linh hoạt, chủ động và có hiệu quả, GV cần xây
dựng hệ thống bài tập và trò chơi học tập để rèn luyện các kĩ năng trên cho các em
vì bài tập và trò chơi học tập là những phương tiện, công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc
phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả. Trong giai đoạn hiện nay, khi giáo dục
Việt Nam đang có nhiều đổi mới, người GV cần phải rèn luyện, bồi dưỡng để có
khả năng thiết kế các tư liệu dạy học có giá trị, chủ động với các hoạt động Tiếng
Việt ở nhà trường phổ thông, trong đó có tiểu học. Bài tập và trò chơi cần được thiết
kế trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản: (1) Đảm bảo tính sư phạm, tính khoa học,
tính hệ thống; (2) Đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với năng lực ngôn ngữ và tư duy
của học sinh; (3) Đảm bảo tính hấp dẫn, tính sáng tạo.
Nếu với bài tập, người thiết kế - giáo viên tiểu học cần chú ý đảm bảo cấu
trúc, trong đó có sự “mềm hoá” lệnh và “thi vị hoá” dữ kiện thì khi xây dựng các trò
chơi học tập, bên cạnh việc lựa chọn những hình thức hoạt động sinh động, kích
thích hứng thú học sinh còn cần phải chú ý lựa chọn ngữ liệu, chất liệu gắn với nội
dung tạo lập văn bản miêu tả nhưng vẫn đảm bảo tính chất của “học mà chơi”. Tập
làm văn lớp 4, như đã nói, có ba dạng bài văn miêu tả gắn với ba loại đối tượng có
những đặc thù riêng: đồ vật, cây cối, con vật.
Khi xây dựng và cấu trúc hệ thống bài tập, trò chơi, GV lớp 4 có thể dựa vào
các tiêu chí:
 Tiêu chí 1: Quá trình tạo lập, sản sinh văn bản miêu tả
Dựa vào tiêu chí này, hệ thống bài tập, trò chơi học tập có thể được sắp xếp,
kiến tạo theo hành trình từ tiền sản sinh ngôn bản (phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý...)
đến tạo lập văn bản (diễn ý thành lời, dựng đoạn, viết bài) và hiệu chỉnh sản phẩm
ngôn ngữ.
78
 Tiêu chí 2: Nhóm kĩ năng đặc trưng trong tạo lập văn bản miêu tả
Văn miêu tả có những đặc thù riêng, yêu cầu riêng về kĩ năng, trong đó trở
ngại của học sinh lớp 4 chính là khả năng quan sát, huy động các giác quan để tri
giác nhanh chóng và chính xác về đối tượng và kĩ năng sử dụng biện pháp tu từ (cấp
độ từ vựng nhiều hơn là cấp độ cú pháp) để bài văn có màu sắc và cũng có điểm
nhấn hơn.
 Tiêu chí 3: Các cấp độ/phương tiện ngôn ngữ
Trong luận văn này chúng tôi kết hợp cả ba tiêu chí trên để xây dựng bài tập,
trò chơi hỗ trợ phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS. Trong hai nhóm
biện pháp trên, chúng tôi đã xây dựng bài tập, trò chơi chủ yếu theo tiêu chí 1 và
tiêu chí 2. Ở nhóm biện pháp này, chúng tôi sẽ xây dựng bài tập, trò chơi chủ yếu
dựa vào tiêu chí 3. Bài tập, trò chơi học tập được kiến tạo trên cơ sở mục tiêu rèn
luyện kĩ năng dùng từ (cùng việc sử dụng các biện pháp tu từ từ vựng), đặt câu,
dựng đoạn và hoàn thiện bài. Gắn với mỗi cấp độ/phương tiện ngôn ngữ, tư liệu dạy
học đề xuất sẽ tập trung vào giải quyết những bài toán mà năng lực tạo lập văn bản
miêu tả đặt ra, chẳng hạn như ở nhóm bài tập sử dụng từ ngữ, người thiết kế cần xác
định “điểm rơi” ở các lớp từ có giá trị gợi hình, biểu cảm (từ láy, từ tượng hình, từ
tượng thanh, từ đồng nghĩa, trái nghĩa...).
 Bài tập sử dụng từ ngữ, biện pháp tu từ
Dạng bài tập này nhằm rèn luyện khả năng sử dụng từ ngữ, đặc biệt là chất
liệu ngôn từ có giá trị gợi tả, tạo hình, biểu đạt cảm xúc như: từ láy, từ mô phỏng
âm thanh, hình dáng, các từ có nghĩa tương đồng,... Thông qua việc thực hành bài
tập, HS sẽ phát triển khả năng nhận diện, lựa chọn từ ngữ, xác định được các biện
pháp tu từ nhằm tạo nên tính hấp dẫn cho câu văn, bài văn miêu tả. Về hình thức,
bài tập có thể được cấu trúc thành nhiều dạng khác nhau như: bài tập trắc nghiệm
lựa chọn từ ngữ; bài tập điền từ; bài tập tìm kiếm các phương tiện biểu đạt giàu hình
ảnh cho câu...
Bài tập 1: Chọn từ láy thích hợp trong ngoặc đơn để hoàn thành các câu
trong đoạn văn sau:
Những chiếc lá mít (xanh xanh, xanh xám, xanh xao) xoè bàn tay đón tia
nắng mặt trời. Cành mít tuy vẫn còn (nhỏ nhoi, khẳng khiu, gầy guộc) nhưng đã ủ
đầy nhựa sống, chẳng mấy lúc sẽ vươn lên cao hơn, mạnh hơn giữa khu vườn. Thân
cây (trơn tru, sần sùi, xơ xác), thô ráp qua bao ngày nắng, ngày mưa. Lớp áo nâu
79
quanh thân, quanh cành cứ đậm dần, (nặng nề, cứng cáp, khô khốc) dần như chính
niềm tự hào cứ lớn dần trong cây mít thủ lĩnh của mảnh vườn nhà bé.
Bài tập 2: Chọn từ ngữ thích hợp để miêu tả từng người bạn ngộ nghĩnh
trong tranh:
(nhanh nhẹn, hiền lành, hòn tơ nhỏ, tròn xoe, trong veo, nhanh thoăn thoắt,
nhỏ xíu, xinh xinh, mượt mà, cong cong, vàng óng, vàng mượt, hòn bi ve, khéo léo,
ngơ ngác, nũng nịu, que tăm)
Bài tập 3: Em hãy tìm hình ảnh so sánh để hoàn thành các câu sau:
a) Những chiếc lá bàng mới bung nở trên cành trông như ................................
b) Sóc con thoăn thoắt trên cành chẳng khác nào một .......................................
c) Gà tơ có đôi chân xinh, cái mỏ chíp chiu và đôi mắt như .............................
Bài tập 4: Chọn từ thích hợp cho sẵn để điền vào chỗ chấm:
Cái đầu to ..........bằng nắm tay người lớn, được điểm bởi cái mũi .......... với
hai cái lỗ tai .......... màu hồng phấn. Bộ lông .........., cái đuôi ...........Buổi sáng, khi
nắng vàng trải khắp sân, nó nằm duỗi dài bốn chân, mắt .......... trông thật đáng yêu.
(Các từ cần điền: thính nhạy, tròn tròn, lim dim, duyên dáng, mượt mà, ươn ướt)
 Bài tập viết câu
Xuất phát từ những khảo nghiệm thực tiễn, có thể thấy trong tạo lập văn
miêu tả, học sinh gặp khó khăn ngay với việc viết đúng câu (đúng ngữ pháp, chuyển
tải được thông báo trọn vẹn - có ý nghĩa, đúng phong cách - văn nghệ thuật). Các
bài tập một mặt rèn luyện kĩ năng viết đúng, mặt khác phát triển ở mức độ viết câu
văn hay, có hình ảnh, có khả năng gửi gắm các thông điệp thẩm mĩ bằng cấu trúc
linh hoạt hay bằng cách sắp xếp cấu trúc, trật tự từ...
80
Bài tập 1: Nối từ ngữ ở cột A với từ ngữ ở cột B để tạo thành các câu hoàn
chỉnh tả Ve Sầu:
A B
Hè sang, tiếng hát Ve
Sầu
được dệt nên từ hàng ngàn tiếng ve ngân.
Giọng chú bất chợt cất lên, đánh thức vòm phượng đang ngủ yên.
Bản giao hưởng mùa hè vừa dịu êm lại vừa sôi nổi, vừa tươi mới lại vừa lắng
sâu.
Bài tập 2: Viết 3 câu có sử dụng biện pháp so sánh để tả:
a) Cây phượng vĩ đang đơm hoa đỏ rực
b) Cây phượng vĩ đang ra lá xanh non
c) Cây phương vĩ đang mùa rụng lá
Bài tập 3: Một bạn viết các câu văn tả các bộ phận của một chú chó con dưới
đây, có một số câu dùng từ miêu tả chưa đúng. Em hãy chỉ ra các câu đó và sửa lại
những từ cho phù hợp.
“Mẹ em mới xin về một chú cún con, em đặt tên cho nó là Bảo Bảo .(1)
Đầu
chú chó nhẵn như quả đu đủ (2)
. Thân chú to bằng chiêc gầu múc nước(3).
Bộ lông
vàng mịn thật đẹp (4)
Bốn chân của chú khẳng khiu (5)
. Mỗi khi có khách lạ, chú giơ
hai chân trước lên và kêu ăng ẳng”.(6)
Trả lời: (Đáp án mong đợi)
Câu có từ sai Từ dùng sai Sửa lại
(3) chiếc gầu múc nước bắp chân người lớn
(5) khẳng khiu nhỏ nhắn
(6) ăng ẳng gâu…gâu
 Bài tập dựng đoạn
Đoạn văn gồm nhiều câu được liên kết chặt chẽ cả về nội dung và hình thức
(ý và lời). Khi viết đoạn cần đảm bảo được sự liên kết chặt chẽ trên cả hai phương
diện đó. Ngoài ra, trong tổ chức dạy học tạo lập văn bản miêu tả, giáo viên còn cần
phải lưu ý về các dạng cấu trúc đoạn (quy nạp, diễn dịch, tổng hợp hay trực tiếp -
gián tiếp trong đoạn mở bài, mở rộng - không mở rộng trong đoạn kết bài...). Với
dạng bài tập dựng đoạn, có thể thiết kế dựa vào mô hình khung câu, khung đoạn hay
81
bắt đầu “đặt hàng” cho người học bằng những gợi ý có khả năng kích thích hứng
thú nhằm giúp học sinh có nhận thức đúng về cách tạo lập đoạn, sắp xếp ý hay tìm
những lối biểu đạt khác nhau cho cùng một ý.
Bài tập 1: Tre xanh, xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh...
Viết một đoạn văn ngắn (4 - 6 câu) tả sắc xanh bát ngát của cây tre.
Bài tập 2: Quanh em, mọi vật đều làm việc. Cái đồng hồ chăm chỉ, cẩn thận
báo giờ; chiếc cặp, chiếc bút, quyển vở học bài cùng bé; cái đèn trò chuyện khi mẹ
khâu áo, khi bố đọc báo bằng ánh sáng lấp lánh;...
Bằng cách nói nhân hoá, hãy viết một đoạn văn nói về công dụng của một đồ
vật quanh em.
Bài tập 3: Hoàn thành đoạn văn tả hoạt động của con mèo mun:
Mèo mun rất tinh nghịch. Chú thường ......(1)...... Mèo mun còn lăn tròn với
những quả bóng đủ sắc màu: ......(2)...... Cũng có khi Mun ......(3)...... Thấy bé Mơ,
cậu mèo bé lập tức ......(4)......
Bài tập 4: Sắp xếp các câu văn sau để tạo thành một đoạn văn miêu tả quả
thanh trà.
1. Quả tròn nhẵn như cái đầu trọc của chú tiểu, hơi hóp một chút về phía
cuốn, da xanh bóng bắt đầu ửng vàng.
2. Tháng bảy, những quả thanh trà Nguyệt Biều xứ Huế lủng lẳng trên cành
như mời gọi.
3. Vị thanh trà ngọt dịu dàng như cô nàng xứ Huế,càng ăn càng say như cứ
bắt miệng để ăn mãi và cũng để mời gọi du khách thập phương đến đây thưởng thức
vị quả thanh tao này.
4. Mẹ thường cắt lớp vỏ ngoài để tách lấy phần ruột bên trong. Những múi
thanh trà căng chắc hứa hẹn. Bóc lớp vỏ bọc của từng múi là thấy ngay trăm ngàn
tép thanh trà được nén chặt ngoan ngoãn nằm sát nhau, trắng ngà, bóng mẩy và
mọng nước.
Trả lời: (Đáp án mong đợi: Sắp xếp theo trình tự 2 - 1 - 4 - 3)
Ngoài ra, GV có thể xây dựng một số kiểu đề bài sáng tạo để kích thích sự tò
mò và hứng thú khám phá, chiếm lĩnh tri thức của học sinh (Xem phụ lục 5).
Mỗi nhóm bài tập, mỗi tiểu dạng bài tập đều được tính toán thiết kế dựa vào
tính hướng đích cụ thể, nhằm giải quyết những mâu thuẫn nhất định trong quá trình
82
hình thành tư tưởng (ý), tìm kiếm ngôn từ để biểu đạt. Chẳng hạn, bài tập 2 trong
phần bài tập dựng đoạn nêu trên đem đến những gợi ý về “mọi vật quanh em” qua
cái nhìn mang màu sắc nhân hoá để học sinh nắm được cách thức viết đoạn văn với
biện pháp nghệ thuật này (dùng những từ chỉ đặc điểm, tính cách con người [chăm
chỉ, cẩn thận]; chỉ những hoạt động tương tác với con người [học bài, trò chuyện]).
Trong khi đó, cấu trúc bài tập dưới dạng khung câu, khung đoạn như bài tập 3,4 lại
đặt người học vào những tình huống cụ thể, nói cách khác sẽ quy định cách triển
khai ý trong đoạn để đảm bảo tính chặt chẽ, sự liên kết cả hình thức lẫn nội dung.
Bên cạnh các cách cấu trúc bài tập nêu trên, chúng tôi cũng giới thiệu một số
trò chơi học tập nhằm góp phần tạo nên những không gian học tập thoải mái, hứng
thú trong tạo lập văn bản miêu tả ở lớp 4. Trò chơi học tập luôn là công cụ, phương
tiện dạy học gợi nhiều hứng khởi. Nếu GV đề xuất các trò chơi học tập một cách
thường xuyên, khoa học trong quá trình dạy học thì chất lượng tạo lập văn bản miêu
tả chắc chắn sẽ được cải thiện so với bối cảnh hiện nay. Trò chơi cần phải có tính
mới về hình thức, những biến chuyển linh hoạt trong ngữ liệu, phương tiện hỗ trợ...
 Trò chơi “Hỏi nhanh, đáp gọn” (hỗ trợ phát triển NL sử dụng từ ngữ)
Cách chơi: Các đội chơi (4 đội) lần lượt mở ô cửa bí mật, mỗi ô cửa sẽ chứa
hình ảnh một con vật. GV đặt nhanh câu hỏi, từng đội chơi nối tiếp trả lời bằng 1 từ
(hoặc tổ hợp từ) thoả mãn yêu cầu.
M: Con gà trống
H: Hình dáng chú gà trống thế nào?
TL (đáp án mong đợi): oai vệ, mạnh mẽ, chắc nịch, to lớn,...
 Trò chơi “Hãy tiếp lời tôi” (hỗ trợ phát triển năng lực cấu trúc câu)
Cách chơi: GV nêu một phần của câu gắn với một đồ vật (chiếu trên màn
hình, khuyến khích tăng cường sử dụng hình ảnh động ngộ nghĩnh), chỉ định học
sinh bất kì tiếp lời để nối tiếp hoàn thành câu văn miêu tả. Việc hoàn thành câu có
thể gắn với yêu cầu sử dụng từ láy hoặc hình ảnh so sánh, nhân hoá...
M: Chiếc bút chì (dùng hình ảnh so sánh hoặc nhân hoá)
GV: Thân bút có màu xanh...  HS (đáp án mong đợi): như sắc màu của bầu
trời mùa thu. / như màu lá mạ. / tựa mặt nước hồ mùa xuân.
GV: Ngòi bút nhỏ xinh...  HS (đáp án mong đợi): đang chờ đợi bàn tay
ngoan của bé. / trò chuyện với trang giấy trắng thơm bằng những nét vẽ đáng yêu...
83
Trò chơi “Chọn ô số” để viết câu văn tương ứng với hình vẽ trên ô số đó
(hỗ trợ năng lực viết câu)
1 2
3
4 5 5
7 8 9
Cách chơi: HS chọn bất kì một ô nào đó, rồi đặt một câu văn tương ứng cho
sự vật có trên ở đó (ưu tiên những HS xung phong).
 Trò chơi “Thi đố bạn” (hỗ trợ năng lực viết đoạn văn)
Đoạn văn tổ 1
Em yêu quý các bàn học này lắm bởi ngày nào nó cũng cùng em học tập miệt
mài. Áp má lên mặt bàn, em nghe mát rượi như có ngọn gió nào thổi từ khu rừng xa
xưa nơi cây gỗ này sinh sống. Em tưởng như nghe được lời gió thì thầm nhắc nhở:
“Cô chủ nhỏ ơi, cố gắng lên! Chúng tôi tin tưởng nhiều ở cô đấy nhé!”
Đoạn văn tổ 2
Hoa phượng đẹp giản dị mà tươi tắn. Hoa đậu thành chùm. Lúc đầu là những
nụ hoa mập ú như những viên kẹo bột. Những cành hoa chen chúc ôm sát nhau đã
chòi ra đầu nụ. Bấy giờ nụ hoa khẽ tách làm năm múi đều nhau nở ra cong xuống
thành đài hoa. Rồi thì hoa đàng hoàng khoe từng cánh một. Mỗi cánh hoa có hình
giống như chiếc vá múc canh tí xíu, cán dài và nhỏ. Bốn cánh màu đỏ, mỏng và
mịn, cánh thứ năm lại dày hơn và điểm nhiều chấm đỏ trên mặt cánh hoa màu vàng
kem. Mấy sợi nhị hoa cong cong như lưỡi câu, có túi phấn bé tẹo trên đầu điểm
thêm cho hoa phượng một nét duyên đáo để. Hoa rụng, đem ép vào vở mấy cánh
hoa và nhị xếp thành hình con bướm rất đẹp.
84
Cách chơi: Lớp chia thành 2 nhóm, mỗi nhóm chuẩn bị một đoạn văn miêu tả
(cây cối, con vật hay đồ vật), trong đó có sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện
pháp tu từ. Tổ 1 đọc đoạn văn của tổ mình lên (viết sẵn trong bảng phụ để treo lên
bảng lớp) yêu cầu tổ 2 nêu các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ có trong
đoạn văn, nêu tác dụng của nó. Tổ 2 làm tương tự ngược lại với tổ 1. Đội nào nói
đúng, nhanh sẽ thắng cuộc.
Theo quan điểm dạy học tạo lập văn bản miêu tả, để giúp HS nắm rõ cách
thức thực hiện và phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp
tu từ, chúng tôi đã đề xuất xây dựng hệ thống bài tập và trò chơi học tập. Những
công cụ dạy học này một mặt góp phần giải quyết những khó khăn của HS trong
quá trình quan sát, sắp xếp ý, lựa chọn từ ngữ biểu đạt,... để biểu đạt tư tưởng, cảm
xúc khi viết, duy trì cảm xúc chủ đạo của bài văn; mặt khác tạo hứng thú cho một
hoạt động mang tính sáng tạo. Một số bài tập và trò chơi học tập nêu trên tuy chưa
phản ảnh hết được những hướng thiết kế nhằm thoả mãn yêu cầu thực tiễn nhưng
cũng phần nào khẳng định niềm tin, sự kì vọng về sự đầu tư đúng mức cho hoạt
động dạy học, là nỗ lực về việc bồi dưỡng, rèn luyện tay nghề của người giáo viên
tiểu học trong giai đoạn mới. Việc dạy học các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp
tu từ có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi văn miêu tả không những đảm bảo tính
thông báo thông tin mà còn mang tính nghệ thuật, thẩm mỹ và biểu đạt tình cảm.
Khi HS học những kiến thức về sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong
văn miêu tả, các em sẽ nhận thấy cái hay, cái đẹp chứa đựng trong từng cách nhân
hóa, so sánh một sự vật. Từ đó, các em sẽ vận dụng vào trong viết văn để tạo lập
nên những văn bản miêu tả đầy hấp dẫn, gợi cảm xúc
85
Tiểu kết chƣơng 2
Trong chương 2, chúng tôi đã xác định ba nguyên tắc đề xuất biện pháp phát
triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4. Theo đó, có ba nhóm biện pháp
GV cần vận dụng để dạy văn miêu tả nhằm phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả
cho HS lớp 4:
1. Phát triển kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong tạo lập văn bản
2. Phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu tả
3. Phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ
trong tạo lập văn bản miêu tả
Với hai nhóm biện pháp đầu, đề tài đã đưa ra những ví dụ tương ứng và vận
dụng các biện pháp đó vào trong những tiết dạy cụ thể để rèn luyện kĩ năng quan
sát, tìm ý và lập dàn ý, còn với nhóm biện pháp thứ ba, chúng tôi đã đi thiết kế các
bài tập về tìm từ ngữ, ngữ pháp, viết câu, dựng đoạn và đặc biệt là tổ chức các trò
chơi học tập nhằm hỗ trợ phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4.
Những đề xuất này của chúng tôi sẽ được hiện thực hóa và kiểm chứng tính
hiệu quả và tính khả thi qua việc thiết kế một số giáo án và hoạt động dạy thực
nghiệm sẽ được trình bày cụ thể ở chương 3.
86
Chƣơng 3
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Mục đích thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành dạy học thực nghiệm với mục đích kiểm tra, đánh giá
tính khả thi của các biện pháp nhằm phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS
lớp 4. Từ đó chứng minh cho những giả thuyết khoa học mà luận văn đã đề xuất.
3.2. Đối tƣợng và phạm vi thực nghiệm
3.2.1. Đối tượng thực nghiệm
Đối tượng là học sinh khối lớp 4 ở hai trường mà chúng tôi đã lựa chọn. Mỗi
trường chọn 2 lớp: Lớp thực nghiệm (LTN) và Lớp đối chứng (LĐC).
Cả hai lớp này cần phải có sự cân bằng về mọi phương diện. Chỉ khác là Lớp
thực nghiệm được dạy theo giáo án mà chúng tôi đã thiết kế còn Lớp đối chứng thì
được dạy theo giáo án bình thường.
3.2.2. Phạm vi thực nghiệm
Các trường được chọn thực nghiệm là trường Tiểu học Số 2 Kim Long -
thành phố Huế và trường Tiểu học Phú Cát - thành phố Huế.
Bảng 3.1. Các nhóm thực nghiệm và đối chứng
Trƣờng
Nhóm thực nghiệm Nhóm đối chứng
Lớp Số HS Lớp Số HS
Tiểu học Số 2 Kim Long 43 29 41 28
Tiểu học Phú Cát 41 33 42 31
3.3. Phƣơng pháp và nguyên tắc thực nghiệm
3.3.1. Phương pháp thực nghiệm
Luận văn tiến hành thực nghiệm dạy học thăm dò bởi giáo án thực nghiệm
được thiết kế theo hướng lồng ghép các biện pháp phát triển NL tạo lập văn bản
miêu tả đã đề xuất trong luận văn thông qua các tiết luyện tập thực hành trong
chương trình văn miêu tả lớp 4, giáo án này được tiến hành song song với các giáo
án bình thường, không xen lồng tất cả các biện phát phát triển NL tạo lập văn bản
miêu tả trong cùng một thời gian nhất định mà tùy vào nội dung của mỗi bài để lựa
chọn một trong các biện pháp trên cho phù hợp.
87
3.3.2. Nguyên tắc thực nghiệm
Đảm bảo chất lượng kiến thức một cách khoa học và khách quan. Để tiến
hành thực nghiệm đạt hiệu quả, cần phải lựa chọn được lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng có sự đồng đều về số lượng và năng lực của HS.
3.4. Nội dung thực nghiệm
3.4.1. Thời gian thực nghiệm
Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 5 năm 2017.
3.4.2.Giáo án thực nghiệm
Tổ chức dạy học một số bài trong chương trình văn miêu tả lớp 4 để ứng
dụng một số biện pháp mà chúng tôi đã đề xuất trong luận văn nhằm phát triển năng
lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4.
Những giáo án được soạn tương ứng với từng tiết dạy và đều do GV các
trường soạn theo định hướng của đề tài. Tuy nhiên, khi thiết kế và biên soạn giáo án
thực nghiệm thì người soạn cũng cần tính đến khả năng vận dụng sáng tạo của GV
trong tiến trình tiết dạy, đồng thời cũng chuẩn bị tâm thế cho những tình huống sư
phạm bất ngờ cũng như việc biên soạn phải phù hợp với khả năng tiếp thu và trình độ
nhận thức của HS từng trường, từng lớp cụ thể. Sau khi thiết kế xong giáo án, chúng
tôi tổ chức dạy thử nhằm phát hiện những điểm chưa hợp lí để điều chỉnh và bổ sung
cho hoàn thiện trước khi chính thức tiến hành dạy trên lớp thực nghiệm đã chọn.
Cũng cần phải lưu ý rằng khi soạn giáo án thực nghiệm, người biên soạn phải chỉ ra
được những nét mới trong giáo án thực nghiệm so với giáo án không thực nghiệm.
Giáo án thực nghiệm đó phải được thiết kế xen lồng các biện pháp rèn luyện nhằm
phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 mà luận văn đã đề cập.
Kiểu bài văn miêu tả cho HS được học ở lớp 4 với ba dạng thức (đồ vật, con
vật, cây cối). Mỗi dạng thức như thế, chúng tôi chọn một bài dạy thực nghiệm để
chứng minh cho những giả thuyết mà luận văn đã đề cập. Theo đó mà có 3 tiết học
đã được tiến hành dạy thực nghiệm.
Bảng 3.2. Các bài dạy thực nghiệm
Tuần Bài học
Tuần 15 Tập làm văn: Quan sát đồ vật (Tiết 2, SGK TV tập 1 trang 153)
Tuần 24
Tập làm văn: Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối
(Tiết 1, SGK TV tập 2 trang 60)
Tuần 32
Tập làm văn: Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật
(Tiết 1, SGK TV tập 2 trang 139)
88
3.4.3. Tiến hành thực nghiệm
Trong cùng một tiết dạy của một bài học đó, ở các lớp thực nghiệm chúng tôi
tiến hành dạy học thực nghiệm theo các giáo án đã thiết kế, còn ở các lớp đối chứng
GV tiến hành dạy học bình thường. Ở đây chúng tôi xin trích dẫn hai giáo án thực
nghiệm (Xem phụ lục 6).
3.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả thực nghiệm
3.5.1. Hình thức kiểm tra
Sau khi tiến hành dạy học thực nghiệm chúng tôi đánh giá bằng cách ra các đề
kiểm tra cho HS thực nghiệm trên lớp, cùng với đó là tiến hành trắc nghiệm khách
quan để đánh giá mức độ hứng thú của HS khi được tổ chức cách thức rèn luyện và
phát triển các kĩ năng trong tạo lập văn bản miêu tả qua các bài luyện tập thực hành
trong chương trình văn miêu tả lớp 4.
Đề kiểm tra tự luận yêu cầu HS viết một bài văn miêu tả (HS được chọn 1
trong 2 đề bài) (Xem phụ lục 7). Phần trắc nghiệm là 1 câu hỏi trắc nghiệm nhằm
đánh giá sự hứng thú của học sinh (Xem phụ lục 8).
3.5.2. Tiêu chí đánh giá
- Bài văn đạt điểm giỏi là những bài văn phải có bố cục rõ ràng thể hiện dàn ý
gồm ba phần (mở bài, thân bài, kết bài); phần thân bài cần gồm nhiều đoạn ý; mỗi
đoạn ý thể hiện một chi tiết về đối tượng miêu tả, trong đoạn gồm có những thông
tin cốt lõi, tiêu biểu về đối tượng được kết nối bằng sự mô tả, phân tích, suy luận
hoặc bộc lộ cảm xúc của cá nhân. Kĩ năng viết chữ và trình bày bài khoa học, có kĩ
năng chính tả; có kĩ năng sử dụng từ, đặt câu phù hợp và đặc biệt là kĩ năng sử dụng
một cách có hiệu quả các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong khi viết bài
văn miêu tả mang đậm dấu ấn cá nhân.
- Bài văn đạt điểm khá là bài văn có bố cục rõ ràng gồm ba phần (mở bài, thân
bài, kết bài); kĩ năng viết chữ và trình bày bài văn khá sạch sẽ; không mắc lỗi chính
tả, biết dùng từ và đặt câu; có sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ
trong viết văn nhưng hiệu quả mang lại là bài viết chưa sinh động và gợi tả lắm.
- Bài văn đạt điểm trung bình là những bài văn có bố cục gồm ba phần (mở
bài, thân bài, kết bài) nhưng cách diễn đạt lủng củng; còn mắc lỗi chính tả, kĩ năng
dùng từ và đặt câu còn kém; chưa biết sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện
pháp tu từ trong viết văn hoặc có sử dụng nhưng chưa phù hợp.
89
- Bài văn đạt điểm dưới trung bình là những bài văn có bố cục không rõ ràng
(không thể hiện đầy đủ ba phần là mở bài, thân bài, kết bài); không miêu tả đúng
đối tượng mà đề bài yêu cầu (lạc đề); còn mắc nhiều lỗi chính tả, kĩ năng dùng từ và
đặt câu sai, diễn đạt bài văn lủng củng và chưa biết sử dụng các phương tiện ngôn
ngữ và biện pháp tu từ trong khi viết bài văn miêu tả.
3.5.3.Kết quả thực nghiệm sư phạm
3.5.3.1. Kết quả bài làm văn miêu tả của HS
Bảng 3.3. Kết quả làm bài văn miêu tả của HS trƣờng Tiểu học Số 2 Kim Long
Lớp
Hình
thức
Số
HS
Kết quả
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
43 Thực
nghiệm
29 8 27,6 14 48,3 6 20,7 1 3,5
41 Đối
chứng
28 5 17,9 9 32,1 11 39,3 3 10,7
Bảng 3.4. Kết quả làm bài văn miêu tả của HS trƣờng Tiểu học Phú Cát
Lớp
Đối
tƣợng
Số
HS
Kết quả
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
41 Thực
nghiệm
33 9 27,3 16 48,5 7 21,2 1 3
42 Đối
chứng
31 5 16,1 9 29 15 48,4 2 6,5
Bảng 3.5. Kết quả tổng hợp bài làm văn miêu tả của HS
Đối
tƣợng
TSHS
Kết quả
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
Thực
nghiệm
62 17 27,4 30 48,4 13 21 2 3,2
Đối
chứng
59 10 16,9 18 30,5 26 44,1 5 8,5
90
Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh kết quả lớp đối chứng và lớp thực nghiệm
(theo Số lƣợng)
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ so sánh kết quả lớp đối chứng và lớp thực nghiệm
(theo Tỉ lệ)
Qua biểu đồ so sánh kết bài văn miêu tả của HS lớp giữa LTN và LĐC,
chúng tôi nhận thấy rằng: tỉ lệ HS đạt điểm giỏi, khá ở LTN nhiều hơn (G: 27,4%,
K: 48,4%) so với LĐC (G: 16,9%, K: 30,5%). Ngược lại, ở LTN HS có điểm kém
(3,2%) thấp hơn nhiều so với LĐC (8,5%). Biểu đồ cho thấy rõ sự chênh lệch về hai
mức độ bài văn đạt điểm giỏi và yếu giữa hai lớp thực nghiệm và đối chứng. Ở các
LĐC, đa số kết quả bài làm của các em nằm ở mức độ trung bình, khá chiếm tỉ lệ
khá cao (TB: 41,1%, K: 30,5%). Điểm giỏi khoảng cách là 10,5%, điểm yếu khoảng
cách là 5,3%), còn tỉ lệ đạt điểm giỏi chỉ 16,9%, thấp hơn lớp đối chứng đến 10,5%.
91
Ở LTN thì đa số bài làm các em nằm ở khung Giỏi, Khá (chiếm 75,8%), còn một số
bài đạt mức Trung Bình, Yếu (24,2%).
Căn cứ vào kết quả điểm số bài làm của HS giữa hai lớp nhóm thực nghiệm
và lớp đối chứng, chúng tôi rút ra một số nguyên nhân như sau:
- Ở lớp đối chứng, các em viết bài văn bố cục chưa rõ ràng, chưa làm nổi bật
được đối tượng miêu tả, viết câu không đủ thành phần, sắp xếp ý lủng củng, còn
lúng túng trong cách diễn đạt, đặc biệt chưa sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và
biện pháp tu từ trong viết văn miêu tả, có một số rất ít học sinh có sử dụng nhưng
chưa mang lại hiệu quả, khiến cho bài văn trở nên khô khan, các ý rời rạc, thiếu sự
liên kết làm cho tổng thể bài văn kém hay, làm mất đi tính sinh động, mượt mà vốn
có của bài văn miêu tả.
- Ở các lớp thực nghiệm, hầu hết các bài viết của các em đều có bố cục rõ
ràng, làm bật lên các đối tượng miêu tả. Đặc biệt rất nhiều HS đã sử dụng và sử
dụng rất thành công các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong viết văn
miêu tả mang lại hiệu quả bài viết sinh động, hấp dẫn. Với sự giúp đỡ hướng dẫn
HS cách vận dụng tất cả các giác quan trong quan sát, tri giác đối tượng miêu tả,
cách thức tổ chức lập dàn ý rồi cả vận dụng các phương tiện ngôn ngữ và các biện
pháp tu từ trong viết câu, dựng đoạn, cộng với sự tư duy nhạy bén trong suy nghĩ,
sự liên tưởng, tưởng tượng độc đáo và cách cảm cái hay cái đẹp trong văn chương
..., nhờ đó mà chúng tôi thấy rất nhiều bài viết của HS đã thể hiện cái nhìn rất riêng
của các em, các em đã tái hiện lại các đối tượng miêu tả trước mắt chúng tôi một
cách đầy lôi cuốn, hấp dẫn hơn và với sự liên tưởng, tưởng tượng đầy thi vị đó
khiến cho các sự vật dù nhỏ nhất nhưng qua ngòi bút của các em thì thú vị biết bao.
Đặc biệt ngôn ngữ HS sử dụng cũng giàu hình ảnh và cảm xúc hơn, kĩ năng viết câu
dựng đoạn thành thạo hơn, kĩ năng hành văn được nâng cao hơn trước. Nhờ thành
thạo các kĩ năng trên nên các em đã tạo lập nên những văn bản miêu tả hay, hấp
dẫn. Chính vì thế mà HS ở lớp thực nghiệm đạt điểm số cao hơn.
Sau đây chúng tôi xin trích dẫn một số bài văn hay của HS mà chúng tôi thu
nhận được sau khi kiểm tra thực nghiệm:
92
(Bài làm của em Nguyễn Thị Lan Anh lớp 4/1 Trường Tiểu học Phú Cát)
93
(Bài làm của em Trần Hữu Duy Hoàng lớp 4/3 Trường Tiểu học Số 2 Kim Long)
94
3.5.3.2. Kết quả trắc nghiệm về mức độ hứng thú học tập của HS
Bảng 3.6. Bảng thống kê mức độ hứng thú học tập của HS
Trƣờng Lớp
Hình
thức
Số
HS
Mức độ hứng thú học tập
Rất
hứng thú
Tƣơng
đối hứng
thú
Bình
thƣờng
Không
hứng thú
SL % SL % SL % SL %
Tiểu học Số 2
Kim Long
43 TN 29 15 51,7 11 37,9 2 6,9 1 3,4
41 ĐC 28 8 28,6 10 35,7 7 25 3 10,7
Tiếu học
Phú Cát
41 TN 33 17 51,5 12 36,4 2 6,1 2 6,1
42 ĐC 31 7 22,6 9 29 11 35,5 4 12,9
Tống hợp
TN 62 32 51,6 23 37,1 4 6,5 3 4,8
ĐC 59 15 25,4 19 32,2 18 30,5 7 11,9
Kết quả thống kê trên cho thấy, đa số HS cảm thấy rất hứng thú và hứng thú với
các tiết dạy thực nghiệm và chiếm tỉ lệ tương đối cao (chiếm đến 51,6%). Nhờ nắm
vững các kĩ năng quan sát, tìm ý và lập dàn ý rồi vận dụng các phương tiện ngôn ngữ
và biện pháp tu từ để tạo lập văn bản miêu tả nên HS không còn thấy băn khoăn, bối rối
khi viết bài văn miêu tả nữa mà ngược lại HS bắt đầu hứng thú khi học tập làm văn.
Tuy nhiên vẫn còn một số ít HS không hứng thú, chiếm tỉ lệ thấp (4,8%). Trong khi đó,
ở các lớp đối chứng, HS không cảm thấy hứng thú và cho rằng tiết dạy bình thường có
số lượng tương đối lớn (7HS), chiếm tới ( 11,9%), còn tỉ lệ HS rất hứng thú và tương
đối hứng thú cũng có nhưng chưa nhiều ( rất hứng thú là 15 HS chiếm 25,4%, tương
đối hứng thú là 19 HS chiếm 32,2%) và vẫn còn thấp hơn so với lớp dạy học thực
nghiệm ( rất hứng thú và hứng thú là 55HS, chiếm 88,7%).
Cùng với đó chính là trong quá trình soạn thảo giáo án thực nghiệm, các GV
đã lồng ghép nhiều bài tập củng cố rồi nâng cao hay, hấp dẫn khiến HS rất tò mò,
thích thú, đặc biệt là GV còn đưa ra các trò chơi tìm hiểu các kiến thức về thế giới
xung quanh liên quan đến nội dung bài học làm cho HS rất phấn khởi, tích cực hơn,
tiết học sôi nổi hẳn lên không còn vẻ mệt mỏi, buồn ngủ như khi học các tiết làm
văn trước. Đồng thời trong quá trình lên lớp thực hiện dạy thực nghiệm, GV cũng
lựa chọn và sử dụng phối hợp nhiều phương pháp và hình thức dạy học tích cực hỗ
95
trợ dạy học tạo lập văn miêu tả. Nhờ vậy mà bài làm văn miêu tả của HS được cải
thiện hơn, chất lượng bài viết và điểm số cao hơn trước, HS đam mê học tập làm
văn hơn và nhận thấy được cuộc sống xung quanh thật muôn màu, muôn vẻ và tươi
đẹp biết bao.
Tiểu kết chƣơng 3
Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệp sư phạm một cách khoa học, tự nhiên và
khách quan. Kết quả thực nghiệm cho thấy có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực
giữa LĐC và LTN. Học sinh hứng thú, chủ động và sáng tạo trong học tập, còn GV
thì tổ chức giờ học một cách nhẹ nhàng hơn; vì thế mà giờ học trở nên sinh động,
lôi cuốn và hiệu quả. GV tham gia thực nghiệm cũng đánh giá khá cao các biện
pháp phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả mà luận văn đã đề xuất.
Kết quả thực nghiệm đã chứng minh các biện pháp đề xuất trong luận văn
nhằm phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 là có tính khả thi và
bước đầu cho thấy tính hiệu quả.
96
KẾT LUẬN
Trong các môn học ở nhà trường tiểu học, môn Tiếng Việt là môn học giúp
học sinh phát triển khả năng ngôn ngữ nhiều nhất. Ngôn ngữ là công cụ vàng, vạn
năng , có vai trò đặc biệt quan trọng trong các hoạt động học tập và giao tiếp đời
sống. Tuy nhiên, học sinh trong các nhà trường hiện nay chỉ mới được chú ý dạy
nói và viết đúng chứ chưa được chú trọng dạy nói và viết hay, cuốn hút mọi người.
Trong khi đó phân môn Tập làm văn mà cụ thể là thể loại văn miêu tả rất cần thiết
trong cuộc sống hằng ngày của mỗi chúng ta, nhờ văn miêu tả các em thể hiện được
nét vẽ hoặc viết câu văn chân tướng sự việc một cách độc đáo. Không những thế
các em còn được thể hiện cái nhìn nhận, sự rung động của bản thân trước các sự vật
hiện tượng xung quanh và các em càng được thoả mãn khả năng sáng tạo, “tô điểm”
cho bức tranh muôn màu của cuộc sống bằng chất liệu ngôn từ... Nhưng thực sự
chúng ta đã bỏ lỡ một miền đất ngôn ngữ màu mỡ cho sự phát triển tư duy và năng
lực liên tưởng sáng tạo của trẻ. Do đó để làm được điều này thì cần có sự hỗ trợ của
giáo viên. Thực tế dạy học tập làm văn miêu tả cho HS hiện nay cho thấy chất
lượng bài viết của HS chưa cao, ít có bài văn mang đậm dấu ấn cá nhân, đa số đều
dựa vào sự bắt chước câu, từ của giáo viên hay là sự sao chép văn mẫu nên bài viết
của học sinh mang tính rập khuôn, bắt chước. Có chăng thì cũng có một số bài viết
hay nhưng còn rất hạn chế bởi các em còn thiếu vắng các kĩ năng tạo lập văn bản
miêu tả cần thiết như quan sát trải nghiệm sáng ta; chọn ý và lập dàn ý chi tiết cho
bài văn; viết câu, dựng đoạn văn, bài văn cụ thể; rồi cả sử dụng các phương tiện
ngôn ngữ và các biện pháp tu từ , tích lũy vốn từ ngữ, kiến thức qua các phân môn
khác của Tiếng việt mà GV cần rèn luyện cho HS trong quá trình dạy học tạo lập
văn bản miêu tả. Vì thế mà luận văn hướng đến rèn luyện các kĩ năng cần thiết này
khi dạy văn miêu tả cho HS lớp 4.
Đối chiếu với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trong phần mở đầu, về cơ
bản luận văn đã hoàn thành các vấn đề sau:
1. Luận văn đã xác định được cơ sơ lí luận, nghiên cứu và phân tích thực
trạng dạy học tạo lập văn bản miêu tả lớp 4 hiện nay từ góc độ rèn luyện các kĩ năng
quan sát trải nghiệm sáng tạo; chọn ý và lập dàn ý; vận dụng các phương tiện ngôn
ngữ và biện pháp tu từ trong viết văn miêu tả để làm nền tảng, cơ sở vững chắc cho
việc đề xuất các biện pháp phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4.
97
2. Luận văn đã đưa ra ba nhóm biện pháp, với mỗi biện pháp như vậy chúng
tôi đã trình bày đặc điểm và cách thức tổ chức thực hiện cụ thể nhằm hỗ trợ phát
triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4. Theo đó, luận văn đề xuất ba
nhóm biện pháp sau:
- Biện pháp phát triển kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong tạo lập
văn bản
- Biện pháp phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu tả
- Biện pháp phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện
pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả
3. Các biện pháp trên đã được tổ chức dạy học thực nghiệm tại các trường
Tiểu học trên địa bàn thành phố Huế. Kết quả thu được là bài viết của HS được
nâng lên, có nhiều bài văn hay, nhiều bài văn đã vận dụng và vận dụng có hiệu quả
các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong viết bài văn miêu tả, số lượng
bài văn đạt điểm khá, giỏi cao hơn trước, ít có bài văn điểm kém, còn HS thì hứng
thú hơn với các tiết học Tập làm văn miêu tả, GV thì truyền tải kiến thức một cách
nhẹ nhàng, tất cả làm cho tiết học Tập làm văn miêu tả trở nên sôi nổi hơn bao giờ
hết. Kết quả này cho thấy tính khả thi và tính hiệu quả của các biện pháp mà luận
văn đã đề xuất.
Tuy nhiên để việc rèn luyện các kĩ năng hỗ trợ phát triển năng lực tạo lập văn
bản miêu tả cho HS lớp 4 mà luận văn đã nói trên đạt kết quả cao thì đòi hỏi người
GV không chỉ áp dụng các biện pháp thường xuyên và có mục đích vào trong từng
bài dạy cụ thể mà còn phải chú ý đến trình độ nhận thức của HS từng lớp, trường cụ
thể để vận dụng cho phù hợp, sáng tạo và hiệu quả. Mặt khác, GV cũng thường
xuyên phân tích, bình giảng và hướng dẫn cho HS cảm thụ các đoạn văn, bài văn
miêu tả hay để bồi dưỡng tâm hồn và sự tư duy nhạy cảm trước cuộc sống cho các
em. Rồi cả việc cần thiết phải xây dựng, thiết kế những bài tập từ gợi ý khám phá,
tiếp cận và lĩnh hội kiến thức đến luyện tập - thực hành và đặc biệt là các trò chơi
học tập lôi cuốn để các em từng bước rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản miêu tả.
Cũng phải kể đến khâu chấm bài và sửa lỗi – một khâu quan trọng trong dạy tạo lập
văn bản miêu tả mà lâu nay GV chưa thật sự chú trọng lắm. Chấm bài thì GV cần tỉ
mĩ, phân loại học sinh để có hướng giúp đỡ kịp thời, còn sửa bài thì trong các tiết
trả bài viết GV cần xây dựng nhiều bài tập sửa lỗi dùng từ, viết câu, dựng đoạn và
98
cũng có thể sử dụng các trò chơi như Tuyển chọn biên tập viên mà ở trên chúng tôi
có đề cập để các em tự chửa lỗi cho bài viết của mình thì các em sẽ ghi nhớ hơn,
khơi gợi cho HS nhiều cách viết, cách diễn đạt sinh động, gợi tả hơn và cách tổ
chức dạy học như vậy cũng làm cho không khí lớp học trở nên sôi nổi hơn, HS học
tập tích cực hơn, mang lại hiệu quả học tập cao.
Chúng ta biết rằng, tâm lí chung của HS tiểu học là thích tìm hiểu khám phá
về thế giới xung quanh để nhận lấy những hình ảnh về đồ vật, con vật và cây cối
vốn rất giản dị, gần gũi và quen thân trong cuộc sống. Vậy tại sao GV không tổ chức
cho HS các buổi tham quan dã ngoại hay lớp học ngoài trời? Vâng, cần tạo ra môi
trường học tập tích cực, hấp dẫn và lôi cuốn HS bằng cách cho các em được tận mắt
nhìn, tay sờ, tai nghe, mũi ngửi... về các sự vật hiện tượng, về các âm thanh, về các mùi
hương,... trong hiện thực của cuộc sống xung quanh với những lớp học trải nghiệm
ngoài trời, với những chuyến tham quan dã ngoại chứ không phải cứ cứng nhắc trong
bốn bức tường phòng học mà lâu nay chúng ta vẫn làm. Chúng tôi tin rằng với cách
học và môi trường học tập thế này thì mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống xung
quanh sẽ hiện lên qua lăng kính trong trẻo của các em rất bất ngờ và đầy lí thú.
Ngoài ra, cuộc sống hiện nay với sự phát triển như vũ bão của công nghệ
thông tin, GV nên tận dụng điều này vào trong dạy học nhằm bù đắp những thiếu
sót về sự trải nghiệm cuộc sống của một bộ phận HS thành thị bằng các tranh ảnh,
những băng hình động, các video về các sự vật hiện tượng xung quanh, rồi cả các
phần mềm thiết kế trò chơi học tập hấp dãn, lí thú hay các phần mềm thiết kế bài
giảng điện tử phục vụ dạy học công nghệ,... Tuy nhiên GV cần sử dụng hợp lí và
tránh lạm dụng để phát huy tối đa giá trị của chúng trong hỗ trợ dạy tạo lập văn bản
miêu tả. Nếu sử dụng đúng lúc và phù hợp với nội dung bài học thì sẽ mang lại hiệu
quả cao trong dạy - học tạo lập văn bản miêu tả, HS sẽ có cái nhìn nhận thế giới
xung quanh một cách đầy đủ và sâu sắc hơn, từ đó vận dụng vào bài viết của mình
để tạo lập nên những văn bản miêu tả hay, mượt mà và cuốn hút.
Tạo lập văn bản nói chung và văn miêu tả nói riêng là một năng lực thể hiện,
đòi hỏi cao sự sáng tạo của người học; là sự cộng hưởng, kết tinh của các năng lực
học tập khác. Để phát triển năng lực tạo lập văn bản bên cạnh việc chú trọng phát
triển các kĩ năng cụ thể GV cũng cần đặt năng lực này bên cạnh các năng lực khác
để nâng cao hiệu quả dạy học, tạo nên sự phát triển hài hòa, toàn diện cho HS.
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương (2013), Nghị quyết Trung ương 8 khoá XI về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam, (số 29-NQ/TW).
2. Ban chấp hành Trung ương (2014), Nghị quyết về Đổi mới chương trình, SGK
giáo dục phổ thông, (số 88/2014/QH13).
3. Đào Duy Anh (1998), Từ điển Hán_Việt, NXB KHXH Hà Nội.
4. Đinh Quang Báo (2013), Mục tiêu và chuẩn trong Chương trình giáo dục phổ
thông sau 2015 (Dự thảo), Tài liệu sử dụng nội bộ.
5. Hoàng Hòa Bình (2002), Dạy văn cho học sinh tiểu học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Hoàng Hòa Bình - Nguyễn Minh Thuyết (2012), Phương pháp dạy học Tiếng
Việt nhìn từ tiểu học, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Hạnh (2004), Một số vấn đề về đổi mới đánh giá kết quả học tập
môn Tiếng Việt ở tiểu học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
8. Trần Mạnh Hưởng - Lê Hữu Tỉnh (2008), Giải đáp 188 câu hỏi về giảng dạy
môn Tiếng Việt ở tiểu học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
9. Tô Hoài (1997), Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả, NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Đinh Trọng Lạc (2003), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
11. Hoàng Thị Mai (chủ biên) - Lê Thị Lan Anh - Nguyễn Văn Đông - Mai Hảo
Yến (2009), Rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh tiểu học, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
12. Vũ Tú Nam - Phạm Hổ - Bùi Hiển - Nguyễn Quang Sáng (2002), Văn miêu tả
và kể chuyện, NXB Giáo dục, Hà Nội.
13. Lê Phương Nga (2006), Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học II, NXB
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
14. Lê Phương Nga (2009), Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở tiểu học, NXB
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
15. Lê Phương Nga (2015), 35 đề ôn luyện Tiếng Việt 4, NXB Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
16. Lê Phương Nga, Lê Hữu Tỉnh (2004) , Tiếng Việt nâng cao 3, NXB Giáo dục,
Hà Nội
100
17. Lê Phương Nga, Lê Hữu Tỉnh (2005) , Tiếng Việt nâng cao 4, NXB Giáo dục,
Hà Nội
18. Lê Phương Nga, Lê Hữu Tỉnh (2006) , Tiếng Việt nâng cao 5, NXB Giáo dục,
Hà Nội
19. Đào Ngọc - Nguyễn Quang Ninh (1993), Rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng
Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
20. Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
21. Hoàng Thị Tuyết (2012 ), Lí luận dạy học tiếng Việt ở tiểu học, NXB Thời
đại, TP Hồ Chí Minh.
22. Đỗ Ngọc Thống - Phạm Minh Diệu (2008), Văn miêu tả ở nhà trường phổ
thông, NXB Giáo dục, Hà Nội.
23. Đỗ Ngọc Thống (2013), “Dạy học Ngữ văn trong nhà trường Việt Nam - hiện
trạng, hướng phát triển và những vấn đề liên quan”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học
Quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội, (1196), (9-32).
24. Đỗ Ngọc Thống (2011), “Xây dựng chương trình giáo dục phổ thông theo
hướng tiếp cận năng lực”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, (68).
25. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) (2002), Tiếng Việt 4, NXB Giáo dục, Hà Nội.
26. Nguyễn Minh Thuyết (2006), Hỏi - đáp về dạy học Tiếng Việt 4, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Minh Thuyết (2013), “Một số vấn đề về đánh giá chương trình, SGK
Ngữ văn hiện hành và đề xuất định hướng biên soạn chương trình, SGK mới”,
Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông
Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, (1196), (35-48).
28. Nguyễn Minh Thuyết (2014), “Về mô hình sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học
tương lai”, Kỉ yếu Hội thảo dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục phổ thông, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
29. Nguyễn Trí (2007), Văn miêu tả và phương pháp dạy học văn miêu tả ở tiểu
học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
30. Bùi Thanh Truyền, Trần Thị Quỳnh Nga (2012), Học và thực hành theo chuẩn
kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt 4, NXB Giáo dục, Hà Nội.
31. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2002), Từ
điển Bách khoa Việt Nam, tập 2, NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội.
PHỤ LỤC
P1
PHỤ LỤC 1
Bảng 1.1. Chƣơng trình văn miêu tả ở lớp 4
Tuần CHỦ ĐIỂM NỘI DUNG
14 Tiếng sáo diều Thế nào là miêu tả
14 Tiếng sáo diều Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật
15 Tiếng sáo diều Luyện tập miêu tả đồ vật
15 Tiếng sáo diều Quan sát đồ vật
16 Tiếng sáo diều Luyện tập miêu tả đồ vật
17 Tiếng sáo diều Đoạn văn trong bài miêu tả đồ vật
17 Tiếng sáo diều Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả đồ vật
19 Người ta là hoa đất
Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu
tả đồ vật
19 Người ta là hoa đất
Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu
tả đồ vật
20 Người ta là hoa đất Miêu tả đồ vật (Kiểm tra viết)
21 Người ta là hoa đất Trả bài văn miêu tả đồ vật
21 Người ta là hoa đất Cấu tạo bài văn miêu tả cây cối
22 Vẻ đẹp muôn màu Luyện tập quan sát cây cối
22 Vẻ đẹp muôn màu Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối
23 Vẻ đẹp muôn màu Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối
23 Vẻ đẹp muôn màu Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối
24 Vẻ đẹp muôn màu Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối
25 Những người quả cảm
Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu
tả cây cối
26 Những người quả cảm
Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu
tả cây cối
26 Những người quả cảm Luyện tập miêu tả cây cối
P2
Tuần CHỦ ĐIỂM NỘI DUNG
27 Những người quả cảm Miêu tả cây cối (Kiểm tra viết)
27 Những người quả cảm Trả bài văn miêu tả cây cối
29 Khám phá thế giới Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật
30 Khám phá thế giới Luyện tập quan sát con vật
31 Khám phá thế giới Luyện tập miêu tả các bộ phận của con vật
31 Khám phá thế giới Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật
32 Tình yêu cuộc sống Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật
32 Tình yêu cuộc sống
Luyện tập xây dựng mở bài, kết bài trong bài
văn miêu tả con vật
33 Tình yêu cuộc sống Miêu tả con vật (Kiểm tra viết)
34 Tình yêu cuộc sống Trả bài văn miêu tả con vật
Bảng 1.2. Nội dung phép tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3
Tuần Chủ điểm Nội dung
1 Măng non Làm quen với phép tu từ so sánh
3 Mái ấm
- Tìm các hình ảnh so sánh.
- Nhận biết các từ chỉ so sánh.
5 Tới trường
So sánh hơn kém, thêm các từ so sánh vào những
câu chưa có từ so sánh.
7 Cộng đồng So sánh con vật với con người.
10 Quê hương So sánh âm thanh với âm thanh
12 Bắc – Trung –Nam So sánh hoạt động với hoạt động.
15 Anh em một nhà Luyện đặt câu có hình ảnh so sánh.
P3
Bảng 1.3. Phép tu từ nhân hóa trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3
Tuần Chủ điểm Nội dung
19 Bảo vệ Tổ quốc
Nhận biết các hiện tượng nhân hóa, các cách
nhân hóa.
21 Sáng tạo
Tìm các sự vật được nhân hóa, nhận biết ba cách
nhân hóa.
23 Nghệ thuật
Tìm các sự vật được nhân hóa, xác định cách
nhân hóa.
Nói lên suy nghĩ, cảm xúc của mình về hình ảnh
nhân hóa.
25 Lễ hội Nhận diện các sự vật, con vật được nhân hóa.
28 Thể thao Nhận diện các sự vật và cây cối được nhân hóa.
33 Bầu trời và mặt đất
Nhận diện các sự vật được nhân hóa, cách nhân hóa.
Nói lên suy nghĩ, cảm xúc về hình ảnh nhân hóa.
Viết đoạn văn ngắn (4 – 5 câu) trong đó sử dụng
phép nhân hóa.
P4
PHỤ LỤC 2
PHIẾU ĐIỀU TRA GIÁO VIÊN
Họ và tên:..................................................................................................................
Trƣờng:.....................................................................................................................
Xin quý thầy (cô) cho biết ý kiến của mình về những vấn đề sau đây bằng
cách khoanh tròn vào chữ cái trước phương án trả lời:
1. Thầy cô nhận thức như thế nào về sự cần thiết của việc phát triển năng lực
tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4.
A. Rất cần thiết. B. Cần thiết
C. Bình thường. D. Không cần thiết.
2. Thầy cô chú ý đến yếu tố nào khi đánh giá kết quả làm văn của học sinh?
A. Dùng từ, đặt câu đúng, viết đúng chính tả và trình bày đẹp.
B. Bố cục nội dung rõ ràng, nêu bật đối tượng miêu tả.
C. Sử dụng hiệu quả các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ.
D. Tất cả các ý trên.
3. Thầy cô đánh giá thế nào về NL tạo lập văn bản miêu tả của HS hiện nay?
A. Giỏi B. Khá
C. Trung bình D. Yếu
4. Thầy cô chú ý đến những kĩ năng tạo lập văn bản khi đánh giá kết quả bài
làm văn của học sinh?
A.Kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong tạo lập văn bản.
B. Kĩ năng tìm ý và làm dàn ý cho bài văn miêu tả.
C.Kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo
lập văn bản miêu tả.
D.Tất cả các ý trên.
5. Khi dạy tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4, thầy cô có chú ý rèn
luyện kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo cho học sinh không?
A. Rất chú ý B. Chú ý
C. Có chú ý D. Hầu như không chú ý
P5
6. Theo thầy cô, việc phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và
biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả có tác dụng gì?
A. Làm cho bài văn trở nên mượt mà, sống động, thú vị hơn.
B. Làm cho sự vật trở nên có “hồn”, gần gũi thân thiết với con người.
C. Bồi dưỡng tâm hồn trong sáng và giúp các em thể hiện những cảm xúc,
khả năng sáng tạo của mình.
D. Tất cả các ý trên.
7. Theo thầy cô, để tạo lập nên một văn bản miêu tả cần sử dụng những
phương pháp và hình thức dạy học nào?
A. Xây dựng hệ thống bài tập.
B. Tổ chức các trò chơi học tập.
C. Ứng dụng công nghệ thông tin và các kĩ thuật hiện đại trong dạy học.
D. Tích lũy kiến thức qua các phân môn khác của Tiếng Việt.
8. Theo thầy cô, việc phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu
tả đóng vai trò như thế nào đối với
A. Quan trọng B. Không quan trọng
C. Bình thường D. Rất quan trọng
9. Thầy cô có hứng thú trước năng lực học tạo lập văn bản miêu tả của học
sinh lớp 4 không?
A. Hứng thú B. Không hứng thú
C. Bình thường D. Rất hứng thú
10. Tài liệu tham khảo cho việc dạy phát triển các năng lực tạo lập văn bản
miêu tả ?
A. Phong phú, đầy đủ B. Có nhưng ít
C. Rất ít D. Không có
P6
PHỤ LỤC 3
PHIẾU ĐIỀU TRA HỌC SINH
Họ và tên: ....................................................................................................................
Học sinh lớp: ..........................Trƣờng........................................................................
I. Phần trắc nghiệm
1. Điền từ thích hợp vào chỗ chấm để hoàn chỉnh định nghĩa sau:
“ ..................... là vẻ lại bằng lời hoặc những đặc điểm nổi bật của cảnh, của
người, của vật giúp người đọc, người nghe có thể hình dung được các đối tượng ấy”.
A. Kể chuyện
B. Viết thư
C. Văn miêu tả
D. Văn biểu cảm
2. Theo em, khi quan sát đồ vật, cần chú ý những gì?
A. Nên quan sát theo một trình tự nhất định
B. Nên quan sát bằng nhiều giác quan
C. Cố gắng tìm ra những đặc điểm riêng của đồ vật, phân biệt nó với những
đồ vật khác, nhất là những đồ vật cùng loại.
D. Tất cả các ý trên.
3. Theo các em, khi tả một đồ vật, ta cần tả những gì?
A. Tả bao quát toàn bộ đồ vật.
B. Tả những biện pháp có đặc điểm nổi bật.
C. Tả hình dáng bên ngoài và hoạt động của nó.
D. Nên tả bao quát toàn bộ đồ vật rồi tả những biện pháp có đặc điểm nổi bật.
4. Để tạo lập nên một bài văn miêu tả, các em thực hiện theo trình tự nào sau đây?
A. Chọn cách mở bài, xây dựng dàn ý, viết từng đoạn thân bài, chọn cách
kết bài.
B. Viết mở bài, viết thân bài, viết kết bài.
C. Xây dựng dàn ý, chọn cách mở bài, viết từng đoạn thân bài, chọn cách
kết bài.
D. Các trình tự trên đều đúng.
P7
5. Trong đoạn văn: “Màu lông hung hung có sắc vằn đỏ đỏ, rất đúng với cái
tên mà tôi đã đặt cho nó. Mèo Hung có cái đầu tròn tròn, hai tai dong dóng dựng
đứng rất thính nhạy”, tác giả đã sử dụng từ loại gì để miêu tả màu lông, cái đầu và
tai của Mèo Hung?
A. Từ ghép
B. Từ láy
C. Từ đơn
D. Từ phức
6. Trong đoạn văn: “Sầu riêng thơm mùi thơm của mít chín quyện với hương
bưởi, béo cái béo của trứng gà, ngọt cái vị của mật ong già hạn. Hương vị quyến rũ
đến kì lạ”, tác giả đã sử dụng biện pháp nt nào để miêu tả hương thơm của sầu riêng?
A. Nhân hóa
B. So sánh
C. Nhân hóa và so sánh
D. Không sử dụng biện pháp nt nào.
7. Trong các câu văn sau: Bản giao hưởng Mùa thu do Dế Mèn trình diễn đã
gợi ra biết bao cảnh tượng mùa thu êm dịu.
Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào khi miêu tả?
A. So sánh
B. Nhân hóa
C. So sánh và nhân hóa
D. Không sử dụng biện pháp nào.
8. Các em có hứng thú khi học tạo lập văn miêu tả không?
A. Hứng thú
B. Không hứng thú
C. Bình thường
D. Rất hứng thú
P8
9. Các em có hứng thú với cách dạy tạo lập văn bản miêu tả của các thầy cô giáo?
A. Nhàm chán
B. Bình thường
C. Hấp dẫn, hứng thú
D. Dễ hiểu
10. Mức độ cung cấp tài liệu học tập văn miêu tả của nhà trường.
A. Rất nhiều
B. Nhiều
C. Có nhưng chưa đầy đủ
D. Không có
II. Phần tự luận
Đề bài: Hãy tả một đồ vật gần gũi với em nhất (một con vật em yêu quý hay một cây
hoa em yêu thích), trong đó sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ.
Bài làm:
P9
PHỤ LỤC 4
MỘT SỐ BÀI TẬP VÀ TRÒ CHƠI HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
TẠO LẬP VĂN BẢN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4
 Bài tập phát triển kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo
Bài tập 1: Quan sát cây bàng mùa lá rụng, ghi chép theo những câu hỏi dưới
đây:
a. Hàng năm, cây bàng thay lá
khoảng thời gian nào?
b. Lá bàng khi già ngả sang màu gì?
Bắt đầu rụng ngã sang màu gì?
c. Cây bàng khi rụng hết lá trông thế
nào? Giống như cái gì?
d. Vì sao cây bàng thay lá, thay lá để
làm gì? Em có suy nghĩ gì về cuộc
sống của con người trước cảnh cây
bàng mùa lá rụng?
Trả lời: HS trả lời theo cách quan sát riêng của mình
Bài tập 2: Quan sát các con vật sau và ghi chép theo những câu hỏi gợi ý:
Ví dụ HS đang quan sát con chó:
1. Con chó thuộc giống gì?
2. Ngoại hình (to hay nhỏ, màu lông, đầu, mũi, tai, miệng, răng, ria mép, chân,
đuôi,...).
3. Một số hoạt động và thói quen (khi ăn cơm, khi đón chủ về nhà, khi có
khách lạ,...).
Với những con vật khác như con mèo, con trâu, con gà,... thì HS làm tương tự.
Trả lời: HS quan sát rồi ghi theo cách quan sát riêng của mình.
P10
 Bài tập phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý
Bài tập 1: Với đề văn, hãy tả lại một cây cổ thụ mà em đã có dịp quan sát,
bạn Lan định viết bài của mình theo lần lượt các ý như sau và chưa biết sắp xếp thế
nào? Hãy giúp bạn Lan sắp xếp các ý trên cho phù hợp.
A. Cây cao vút, tán rộng che kín cả một khoảng trời.
B. Dưới gốc đa diễn ra nhiều sinh hoạt của con người.
C. Đó là cây đa đầu làng em.
D. Thân cây to lớn dễ phải năm người nối vòng tay mới ôm nổi.
Đ. Cành lá rậm rạp sum xuê, tỏa bóng mát xuống cả một khoảng đất rộng
thênh thang.
E. Gốc đa xù xì, có nhiều chiếc rễ trồi cả lên mặt đất như những con trăn đất
khổng lồ.
G. Lá đa xanh, quả đa khi chín đỏ thẫm trông lên như có muôn ngàn đốm lửa
nhỏ trên vòm lá của cây.
H. Cây đa ấy đã chứng kiến bao sự thay đổi của làng quê, gắn bó với tuổi thơ
của em, dù có đi đâu chăng nữa em vẫn sẽ nhớ về gốc đa làng mình như một kỉ
niệm khó quên.
I. Rất nhiều đàn chim rủ nhau đến đây tìm quả chín và bắt sâu, tìm mồi, nhảy
múa, hát ca, cãi vã ... huyên náo cả một vùng.
K. Có cả những chùm rễ buông lửng lơ như những tấm lụa màu, lại có nhiều
chiếc lớn hơn quấn quýt lấy thân cây như hàng trăm con rắn vây quanh.
Trả lời: HS sắp xếp theo cảm nhận riêng.
Bài tập 2: Cho đoạn văn sau:
Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp. Thân hình chú cao lớn, chắc
khỏe. Bộ lông rực rỡ với những màu vàng, đỏ, nâu. Cái đầu tròn có mào đỏ thắm
hình răng cưa trông nó như đang đội vương miện. Đôi mắt tròn, nhỏ bằng hạt tiêu
có đường mí đỏ viền quanh. Đôi cánh úp xuôi theo thân. Đặc biệt là cái đuôi có
chùm lông dài màu đen óng ánh sắc xanh và tím biếc, cong vồng lên tạo cho chú vẻ
đẹp oai vệ. Đôi chân cao cứng cáp có vuốt nhọn, lớp da chân xù xì dày lên trông cứ
như một anh chàng đỏm dáng đi giày cao cổ màu vàng. Mỗi khi đi, đầu chú ta cứ
lúc lắc, trông rất buồn cười. Khi cho gà ăn, em thấy chú gà trống thật mạnh mẽ. Chú
P11
mổ lia lịa cứ như sợ những chú gà khác ăn hết phần của mình. Khi đi kiếm ăn, chú
dùng đôi chân khoẻ mạnh bới tung đống rác mùn ra. Họ hàng nhà giun không có lối
thoát. Mấy chị gà mái và mấy chú gà con cũng được nhờ vào đôi chân khoẻ mạnh
bới thức ăn của chú gà trống tía. Chú nổi bật lên trong đàn gà.
Hãy tìm:
a) Những câu văn miêu tả ngoại hình của con gà trống?
b) Những câu văn miêu tả hoạt động của con gà trống?
Trả lời: HS tìm câu văn theo cảm nhận riêng.
 Bài tập phát triển kĩ năng sử dụng các phƣơng tiện ngôn ngữ và biện
pháp tu từ
Bài tập 1: Tìm các từ ngữ miêu tả:
a) Tiếng gà gáy.
b) Tiếng chim hót.
c) Tiếng lá rơi.
d) Tiếng các đồ vật va vào nhau.
Trả lời: (Đáp án mong đợi)
a) ò..ó...o, éc...è..e, kéc..ke..ke, râm ran, lanh lảnh, te te,...
b) líu lo, râm rang, cúc cu, náo động, lít chít,...
c) xào xạt, lạt xạt, rào rào, ào ào,...
d) sột soạt, chạng chạng, leng keng, loạt xoạt, ầm ầm, lẻng xẻng,..
Bài tập 2: Đọc đoạn văn sau:
Thế là mưa xuống thật rồi. Từng giọt mưa tí xíu nhảy dù trên nền đất đã nứt
toác vì nắng. Những giọt mưa to dần, to dần quật đèn đẹt xuống đất. Hết thảy mọi
loài từ lớn đến nhỏ, từ bác phượng vĩ già nua cho đến mấy cậu choai choai dương
xỉ nhảy múa, reo hò ầm ĩ. Khung cảnh náo nhiệt tưng bừng như có đại tiệc. Cây lá
ngoắc tay vào nhau hồ hởi chúc tụng nhau mãi không thôi. Chẳng mấy chốc ao hồ
đã đầy nước. Họ hàng nhà cá, nhà tôm lũ lượt kéo nhau đi đón mưa.
(Hoàng Long)
Trong đoạn văn trên, những sự vật nào được nhân hóa? Biện pháp nhân hóa
đã giúp người đọc cảm nhận được bức tranh thiên nhiên sinh động như thế nào?
P12
Trả lời: (Đáp án mong đợi)
Sự vật đƣợc nhân hóa Từ ngữ thể hiện biện pháp nhân hóa
- Giọt mưa - nhảy dù
- Phượng vĩ - bác, già nua
- Dương xỉ - cậu choai choai, nhảy múa, reo hò
- Cây lá - ngoắc tay vào nhau hồ hởi chúc tụng nhau
- Cá, tôm
- họ hàng nhà cá, nhà tôm lũ lượt kéo nhau đi
đón mưa
Biện pháp nhân hóa đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên sinh động, tạo ra
một “hoạt cảnh” với sự xuất hiện của khá nhiều nhân vật. Mỗi “nhân vật” lại có một
nét riêng trong niềm vui chung. Cảnh cơn mưa đến sau những ngày nắng hạn kéo
dài và niềm vui của vạn vật trở nên lí thú và hấp dẫn hơn nhiều nhờ những khám
phá, phát hiện thú vị và khả năng tưởng tượng phong phú của người viết.
Bài tập 3: Hãy viết những câu văn khác nhau (trong đó có sử dụng biện pháp
so sánh) để miêu tả:
- Chiếc cặp của em.
- Con chó nhà em.
- Một loài hoa em thích nhất.
Trả lời: (Đáp án mong muốn)
- Chiếc cặp như một người bạn thân thiết cùng em đến trường mỗi ngày.
- Chú Đen nhà em như một chàng vệ sĩ thực thụ canh giấc ngủ bình yên cho
mọi người.
- Nàng Tuy – luýp dịu dàng tỏa hương thơm ngát như làm đắm say mọi
người trong bữa tiệc dưới ánh đèn vàng cùng ly rượu vang nồng nàn và sự du dương
của khúc nhạc tình say.
Bài tập 4: Nối để tạo thành câu văn hoàn chỉnh. Cho biết các câu đó đã sử
dụng biện pháp nghệ thuật gì và nêu tác dụng của nó.
1.Ve Sầu a. mở đầu khúc nhạc nhan đề Bình minh
bằng tiết tấu nhanh khỏe, đầy hứng khởi.
2.Bảng giao hưởng mùa thu do Dế
Mèn trình diễn
b.đã gợi ra biết bao cảnh tượng mùa thu
êm dịu.
3.Gà Trống c. đã kết thúc bản nhạc rộn rã.
P13
Trả lời: (Đáp án mong đợi)
- Các từ được nối như sau: 1 – b, 2 – c, 3 – a.
- Biện pháp nghệ thuật sử dụng: nhân hóa.
- Tác dụng: khiến các loài vật là Ve Sầu, Dế Mèn, Gà Trống hiện lên sinh
động, thú vị giống như những nghệ sĩ thực thụ.
Bài tập 5: Dùng các cách nói khác nhau (sử dụng biện pháp nhân hóa) để
diễn đạt lại những ý dưới đây cho sinh động, gợi cảm hơn:
a. Tiếng trống trường báo hiệu giờ ra chơi.
b. Con gà trống gáy báo hiệu một ngày mới.
c. Hoa phượng nở báo hiệu mùa hè đến.
Trả lời: (Đáp án mong đợi)
a. Bác Trống ngân dài các hồi trống báo hiệu giờ ra chơi.
b. Con gà trống kiêu hãnh cất tiếng gáy vang vọng gọi ngày mới.
c. Chú ve kêu râm rang và những cánh hoa phượng như những con bướm
thắm gọi mùa hè đến với chúng em.
Bài tập 6: Với mỗi trường hợp dưới đây, hãy viết một vài câu văn trong đó
có sử dụng các biện pháp so sánh và nhân hóa để tả:
a. Tả cánh phượng rơi
b. Cái đồng hồ báo thức
c. Chiếc bảng đen
d. Con vật trong truyên cổ tích
Trả lời: (Đáp án tham khảo)
a. Tả cánh phƣợng rơi: Chỉ cần một cơn gió nhẹ lướt qua, những cánh hoa
phượng thắm đỏ dứt mình bay chấp chới trong không trung như một cơn mưa tuyết
của những cánh phượng đỏ thắm. Và rồi những cánh phượng mỏng manh rụng khắp
sân trường, trải cái màu đỏ may mắn lên đầu, lên tóc, lên vai những người bạn như
lời tâm sự.
b. Cái đồng hồ báo thức: Tích tắc! Tích tắc! Mấy chị em nhà kim đồng hồ
cứ người nào việc nấy suốt ngày, suốt tháng để làm công việc báo thời gian mà
không lúc nào than vãn mệt mỏi một lời.
P14
c. Chiếc bảng đen: Chiếc bảng đen là người bạn thân thiết của cả lớp. Bảng
đen rất vui khi chúng em học giỏi. Bảng đen buồn khi chúng em đến lớp chưa thuộc
bài. Hôm bạn Bảo trực nhật lau vội khăn ướt, bảng đen rơm rớm nước mắt nhìn
chúng em, trông thương quá!
d. Con vật trong truyên cổ tích: Nhà chị Dế Mèn ở bụi tre. Tối nào chị dế
cũng ngồi kéo đàn trên bãi cỏ trước nhà. Mấy bác đom đóm đi gác về rất muộn vẫn
thấy chị dế say sưa kéo đàn. Một bác đom đóm liền dừng chân trên bãi cỏ và soi đèn
cho chị dế biểu diễn bài “Tâm tình quê hương”.
Bài tập 7: Một HS lớp 4 đã tả chú gà trống như sau : “Chú gà nhà bà em
nặng tớ i 9 kg. Sáng sớ m chú nhảy tót lên đống rơm nhà bà gáy một hồi dài
kéc…ke….ke….” . Bạn viết như vậy đúng chưa, nếu chưa đúng em hãy giúp bạn
sửa lại cho đúng.
Trả lời: (Đáp án mong đợi)
Rõ ràng, đây là tiếng gáy của một chú trống choai chứ không phải tiếng gáy
của một chú gà trống nặng hơn 3 ki-lô-gam và trong thực tế , không có một chú gà
nào nặng tới 9 ki-lô-gam. Bạn đó đã viết sai. HS có thể sửa lại: “Chú gà nhà bà em
năng gần 3 ki - lô – gam. Sáng nào chú cũng nhảy tót lên đống rơm nhà bà gáy
một hồi dài ò...ó...o báo hiệu cho mội ngƣời mau mau thứ dậy.”
Bài tập 8: Tác giả “Hoa học trò” đã rất yêu cây phượng vĩ. Ông đã tả cây
phượng với những hình ảnh đẹp đẽ. Còn em, em yêu loài cây nào? Hãy sử dụng
biện pháp so sánh và nhân hóa để viết một đoạn văn ngắn (3 – 5 câu) tả một cây
bóng mát mà em yêu thích.
Trả lời: (Đáp án tham khảo)
Cây đa đầu làng em bao đời nay đứng đó để nghe và hiểu được những tâm sự
nỗi niềm của những người dừng chân nghỉ dưới bóng râm. Nó đã trở thành người
bạn già hiền lành tốt bụng của mọi người. Vì vậy đi đâu xa trở về, chỉ thấy thấp
thoáng cây đa cổ thụ đầu làng là người ta đã thấy yên tâm như đã bước vào mái nhà
quen thuộc ấm cúng của mình.
P15
Bài tập 9: Bạn em rất ghét động vật. Bằng những những từ ngữ gợi tả, em
hãy viết một đoạn văn ngắn tả con vật mà em yêu thích để cho bạn em cũng yêu
thích nhân vật đó như em.
Trả lời: (Đáp án tham khảo)
Con chó nhà em tên là Zét. Nó khôn lắm, lại giữ nhà rất giỏi. Ban đêm, trong
khi cả nhà say ngủ thì nó thức để canh bọn xấu hay lẻn vào sân để ăn trộm vặt. Ban
ngày nó nằm duỗi trước hiên nhà lim dim sưởi nắng nhưng đôi tai rất thính nhạy của
nó thì có thể nghe được những tiếng động dù là nhỏ nhất. Có người lạ vào sân, nó
chạy xồ ra, sủa toáng lên cho tới khi có người trong nhà ra quat gọi nó mới im.
Thỉnh thoảng nó lại chạy ra ngõ chơi với lũ chó của mấy hàng xóm. Nghe tiếng liếp
chiếp của đàn gà bên kia vườn lao nhao liếng nhiếng sang gốc mít kiếm ăn là nó ra
oai phóng đến, rượt bọn này chạy trối trời. Vậy mà nó lại làm ra vẻ hiền lành khi cọ
đầu vào chân em như đòi em vuốt ve trò chuyện. Nhiều lúc em muốn nó làm trò,
bèn tưng tửng mẩu bánh ngọt lên cao. Thế là nó nhảy phốc lên há mõm đớp gọn
gàng, đố có rơi vụng bánh nào ra ngoài! Nghe tiếng em đi đâu về đến cổng là nó
chạy xổ ra, rướn mình cao lên, chổm cả hai chân trước lên đầu gối em, vừa lệt bệt đi
bằng hai chân sau theo em vừa vẩy đuôi mừng rỡ. Trông bộ dạng của nó lúc này
thật ngộ nghĩnh và đáng yêu làm sao!
Bài tập 10: Viết những đoạn văn mở bài khác nhau cho bài văn miêu tả cái
bàn học của em (có thể là cái bàn ở lớp hoặc bàn học ở nhà).
Trả lời: (Đáp án tham khảo)
- Đến lớp, ngoài bạn bè và thầy cô giáo thì có lẽ cái bàn học sinh là gần gũi
và gắn bó với em nhiều nhất.
- Từ đầu năm học đến nay, ngày nào đến lớp em cũng gặp gỡ và thân thiết
với chiếc bàn học sinh xinh xắn này.
- Năm nay, em đã lên lớp 4. Do em phải học bài và làm nhiều bài tập về nhà,
bố mẹ đã sắp xếp cho em một góc học tập ngăn nắp, thoáng mát. Đặc biệt hơn cả là
cái bàn học xinh xắn đặt kề cửa sổ nhìn ra vườn cây xanh rợp bóng.
- Ngoài thời gian học ở trường, em còn phải học bài và giải quyết đầy đủ các
bài tập về nhà được giao. Để giúp em có điều kiện học tốt ở nhà, bố đã đóng cho em
một cái bàn học ngay từ giữa năm học lớp 3.
P16
Bài tập 11: Bằng cách sử dụng các biện pháp tu từ, em hãy viết kết bài mở
rộng cho mỗi bài văn theo đề tài sau:
a. Chiếc áo em mặc đến trường
b. Cây tre ở làng quê
c. Cây bằng lăng tím trong sân trường
d. Chiếc nón lá Huế
e. Con chó nhà em
f. Cây gạo đầu làng
Trả lời: (Đáp án tham khảo)
a. Chiếc áo em mặc đến trƣờng: Mặc chiếc áo do chính tay mẹ đan cho, em
rất sung sướng và tự hào để khoe với mẹ. Dù trời mùa đông xứ Huế có lạnh lẽo đến
mấy, em cũng cảm thấy ấm áp bởi bao tình thương mến mà mẹ đã gửi gắm trong
chiếc áo len này.
b. Cây tre ở làng quê: Cây tre gâng gũi với cuộc sống của người dân quê:
chiếc nôi từ lúc mới lọt lòng, giường tre nằm ngủ, phên tre làm nhà, đôi đũa tre
trong mâm cơm hằng ngày rồi cả những mặt hàng thủ công mĩ nghệ làm từ tre,... Vì
vậy mà người dân làng em yêu mến và gắn bó biết bao với cây tre. Đi đâu xa, nhớ
về làng quê là nhớ về lũy tre xanh luôn đậm đà tình mến thương.
c. Cây bằng lăng tím trong sân trƣờng: Dưới gốc cây bằng lăng tím này,
trong những giờ nghỉ giải lao, em đã cùng các bạn ngồi trò chuyện hoặc đọc báo
Nhi đồng. Nhặt cánh hoa bằng lăng rụng, em kết làm chuỗi tặng bạn làm vương
miện đội lên đầu cứ như là công chúa trong truyện cổ tích. Dẫu mùa hoa bằng lăng
đã qua rất lâu nhưng em vẫn thích nhìn ngắm vẻ đẹp của cây. Em cảm thấy cây
bằng lăng này rất gần gũi vì nó đã gắn bó với nhiều kỉ niệm học trò của chúng em.
d. Chiếc nón lá Huế: Khi đội nón lên đầu, trông mẹ đẹp và duyên dáng hơn.
Chiếc nón lá đúng là món quà xứ Huế có ý nghĩa bởi nó không những làm tăng
thêm vẻ đẹp cho người phụ nữ mà còn thể hiện bàn tay khéo léo tài hoa của những
người thợ thủ công đất cố đô.
e. Con chó nhà em: Mới có mấy tháng mà con chó Tô-ny đã quen thuộc
gần gũi như một thành viên trong gia đình. Thấy em yêu mến và chăm sóc nó chu
đáo, bố bảo: “Phải đấy con ạ! Chó không những có ích vì giữ nhà giỏi mà nó còn là
con vật trung thành, tình nghĩa với chủ lắm đấy!”
P17
f. Cây gạo đầu làng: Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là minh
chứng thầm lặng của dòng đời. Cô giáo em nói thế. Đi học về đứng trên bến đò,
hoặc đi xa về mà ngắm nhìn cây gạo đầu làng em thấy lòng bồn chồn xôn xao. Cây
gạo là hồn quê, là tình quê vơi đầy.
Bài tập 12: Với biện pháp tu từ, em hãy viết một đoạn văn ngắn miêu tả
cách bảo quản đồ dùng học tập của em.
Trả lời: (Đáp án tham khảo)
Ngay từ đầu năm học, mẹ đã mua cho em đầy đủ các đồ dùng học tập: sách,
vở, bút, thước, com-pa,... Mẹ cũng căn dặn em phải biết sắp xếp, lau chùi chúng cho
gọn gàng, sạch sẽ. Nghe lời mẹ, sau khi dùng xong món đồ nào em lại đặt chúng
ngay ngắn vào vị trí: sách vở để lên giá; bút, thước,... để vào hộp. Em cũng không
hề viết, vẽ linh tinh lên bìa sách vở hay bàn ghế. Những đồ dùng học tập của em lúc
nào cũng sạch sẽ, gọn gàng, chúng nằm ngay ngắn trong vị trí của mình như thì
thầm khẽ nói với em: "Cám ơn cô chủ nhỏ!”.
Bài tập 13: Nhà thơ Nguyễn Duy đã miêu tả cây tre với những hình ảnh gợi
lên phẩm chất cần cù, đoàn kết, ngay thẳng - đó là những phẩm chất tốt đẹp của con
người Việt Nam. Dựa vào những hình ảnh có trong bài thơ “Tre Việt Nam”, em hãy
viết một đoạn văn ngắn (từ 5 đến 7 câu) trong đó có sử dụng biện pháp so sánh,
nhân hóa để tả cây tre quê hương.
Trả lời: (Đáp án tham khảo)
Làng tôi bốn mùa rợp mát bóng tre. Đi đâu cũng thấy những bụi tre xanh rờn,
um tùm vươn mình hát ru trong gió. Những hàng tre xanh biếc đó đã chứng kiến
biết bao trò chơi của tuổi thơ chúng tôi. Những trưa hè oi ả, chỉ cần chị gió lướt qua
lũy tre thôi cũng đủ mang lại sự mát rượi, ngọt ngào nhường nào. Rồi bà và mẹ còn
treo võng ở bụi tre để ru cho chúng tôi giấc ngủ ngon, lúc ấy tiếng tre kẽo cà kẽo kẹt
như đệm khúc nhạc du dương cho những bài hát ru của bà và mẹ. Các bạn biết
không, tre không bao giờ ở riêng từng cây mà luôn theo từng bụi, từng hàng, từng
lũy như một gia đình ấm áp. Mỗi mùa mưa bão đến, tre lại như gần nhau hơn, ôm
lấy nhau mà oằn mình chống lại mưa gió vì sự giận dữ của đất trời để bảo vệ, che
chở cho làng tôi.
Bài tập 14: Bằng các hình ảnh so sánh và nhân hóa, hãy viết một đoạn văn
miêu tả một loại quả mà em thích.
P18
Trả lời: (Đáp án tham khảo)
Những quả mít to và dài như những chú lợn con nghịch ngợm đeo bám
quanh thân nhưng không dễ gì rơi vì cuống to và chắc. Vỏ ngoài đầy gai nhọn như
một chiếc áo giáp bảo vệ cho nó. Bổ quả mít ra, em thấy những múi mít ken sát vào
nhau. Múi nào cũng dày cơm màu vàng rực, vị ngọt đậm. Bám ngoài múi là những
tép sơ dẹt và có màu vàng nhạt hơn múi. Hạt mít to bằng đốt tay, màu nâu có vân
như vân gỗ trên mặt bàn rất đẹp. Mùi mít chín tỏa ra thơm lừng, chảy qua cánh mũi
nên không giấu được ai.
Bài tập 15: Bằng các hình ảnh so sánh và nhân hóa, hãy viết một đoạn văn
miêu tả một con vật mà em quý mến.
Trả lời: (Đáp án tham khảo)
Chú gà mới đẹp làm sao! Chú kiêu hãnh khoác bộ áo sặc sỡ đủ màu như
một chàng hoàng tử. Thân hình chú thon thon gần bằng chiếc ấm tích. Trông chú
thật khoẻ và rắn rỏi như một chàng hiệp sĩ. Chiếc mào đỏ tươi rung rinh theo bước
chân của chú. Toàn thân chú phủ một lớp lông vũ óng mượt màu vàng xuộm. Phía
dưới cánh có lớp lông màu lông đen. Còn cái đuôi thì cong vổng lên như chiếc cầu
vồng. Đôi chân khoẻ khoắn và thoắt cái đã thấy chú trên đỉnh đống rơm rướn dài cổ
gáy vang ò..ó..o..o. Lát sau đã thấy chú bên bụi chuối. Chớp mắt chú đã bới được
mấy con giun đất to như chiếc đũa. Nhưng lạ chưa kìa, em không thấy chú ăn mà cứ
kêu “tục tục!”. Một lũ gà mái chạy xô đến. À thì ra chú muốn mời mấy chị gà mái
cùng ăn. Thật tình cảm ghê!
Bài tập 16: Một bạn viết đoạn văn tả cây chuối ở vườn nhà như sau: “Cây
chuối cao quá tầng hai nhà em, nó tròn và có nhiều cành xum xuê. Vài cành có vỏ
cây khô héo tróc lơ lửng từng mảng. Bóc lớp vỏ khô ấy ra, em thấy lớp bẹ bên trong
xanh tươi nhẵn bóng, sờ vào mát cả tay. Chiều chiều, em thường trèo lên cây chuối
để hái chuối ăn.”
Theo em, bạn miêu tả như vậy có thích hợp không? Bằng sự hiểu biết của
mình, em hãy giúp bạn viết lại những câu chưa đúng để có đoạn văn miêu tả cây
chuối phù hợp.
Trả lời: (Đáp án mong đợi)
Cây chuối nhà em cao quá mái bếp, tròn và thẳng không có cành trông lù lù
như cái cột nhà. Vài đoạn vỏ cây khô héo tróc lơ lửng từng mảng. Bóc lớp vỏ khô
ấy ra, em thấy lớp bẹ bên trong xanh tươi nhẵn bóng, sờ vào mát cả tay. Thì ra thân
cây chuối là do nhiều lớp bẹ ôm sát nhau mà thành. Khi chuối sắp chín, ba thường
chặt buồng chuối mang vào nhà để chuối chín dần ăn rất ngon và bổ.
P19
 Các trò chơi hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4
Trò chơi 1: Trò chơi “Tiếp sức đồng đội” bằng cách tìm các từ láy là tên
các con vật.
Cách chơi: Chia lớp thành 4 nhóm, các thành viên trong nhóm lần lượt lên
bảng viết các từ láy là tên các con vật. Trong thời gian 3 phút nhóm nào tìm được
nhiều từ đúng thì chiến thắng.
Gợi ý đáp án: chuồn chuồn, cào cào, châu chấu, đa đa, chích chòe, chào
mào, sáo sậu, đom đóm, tê tê, ...
Trò chơi 2: Trò chơi “Thi tìm từ nhanh” Chia các từ, cụm từ sau thành 2
nhóm: từ tƣợng thanh và từ tƣợng hình: san sát, chen chúc, rầm rập, mênh mông,
ào ào, long lanh, lom khom, duyên dáng, xôn xao, thăm thẳm, lách cách, trùi trũi,
ươn ướt, len lỏi, vun vút, lè tè, ngất ngểu, sặc sỡ, thướt tha, lẻng kẻng, hả hê, hu hú,
sòng sọc, loảng xoảng, ầm ầm, tí tách, lênh khênh, vênh vểnh, thon thon, bệ vệ,
nặng nề, tun tủn, khệnh khạng, xào xạc, ăng ẳng, róc rách.
Cách chơi: Chia lớp thành 2 nhóm, trong vòng 3 phút nhóm nào chia đúng và
xong trước sẽ thắng cuộc.
Gợi ý đáp án:
Từ tƣợng thanh Từ tƣợng hình
rậm rập, ào ào, xôn xao, lách cách,
vun vút, hu hú, sòng sọc, loảng
xoảng, ầm ầm, tí tách, tun tủn, xào
xạc, ăng ẳng, róc rách, lẻng kẻng.
san sát, chen chúc, mênh mông,
long lanh, lom khom, duyên dáng,
thăm thẳm, trùi trũi, ươn ướt, hả hê,
len lỏi, lè tè, ngất ngểu, sặc sỡ, thướt
tha, thon thon, bệ vệ, nặng nề, khệnh
khạng, vênh vểnh, lênh khênh.
Trò chơi 3: Trò chơi “Tập làm bác sĩ” bằng cách sắp xếp các từ gợi hình
ảnh và cảm giác sau thành 4 nhóm thích hợp (xao xuyến, xù xì, lạnh ngắt, la đà, lơ
lửng, phân vân, sầm sập, rì rào, mặn chát, nóng bỏng, chua lòm, bâng khuâng, chấp
chới, thánh thót, ngọt lịm)
Gợi về tâm trạng Gợi về thị giác Gợi về vị giác Gợi về xúc giác
P20
Cách chơi: Chia lớp thành 4 nhóm, trong vòng 3 phút nhóm nào sắp xếp đúng và
xong trước sẽ thắng cuộc.
Gợi ý đáp án:
- Gợi về tâm trạng: xao xuyến, bâng khuâng, phân vân.
- Gợi về thị giác: la đà, lơ lửng, chấp chới.
- Gợi về vị giác: mặn chát, chua lòm, ngọt lịm.
- Gợi về xúc giác: lạnh ngắt, nóng bỏng, xù xì.
Trò chơi 4: Trò chơi “Thi tìm từ nhanh” với chủ đề Tả cây hoa phượng:
- Từ chỉ màu xanh của lá
- Từ chỉ cành lá
- Từ chỉ thân cây
- Từ chỉ lợi ích
- Từ chỉ màu sắc của hoa
Cách chơi: Trong vòng 3 phút, HS thi tìm từ theo một số câu cho sẵn ở trên.
Gợi ý đáp án:
- Từ chỉ màu xanh của lá: xanh um, xanh tươi, xanh thẫm, xanh non, xanh
mơn mởn,...
- Từ chỉ cành lá: xum xuê, um tùm, tốt tươi,...
- Từ chỉ thân cây: sần sùi, nham nhám, đầy vết sẹo lồi lõm, có nhiều hốc
bướu,...
- Từ chỉ lợi ích: che mát, giúp HS vui chơi, lấy cánh phượng ép vào vở làm
kỉ niệm, cho vẻ đẹp, ăn quả, báo hiệu mùa hè,...
- Từ chỉ màu sắc của hoa: đỏ thắm, thắm đỏ, đỏ rực, đỏ tía,...
Trò chơi 5: Trò chơi “Tuyển chọn biên tập viên” GV dán bảng phụ 2 đoạn
văn miêu tả sau lên bảng lớp, yêu cầu tìm những câu văn miêu tả chưa đúng rồi sửa
lại cho phù hợp:
Đoạn 1
Tuần trước về quê, bố mang lên cho em một chú cún con rất dễ thương. Chú có
bộ lông màu trắng pha đen, cái đầu to như trái dừa và cân nặng khoảng bảy ki – lô –
gam. Vì về nhà mới nên trông cún có vẻ sợ sệt, rụt rè lắm. Có ai đến là cún liền nhảy
xồ ra sủm om cả nhà, khi nào có người nhà rầy la cún mới chịu chạy vào trong.
P21
Đoạn 2
Nhà ngoại em có trồng một hàng cau thẳng tắp rất đẹp. Những cây cao cao
lớn, thẳng thớm lên trời như những “chàng ngự lâm hộ giá” bảo vệ xung quanh ngôi
nhà của ngoại”. Đến mùa cau, hoa cau nở tung toé rụng vương vãi khắp hiên nhà
giống như bà rải gạo cho gà ăn. Rồi mùa hoa tàn, trái cau xuất hiện. Nhiều trái cau
lủng lẳng quay quanh tạo thành một buồng cau xum xuê trĩu quả. Nó cứ bu bám vào
nhau và ôm lấy thân cau như sợ bị rụng vậy. Nhìn những trái câu đưa qua đưa lại
trong gió trông thật vui mắt.
Gợi ý đáp án: (Đáp án mong đợi)
Đoạn 1
- cái đầu to như trái dừa và cân nặng khoảng bảy ki – lô – gam => cái đầu to
bằng quả cam hoặc nắm tay ba em và cân nặng khoảng ba ki-lô-gam (vì là cún
con nên không thể miêu tả như chú chó trưởng thành được)
- Có ai đến là cún liền nhảy xồ ra sủm om cả nhà, khi nào có người nhà rầy la
cún mới chịu chạy vào trong => có ai đến là cún liền chui tọt xƣớng gầm giƣờng
lẩn trốn, chỉ khi nào không có ai cún mới chạy ra ngoài chơi (vì rụt rè, sợ sệt
nên không thể chạy ra ngoài sủa om sòm được.)
- Viết lại đoạn văn 1:
Tuần trước về quê, bố mang lên cho em một chú cún con rất dễ thương. Chú
có bộ lông màu trắng pha đen, cái đầu to như nắm tay ba em và cân nặng khoảng
ba ki – lô – gam. Vì về nhà mới nên trông cún có vẻ sợ sệt, rụt rè lắm. Có ai đến là
cún liền chui tọt xƣớng gầm giƣờng lẩn trốn, chỉ khi nào không có ai cún mới
chạy ra ngoài chơi.
Đoạn 2
- cao lớn =>cao vút, thẳng thớm => thẳng đuột, đưa qua đua lại => đung
đƣa (cách dùng từ chưa hợp lí)
- Đến mùa cau, hoa cau nở tung tóe rụng vương vãi khắp hiên nhà giống như
bà rải gạo cho gà ăn => Đến mùa cau, hoa cau nở tung tóe rụng vương vãi khắp
hiên nhà giống nhƣ những thảm hoa lộng lẫy, kiêu sa. Nó cứ bu bám vào nhau và
ôm lấy thân cau như sợ bị rụng vậy => Nó cứ bu bám vào nhau và ôm lấy thân cau
nhƣ đám trẻ con đòi bú tí mẹ.(hình ảnh so sánh chưa gợi tả, gợi cảm)
- Viết lại đoạn văn 2:
P22
Nhà ngoại em có trồng một hàng cau thẳng tắp rất đẹp. Những cây cao cao
lớn vút, thẳng đuột lên trời như những “chàng ngự lâm hộ giá” bảo vệ xung quanh
ngôi nhà của ngoại”. Đến mùa cau, hoa cau nở tung téo rụng vương vãi khắp hiên
nhà giống nhƣ những thảm hoa lộng lẫy, kiêu sa. Rồi mùa hoa tàn, trái câu xuất
hiện. Nhiều trái cau lủng lẳng quay quanh tạo thành một buồng cau xum xuê trĩu
quả. Nó cứ bu bám vào nhau và ôm lấy thân cau nhƣ đám trẻ con đòi bú tí mẹ.
Nhìn những trái câu đung đƣa trong gió trông thật vui mắt.
Trò chơi 6: Trò chơi Nhà thông thái. Các em hãy đóng vai là các nhà thông
thái để ví von các sự vật sau:
1. Hương thơm của một loài hoa
2. Đàn gà con mới nở
3. Lợi ích của một đồ vật
Gợi ý đáp án: (Đáp án tham khảo)
1. Khi ánh mặt trời nhường chỗ cho sự ngự trị của màn đêm yên tĩnh cũng là
lúc cả giàn hoa thiên lý trên ban công nhà em ngát dậy một mùi hương ngọt ngào
chảy qua cánh mũi. Hương thơm cứ theo chiều đi vào tối, tới tận đêm khuya làm
mát dịu cái nóng của đêm hè.
2. Lũ con cả thảy là mười hai đứa. Con nào con nấy với bộ lông vàng nhạt
trông như những nắm bông gòn mịn mượt biết đi. Đôi cánh mới chỉ nhú lên bên
hông trông thật đáng yêu. Đôi mắt nhỏ bằng hột cườm, long lanh thật hồn nhiên.
Cái mỏ nhỏ xíu màu trắng ngần như hạt gạo luôn há ra kêu chiêm chiếp thật vui
nhộn. Những đôi chân bé bỏng, mảnh mai như que tăm đua nhau bước ngắn lủn củn
quanh chân mẹ.
3. Bác đồng hồ đã có mặt trong gia đình em lâu lắm rồi. Tuy già nua cũ kĩ
thế nhưng bác làm việc rất cần mẫn và chính xác. Bác chẳng đòi hỏi gì nhiều. Mỗi
năm, bố em lại lau dầu cho bác một lần. Cả nhà em đều coi bác đồng hồ là người
bạn thân thiết và gắn bó vì có bác mà mọi công việc của mỗi người luôn hoàn thành
đúng giờ.
P23
PHỤ LỤC 5
MỘT SỐ ĐỀ BÀI SÁNG TẠO HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
TẠO LẬP VĂN BẢN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4
Đề bài 1: Quanh ta mọi vật đều làm việc. Cái đồng hồ tích tắc báo giờ; cái
quạt máy bận chạy để đem lại không khí mát lạnh cho mọi người; cái cặp, chiếc bút,
quyển vở thì bận học cùng bé; cái đèn thì chiếu sáng cho mẹ khâu áo, cho bố đọc
báo, cho bé học bài,... Bằng cách nói nhân hóa, em hãy viết đoạn văn miêu tả công
dụng của một đồ vật mà em thích.
Đề bài 2: Có những con vật đã trở thành nhân vật nổi tiếng trong các bộ
phim hoạt hình. Em hãy tả lại một trong những con vật đó. (Lưu ý sử dụng các biện
pháp tu từ trong miêu tả)
Đề bài 3: Các em có nghe mùa xuân thì thầm bên cửa sổ không? Đúng vậy,
mùa xuân là mùa của cỏ cây, hoa lá đua nhau khoe sắc. Bằng biện pháp tu từ so
sánh và cách nói nhân hóa, em hãy viết một đoạn văn ngắn miêu tả một loài hoa của
mùa xuân mà em thích.
Đề bài 4: Trước thực trạng chặt cây xanh hàng loạt ở các thành phố lớn để
xây dựng chỉnh trang đô thị, em hãy hóa thân thành những cây xanh “tội nghiệp” đó
để nói lên sự suy tư, trăn trở của mình về lợi ích của cây xanh đối với môi trường
xung quanh.
Đề bài 5: Cô chủ nhỏ của em lúc nào học bài xong cũng quăng em hộp bút
vào một xó xỉnh nào đó. Em hộp bút thấy buồn và tủi thân lắm! Em hãy giúp bạn
hộp bút đáng thương bằng cách viết một đoạn văn trò chuyện với cô chủ nhỏ để nói
cho cô biết cách giữ gìn đồ dùng học tập cẩn thận nhé!
Đề bài 6: Các em chắc đã quen thuộc với hai nhân vật mèo, chuột trong bộ
phim hoạt hình Tom và Jerry. Chú chuột lúc nào cũng tinh nghịch, quậy phá khắp
nhà. Em hãy hóa thân thành nhân vật Tom để viết một đoạn văn ngắn tả hoạt động
bắt và trừng trị bọn chuột của mèo Tom.
P24
PHỤ LỤC 6
GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM 1
Tập làm văn: Quan sát đồ vật
(Tuần 15 tiết 2, lớp 4)
I. Mục tiêu: Giúp HS:
- Biết cách quan sát đồ vật theo một trình tự hợp lí bằng nhiều cách (mắt nhìn,
mũi ngửi, tai nghe, tay sờ,...).
- Phát hiện được những đặc điểm riêng, độc đáo của từng đồ vật để phân biệt
nó với những đồ vật khác cùng loại.
- Lập dàn ý đồ chơi theo kết quả quan sát.
II. Đồ dùng dạy học:
- Sách giáo khoa
- Phiếu học tập
- Các bảng phụ
- HS chuẩn bị các đồ chơi.
III. Hoạt động dạy và học:
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh
A. Kiểm tra bài cũ:
- Yêu cầu HS nêu: Cấu tạo của bài văn miêu
tả đồ vật?
- Yêu cầu 1 – 2 HS đọc dàn ý bài văn tả
chiếc áo đã làm ở nhà.
- GV nhận xét, đánh giá về cách quan sát và
lựa chọn các chi tiết trong dàn ý của HS.
(Lưu ý: cần quan sát theo trình tự hợp lí bằng
nhiều giác quan, lựa chọn chi tiết nổi bật của
đối tượng miêu tả)
- HS nêu cấu tạo cấu bài văn miêu tả
đồ vật.
- HS đọc bài làm của mình.
- Lớp nhận xét.
B. Dạy bài mới:
1. Giới thiệu bài:
- Nêu mục đích, yêu cầu của bài học
( Mỗi bạn lớp ta ai cũng có một đồ chơi.
Nhưng làm thế nào để giới thiệu với các bạn
khác về đặc điểm, hình dáng, màu sắc, lợi ích
của nó cho các bạn biết. Bài học hôm nay sẽ
giúp các em làm được điều đó.)
- HS lắng nghe.
- HS đọc yêu cầu của bài tập.
P25
2. Phần nhận xét:
Yêu cầu HS đọc đề.
Bài tập 1: Xác định yêu cầu của bài tập và
các gợi ý a, b, c, d.
- GV yêu cầu tổ trưởng kiểm tra việc chuẩn
bị đồ chơi của các bạn tổ mình.
- GV gọi 1 vài HS giới thiệu về tên gọi đồ
chơi của mình.
- GV: Thảo luận nhóm 4: Em hãy quan sát
đồ chơi đồng thời dựa vào các gợi ý a, b, c, d
trong SGK để viết kết quả quan sát được của
đồ chơi đó vào phiếu học tập.
- GV yêu cầu nhóm trình bày.
- HS cả lớp nhận xét, bổ sung.
- GV nhận xét, sửa lỗi dùng từ và cách diễn
đạt phần trình bày của các nhóm.
Bài tập 2: Theo em, khi quan sát đồ vật cần
chú ý những gì?
- HS đọc yêu cầu của bài tập 2, suy nghĩ trả
lời miệng.
- Tổ trưởng báo cáo việc chuẩn bị
của các tổ viên.
- HS nêu:
+ Em có chú gấu bông rất đáng yêu.
+ Đồ chơi của em là chiếc ô tô chạy
bằng pin.
+ Đồ chơi của em là chú thỏ đang
cầm củ cà rốt rất ngộ nghĩnh.
+ Đồ chơi của em là một con búp bê
bằng nhựa.
- Các nhóm thảo luận.
- Đại diện các nhóm trình bày:
N1: Gấu bông: đầu tròn, mặt tròn,
mắt tròn. Màu xanh pha hồng. Hai
tay chắp trước bụng. Miệng nhoẻn
cười. Chân hình, chân tay mũm mĩm.
N2: Búp bê lật đật: đầu tròn, thân
tròn không có chân, vẻ mặt xinh xắn,
đôi má hồng hào. Đặt xuống có thể
tự ngồi dậy.
N3: Chong chóng giấy: có bốn cánh,
ở giữa là trục quay, đằng sau có cán
để cầm. Để trước gió sẽ quay tít.
N4: Rô bốt bằng nhựa: cấu tạo bởi
các khối hình chữ nhật, mắt to,
miệng rộng, hoạt động bằng pin.
N5: Ngôi nhà đồ chơi: Được xếp
bằng những miếng gỗ có hình vuông,
hình chữ nhật hoặc miếng gỗ vát
thành hình cong. Ngôi nhà có nhiều
tầng, dưới rộng trên thu nhỏ.
- Nhận xét, bổ sung cho nhóm bạn.
- HS lắng nghe.
- HS trả lời:
 Phải quan sát theo một trình tự
P26

- GV chốt lại và giảng giải thêm:
Ví dụ khi quan sát gấu bông thì hình ảnh đập
vào mắt đầu tiên phải là hình dáng, màu sắc
của nó rồi mới thấy đầu, mắt, mũi, mõm,
chân tay. Phải sử dụng nhiều giác quan khi
quan sát để tìm ra những đặc điểm, phát hiện
những đặc điểm độc đáo của nó, làm nó
không giống em gấu khác. Tập trung miêu tả
những đặc điểm độc đáo, không tả lan man,
quá chi tiết, tỉ mỉ. Vậy muốn miêu tả đồ vật
cần chú ý những gì?
3. Phần ghi nhớ:
- GV gọi 2, 3 HS đọc ghi nhớ trong SGK.
4. Phần luyện tập:
- GV nêu yêu cầu của đề bài.
- Lớp chia thành 4 nhóm (4 tổ), mỗi nhóm
lập dàn ý cho bài văn tả đồ chơi mà nhóm
thích nhất (4 nhóm 4 đồ chơi khác nhau để
có nhiều dàn ý đa dạng) rồi viết vào bảng
phụ.
- GV đưa ra dàn ý chung để các nhóm thực
hiện:
1. Phần mở đầu:
- Giới thiệu đồ chơi mà em sẽ tả.
2. Phần thân bài:
- Tả bao quát hình dáng, màu sắc, kích
thước, chất liệu, ...
- Tả chi tiết các bộ phận đầu, tai, mắt, mũi,
chân, tay.
3. Phần kết bài:
- Tình cảm của em đối với đồ chơi đó.
- GV yêu cầu: Dán 4 bảng phụ lên bảng và
hợp lí, từ bao quát đến từng bộ phận
(bên trên / bên dưới, đầu, mình,
chân, tay..).
 Quan sát bằng nhiều giác quan:
dùng mắt để xem hình dáng, màu
sắc, kích thước,...; tai để nghe có
phát ra tiếng động hay không và
tiếng động ấy như thế nào,...; tay để
biết đồ vật mềm hay rắn, nhẵn nhụi
hay thô ráp, nặng hay nhẹ,...
 Tìm ra đặc điểm riêng, phân biệt
đồ vật này với đồ vật khác, nhất là
những đồ vật cùng loại.
- HS lắng nghe
- HS đọc
- HS lắng nghe.
- Các nhóm lập dàn ý vào bảng phụ
GV đã chuẩn bị sẵn.
- 4 HS lần lượt đọc dàn ý đã lập
P27
đại diện mỗi nhóm lên đọc dàn ý của nhóm
mình trước lớp. Các nhóm khác lắng nghe và
nhận xét dàn ý của nhóm bạn.
- GV nhận xét, bình chọn nhóm lập được dàn
ý tốt nhất.
trước lớp.
Dàn ý: Tả con gấu bông
- HS tuyên dương nhóm có dàn ý
hay.
C. Củng cố - dặn dò:
- GV tổ chức trò chơi: Xem gợi ý – Đoán đồ
chơi.
- GV đọc lần lượt các gợi ý, HS trả lời đáp
án.
Đồ chơi 1:
1. Đây là đồ vật xuất hiện trong bộ truyện
tranh Đô – rê – mon được dùng để di chuyển
từ nơi này đến nơi khác.
2. Có bốn cánh, ở giữa là trục quay, có cán
để cầm.
3. Hoạt động nhờ sức gió.
Đồ chơi 2:
1. Đồ chơi này gồm nhiều chi tiết với các
hình khối, màu sắc kháu nhau.
2. Đòi hỏi ở người chơi sự thông minh, khéo
léo, sáng tạo.
3. Từ những khối đó, ta có thể xếp được
nhiều thứ: nhà, ô tô, cầu, rô bốt ...
Đồ chơi 3:
1. Đồ chơi này được làm bằng nhựa, bao
gồm nhiều khối tròn gắn lại với nhau.
2. Đầu tròn, thân tròn, không có chân, vẻ mặt
xinh xắn, đôi má hồng hào, mắt to.
3. Nằm xuống nó có thể tự ngồi dậy.
Đồ chơi 4:
1. Đây là đồ chơi các bé gái rất yêu thích.
2. Thường được làm bằng bông hoặc nhựa,
có thể hát hay khóc.
3. Khuôn mặt bầu bĩnh, dễ thương. Đôi mắt
to, tròn xoe, mặc trang phục lộng lẫy.
(Lưu ý: GV đọc lần lượt từng gợi ý, gợi ý 1
HS chưa tìm ra đáp án thì đọc tiếp gợi ý 2 ...
HS tìm ra đáp án với các gợi ý đầu thì GV
nên khuyến khích, khen ngợi)
- GV chốt lại: Khi quan sát cần chú ý những
gì?
- GV nhận xét tiết học.
- Dặn HS về nhà chuẩn bị bài sau: “Luyện
tập giới thiệu địa phương”.
- HS trả lời
- Đáp án: Chong chóng.
- Đáp án: Bộ lắp ghép
- Đáp án: Búp bê lật đật
- Đáp án: Búp bê
- 2 HS nêu.
- HS lắng nghe.
P28
GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM 2
Tập làm văn: Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối
(Tuần 24, tiết 1, lớp 4)
I. Mục tiêu:
- Học sinh vận dụng những hiểu biết về đoạn văn trong bài văn miêu tả cây
cối đã học để viết một số đoạn văn (còn thiếu ý) cho hoàn chỉnh (bài tập 2).
- Tiếp tục rèn kĩ năng quan sát và trình bày được những đặc điểm cơ bản về
các bộ phận của cây cối.
- Rèn luyện ý thức chăm sóc và bảo vệ cây trồng.
II. Đồ dùng dạy học:
- Các bảng phụ ghi nội dung 4 đoạn chưa hoàn chỉnh của bài văn miêu tả cây
chuối tiêu (bài tập 2).
III. Hoạt động dạy – học:
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh
A. Kiểm tra bài cũ:
- Yêu cầu 2 HS đọc đoạn văn miêu tả về
một bộ phận: gốc, cành hay lá của một
loài cây cối đã học.
- GV nhận xét, đánh giá về cách lựa
chọn và sắp xếp các chi tiết trong viết
đoạn văn tả các bộ phận cây cối.
(Lưu ý: đoạn văn miêu tả sẽ hay hơn,
sinh động hơn nếu HS sử dụng các
phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu
từ khi miêu tả).
- HS đọc bài làm của mình.
- Lớp nhận xét.
- HS lắng nghe.
B. Dạy bài mới:
1. Giới thiệu bài:
- Nêu mục đích, yêu cầu của bài học.
2. Hướng dẫn thực hành:
Bài tập 1: Yêu cầu HS đọc dàn ý về bài
văn miêu tả cây chuối tiêu.
- Từng ý trong dàn ý trên thuộc phần
nào trong cấu tạo của bài văn tả cây cối?
- Yêu cầu HS phát biểu ý kiến.
- HS lắng nghe.
- 2 HS đọc thành tiếng, cả lớp đọc thầm.
- 2 HS ngồi cùng bàn trao đổi và sửa
cho nhau.
- Tiếp nối nhau phát biểu:
Đoạn 1: Giới thiệu cây chuối tiêu.
Thuộc phần Mở bài.
Đoạn 2 và 3: Tả bao quát, tả từng bộ
phận của cây chuối tiêu.
Thuộc phần Thân bài.
P29
- Cả lớp nhận xét.
- GV nhận xét và sửa lỗi, khen ngợi HS
trả lời đúng.
Bài tập 2: Yêu cầu HS đọc kĩ bài tập 2,
xác định yêu cầu của đề.
- GV chốt: Yêu cầu của bài tập là diễn
đạt cho hoàn chỉnh đoạn văn trong bài
văn tả cây chuối tiêu.
- Để có thể giúp bạn Hồng Nhung hoàn
chỉnh bài văn tả cây chuối tiêu, GV chia
lớp thành 4 nhóm, cho bốc thăm chọn 1
trong 4 đoạn văn để thảo luận điền vào
chỗ trống để giúp bạn viết hoàn chỉnh
bốn đoạn văn này. (GV treo bảng phụ
các đoạn văn lên bảng lớp).
- Yêu cầu phần trình bày của các nhóm.
- Phần trả lời của nhóm có đoạn 1:
[...] Em thích nhất một cây chuối tiêu
sai quả trong bụi chuối và góc vườn.
 đoạn 1 đã có phần nào? Còn thiếu
phần nào?
- Đại diện nhóm báo cáo kết quả thảo
luận.
- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
- GV nhận xét và gợi ý cho HS diễn đạt
sao cho sinh động hơn.
- Phần trả lời của nhóm có đoạn 2:
Nhìn từ xa, cây chuối như một chiếc ô
xanh mát rượi. Thân cây cao hơn đầu
người, mọc thẳng, không có cành, chạy
quanh là mấy cây con đứng sát lại thành
bụi [...].
 đoạn 2 là phần nào của dàn ý? Đoạn
này đã có phần nào và cần bổ sung phần
nào?
- Nhóm báo cáo kết quả thảo luận.
Đoạn 4: Nêu lợi ích của cây chuối tiêu.
Thuộc phần Kết bài.
- HS nhận xét.
- HS lắng nghe.
- HS đọc yêu cầu BT, suy nghĩ để trả
lời.
- Đại diện nhóm lên bốc thăm, các
nhóm thảo luận trong vòng 10 phút rồi
lần lượt lên trình bày kết quả của nhóm
mình theo thứ tự xuất hiện của đoạn
văn.
- HS lần lượt trả lời, các nhóm khác
nhận xét, bổ sung.
- Đoạn 1 mới có câu kết đoạn, ta cần bổ
sung câu mở đoạn và phần phát triển
thân đoạn.
- Kết quả thảo luận:
[Vườn nhà em trồng nhiều loại cây ăn
quả. Nào mít, nào nhãn, nào vải thiều, ...
và nhiều hơn cả là chuối.]
- Nhận xét, bổ sung cho nhóm bạn.
- Diễn đạt sinh động hơn: [Hè vừa qua,
về thăm quê ngoại, em vô cùng sung
sướng khi được ngắm cảnh đẹp của
vườn cây ăn quả nhà ngoại. Nơi đó có
ổi, mận, mít, xoài, táo, ...]
- Đoạn này thuộc phần thân bài. Đoạn
này đã có câu mở đoạn, ta cần bổ sung
câu phát triển đoạn và kết đoạn.
- Kết quả thảo luận:
[như người mẹ đang dắt con đi dạo mát.
P30
- GV nhận xét và gợi ý cho HS diễn đạt
tự nhiên, sinh động hơn.
- Phần trả lời của nhóm có đoạn 3:
Cây chuối có nhiều tàu lá, có tàu đã già
khô, bị gió đánh rách ngang và rũ xuống
gốc. Các tàu lá còn xanh thì liền tấm, to
như cái máng nước úp sấp. Những tàu lá
ở dưới màu xanh thẫm. Những tàu lá ở
trên màu xanh mát, nhạt dần. [...]
 tiếp nối dòng cảm xúc của bạn Hồng
Nhung khi viết đoạn văn tả chi tiết các
bộ phận của cây chuối tiêu. Các em cần
bổ sung câu văn tả thân chuối, buồng
chuối để có đoạn văn hoàn chỉnh.
- Nhóm báo cáo kết quả.
- GV nhận xét: Các em có thể sử dụng
các phương tiện ngôn ngữ và các biện
pháp tu từ để miêu tả các bộ phận của
cây chuối sinh động, hấp dẫn hơn.
- Phần trả lời của nhóm có đoạn 4:
Đến gần mới thấy rõ chiếc o xanh đã
không còn lành lặn, sắc màu đã không
còn tươi tốt. Vỏ cây đã hơi khô lại, sờ
vào thấy ram ráp.]
- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
- Diễn đạt theo cách khác: [trông như
một người mẹ dắt con đi dạo mát trong
những ngày hè oi bức. Sờ vào thân cây
chuối có buồng, tay em không còn cảm
giác mát rượi vì cái vỏ nhẵn bóng đã hơi
khô lại nhường chỗ cho sự ram rám bởi
quá trình làm mẹ vất vả của thân chuối
đơn sơ.]
[Thân chuối đã có những vết đen sẫm,
chạy suốt thân. Đó là dấu hiệu của sự
tàn úa. Em sờ tay vào thấy nham nhám
chứ không trơn láng như cây chuối còn
non. Buồng chuối dài lê thê, từ ngọn đổ
xuống gốc. Buồng chuối có tới chục nải.
Những nải chuối xếp thành từng lớp
ngửa lên trên. Các quả chuối như bàn
tay xòe ngón. Những trái chuối còn non,
ốm gầy, ở đầu trái loe hoe túm râu đen]
- Miêu tả theo cách khác: [Tàu trên
ngọn, lá còn cuộn chưa nở hết trông như
một chiếc loa. Buồng chuối dài lê thê
như muốn kéo thân chuối ngã về một
phía. Những nải chuối úp sát vào nhau,
trái nhỏ dần phía dưới. Mỗi nải chen
chúc những trái sởn sơ, to bằng cẳng tay
em bé, dáng cong cong, phía dưới có
cọng nhỏ kéo đen.]
P31
[...] Chuối có ích như thế nên bà em
thường xuyên chăm bón cho chuối tốt
tươi.
 đoạn này nêu vấn đề gì? Ta cần bổ
sung thêm phần nào cho hoàn chỉnh?
- Nhóm báo cáo kết quả thảo luận.
- GV nhận xét: Gợi ý HS viết kết bài
mở rộng để bài văn thuyết phục hơn,
nêu bật được lợi ích của cây chuối tiêu.
- GV chốt: Các câu trong đoạn văn điều
hướng đến một nội dung nhất định.
Muốn viết được những câu văn hay,
trọn vẹn ý mà nêu bật được đối tượng
miêu tả các em cần sử dụng linh hoạt
các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp
tu từ trong viết câu, dựng đoạn văn.
- Gọi 1 – 2 HS đọc lại bài văn hoàn
chỉnh.
- Là đoạn văn nói về lợi ích của cây
chuối. Ta cần bổ sung thêm phần mở
đoạn và phát triển đoạn.
- Kết quả thảo luận: [Cây chuối rất có
ích. Trái chuối ăn rất ngon và là nguồn
dinh dưỡng vô cùng quý giá.]
- HS nhận xét và bổ sung cho nhóm bạn.
- Có thể viết như sau: [Cây chuối cống
hiến trọn vẹn cho con người. Củ chuối,
thân chuối người ăn được nhưng chủ
yếu để nuôi heo. Lá chuối bà dùng gói
bánh tét ngày Tết. Hoa chuối dùng làm
gỏi ăn rất ngon. Còn quả chuối chín thì
vừa ngọt thơm vừa bổ dưỡng]
- HS lắng nghe.
- HS đọc bài văn miêu tả cây chuối tiêu.
Bài tập củng cố: Chọn phương án thích hợp (mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa
đông) để điền vào chỗ trống trong các đoạn văn dưới đây. Sắp xếp lại các đoạn văn
để hoàn chỉnh bài văn tả sự thay đổi của lá bàng qua các mùa.
1. Vào....................... , khi tiết trời se lạnh những chiếc lá bàng to như hai bàn tay
người lớn vốn màu xanh đậm chuyển sang màu vàng gạch quăn dần mép lá rồi
vồng lên như hình mo cau. Lúc này nó biến sang màu đỏ tía và khi những chị gió
thu tinh nghịch thổi đến nó vội vã bứt ra khỏi cành chao liệng giữa không trung i
hệt những cánh tay vẫy chào tạm biệt nơi đã sinh ra mình. Nhìn những chiếc lá
bàng nằm trải dài trên sân trường trông mới tuyệt làm sao! Cứ thế, những chiếc lá
bàng chuyển dần màu sắc cho đến khi những cơn gió lạnh buốt từ phương Bắc tràn
về thì cây bàng không còn một chiếc lá nào nữa.
Cây bàng là một loại cây rất nhạy cảm với sự thay đổi của bốn mùa. Nhìn lá bàng
người ta có thể nhận biết chính xác các mùa trong năm.
Cho đến khi..........................về, lá vàng rợp mát cả một khoảng sân và đây là thời
điểm mà tụi nhỏ chúng tôi tụm năm tụm bẩy vui đùa nhảy nhót hết sức thoải mái
vào những giờ chơi dưới gốc bàng mát rượi thân yêu này. Bàng còn là nơi gọi
chim về tụ hội ca hát nhảy múa trong vòm lá. Càng tô điểm cho cây vẻ đẹp mĩ
miều.
Rồi tiết trời như ấm lại,............................. đã về. Chỉ một tuần thôi thì những chồi
P32
non xanh li ti đã điểm hết những cành to, cành nhỏ. Thoáng cái đã thấy màu xanh
non bao phủ lấy toàn thân cây và chuyển dần sang màu xanh đậm. Những chiếc lá
của tầng thấp, tầng cao phát triển nhanh đến kì lạ. Từ bé bằng bàn tay trẻ nhỏ mà
nay đã phè phè như cái quạt mo.
Tụi nhỏ chúng tôi yêu cây bàng này lắm bởi nó đã gắn bó với ngôi trường tôi. Nó
còn là nơi chứng kiến bao kỉ niệm vui buồn của tuổi học trò. Dù mai này có phải
xa mái trường, xa cây bàng yêu dấu này thì hình ảnh về cây bàng mãi mãi in đậm
trong tâm trí tôi.
Còn lại những cành trơ trụi trông có vẻ khẳng khiu gồng mình chịu đựng cái rét
lạnh buốt của.............................nhưng trong những cành khẳng khiu ấy vẫn tràn trề
nhựa sống.
(Gợi ý đáp án: mùa thu – mùa đông – mùa xuân – mùa hạ, thứ tự sắp xếp 2 – 1 – 6
– 4 – 3 – 5 )
3. Củng cố - dặn dò:
- Muốn viết được một đoạn văn miêu tả
cây cối hay, ngoài việc biết quan sát,
chọn lựa chi tiết, tìm ý, lập dàn ý thì cần
phải sử dụng các phương tiện ngôn ngữ
để liên kết các câu, đoạn văn lại và các
biện pháp tu từ trong viết văn để cho bài
văn trở nên sinh động, lôi cuốn hơn.
- Nhận xét tiết học, chuẩn bị cho bài học
sau: Tóm tắt tin tức.
- HS lắng nghe
P33
PHỤ LỤC 7
ĐỀ KIỂM TRA SAU THỰC NGHIỆM
Đề 1: Bằng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn
bản miêu tả, em hãy viết bài văn ngắn tả một con vật mà em quý mến.
Đề 2: Hãy viết đoạn văn ngắn tả một cây bóng mát trong sân trường em,
trong đó có sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ.
P34
PHỤ LỤC 8
PHIẾU ĐIỀU TRA HỨNG THÚ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
Họ và tên:.................................................................................................................
Lớp: ..................Trƣờng:.........................................................................................
Em hãy khoanh tròn vào chữ cái đầu câu trả lời:
Sau khi học xong các bài thực nghiệm Tập làm văn, em có cảm thấy hứng
thú hơn với các tiết học Tập làm văn trước đây không?
A. Rất hứng thú C. Bình thường
B. Tương đối hứng thú D. Không hứng thú
P35
PHỤ LỤC 9
ĐƠN XÁC NHẬN
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM

More Related Content

PDF
Tài Liệu Giáo Dục Hòa Nhập Trẻ Khuyết Tật Trí Tuệ
PDF
Đề tài: Sử dụng trò chơi học tập trong dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4, 5
PDF
Luận văn: Phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4
PDF
Luận văn: Phát triển năng lực nói cho học sinh lớp Năm qua hoạt động trải ngh...
PDF
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ DẦU KHÍ ANH – VIỆT_102416120...
PPTX
How to write a descriptive essay
PPTX
Multi Sensory Approach in Education Technology
PPTX
Diabetes Mellitus
Tài Liệu Giáo Dục Hòa Nhập Trẻ Khuyết Tật Trí Tuệ
Đề tài: Sử dụng trò chơi học tập trong dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4, 5
Luận văn: Phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4
Luận văn: Phát triển năng lực nói cho học sinh lớp Năm qua hoạt động trải ngh...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ DẦU KHÍ ANH – VIỆT_102416120...
How to write a descriptive essay
Multi Sensory Approach in Education Technology
Diabetes Mellitus

What's hot (20)

PDF
Luận văn: Phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh thông qua dạy họ...
PDF
Xây dựng hệ thống bài tập theo hướng phát triển năng lực tự học, 9đ
PDF
Luận văn: Phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 4, 5...
PDF
Luận văn: Vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy văn miêu tả, 9đ
PDF
Luận văn: Phát triển năng lực tự học cho học sinh trong dạy học chương “Mắt. ...
PDF
Luận văn: Phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh lớp 4 và 5
PDF
Biện pháp rèn kĩ năng diễn đạt trong văn miêu tả cho học sinh lớp 5
PDF
Luận văn: Hình thành năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh bằng phương ...
PDF
Đề tài: Vận dụng chu trình dạy học 5E vào dạy chủ đề Toán, HAY
PDF
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu các văn bản tự sự văn học nước ngoài lớp 12 ở tr...
PDF
Bước đầu hình thành kỹ năng tạo lập văn bản đa phương thức bằng megastory cho...
PDF
BIỆN PHÁP VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HỢP TÁC VÀO DẠY ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN NGH...
PDF
Luận văn: Phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh qua bài tập tình...
PDF
Thiết kế tình huống dạy học hiệu quả trong môn Toán tiểu học
PDF
Luận văn: Phát triển năng lực viết sáng tạo cho sinh viên ngành Giáo dục Tiểu...
PDF
Dạy học đọc hiểu văn bản truyện cho học sinh lớp 4, 5 theo quan điểm giao tiế...
PDF
Luận văn: Xây dựng tình huống dạy học chủ đề Con người và sức khỏe trong môn ...
PDF
Luận văn, Đề tài: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Tự...
PDF
Luận văn: Dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình trong THPT, HAY
PDF
Phát triển năng lực tự học cho học sinh qua dạy học theo chương Halogen
Luận văn: Phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh thông qua dạy họ...
Xây dựng hệ thống bài tập theo hướng phát triển năng lực tự học, 9đ
Luận văn: Phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 4, 5...
Luận văn: Vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy văn miêu tả, 9đ
Luận văn: Phát triển năng lực tự học cho học sinh trong dạy học chương “Mắt. ...
Luận văn: Phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh lớp 4 và 5
Biện pháp rèn kĩ năng diễn đạt trong văn miêu tả cho học sinh lớp 5
Luận văn: Hình thành năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh bằng phương ...
Đề tài: Vận dụng chu trình dạy học 5E vào dạy chủ đề Toán, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu các văn bản tự sự văn học nước ngoài lớp 12 ở tr...
Bước đầu hình thành kỹ năng tạo lập văn bản đa phương thức bằng megastory cho...
BIỆN PHÁP VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HỢP TÁC VÀO DẠY ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN NGH...
Luận văn: Phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh qua bài tập tình...
Thiết kế tình huống dạy học hiệu quả trong môn Toán tiểu học
Luận văn: Phát triển năng lực viết sáng tạo cho sinh viên ngành Giáo dục Tiểu...
Dạy học đọc hiểu văn bản truyện cho học sinh lớp 4, 5 theo quan điểm giao tiế...
Luận văn: Xây dựng tình huống dạy học chủ đề Con người và sức khỏe trong môn ...
Luận văn, Đề tài: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Tự...
Luận văn: Dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình trong THPT, HAY
Phát triển năng lực tự học cho học sinh qua dạy học theo chương Halogen
Ad

Similar to Luận văn: Phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 (20)

PDF
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
PDF
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPT
PDF
Luận văn:Dạy đọc hiểu văn bản văn học trung đại Việt Nam ở Ngữ văn 10 THPT th...
PDF
Phát triển năng lực sử dụng câu cho sinh viên ngành ngoài sư phạm
PDF
Luận văn: Phát triển năng lực sử dụng câu cho sinh viên ngành ngoài sư phạm ở...
PDF
Phát triển năng lực hợp tác cho học sinh trong dạy học chương “Chất khí”
PDF
Luận văn: Phát triển năng lực hợp tác cho học sinh thông qua việc sử dụng thí...
PDF
Phát triển năng lực hợp tác cho học sinh thông qua việc sử dụng thí nghiệm
PDF
Thiet ke tai_lieu_tu_hoc_co_huong_dan_theo_modun_nham_ho_tro_viec_tu_hoc_cho_...
PDF
Luận văn: Rèn luyện kỹ năng xây dựng đoạn văn trong bài văn nghị luận
PDF
Luận văn: Rèn luyện kỹ năng xây dựng đoạn văn trong bài văn nghị luận văn học...
PDF
Luận văn: Dạy học các bài về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và nghệ thuật
PDF
Luận văn: Dạy học các bài về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và phong cách ngôn...
PDF
Luận văn: Phát triển năng lực tự học của học sinh thông qua hệ thống bài tập ...
PDF
Luận văn: Phát triển năng lực tự học qua bài tập phần phi kim hoá học
PDF
Luận văn: Dạy học tác phẩm tự sự dân gian trong SGK Ngữ văn lớp 10 theo mô hì...
PDF
Luận văn: Dạy học tác phẩm tự sự dân gian trong SGK Ngữ văn lớp 10
PDF
Luận văn: Phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh dân tộc thiểu số
PDF
Luận văn: Dạy học đọc hiểu văn bản tự sự trường THPT theo định hướng phát tri...
PDF
Luận văn: Đọc hiểu văn bản tự sự ở trường THPT phát triển năng lực HS
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPT
Luận văn:Dạy đọc hiểu văn bản văn học trung đại Việt Nam ở Ngữ văn 10 THPT th...
Phát triển năng lực sử dụng câu cho sinh viên ngành ngoài sư phạm
Luận văn: Phát triển năng lực sử dụng câu cho sinh viên ngành ngoài sư phạm ở...
Phát triển năng lực hợp tác cho học sinh trong dạy học chương “Chất khí”
Luận văn: Phát triển năng lực hợp tác cho học sinh thông qua việc sử dụng thí...
Phát triển năng lực hợp tác cho học sinh thông qua việc sử dụng thí nghiệm
Thiet ke tai_lieu_tu_hoc_co_huong_dan_theo_modun_nham_ho_tro_viec_tu_hoc_cho_...
Luận văn: Rèn luyện kỹ năng xây dựng đoạn văn trong bài văn nghị luận
Luận văn: Rèn luyện kỹ năng xây dựng đoạn văn trong bài văn nghị luận văn học...
Luận văn: Dạy học các bài về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và nghệ thuật
Luận văn: Dạy học các bài về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và phong cách ngôn...
Luận văn: Phát triển năng lực tự học của học sinh thông qua hệ thống bài tập ...
Luận văn: Phát triển năng lực tự học qua bài tập phần phi kim hoá học
Luận văn: Dạy học tác phẩm tự sự dân gian trong SGK Ngữ văn lớp 10 theo mô hì...
Luận văn: Dạy học tác phẩm tự sự dân gian trong SGK Ngữ văn lớp 10
Luận văn: Phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh dân tộc thiểu số
Luận văn: Dạy học đọc hiểu văn bản tự sự trường THPT theo định hướng phát tri...
Luận văn: Đọc hiểu văn bản tự sự ở trường THPT phát triển năng lực HS
Ad

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

DOC
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
DOC
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
DOC
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
DOC
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
DOC
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
DOC
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
DOC
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
DOCX
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
DOC
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
DOCX
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
DOC
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
DOC
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
DOC
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
DOC
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
DOC
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
DOCX
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
DOC
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
DOC
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
DOC
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
DOCX
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư

Recently uploaded (20)

PDF
SÁNG KIẾN THIẾT KẾ MÔ HÌNH HỆ SINH THÁI HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH THPT TRONG ...
PDF
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
PDF
BÀI GIẢNG CƠ SỞ SINH HỌC NGƯỜI - KHOA SƯ PHẠM KHOA HỌC TỰ NHIÊN ĐẠI HỌC ĐỒNG ...
PPTX
Từ và câu NHÓM 4 - LỚP 5 CTST tiểu học.pptx
PDF
Cơ bản về matlab simulink cho người mới bắt đầu
PPTX
KINH TẾ CHÍNH TRỊ - HÀNG HÓA THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ...
PDF
SÁNG KIẾN THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VẬT SỐNG MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN 7 ...
PDF
FULL TN LSĐ 2024 HUIT. LICH SU DANGGGGGG
PPT
danh-sach-lien-ket_Cấu trúc dữ liệu và giải thuậ.ppt
PPTX
VNR202 LỊCH SỬ ĐẢNG, MÔN HỌC CẦN THIẾT C
PPT
Slide Nguyên lý bảo hiểm đại học knh tế quốc dân
DOCX
LUẬN VĂN GROUP ĐỀ BÀI ĐÁNH GIÁ GIAO TIẾP SƯ PHẠM
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 CẦU LÔNG - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO C...
PDF
TUYỂN TẬP ĐỀ KIỂM TRA HÓA HỌC HỮU CƠ THI THỬ OLYMPIC HÓA HỌC QUỐC TẾ (VÒNG 2)...
PPTX
Ứng dụng AI trong hệ thống cơ điện của nhóm 3.pptx
PPTX
Chương3,Buổi7,8,9,10(Buổi10 kiểmtraL2).pptx
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
DOC
De Cuong Chi Tiet Mon Hoc - Kien Truc He Thong.doc
PPTX
Bai giang cho can bo chu chot cac xa_phuong_2025.pptx
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
SÁNG KIẾN THIẾT KẾ MÔ HÌNH HỆ SINH THÁI HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH THPT TRONG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
BÀI GIẢNG CƠ SỞ SINH HỌC NGƯỜI - KHOA SƯ PHẠM KHOA HỌC TỰ NHIÊN ĐẠI HỌC ĐỒNG ...
Từ và câu NHÓM 4 - LỚP 5 CTST tiểu học.pptx
Cơ bản về matlab simulink cho người mới bắt đầu
KINH TẾ CHÍNH TRỊ - HÀNG HÓA THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ...
SÁNG KIẾN THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VẬT SỐNG MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN 7 ...
FULL TN LSĐ 2024 HUIT. LICH SU DANGGGGGG
danh-sach-lien-ket_Cấu trúc dữ liệu và giải thuậ.ppt
VNR202 LỊCH SỬ ĐẢNG, MÔN HỌC CẦN THIẾT C
Slide Nguyên lý bảo hiểm đại học knh tế quốc dân
LUẬN VĂN GROUP ĐỀ BÀI ĐÁNH GIÁ GIAO TIẾP SƯ PHẠM
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 CẦU LÔNG - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO C...
TUYỂN TẬP ĐỀ KIỂM TRA HÓA HỌC HỮU CƠ THI THỬ OLYMPIC HÓA HỌC QUỐC TẾ (VÒNG 2)...
Ứng dụng AI trong hệ thống cơ điện của nhóm 3.pptx
Chương3,Buổi7,8,9,10(Buổi10 kiểmtraL2).pptx
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 12 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
De Cuong Chi Tiet Mon Hoc - Kien Truc He Thong.doc
Bai giang cho can bo chu chot cac xa_phuong_2025.pptx
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...

Luận văn: Phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4

  • 1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ĐẶNG THỊ KIM LIÊN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO LẬP VĂN BẢN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC (Giáo dục Tiểu học) THEO ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU Thừa Thiên Huế, 2017
  • 2. i ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ĐẶNG THỊ KIM LIÊN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO LẬP VĂN BẢN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4 Chuyên nghành: Giáo dục học (Giáo dục tiểu học) Mã số: 60 14 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC THEO ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Lê Thị Ngọc Anh Thừa Thiên Huế, 2017
  • 3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Họ tên tác giả Đặng Thị Kim Liên
  • 4. ii Lời Cảm Ơn Bằng tấm lòng trân trọng và sự biết ơn sâu sắc của mình, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo TS. Lê Thị Ngọc Anh, người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong Khoa Giáo dục Tiểu học trường Đại học Sư phạm Huế đã giảng dạy và luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt hành trình khóa học. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu và tập thể giáo viên, học sinh Trường Tiểu học Số 2 Kim Long và Trường Tiểu học Phú Cát – Thành phố Huế đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi được học Cao học và hoàn thành luận văn. Lời sau cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè đã luôn quan tâm, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Xin chân thành cảm ơn! Đặng Thị Kim Liên ii
  • 5. iii MỤC LỤC Lời cam đoan .............................................................................................................. i Lời cảm ơn ................................................................................................................. ii Mục lục....................................................................................................................... ii Bảng chữ cái viết tắt.................................................................................................. vi Danh mục các bảng, biểu đồ .................................................................................... vii MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................6 3.1. Mục đích nghiên cứu............................................................................................6 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu...........................................................................................6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................7 4.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................7 4.2. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................7 5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................7 5.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp.......................................................................7 5.2. Phương pháp quan sát - điều tra...........................................................................7 5.3. Phương pháp thống kê, phân loại toán học..........................................................7 5.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.....................................................................7 6. Cấu trúc của luận văn..............................................................................................7 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO TẬP VĂN BẢN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4............8 1.1. Cơ sở lí luận .........................................................................................................8 1.1.1. Định hướng phát triển năng lực trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học ..............8 1.1.2. Văn miêu tả và năng lực tạo lập văn bản miêu tả trong phân môn Tập làm văn.17 1.1.3. Đặc điểm tâm lí và tư duy của học sinh lớp 4 ảnh hưởng đến việc tạo lập văn bản miêu tả ................................................................................................................23 1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................25
  • 6. iv 1.2.1. Nội dung dạy học làm văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 4 hiện hành ........................................................................................................................25 1.2.2. Thực trạng dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 tại một số trường Tiểu học ở Thành phố Huế............................................................................31 Tiểu kết chương 1......................................................................................................38 Chƣơng 2. BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO VĂN BẢN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4..................................................................................39 2.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp ............................................................................39 2.1.1. Đảm bảo mục tiêu và nội dung dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 ........................................................................................................................39 2.1.2. Đảm bảo phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.............39 2.1.3. Đảm bảo tính hệ thống, tính vừa sức ..............................................................40 2.2. Hệ thống biện pháp phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 40 2.2.1. Phát triển kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong tạo lập văn bản.....40 2.2.2. Phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu tả ..............................54 2.2.3. Phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả..............................................................................................67 Tiểu kết chương 2......................................................................................................85 Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ..............................................................86 3.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................................86 3.2. Đối tượng và phạm vi thực nghiệm ...................................................................86 3.2.1. Đối tượng thực nghiệm ...................................................................................86 3.2.2. Phạm vi thực nghiệm ......................................................................................86 3.3. Phương pháp và nguyên tắc thực nghiệm ..........................................................86 3.3.1. Phương pháp thực nghiệm ..............................................................................86 3.3.2. Nguyên tắc thực nghiệm .................................................................................87 3.4. Nội dung thực nghiệm........................................................................................87 3.4.1. Thời gian thực nghiệm ....................................................................................87 3.4.2.Giáo án thực nghiệm ........................................................................................87 3.4.3. Tiến hành thực nghiệm....................................................................................88
  • 7. v 3.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả thực nghiệm ............................................................88 3.5.1. Hình thức kiểm tra ..........................................................................................88 3.5.2. Tiêu chí đánh giá.............................................................................................88 3.5.3.Kết quả thực nghiệm sư phạm .........................................................................89 Tiểu kết chương 3......................................................................................................95 KẾT LUẬN..............................................................................................................96 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................99 PHỤ LỤC
  • 8. vi DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN GV Giáo viên HS Học sinh SGK Sách giáo khoa NL Năng lực SL Số lượng TL Tỉ lệ LTN Lớp thực nghiệm LĐC Lớp đối chứng
  • 9. vii DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng 1.4. Cấu trúc chương trình tập làm văn lớp 4.................................................25 Bảng 1.5. Kết quả khảo sát GV ...............................................................................31 Bảng 1.6. Kết quả khảo sát HS.................................................................................35 Bảng 3.3. Kết quả làm bài văn miêu tả của HS trường Tiểu học Số 2 Kim Long ...89 Bảng 3.4. Kết quả làm bài văn miêu tả của HS trường Tiểu học Phú Cát ...............89 Bảng 3.5. Kết quả tổng hợp bài làm văn miêu tả của HS.........................................89 Bảng 3.6. Bảng thống kê mức độ hứng thú học tập của HS.....................................94 Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh kết quả lớp đối chứng và lớp thực nghiệm ................90 (theo Số lượng)..........................................................................................................90 Biểu đồ 3.2. Biểu đồ so sánh kết quả lớp đối chứng và lớp thực nghiệm ................90 (theo Tỉ lệ).................................................................................................................90
  • 10. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam: Trong chiến lược phát triển đất nước, giáo dục luôn được xem là “quốc sách hàng đầu”, là “tương lai của dân tộc”. Nghị quyết 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI xác định mục tiêu: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”; trong đó, đối với giáo dục phổ thông, Đảng và Nhà nước chú trọng “tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, NL công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho HS. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, NL và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời” [1]. Từ những yêu cầu mang tính cấp thiết đó, những năm gần đây, giáo dục phổ thông Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, thường xuyên cập nhật các thông tin khoa học mới, góp phần phong phú hoá tư liệu dạy học. Giáo dục Tiểu học, với vị thế nền tảng, khởi đầu, cũng từng bước hoà nhập không khí đổi mới, mạnh dạn đề xuất, thử nghiệm và tiếp tục phát triển các mô hình đào tạo như CGD (Công nghệ giáo dục - áp dụng chủ yếu với môn Tiếng Việt) hay dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới của Đan Mạch,... Việc dạy học tiếng mẹ đẻ, lẽ tất nhiên, không nằm ngoài sự vận động tích cực đó. 1.2. Xuất phát từ định hướng phát triển NL trong dạy học Tiếng Việt ở nhà trường tiểu học: Nghị quyết về Đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông (số 88/2014/QH13) thông qua ngày 28/11/2014 tại kì họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII nhấn mạnh việc “xây dựng chương trình giáo dục phổ thông theo hướng phát triển NL người học” [2]. Bên cạnh hệ thống “năng lực chung”, giáo dục cần hướng tới phát triển ở người học các “năng lực chuyên biệt”, trong đó có NL ngôn ngữ (linguistic competence) và NL sử dụng ngôn ngữ (hay NL giao tiếp -communicative competence). Quan điểm “dạy tiếng Việt để giao tiếp và dạy bằng giao tiếp” cũng
  • 11. 2 được các nhà sư phạm chú trọng, xem đó là yếu tố cơ bản chi phối toàn bộ quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ ở nhà trường phổ thông. Dạy học Tiếng Việt ở tiểu học một mặt tiếp tục phát triển trên những nền tảng vững chắc về khoa học ngôn ngữ và khoa học sư phạm, mặt khác tiếp cận với những định hướng chiến lược mới nhằm phát triển ở người học các NL vận hành tiếng mẹ đẻ. Điều này đồng nghĩa với việc HS được rèn luyện một cách hệ thống các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết; các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh,... NL của người học được đo bằng những sản phẩm lời nói tạo lập được. Đó có thể là bài đọc (kể) diễn cảm tác phẩm văn học, là một đoạn văn, bài văn hay một phát ngôn biểu thị chính xác nghi thức giao tiếp. Tựu trung, từ điểm nhìn năng lực, nhân tố con người được đặt trong một chuỗi các hoạt động mang tính kết nối, khoa học, có khả năng khơi nguồn cảm hứng sáng tạo... 1.3. Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn đối với việc dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4: Chương trình Tiếng Việt tiểu học hiện hành là hợp phần gồm bảy phân môn, trong đó có Tập làm văn - phân môn đảm nhiệm việc “rèn cho học sinh NL tạo lập, sản sinh ngôn bản” [10]. Ở các lớp cuối bậc Tiểu học, các kiểu bài làm văn cũng có sự phát triển đa dạng hơn. Văn miêu tả, với những đặc trưng riêng, luôn hấp dẫn trẻ nhỏ. Bởi với kiểu bài này, các em được thoả mãn khả năng sáng tạo, “tô điểm” cho bức tranh muôn màu của cuộc sống bằng chất liệu ngôn từ. Năm dạng thức văn miêu tả (tả đồ vật, tả con vật, tả cây cối, tả cảnh, tả người) đặt ra những yêu cầu riêng về quá trình quan sát, tìm ý, chuyển ý thành lời,... Điều này làm nên sự phong phú trong cách thức biểu đạt song cũng gây không ít khó khăn cho HS, nhất là khi vốn sống, sự trải nghiệm, trình độ ngôn ngữ, tư duy của các em còn nhiều hạn chế. Dạy tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 là một bước khởi đầu của dạy tạo lập văn bản nghệ thuật trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. Vận hành vốn từ đã tích luỹ để dệt nên những "bức vẽ" về cỏ cây hoa lá, về chim muông, về những đồ vật gần gũi quanh mình sẽ giúp trẻ có được những trải nghiệm thú vị. Đây cũng là cách các em “chạm vào cuộc sống”, cảm nhận từ thế giới xung quanh những gì thân yêu nhất. Thực hành tạo lập văn bản miêu tả còn góp phần hình thành ở HS lớp 4 NL quan sát, tri nhận sự vật, thể hiện cá tính sáng tạo qua từ ngữ, qua các biện pháp tu từ từ vựng, cú pháp,... Mặc dù vậy, thực tiễn dạy học Tập làm văn lớp 4 cho thấy những hạn chế nhất định về quy trình, cách thức tổ chức hoạt động tạo lập văn bản miêu tả. Các kĩ
  • 12. 3 năng tiền sản sinh ngôn bản như quan sát, trải nghiệm, tìm ý, lập dàn ý chưa được chú trọng. Từ phía HS, có thể thấy các em còn gặp một số khó khăn khi vận hành ngôn ngữ. Không ít bài văn của HS lớp 4 còn mắc lỗi diễn đạt, lỗi cú pháp, nghèo nàn về hình ảnh và thiếu tính sáng tạo. Đa số các em đã nắm được cấu trúc của một bài văn miêu tả song còn viết theo một lối mòn khuôn sáo, kém hấp dẫn, ít xúc cảm; đặc biệt, các em chưa biết cách sắp xếp ý trong đoạn văn, bài để tạo lập một văn bản hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, khả năng đánh giá, hiệu chỉnh sản phẩm lời nói của HS cũng chưa cao. Đứng trước những yêu cầu cấp thiết về dạy học theo định hướng phát triển NL, trong đó có phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả và những bài toán xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn đối với việc dạy tạo lập văn bản miêu tả, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4”. Đề tài một mặt hình thành, rèn luyện và phát triển các kĩ năng tạo lập văn bản miêu tả cho HS, mặt khác góp phần tạo nên những thay đổi về cách thức dạy học Tập làm văn theo định hướng mới. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Năng lực và dạy học theo định hướng phát triển năng lực là địa hạt nghiên cứu của nhiều nhà tâm lí học, giáo dục học trong và ngoài nước. Các tác giả đã xây dựng, đề xuất khá nhiều mô hình, cấu trúc NL. Trong Hội nghị chuyên đề về những năng lực cơ bản, tác giả J. Coolahan xem NL là những khả năng cơ bản dựa trên cơ sở tri thức, kinh nghiệm, các giá trị và thiên hướng của một con người được phát triển thông qua thực hành giáo dục. Tài liệu của các nhà sư phạm nghề Đức cũng đề xuất mô hình NL gồm bốn thành tố: (1) NL chuyên môn; (2) NL phương pháp; (3) NL xã hội; (4) NL cá thể. Trong hệ thống NL mà người học cần hướng tới, NL sử dụng ngôn ngữ có vai trò vô cùng quan trọng. Nhiệm vụ phát triển các kĩ năng tiếng Việt, trong đó có hệ thống kĩ năng tạo lập văn bản miêu tả, được các nhà phương pháp về dạy học tiếng xác lập một cách rõ ràng trong nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu. Tiêu biểu có thể kể đến tác giả Hoàng Hoà Bình với “Dạy văn cho học sinh tiểu học” (2002), tác giả Lê Phương Nga với nhóm công trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học II” (2006), “Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở tiểu học” (2009); tác giả Hoàng Thị Tuyết với “Lí luận dạy học Tiếng Việt ở tiểu học” (2012). Gần đây nhất, hai nhà khoa học Hoàng Hoà Bình - Nguyễn Minh Thuyết đã lấy điểm nhìn tiểu học để soi chiếu các vấn đề về dạy học tiếng. Công trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt nhìn từ tiểu học” (2012) có thể xem là một “điểm nối” hữu ích giữa chương trình Tiếng Việt hiện hành và những định hướng phát triển trong tương lai.
  • 13. 4 Ở Việt Nam, gắn với việc dạy học Ngữ văn (THCS và THPT), Tiếng Việt (tiểu học), các nhà khoa học như Đỗ Ngọc Thống, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Thị Hồng Vân cũng lần lượt nêu lên những quan điểm riêng về NL và việc chú trọng phát triển NL ngôn ngữ cho HS. Các bài nghiên cứu giới thiệu trong Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam của các tác giả nêu trên đã phần nào khẳng định chiến lược dạy học ngôn ngữ, dạy học tiếng mẹ đẻ theo nguyên tắc mới. Nếu tác giả Đỗ Ngọc Thống khái quát thực trạng và khẳng định hướng phát triển qua bài viết “Dạy học Ngữ văn trong nhà trường Việt Nam - hiện trạng, hướng phát triển và những vấn đề liên quan” (2013) thì tác giả Nguyễn Minh Thuyết lại đi vào phân tích và đề xuất những cách thức cấu trúc chương trình, SGK mới với “Một số vấn đề về đánh giá chương trình, SGK Ngữ văn hiện hành và đề xuất định hướng biên soạn chương trình, SGK mới” (2013). Trong một nghiên cứu khác của mình, “Về mô hình SGK Tiếng Việt tiểu học tương lai” (2014), nhà khoa học Nguyễn Minh Thuyết tiếp tục phác thảo mô hình chương trình, SGK Tiếng Việt dành cho HS tiểu học. Tựu chung lại, những công trình nghiên cứu về NL và dạy học Tiếng Việt theo định hướng phát triển NL trên đã góp phần rất lớn đáp ứng chủ trương chuyển đổi cách tiếp cận chương trình giáo dục từ hướng cung cấp nội dung sang cách tiếp cận hình thành và phát triển NL HS và đó chính là một trong những nhiệm vụ đổi mới căn bản mà người GV phải thực hiện trong quá trình dạy học nói chung và dạy học Tiếng Việt nói riêng theo định hướng phát triển NL. 2.2. Đề cập cụ thể đến văn miêu tả và dạy học văn miêu tả, nhà nghiên cứu Nguyễn Trí đã lần lượt nêu bật những đặc trưng cơ bản của “kiểu bài mang tính nghệ thuật”, từ đó chỉ dẫn các bước để tổ chức giờ học tạo lập văn miêu tả. “Văn miêu tả và phương pháp dạy học văn miêu tả ở tiểu học” (2007) là một quyển sách có giá trị đối với những đề tài nghiên cứu về việc dạy và học văn trong nhà trường tiểu học. Nhóm tác giả Đỗ Ngọc Thống - Phạm Minh Diệu với “Văn miêu tả trong nhà trường phổ thông” (2008) cũng đã tổng hợp khá đầy đủ các nhận định khác nhau từ các nhà khoa học ngôn ngữ, khoa học sư phạm về văn miêu tả và viết văn miêu tả, từ đó cung cấp tư liệu để HS có khả năng rèn luyện và phát triển NL tạo lập ngôn bản với kiểu bài thú vị này. Hay trong cuốn Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả [9] nhà văn Tô Hoài đã nêu lên những kinh nghiệm viết văn quý báu của mình, đó là bài học về quan sát và bài học về diễn đạt, sáng tạo trong miêu tả khi nói về độ chân thực và gợi cảm của
  • 14. 5 hình tượng. Song chưa thật sự chú trọng một cách đầy đủ các NL khác trong tạo lập văn bản miêu tả. Các tác giả Vũ Tú Nam, Phạm Hổ, Bùi Hiển, Nguyễn Quang Sáng với Văn miêu tả và kể chuyện [12] cũng đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm, những suy nghĩ của bản thân khi viết văn miêu tả và văn kể chuyện. Với Phạm Hổ - nhà văn có nhiều sáng tác hay dành cho lứa tuổi thiếu nhi, trong cuốn Văn miêu tả và kể chuyện nói trên, ông đã chú ý tìm ra cái riêng, cái mới cũng như cái chân thật trong miêu tả. Vì thế mà trong bộ sách giáo khoa Tiếng Việt ở tiểu học chúng ta bắt gặp rất nhiều những tác phẩm của ông, bài nào cũng hay, cũng gây sự tò mò và hứng thú cho HS. Còn với nhà văn Bùi Hiển thì ông đã đặc biệt lưu ý đến kiểu miêu tả thiếu trung thực và sáo mòn của các bạn nhỏ, điều này thể hiện qua mục Trò chuyện về cách làm bài văn miêu tả và văn kể chuyện trong cuốn sách đã dẫn ở trên. Tác giả phê bình gây gắt cái lối viết “trơn bút, trơn tay” làm cho con người, sự vật khi miêu tả không có nét riêng, ai cũng đẹp hoàn hảo như nhau, như thế được gọi là bệnh “công thức ước lệ”, “nó không xuất phát từ sự quan sát trực tiếp, từ cảm nhận trực tiếp và cụ thể”. Nhà văn đưa ra bài học quý giá cho HS trong viết văn miêu tả là miêu tả phải trung thực, phát huy trí tưởng tượng của mỗi cá nhân. Các tác giả Lê Phương Nga và Lê Hữu Tỉnh trong cuốn sách Tiếng Việt nâng cao các lớp 3,4,5 [16, 17, 18] cũng đã đưa ra một số bài tập thực hành để rèn luyện cho HS kĩ năng sử dụng từ ngữ, hình ảnh so sánh, nhân hóa và các phương tiện ngôn ngữ khác để vận dụng vào viết các đoạn văn, bài văn miêu tả. Tuy nhiên, do sách chuyên về bài tập và bài tập chia đều cho tất cả các phân môn Tiếng Việt nên chưa tập trung rèn luyện tất cả các kĩ năng chi tiết cho phân môn tập làm văn, mà cụ thể là các kĩ năng nhằm phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả. Trong sự suy tư, trăn trở đi tìm sự đồng điệu về cách viết, sự khát khao bộc bạch tâm hồn thi thơ, một số tác giả tâm huyết cũng đã chú ý đến việc rèn cho HS kĩ năng viết văn miêu tả từ việc sử dụng bút pháp tu từ so sánh và nhân hóa. Có thể kể đến luận văn thạc sỹ “Luyện kĩ năng sử dụng biện pháp tư từ so sánh và nhân hóa trong viết văn miêu tả cho HS tiểu học” của Phạm Thị Hương Giang hay luận văn thạc sĩ “Quy trình hướng dẫn học sinh lớp 4,5 luyện tập về phép tu từ so sánh” trong văn miêu tả của Lê Thị Bích Hợi. Tuy nhiên cả hai luận văn này mới chỉ dừng lại ở biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa. Như chúng ta đã biết để HS có thể tạo lập nên một văn bản miêu tả hay thì GV cần phát triển ở các em nhiều kĩ năng. Có thể kể đến một số kĩ năng như quan sát, trải nghiệm sáng tạo, kĩ năng tìm ý và lập dàn ý, kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và bút pháp tư từ, chú ý phát triển tư duy sáng tạo.
  • 15. 6 Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu về xây dựng hệ thống bài tập rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho HS nhưng mới chỉ dừng lại một số kiểu văn chứ chưa bao quát cũng như chưa đi sâu vào từng kiểu văn miêu tả cụ thể. Ngữ liệu sử dụng trong các bài tập nhiều lúc còn xa lạ với cuộc sống của các em, các kiểu bài chưa đa dạng, chưa hấp dẫn và cuốn hút HS. Các bài viết, các công trình nghiên cứu nói trên đều là những phát hiện đáng trân trọng, có bài viết là những chia sẻ đầy tâm huyết về kinh nghiệm viết văn của các nhà văn; có bài viết là đi phân tích quy trình dạy học một bài văn miêu tả, có công trình chỉ điểm xuyết đến biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong viết văn, cũng có những tác giả đã đưa ra một số bài tập thực hành để rèn luyện kĩ năng sử dụng so sánh, nhân hóa trong viết văn. Điểm qua lịch sử vấn đề như trên để thấy rằng văn miêu tả là một vấn đề hấp dẫn, tạo nên nhiều bàn luận sâu sắc, những phát hiện từ nhiều góc độ. Mặc dù có khá nhiều các công trình nghiên cứu về cả lí luận dạy học và thực trạng tổ chức hoạt động sản sinh ngôn bản ở tiểu học song vấn đề phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 vẫn thiếu những chỉ dẫn cụ thể, gắn với đặc trưng của từng kiểu bài. Kế thừa những thành tựu khoa học nói trên, đề tài hi vọng sẽ góp phần giải quyết một số câu hỏi đặt ra về đường hướng và thực tiễn dạy học Tập làm văn nói chung, dạy học văn miêu tả nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Từ những tiền đề lí luận và thực tiễn, luận văn tập trung đề xuất các biện pháp phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4, từng bước góp phần phát triển NL sử dụng tiếng Việt ở HS các lớp cuối bậc Tiểu học. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu các vấn đề lí luận cơ bản về văn miêu tả, NL tạo lập văn miêu tả ở tiểu học. - Khảo sát, đánh giá thực tiễn tổ chức hoạt động tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 theo định hướng phát triển NL hiện nay ở một số trường tiểu học. - Đề xuất các biện pháp phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4. - Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra, đánh giá và kết luận về tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
  • 16. 7 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Quá trình dạy học tạo lập văn bản miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 4. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phần khảo sát chương trình dạy học được tiến hành ở khối lớp 4. - Hoạt động thực nghiệm được thực hiện tại một số trường tiểu học tại Thành phố Huế. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp Luận văn dùng phương pháp này để phân tích, khái quát, thu thập các cơ sở lí luận liên quan đến đề tài nghiên cứu. 5.2. Phƣơng pháp quan sát - điều tra Sử dụng phiếu khảo sát, phiếu bài tập để thu mẫu sản phẩm lời nói (bài làm văn miêu tả); dự giờ, quan sát nhằm nắm bắt và đánh giá chính xác thực trạng tổ chức hoạt động tạo lập văn bản miêu tả ở nhà trường tiểu học cũng như thu nhận phản hồi về các biện pháp dạy học mà luận văn đề xuất. 5.3. Phƣơng pháp thống kê, phân loại Sử dụng để thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu điều tra, số liệu thực nghiệm, phân loại... làm cơ sở cho việc rút ra kết luận về tính hiệu quả của các giải pháp đã đề xuất trong đề tài. 5.4. Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm Chúng tôi dùng phương pháp này đề tiến hành thực nghiệm dạy học tại các trường Tiểu học nhằm kiểm tra và đánh giá hiệu quả việc phát triển các kĩ năng bộ phận (quan sát, tìm ý, lập dàn ý, sử dụng phương tiện ngôn từ,...), tạo cơ sở cho việc phát triển NL tạo lập ngôn bản ở HS tiểu học. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung của luận văn được cấu trúc thành 03 chương: Chƣơng 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 Chƣơng 2. Biện pháp phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 Chƣơng 3. Thực nghiệm sư phạm
  • 17. 8 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO TẬP VĂN BẢN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Định hướng phát triển năng lực trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học 1.1.1.1. Năng lực và định hướng phát triển năng lực trong dạy học Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình tiếp cận nội dung sang tiếp cận NL người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc HS học được cái gì đến việc HS vận dụng được cái gì, vận dụng như thế nào các kiến thức thu nhận được qua việc học. Để đảm bảo điều đó thì bắt buộc phải thực hiện thành công việc chuyển đổi từ phương thức dạy học theo lối truyền thụ một chiều sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức và rèn luyện các kĩ năng cần thiết để hình thành các phẩm chất, NL. Thực ra, điều này lâu nay chúng ta đã làm qua các đợt đổi mới dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng nhưng nhìn chung chưa triệt để, chúng ta vẫn còn quá chú trọng vào nội dung bài học mà chưa thực sự chú trọng một cách đầy đủ đến chủ thể người học cũng như khả năng ứng dụng tri thức đã học trong những tình huống thực tiễn. Trước bối cảnh đó và để chuẩn bị cho quá trình đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông sau 2018, BGDĐT đã ban hành nhiều thông tư liên quan để tạo tiền đề vững chắc cho những đổi mới về giáo dục phổ thông trong thời gian tới. Trong đó, thông tư 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28/8/2014 của Bộ GD và ĐT về Ban hành Quy định đánh giá HS tiểu học được coi là bước khởi điểm đột phá về thực hiện nghị quyết số 29 NQ/TƯ ngày 4 tháng 11 năm 2013 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”[1]. Sau hai năm thực hiện, Thông tư 30/2014 được điều chỉnh, bổ sung bởi Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT (Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT ngày 28/9/2016 của Bộ GDĐT), về căn bản vẫn giữ vững mục tiêu và yêu cầu về đánh giá HS trên hai phương diện gồm: kiến thức- kĩ năng, năng lực- phẩm chất; thay cho Thông tư 32/2009/TT-BGDĐT trước đây chủ yếu trên 2 mặt Kiến thức - kĩ năng và Hạnh kiểm (đạo đức). Mục tiêu số 1 của Thông tư 30/2014 vẫn được Thông tư 22/2016 giữ nguyên là “Giúp GV điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình và kết thúc mỗi giai đoạn
  • 18. 9 dạy học, giáo dục; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của HS để động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của HS để hướng dẫn, giúp đỡ; đưa ra nhận định đúng những ưu điểm nổi bật và những hạn chế của mỗi HS để có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của HS; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học”[2]. Tổ chức dạy học nhằm giúp HS hình thành và phát triển NL, phẩm chất cũng không phải là mới. Tuy nhiên quá trình tổ chức dạy học để thể hiện được rõ nét việc phát huy NL cá nhân, tạo điều kiện cho HS phát huy được tính sáng tạo và phối hợp, tương trợ lẫn nhau trong học tập trong mỗi đơn vị kiến thức, mỗi tiết học, hoạt động giáo dục vẫn cần sự thay đổi và thay đổi trong chính mỗi GV. Một thay đổi cần làm cụ thể, thiết thực và quan trọng để dạy học hình thành, phát triển phẩm chất, NL là đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục theo định hướng phát triển NL người học. Trong chương trình dạy học định hướng phát triển NL thì khái niệm NL được hiểu là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. Còn theo Hoàng Thị Tuyết thì “năng lực được xem như sự tích hợp sâu sắc của kiến thức, kĩ năng, thái độ làm nên khả năng thực hiện một công việc chuyên môn và được thể hiện trong thực tiễn hoạt động”[21]. Đối chiếu quan điểm này với thực tiễn đánh giá HS hiện nay chủ yếu dựa trên kết quả học tập - tức là kết quả của các bài thi hơn là mục tiêu dạy học. Sự ra đời của thông tư 30 rồi thông tư 22 đã phần nào giải thích rõ hơn việc đánh giá theo NL HS - đánh giá theo quá trình, vì sự tiến bộ của người học, ghi rõ những nhận xét về kiến thức, kĩ năng, thái độ mà HS thể hiện qua các hoạt động học tập và bài kiểm tra. Trong một bài viết gần đây Đỗ Ngọc Thống có nhận định: Nói đến NL là phải nói đến khả năng thực hiện, phải “biết làm” chứ không chỉ “biết và hiểu”. “Biết” ở đây bao gồm hệ thống những tri thức, kiến thức, kĩ năng, thái độ mà người học thực hiện trong các hoạt động cụ thể và vận dụng nó để giải quyết các tình huống cuộc sống thực tiễn. Vậy Năng lực có những đặc trưng gì? Để phân biệt NL với những khái niệm khác cùng phạm trù, các tài liệu trong nước và nước ngoài đều thống nhất quan niệm NL mang tính cá nhân, được bộc lộ ở hoạt động (hành động, công việc) nhằm đáp ứng những yêu cầu cụ thể trong bối cảnh (điều kiện) cụ thể. Đây là đặc trưng phân biệt NL với tiềm năng (potential) - khả năng ẩn giấu bên trong, chưa bộc lộ ra, chưa phải là hiện thực. Một số tài liệu
  • 19. 10 của Việt Nam còn cho rằng NL gắn với các “dạng hoạt động” (Từ điển Bách khoa Việt Nam, Đặng Thành Hưng), “loại hoạt động” (Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học), “loại công việc” (Tài liệu hội thảo CTGDPT tổng thể trong CTGDPT mới của Bộ GD&ĐT) [24]. Theo chúng tôi, việc quy chiếu NL với loại hoạt động giúp chúng ta phân biệt NL với kĩ năng (skill) - một thành tố của NL. Mỗi NL gắn với một loại hoạt động, chẳng hạn: NL giao tiếp, NL tư duy, NL hợp tác… Các NL này được thể hiện ở những kĩ năng gắn với những hoạt động cụ thể, như: kĩ năng nói, kĩ năng đặt câu hỏi, kĩ năng làm việc nhóm,... So sánh: Nhìn rộng ra, sự phân biệt NL và kĩ năng bằng tiêu chí này cũng giúp chúng ta làm rõ được sự khác nhau về cấp độ giữa phương pháp dạy học (PPDH) với biện pháp dạy học (BPDH) - vấn đề được giải quyết rất khác nhau giữa các nhà sư phạm. Phải chăng có thể hiểu: PPDH là những giải pháp tác động vào sự hình thành, phát triển một hoặc một số NL ở HS; còn BPDH là những giải pháp tác động vào sự hình thành, phát triển một hoặc một số kĩ năng nhất định. Đặc trưng thứ hai của NL được hầu hết các tài liệu nghiên cứu trong nước và nước ngoài thống nhất là tính “hiệu quả”, “thành công” hoặc “chất lượng cao” của hoạt động. Đặc trưng này giúp ta phân biệt NL với một khái niệm ở vị trí giữa nó với tiềm năng là khả năng. Khả năng là cái tồn tại ở dạng tiềm năng, có thể biến thành hiện thực khi cần thiết và khi có các điều kiện thích hợp, nhưng cũng có thể không biến thành hiện thực [31, tr.478]. Thực ra, đó là sự phối hợp nhiều nguồn lực liên quan đến cấu trúc của NL (thường được cho là bao gồm kiến thức, kĩ năng, thái độ...) và một số NL cụ thể (như NL hợp tác, NL giao tiếp...). Có thể xem đó là một đặc điểm của NL nhưng khó có thể xem là một đặc trưng phân biệt NL với những khái niệm khác như tiềm năng, khả năng hay năng khiếu - những thuộc tính vốn cũng có tính tổng hợp. Đặc trưng thứ ba, NL là tổng hòa cả kiến thức, kĩ năng và thái độ. Trong đó, kiến thức được hiểu là những NL về thu thập tin dữ liệu, NL hiểu các vấn đề (comprehension), NL ứng dụng (application), NL phân tích (analysis), NL tổng hợp (synthethis), NL đánh giá (evaluation). Đây là những NL cơ bản mà một cá nhân cần hội tụ khi tiếp nhận một công việc. Công việc càng phức tạp thì cấp độ yêu cầu về các NL này càng cao. Thái độ thường bao gồm các nhân tố thuộc về thế giới quan tiếp nhận và phản ứng lại các thực tế (receiving, responding to phenomena), xác định giá trị (valuing), giá trị ưu tiên. Các phẩm chất và hành vi thể hiện thái độ của cá nhân với công việc, động cơ, cũng như những tố chất cần có để đảm nhận tốt
  • 20. 11 công việc (Harrow, 1972). Về kĩ năng, chính là NL thực hiện các công việc, biến kiến thức thành hành động. Thông thường kĩ năng được chia thành các cấp độ chính như: bắt chước (quan sát và hành vi khuôn mẫu), ứng dụng (thực hiện một số hành động bằng cách làm theo hướng dẫn), vận dụng (chính xác hơn với mỗi hoàn cảnh), vận dụng sáng tạo (trở thành phản xạ tự nhiên) (Dave, 1975). Đặc trưng cuối cùng của NL là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Các NL hình thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên đóng vai trò quan trọng, NL con người không phải hoàn toàn tự nhiên mà có, phần lớn do công tác và tập luyện. NL đó được hình thành và phát triển trong suốt cả quá trình tập luyện chứ không phải ngày một ngày hai mà có. Tóm lại, có thể hiểu NL là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Bốn đặc trưng cơ bản của NL là: 1) Được bộc lộ, thể hiện qua hoạt động; 2) Đảm bảo hoạt động có hiệu quả, đạt kết quả mong muốn. 3) NL là tổng hòa các kiến thức, kĩ năng và thái độ. 4) NL được hình thành và phát triển trong cả quá trình. Quan niệm về NL như trên giúp chúng ta hình dung một CT định hướng NL cho người học phải là một CT chú trọng tổ chức hoạt động cho HS. Qua hoạt động, bằng hoạt động, HS hình thành, phát triển NL, bộc lộ được tiềm năng của bản thân; tự tin, có niềm hạnh phúc bởi thành công và tiếp tục phát triển. Giáo dục định hướng NL nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng NL vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người NL giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức. Thử đặt một phép tính so sánh một số đặt trưng của chương trình định hướng nội dung với chương trình định hướng NL thì kết quả cho thấy rằng, khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng phát triển NL tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của HS. Chương trình dạy học định hướng phát triển NL không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục, trên cở sở đó đưa ra
  • 21. 12 những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học, tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn. Trong chương trình định hướng phát triển NL, mục tiêu học tập, tức là kết quả học tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các năng lực (Competency). Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được. HS cần đạt được những kết quả yêu cầu đã quy định trong chương trình. Việc đưa ra các chuẩn đào tạo cũng là nhằm đảm bảo quản lí chất lượng giáo dục theo định hướng kết quả đầu ra. Trong mục tiêu về chuẩn chương trình giáo dục phổ thông sau 2015 (Dự thảo), khi xác định các nhóm NL cần hình thành và phát triển cho HS, Đinh Quang Báo đã chia NL thành hai loại chính: NL chung và NL chuyên biệt. NL chung được hình thành và phát triển từ nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học. Trong khi đó, NL chuyên biệt được hình thành và phát triển từ một môn học chuyên biệt, mang nét đặc trưng của một môn học cụ thể. Các NL chung gồm: nhóm NL làm chủ và phát triển bản thân (NL tự học, NL giải quyết vấn đề, NL tư duy, NL tự quản lí); nhóm NL về quan hệ xã hội (NL giao tiếp, NL hợp tác) và nhóm NL công cụ (NL sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, NL sử dụng ngôn ngữ, NL tính toán). Ở đây nhận thấy rằng, NL sử dụng ngôn ngữ nằm trong nhóm NL công cụ, còn NL giao tiếp nằm trong nhóm NL về quan hệ xã hội, mặc dù nằm trong hai nhóm NL khác nhau nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau bởi vì ngôn ngữ tiếng Việt là một trong những phương tiện để thực hiện giao tếp, hiệu quả của việc giao tiếp lại phụ thuộc vào NL sử dụng ngôn ngữ (NL tiếng Việt). Vì thế muốn hình thành và phát triển NL giao tiếp phải hình thành và phát triển NL tiếng Việt. Hay nói cách khác, muốn hình thành và phát triển NL thì phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với NL giao tiếp. Mỗi cấp học khác nhau thì kết quả đầu ra cần đạt về NL sử dụng ngôn ngữ cũng khác nhau. Với bậc tiểu học, Đinh Quang Báo [4] xác định như sau: - Nghe hiểu trong giao tiếp thông thường và các chủ đề quen thuộc; nói rõ ràng rành mạch, kể các câu chuyện ngắn, đơn giản về các chủ đề quen thuộc; viết được bài văn ngắn về các chủ đề quen thuộc, điền được thông tin về các mẫu văn bản đơn giản. - Phát âm đúng các từ; hiểu những từ thông dụng và có số lượng từ vựng cần thiết cho giao tiếp hàng ngày; biết sử dụng các loại câu giao tiếp chủ yếu như câu
  • 22. 13 trần thuật, câu hỏi, câu mệnh lệnh, câu khẳng định, các câu đơn, câu phức trong trường hợp cần thiết. Các kết quả đầu ra thể hiện được mức độ sử dụng ngôn ngữ về các nội dung giao tiếp từ đơn giản đến phức tạp theo cách tăng dần từ lớp nhỏ đến lớp lớn trong cùng một cấp học. Từ những định hướng phát triển NL trong dạy học nói chung, chúng ta cần phát triển những NL sử dụng tiếng Việt cụ thể cho HS trong nhà trường tiểu học để hướng tới mục tiêu dạy học tiếng Việt theo định hướng phát triển NL người học. 1.1.1.2. Mục tiêu phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt cho học sinh ở nhà trường tiểu học Để khẳng định rõ vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa đã đề ra: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lí giáo dục, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”... Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của HS. Trước thực tế đó, chất lượng dạy học trong các nhà trường tiểu học là vấn đề quan tâm của toàn xã hội, bởi đây là cấp học nền tảng chi phối, ảnh hưởng đến cả quá trình và hiệu quả học tập của các em sau này. Chất lượng dạy học ấy được thể hiện bằng chất lượng toàn diện của tất cả các môn học trong nhà trường tiếu học: Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội, Khoa học, Lịch Sử, Địa lí, Thể dục, Âm nhạc, Mĩ thuật, Đạo đức,... trong đó Tiếng Việt là môn học đặc biệt gồm nhiều phân môn, ở mỗi phân môn cụ thể lại có nội dung, phương pháp và cách thức dạy học khác nhau nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau tạo nên một chỉnh thể hoàn chỉnh, những kĩ năng của phân môn này hỗ trợ cho phân môn kia để hướng tới mục tiêu của môn Tiếng Việt là: - Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường học tập của lứa tuổi. - Cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về tự nhiên, xã hội, con người, về văn hóa, văn học Việt Nam và nước ngoài. - Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục đích cuối cùng của dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học là hình hành và phát triển cho HS các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Dạy Tiếng Việt chính là dạy tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ, quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ đó có đạt hiệu qua hay
  • 23. 14 không phụ thuộc vào NL tiếng Việt của mỗi người. Như vậy, NL là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. Trong dạy học tiếng Việt, NL hành động được hiểu là NL giải quyết một nhiệm vụ giao tiếp – NL giao tiếp. NL giao tiếp vừa là NL đặc thù của môn Tiếng Việt vừa là một NL chung mà trường học phải hình thành và phát triển. Chương trình giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp tiếng Việt cho học sinh ở tất cả các hình thức: nghe, nói đọc, viết ở mức độ căn bản. Theo quan điểm phát triển NL, việc đánh giá HS không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá HS theo NL chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Nói cách khác, đánh giá theo NL là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa . Kết thúc cấp tiểu học, học sinh biết cách đọc, đọc hiểu được các văn bản văn học và văn bản thông tin có chủ đề thiết thực, gần gũi với lứa tuổi; viết được các văn bản kể chuyện, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh đơn giản theo đúng quy trình và đảm bảo các yêu cầu về chữ viết, chính tả, đặc điểm của kiểu loại văn bản; biết phát biểu ý kiến, kể lại câu chuyện; biết lắng nghe để hiểu đúng ý kiến của người khác, biết trao đổi với người nói trong quá trình nghe. Về cơ bản, chúng ta có thể hình dung về NL tiếng Việt như sau: NĂNG LỰC TIẾNG VIỆT Năng lực nói Năng lực nghe Năng lực đọc Năng lực viết Theo thông tư 22 của BGDĐT: Mỗi NL bộ phận lại được chia tiếp tục thành các NL cụ thể theo các mức độ từ đơn giản đến phức tạp, trong đó có những NL có thể rèn luyện độc lập nhưng cũng có những NL phải rèn luyện tổng hợp. Các NL bộ phận có thể được chia thành các NL cụ thể như sau: * NL nghe bao gồm: - NL nghe – hiểu nghĩa tường minh: nghe người khác nói, nghe người khác đọc, nghe đài, ti vi v.v... - NL nghe – hiểu nghĩa hàm ẩn trong hội thoại. - NL đánh giá, nhận xét về lời nói của người khác. - NL nghe – phản hồi ý kiến của người khác. - NL nghe – ghi, nghe – tóm tắt ý chính v.v... - NL nghe – cảm nhận văn bản văn chương nghệ thuật.
  • 24. 15 * NL nói bao gồm: - NL phát âm: phát âm đúng các phụ âm, nguyên âm, âm tiết tiếng Việt. - NL đặt câu để nói được ý trọn vẹn, đúng ngữ điệu, thể hiện đúng suy nghĩa cá nhân, bộc lộ tình cảm thích hợp. - NL thực hiện các hành động ngôn ngữ một cách hiệu quả: kể, trình bày, báo cáo, hỏi, yêu cầu, đề nghị, khuyên v.v... - NL độc thoại, đối thoại trong gia đình, lớp học, nhà trường và trong cuộc sống v.v... - NL nói về một nội dung cho trước. - NL thuyết phục: nói đúng chủ đề, lập luận logic, nhất quán. - NL phát biểu ý kiến, thuyết trình, thuyết minh, giải thích trước đám đông. - NL đối thoại, trao đổi, thoả thuận, đàm phán. * NL đọc bao gồm: - NL đọc đúng, đọc diễn cảm, đúng ngữ điệu các loại văn bản khác nhau: đọc văn bản nhật dụng, văn bản hành chính, văn bản văn chương nghệ thuật,... - NL đánh giá về các câu, đoạn, văn bản đã đọc. - NL đọc thầm. - NL đọc – hiểu văn bản thuộc các lĩnh vực giao tiếp khác nhau trong đời sống: văn bản hành chính, báo chí, xã luận, phổ biến khoa học v.v... - NL đọc nhanh, đọc lướt để xác định nội dung chính của văn bản. - NL đọc – hiểu, cảm nhận, phân tích hình tượng v.v... văn bản văn chương nghệ thuật. - NL đọc để tóm tắt văn bản. - NL đọc để thu thập thông tin phục vụ cho một chủ đề cho trước, năng lực đọc để tổng thuật các ý kiến. * NL viết bao gồm: - NL viết đúng: chuyển từ âm nghe được đến chữ. - NL viết đúng chính tả, sử dụng dấu câu thích hợp. - NL viết câu phản ánh đúng tư tưởng, suy nghĩ của cá nhân, bộc lộ cảm xúc phù hợp. - NL viết thư, lời nhắn cá nhân. - NL điền các mẫu tờ khai v.v... - NL trích dẫn ý kiến người khác trong bài viết.
  • 25. 16 - NL viết đoạn văn, văn bản: miêu tả, kể chuyện, nghị luận, phân tích, bình giảng v.v... - NL viết các loại văn bản: công văn, báo cáo, tờ trình v.v... - NL viết văn bản văn chương nghệ thuật. Trên đây là những NL cần được hình thành và phát triển ở HS phổ thông. Các NL cụ thể sẽ được sắp xếp thành bảng các NL tối thiểu cho mọi HS và những NL nâng cao, có tính phân hoá dành cho HS theo học chuyên sâu ở các môn học khác nhau. Chúng tôi lấy NL viết để minh họa cho các mức độ mà HS cần đạt trong một bài kiểm tra như sau: 1/ Biết Viết đúng mẫu chữ/ cỡ chữ. Viết đúng chính tả những điều được nghe, được đọc và tự suy nghĩ. Viết đúng các mẫu câu; sử dụng đúng dấu câu. Biết trình bày một văn bản theo đúng thể loại. 2/ Hiểu Sử dụng từ ngữ phù hợp ngữ cảnh/tình huống. Sử dụng mẫu câu phù hợp mục đích lời nói. Sử dụng các biện pháp tu từ. Xác định được thể loại văn bản cần trình bày phù hợp yêu cầu (mục đích lời nói). 3/Vận dụng Tạo câu theo yêu cầu. Viết đoạn văn có yêu cầu cụ thể về phương diện cấu trúc, ngữ pháp,… Viết đoạn văn/ bài văn theo mẫu ngôn ngữ. Đánh giá trên 02 phương diện: nội dung ý tưởng và kĩ năng trình bày (bao gồm những yêu cầu của Biết và Hiểu). 4/ Vận dụng phản hồi Viết được đoạn/bài theo đúng yêu cầu/mục đích. Đánh giá trên 02 phương diện: nội dung ý tưởng và kĩ năng trình bày (bao gồm những yêu cầu của Biết; Hiểu và Vận dụng). Sử dụng kĩ năng viết trong các hoạt động giáo dục và cuộc sống. Việc xây dựng một bảng các NL cụ thể cần xuất phát từ Chuẩn năng lực tiếng Việt đối với HS từng lớp trong cấp học. Việc rèn luyện NL cũng cần được chú ý đến sự khác nhau của đối tượng HS - đặc điểm dân tộc, điều kiện địa lí - xã hội, văn hoá, kinh tế v.v. Việc hình thành và phát triển các NL cụ thể không thể
  • 26. 17 không gắn với những nội dung giao tiếp hằng ngày trong đời sống cũng như trong học tập. Việc lựa chọn các nội dung để rèn luyện các kĩ năng tiếng Việt có ý nghĩa quan trọng trong việc tích hợp môn Tiếng Việt với những môn học khác như Giáo dục đạo đức, Giáo dục công dân, tăng cường những hiểu biết về lịch sử, địa lí, kinh tế - xã hội,... của đất nước. Có thể nói định hướng dạy tiếng Việt theo hướng hình thành và phát triển NL vừa hướng tới được tính thực tiễn của môn học vừa tạo điều kiện để thực hiện tích hợp trong dạy học. 1.1.2. Văn miêu tả và năng lực tạo lập văn bản miêu tả trong phân môn Tập làm văn 1.1.2.1. Đặc trưng cơ bản của văn miêu tả Theo từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, miêu tả là “lấy nét vẽ hoặc câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật ra” [3, tr.97]. Hoàng Phê trong cuốn Từ điển Tiếng Việt lại cho rằng: “Miêu tả là dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung được cụ thể các sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người” [21, tr.628]. Còn SGK lớp 4 định nghĩa: “Văn miêu tả là vẽ lại bằng những lời hoặc những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người, của vật giúp người đọc, người nghe có thể hình dung được các đối tượng ấy”[25 tr.140]. Văn miêu tả là thể loại văn dùng ngôn ngữ để tả sự vật, hiện tượng, con người,... một cách sinh động, cụ thể như nó vốn có. Đây là loại văn giàu cảm xúc, giàu trí tưởng tượng, sáng tạo của người viết. Đối với người họa sĩ họ dùng cây cọ để vẻ lại, tả lại các sự vật, để tạo hình các sự vật thì các nhà điêu khắc lại phải dùng đến các vật liệu như đất, nhựa, đồng, đá, kim loại,... hay để ghi lại một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống thì các nhiếp ảnh gia phải dùng đến chiếc máy ảnh của mình. Còn nhà văn, họ dùng ngôn từ nghệ thuật để “tô vẽ” lại bằng lời những bức tranh về các sự vật, hiện tượng, con người một cách sinh động, cụ thể giúp người đọc, người nghe hình dung rõ các đối tượng đó qua các trang văn miêu tả. Nhờ có văn miêu tả, con người có thể lạc vào thế giới của những cảm xúc, những âm thanh, tiếng động, hương vị của những cánh đồng, khu rừng, làng quê, dòng sông,... thấy rõ cả tư tưởng, tình cảm của mỗi con người, mỗi sự vật. Đó là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc mà người viết thu lượm được, chắt chiu được khi quan sát cuộc sống. Hãy cùng ngắm nhìn một buổi chiều thanh bình tại một vùng quê dưới ngòi bút của tác giả Đỗ Chu: “Đó là một buổi chiều mùa hạ có mây trắng xô đuổi nhau trên cao. Nền trời xanh vời vợi. Con chim sơn ca cất lên tiếng hót tự do, tha thiết đến nỗi khiến người ta phải ao ước giá mà mình có một đôi
  • 27. 18 cánh. Trải khắp cánh đồng là nắng chiều vàng dịu và thơm hơi đất, là gió đưa thoang thoảng hương lúa ngậm đòng và hương sen.” (Chiều trên quê hương). Chỉ ngắn gọn có bốn câu văn mà Đỗ Chu đã cho ta nhìn thấy được một làng quê hài hòa vào một buổi chiều mùa hạ vừa động vừa tĩnh. Động đó là mây đùa giỡn nhau, tiếng chim hót. Tĩnh đó là nắng vàng dịu, hương lúa ngậm đòng và hương sen. Một cuộc sống khát khao nhưng cũng rất yên bình. Sự hòa hợp giữa đất với trời, giữa thiên nhiên cỏ cây hoa lá. Một buổi chiều thật đẹp, làm cho tâm hồn người đọc cũng cảm thấy được yên bình, nhẹ nhàng hơn. Ngòi bút của tác giả thật tinh tế. Hay ta cảm nhận vẻ đẹp độc đáo của hoa phượng qua ngòi bút miêu tả tinh tế của Xuân Diệu:“Phượng không phải là một đóa, không phải vài cành, phượng đây là một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực. Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cả xã hội thắm tươi, người ta quên đóa hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”(Hoa học trò). Hoa phượng - loài hoa gắn liền với lứa tuổi học trò, với những kỉ niệm của tuổi cắp sách đến trường. Tại sao Xuân Diệu lại gọi hoa phượng là hoa học trò? Hoa phượng có gì đặc biệt mà lại làm cho ta có cảm giác xao xuyến, bồi hồi? Đọc bài viết của nhà thơ Xuân Diệu, ta càng thấy được vẻ đẹp đặc biệt của hoa phượng qua những từ ngữ chọn lọc và những hình ảnh độc đáo. Hoa phượng ở đây nở rất nhiều: “Cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực, người ta chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán lá lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh để miêu tả số lượng hoa phượng, so sánh hoa phượng với “muôn ngàn con bướm thắm” làm ta cảm nhận được hoa phượng ở đây nở rất nhiều và đẹp. Tác giả gọi hoa phượng là hoa học trò vì phượng là loài hoa gần gũi quen thuộc với tuổi học trò; phượng được trồng rất nhiều trên các sân trường; h oa phượng thường nở vào mùa hè, mùa thi của tuổi học trò. Hoa phượng thường gắn liền với những kỉ niệm buồn vui của tuổi học trò. Buồn vì phải xa thầy cô, bạn bè. Vui vì được nghỉ hè, hứa hẹn những ngày hè lí thú. Dưới ngòi bút của Xuân Diệu, hoa phượng rất đặc biệt bởi “hoa phượng nở nhanh đến bất ngờ”, “màu phượng mạnh mẽ” làm “thành phố rực lên như Tết đến nhà nhà đều dán câu đối đỏ”. Tác giả dùng nhiều giác quan để miêu tả vẻ đẹp của lá phượng “Bình minh của hoa phượng là màu đỏ còn non, có mưa hoa càng tươi dịu. Dần dần, số hoa tăng, màu cũng đậm dần, rồi hòa với mặt trời chói lọi, màu phượng rực lên.” Nhà thơ Xuân Diệu đã rất tài tình khi miêu tả vẻ đẹp đặc biệt của hoa phượng bằng những từ ngữ chọn lọc và hình ảnh đặc sắc đúng với “danh hiệu” nghệ sĩ bậc thầy
  • 28. 19 của ngôn ngữ. Bài văn đầy chất thơ của Xuân Diệu giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp độc đáo, rất riêng của hoa phượng - loài hoa gần gũi, thân thiết và gắn liền với những kỉ niệm buồn vui của lứa tuổi học trò. Trong cuốn “Văn miêu tả và phương pháp dạy văn miêu tả”, tác giả Nguyễn Trí đã nêu rõ ba đặc điểm của văn miêu tả: văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mĩ, chứa đựng tình cảm của người viết; văn miêu tả mang tính sinh động, tạo hình; ngôn ngữ miêu tả giàu cảm xúc, hình ảnh. a. Văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mỹ, chứa đựng tình cảm của người viết. Mọi sự vật hiện tượng đều có thể trở thành đối tượng của văn miêu tả. Trong văn miêu tả, sự vật và hiện tượng không được tái hiện theo kiểu sao chép một cách máy móc, khô cứng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Bởi văn miêu tả phát huy trí tưởng tượng, sự sáng tạo của người viết dựa trên những đặc điểm, tính chất chân thật như nó vốn có. Từ đó thể hiện cái nhìn, cách quan sát, cách cảm nhận mới mẻ của người viết với đối tượng miêu tả. Cái mới, cái riêng bắt đầu có thể chỉ là ở những quan sát và kết quả của sự quan sát, sau đó tiến lên thể hiện cái mới, cái riêng trong tư tưởng, tình cảm đối với đối tượng miêu tả. Cùng một đối tượng quan sát nhưng giữa hai người sẽ có cái nhìn, cách cảm nhận, ý nghĩ, cảm xúc khác nhau. Vì vậy mà văn miêu tả bao giờ cũng mang đậm dấu ấn cá nhân, cảm xúc chủ quan của người viết. Đây chính là điểm khác biệt giữa miêu tả trong văn học và miêu tả trong khoa học - thường mang tính chính xác cao, nhưng lại không thể hiện cảm xúc, hay điệu hồn riêng của người viết. Dù đối tượng của bài văn miêu tả là gì đi chăng nữa thì bao giờ người viết cũng đánh giá chúng theo một quan điểm thẩm mỹ, cũng gửi gắm vào trong đó những suy nghĩ, tình cảm hay ý kiến nhận xét, đánh giá, bình luận của bản thân mình. Chính vì vậy mà trong từng chi tiết của bài văn miêu tả đều mang đậm dấu ấn chủ quan của người viết. Cùng là vầng trăng, cùng là bầu trời nhưng mỗi người lại cảm nhận theo cách riêng của mình. Nhìn bầu trời sao Vich-tô Huy-gô thấy như “một cánh đồng lúa chín” mà ở đó người gặt đã “để quên một cái liềm con” (Vành trăng non). Đối với nhà văn Nam Cao thì vầng trăng và ánh sao lại được nhìn và cảm nhận theo một cách khác: “Trăng là cái liềm vàng giữa cánh đồng đầy sao, trăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời. Trăng tỏa mộng xuống trần gian. Trăng tuôn suối mát để những tâm hồn khao khát ngụp lặn...” (Mảnh trăng cuối rừng). Với Trần Đăng Khoa thì trăng không phải là một cánh đồng lúa chín, cái liềm vàng, cái đĩa bạc nữa
  • 29. 20 mà bằng tình yêu của một tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên, trong sáng, nhà thơ thấy trăng rất ngộ nghĩnh, rất đáng yêu, có lúc “như mắt cá chẳng bao giờ chớp mi”, có lúc “như quả bóng bạn nào đá lên trời”, lại có khi “như quả chín lơ lửng trước nhà” (Trăng ơi từ đâu đến?). Ở một hoàn cảnh khác, nhà văn Thép Mới lại lấy cảm hứng của anh chiến sĩ đang mơ về tương lai của đất nước khi ngắm trăng trong đêm Trung thu độc lập đầu tiên của đất nước “Trăng sáng mùa thu vằng vặc chiếu khắp làng mạc, núi rừng...”. Với Nguyễn Minh Châu, ông lại tả trăng với cái nhìn đầy lãng mạn trước những đổ vỡ, khốc liệt của chiến tranh. Đó là “mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc” (Mảnh trăng cuối rừng). Hay vầng trăng khuyết hiện ra rất sinh động và thú vị qua con mắt nhìn và cảm nhận của các thành viên trong gia đình dưới ngòi bút tinh tế của Lê Hồng Thiện. Vì mẹ thường gắn liền với những công việc đồng áng nên nhìn trăng như “lưỡi liềm”, ông thì nghĩ đến những chiếc thuyền ngược xuôi nên nghĩ trăng như “con thuyền cong mui”, còn sở thích của bà là nhai trầu nên nghĩ trăng là “hạt cau khô”, với cháu là một đứa trẻ hồn nhiên, trong sáng nên bé nhìn trăng như “quả chuối vàng tươi”, còn đối với bố là bộ đội Trường Sơn nên thấy trăng giống hệt “cánh võng chập chờn trên mây” (Trăng của mỗi người). Với miêu tả vầng trăng thôi cũng đã thấy mỗi người có một cách cảm nhận khác nhau, trăng tròn nó khác với trăng khuyết, đêm trăng độc lập nó khác với đêm trăng tiền tuyến. Điều này tạo nên sự khác biệt, cái cảm nhận riêng, cái phát hiện mới mẻ, thể hiện rõ quan điểm, cách nhìn nhận đối tượng miêu tả của mỗi người. b. Văn miêu tả mang tính sinh động, tạo hình Tính sinh động, tạo hình của văn miêu tả thể hiện ở con vật, đồ vật, cây cối, con người, phong cảnh, sự vật và hiện tượng được miêu tả hiện lên qua từng câu văn, đoạn văn như trong thực tế cuộc sống khiến người đọc, người nghe như được ngắm nhìn, được sờ, được nghe, được ngửi thấy những gì mà tác giả đang cảm nhận. Muốn bài văn miêu tả được sinh động thì người viết phải tạo nên được những câu văn, những đoạn văn, bài văn sống động, gây ấn tượng. Điều quan trọng để có thể làm được điều đó, trước hết người viết phải có sự quan sát tỉ mỉ, ghi nhớ và chọn lọc những gì tinh túy nhất những điều mình đã quan sát được kết hợp với khả năng sử dụng ngôn từ, các thủ pháp nghệ thuật một cách khéo léo để đưa vào trang văn tạo lập nên những văn bản miêu tả sinh động, lôi cuốn. Trong bài “Cây gạo” (Vũ Tú Nam), khi tả hoa gạo, nhiều câu hỏi được đặt ra là vì sao tác giả không tả hoa gạo trên cây, không tả hoa gạo lúc đang ra nụ hay tả
  • 30. 21 hoa gạo lúc nở mà lại tả hoa gạo lúc đã lìa cành rơi xuống mặt đất. Là bởi vì tác giả đã phát hiện ra cách rơi đặc biệt của hoa gạo “Những bông hoa rơi từ trên cao, đài hoa nặng chúi xuống, những cánh hoa đỏ rực quay tít như chong chóng trông thật đẹp”. Và càng đặc biệt hơn nữa là cái tư thế quay tít của những cánh hoa được Vũ Tú Nam “chộp” lấy và so sánh với chiếc chong chóng. Sự so sánh này vừa giúp người đọc hình dung rõ cái dáng rơi kì lạ của hoa gạo, vừa mang đậm chất tạo hình, tưởng như có một chiếc chong chóng đỏ rực đang quay tít làm cho hình ảnh hoa gạo trong bài hiện ra trước mắt người đọc. Qua cách so sánh trong miêu tả khiến cho hình ảnh hoa gạo trong bài hiện ra rất sống động và gợi cảm. Hay trong bài “Quả cà chua” của Ngô Văn Phú. Tác giả đã miêu tả hoa cà chua như thế nào, tác giả không miêu tả cụ thể mà chỉ dùng chữ “lăn” và chữ “biến đi” đã gợi lên sự huyền diệu của hoa cà chua theo vòng thời gian để “tạo ra những chùm quả nõn chung màu với cây và lá”. Một sự miêu tả “tinh khiết” đến bất ngờ mà chỉ có những nghệ sĩ ngôn từ mới làm được điều đó. Ngô Văn Phú đã dùng các chữ “sum suê”, “chi chít” và các hình ảnh “quả chùm, quả sinh đôi, quả chùm ba, chùm bốn” để đặc tả cây cà chua, luống cà chua sai quả và quả trĩu cành. Tác giả còn ví von những quả cà chua “như đàn gà mẹ đông con” rồi nhân hóa “leo nghịch ngợm lên ngọn”. Một cách miêu tả đầy hóm hỉnh, ý vị. Và rồi hương vị và màu sắc của quả cà chua chín dưới ngòi bút của Ngô Văn Phú cũng hết sức độc đáo, có “vị thơm mát”. Như ta đã biết thì quả cà chua chín luôn có màu đỏ, còn với ông thì mỗi quả cà chua “là một mặt trời nhỏ hiền dịu”, là “chiếc đèn lồng” được cây cà chua “thắp lên”. Quả cà chua đầu mùa gieo vào lòng người “sự náo nức”. Đúng là một cách viết tài hoa, tác giả đã dùng cả xúc giác và cảm giác để mang quả cà chua chín đầy sức gợi hình ảnh và phảng phất hương vị đam mê từ một góc vườn nhỏ xinh đến với độc giả. c. Ngôn ngữ miêu tả giàu cảm xúc, hình ảnh. Đặc điểm nổi bật của văn miêu tả là ngôn ngữ giàu cảm xúc, hình ảnh. Đây là đặc điểm làm nên sự khác biệt giữa văn miêu tả với các thể loại văn khác như văn bản tự sự, văn bản trữ tình hay văn nghị luận. Ngôn ngữ văn miêu tả giàu cảm xúc bởi trong bài viết bao giờ người viết cũng bộc lộ tình cảm, cảm xúc hay ý kiến nhận xét, đánh giá hay bình luận của người viết với đối tượng miêu tả. Tình cảm đó có thể là sự yêu mến, yêu quý, thán phục hay sự gắn bó với đối tượng được miêu tả. Ngôn ngữ văn miêu tả giàu hình ảnh bởi trong bài viết thường được sử dụng từ ngữ gợi hình như: tính từ, động từ, từ láy hay các biện pháp tu từ như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,… chính điều này đã tạo cho ngôn ngữ trong văn miêu tả có
  • 31. 22 sự uyển chuyển, nhịp nhàng, diễn tả tốt cảm xúc của người viết. Hơn thế nó có tác dụng khắc họa được bức tranh miêu tả sinh động như cuộc sống thực. Hai yếu tố giàu cảm xúc và giàu hình ảnh gắn bó khăng khít với nhau làm nên đặc điểm riêng biệt và làm cho những trang văn miêu tả trở nên có hồn, cuốn hút người đọc, gây ấn tượng mạnh mẽ và tác động sâu sắc vào vị trí tưởng tượng cũng như của người đọc. Đã có nhiều dòng sông đã đi vào thơ ca nhưng không có dòng sông nào lại đáng yêu, lại dịu dàng, lại đỏng đảnh như Dòng sông mặc áo của Nguyễn Trọng Tạo. Dòng sông được tác giả miêu tả thật đẹp. Bằng biện pháp nhân hóa, kết hợp điệp từ nhà thơ đã gắn cho nó những đặc điểm của con người để làm nổi bật màu sắc của dòng sông. Dòng sông hiện lên thật điệu đà “Dòng sông mới điệu làm sao”, tác giả đã nói sông “điệu” vì trong một ngày mà nó đã thay đổi đến mấy lần màu áo. Nào là “áo lụa đào thướt tha”, “áo xanh như mới thay”, “áo hây hây ráng vàng”, “áo đen” rồi cả “áo hoa”. Từ “mặc” là từ nhân hóa để miêu tả màu sắc của con sông, một loạt các từ “mặc” được lặp đi lặp lại để nói lên sự thay đổi màu sắc của dòng sông. Ở đây tác giả không nói sông thay đổi màu mà lại nói “sông mặc áo” vì thế mà dòng sông trở nên sinh động, đẹp hơn, điệu hơn và đặc biệt hơn trong mắt người đọc. Nhờ sự miêu tả tinh tế đó mà nhà thơ đã phát hiện ra những sắc màu, những nét đẹp của dòng sông quê hương luôn biết đổi. Rồi cả một loạt các từ láy “thướt tha”, “hây hây”, “thơ thẩn” gợi cho ta cảm giác dòng sông trở nên mềm mại, uyển chuyển và duyên dáng đến nhường nào. Trong hai câu thơ “Áo xanh sông mặc như là mới may”, “Chiều trôi thơ thẩn áng mây” ta bắt gặp một kiểu miêu tả “lạ” và “độc” trong cách dùng từ đặt câu của tác giả nữa là từ “áo xanh” và “thơ thẩn” được đảo lên trước chủ thể như là để nhấn mạnh màu sắc của dòng sông và vẻ đẹp của trời chiều. Với sự miêu tả khéo léo và sự “gọt giũa” ngôn từ tinh tế, ý nhị mà Nguyễn Trọng Tạo đã “tạc” nên một bức tranh đẹp về dòng sông bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Đọc bài thơ ta có thể nhìn thấy một dòng sông điệu đà, thướt tha như người phụ nữ muốn làm duyên, sông thay đổi màu sắc như người phụ nữ thay đổi màu áo. Vì thế mà dòng sông dưới ngòi bút của ông trở nên thơ mộng, sinh động và có hồn hơn; đồng thời cũng thể hiện một cách thắm thiết, trong sáng tình yêu dòng sông quê hương hòa với tình yêu quê hương đất nước của tác giả. 1.1.2.2. Yêu cầu về năng lực tạo lập văn bản miêu tả đối với học sinh lớp 4 Như đã giới thiệu ở trên, văn miêu tả là loại văn căn cứ vào những điều quan sát, ghi chép, cảm nhận được về đối tượng (đồ vật, con vật, cây cối, hiện tượng thiên nhiên, con người,...), dùng ngôn ngữ để vẽ hình ảnh chân thực, sinh động của
  • 32. 23 đối tượng đó, trình bày theo một bố cục hợp lý, khiến cho người đọc, người nghe cùng cảm thấy và cùng cảm nhận như mình. Để làm được điều đó, khi viết văn miêu tả, người viết cần có những kĩ năng cần thiết. Một là kĩ năng quan sát và tìm ý. Quan sát ở đây không chỉ là nhìn để nhận diện đối tượng mà còn phải mở rộng mọi giác quan để mà cảm nhận, phải biết chọn vị trí thích hợp để quan sát, trình tự quan sát, từ quan sát để ghi chép lại, chắt lọc lấy những chi tiết có thể phản ánh được cụ thể, chân thực, sinh động những đặc điểm nổi bật của đối tượng miêu tả. Hai là kĩ năng lập dàn ý. Dàn ý là xương sống của bài văn. Nếu không có nó bài văn thường bỏ sót ý hoặc rối rắm, lộn xộn. Viết văn miêu tả, người viết phải biết cách xây dựng những ý đã tìm được thành dàn ý với bố cục rõ ràng, rành mạch, tạo khung xương vững chắc cho bài văn. Ba là kĩ năng dựng đoạn. Từ dàn ý đã lập, người viết phải biết cách diễn đạt, sử dụng từ ngữ để tạo các đoạn văn ngắn. Bốn là kĩ năng viết bài văn. Đây là cấp độ cao nhất của các kĩ năng, đòi hỏi người viết biết liên kết các đoạn văn đã dựng thành một bài văn miêu tả hoàn chỉnh. Bài văn phải cân đối về hình thức, sáng rõ về nội dung, ngôn ngữ giàu hình ảnh và cảm xúc, tả được một cách thật chân thực đối tượng miêu tả. Đó là các kĩ năng nền để viết được một bài văn miêu tả đúng. Nhưng để tả hay, sinh động, hấp dẫn với những câu văn gợi hình, gợi cảm, người viết cần hình thành ở bản thân các kĩ năng bổ trợ không kém phần quan trọng như kĩ năng dùng từ, kĩ năng đặt câu,... và đặc biệt là kĩ năng sử dụng các biện pháp tu từ và phương tiện nghệ thuật trong viết văn. 1.1.3. Đặc điểm tâm lí và tư duy của học sinh lớp 4 ảnh hưởng đến việc tạo lập văn bản miêu tả Như chúng ta đã biết, tâm lý chung của HS Tiểu học là luôn muốn khám phá, tìm hiểu về những điều mới mẻ. Trong con mắt trẻ thơ với cái nhìn hồn nhiên, trong trẻo ấy khiến những sự vật, hiện tượng nào cũng trở nên đầy bí ẩn với chúng. Các em luôn tò mò, muốn khám phá, các em phải trả lời cho muôn vàn câu hỏi vì sao trong cuộc sống. Để giúp các em giải đáp những thắc mắc đó thì trước hết người GV cần giúp các em nhận thức được sự đa dạng, muôn màu, muôn sắc của sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh các em. Với HS đầu cấp thì các em sẽ tri giác lại các sự vật quan sát được qua những nét vẽ ngây ngô, đáng yêu bởi tư duy của các em
  • 33. 24 lúc này là trực quan sinh động. Nhưng khi các em bước vào những lớp cuối cấp, tư duy các em có bước chuyển đổi mãnh liệt từ cảm tính sáng lý tính, từ tư duy trực quan sang trừu tượng. Vì thế GV phải nắm rõ để rèn luyện cho các em cách quan sát, kích thích hứng thú với các em hơn. Các em sẽ tô vẽ lại những bức tranh đó bằng ngôn ngữ của mình. Với thể loại văn miêu tả, cần tư duy đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là quan sát sự vật, hiện tượng ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau mới đem lại cảm nhận sâu sắc khi miêu tả. Bởi lứa tuổi các em từ hình thức cho đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu của một quá trình. Do đó những tri thức các em tiếp thu phải được sắp xếp lại theo những trình tự nhất định, GV cần nắm rõ để có định hướng và giúp các em có được những cảm nhận tinh tế. Sự cảm nhận bắt đầu từ óc quan sát, từ sự nhạy bén của trí nhớ, từ sự cảm nhận vẻ đẹp của sự vật, hiện tượng qua sự rung cảm của tâm hồn. Mọi suy nghĩ của các em đều rất hồn nhiên, trong sáng và nhận thức còn ở mức độ đơn giản. Một tiếng lá rơi, một ngọn gió nhẹ hay những âm thanh tí tách của giọt nước trước hiên nhà cũng đã tạo nên những rung động trong tâm hồn của các em. Chính vì thế, những gì càng gần gũi, dễ hiểu thân quen với các em bao nhiêu thì việc tiếp thu càng dễ dàng bấy nhiêu nên cần hướng các em đến đối tượng miêu tả gần gũi, quen thân với cuộc sống hằng ngày của chính các em. Một đặc điểm nữa mà ta nhận thấy rõ ở các em là sự trải nghiệm cuộc sống còn quá hạn chế dẫn đến một thực trạng là vốn từ, vốn sống có ít nên khi ứng dụng vào tạo lập nên một văn bản miêu tả sẽ gặp nhiều trở ngại, khiến cho bài viết khô khan, câu văn lủng củng, thiếu đi yếu tố mượt mà, mềm mại vốn có của bài văn miêu tả. Chúng ta cứ thử nghĩ đi, trước kia không gian vui chơi của các em là gì, là những trò chơi dân gian, là những buổi chiều thả diều trên đê, là những buổi tắm sông cùng tụi bạn trong xóm, hay chơi trò đá cỏ gà, ô làng, được ngắm bình minh từ từ nhô lên phía đông của chân trời hay ông mặt trời “đi ngủ” sau rặng tre cuối làng, rồi cả ngắm nhìn cánh đồng lúa chín, cảnh bà con gặt lúa, nghe tiếng gà gáy sáng, tiếng côn trùng rả rích trong đêm mùa đông giá rét,... Còn cuộc sống bây giờ của các em là ngoài thời gian học kiến thức văn hóa ở trường, các em phải có mặt đúng giờ để học thêm ở các trung tâm, nào là tin học, ngoại ngữ, vẽ vợi hay thể thao gì gì đó, nói chung là kín mít thời gian. Sau khi hoàn thành các nhiệm vụ đó xong trở về nhà thì các em lại phải nhốt mình trong bốn bức tường với các trò chơi điện tử hấp dẫn, các bộ phim hoạt hình mà đứa trẻ nào cũng mê. Thử hỏi với một lịch trình dày
  • 34. 25 đặc, với một cuộc sống hiện đại như thế, các em có được trải nghiệm đâu mà có vốn sống, vốn hiếu biết về cuộc sống xung quanh. Kết quả là có rất ít bài văn hay, sinh động, chân thật, có em khi tả con gà mái dẫn đàn con đi ăn mà “gáy ò ò o”, rồi cả “trèo lên cây chuối để hái chuối” hay “bình minh mà mọc trên núi”,... Vì thế trong dạy học tạo lập văn bản miêu tả GV cần chú ý đến đặc điểm tâm sinh lí và khả năng nhận thức của các em để kịp thời uốn nắn, giúp đỡ các em nhằm phát triển các kĩ năng cần thiết để tô vẽ nên những bức tranh miêu tả đang còn dang dở trở nên hoàn hảo hơn, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn và tạo nên sự quan tâm của các em với thế giới xung quanh, trong đó quan trọng nhất là với thiên nhiên. Học và làm văn miêu tả, HS có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất giữa tư duy, tình cảm, ngôn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên, với xã hội. Lúc ấy trẻ sẽ bộc lộ được cảm xúc cá nhân, mở rộng tâm hồn, phát triển nhân cách của một con người có ích cho xã hội. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Nội dung dạy học làm văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 4 hiện hành 1.2.1.1. Các kiểu bài văn miêu tả Bảng 1.4. Cấu trúc chƣơng trình tập làm văn lớp 4 Nội dung Số tiết dạy (tiết) Học kỳ 1 Học kỳ 2 Cả năm Kể chuyện 19 0 19 Miêu tả - Khái niệm miêu tả - Miêu tả đồ vật - Miêu tả cây cối - Miêu tả con vật 1 6 4 11 8 1 10 11 8 Các loại văn khác - Viết thư - Trao đổi ý kiến - Giao thông địa phương - Tóm tắt tin tức - Điền vào giấy tờ in sẵn 3 2 1 1 3 3 3 2 2 3 3 Tổng số 32 30 62
  • 35. 26 Qua bảng thống kê trên, cho thấy số tiết dạy văn miêu tả là 30 tiết chiếm 48,4% trong tổng số 62 tiết Tập làm văn của cả năm học, rõ ràng văn miêu tả chiếm gần nửa số tiết học cả năm (không kể những tiết ôn tập); còn Kể chuyện là 19 tiết chiếm 31,7% và các loại văn khác như viết thư, trao đổi ý kiến, giao thông địa phương, tóm tắt tin tức, điền váo giấy tờ in sẵn là 16 tiết chiếm 25,8%. Trong khi đó, Kể chuyện học sinh được học hoàn toàn trong học kì 1, các loại văn khác thì rải rác trong cả hai kì, còn văn miêu tả chỉ học ở học kì 1 là 7 tiết còn chủ yếu phân bố trong học kì 2 (23 tiết). Cũng thấy rằng, văn miêu tả đóng vai trò trọng tâm và tập trung ở học kì 2 của lớp 4 tạo điều kiện và cơ sở để cho các em học tiếp hai dạng thức còn lại của văn miêu tả là tả người và tả cảnh khi các em học lên lớp 5. Phải chăng ý đồ của các nhà biên soạn sách và phân phối chương trình là quá hợp lí. Sự phân phối chương trình đó khiến văn miêu tả chiếm vị trí quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 4. Trong đó HS được trang bị kiến thức cần thiết về kĩ năng viết đoạn văn, bài văn miêu tả. Các kiến thức này được cung cấp qua các nội dung: Cấu tạo bài văn miêu tả, Luyện tập quan sát, Luyện tập lập dàn ý, Luyện tập xây dựng đoạn văn, Bài viết và trả bài viết. Các nội dung này là một khuôn mẫu được lặp lại ở tất cả các kiểu bài văn miêu tả lớp 4 (đồ vật, con vật, cây cối). (Xem Phụ lục bảng 1.1) Ở lớp 4 nói riêng, HS được luyện kĩ năng viết văn miêu tả qua các kiểu bài: tả đồ vật, tả con vật và tả cây cối. Với mỗi kiểu bài sẽ có những điều cần lưu ý :  Tả đồ vật Để làm tốt bài văn tả các đồ vật đơn giản, gàn gũi với cuộc sống xung quanh, các em cần phải: - Xác định rõ đồ vật cần tả là gì. - Quan sát rõ đồ vật sẽ tả để tìm những nét nổi bật riêng của vật đó về hình dáng, màu sắc, cấu tạo, công dụng.... - Trong khi quan sát, các em cần vân dụng quan sát bằng mắt (thị giác) để thấy rõ về hình dáng, kích thước, màu sắc,...; bằng tai (thính giác) để nghe âm thanh, tiếng động của vật khi ta sử dụng (ví dụ như đồng hồ, chiếc quạt máy...); bằng xúc giác để cảm nhận độ bóng, mịn, bằng phẳng, nhám...của vật - Dùng từ ngữ thích hợp để làm nổi bật các đặc điểm riêng của đồ vật, dùng từ ngữ hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa để việc miêu tả được cụ thể, sinh động hơn.
  • 36. 27  Tả cây cối Tả cây cối là dùng lời văn miêu tả để giúp người đọc hình dung rõ cây được tả với những đặc điểm nổi bật về hình dáng, màu sắc, các bộ phận của cây, sự phát triển của cây ... Để làm tốt bài văn tả cây cối, các em cần phải: - Xác định rõ cây sẽ tả là cây gì, thuộc loại cây hoa, cây bóng mát hay cây ăn quả. - Sử dụng nhiều giác quan để quan sát cây định tả. Từ đó, các em có thể nhận biết được những đặc điểm nổi bật về hình dáng, độ cao, lá (hoặc tán lá), hoa, thân, cành, gốc, rễ ... của cây. Có thể quan sát các bộ phận của cây theo trình tự từ dưới lên trên hoặc từ trên xuống dưới. Cũng có thể quan sát các giai đoạn phát triển của cây hoặc sự thay đổi của cây qua từng thời điểm cụ thể. - Trong khi miêu tả, các em cần chọn lựa từ ngữ để làm nổi bật các đặc điểm của cây hoặc đặc điểm của từng bộ phận, có thể dùng các từ ngữ, hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa để bài văn miêu tả được cụ thể, sinh động hơn. Cần miêu tả xen kẽ các sự vật có liên quan đến đời sống của cây như chim chóc hoặc sinh hoạt của con người ...  Tả con vật Tả con vật là dùng lời văn để vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh con vật một cách sinh động với những đặc điểm về hình dáng, hoạt động và thói quen sinh hoạt. Muốn làm tốt bài văn tả loài vật, các em cần phải chú ý: - Xác định rõ con vật định tả là con gì, một con vật cụ thể hay cả bầy, đàn. - Mỗi loài vật đều có những đặc điểm khác nhau. Trong cùng một loài, mỗi con vật lại có những nét riêng độc đáo. Vì vậy, phải quan sát kĩ con vật định tả để tìm ra những đặc điểm về hình dáng (màu lông, thân hình, đầu, tai, mắt, chân, cánh ...), về hoạt động, về các thói quen sinh hoạt... - Cần phải miêu tả theo một trình tự hợp lí: + Tả hình dáng thì phải tả bao quát trước rồi mới tả từng bộ phận. + Tả hoạt động và thói quen sinh hoạt của con vật có thể kết hợp với việc tả hình dáng cũng như môi trường mà con vật đang sống. - Trong miêu tả, cần chọn từ ngữ, hình ảnh so sánh, nhân hóa để bài văn sinh động và gợi cảm xúc.
  • 37. 28 1.2.1.2. Đặc điểm nội dung các bài Tập làm văn tạo lập văn miêu tả Trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học, văn miêu tả chiếm một vị trí quan trọng. Ngay từ các lớp học đầu cấp Tiểu học các em đã bắt đầu làm quen với văn miêu tả qua các bài tập quan sát trả lời câu hỏi ở lớp 2, 3. Lên lớp 4, 5 các em được bắt đầu học các kiểu bài văn miêu tả. Kĩ năng viết văn miêu tả của HS được nâng cao dần theo các lớp với những chủ đề khác nhau. Ở lớp 2, HS dựa trên các câu hỏi gợi ý để viết một đoạn văn ngắn từ 5 – 7 câu. Có khi là sự sắp xếp các câu văn theo thứ tự để tạo thành một đoạn văn hoàn chỉnh. Lúc này các em cũng biết được “con lợn kêu eng - éc”, “con gà gáy ò ó o”, “tiếng nước chảy róc rách”, “tiếng chim hót líu lo” hay mùi thơm của mít chín, mùi hơi đất của cơn mưa mùa hạ, mùi ẩm mốc của tường rêu,... nhưng những cảm xúc đó chỉ dừng lại ở mức độ biết, còn các em có miêu tả được cái bên trong, cái thể hiện được tâm trạng buồn, vui, yêu, ghét các sự vật, hiện tượng ấy thì lên lớp 4, 5 các em mới thể hiện được qua bài văn miêu tả của mình. Tuy nhiên nội dung các bài tập làm văn tạo lập văn bản miêu tả ở Tiểu học chỉ dừng lại ở mức độ đơn giản, chủ yếu xung quanh những gì vốn gần gũi thân thuộc với các em. Các bài văn miêu tả chỉ yêu cầu các em tả những đối tượng mà các em thường thấy trong cuộc sống và rất thân thiết với các em như chiếc cặp sách, quyển vở, chiếc bút, thước kẻ, chiếc trống trường, cái bàn, cuốn lịch, cũng có thể là những cây phượng, cây bàng, hoa bằng lăng, cây hoa hồng, cây mít,... mà các em vẫn bắt gặp đâu đó trên đường đi học về, trong sân trường, vườn nhà bà, hay là những chú cún con, chị mèo hay em ngan mà các em thường rất yêu mến và chơi với chúng mỗi ngày. Ở đó các em sẽ gửi gắm tình yêu thương và những kỉ niệm của mình với những gì các em miêu tả. Nội dung kiến thức văn miêu tả lớp 4 được cụ thể hóa qua hai loại bài: Hình thành kiến thức và Luyện tập thực hành. Loại bài Hình thành kiến thức: được cấu trúc theo 3 phần: 1. Nhận xét: Bao gồm các câu hỏi, bài tập gợi ý HS khảo sát văn bản để tự rút ra một số nhận xét về đặc điểm loại văn, kiến thức cần ghi nhớ. 2. Ghi nhớ: Gồm những kiến thức cơ bản rút ra từ phần nhận xét. 3. Luyện tập: Gồm từ 1 đến 3 bài tập thực hành đơn giản nhằm giúp HS củng cố và vận dụng kiến thức tiếp nhận trong bài học. Các bài thuộc loại bài Hình thành kiến thức trong chương trình văn miêu tả lớp 4: - Thế nào là miêu tả? - Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật
  • 38. 29 - Quan sát đồ vật - Đoạn văn trong bài miêu tả đồ vật - Cấu tạo bài văn miêu tả cây cối - Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối - Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật Loại bài Luyện tập thực hành: kiểu bài này chủ yếu nhằm mục đích rèn luyện các kĩ năng tập lập văn, vì thế mà nội dung của nó bao gồm một tổ hợp bài tập gồm 2 loại: Bài tập nhận diện giúp HS củng cố các kiến thức lý thuyết đã được hình thành trong bài và kiểm tra các em đã học được ở những tiết trước, loại thứ hai là bài tập vận dụng với mục đích giúp HS ứng dụng lý thuyết đã học để thực hành viết bài văn miêu tả. Các bài thuộc loại bài Luyện tập thực hành trong Chương trình văn miêu tả lớp 4: - Luyện tập miêu tả đồ vật. - Luyện tập miêu tả đồ vật. - Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả đồ vật. - Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả đồ vật. - Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu tả đồ vật. - Miêu tả đồ vật (Kiểm tra viết) - Trả bài miêu tả đồ vật. - Luyện tập quan sát cây cối - Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối - Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối - Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối - Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả cây cối - Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu tả cây cối - Luyện tập miêu tả cây cối - Miêu tả cây cối (Kiểm tra viết) - Trả bài văn miêu tả cây cối - Luyện tập quan sát con vật - Luyện tập miêu tả các bộ phận của con vật - Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật - Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật - Luyện tập xây dựng mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả con vật - Miêu tả con vật (Kiểm tra viết) - Trả bài văn miêu tả con vật
  • 39. 30 Văn miêu tả được dạy 30 tiết trong đó loại bài hình thành kiến thức mới là 7 tiết chiếm 23,3% còn loại bài luyện tập thực hành là 23 tiết chiếm 76,7% tổng số tiết văn miêu tả HS được học trong chương trình tập làm văn lớp 4. Như vậy là loại bài luyện tập thực hành chiếm hơn ba phần tư số tiết văn miêu tả mà các em được học. Điều này cho thấy rõ mục tiêu của dạy học văn miêu tả ở lớp 4 là chú trọng rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản miêu tả. Đó là các kĩ năng quan sát; kĩ năng lập dàn bài; kĩ năng viết đoạn mở bài, kết bài; đoạn văn miêu tả các bộ phận của đồ vật, con vật và cây cối rồi nâng cao lên là kĩ năng viết bài văn miêu tả đồ vật, con vật và cây cối. Các kĩ năng này được hình thành và phát triển qua hệ thống 23 bài luyện tập thực hành trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4 tập 1 và tập 2. Nội dung 23 bài luyện tập thực hành này là hệ thống các bài tập rèn kĩ năng tạo lập văn bản miêu tả sau: Miêu tả đồ vật Bài tập SGK TV4 Lập dàn ý cho bài văn miêu tả đồ vât T1 trang 152 Tả đồ chơi mà em thích T1 trang 162 Viết đoạn văn miêu tả bao quát chiếc bút T1 trang 170 Viết đoạn văn miêu tả bên ngoài, bên trong chiếc cặp T1 trang 173 Viết Mở bài (gián tiếp, trực tiếp) cho bài văn miêu tả các bài học T2 trang 10 Viết Kết bài (Mở rộng, không mở rộng) cho các đề: a. Thước kẻ b. Bàn học c. Cái trống trường T2 trang 12 Kiểm tra viết: Miêu tả đồ vật T2 trang 18 Trả bài viết T2 trang 28 Miêu tả cây cối Bài tập SGK TV4 Quan sát một cây em thích trong vườn trường và ghi lại những gì em quan sát được. T2 trang 40 Viết đoạn văn miêu tả lá, thân hay gốc của một cây em yêu thích. T2 trang 42 Viết đoạn văn tả một loài hoa hoặc một thứ quả mà em yêu thích T2 trang 51 Viết đoạn văn nói về lợi ích của một loài cây mà em biết Viết hoàn chỉnh đoạn văn cho sẵn T2 trang 53 Viết đoạn mở bài cho bài văn miêu tả cây cối T2 trang 61 Viết đoạn kết bài cho bài văn miêu tả cây cối T2 trang 75 Tả một cây bóng mát mà em biết T2 trang 82 Kiểm tra viết: Miêu tả cây cối T2 trang 92 Trả bài viết T2 trang 94
  • 40. 31 Miêu tả con vật Bài tập SGK TV4 Quan sát và miêu tả đặc điểm ngoại hình của con mèo T2 trang 120 Quan sát và miêu tả hoạt động thường xuyên của con mèo T2 trang 120 Sắp xếp các câu văn thành đoạn văn miêu tả con vật T2 trang 130 Viết đoạn văn có chứa câu mở đoạn tả con gà trống T2 trang 130 Viết đoạn văn miêu tả ngoại hình của con vật T2 trang 140 Viết đoạn văn miêu tả hoạt động của con vật T2 trang 140 Viết đoạn văn Mở bài, Kết bài cho bài văn miêu tả con vật T2 trang 142 Kiểm tra viết: Miêu tả con vật T2 trang 149 Trả bài viết T2 trang 159 Có thể thấy rằng, hệ thống nội dung các bài tập làm văn tạo lập văn bản miêu tả trong chương trình Tiếng Việt 4 chiếm một số lượng rất lớn. Với cả ba dạng thức (tả đồ vật, tả con vật, tả cây cối), các bài tập chú trọng rèn luyện các kĩ năng quan sát; tìm ý và lập dàn ý; sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và các biện pháp tu từ để viết câu, đoạn và bài văn miêu tả được phân bổ rõ ràng qua từng tiết dạy tập làm văn. 1.2.2. Thực trạng dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 tại một số trường Tiểu học ở Thành phố Huế 1.2.2.1. Thực trạng tổ chức hoạt động tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 từ quan điểm phát triển năng lực Để khảo sát thực trạng tổ chức hoạt động tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 ở trường Tiểu học, chúng tôi đã tiến hành dự giờ, quan sát và sử dụng phiếu điều tra, phỏng vấn, trong đó hình thức phỏng vấn là cơ bản. Số lượng tham gia khảo sát là 40 GV. (Nội dung phiếu, xem phụ lục). Kết quả khảo sát như sau: Bảng 1.5. Kết quả khảo sát GV Câu hỏi Nội dung khảo sát Số lƣợng Tỷ lệ % 1 Nhận thức đúng về sự cần thiết của việc phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 39 97,5 2 Nắm được tiêu chí đánh giá bài văn của HS 30 75 3 Đánh giá về năng lực tạo lập văn bản miêu tả của HS Giỏi 5 12,5
  • 41. 32 Khá 10 25 Trung bình 20 50 Yếu 5 12,5 4 Nắm được các kĩ năng cần thiết để tạo lập văn miêu tả 35 87,5 5 Khảo sát mức độ chú ý rèn luyện kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo Rất chú ý 15 37,5 Chú ý 10 25 Có chú ý 10 25 Hầu như không chú ý 5 12,5 6 Nhận biết tác dụng của việc phát triển sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả 37 92,5 7 Khảo sát sự lựa chọn các phương pháp, hình thức dạy học hỗ trợ phát triển cho HS trong tạo lập văn bản miêu tả miêu tả Xây dựng hệ thống bài tập 19 22,5 Tổ chức các trò chơi học tập 14 35 Ứng dụng CNTT, kĩ thuật hiện đại 6 15 Tích lũy kiến thức qua các phân môn khác của Tiếng Việt 11 27,5 8 Nhận biết vai trò của việc phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý của việc tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 Rất quan trọng 20 50 Quan trọng 10 25 Bình thường 10 25 Không quan trọng 0 0 9 Khảo sát mức độ hứng thú của GV trước NL học tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 Rất hứng thú 8 20 Hứng thú 10 25 Bình thường 22 55 10 Tài liệu tham khảo cho việc dạy phát triển các NL tạo lập văn bản miêu tả Phong phú, đầy đủ 10 25 Có nhưng ít 22 55 Không có 8 20
  • 42. 33 Qua kết quả khảo sát, từ góc độ người dạy thì hầu hết các GV đã thấy được sự cần thiết phải phát triển các NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS (97,5%), nhận thức được phần nào tầm quan trọng của việc phát triển các NL quan sát, trải nghiệm sáng tạo, tìm ý, lập dàn ý, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả cho HS. Biết rằng để HStạo lập nên những văn bản miêu tả hay thì cần phát triển những NL đó. Đa số các GV cũng đã nắm chắc tiêu chí để đánh bài văn miêu tả của HS (chiếm 75%). Với kết quả khảo sát thì có đến 12,5 % khi được hỏi thì hầu như không chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo cho HS, có 50 % GV cho rằng kĩ năng tìm ý và lập dàn ý đóng vai trò rất quan trọng, 50 % GV nhận thấy được sự rất cần thiết phải phát triển tư duy sáng tạo trong tạo lập văn bản miêu tả cho HS, có đến 37 GV trong tổng số 40 GV (chiếm 92,5 %) được phỏng vấn thừa nhận việc phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tập lập văn bản miêu tả cho HS sẽ làm cho bài văn của các em trở nên mượt mà, sống động hơn, đối tượng miêu tả trở nên có “hồn” hơn, gần gũi thân thiết hơn với con người, qua đó bồi dưỡng ở các em sự trong sáng trong tâm hồn và tình yêu cái đẹp, giúp các em thể hiện và phát huy hết khả năng sáng tạo tiềm ẩn trong mỗi cá nhân các em. Tuy nhiên, bên cạnh phần đông GV đồng tình, thấy được tầm quan trọng của việc phát triển những kĩ năng trên trong quá trình dạy tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 thì vẫn còn một số ít GV chưa thực sự chú trọng, quan tâm, có chăng thì cũng ở mức độ bình thường. Cụ thể là có đến 7,5 % GV xem việc rèn luyện kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ ở mức rất ít, 25 % GV cho rằng việc phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý là bình thường. Theo kết quả khảo sát cho thấy, thời gian gần đây đã có nhiều nhà giáo dục, nhà nghiên cứu, thầy cô giáo quan tâm đến vần đề này và đặc biệt cũng có nhiều tài liệu dạy học đề cập đến nội dung dạy học tạo lập văn bản cho HS lớp 4 nhưng sau tất cả thì vẫn chưa đầy đủ, thấu đáo, chỉ dừng lại ở mức độ có nhưng ít (22/ 40 chiếm 55%). Điều này tạo nên sự trở ngại, khó khăn cho GV trong dạy học văn miêu tả ở nhà trường cho HS, các em khó mà viết tốt, viết hay được (đặc biệt là vận dụng các phương tiện ngôn ngữ, biện pháp tu từ và phát huy hết tư duy sáng tạo của bản thân trong quá trình làm bài văn miêu tả để tạo lập nên những văn bản miêu tả mượt mà mang đậm dấu ấn cá nhân. Trong quá trình khảo sát mức độ hứng thú của GV trước năng lực học tạo lập văn bản miêu tả của HS thì chỉ có 20% GV cảm thấy HS học tốt và rất hứng thú, 25% xem là hứng thú trước NL học tạo lập văn bản miêu tả của
  • 43. 34 HS và có đến 55% GV xem NL học tạo lập văn bản miêu tả của HS là ở mức bình thường. Với mức độ này thì có thể nói rằng việc thầy cô có hứng thú không khi dạy tạo lập văn bản miêu tả cho HS thì câu trả lời mới chỉ dừng lại ở mức độ trung bình chứ chưa cao. Và khi được hỏi trong dạy học tạo lập văn bản miêu tả GV lựa chọn những phương pháp và hình thức gì để mang lại hiệu quả cao thì nhận được nhiều ý kiến khác nhau, có 35 % GV chọn cách tổ chức các trò chơi học tâp; GV chọn phương pháp tích lũy kiến thức qua các phân môn khác của Tiếng Việt là 27,5 %, còn 22,5 % là chọn biện pháp xây dựng các bài tập hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả, chiếm tỉ lệ thấp nhất là phương án ứng dụng công nghệ thông tin, kĩ thuật hiện đại trong dạy học. Điều đó thấy rằng bước đầu GV cũng đã biết vận dụng nhiều phương pháp và hình thức dạy học tích cực trong dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4. Tuy nhiên sự vận dụng này cũng còn cục bộ, chưa đồng đều, thiếu tính chặt chẽ và khoa học nên hiệu quả mang lại chưa cao. Có lẽ những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng bài văn miêu tả của HS. Kết quả khảo sát cho thấy NL tạo lập văn bản miêu tả của HS hiện nay dừng lại ở mức độ trung bình khá. Ngoài ra, trong quá trình dạy học, các buổi dự giờ, thao giảng, thăm lớp, chúng tôi nhận thấy rằng GV dạy tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 hiện nay còn tồn tại một số nhược điểm sau: - Giờ học tập làm văn nói chung và thể loại văn miêu tả nói riêng chỉ được tiến hành trong lớp, HS căn cứ theo các gợi ý trong SGK rồi thực hành các bài tập. GV chưa tạo ra môi trường học tập tích cực cho HS, chưa tạo cơ hội để các em được quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong tiến trình viết bài. - GV còn quá phụ thuộc vào SGK, SGV trong quá trình dạy bởi hiện nay thì chỉ có một con đường duy nhất để hình thành kiến thức, kĩ năng làm văn miêu tả thông qua việc phân tích mẫu trong SGK, mà việc phát triển này lại không làm bật lên được hết giá trị của những bài văn. - Sự quá phụ thuộc vào SGK dẫn đến một tình trạng nữa là GV khi ra đề không cần biết đề bài đó có phù hợp với đặc điểm tâm sinh lứa tuổi và trình độ nhận thức của HS mình hay không. - GVchưa thực sự chú trọng rèn luyện kĩ năng lập dàn ý trong dạy học tạo lập văn miêu tả cho HS dẫn đến tình trạng bài viết của các em lủng củng, thừa trước thiếu sau, bố cục không rõ ràng. - Trong quá trình dạy tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4, GV chưa thực sự quan tâm đến việc rèn luyện kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và
  • 44. 35 biện pháp tu từ trong viết văn. Có chăng thì chỉ có nói qua loa mà chưa có các biện pháp hướng dẫn cụ thể và giải thích rõ cho các em biết hết ý nghĩa hết sức to lớn của các kĩ năng này góp phần làm cho bài văn của các em hay hơn, “chất” hơn. 1.2.2.2. Năng lực tạo lập văn bản miêu tả của học sinh lớp 4 tại một số trường Tiểu học ở Thành phố Huế Để khảo sát văn bản tạo lập miêu tả của học sinh ở một số trường Tiểu học hiện nay, ngoài hình thức phỏng vấn, chúng tôi dùng hình thức khảo sát bằng các phiếu điều tra. Số lượng HS được khảo sát là 150 em. Phiếu điều tra phần: Phần Trắc nghiệm gồm 10 câu hỏi (các câu hỏi đều có sẵn phương án trả lời) và Phiếu điều tra phần Tự luận để HS làm bài kiểm tra tự luận để chấm điểm và đánh giá NL tạo lập văn bản miêu tả của HS lớp 4. (Nội dung phiếu, xem Phụ lục) Kết quả khảo sát như sau: Bảng 1.6. Kết quả khảo sát HS Phần trắc nghiệm: Câu hỏi Nội dung khảo sát Số lƣợng Tỉ lệ % 1 Hiểu được thế nào là văn miêu tả 140 93,3 2 Biết cách quan sát một đồ vật 90 60 3 Nắm được trình tự miêu tả một đồ vật 86 57,3 4 Biết được trình tự tạo lập nên 1 văn bản miêu tả 80 53,3 5 Nhận biết từ láy trong đoạn văn miêu tả con vật 89 59,3 6 Nhận biết được biện pháp so sánh trong đoạn văn miêu tả cây cối 86 57,3 7 Nhận biết được biện pháp nhân hóa trong câu văn miêu tả 86 57,3 8 Mức độ hứng thú của học sinh khi học tạo lập văn bản miêu tả Rất hứng thú 36 24 Hứng thú 45 30 Bình thường 54 36 Không hứng thú 15 10 9 Sự hứng thú của học sinh về cách dạy của GV Hấp dẫn, hứng thú 25 16,7
  • 45. 36 Câu hỏi Nội dung khảo sát Số lƣợng Tỉ lệ % Dễ hiểu 40 26,7 Bình thường 70 46,7 Nhàm chán 15 10 10 Mức độ cung cấp tài liệu học tập văn miêu tả của nhà trường Rất nhiều 15 10 Nhiều 30 20 Có nhưng chưa đầy đủ 80 53,3 Không có 25 16,7 Phần tự luận: Tổng số học sinh tham gia Kết quả G (9 – 10 điểm) K (7 – 8 điểm) TB (5 – 6 điểm) Y (< 5 điểm) SL % SL % SL % SL % 150 10 6,6 58 38,6 63 42 19 12.6 Kết quả Trắc nghiệm cho thấy rằng: nhìn chung các em đã hiểu được thế nào là văn miêu tả (93,3%), biết cách quan sát đối tượng miêu tả (60%), phần đông các em biết được trình tự miêu tả một đồ vật (57,3%) hầu hết đều nhận diện đúng từ láy, các hình ảnh so sánh, các sự vật được nhân hóa trong câu văn, đoạn văn cho sẵn. Tuy nhiên khi được hỏi các em có hứng thú với nội dung học lập văn bản miêu tả không thì nhận được một kết quả không như mong đợi, có đến 10% cho là không hứng thú, chỉ có 24% là rất hứng thú và nhiều nhất là ở mức bình thường(36%), hứng thú chiếm 30 %. Đây phải chăng là một trong những lí do khiến cho năng lực viết văn của học sinh luôn ở mức trung bình, ít có nhiều bài văn hay, đặc sắc? Trong một câu hỏi khác của quá trình điều tra thì chỉ có 16,7% cho rằng cách dạy của GV là lí thú, hấp dẫn, có đến 10% HS nghĩ GV dạy nhàm chán. Điều này ảnh hưởng ít nhiều đến kết quả học tập của các em. Trong phần tự luận để kiểm tra thực tế văn miêu tả và kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, biện pháp tu từ trong viết văn của HS thì chỉ có 10 HS chiếm 6,6% số HS được khảo sát đạt loại giỏi, có đến 12,6% HS (19 HS) đạt điểm dưới 5, HS đạt điểm trung bình cao nhất (chiếm 42%) còn điểm khá chiếm 38,6%. HS đạt điểm kém còn nhiều (19/ 150), HS đạt điểm giỏi
  • 46. 37 rất ít (10/ 150). Qua quá trình điều tra, thấy rằng hầu hết HS đã tả đúng về đối tượng miêu tả. Khi tả cây cối, các em đã tả được các bộ phận của cây như rễ, thân, cành, lá, hoa, quả (nếu có) hay tả con vật thì các em biết tả được những bộ phận của con vật từ đầu, thân, bộ lông, tai, mũi, miệng và cả hoạt động, các em bộc lộ cảm xúc yêu mến của mình đối với chúng. Một số em đã sử dụng từ láy như “dong dỏng” để tả hai cái tai con chó, “duyên dáng” để tả cái đuôi con mèo, cái chân “lủn củn” của đàn ngan mới nở, ... biết ví von so sánh “hương sầu riêng ngan ngát như hương cau, hương bưởi”, “rễ cây bàng ngoằn ngoèo trườn lên mặt đất như con rắn hổ mang giận dữ”, “cái đồng hồ như cô bé làm công việc báo thức”,... rồi cả nhân hóa “dưới ánh nắng mặt trời, chú gà trống như một vị hoàng đế đang khoác trên mình một chiếc hoàng bào lấp lánh”, “các chị hoa gọi nhau đi chúc Tết mọi nhà”, “cây phượng vĩ xòe bàn tay ôm ấp, che chở cái nắng chói chang ngày hè cho chúng em chơi đùa”,... làm cho bài viết khá thú vị, gây ấn tượng cho người đọc. Tuy nhiên thì số bài này ở mức hạn chế. Đa số bài viết của các em mắc khá nhiều lỗi. Trước hết phải kể đến lỗi dùng từ đặt câu, dù trước đó các em đã học và nắm vững kiến thức này trong phân môn Luyện từ & câu nhưng khi áp dụng vào viết văn lại không đạt. Thứ hai là sự quan sát chưa đúng cộng với vốn sống, vốn từ và sự trải nghiệm sáng tạo ở các em còn hạn chế dẫn đến bài văn khô khan, ít xúc cảm, nghèo nàn hình ảnh. Qua chấm bài, một đặc điểm nổi lên mà nhiều HS vướng mắc đó là bố cục bài viết lủng củng, thiếu trước thừa sau, điều này phải chăng do các em chưa chú ý đến việc cần làm là tìm ý và lập dàn ý cho bài văn trước khi làm bài viết. Đa số các em chưa sử dụng nhiều từ láy, biện pháp tu từ trong viết văn để tạo nên sự hấp dẫn, sinh động cho bài văn của mình. Một số em đã có sự tưởng tượng, liên tưởng để so sánh và nhân hóa một số hình ảnh trong bài viết nhưng vẫn còn miễn cưỡng, ngô nghê, chưa hay, chưa gợi tả, gợi cảm và hiệu quả mang lại chưa cao. Một thực tế hiện nay, trên thị trường đã có nhiều sách tham khảo, văn mẫu cho HS và PH tham khảo, mà HS của chúng ta thì NL còn hạn chế nên để bài văn được điểm cao thì không có cách nào khác là các em học thuộc văn mẫu rồi “sao chép” vào bài viết của mình, có nhiều em dựa vào dàn ý mà GV hướng dẫn rồi chép y hệt vào chứ không sáng tạo, liên tưởng gì khác mang dấu ấn cá nhân khiến cho nhiều bài viết của các em na ná nhau. Từ thực tế trên cho thấy bài viết của HS Tiểu học là miêu tả chung chung, hời hợt, nghèo nàn hình ảnh, ít cảm xúc và chưa phát huy NL sáng tạo cá nhân.
  • 47. 38 Qua quá trình lên lớp, các buổi thao giảng, dự giờ, phỏng vấn và điều tra HS, chúng tôi nhận thấy chất lượng hiệu quả học tạo lập văn bản miêu tả của HS lớp 4 bị ảnh hưởng bởi những mặt hạn chế sau: - HS chưa thực sự có hứng thú khi học tạo lập văn bản miêu tả một phần vì cách dạy của GV và một phần do yêu cầu, đặc thù môn học đòi hỏi ở HS nhiều mảng kiến thức từ các phân môn khác nhau của TV. - HS chưa biết vận dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong viết văn bởi vì các kiến thức này mặc dù HS đã học từ lớp 3 nhưng mới dừng lại ở mức độ nhận biết và đặt câu nên khi HS vận dụng vào để viết thành đoạn văn, bài văn miêu tả sẽ gặp nhiều khó khăn. - HS quá phụ thuộc vào sách văn mẫu, tham khảo nên bài viết của các em chưa phát huy hết NL sáng tạo để tạo lập nên những văn bản miêu tả hay. - Cách dạy của GV chưa gây được hứng thú và kích thích niềm đam mê học văn miêu tả ở các em. Tiểu kết chƣơng 1 Từ việc nghiên cứu những cơ sở lí luận cơ bản cũng như khảo sát, đánh giá thực tiễn những vấn đề liên quan đến đề tài như trên, chúng tôi rút ra những kết luận định hướng cho quá trình nghiên cứu, cụ thể là việc đề xuất biện pháp ở chương 2: - Chương trình Tập làm văn mà cụ thể là văn miêu tả trong SGK Tiếng Việt lớp 4 đã rất chú trọng đến kĩ năng tạo lập văn bản miêu tả và hình thành kĩ năng này qua thực hành luyện tập. - Thực tế dạy học văn miêu tả, GV chưa có biện pháp tích cực, hiệu quả để phát triển NL tạo lập văn miêu tả cho HS. Đặc biệt, GV chưa chú trọng phát triển tư duy sáng tạo của HS trong tạo lập văn bản miêu tả dẫn đến kết quả là ít có những bài văn hay, đặc sắc và mang đậm dấu ấn cá nhân. Vì vậy, việc đề xuất những biện pháp dạy học nhằm phát triển NL tạo lập văn miêu tả cho HS vừa có ý nghĩa giải quyết bất cập của thực tiễn vừa đáp ứng mục tiêu dạy học đổi mới. - Tạo lập nên một văn bản miêu tả là cả một quá trình từ quan sát đối tượng đến tìm chi tiết tiêu biểu rồi lập dàn ý, lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ để viết đoạn văn, bài văn tạo lập nên những văn bản miêu tả hay, hấp dẫn. NL tạo lập văn bản miêu tả là một chỉnh thể thống nhất của nhiều kĩ năng. Do đó để phát triển NL tạo lập văn miêu tả cho HS cũng cần được thực hiện có tính quá trình, tích hợp rèn luyện tất cả các kĩ năng trên.
  • 48. 39 Chƣơng 2 BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO VĂN BẢN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4 2.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp 2.1.1. Đảm bảo mục tiêu và nội dung dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 Môn Tiếng Việt nói chung và làm văn miêu tả nói riêng hướng đến mục tiêu phát triển kĩ năng tạo lập văn bản, góp phần hình thành cho HS những kiến thức sơ giản về tiếng Việt, những hiểu biết sơ giản về tự nhiên xã hội, con người, về văn hóa của Việt Nam và của nước ngoài, bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mọi sự tìm tòi, đổi mới về PPDH đều phải xuất phát từ việc đảm bảo mục tiêu, nội dung dạy học và đó cũng được xem như một cơ sở khoa học, một chuẩn đánh giá. Có như vậy những đề xuất mới có ý nghĩa góp phần khắc phục, cải thiện bài viết của HS đồng thời nâng cao hiệu quả dạy học tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4. Cụ thể là trong các biện pháp đề ra, luận văn chú trọng đến việc rèn luyện, hướng dẫn HS các kĩ năng tạo lập, luyện tập thực hành nhiều bài tập vận dụng sáng tạo, các trò chơi tích cực hướng tới mục tiêu phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả. Khi các em được thực hiện nhiều bài tập, nhiều trò chơi thì HS sẽ tiếp nhận nhiều tri thức về cách quan sát trải nghiệm sáng tạo, kĩ năng tìm ý, lập dàn ý, vận dụng các biện pháp tu từ và phương tiện ngôn ngữ vào bài viết với mục đích cuối cùng là tạo lập nên những văn bản miêu tả sinh động, hấp dẫn. Từ đó, HS có thêm nhiều trải nghiệm, nhiều hiểu biết về cuộc sống, con người, cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp xung quanh và tâm hồn trí tuệ của các em luôn rộng mở hơn. 2.1.2. Đảm bảo phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh Cũng như các phân môn khác của Tiếng Việt, một trong những nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn là bồi dưỡng ý thức và thói quen sử dụng Tiếng Việt. Để làm được điều này, GV cần bồi dưỡng hứng thú học tập, ý thức học tập đúng đắn và ý thức được lợi ích của việc học tập để tạo động lực học tập. Việc xây dựng biện pháp để phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS phải dựa trên các tiêu chí nói trên. GV đưa ra các ngữ liệu để xây dựng các bài tập luyện tập cho HS phải phù hợp với nhận thức của các em, cộng với nội dung hay, có chọn lọc thì sẽ kích thích ở các
  • 49. 40 em sự hứng thú, tò mò khám phá kiến thức. Đó có thể là các câu đố, trò chơi hay bài tập vận dụng mức độ cao để gây sự hấp dẫn, giảm bớt căng thẳng trong giờ học mà HS lại chiếm lĩnh tri thức một cách nhẹ nhàng và nhớ lâu hơn. Người ta thường hay nói “học mà chơi, chơi mà học”, nếu áp dụng thành công phương châm này thì chắc chắn kết quả học tập của HS luôn đạt kết quả cao. Khi các em được kích thích sự hứng thú, tò mò khám phá, chủ động tích cực thì GV dễ dàng đánh thức được những cảm xúc bất ngờ, sáng tạo của các em trước mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc sống, GV sẽ chấp cánh cho những sáng tạo HS để tạo tạc nên những trang văn miêu tả mượt mà bằng chính thế giới ngôn từ giàu xúc cảm của các em. 2.1.3. Đảm bảo tính hệ thống, tính vừa sức HS tiểu học có những đặc điểm tâm lí và tư duy đặc thù. Ở các em luôn có sự tò mò, mong muốn khám phá, chiếm lĩnh những cái mới mẻ, trí tưởng tượng, sự quan sát cũng khác lạ mà chỉ có các em mới nhìn và nghĩ như thế. Song ở góc độ nào đó, trình độ ngôn ngữ và khả năng tư duy của các em chưa đủ để giải mã hết những điều thú vị cuộc sống xung quanh. Vì thế GV cần căn cứ vào trình độ nhận thức và đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của người học cụ thể để đưa ra các biện pháp nhằm phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 đảm bảo tính hệ thống mà lại vừa sức đối với các em. Tính hệ thống ở đây có nghĩa là các biện pháp đề ra phù hợp với quy trình dạy tạo lập một văn bản miêu tả, hướng tới hình thành hệ thống kĩ năng cơ bản cấu thành nên NL tạo lập văn miêu tả cho HS lớp 4. Tuy nhiên, GV không yêu cầu mức độ quá cao so với trình độ của HS mà phải đảm bảo tính vừa sức và cũng không vì thế mà kìm hãm sự sáng tạo và tích cực hoạt động của HS. Ngược lại yêu cầu của biện pháp đề ra vừa đảm bảo các nguyên tắc đó, vừa phải hấp dẫn các em, khơi gợi những khát vọng hiểu biết, những hứng thú và đam mê của trẻ. Nếu GV làm tốt những việc nêu trên sẽ góp phần phát triển tư duy cho HS một cách toàn diện. 2.2. Hệ thống biện pháp phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4 2.2.1. Phát triển kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong tạo lập văn bản 2.2.1.1. Vai trò và yêu cầu của hoạt động quan sát, trải nghiệm sáng tạo đối với quá trình tạo lập văn bản miêu tả Các nhà tâm lí học cho rằng, quan sát không chỉ là nhìn, là thấy…, mà phải được hiểu là tổng thể hoạt động của các giác quan, bao gồm nhìn thấy nghe thấy, ngửi thấy, sờ mó thấy, nội cảm thấy… Quan sát trong tạo lập văn bản miêu tả có vai trò rất quan trọng, là cửa ngõ nối liền thế giới khách quan với chủ quan.
  • 50. 41 Nếu không có quan sát thì vốn hiểu biết, trí tưởng tượng và nói chung là toàn bộ trí tuệ, tâm hồn của chúng ta không chỉ nghèo nàn mà còn không thể nào hình dung được. Tục ngữ có câu: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Muốn mở rộng hiểu biết, phát triển tâm hồn mình, cần phải đi nhiều biết rộng, như thế cũng tức là phải quan sát được thật nhiều, thật sâu sắc những cảnh vật, những con người ở nhiều nơi. Về phương diện này, khác với bất cứ một kiểu dạng nào khác, văn miêu tả gắn chặt với tâm hồn, cũng như óc quan sát tinh tế của con người. Chính những kết quả quan sát đã đem lại sự giàu có trong nhận thức và tâm hồn của người viết. Ví dụ như phải viết một bài văn miêu tả con gà, cây bàng hay chiếc cặp sách mà nếu ta chưa từng quan sát nó thì chẳng những chúng ta chẳng có gì để viết về con gà, cây bàng, chiếc cặp sách mà trong chúng ta cũng sẽ chẳng có một ấn tượng hay nhận thức gì về chúng. Nếu chỉ nhìn một cách bình thường, giản đơn, chẳng hạn như nhìn thấy một cánh đồng, đó chưa phải là hoạt động quan sát. Quan sát là một hoạt động có chủ đích, có động cơ, có hứng thú và cuối cùng là phải có kết quả. Tức là sự quan sát đem lại một nhận thức mới, một cảm xúc mới, hay ít ra cũng là một nét gì mới mẻ mang giá trị thẩm mỹ trong cảm nhận về đối tượng. Từ đó, ta mới có những tư liệu quý để viết văn miêu tả cũng như bồi bổ tâm hồn mình. Bất kì sự tưởng tượng nào dù có phong phú và kì vĩ đến đâu đều phải bắt đầu từ thực tế, gắn với đời sống thực tế. Muốn có những trang văn miêu tả hay, có hồn và sống động thì đòi hỏi người viết phải có sự từng trải, sự hiểu biết. Đó mới là những người biết quan sát. Sở dĩ nhà văn Tô Hoài đã làm đắm say nhiều thế hệ thiếu niên bằng những trang văn miêu tả về hoạt động, tính nết, “phong tục” của những chú Dế Mèn, Dế Trũi, đại vương Ếch Đốm, thầy đồ Cóc,… là do ông đã gắn bó, bầu bạn và say mê quan sát cái thế giới đầy cỏ cây và các loài vật trên bãi sông trước cổng làng ông. Hay nhà thơ Trần Đăng Khoa, ông cho biết ngày nhỏ đã từng say mê ngồi quan sát đàn kiến tha mồi, thậm chí còn bắt từng loại kiến bỏ vào lọ để ngắm nhìn và quan sát, để rồi mới tả được cái Đám ma bác giun hay đến thế: “Bác giun đào đất suốt ngày Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà Họ hàng nhà kiến kéo ra Kiến con đi trước, kiến già theo sau” Cầm hương kiến đất bạc đầu Khóc than kiến cánh khoác màu áo tang Kiến lửa đốt đuốc đỏ làng Kiến kim chống gậy, kiến càng nặng vai”…
  • 51. 42 Quan sát không chỉ là quan sát vẻ bên ngoài, mà nhiều khi còn phải quan sát bên trong để thấu hiểu và thể hiện nội tâm của nhân vật. Trong trường hợp này, nhà văn cần phải nhập thân vào nhân vật. Quả là muốn viết được, nhất thiết phải biết quan sát để ấn sâu thêm trí nhớ, giúp sức cho tưởng tượng, sáng tạo như nhà văn Tô Hoài đã khẳng định: “quan sát là mài dũa cái nhìn, cái nghe, cái nghĩ”, “cái cách, cái lối quan sát ấy không có gì đặc biệt và bí ẩn”. Đó là một thói quen luôn biết mài dũa cái nhìn, cái nghe, cái nghĩ và là công việc lúc nào cũng bắt sức óc phải chăm chú tìm tòi và đổi mới. Muốn quan sát tốt còn phải lựa chọn cho mình một điểm nhìn, góc nhìn hợp lí. Khi viết một văn bản tự sự hay miêu tả, bao giờ người viết cũng phải xuất phát từ một vị trí, đóng vai trò một người nào đó để quan sát, miêu tả, thuật lại câu chuyện. Chẳng hạn, với góc nhìn của một đứa trẻ thời kháng chiến, Trần Đăng Khoa đưa vào trong thơ mình cả một không gian chiến tranh, mới có thể thấy “cây dừa” giống như “một người lính”. “Đứng canh trời đất bao la Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi” (Cây dừa) Và thấy bông lúa như “băng đạn” “Những năm băng đạn Vàng như lúa đồng Bát ngát mùa gặt Thơm hào giao thông” (Hạt gạo làng ta) Và nói chung, chỉ với nhãn quan của trẻ thơ, các nhà thơ thiếu nhi như Trần Đăng Khoa mới có thể có được những cái nhìn đầy ngạc nhiên trước thế giới xung quanh mà đối với người lớn đã quá quen thuộc. Mục tiêu cuối cùng của dạy học văn nói chung là phát triển tâm hồn, nhân cách cho HS. Nhưng văn miêu tả có cách riêng, đó là nuôi dưỡng tâm hồn thông qua rèn luyện năng lực quan sát và phát triển trí tưởng tượng. SGK Tiếng Viết đã rất quan tâm đến việc rèn luyện năng lực quan sát. Ở các lớp 2-3, quan sát là một nội dung rèn luyện được chuẩn bị công phu và chiếm phần lớn số tiết. Ở lớp 4, 5 quan sát vẫn là một nội dung dạy học quan trọng, chiếm 15- 20% số tiết của chương trình văn miêu tả.
  • 52. 43 Những yêu cầu cơ bản của quan sát, trải nghiệm sáng tạo là sử dụng các giác quan để phát hiện các đặc điểm của đối tượng, như về hình dáng, màu sắc,… SGK cũng có chú ý tới quan sát bên trong “bằng cách lưu ý học sinh” lột tả được cái thần “của đối tượng hoặc đơn giản hơn”, phát triển cảm nghĩ về đối tượng miêu tả. Cuối cùng, quan sát phải trung thực, tránh bắt chước, mòn sáo và giả tạo. Về việc rèn luyện và nâng cao năng lực tưởng tượng, sáng tạo của HS, SGK cũng đã rất chú ý tới cả tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo. Tưởng tượng tái tạo là làm cho đối tượng miêu tả được hiện lên với những chi tiết vốn có của nó. Tưởng tượng sáng tạo là hư cấu, thêm thắt,… dựa trên cơ sở của sự trải nghiệm thực tế. SGK Tiếng Việt 4 tập một có đề văn yêu cầu HS tả mẹ con nhà gà và hình dung câu chuyện của chúng trong lúc kiếm mồi. Đây là một đề văn hay, khuyến khích được cả tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo của HS. Cũng cần lưu ý là trong thực tế, ở một số trường tiểu học khi nhấn mạnh tính trung thực trong miêu tả đã không chú ý rằng tính trung thực không hề mâu thuẫn với sự hư cấu và trí tưởng tượng, miêu tả trung thực không có nghĩa là “thật như đếm” mà trái lại, những hư cấu, thêm thắt, tưởng tượng,… của người viết nhiều khi còn “thật hơn cả sự thật” nữa. Tựu chung lại, quan sát và trải nghiệm sáng tạo có một vai trò quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật. Hiểu được tầm quan trọng của hoạt động quan sát từng trải trong dạy học văn miêu tả như thế nên GV cần đưa ra cách thức tổ chức hoạt động quan sát và trải nghiệm sáng tạo một cách phù hợp để HS thấy rõ vai trò và yêu cầu của hoạt động quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong viết văn nhằm hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS khi bài dạy kiểu bài Văn miêu tả. 2.2.1.2. Cách thức tổ chức hoạt động quan sát và trải nghiệm sáng tạo hỗ trợ phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả Quan sát và trải nghiệm sáng tạo là một khâu rất quan trọng để hình thành và phát triển ở các em các kĩ năng cần thiết hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4. Song qua thực tế giảng dạy ở nhà trường Tiểu học hiện nay thì còn nhiều GV rất lơ là, lúng túng trong việc hướng dẫn HS cách quan sát, sáng tạo những trải nghiệm trong cuộc sống, cảm nhận các sự vật, hiện tượng xung quanh. Các bài văn thường nghèo nàn hình ảnh, ít xúc cảm, thiếu tính chân thực, sinh động và gợi cảm là do HS chưa biết cách quan sát các đối tượng cần miêu tả. Qua quan sát HS sẽ thu nhận được những hình ảnh, âm thanh và hương sắc cuộc đời bằng lăng kính riêng của chính các em. Từ những quan sát và trải nghiệm trong thực tế của cuộc sống, các em mới làm giàu được vốn sống, vốn hiểu biết của bản thân, làm
  • 53. 44 cơ sở để có thể liên tưởng, tưởng tượng lại các đối tượng đã quan sát, từ đó vận dụng vào viết văn để sáng tạo, tô vẽ nên bức tranh miêu tả đầy mới mẻ, y vị, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Để làm được điều này, GV cần: Hướng dẫn HS vận dụng tất cả các giác quan để tri nhận về đối tượng miêu tả từ nhiều góc độ và phương diện. Nếu chỉ nhìn một cách bình thường, giản đơn, chẳng hạn như nhìn thấy một cánh đồng, đó chưa phải là hoạt động quan sát. Quan sát là một hoạt động có chủ đích, có động cơ, có hứng thú và cuối cùng là phải có kết quả. Tức là sự quan sát đem lại một nhận thức mới, một cảm xúc mới, hay ít ra cũng là một nét gì mới mẻ mang giá trị thẩm mỹ trong cảm nhận về đối tượng. Từ đó ta mới có những tư liệu quý để viết văn miêu tả, cũng như bồi bổ tâm hồn mình. Quan sát không chỉ là nhìn, mà là sự mở rộng mọi giác quan để cảm nhận cuộc sống. GV hãy cho HS thử nhắm mắt để tưởng tượng và cảm nhận về khu vườn một buổi sớm tinh mơ, cánh đồng mùa lúa chín vàng, con đường làng em đi học hay cảnh bình minh ló dạng từ phía xa của chân trời… Cuộc sống sẽ hiện ra thật bất ngờ, thi vị mà trước đến giờ ta chưa biết, chưa cảm nhận được. Các em sẽ có cảm giác như nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần đã chia sẽ trong “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ”: “Bạn hãy tưởng tượng một buổi sáng mờ sương, bạn vừa nhắm mắt, vừa mở cửa sổ và bạn chợt hiểu khu vườn nói gì. Bạn hiểu bây giờ là mùa gì và bông hoa này đây nở, tên gì. Tiếng bước chân trong vườn, bạn biết chính xác người có bước chân đó cách bạn bao nhiêu mét. Bạn còn biết bước chân đó của ai, bố hay mẹ… Đó là một điều bí mật mà tôi muốn chia sẻ với các bạn. Bạn hãy thử đi, rồi bạn sẽ thấy, khu vườn sẽ lớn lên rất nhiều. Những bông hoa thơm hơn và khi nhắm mắt bạn vẫn nhìn thấy nó. Không chỉ vậy bạn còn có thể thấy nguyên cả khu vườn. Bạn có thể nhìn thấy bông hồng trong đêm tối.” Vậy là khi ta nhắm mắt lại ta cảm nhận được bông hoa đang nở qua mùi hương của nó (khứu giác), ta biết được bước chân đang đi là của ai, cách ta bao xa (thính giác) và biết được khu vườn đang nói với ta điều gì. Đó chính là sự tổng hòa các giác quan để cảm nhận sự đẹp đẽ, tươi mới của một khu vườn buổi sớm mai. Qua các tiết luyện tập thực hành, GV hãy hướng dẫn HS để chính các em được trực tiếp và thực sự tri cảm về những gì trong cuộc sống. Chẳng hạn, tả khu vườn vào buổi sáng thì hãy dùng đôi tai của mình để lắng nghe âm thanh của tiếng chim hót, sự xao động của khu vượn sớm mai, sự tí tách của những hạt sương rơi trên lá hay dùng cánh mũi để cảm nhận mùi thơm của cỏ cây, hoa lá, đất đai, hay là nhắm mắt để cảm nhận cái cảm giác se lạnh khi có làn gió “hôn”
  • 54. 45 nhẹ lên da thịt ta của một buổi sớm mai trong lành… Tất cả, tất cả những điều đó nếu được chính các em khám phá, trải nghiệm và cảm nhận thì sẽ rất chân thực, sống động và mang dấu ấn rất riêng của mỗi em. Có em cảm thấy hương hoa nhài, hoa hồng “chảy” qua cánh mũi nồng nàng quyến rũ; có em lại thấy mùi cỏ ngai ngái, say say; có em nghe thấy tiếng hót ríu ran chào ngày mới của nhà chim Sâu; có em lại nghe thấy tiếng kêu lích nhích nhảy múa chuyền cành của mẹ con chị Chích; rồi cả tiếng tí tách của những hạt sương sớm; hay cả tiếng xì xào như nói chuyện của cỏ cây, hoa lá… Khi mà chính các em dùng mọi giác quan của mình để quan sát thì những trang văn của các em sẽ có khả năng đánh thức nhiều xúc cảm của người đọc hơn. Sự quan sát tỉ mỉ, theo một trình tự hợp lí cộng với sử dụng linh hoạt mọi giác quan sẽ giúp HS có cái nhìn chính xác và sâu sắc hơn về đối tượng miêu tả. Qua đó, các em có cơ hội thể hiện những điều mà các em cảm nhận được bằng vốn ngôn ngữ của mình nhằm thể hiện rõ ràng trước mắt người đọc về đối tượng một cách chân thực và sống động nhất. Đặc biệt qua quan sát, HS có sự nhìn nhận, phát hiện được những đặc điểm khác nhau của các sự vật, hiện tượng xung quanh. Từ đấy, HS sẽ vận dụng để so sánh, đối chiếu giữa các sự vật với nhau khi miêu tả nhằm tạo ra sự thú vị hấp dẫn và làm nổi bật được đối tượng miêu tả. Hướng dẫn quan sát gắn liền với so sánh, nhân hóa, liên tưởng và tưởng tượng. Liên tưởng là từ chuyện này nghĩ đến chuyện khác, từ hình ảnh này nhắc nhớ đến hình ảnh kia. Liên tưởng cùng với tưởng tượng giúp dựng lại các đối tượng miêu tả trước mắt bạn đọc một cách sinh động. Nó xuất phát, phụ thuộc vào NL quan sát thực tế, từ vốn sống đã tích lũy được, tạo ra những hình ảnh bất ngờ đầy thú vị. Tuy nhiên, bất kì sự tưởng tượng nào dù có phong phú, hấp dẫn đến đâu đều bắt đầu từ thực tế, gắn với đời sống thực tế. Do đó, muốn có những trang văn miêu tả hay, có hồn và sống động; muốn có được trí tưởng tưởng, liên tưởng phong phú, sinh động, tinh tế thì đòi hỏi người viết phải có sự từng trải, sự hiểu biết. Chẳng hạn quan sát nền trời mùa thu, không chỉ thấy nó xanh, xanh biếc, xanh ngắt, mà còn có thể thấy “Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị” (Vũ Ngân Chi); quan sát con cào cào, Tô Hoài đã thấy chúng giống như “các chị” cho nên mới “nghiêng nghiêng gương mặt trái xoan, như làm dáng, như ngượng ngừng…” Hay từ sự quan sát sau mưa xuân, cây cối đâm chồi nảy lộc, vạn vật tràn đầy sức sống, HS có thể liên tưởng đến hình ảnh chị Mưa Xuân dịu dàng vẫy những hạt mưa trong lành, mát dịu đánh thức vạn vật bừng tỉnh sau giấc ngủ dài, chị giục những
  • 55. 46 hạt giống nảy mầm, giúp hàng cây già khoác lên tấm áo mưa xanh mướt. Hay là sự xao động của cây cối trong vườn khiến ta tưởng như rằng chúng thì thầm trò chuyện to nhỏ với nhau. Hoặc là hình ảnh những cánh diều trên bầu trời với những đám mây trắng gợi ra cảm giác như những cánh buồn mà bầu trời là những đợt sóng đang đuổi nhau. Thế là có cả một vùng biển cả rộng lớn trên bầu trời xanh kia. Rồi thì trăng sáng của những đêm rằm khi ta tưởng như có ai đó đang thắp một cây đèn lồng lơ lửng trên không trung, rồi có bạn nói có ai đó lỡ chân đá quả bóng tròn lên trời, có bạn lại nghĩ trăng khuyết như lưỡi liềm, như con thuyền cong mui, như quả chuối chín vàng, như cái lưng còng của bà, như chiếc võng ở chiến trường. Hay với sự liên tưởng thú vị khiến hình ảnh những cây nấm hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Phan Hách thật kì diệu, tinh tế: “Những chiếc nấm to bằng cái ấm tích, màu sực sỡ rực lên. Mỗi chiếc nấm là một lâu đài kiến trúc tân kì. Tôi có cảm giác mình là một con người khổng lồ đi lạc vào kinh đô của vương quốc những người tí hon. Đền đài, miếu mạo, cung điện của họ lúp xúc dưới chân.” (Kì diệu rừng xanh). Chỉ có sự liên tưởng trong miêu tả mới đem lại những hình ảnh đắt giá như vậy, làm cho “cảnh vật trở nên lãng mạn, thần bí như trong truyện cổ tích”. Từ sự quan sát các sự vật, phát huy trí tưởng tượng, HS có thể nảy ra những ý tưởng bất ngờ, những hình ảnh so sánh, ví von ngộ nghĩnh, đáng yêu đem đến những bài văn ấn tượng, lôi cuốn người đọc. Đó chính là mối quan hệ độc đáo giữa các sự vật, không chỉ thể hiện cái tài năng, sự nhạy cảm trong quan sát của các em mà còn thể hiện cả một tình yêu, một thái độ của các em trước cuộc sống. Đặt đối tượng trong những tình huống có vấn đề khi quan sát. Bởi lẽ không phải sự vật, hiện tượng nào cũng có thể trở thành đối tượng miêu tả của văn chương. Cái mà chúng ta cần là những đối tượng thẩm mĩ cụ thể chứ không phải một đối tượng bất kỳ. Chẳng hạn, tả sân trường không thể tả sân trường một cách chung chung mà phải là cảnh sân trường giờ ra chơi, sân trường ngày nghỉ học, sân trường mùa lá rụng,… thì mới có thể làm nổi bật lên vẻ đẹp riêng biệt và độc đáo và hấp dẫn được người học. Chẳng hạn, khi tả cây phượng vĩ trong sân trường em, sau lời giới thiệu thì các em không nên vội đi vào miêu tả một cách chung chung mà phải đặt cây phượng vĩ vào trong những thời gian khác nhau. Cây phượng vĩ đang đơm hoa đở rực (vẻ sặc rỡ), cây phượng vĩ đang ra lá xanh non (vẻ tươi mới), cây phượng vĩ đang mùa thay lá (vẻ trầm tư),… Trong mỗi thời gian khác nhau, các em dễ dàng tìm ra những chi tiết, những vẻ đẹp mới mẻ của đối tượng miêu tả, tạo điểm nhấn riêng cho bài văn miêu tả.
  • 56. 47 Hướng dẫn cho HS tìm hiểu và nhận xét cách quan sát. GV hướng dẫn HS tìm đọc những bài thơ, những đoạn văn miêu tả hấp dẫn để suy ngẫm về cách miêu tả của họ khiến mình ấn tượng, cần học hỏi. Điều mà các em cần học là cách quan sát của tác giả chứ không phải là “nhái lại” kết quả quan sát của các nhà văn. Sau khi đọc trong sách vở, trải nghiệm quan sát trong thực tế các em sẽ có vốn tri thức cần thiết về những phát hiện mới mẻ trong cuộc sống để vận dụng vào viết văn miêu tả. Ở lớp 4 HS được học ba dạng thức văn miêu tả, với từng kiểu bài ta có những cách quan sát khác nhau. Đối với kiểu bài tả đồ vật ta có thể quan sát theo trình tự: mắt nhìn, tay sờ, tai nghe, mũi ngửi,... nhưng đối với bài văn tả con vật cần phải quan sát: ngoại hình rồi mới đến những thói quen sinh hoạt và những hoạt động của con vật. Còn đối với bài văn tả cây cối cần phải quan sát theo một trình tự: từ xa đến gần, từ bao quát đến bộ phận, quan sát nét khác biệt của cây so với cây khác. Tóm lại, các sự vật trong tự nhiên, mỗi sự vật có đặc điểm riêng, chỉ khi nào ta nắm được đặc điểm riêng của mỗi một sự vật thì khi viết ra mới có hình ảnh như thật. Thế nhưng, chỉ làm nổi bật đặc điểm bên ngoài thôi chưa đủ, cần nêu được cái đặc sắc ẩn chứa bên trong sự vật đó để nói lên những suy tư, những tình cảm không chỉ của người viết gửi gắm vào đó mà còn là của sự vật đó. Muốn làm được điều này, dứt khoát phải có sự quan sát tỉ mĩ và phải có được những phát hiện rất riêng, sự rung cảm tinh tế về đối tượng đó. Với sự quan sát tài tình của mình mà nhà thơ Trần Đăng Khoa khi tả: “Bác mặt trời đạp xe qua đỉnh núi”, “Lá rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” khiến độc giả thực sự bất ngờ và thích thú trước những phát hiện độc đáo và mới mẻ này. Quan sát luôn đi liền ghi chép. Ghi chép làm giàu thêm cho trí nhớ, giúp HS lựa chọn những chi tiết, những hình ảnh đặc sắc. Vậy thì phải ghi chép thế nào? Cần phải xây dựng cho HS thói quen ghi chép khi quan sát. Phải ghi được những đặc điểm cơ bản, nổi bật của đối tượng miêu tả, hãy cố tìm và viết được những điều mà người khác không nhìn thấy để bài viết của mình có cái mới, cái riêng, cái độc đáo. Quan sát và biết ghi chép lại những gì đã quan sát một cách có chọn lựa, đó là một yếu tố rất quan trọng trong học tập phân môn Tập làm văn nói chung và văn miêu tả nói riêng. Lựa chọn hình thức tổ chức quan sát. Với mỗi kiểu bài và với từng tiết học cụ thể, GV sẽ lựa chọn những phương pháp và hình thức dạy học cho phù hợp với trình độ nhận thức của HS và nội dung của bài dạy. Với tả đồ vật, GV có thể cho HS quan sát vật thật để HS được tận mắt nhìn thấy, tận tay sờ, tận tai nghe âm thanh
  • 57. 48 của đồ vật phát ra,... vì những đồ vật HS lớp 4 miêu tả rất gần gũi và quen thuộc với các em trong cuộc sống hằng ngày như chiếc cặp, cái áo em mặc đến trường, cái đồng hồ, con búp bê, rô bốt, gấu bông, lật đật, chiếc bút, quyển sách,... Với tả con vật thì GV có thể cho HS quan sát và ghi chép qua các buổi tham quan dã ngoại trải nghiệm cuộc sống về với những trang trại chăn nuôi, về với những miền quê (nếu có điều kiện), qua tranh ảnh hay sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học cho HS xem các video về các con vật mà HS sẽ miêu tả để các em có cái nhìn chính xác, cụ thể về hình dáng và hoạt động của chúng. Với tả cây cối thì GV ưu tiên tiết học ngoài sân trường để HS tận mắt quan sát và trải nghiệm rồi ghi chép những gì quan sát được từ đối tượng miêu tả (cây bóng mát, cây lấy gỗ, cây hoa,..), như thế các em sẽ hứng thú hơn và tiết học trở nên vui vẻ hấp dẫn hơn, hay đối với một số loại cây khác (cây rau, cây ăn quả,...) GV có thể sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học để cho HS xem các video, các tranh ảnh động, các phần mềm hiệu ứng... để dạy cho HS. Tùy theo tình hình dạy học thực tế để GV linh động trong lựa chọn các cách thức tổ chức quan sát cho phù hợp (vật thật, tham quan dã ngoại, tiết học ngoài trời, ứng dụng công nghệ thông tin, tranh ảnh,...) để HS có những trải nghiệm sáng tạo về đối tượng mà các em miêu tả, góp phần phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS. Việc tham quan, dã ngoại cũng như ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết học nhằm phát triển kĩ năng quan sát cho HS cần diễn ra có kế hoạch, có nội dung; vừa đảm bảo tính tự nhiên nhưng cũng phải chú ý định hướng HS bằng hệ thống câu hỏi hoặc bài tập. Điều này rất cần thiết với yêu cầu của giáo dục hiện nay là đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học ở bậc Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS. Dạy tạo lập văn bản miêu tả cũng không nằm ngoài sự vận động tích cực này. Đối với cách thức tổ chức các hoạt động quan sát, trải nghiệm sáng tạo phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 do đó cần đặc biệt chú trọng hơn nữa chứ không phải cứ gò bó các em trong bốn bức tường lớp học với lối dạy truyền thống như trước đây; cần phải cho các em được trải nghiệm sáng tạo ra thế giới bên ngoài để quan sát và ghi chép bằng những tiết học ngoài trời, những chuyến tham quan dã ngoại (nếu có điều kiện) hay những tiết học công nghệ thông tin với các video, các hình ảnh động, các tranh ảnh và cả những vật thật...Cùng với đó là sự kết hợp lồng ghép một số kiểu bài tập quan sát giúp các em được quan sát, tri giác đối tượng miêu tả một cách cụ thể hơn. Qua đó tạo cho các em niềm say mê, hứng thú học Tập làm văn nói chung và học tạo lập văn bản miêu tả nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
  • 58. 49 Ngoài ra, GV có thể xây dựng các kiểu bài tập sau để phát triển kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo cho HS khi học tạo lập văn bản miêu tả:  Kiểu bài tập sử dụng các giác quan trong quan sát: Khi quan sát phải sử dụng các giác quan như: mắt, mũi, tai, lưỡi… để nhìn, nghe, sờ, ngửi, nếm… nhằm nhận biết sự vật về hình dạng, màu sắc, âm thanh, mùi vị… Ở lớp 4, chọn những đề tài các em có khả năng trực tiếp quan sát (thực tế, vật thật hoặc tranh ảnh): Tả đồ vật: cái bàn học, quyển vở, cái bút, thước kẻ, cái trống, cái áo, ...; Tả con vật: con gà, lợn, chó, mèo, thỏ, trâu, bò, ....; Tả cây cối: cây bóng mát (bàng, phượng vĩ,...); cây hoa (hoa hồng, hoa giấy, hoa cúc,...); cây ăn quả (cam, bưởi, chuổi, ổi, na,...). Bài tập 1: Hãy quan sát một số đồ vật sau và ghi đặc điểm nổi bật của chúng vào các cột cho phù hợp: Tên đồ vật Các đặc điểm chính Công dụng (Dùng để làm gì?) Liên tƣởng, tƣởng tƣợng Chất liệu Hình dáng, đường nét, hình khối ... Màu sắc, ánh sáng Cái cốc Thủy tinh Hình trụ có nét lượn cong Trong suốt, có ánh sáng long lanh Uống nước hàng ngày Bàn học Cặp sách Bút Chiếc áo em mặc đến trƣờng Bài tập 2: Mỗi hình ảnh gợi lên những đặc điểm gì về ngoại hình và hoạt động của chú gà trống?
  • 59. 50 Trả lời: (Đáp án mong đợi) 1. Chiếc mào gà đỏ chói trên đầu chú giống bông hoa mào gà khiến cho chú nổi bật trước đám gà mái. 2. Bộ lông đẹp tuyệt trần, xen kẽ nhiều sắc màu rực rỡ như chiếc quạt nhiều màu sắc. 3. Chú dùng những móng vuốt sắc bén của mình để bới giun. 4. “Tán tỉnh” chị mái mơ “duyên dáng”. 5. Hai mắt sáng và trong suốt như hon bi ve. 6. Chùm lông đuôi óng ả với sắc xanh và tím biếc cong vồng lên như chiếc cầu vòng sau mưa. 7. Chú dùng chiếc cựa rất nhọn làm thứ vũ khí lợi hại để “giao chiến” trong cuộc thi tìm ra “chàng hiệp sĩ” dũng mãnh. 8. Chú nhảy tót lên cành cây cao rướn dài cổ hót một hồi lảnh lót báo hiệu ngày mới bắt đầu.  Kiểu bài tập xác định trình tự quan sát: Kiểu bài này giúp HS quan sát có trình tự. Quan sát theo trình tự thời gian, không gian hoặc phối hợp cả không gian và thời gian; quan sát theo đặc điểm của đối tượng miêu tả. Dạng bài xác định trình tự quan sát là một dạng bài không khó nhưng rất quan trọng trong việc HS triển khai bài viết của mình. Bài tập 3: Một bạn tả về quả cam như sau: “Chao ôi! Trông những quả cam mới thích mắt làm sao! Mới ngày nào quả còn nhỏ xíu như trái bóng tennis, da dày và xanh lét. Vậy mà giờ đây, nhờ được uống sương mai và tắm trong nắng sớm cùng nguồn dinh dưỡng mát lành từ đất mẹ mà chúng như được thay áo mới. Trong những tán lá xanh mướt mỡ màng còn thấm đẫm sương đêm, lấp ló những trái cam vàng óng. Với lớp da mỏng căng mượt. Mỗi lần cô gió ngang qua trêu đùa, những chú cam tinh nghịch lại đùa rúc rích và khẽ đung đưa thân hình tròn lẳn của mình làm xôn xao cả vườn cam. Không chỉ đẹp mà các chú cam còn thơm mát nữa đấy các bạn ạ! Khi bổ cam ra bạn sẽ thấy những tép cam vàng óng, ngọt lành. Hương cam thơm mát như mật ong lan tỏa khắp căn phòng”. - Bạn nhỏ miêu tả quả cam theo trình tự nào? - Bạn đã sử dụng những giác quan nào để miêu tả quả cam? Trả lời: - Bạn nhỏ tả quả cam theo thời gian từ khi còn là một quả cam nhỏ xíu, xanh lét đến một quả cam chín vàng mọng nước.
  • 60. 51 - Các giác quan là: mắt (hình dáng của quả cam), tai (nghe tiếng gió làm vườn cam xôn xao), mũi (hương thơm của cam), lưỡi (vị ngọt mát của quả cam khi bổ ra).  Kiểu bài tập lựa chọn chi tiết trong quan sát: Với dạng bài này GV có thể cho HS quan sát thực tế hoặc quan sát tranh ảnh, các video, clip; có thể để các em tự lựa chọn các chi tiết quan sát, nếu HS gặp khó khăn, GV có thể hỗ trợ cá nhân bằng hệ thống câu hỏi gợi ý. Bài tập 4: Quan sát các loài cây sau và ghi chép theo những câu hỏi gợi ý: 1. Cây gì? Mọc ở đâu? Toàn cảnh cây ấy như thế nào? 2. Các chi tiết chính (cành, lá, thân, rễ,... có màu sắc, kiểu dáng,... thế nào? Trông giống cái gì, con gì?). Chi tiết nào làm em chú ý nhất? Vì sao? 3. Những suy nghĩ và cảm xúc của em khi quan sát (nếu có). Trả lời: HS quan sát rồi ghi theo cách riêng của mình. Mỗi kiểu nhóm bài tập đều được tính toán thiết kế dựa vào tính hướng đích cụ thể, nhằm giải quyết những khó khăn nhất định trong quá trình quan sát, ghi chép kiếm tìm ngôn từ để diễn đạt. Chẳng hạn, bài tập 1 trong kiểu bài sử dụng các giác quan trong quan sát nêu trên đem đến những gợi ý về cách quan sát các đồ vật xung quanh em qua cái nhìn tổng thể để đối chiếu giữa các sự vật với nhau, bài tập 2 phát triển ở các em kĩ năng so sánh, nhân hóa, liên tưởng, tưởng tượng trong quan sát; bài tập 3 trong kiểu bài xác định trình tự quan sát giúp HS thấy được để có bài văn miêu tả hay cần quan sát ở nhiều góc độ và phương diện; trong khi đó, bài tập 4 trong kiểu bài lựa chọn chọn chi tiết quan sát để HS nắm được cách thức ghi chép trong quan sát những tình huống cụ thể, nói cách khác sẽ quy định cách triển khai ý khi quan sát để đảm bảo tính chặt chẽ, sự liên kết cả hình thức lẫn nội dung. Chúng tôi vận dụng cách thức tổ chức các hoạt động quan sát và trải nghiệm sáng tạo để hỗ trợ phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả trên vào dạy học: Tiết “Luyện tập quan sát cây cối” (Tiếng Việt 4, tuần 22) 1. Đọc lại ba bài văn tả cây cối mới học (Sầu riêng, Bãi ngô, Cây gạo) và nhận xét: a. Tác giả mỗi bài văn quan sát cây theo trình tự như thế nào? b. Các tác giả quan sát cây bằng những giác quan nào?
  • 61. 52 c. Chỉ ra hình ảnh so sánh và nhân hóa mà em thích. Theo em, các hình ảnh nhân hóa có tác dụng gì? d. Trong ba bài văn trên, bài nào miêu tả một loại cây, bài nào miêu tả một cây cụ thể? e. Theo em, miêu tả một loại cây có đặc điểm gì giống và điểm gì khác miêu tả một cây cụ thể? 2. Quan sát một cây mà em thích trong khu vực trường em (hoặc nơi em ở) và ghi lại những gì em đã quan sát được. Chú ý kiểm tra xem: a. Trình tự quan sát của em có hợp lý không? b. Em đã quan sát bằng các giác quan nào? c. Cái cây em quan sát có khác với những cây cùng loại? Gợi ý: GV cho HS đọc lại văn bản và phát hiện câu trả lời mà câu hỏi đặt ra. GV chốt lại vấn đề: trình tự quan sát cây cối như thế nào, dùng giác quan gì để cảm nhận, khi miêu tả cần sử dụng biện pháp nghệ thuật nào. 1. Với bài tập 1, có thể lập bảng để thấy rõ được các ý: Nhận xét Sầu riêng Bãi ngô Cây gạo a. Trình tự quan sát Quan sát từng bộ phận của cây Quan sát từng thời kì phát triển của cây ngô Quan sát từng thời kì phát triển của cây gạo b. Giác quan - Thị giác (để thấy hình dáng và màu sắc của hoa, trái, dáng cây, thân, cành, lá) -Khứu giác (hương thơm) - Vị giác (vị béo ngọt của trái sầu riêng) - Thị giác (cây, lá, búp ngô, bướm trắng, bướm vàng, bắp ngô, hoa ngô ...) - Thính giác (tiếng tu hú) - Thị giác (cây, cành, hoa gạo, quả gạo, chim chóc, sợi bông, múi bông ...) - Thính giác (tiếng chim) c.Hình ảnh và tác dụng So sánh - Hương sầu riêng ngan ngát như hương cau, hương bưởi. - Những cây ngô mới dạo này còn lấm tấm như mạ non. - Những cành hoa đỏ mọng quay tít như chong chóng. - Hai đầu quả gạo
  • 62. 53 Nhận xét Sầu riêng Bãi ngô Cây gạo - Cành hoa nhỏ nhử vảy cá, hao hao giống những cánh sen con. - Trái lủng lẳng dưới cành giống tổ kiến. - Một thứ búp như kết bằng nhung và phấn. - Hoa ngô xơ xác như cỏ may. thon vút như con thoi. - Cây như treo rung rinh hàng ngàn nồi cơm gạo mới. Nhân hóa - Búp ngô non núp trong cuống lá. - Những sợi tơ hung hung bọc trong làn áo mỏng manh. - Những bắp ngô mập và chắc chờ tay người đến bẻ mang về. - Cây gạo già mỗi năm lại trở lại tuổi xuân. - Cây gạo lại trở về với dáng vẻ xanh mát, trầm tư. - Cây đứng im, cao lớn, hiền lành. - Múi nở đều như nồi cơm điện đội vung mà cười d.Đối tượng miêu tả Loài cây Loài cây Một cây cụ thể c. Tác dụng của biện pháp so sánh và nhân hóa: Làm cho bài văn miêu tả cây cối thêm hấp dẫn, giàu hình ảnh, tăng sức gợi cảm và biểu cảm khiến thế giới xung quanh trở nên gần gũi hơn với con người. e. Điểm giống và khác nhau giữa cách tả một loài cây và tả một cây cụ thể: - Điểm giống: + Đều phải quan sát kĩ (theo trình tự) + Sử dụng nhiều giác quan để quan sát các bộ phận của cây, khung cảnh xung quanh... + Sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa để gợi sự liên tưởng, làm cho sự vật (cây) có hồn hơn. + Bộc lộ cảm xúc, tình cảm khi miêu tả.
  • 63. 54 - Điểm khác: + Tả loài cây cần chú ý đặc điểm chung, khái quát của loài đó, so với các loài cây khác. + Tả một cây cụ thể phải tập trung vào điểm riêng, cụ thể của cây, nét khác biệt của nó với cây cùng loài. 1. Với bài tập , GV lưu ý cho HS các vấn đề sau khi luyện quan sát cây cối: - Quan sát một cây cụ thể (trong khu vực vườn trường hoặc nơi em ở) - Dựa vào kết quả bài tập 1, lựa chọn trình tự quan sát, mở rộng các giác quan khác nhau để quan sát, tìm các đặc điểm riêng của cây (so với các cây khác cùng loài), sử dụng biện pháp so sánh và nhân hóa để tạo độ sinh động cho sự vật. - Ghi chép lại kết quả quan sát (dưới dạng dàn ý). GV có thể thay đổi không gian lớp học, cho học sinh dã ngoại, tham quan vườn trường, quan sát, ghi chép, báo cáo kết quả bài tập. 2.2.2. Phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu tả 2.2.2.1. Vai trò và yêu cầu của hoạt động tìm ý, lập dàn ý trong quá trình tạo lập văn bản miêu tả Quan sát là hành động thường xuyên, thường trực của con người. Không phải chỉ khi học văn miêu tả, các em mới quan sát. Quan sát cũng là một hoạt động tổng hòa và phức tạp: nó không chỉ được thực hiện bằng mắt mà còn bằng tất cả các giác quan khác như tai, mũi, da thịt,... và bằng cả tâm hồn, không chỉ quan sát bề mặt mà còn quan sát cả “bên trong”, tức là ý nghĩa tinh thần của sự vật, không chỉ là cảm giác, tri giác đơn thuần mà còn gắn liền với suy nghĩ, cảm xúc... Chính vì vậy, quan sát luôn có quan hệ mật thiết với tìm ý và chọn ý. Tìm ý và chọn ý là một khâu hết sức quan trọng, nhờ có nó mà văn miêu tả không sa vào kể lể, thống kê,... cũng nhờ có nó mà miêu tả định hướng được tới những giá trị thẩm mỹ của đối tượng. Điều quan trọng nhất của quá trình này là ở chỗ phải xây dựng được ý tưởng cho bài văn. Như đã phân tích ở trên, miêu tả là đi tìm kiếm, là khám phá, là phát hiện,... chứ không phải là sự mô tả tản mạn, lang thang. Tìm ý - chọn ý phải vừa là sự tìm kiếm ý tưởng nghệ thuật chung, thống nhất cho toàn bài. Tìm ý và lập dàn ý là những hoạt động rất quan trọng để hình thành và phát triển ở các em các kĩ năng cần thiết hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4. Song thực tế giảng dạy ở nhà trường Tiểu học hiện nay thì còn nhiều GV chưa chú trọng việc hướng dẫn HS cách tìm ý và lập dàn ý bài văn miêu tả trước khi viết bài văn, có chăng thì cũng hướng dẫn một cách qua loa chứ không
  • 64. 55 trọng tâm. Còn về phía HS thì các em thường bỏ qua khâu lập dàn ý, các em chỉ bỏ ra một vài phút để đọc đề rồi cắm cúi viết. Chính vì vậy trong bài viết của các em việc sắp xếp ý rất lộn xộn, nhiều ý trùng lặp hoặc thiếu ý… Có nhiều trường hợp HS phát hiện thiếu ý muốn quay lại để bổ sung nhưng không kịp nữa đành viết thêm vào khiến bài viết rời rạc chắp vá hoặc bỏ hẳn ý đó. Các bài văn HS thường lủng củng, bố cục không rõ ràng, mạch lạc và rất ít bài văn trơn mượt như đúng bản chất của kiểu văn bản miêu tả thường thấy. Vậy nên việc rèn luyện kĩ năng tìm ý và lập dàn ý đóng vai trò quan trọng trong tạo lập văn bản miêu tả và là việc làm cần thiết đối với HS trước khi đặt bút viết bài văn bởi dàn ý chính là cái khung, sườn của bài văn, dàn ý giúp cho HS có định hướng không bị lạc đề, không bị thiếu ý khi viết. Khi các em đã biết yêu cầu của đề, phương pháp lập dàn ý, các em sẽ nhanh chóng thiết lập được dàn ý khoa học, đầy đủ tạo tiền đề cho việc viết thành bài văn hoàn chỉnh bởi “Dàn ý là bản thiết kế và khi viết bài văn là giai đoạn thi công trên cơ sở bản thiết kế đó”. Từ đó, các em sẽ vận dụng vào viết văn để sáng tạo, tô vẽ nên bức tranh miêu tả đầy mới mẻ, ý vị, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Sau khi đã tìm được ý và chọn được những ý cơ bản thì bước tiếp theo là tiến hành sắp xếp, tổ chức các ý. Đây chính là bước xây dựng dàn ý. Để có thể viết được bất kì một bài văn nào dù ngắn hay dài, dù là bài văn hay báo cáo khoa học, người viết cũng không thể bỏ qua khâu hết sức quan trọng là lập dàn ý. Dàn ý còn gọi là dàn bài hay đề cương. Dàn ý là sự sắp xếp những điều cốt yếu trong một bài văn. Nói cách khác đó là một hệ thống những ý chính trong một bài viết. Dàn ý thực chất là bản kế hoạch, là sơ đồ, là phác thảo về đối tượng mà ta miêu tả. Đúng như lời quả quyết của nhà văn nổi tiếng người Đức: “Tất cả đều phụ thuộc vào bố cục”. Còn Đôx - tôi - ép - xki nhà văn Nga lại ao ước: “Nếu tìm được bản bố cục đạt thì công việc sẽ nhanh như trượt mỡ”. Đúng thế, nếu có một dàn ý bố cục rõ ràng thì quá trình tạo lập nên một văn bản là điều dễ dàng. Kĩ năng lập dàn ý rất cần cho những ai muốn truyền đạt (viết hay nói) một vấn đề nào đó đến mọi người. Trong phạm vi nhà trường Tiểu học thì kĩ năng này rất quan trọng đối với HS để làm bất kì một bài văn nào. Nắm vững kĩ năng này các em sẽ làm được một bài văn có tính hệ thống và lôgic cao, đúng và đủ ý, tránh được hiện tượng lạc đề hay bài văn lủng củng. Dàn ý giúp định hướng một cách bao quát, toàn cục nội dung chủ yếu và những yêu cầu cơ bản mà bài viết cần đạt được và đáp ứng yêu cầu của đề bài. Khi có dàn ý cụ thể người viết sẽ nắm được nét lớn, ý nhỏ
  • 65. 56 của bài viết. Nhờ có sự chuẩn bị và định hướng đúng sẽ làm cho văn bản triển khai đúng trọng tâm, chặt chẽ và mạch lạc. Dàn ý của một bài văn miêu tả cũng như dàn ý của một bài văn phổ biến chung đều có ba phần: phần mở đầu (đặt vấn đề), phần thân bài (giải quyết vấn đề), phần kết luận (kết thúc vấn đề). Dàn ý bài văn miêu tả thường có 2 loại: Dàn ý đại cương và Dàn ý chi tiết.  Dàn ý đại cƣơng: là dàn ý chỉ ghi những hệ thống đề mục lớn nhất, những ý chủ yếu nhất. Nhìn vào dàn ý đại cương người đọc sẽ thấy được nội dung chính của bài, thấy ngay người làm bài có bám sát yêu cầu của đề bài hay không. Một dàn bài tốt là một dàn bài bao quát được toàn bộ nội dung và phạm vi vấn đề do đề bài nêu ra, đúng như câu nói của một nhà văn nước ngoài:“Một bố cục xây dựng chẳng khác nào một cây sồi và mọi chim chóc từ các rừng lân cận tự bay đến làm tổ”. Dàn ý đại cương là cái khung bước đầu tập trung các ý chính để người viết hình dung được bài viết, cách viết của mình và thường có 3 phần: I. Phần mở đầu: Giới thiệu về đối tượng cần tả. II. Thân bài: 1. Luận điểm 1: luận cứ 1, luận cứ 2 2. Luận điểm 2: luận cứ 1, luận cứ 2 III. Phần kết luận: Nêu cảm nghĩ, nhận xét đánh giá.  Dàn ý chi tiết: là dàn ý lấy cơ sở từ dàn ý đại cương. Dàn ý chi tiết là dàn ý ngoài các luận điểm, luận cứ còn các ý nhỏ phát triển, các ý chi tiết sẽ giúp HS hình dung cụ thể hơn các bộ phận của bài viết nhằm giúp các em chuẩn bị tốt cho bài viết. Người viết đưa vào các chi tiết cụ thể trong dàn ý chi tiết để lắp ráp hành văn cho hoàn chỉnh. Các đề mục trong dàn ý thể hiện các ý lớn, ý nhỏ của bài văn. Một dàn ý bao gồm hệ thống các đề mục. Một điều cần lưu ý là các đề mục đó phải được sắp xếp theo cùng một hệ thống tương ứng với nhau và theo một trình tự chặt chẽ. Các đề mục được kí hiệu có thể là chữ số La Mã (I, II, III,...), chữ cái (A, B, C,...), hay chữ số thường (1, 2, 3,...). Khi đánh các đề mục ta phải tuân theo nguyên tắc sau: Các đề mục cung cấp phải được ghi bằng hệ thống số thứ tự liên tiếp nhau, không được cách quãng. Có như vậy, khi làm bài hình thành văn bản mới có những đoạn văn mạch lạc, rõ ràng theo một trình tự hợp lý. Ngôn ngữ trong dàn ý không đòi hỏi phải viết thành từng câu văn hoàn chỉnh như khi viết thành bài văn. Dù là dàn ý đại cương hay dàn ý chi tiết thì cách viết thông thường vẫn là ghi ý từ những đề mục lớn hơn những ý nhỏ, những chi tiết cụ
  • 66. 57 thể,... đều viết theo lối thông báo vắn tắt. Đó là những câu không đầy đủ thành phần chủ - vị hoặc những câu rút gọn. Cách viết như thế sẽ giúp chúng ta ghi được nhiều ý và tiết kiệm thời gian. Trên đây là những yêu cầu cần thiết mà GV cần hướng dẫn HS khi làm một dàn ý cho bài văn miêu tả. Nắm được vai trò và yêu cầu của hoạt động tìm ý, lập dàn ý trong quá trình tạo lập văn bản, GV sẽ dễ dàng hướng dẫn HS cách thức tổ chức hoạt động tìm ý, lập dàn ý hỗ trợ phát triển NL tạo lập những văn bản miêu tả cụ thể. 2.2.2.2. Cách thức tổ chức hoạt động tìm ý, lập dàn ý hỗ trợ phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả Đối với cách thức tổ chức các hoạt động tìm ý và lập dàn ý hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 cũng cần được thực hiện theo định hướng tích cực phát triển NL người học nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Thực tế GV cứ nghĩ rằng bài văn mới là kết quả quan trọng nhưng để đi đến kết quả tối ưu thì không thể bỏ qua việc tìm ý và lập dàn ý - một khâu hết sức quan trọng, góp phần làm cho bài văn của các em có bố cục rõ ràng và mạch lạc. Vậy GV phải làm gì để rèn kĩ năng tìm ý và lập dàn ý bài văn miêu tả cho HS? Trước tiên, bắt buộc các em phải ý thức tự giác, coi lập dàn ý là công việc quan trọng, cần phải thực hiện khi làm văn. Sau đó, GV vận dụng nhiều phương pháp hình thức dạy học tích cực và kết hợp với việc xây dựng các bài tâp, trò chơi rèn luyện kĩ năng tìm ý, lập dàn ý nhằm hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS. Sự ý thức của HS cộng với sự khéo léo trong cách dạy của GV sẽ giúp HS phát triển kĩ năng tìm ý, lập dàn ý và có thói quen lập dàn ý mỗi khi viết bài văn. Vì thế khi hướng dẫn HS quan sát, GV giúp cho các em có thói quen chọn lọc các chi tiết quan sát được và sắp xếp chúng thành một dàn bài cụ thể. Để các em thành thạo kĩ năng này, GV cần tổ chức cho HS thực hiện các hoạt động sau: 1. Chọn lọc các chi tiết: Quá trình lập dàn ý phải trải qua hai khâu: tìm ý và lập dàn ý. Đây là hai thao tác và cũng là hai kĩ năng cơ bản cần rèn luyện cho học sinh. Sẽ chẳng bao giờ có được một dàn bài hoàn chỉnh nếu không có ý và không biết sắp xếp các ý.Tìm ý - chọn ý phải vừa là sự tìm kiếm ý tưởng nghệ thuật chung, thống nhất cho toàn bài. Ví dụ đơn giản: khi gặp đề văn yêu cầu miêu tả cái bàn học của em, em sẽ định hướng miêu tả như thế nào? Tất nhiên, không phải cứ “thấy gì tả nấy”. Chắc chúng ta sẽ phải suy nghĩ để tìm một cái “mạch”, cái "tứ" cho bài văn: Một cái bàn học
  • 67. 58 xinh xắn ở nhà? Một cái bàn học gắn bó ở trường?... Chính những hướng miêu tả ấy sẽ dẫn các em tới những phát hiện mới mẻ, riêng biệt về cái bàn học của mình. Đó chính là ý tưởng của bài viết. Mặt khác, kết quả các em quan sát được bao gồm cả phần “thô” và phần “tinh”. Vậy làm thế nào để giúp các em sàng lọc bỏ phần thô, chỉ giữ lại phần tinh. Để làm được công việc này thì các em phải xác định rõ yêu cầu của đề bài (kĩ năng tìm hiểu đề) và đặc điểm đối tượng miêu tả để lược bỏ các chi tiết không cần thiết. Chẳng hạn, quan sát cây bàng ở sân trường em. GV giúp HS tập trung vào quan sát hình dáng (thân, gốc, rễ) và đặc biệt chú trọng đến tán lá và sự thay đổi màu sắc của lá bàng qua các mùa trong năm. Hay quan sát cây hoa hồng ở vườn nhà em hoặc ở vườn nhà hàng xóm. GV gợi ý cho các em tập trung vào quan sát về hình dáng của cây, thân, lá, nụ, đặc điểm và màu sắc của hoa, nhụy hoa, hương thơm của hoa. Cùng với những ý đã được tinh chọn đó, phải định hướng cho các em chọn ý nào mà bản thân chú ý nhất, ấn tượng nhất để tập trung miêu tả như một dấu ấn trong bài viết. 2. Sắp xếp, tổ chức các ý: Đây là bước xây dựng logic dàn ý. Kĩ năng lập dàn bài là kĩ năng rất cần cho những ai muốn truyền đạt (viết hay nói) một vấn đề nào đó đến mọi người. Trong phạm vi nhà trường Tiểu học thì kĩ năng này rất quan trọng đối với HS để làm bất kì một bài văn nào. Nắm vững kĩ năng này các em sẽ làm được một bài văn có tính hệ thống và lôgic cao, đúng và đủ ý, tránh được hiện tượng lạc đề hay bài văn lủng củng. Dàn ý giúp định hướng một cách bao quát, toàn cục nội dung chủ yếu và những yêu cầu cơ bản mà bài viết cần đạt được và đáp ứng yêu cầu của đề bài. Khi có dàn ý cụ thể người viết sẽ nắm được nét lớn, ý nhỏ của bài viết. Tùy theo đối tượng miêu tả mà các ý có thể được sắp xếp theo trình tự thời gian: thấy trước tả trước, thấy sau tả sau và các ý cũng có thể được sắp xếp theo trình tự không gian: tả từ xa đến gần, từ trong ra ngoài, từ bộ phận này đến bộ phận khác... Sau khi chọn lọc và sắp xếp đúng các ý thì bài văn của các em sẽ không còn lủng củng, lộn xộn. Vì thế GV phải lưu ý với HS rằng: một bài văn miêu tả dù ngắn hay dài cũng được kết cấu theo kiểu ba phần (Mở bài, Thân bài, Kết bài). Nhờ có sự định hướng đúng trong khi quan sát, chú ý các chi tiết tiêu biểu, trọng tâm nên việc lựa chọn các chi tiết và sắp xếp các ý của HS sẽ không còn lủng củng nữa mà trở nên chặt chẽ, mạch lạc hơn góp phần tạo lập văn bản miêu tả đúng. 3. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý Dàn ý sẽ có dàn ý đại cương và dàn ý chi tiết. Dàn ý đại cương là dàn ý chỉ ghi hệ thống những đề mục lớn nhất , những ý chủ yếu nhất. Nhìn vào dàn ý đại
  • 68. 59 cương người đọc thấy ngay nội dung của bài viết , xác định được người viết có bỏ sót yêu cầu của đề bài hay không . Dàn ý chi tiết là dàn ý lấy cơ sở từ dàn ý đại cương. Dàn ý chi tiết là dàn ý ngoài các luận điểm, luận cứ còn các ý nhỏ phát triển, các ý chi tiết sẽ giúp HS hình dung cụ thể hơn các bộ phận của bài viết nhằm giúp các em chuẩn bị tốt cho bài viết. Người viết đưa vào các chi tiết cụ thể trong dàn ý chi tiết để lắp ráp hành văn cho hoàn chỉnh. Dàn ý đại cương hay chi tiết của một bài văn miêu tả đều được kết cấu theo ba phần gồm Mở bài, Thân bài, Kết bài. Trong chương trình tập làm văn lớp 4 HS được học ba dạng thức của văn miêu tả là tả đồ vật, tả con vật và tả cây cối. Cũng như các kĩ năng khác thì kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cũng thế, cách thức tổ chức hoạt động tìm ý và lập dàn ý hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả giữa các dạng thức văn miêu tả cũng khác nhau. GV có thể sử dụng các phương pháp sau để hướng dẫn HS lập dàn ý:  Hƣớng dẫn học sinh lập dàn ý theo mẫu Khi dạy các bài lập dàn ý GV thường hướng dẫn các em học và làm theo mẫu. Việc làm này đối với HS lớp 4 là rất cần thiết vì các em là HS tiểu học nên kĩ năng lập dàn ý chưa được thành thạo cho nên các dàn ý tham khảo chính là sự "trợ giúp" cần thiết với các em.Tuy nhiên khi học và làm theo mẫu GV cũng cần có những hướng dẫn cụ thể để tránh tình trạng sao chép mẫu làm giảm khả năng sáng tạo của HS. Với mỗi dạng thức văn miêu tả, GV nên xây dựng dàn bài điển hình hay nói cách khác là dàn bài mẫu để HS dựa vào đó mà triển khai cho bài văn miêu tả các đối tượng khác của cùng một dạng thức miêu tả. Ví dụ: Khi dạy bài Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật (SGK Tiếng Việt 4, tập hai, trang 112), sau khi giúp HS rút được nội dung ghi nhớ như trong SGK, GV sẽ chủ động bám vào nội dung phần ghi nhớ, dùng câu hỏi gợi ý, dẫn dắt cho các em nêu để xây dựng dàn bài chung cho bài văn miêu tả con vật: Mở bài: Giới thiệu con vật sẽ tả. - Để giới thiệu con vật sẽ tả, em cần giới thiệu những gì? (Tên con vật, nơi nó ở, lí do em thích nó,…) Thân bài: a) Tả hình dáng. - Mỗi con vật thường đều có những bộ phận nào? (đầu: Mắt, mũi, miệng (mõm, mỏ), tai,…; mình: thân, lưng, bụng, ngực,…; chi: móng vuốt, cựa,…; đuôi, cánh,….),... b) Tả thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của con vật. - Thói quen sinh hoạt là những thói quen nào? (ăn, ngủ, đùa giỡn,…).
  • 69. 60 - Những hoạt động chính của con vật là gì? Ví dụ? (con mèo: bắt chuột; con chó: giữ nhà, mừng chủ;…). Kết luận: Nêu cảm nghĩ đối với con vật. - Cảm nghĩ của em đối với con vật có thể là gì? (yêu, thích, thấy thiếu vắng khi đi đâu về mà không trông thấy nó,…); Em làm gì để thể hiện tình cảm của em đối với nó? (chăm sóc, bảo vệ,…).  Hƣớng dẫn học sinh tự lập dàn ý Thông thường dàn ý gồm có 3 phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài. Căn cứ vào từng kiểu bài để hướng dẫn HS sắp xếp ý ở mỗi phần sao cho phù hợp. SGK có hướng dẫn HS lập dàn ý nhưng chưa cụ thể. GV nên hướng dẫn HS triển khai ý bằng cách sắp xếp các ý đã tìm được (ở phần tìm ý) theo trình tự thời gian hoặc không gian. Đặc biệt khi sắp xếp các ý cần xác định mức độ trình bày mỗi ý. Trong bài văn không phải các ý bao giờ cũng trình bày dàn đều mà nên có chỗ đậm, chỗ nhạt, chỗ nói kỹ, chỗ nói lướt qua. Do đó khi sắp xếp ý ta phải cân nhắc, định trước tỉ lệ dành cho mỗi ý. Thông thường ý được nói kỹ là ý trọng tâm làm rõ đối tượng miêu tả. Ví dụ: Lập dàn ý tả chiếc nón lá xứ Huế. Có thể lập dàn ý nhƣ sau: Mở bài: Giới thiệu chiếc nón bài thơ (Một người thân đi Huế về mua làm quà cho mẹ em). Thân bài: a) Tả tổng quát: - Chiếc nón mỏng mảnh và rất xinh. - Chất liệu: bằng lá gồi. - Hình dáng: hình chóp rỗng. b) Tả các bộ phận: - Vành nón: 16 vòng tre vót thon nhẵn bóng, cách đều, càng lên chóp càng nhỏ dần. - Thân nón: những lớp lá trắng xanh, phẳng và bóng xếp chồng mép lên nhau, tỏa từ chóp nón xuống, may vào vành nón bằng chỉ cước, mũi may ngắn và đều, sắc sảo. - Quai nón: dải nhung tím. - Soi lên ánh sáng, lòng nón hiện ra hình cầu Tràng Tiền, con đò, chùa Linh Mụ,... Kết bài: - Chiếc nón làm tăng thêm vẻ đẹp cho người phụ nữ. - Món quà có ý nghĩa.
  • 70. 61  Hƣớng dẫn học sinh lập dàn ý thông qua làm bài tập sửa lại dàn ý Khi rèn luyện kĩ năng lập dàn ý, GV nên đưa ra các bài tập để rèn luyện kĩ năng lập dàn ý bằng cách yêu cầu HS sửa lại dàn ý đã thiết lập chưa chính xác. Cách làm này thiết thực với HS bởi qua những bài tập này các em không những biết sắp xếp ý mà còn có khả năng nhận biết một dàn ý hoàn chỉnh. Với cách lập dàn ý bằng cách sửa lại dàn ý này GV nên yêu cầu HS thảo luận nhóm để thiết lập lại một dàn ý chuẩn mực. Thực tế giảng dạy HS sẽ rất thích thú với dạng bài tập này. Qua quan sát dàn ý trên, đối chiếu những yêu cầu của một dàn ý thì các em sẽ phát hiện ra những chỗ chưa hợp lí trong dàn bài và sửa lại cho đúng, khi đó các em sẽ nắm chắc kĩ năng lập dàn ý và nhớ lâu hơn. Ví dụ: Lập dàn ý tả một cây bóng mát (hoặc cây ăn quả, cây hoa) mà em yêu thích. Bạn Tâm Liên lập dàn ý tả giàn hoa thiên lí trước nhà bạn như sau: - Giới thiệu cây định tả: Giàn thiên lí bên nhà xanh tốt. - Tả từng bộ phận của cây: + Thân: leo chằng chịt đeo bám đầy giàn. + Lá: xanh non như hình quả tim. + Hoa: từng chùm, cánh hoa nhỏ, nhìn lên thấy chi chít như chùm sao xanh. + Mùi hương: dịu nhẹ mà thơm quyến rũ, chỉ tỏa mùi thơm về đêm. - Tả bao quát: Từ một đoạn rễ được bố giâm xuống đất nay đã bò ra leo khắp phủ cả giàn. - Nêu ích lợi của cây, nêu cảm nghĩ của em: + Giàn thiên tỏa bóng mát hiên nhà. + Tỏa mùi thơm lúc đêm về, đem lại cảm giác thư thái, dễ chịu. + Hoa lí xào hoặc nấu canh làm món ăn ngon và mát. + Yêu thích giàn thiên lí, thân thiết với “những ngôi sao xanh” của đêm hè. Theo em dàn ý trên đã hợp lí chưa? Nếu chưa thì hãy bổ sung và sắp xếp lại cho phù hợp. Gợi ý đáp án: Dàn ý trên chưa hợp lí vì chưa chia thành ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài cụ thể. Sắp xếp ý cũng chưa hợp lí. Các em sẽ sắp xếp lại như sau: Mở bài: Giới thiệu cây định tả: Giàn thiên lí bên nhà xanh tốt. Thân bài: a) Tả bao quát: Từ một đoạn rễ được bố giâm xuống đất nay đã bò ra leo khắp phủ cả giàn.
  • 71. 62 b) Tả từng bộ phận của cây: + Thân: leo chằng chịt đeo bám đầy giàn. + Lá: xanh non như hình quả tim. + Hoa: từng chùm, cánh hoa nhỏ, nhìn lên thấy chi chít như chùm sao xanh. + Mùi hương: dịu nhẹ mà thơm quyến rũ, chỉ tỏa mùi thơm về đêm. c) Nêu ích lợi của cây + Giàn thiên tỏa bóng mát hiên nhà. + Tỏa mùi thơm lúc đêm về, đem lại cảm giác thư thái, dễ chịu. + Hoa lí xào hoặc nấu canh làm món ăn ngon và mát. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em đối với giàn hoa thiên lí: Yêu thích giàn thiên lí, thân thiết với “những ngôi sao xanh” của đêm hè. Để thực hiện các hoạt động trên khi hướng dẫn học sinh tìm ý và lập dàn ý bài văn miêu tả hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4, GV có thể xây dựng các trò chơi và bài tập hỗ trợ sau:  Trò chơi tích cực hóa hoạt động tìm ý và lập dàn ý hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 Trò chơi: "Hộp thƣ chạy" Bằng một hệ thống câu hỏi chuẩn bị sẵn mang tính gợi mở đòi hỏi HS phải độc lập suy nghĩ, quan sát để tìm hiểu được vấn đề. Tuỳ dạng bài mà GV chọn hệ thống câu hỏi phù hợp cho trò chơi. Cách chơi: Hộp thư sẽ được chuyền từ bạn này sang bạn khác một cách khẩn trương, gọn gàng theo nhịp bài hát nào đó. Khi kết thúc một bài hát, hộp thư dừng chạy. HS nào đang cầm hộp trên tay phải mở hộp ra bốc câu hỏi trả lời. Nếu trả lời đúng được cả lớp tuyên dương, nếu không trả lời được sẽ phải thực hiện một hình phạt nhẹ nhàng do GV quy định và HS khác sẽ xung phong trả lời thay bạn. Ví dụ: "Hộp thƣ chạy" của Bài "Tả cái cặp sách": 1. Em hãy kể các bộ phận của cái cặp? 2. Cặp làm bằng gì? 3. Quai cặp thế nào? 4. Mặt cặp được trang trí thế nào? 5.Từ nào tả vẻ đẹp của ổ khoá? 6. Em hãy tìm những từ ngữ chỉ màu sắc của cái cặp? 7. Em gìn giữ cặp ra sao? "Hộp thƣ chạy" của Bài “Tả cây co bóng mát”
  • 72. 63 1. Em hãy nêu các bộ phân của cây? 2. Thân cây thế nào? 3. Gốc cây ra sao? 4. Nêu đặc điểm của cành cây? 5. Tìm từ tả màu sắc và hình dáng của lá? 6. Cây có hoa không? Hãy nêu hình dáng màu sắc của hoa? 7. Hãy nêu ích lợi của cây? 8. Những hoạt động có liên quan đến cây? "Hộp thƣ chạy" của Bài : “Tả con gà trống” 1. Gà trống to chừng nào? 2. Thân hình gà thế nào? 3. Em hãy tìm từ tả màu lông của gà trống? 4. Đầu gà,chân gà thế nào? 5. Móng vuốt gà dùng để làm gì? 6. Gà có những thói quen gì trong sinh hoạt? 7. Tìm từ tả tiếng gáy của gà trống? 8. Nuôi gà có ích lợi gì? Trò chơi: "Ai nói nhanh" Từ hệ thống câu hỏi trên, GV có thể lựa chọn một số câu hỏi để thực hiện trò chơi "Ai nói nhanh". Cách chơi: Chia lớp thành 4 - 5 nhóm, mỗi thành viên trong nhóm đều có quyền trả lời giống nhau, bổ sung cho nhau. Với mỗi câu hỏi đưa ra, chia thành các lượt chơi khác nhau, trong mỗi lượt, nhóm nào đưa tay nhanh nhất sẽ giành được quyền trả lời trước. Cuối cùng tổng hợp lại, nhận xét nhóm nào nói được nhiều ý đúng nhất sẽ là nhóm chiến thắng. Đây là những trò chơi đồng thời kết hợp kĩ thuật động não. Theo lẽ thường sau khi đọc đề, tìm hiểu đề xong, HS sẽ có hàng loạt ý xuất hiện một cách đột ngột chưa có hệ thống chặt chẽ trong đầu. Những ý đó có khi rất độc đáo, đúng với yêu cầu của đề, cũng có khi xa đề. GV cần tạo điều kiện, kích thích các em phát biểu ngay nếu không có thể các ý này sẽ bị quên đi không bao giờ trở lại. Kĩ thuật động não trong trường hợp này sẽ phát huy tính tích cực của HS, đặc biệt giúp các em tìm được những ý hay, ý độc đáo.
  • 73. 64 Bài tập tìm ý và lập dàn ý hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 Bài tập 1: Tìm ý chính cho các đề văn sau: a. Hãy tả cái trống trường. b. Hãy tả một cây ăn quả. c. Hãy tả con gà mái. Trả lời: (Đáp án tham khảo) a. Anh chàng trống này thân tròn như cái chum, lúc nào cũng chiễm trệ trên một cái giá gỗ kê ở trước phòng bảo vệ. b. Chao ôi! Trông những quả cam mới thích mắt làm sao! c. Chị gà mái trông mập mạp làm sao! Phần đuôi hơi bành ra dáng một bà mẹ đã qua nhiều lứa đẻ và ấp trứng. Bài tập 2: Sử dụng sơ đồ tư duy để Lập dàn ý cho các đề văn sau: a. Miêu tả một đồ vật quen thuộc. b. Miêu tả cây phượng già. c. Miêu tả con mèo. Trả lời: HS lập dàn ý bằng sơ đồ tư duy theo cách cảm nhận riêng. Chúng tôi tiến hành dạy học tiết Tập làm văn “Cấu tạo bài văn miêu tả con vật” SGK TV4 Tập 2 (Trang 112, 113) để vận dụng các cách thức tổ chức các hoạt động tìm ý và lập dàn ý hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả trên: Tiết “Cấu tạo bài văn miêu tả con vật” I. Nhận xét: 1. Đọc bài sau: Con Mèo Hung “Meo, meo”. Đấy, chú bạn mới của tôi lại đến chơi với tôi đấy. Chà, nó có bộ lông mới đẹp làm sao! Màu lông hung hung có sắc vằn đo đỏ, rất đúng với cái tên mà tôi đặt cho nó. Mèo Hung có cái đầu tròn tròn, hai tai dong dỏng dựng đứng rất thính nhạy. Đôi mắt Mèo Hung hiền lành nhưng ban đêm đôi mắt ấy sáng lên giúp mèo nhìn rõ mọi vật. Bộ ria mép vểnh lên có vẻ oai lắm, bốn chân thì thon thon, bước đi một cách nhẹ nhàng như lướt trên mặt đất. Cái đuôi dài trông thướt tha duyên dáng... Mèo Hung trông thật đáng yêu. Có một hôm, tôi đang ngồi học, bỗng thấy nó rón rén bước từng bước nhẹ nhàng đến bên hồ thóc ngồi rình. A! Con mèo này khôn thật! Chả là ngày thường chuột hay vào bồ ăn vụng thóc nên mèo mới rình ở đây. Bỗng nhiên nó chụm bốn
  • 74. 65 chân lại, dặt dặt cái đuôi lấy đà rồi “phốc” một cái. Thế là một con chuột đã nằm gọn trong vuốt của nó... Nhiều lúc tôi đang học bài, chú ta đến dụi dụi vào tay, muốn tôi vuốt ve bộ lông mượt như nhung hoặc đùa với chú một tí. Con mèo của tôi là thế đấy. Theo HOÀNG ĐỨC HẢI 2. Phân đoạn bài văn trên. 3. Nội dung chính của mỗi đoạn văn trên là gì? 4. Từ bài văn trên, nhận xét về cấu tạo của bài văn miêu tả con vật. Gợi ý: - GV cho HS thảo luận nhóm 4 để trả lời. - Các nhóm trình bày kết quả thảo luận trước lớp để GV kiểm tra chốt lại đáp án đúng. Đoạn 1: ““Meo, meo”. Đấy chú bạn mới của tôi lại đến chơi với tôi đấy.”: Giới thiệu về con mèo định tả. Đoạn 2: “Chà, chú có bộ lông mới đẹp làm sao ... Mèo Hung trong thật đáng yêu.”: Tả hình dáng con mèo. Đoạn 3: “Có một hôm ... đùa với chú một tí.”: Tả hoạt động, thói quen của con mèo. Đoạn 4: “Con mèo của tôi là thế đấy.”: Nêu cảm nghĩ về con mèo. Từ bài văn Con Mèo Hung, em có nhận xét gì về cấu tạo của bài văn miêu tả con vật? - HS trả lời: Bài văn có 3 phần, 4 đoạn 1. Mở bài (đoạn 1) Giới thiệu con mèo sẽ được tả trong bài. 2. Thân bài (đoạn 2 + đoạn 3) Đoạn 2: Tả hình dung con mèo. Đoạn 3: Tả hoạt động, thói quen của con mèo 3. Kết bài (đoạn 4) Nêu cảm nghĩ về con mèo. - GV nhận xét và chốt lại kiến thức cần nắm. II. Ghi nhớ: Bài văn miêu tả con vật thường có 3 phần: 1. Mở bài: Giới thiệu con vật sẽ tả.
  • 75. 66 2. Thân bài: a. Tả hình dáng. b. Tả thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của con vật. 3. Kết luận: Nêu cảm nghĩ đối với con vật. GV yêu cầu HS đọc phần ghi nhớ nhiều lần cho thuộc. III. Luyện tập Lập dàn ý chi tiết tả một con vật nuôi trong nhà (gà, chim, chó, lợn, trâu, bò ...) GV hướng dẫn HS lập dàn ý một con vật cụ thể sau đó các em sẽ chọn con vật mình thích rồi thực hiện tương tự dàn ý mẫu của GV. (Sử dụng sơ đồ tư duy để lập dàn ý) Gợi ý đáp án: Dàn ý miêu tả con mèo. Dàn ý miêu tả con gà
  • 76. 67 Tựu chung, dạy học nói chung và dạy tạo lập văn bản miêu tả nói riêng vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Không có một khuôn mẫu nào cho bài văn miêu tả, vì thế GV cần nắm rõ đặc trưng của từng kiểu bài để hướng dẫn HS lập dàn ý cho phù hợp. Bên cạnh đó, HS cũng cần có ý thức tự giác, coi việc lập dàn ý là một khâu quan trọng cần phải thực hiện trước khi viết bài văn. Đồng thời phải biết vận dụng một cách sáng tạo sự hướng dẫn của thầy cô giáo để lập dàn ý phù hợp với từng kiểu bài văn miêu tả cụ thể. Với cách thức tổ chức hoạt động tìm ý, lập dàn ý hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả trên nhằm tạo nên sơ đồ phác thảo cấu tạo của một bài văn miêu tả có bố cục rõ ràng, hợp lý, đúng đề, hay về nội dung, đồng thời rèn luyện cho HS thói quen lập dàn ý trước khi làm bài - một kĩ năng mà các em ngại nhất trong phân môn Tập làm văn hiện nay, giúp các em có một bài văn miêu tả hay hơn. Và đấy cũng chính là một bước “bàn đạp” cho việc rèn luyện kĩ năng tiếp theo - kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản để đưa các em đến gần hơn với cái đích cuối cùng là tạo lập nên văn bản miêu tả hoàn chỉnh - một văn bản miêu tả của “vòng nguyệt quế”. 2.2.3. Phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả 2.2.3.1. Vai trò và yêu cầu của quá trình chuyển ý thành lời văn trong quá trình tạo lập văn bản miêu tả Để tạo lập nên một văn bản miêu tả, người viết phải tiến hành theo các bước sau: 1. Định hướng tạo lập văn bản miêu tả: Đây là khâu quan trọng, có ý nghĩa tiên quyết đối với việc tạo lập một văn bản miêu tả. Để định hướng cho quá trình tạo lập văn bản cần xác định những vấn đề xoay quanh những câu hỏi sau: - Viết vềcái gì? (giúp cho người đọc xác định được đề tài, đối tượng, nội dung cụ thể). - Viết như thế nào? (giúp cho người tạo lập văn bản xác định được cách thức tạo lập, các phương tiện biểu đạt gắn với nội dung cụ thể để được định hình, hình thức ngôn ngữ để biểu đạt nội dung đó một cách hiệu quả nhất). 2. Tìm ý và sắp xếp thành dàn ý theo bố cục rõ ràng, đáp ứng yêu cầu của đề bài. Từ những nội dung đã xác định được trong bước định hướng, đến đây người tạo lập văn bản tiến hành thiết lập hệ thống các ý, sắp xếp chúng theo bố cục hợp lí, đảm bảo tính liên kết nội dung, mạch lạc văn bản.
  • 77. 68 3. Viết thành văn bản hoàn chỉnh: Đây là khâu trực tiếp cho ra “sản phẩm”. Người tạo lập văn bản dùng lời văn của mình diễn đạt các ý thành câu, đoạn, phần hoàn chỉnh. 4. Kiểm tra lại văn bản: Đây là khâu cuối cùng của quá trình tạo lập văn bản. “Sản phẩm” được kiểm tra lại, điều chỉnh những nội dung, cách diễn đạt chưa hợp lí, sửa các lỗi về dùng từ, đặt câu, viết đoạn, chuyển ý,... Trong các bước để tạo lập nên một văn bản nói trên thì ta nhận thấy rằng ở bước viết thành văn bản hoàn chỉnh - là quá trình chuyển ý thành lời văn hay nói cách khác là “hành văn”, ở bước này các phương tiện liên kết hình thức được huy động tối đa để triển khai chủ đề, thể hiện tính liên kết nội dung, đảm bảo tính mạch lạc cho văn bản. Việc “hành văn” này cần đạt được các yêu cầu là đúng chính tả, đúng ngữ pháp, dùng từ chính xác, sát với dàn bài chi tiết, có tính liên kết, mạch lạc, lời văn trong sáng. Ở Tiểu học, chương trình văn miêu tả yêu cầu rèn luyện cho HS năng lực diễn đạt bằng cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Ở lớp 2 - 3, các bài quan sát và trả lời câu hỏi chỉ mới yêu cầu HS trả lời rõ ý, dùng câu có đủ hai bộ phận chủ - vị, tránh lặp lại các từ khi trả lời. Ở lớp 4 - 5, các bài văn miêu tả chính thức có yêu cầu ngày càng cao hơn, HS dựa vào các câu hỏi để trả lời, rồi phát triển thành đoạn, thành bài, bằng văn nói trước khi chuyển thành văn viết. Đặc biệt lưu ý trong diễn đạt, hành văn là văn viết phải sinh động, “có hồn”. Chúng ta nhận thấy rằng, văn miêu tả như là một hình thức sáng tạo ra “thế giới thứ hai” từ thế giới hiện thực thông qua cái nhìn mới mẻ và cách cảm nhận riêng của người viết. Văn miêu tả là cách thức tiếp xúc, đón nhận cuộc sống để trình bày vẻ đẹp kì diệu tiềm ẩn của cuộc sống và là cách bày tỏ xúc động thẩm mỹ và NL chữ nghĩa của người viết. Vì thế, sau khi đã lập dàn ý, có được một dàn ý hay rồi thì cần phải đòi hỏi một người thợ khéo tay sử dụng các “vật liệu” tốt để tạo tạc nên một “công trình” hoàn hảo và chắc chắn. “Vật liệu” đó chính là các phương tiện ngôn ngữ. Người viết phải huy động, lựa chọn từ ngữ, các mô hình câu, mô hình đoạn phù hợp để tạo nên lời văn hợp chuẩn mực, giàu cảm xúc và hấp dẫn. Bài văn còn là một chỉnh thể thống nhất chặt chẽ nên người viết cũng phải sử dụng các phương tiện để liên kết các câu thành đoạn, các đoạn thành bài. Việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ cần phải phù hợp với các đặc điểm của phong cách văn bản, tức là phù hợp với từng kiểu loại (cây cối, đồ vật, con vật) của bài viết. Như vậy sau khi đã có các ý rồi thì vấn đề quan trọng hơn cả là biết cách diễn đạt một cách khéo
  • 78. 69 léo những ý của bài viết thành lời văn cụ thể. Tuy nhiên, khi đã có dàn ý chi tiết của bài văn rồi, do cách diễn đạt của mỗi người khác nhau nên hiệu quả của bài viết còn hạn chế, chưa đạt. Vì thế quá trình chuyển ý thành lời văn để tạo thành một văn bản miêu tả hay cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết, để tránh sự nhàm chán và bài viết sinh động, phong phú, người viết cần linh hoạt trong hành văn, tránh kiểu viết một giọng đều đều từ đầu đến cuối tạo cảm giác đơn điệu, liệt kê, rời rạc giữa các câu trong đoạn, làm mất đi sự liên kết chặt chẽ giữa các câu và không làm nổi bật được đối tượng miêu tả. Thứ hai là ở cách dùng từ “độc đáo” trong Tập làm văn mà cụ thể là văn miêu tả, phải dùng những từ hay, đoạn hay thì mới có một bài văn hay. Để vận dụng từ ngữ cho hay, độc đáo thì người viết cần tích lũy cho mình vốn từ ngữ phong phú và có ý thức vận dụng khi viết văn. Tuy vậy, cũng cần sử dụng đúng lúc, đúng chỗ để có đoạn văn, bài văn hay tránh lạm dụng rơi vào tình trạng sáo rỗng, khoe chữ. Thứ ba là thể hiện được tính linh hoạt trong viết câu, tức là tùy từng lúc, từng nơi, tùy vào từng đoạn văn mà có những câu văn tương ứng để diễn đạt cho phù hợp. Sau cùng là các bài văn mang tính nghệ thuật cao như văn miêu tả cần phải giàu hình ảnh, bởi chỉ có hình ảnh mới tái tạo được tưởng tượng của người đọc những bức tranh cụ thể, sinh động về cuộc sống con người và cảnh vật. Lời văn giàu hình ảnh tạo nên sức hấp dẫn, cái hay và vẻ đẹp của bài viết. Lời văn giàu hình ảnh đó thể hiện ở cách lựa chọn các hình ảnh, chi tiết đặc sắc, có hồn của đối tượng được tả và được diễn tả bằng ngôn ngữ gợi tả. Để tạo được hiệu ứng của sức gợi tả đó thì đặc biệt chú ý đến cách dùng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, cách thức sử dụng nhịp điệu âm thanh và cách kết hợp sử dụng các kiểu câu một cách linh hoạt. Tóm lại, quá trình chuyển ý thành lời văn trong quá trình tạo lập văn bản nhằm tạo ra những văn bản miêu tả hay, có sự liên kết chặt chẽ của các câu, đoạn trong bài văn và có những hình ảnh gợi tả hấp dẫn. Nhận thấy được vai trò quan trọng và yêu cầu của quá trình chuyển ý thành lời văn trong quá trình tạo lập văn bản miêu tả nên GV cần tổ chức, hướng dẫn cho HS cách thức tổ chức sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả để giúp các em tạo lập nên những văn bản hay, nâng cao chất lượng bài viết. 2.2.3.2. Cách thức tổ chức hoạt động phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả Nhà văn M. Goóc - ki viết: “Văn học là nghệ thuật của ngôn từ”. Nhiều bạn cứ tưởng có hình mẫu trước mắt là tả được ngay. Thực ra không phải như vậy. Hằng ngày
  • 79. 70 chúng ta vẫn thường gặp bao nhiêu là con người thân thiết, bao nhiêu cảnh vật và sự việc đầy ấn tượng. Xa rồi vẫn thấy như còn ngời lên tất cả, thân thuộc và gần gũi như đang trước mắt mình. Nhưng bây giờ, hãy thử cầm bút và miêu tả lại thì khi ấy sẽ thấy không phải đơn giản, mặc dù vẫn ở ngay trước mắt của ta. Sở dĩ như vậy vì những cái đó mới để lại trong đầu óc chúng ta những cảm giác miên man mà không có một cái gì sâu sắc đủ sức sống bằng hình ảnh để sáng tạo. Như Tô Hoài đã nói: “Nghĩ thì hay nhưng không đủ chữ để viết ra”. Đó là chưa nói tới phải tả thế nào đó để toát lên được linh hồn và sắc thái riêng của mỗi con người, mỗi sự vật. Vì thế đòi hỏi muốn tả hay, người viết phải giàu chữ nghĩa và có vốn từ phong phú, đa dạng. Mặt khác, “Tiếng Việt giàu và đẹp”, đó là điều mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn nhắc nhở chúng ta. Người còn nói thêm: “Không sợ tiếng ta nghèo, chỉ sợ chúng ta không biết dùng tiếng ta”. Tiếng Việt hoàn hảo trong mọi chức năng của nó: trong giao tiếp, trong nghiên cứu khoa học, dịch thuật, trong sáng tác văn học nói chung và trong văn miêu tả nói riêng. Tiếng Việt giàu về mặt âm thanh, từ ngữ, ngữ pháp, cách diễn đạt... Nó đủ sức miêu tả, tái hiện mọi sự vật, hiện tượng, mọi khía cạnh phong phú và tinh tế của con người. Qua đó, để thấy rằng ngôn ngữ Tiếng Việt là một chất liệu miêu tả hoàn hảo. Thế nên, một trong những con đường đi đến phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 thì không thể thiếu được con đường phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản. Để phát triển được kĩ năng này thì GV phải đưa ra cách thức tổ chức hoạt động sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất. Một trong những yếu tố giúp cho bài văn diễn đạt thành công những cung bậc tình cảm và sắc thái hiện thực là hệ thống từ gợi hình ảnh và cảm giác. GV cần lưu ý cho HS trong văn miêu tả thường xuất hiện các lớp từ có giá trị hình tượng, có giá trị biểu cảm, gợi hình ảnh và cảm giác, đó là tính từ và từ láy. Chúng là thế mạnh đặc trưng của Tiếng Việt và là phương tiện miêu tả hiệu quả. Đầu tiên phải kể đến sự phong phú và đa dạng của lớp từ gợi hình ảnh và cảm giác. Ta có gợi tâm trạng như: xao xuyến, bâng khuâng, phân vân,... Gợi về thị giác như: la đà, lơ lửng, chấp chới,... Gợi về thính giác như sầm sập, rì rào, thánh thót,... Gợi về vị giác như mặn chát, chua lòm, ngọt lịm,... Gợi về xúc giác như: lạnh ngắt, nóng bỏng, xù xì,... rồi cả những lớp từ tượng thanh, tượng hình mà khi dạy văn miêu tả GV cần hướng dẫn HS khai thác sử dụng có hiệu quả. Từ tượng thanh như: tiếng gió vi vu, lao xao xào xạc,... tiếng mưa lộp bộp, tí tách, bong bong, tiếng nước chảy róc rách, rào rào, ào ào,... và cả thế giới âm thanh xung quanh các
  • 80. 71 em, nào là tiếng chim hót, tiếng gà gáy, tiếng lợn ủn ỉn, tiếng bát đũa, những rỗ đồng tiền xu va vào nhau, rồi cả tiếng cười cười nói nói của mọi người,... Những từ có giá trị tượng hình như: đỏ chon chót, sâu hun hút, xanh ngăn ngắt, sâu thăm thẳm, rộng mênh mông,... Với một loạt các từ gợi tả, gợi cảm tác giả đã tái hiện lại cuộc sống của thành phố gắn liền với những âm thanh “Từ cái căn gác nhỏ của mình, Hải có thể nghe thấy tất cả các âm thanh náo nhiệt, ồn ã của thành phố thủ đô. Tiếng chuông xe đạp lanh canh. Tiếng kéo lách cách bận rộn của những người bán thịt bò khô. Tiếng thùng nước va vào nhau loảng xoảng ở một cái vòi nước công cộng. Tiếng ve kêu rền rĩ trong những đám lá cây trên đại lộ. Tiếng còi ô tô xin đường gay gắt. Tiếng xả hơi của một cái đầu máy hơi nước. Tiếng còi tàu hỏa thét lên và tiếng bánh xe đập trên đường ray ầm ầm như sắp lao vào thành phố.” (Tô Ngọc Hiến) Hãy xem sự tài tình trong cách dùng từ miêu tả âm thanh của các con vật: “Rừng núi còn chìm đắm trong màn đêm. Trong bầu không khí đấy hơi ẩm và lành lạnh, mọi người đang ngon giấc trong những chiến chăn đơn. Bỗng một con gà trống vỗ cánh phành phạch và cất tiếng gáy lanh lảnh ở đầu bản. Tiếp đó, rải rác khắp thung lũng, tiếng gà gáy râm ran. Mấy con gà rừng trên núi cũng thức dậy gáy te te. Trên mấy cành cây cao cạnh nhà, ve đua nhau kêu ra rả. Ngoài suối, tiếng chim cuốc vọng vào đều đều. Bản làng đã thức giấc”. Với một loạt các từ miêu tả âm thanh của các chú gà vào một buổi sớm mai ở vùng cao, chỉ vỏn vẹn trong một đoạn văn ngắn mà xuất hiện đầy đủ mọi thứ âm thanh khác nhau của con gà để đánh thức bản làng thức giấc. Thứ hai là phải kể đến hệ thống tính từ trong Tiếng Việt là hết sức tinh diệu. Đã khi nào bạn thử thống kê tất cả các màu trắng, đỏ, vàng hay xanh chưa? Cứ thử đi rồi bạn sẽ thấy từ chỉ màu sắc trong Tiếng Việt thật vi diệu nhường nào. Này nhé, nếu là trắng ta có trắng bệch, trắng tinh, trắng nuột, trắng trẻo, trắng trong,... Nếu là xanh lại có xanh um, xanh mát, xanh lè, xanh ngắt, xanh thẳm,... Với màu đỏ có thể kể đến như là đỏ chói, đỏ bừng, đỏ chót, đỏ tươi, đỏ lòm, đỏ hoe, đỏ chon chót,... Hệ thống tính từ đa dạng này chúng ta cũng có thể phân nó thành các nhóm như sau: Các tính từ chỉ màu sắc: vàng hoe, vàng xuồm, vàng lịm,..: xanh um, xanh thẳm, xanh trong,... ; đỏ chót, đỏ chói, đỏ rực,...; tím ngắt, tím biếc, tím hoa cà,... Các tính từ chỉ mùi vị: thơm ngát, thơm phức, thơm nức, thơm thoang thoảng, thơm ngan ngát,... Thế giới xung quanh của các em thật đa dạng và phong phú. Đó là thế giới của âm thanh
  • 81. 72 hình tượng và màu sắc, chính các yếu tố này tạo cho bài văn miêu tả của các em thật hơn, sinh động hơn, đóng góp một phần không nhỏ làm nên vẻ đẹp bài văn. Mới chỉ dừng lại ở hệ thống tính từ thôi đã thấy sự đa dạng tinh tế của ngôn ngữ Tiếng Việt. Đúng thật không “ngoa” khi nói: “Tiếng Việt giàu và đẹp”. Có thể thấy rõ điều này qua đoạn văn: “Vai kĩu kịt, tay vung vẩy, chân bước thoăn thoắt. Tiếng lợn eng éc, tiếng gà chíp chíp, tiếng vịt cạc cạc, tiếng người nói léo xéo. Thỉnh thoảng lại điểm thêm những tiếng ăng ẳng của con chó lại lôi sau sợi xích sắt, mặt buồn rầu, sợ sệt”. Ngô Tất Tố đã phác họa một phiên chợ vùng trung du như một bức tranh có những mảng màu lớn, đậm nét khái quát cao. Mọi màu sắc, âm thanh, hoạt động miêu tả qua một loạt từ tượng thanh: eng éc, chíp chíp, cạc cạc, léo xéo, ăng ẳng và các từ tượng hình như : kĩu kịt, vung vẩy, thoăn thoắt, sợ sệt. Từ ngữ Tiếng Việt có số lượng vô cùng lớn, đủ để “định hình” sự vật và hiện tượng. Tiếng Việt còn có một bộ phận từ đồng nghĩa cho phép phân biệt những hiện tượng, trạng thái gần giống nhau một cách rất tinh tế. Như đã nói ở trên, đặc biệt phải nói tới một bộ phận từ ngữ khá phong phú có khả năng “tạo hình” rất tốt, đó là từ láy. Từ láy luôn có giá trị gợi tả, có khả năng tạo nên nhịp điệu và hình ảnh cho bài văn. Bởi từ láy là lớp từ có sức diễn tả gợi cảm, gợi tả cao nên được sử dụng nhiều trong ngôn ngữ giao tiếp đời sống, trong văn chương và đặc biệt là trong viết văn miêu tả. Vì thế, GV cần hướng dẫn, khuyến khích HS sử dụng linh hoạt từ láy khi làm bài nhằm mang lại chất lượng cao cho bài viết của các em. Các văn bản trong sách Tiếng Việt ở Tiểu học là những tác phẩm văn chương có sự xuất hiện của từ láy là rất lớn. Dụng ý mà tác giả sử dụng các từ láy đó cũng hết sức phong phú, đa dạng và sinh động. Khi dạy những bài đó, GV có thể xây dựng một số câu hỏi để giúp HS hiểu và cảm nhận được giá trị cụ thể của từ láy có trong bài học đó. Ví dụ: : Khi dạy bài: “Cánh diều tuổi thơ” (SGK Tiếng Việt 4, tập 1 - trang 146) GV có thể hỏi thêm: Tác giả đã dùng từ láy nào để miêu tả cánh diều và tiếng sáo diều? Qua đó, các em có cảm nhận gì về cánh diều và tiếng sáo? Hay khi dạy bài: “Sầu riêng” (SGK Tiếng Việt 4, tập 2 - trang 146) GV nêu câu hỏi: Tác giả miêu tả hương thơm sầu riêng bằng từ láy gì? Cách miêu tả đó có gì hay? Cũng cần phải lưu ý các câu hỏi hay bài tập GV đưa ra phải khéo léo, phù hợp và hay để khai thác hết ý đồ của tác giả, giúp HS hiểu được giá trị của từ láy trong văn bản miêu tả đó. Từ đấy, các em sẽ biết cách sử dụng từ láy trong viết văn
  • 82. 73 cũng như trong giao tiếp một cách linh hoạt hơn, mang lại hiệu quả ngôn bản giàu xúc cảm, còn lời nói thì hoạt ngôn hơn. Với ba dạng thức văn miêu tả mà HS học ở lớp 4 (con vật, đồ vật, cây cối), với mỗi dạng thức miêu tả sẽ sử dụng những từ láy khác nhau. Tả đồ vật: Thường dùng nhiều từ ngữ gợi hình dạng, đặc điểm (ví dụ như tròn tròn, vuông vắn, nhỏ nhắn, xinh xắn, đo đỏ,lim dim, duyên dáng, thon thon,...). Tả con vật: Thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, âm thanh, hoạt động và trạng thái của con vật (ví dụ như: oai vệ, rón rén, lặc lè, nhanh thoăn thoắt, chậm chạp, ì ạch, phành phạch, tinh nhanh, ranh mãnh, eng éc, cạc cạc, léo xéo, te te, ăng ẳng,...). Tả cây cối: Thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, màu sắc, hương thơm, mùi vị (ví dụ như xanh mươn mướt, mơn mởn, rung rinh, um tùm, khẳng khiu, rực rỡ, mơ màng, xào xạc, xơ xác, lác đác,...). Chúng ta phải thừa nhận rằng, với ba dạng thức văn miêu tả trên có chung một điểm là trong khi viết văn các em cần sử dụng các từ láy để bài văn mượt mà đúng bản chất của kiểu bài văn miêu tả. Bởi một văn bản có sử dụng từ láy khi ta đọc vào sẽ có cảm giác hay hơn so với văn bản không sử dụng từ láy để miêu tả. Vì vậy, để viết được đoạn văn, bài văn miêu tả hay thì các em cần có vốn từ và biết cách sử dụng từ ngữ nói trên đúng lúc, đúng chỗ, biết dựa vào từ để tạo ra cái mới, cái riêng, cái độc đáo trong những câu văn, đoạn văn và bài văn của mình. Vấn đề tiếp theo mà chúng tôi muốn nhắc đến là về ngữ pháp và cách diễn đạt, Tiếng Việt cũng rất giàu khả năng miêu tả. Như ta đã biết trật tự trước - sau của các từ trong câu văn Tiếng Việt đem lại ý nghĩa khác nhau. Trật tự ấy cũng rất có tác dụng trong văn miêu tả. Chẳng hạn, viết “nước chảy róc rách” chắc sẽ không tạo hình bằng “nước róc rách chảy”. Hay trong đoạn văn miêu tả con bọ ngựa, Tô Hoài viết: “Anh đi cứ chân nhấc từng bước cao ngang đầu gối kiểu bước chân ngỗng, cách thức rất ta đây...”, ta thấy nhà văn đã sử dụng một trật tự từ, một mẫu câu tuyệt giỏi: “cứ chân nhấc từng bước” chứ không phải “cứ nhấc chân từng bước”. Có như vậy mới tả đúng cái dáng ngông nghênh, ngật ngưỡng của anh chàng Bọ Ngựa. Hay trong đoan văn “Trắng tròn như hạt nếp hạt tẻ đầu mùa, hoa sấu kéo dài con đường hoa nhiều quãng cộm hẳn lên như cót gạo nào của khu phố bung vãi ra” (Nguyễn Tuân). Tác giả đã viết câu văn theo lối đảo ngữ nhằm diễn tả vẻ đẹp tinh khôi, độc đáo, gợi cảm và giàu ý nghĩa của hoa sấu, nhằm làm cơ sở cho sự xuất hiện hình ảnh so sánh độc đáo ở cuối câu. Đó là hoa sấu “như cót gạo nào
  • 83. 74 của khu phố bung vãi ra.” Tuy nhiên GV không đòi hỏi quá cao ở HS kĩ năng này vì kĩ năng này tương đối khó so với năng lực viết văn miêu tả của đại đa số HS Tiểu học hiện nay. Vì thế GV chỉ khuyến khích HS khá giỏi làm tốt kĩ năng này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả viết văn cho các em. Đặc biệt hơn cả là sự xuất hiện rất nhiều của các biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả. Đó là một thế mạnh đặc trưng của Tiếng Việt. Đó là biện pháp so sánh, nhân hóa với việc làm giàu khả năng biểu đạt trong văn miêu tả. Là hệ thống kiến thức các em được học qua phân môn Luyện từ và câu ở chương trình lớp 3. (Xem phụ lục Bảng 1.2 và 1.3). Sử dụng so sánh tu từ, những trang văn miêu tả không chỉ có giá trị về mặt nhận thức mà còn được tăng cường giá trị biểu cảm. Qua so sánh, đối tượng được nói đến hiểu rõ hơn, dễ hình dung hơn. Thêm vào đó, biện pháp so sánh ví von còn là tăng thêm sức gợi cảm, gợi hình cho sự diễn đạt. Nhờ vậy, bài văn trở nên sinh động và đầy thú vị. Trong bài “Cây gạo” của nhà văn Vũ Tú Nam có đoạn: “Cây gạo già mỗi năm lại trở lại mùa xuân, cành nặng trĩu những cây hoa đỏ mọng và đầy tiếng chim hót. Chỉ cần một làn gió nhẹ hay một đôi chim mới đến là có ngay mấy bông gạo lìa cành. Những bông hoa rơi từ trên cao, đài hoa nặng chúi xuống, những cành hoa đỏ rực quay tít như chong chóng trông thật đẹp”. Đoạn văn tả trên có một chi tiết bất ngờ và độc đáo, đó là chi tiết so sánh khi tác giả tả bông hoa gạo đang rơi. Bất ngờ vì tác giả không tả hoa gạo trên cây, không tả hoa gạo lúc đang nụ hay đã nở. Tác giả lại tả hoa gạo đã lìa cành, đã rụng và đang rơi xuống. Tác giả đã phát hiện ra cách rơi đặc biệt của hoa gạo, đài hoa nằm ở dưới, rơi xuống trước vì đài hoa nặng chúi xuống. Độc đáo hơn, cái tư thế quay tít của hoa khi rơi xuống còn được tác giả chụp lấy và so sánh với chong chóng. Sự so sánh vừa giúp người đọc hình dung một cách dễ dàng cái dáng rơi của hoa gạo, vừa mang đậm chất tạo hình, tưởng như hiện ra trước mắt người đọc một cánh chong chóng đỏ rực đang quay tít giữa không trung thật sống động và gợi cảm. Hay bằng sự so sánh “Từ những cành sấu non bật ra những chùm hoa trắng muốt, nhỏ như những chiếc chuông tí hon” (Mùa hoa sấu), nhà văn Băng Sơn đã thể hiện năng lực quan sát thực tế của mình, đồng thời mang đến cho độc giả hình ảnh thật sinh động về hoa sấu. Nhà văn không tả kĩ hình dáng của những bông hoa sấu, tuy nhiên với cách so sánh chùm hoa sấu “nhỏ như những chiếc chuông tí hon”, người đọc có thể hình dung ngay được những bông hoa sấu trông như thế nào. Cách
  • 84. 75 so sánh này cũng đầy thi vị, thử tưởng tượng hoa sấu như chiếc chuông tí hon ấy có khi nào sẽ ngân vang mỗi khi có làn gió nhẹ thoảng qua? So sánh như vậy vừa gợi hình, gợi cảm và xét ở một góc độ nào đó, lại vừa gợi âm thanh. Với giá trị to lớn đó, so sánh tu từ thường được sử dụng nhiều trong các trang văn miêu tả. Nó không chỉ đem lại sự nhận thức chính xác, mới mẻ, gợi hình ảnh bất ngờ, mà còn mang lại sức sống cho hình ảnh, khiến bài văn trở nên sinh động, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc. Nếu như biện pháp so sánh làm cho đối tượng miêu tả trở nên rõ hình dung, gợi sự liên tưởng bất ngờ, mới mẻ cho bạn đọc, thì biện pháp nhân hóa có khả năng làm cho bài văn miêu tả đầy sinh động, hấp dẫn. Qua nhân hóa, các sự vật vô tri được “thổi hồn”, đầy sức sống. Những đối tượng không phải là người nhưng có cuộc sống của con người, cũng có tính cách, biết cảm nhận, biết suy nghĩ và hành động của con người. Thế giới của vật trở nên thật gần gũi, ngộ nghĩnh, đáng yêu. Có thể thấy nhân hoá là con đường thú vi ̣nhất , ngắn nhất đưa những vấn đề trìu tượng đến với nhâ ̣n thứ c của con người . Khi sử dụng nhân hoá , người viết thỏa sứ c vùng vẫy, lựa chọn ngôn từ để làm tăng sự uyển chuyển , mềm mại khi diễn đạt. Khi tả hình dáng bên ngoài của chào mào , nhà văn Tô Hoài viết: “Mắt, mỏ Chào Mào nhâng nháo, phởn phơ. Đứng đâu cũng nhún nhảy làm điệu. Đã thế đỉnh đầu lại chênh vênh đội lệch cái mũ nhung đen nháy.” Hay khi đi sâu tả nội tâm , tính nết của từng con bò , nhà văn Hồ Phương đã viết như sau “ Con Ba Bớ p phàm ăn tục uống nhất…Con Hoa hùng hục ăn. Mẹ con chị Vàng ăn riêng một chỗ…, cu Tũn dở hơi chốc chốc lại ăn tranh mảng cỏ của mẹ, chị Vàng lại dịu dàng nhườ ng cho nó.” Bài thơ “Buổi sáng nhà em” cũng là một ví dụcho sự nhân hóa đầy thi vị, cả bài thơ là một bức tranh sinh hoạt vui tươi và sinh động qua cái nhìn của Trần Đăng Khoa . Mọi vật đều được nhân hoá : Từ ông trờ i, bà sân, đến cậu mèo, mụ gà, cái na, cu chuối, chị tre, bác nồi đồng, bà chổi với những công viê ̣c như : đi cày, tát nướ c, vấn khăn, chải tóc, soi gương, quét nhà, những hoa ̣t động reo vui : vỗ tay cười, vỗ bùng boong, những âm thanh rộn ràng của tiếng gà cục tác, tiếng loẹt quẹt quét nhà. Tất cả được nhân hoá trong thơ vừa gợi hình vừa biểu cảm . Nhờ thế mà thế giới đó đi vào nhận thức của con người một cách tự nhiên, thú vị. Khi sử dụng nhân hóa, sự uyển chuyển, mềm mại trong diễn đạt cũng sẽ được nâng cao. Tả cảnh sông quê mùa xuân, nhà văn Kim Viên đã mang đến chất trữ tình cho từng câu viết. Sông quê cũng im dìm trong giấc ngủ buổi sáng mùa xuân, để rồi em bé Mây phải đến đánh thức: “Mây đến sát bờ sông. Chân em khẽ khàng giẫm
  • 85. 76 lên đám cỏ bên sông còn ướt sương đêm. Em thận trọng vén bức màn sương và cất tiếng gọi: “Sông ơi, dậy đi! Dậy đi!”. Im lặng! Tiếng Mây gọi lọt thỏm xuống dòng sông nghe xa vời như tiếng gọi từ đâu vọng lại. Nhưng rồi dòng sông cựa mình. Nó uốn éo làm nũng với Mây khiến mặt nước gợn sóng lăn tăn” (Sông quê mùa xuân). Dòng sông từ trạng thái tĩnh lặng đến xao động trong buổi sớm mai đã được tác giả miêu tả thật sinh động. Nó cũng biết “cựa mình”, “uốn éo, làm nũng” với con người. Dòng sông quê như một người bạn thân thiết của em bé, em khẽ khàng cất tiếng gọi để đánh thức dòng sông dậy. Ý tưởng của tác giả về một em bé trò chuyện với dòng sông quê và dòng sông đáp trả bằng cái cựa mình, ngái ngủ thật thú vị. Bức tranh dòng sông một sáng mùa xuân dần trở nên sống động, thơ mộng qua mối liên hệ thân thiết giữa người bạn nhỏ với dòng sông quê. Hay trong đoạn văn tả Cây sồi già của Lép Tôn - Xtôi, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh “nó như con quái vật già nua cau có khinh khỉnh đứng giữa đám bạch dương tươi cười” và sự nhân hóa “với những cánh tay to xù xì không cân đối, với những ngón tay quều quào xòe rộng”; cây sồi già đã thay đổi hẳn “đang say sưa ngây ngất, khẽ đung đưa trong nắng chiều. Không còn thấy những ngón tay co quắp, những vết sẹo và vẻ ngờ vực, buồn rầu trước kia” để tả sự thay đổi của cây sồi già theo thời gian, từ một cây sồi với vỏ cây nứt nẻ đầy vết sẹo, sau một tháng đã thành cây sồi tỏa rộng vòm lá sum suê xanh tốt thẫm màu. Trong văn miêu tả, việc sử dụng biện pháp nhân hóa cũng góp phần thể hiện được tình cảm, thái độ của người viết đối với sự vật được nhân hóa. Phải yêu quý thế nào thì với “Vầng trăng quê em”, tác giả Phan Sĩ Châu mới tả một đêm trăng tuyệt đẹp đến vậy bằng nghệ thuật nhân hóa. Ở đó, trăng tinh nghịch “lẩn trốn trong các tán lá cây xanh rì của những cây đa cổ thụ đầu thôn”, trăng “óng ánh trên hàm răng, trăng đậu trong đáy mắt”, trăng “ôm ấp mái tóc bạc của các cụ già”. Vầng trăng dường như cũng như con người, biết suy nghĩ, biết bày tỏ cảm xúc của mình. Đọc văn, người ta bỗng thấy vầng trăng trên trời cao thăm thẳm kia thật gần gũi, thân thương. Đọc các trang văn miêu tả có sử dụng phép nhân hóa, bạn đọc cũng được bồi dưỡng vốn sống, tăng khả năng nhạy cảm, cảm xúc, nâng cao sức tưởng tượng để từ đó cũng có thể viết được những dòng văn đầy biểu cảm. Chẳng hạn, tả cảnh trường học mùa hè, một HS đã viết rất cảm xúc thế này: “Tiếng trống trường cuối cùng của năm học đã kết thúc. Sân trường vắng lặng, chỉ còn bác trống trường lim dim ngủ và những bông hoa phượng vĩ đang thao thức chờ đợi các bạn nhỏ quay lại trường”.
  • 86. 77 Một học sinh khác thì lại viết câu kết thúc giờ ra chơi như sau: “Đến giờ học rồi, vào học thôi. Đó là tiếng gọi thân thuộc của chiếc trống của trường em đấy.” Vậy đó, phép nhân hóa vừa có giá trị về nhận thức, vừa có giá trị biểu cảm, mang đến sự sinh động, hấp dẫn cho trang viết. Nó tạo được chất mơ mộng, hồn nhiên, sống động để thu hút đông đảo bạn đọc, nhất là những bạn đọc nhỏ tuổi. Vì thế mà văn miêu tả rất hay dùng và dùng rất có kết quả các biện pháp tu từ nói trên. Với các biện pháp tu từ này, con người và cảnh vật tìm thấy chỗ hòa đồng trong nhau, bởi cảnh vật thì trở nên có hồn giống như con người, còn tâm hồn con người thì hòa tan vào cảnh vật. Để giúp HS vận dụng các từ ngữ, các biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong viết văn miêu tả một cách linh hoạt, chủ động và có hiệu quả, GV cần xây dựng hệ thống bài tập và trò chơi học tập để rèn luyện các kĩ năng trên cho các em vì bài tập và trò chơi học tập là những phương tiện, công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả. Trong giai đoạn hiện nay, khi giáo dục Việt Nam đang có nhiều đổi mới, người GV cần phải rèn luyện, bồi dưỡng để có khả năng thiết kế các tư liệu dạy học có giá trị, chủ động với các hoạt động Tiếng Việt ở nhà trường phổ thông, trong đó có tiểu học. Bài tập và trò chơi cần được thiết kế trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản: (1) Đảm bảo tính sư phạm, tính khoa học, tính hệ thống; (2) Đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với năng lực ngôn ngữ và tư duy của học sinh; (3) Đảm bảo tính hấp dẫn, tính sáng tạo. Nếu với bài tập, người thiết kế - giáo viên tiểu học cần chú ý đảm bảo cấu trúc, trong đó có sự “mềm hoá” lệnh và “thi vị hoá” dữ kiện thì khi xây dựng các trò chơi học tập, bên cạnh việc lựa chọn những hình thức hoạt động sinh động, kích thích hứng thú học sinh còn cần phải chú ý lựa chọn ngữ liệu, chất liệu gắn với nội dung tạo lập văn bản miêu tả nhưng vẫn đảm bảo tính chất của “học mà chơi”. Tập làm văn lớp 4, như đã nói, có ba dạng bài văn miêu tả gắn với ba loại đối tượng có những đặc thù riêng: đồ vật, cây cối, con vật. Khi xây dựng và cấu trúc hệ thống bài tập, trò chơi, GV lớp 4 có thể dựa vào các tiêu chí:  Tiêu chí 1: Quá trình tạo lập, sản sinh văn bản miêu tả Dựa vào tiêu chí này, hệ thống bài tập, trò chơi học tập có thể được sắp xếp, kiến tạo theo hành trình từ tiền sản sinh ngôn bản (phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý...) đến tạo lập văn bản (diễn ý thành lời, dựng đoạn, viết bài) và hiệu chỉnh sản phẩm ngôn ngữ.
  • 87. 78  Tiêu chí 2: Nhóm kĩ năng đặc trưng trong tạo lập văn bản miêu tả Văn miêu tả có những đặc thù riêng, yêu cầu riêng về kĩ năng, trong đó trở ngại của học sinh lớp 4 chính là khả năng quan sát, huy động các giác quan để tri giác nhanh chóng và chính xác về đối tượng và kĩ năng sử dụng biện pháp tu từ (cấp độ từ vựng nhiều hơn là cấp độ cú pháp) để bài văn có màu sắc và cũng có điểm nhấn hơn.  Tiêu chí 3: Các cấp độ/phương tiện ngôn ngữ Trong luận văn này chúng tôi kết hợp cả ba tiêu chí trên để xây dựng bài tập, trò chơi hỗ trợ phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS. Trong hai nhóm biện pháp trên, chúng tôi đã xây dựng bài tập, trò chơi chủ yếu theo tiêu chí 1 và tiêu chí 2. Ở nhóm biện pháp này, chúng tôi sẽ xây dựng bài tập, trò chơi chủ yếu dựa vào tiêu chí 3. Bài tập, trò chơi học tập được kiến tạo trên cơ sở mục tiêu rèn luyện kĩ năng dùng từ (cùng việc sử dụng các biện pháp tu từ từ vựng), đặt câu, dựng đoạn và hoàn thiện bài. Gắn với mỗi cấp độ/phương tiện ngôn ngữ, tư liệu dạy học đề xuất sẽ tập trung vào giải quyết những bài toán mà năng lực tạo lập văn bản miêu tả đặt ra, chẳng hạn như ở nhóm bài tập sử dụng từ ngữ, người thiết kế cần xác định “điểm rơi” ở các lớp từ có giá trị gợi hình, biểu cảm (từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh, từ đồng nghĩa, trái nghĩa...).  Bài tập sử dụng từ ngữ, biện pháp tu từ Dạng bài tập này nhằm rèn luyện khả năng sử dụng từ ngữ, đặc biệt là chất liệu ngôn từ có giá trị gợi tả, tạo hình, biểu đạt cảm xúc như: từ láy, từ mô phỏng âm thanh, hình dáng, các từ có nghĩa tương đồng,... Thông qua việc thực hành bài tập, HS sẽ phát triển khả năng nhận diện, lựa chọn từ ngữ, xác định được các biện pháp tu từ nhằm tạo nên tính hấp dẫn cho câu văn, bài văn miêu tả. Về hình thức, bài tập có thể được cấu trúc thành nhiều dạng khác nhau như: bài tập trắc nghiệm lựa chọn từ ngữ; bài tập điền từ; bài tập tìm kiếm các phương tiện biểu đạt giàu hình ảnh cho câu... Bài tập 1: Chọn từ láy thích hợp trong ngoặc đơn để hoàn thành các câu trong đoạn văn sau: Những chiếc lá mít (xanh xanh, xanh xám, xanh xao) xoè bàn tay đón tia nắng mặt trời. Cành mít tuy vẫn còn (nhỏ nhoi, khẳng khiu, gầy guộc) nhưng đã ủ đầy nhựa sống, chẳng mấy lúc sẽ vươn lên cao hơn, mạnh hơn giữa khu vườn. Thân cây (trơn tru, sần sùi, xơ xác), thô ráp qua bao ngày nắng, ngày mưa. Lớp áo nâu
  • 88. 79 quanh thân, quanh cành cứ đậm dần, (nặng nề, cứng cáp, khô khốc) dần như chính niềm tự hào cứ lớn dần trong cây mít thủ lĩnh của mảnh vườn nhà bé. Bài tập 2: Chọn từ ngữ thích hợp để miêu tả từng người bạn ngộ nghĩnh trong tranh: (nhanh nhẹn, hiền lành, hòn tơ nhỏ, tròn xoe, trong veo, nhanh thoăn thoắt, nhỏ xíu, xinh xinh, mượt mà, cong cong, vàng óng, vàng mượt, hòn bi ve, khéo léo, ngơ ngác, nũng nịu, que tăm) Bài tập 3: Em hãy tìm hình ảnh so sánh để hoàn thành các câu sau: a) Những chiếc lá bàng mới bung nở trên cành trông như ................................ b) Sóc con thoăn thoắt trên cành chẳng khác nào một ....................................... c) Gà tơ có đôi chân xinh, cái mỏ chíp chiu và đôi mắt như ............................. Bài tập 4: Chọn từ thích hợp cho sẵn để điền vào chỗ chấm: Cái đầu to ..........bằng nắm tay người lớn, được điểm bởi cái mũi .......... với hai cái lỗ tai .......... màu hồng phấn. Bộ lông .........., cái đuôi ...........Buổi sáng, khi nắng vàng trải khắp sân, nó nằm duỗi dài bốn chân, mắt .......... trông thật đáng yêu. (Các từ cần điền: thính nhạy, tròn tròn, lim dim, duyên dáng, mượt mà, ươn ướt)  Bài tập viết câu Xuất phát từ những khảo nghiệm thực tiễn, có thể thấy trong tạo lập văn miêu tả, học sinh gặp khó khăn ngay với việc viết đúng câu (đúng ngữ pháp, chuyển tải được thông báo trọn vẹn - có ý nghĩa, đúng phong cách - văn nghệ thuật). Các bài tập một mặt rèn luyện kĩ năng viết đúng, mặt khác phát triển ở mức độ viết câu văn hay, có hình ảnh, có khả năng gửi gắm các thông điệp thẩm mĩ bằng cấu trúc linh hoạt hay bằng cách sắp xếp cấu trúc, trật tự từ...
  • 89. 80 Bài tập 1: Nối từ ngữ ở cột A với từ ngữ ở cột B để tạo thành các câu hoàn chỉnh tả Ve Sầu: A B Hè sang, tiếng hát Ve Sầu được dệt nên từ hàng ngàn tiếng ve ngân. Giọng chú bất chợt cất lên, đánh thức vòm phượng đang ngủ yên. Bản giao hưởng mùa hè vừa dịu êm lại vừa sôi nổi, vừa tươi mới lại vừa lắng sâu. Bài tập 2: Viết 3 câu có sử dụng biện pháp so sánh để tả: a) Cây phượng vĩ đang đơm hoa đỏ rực b) Cây phượng vĩ đang ra lá xanh non c) Cây phương vĩ đang mùa rụng lá Bài tập 3: Một bạn viết các câu văn tả các bộ phận của một chú chó con dưới đây, có một số câu dùng từ miêu tả chưa đúng. Em hãy chỉ ra các câu đó và sửa lại những từ cho phù hợp. “Mẹ em mới xin về một chú cún con, em đặt tên cho nó là Bảo Bảo .(1) Đầu chú chó nhẵn như quả đu đủ (2) . Thân chú to bằng chiêc gầu múc nước(3). Bộ lông vàng mịn thật đẹp (4) Bốn chân của chú khẳng khiu (5) . Mỗi khi có khách lạ, chú giơ hai chân trước lên và kêu ăng ẳng”.(6) Trả lời: (Đáp án mong đợi) Câu có từ sai Từ dùng sai Sửa lại (3) chiếc gầu múc nước bắp chân người lớn (5) khẳng khiu nhỏ nhắn (6) ăng ẳng gâu…gâu  Bài tập dựng đoạn Đoạn văn gồm nhiều câu được liên kết chặt chẽ cả về nội dung và hình thức (ý và lời). Khi viết đoạn cần đảm bảo được sự liên kết chặt chẽ trên cả hai phương diện đó. Ngoài ra, trong tổ chức dạy học tạo lập văn bản miêu tả, giáo viên còn cần phải lưu ý về các dạng cấu trúc đoạn (quy nạp, diễn dịch, tổng hợp hay trực tiếp - gián tiếp trong đoạn mở bài, mở rộng - không mở rộng trong đoạn kết bài...). Với dạng bài tập dựng đoạn, có thể thiết kế dựa vào mô hình khung câu, khung đoạn hay
  • 90. 81 bắt đầu “đặt hàng” cho người học bằng những gợi ý có khả năng kích thích hứng thú nhằm giúp học sinh có nhận thức đúng về cách tạo lập đoạn, sắp xếp ý hay tìm những lối biểu đạt khác nhau cho cùng một ý. Bài tập 1: Tre xanh, xanh tự bao giờ Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh... Viết một đoạn văn ngắn (4 - 6 câu) tả sắc xanh bát ngát của cây tre. Bài tập 2: Quanh em, mọi vật đều làm việc. Cái đồng hồ chăm chỉ, cẩn thận báo giờ; chiếc cặp, chiếc bút, quyển vở học bài cùng bé; cái đèn trò chuyện khi mẹ khâu áo, khi bố đọc báo bằng ánh sáng lấp lánh;... Bằng cách nói nhân hoá, hãy viết một đoạn văn nói về công dụng của một đồ vật quanh em. Bài tập 3: Hoàn thành đoạn văn tả hoạt động của con mèo mun: Mèo mun rất tinh nghịch. Chú thường ......(1)...... Mèo mun còn lăn tròn với những quả bóng đủ sắc màu: ......(2)...... Cũng có khi Mun ......(3)...... Thấy bé Mơ, cậu mèo bé lập tức ......(4)...... Bài tập 4: Sắp xếp các câu văn sau để tạo thành một đoạn văn miêu tả quả thanh trà. 1. Quả tròn nhẵn như cái đầu trọc của chú tiểu, hơi hóp một chút về phía cuốn, da xanh bóng bắt đầu ửng vàng. 2. Tháng bảy, những quả thanh trà Nguyệt Biều xứ Huế lủng lẳng trên cành như mời gọi. 3. Vị thanh trà ngọt dịu dàng như cô nàng xứ Huế,càng ăn càng say như cứ bắt miệng để ăn mãi và cũng để mời gọi du khách thập phương đến đây thưởng thức vị quả thanh tao này. 4. Mẹ thường cắt lớp vỏ ngoài để tách lấy phần ruột bên trong. Những múi thanh trà căng chắc hứa hẹn. Bóc lớp vỏ bọc của từng múi là thấy ngay trăm ngàn tép thanh trà được nén chặt ngoan ngoãn nằm sát nhau, trắng ngà, bóng mẩy và mọng nước. Trả lời: (Đáp án mong đợi: Sắp xếp theo trình tự 2 - 1 - 4 - 3) Ngoài ra, GV có thể xây dựng một số kiểu đề bài sáng tạo để kích thích sự tò mò và hứng thú khám phá, chiếm lĩnh tri thức của học sinh (Xem phụ lục 5). Mỗi nhóm bài tập, mỗi tiểu dạng bài tập đều được tính toán thiết kế dựa vào tính hướng đích cụ thể, nhằm giải quyết những mâu thuẫn nhất định trong quá trình
  • 91. 82 hình thành tư tưởng (ý), tìm kiếm ngôn từ để biểu đạt. Chẳng hạn, bài tập 2 trong phần bài tập dựng đoạn nêu trên đem đến những gợi ý về “mọi vật quanh em” qua cái nhìn mang màu sắc nhân hoá để học sinh nắm được cách thức viết đoạn văn với biện pháp nghệ thuật này (dùng những từ chỉ đặc điểm, tính cách con người [chăm chỉ, cẩn thận]; chỉ những hoạt động tương tác với con người [học bài, trò chuyện]). Trong khi đó, cấu trúc bài tập dưới dạng khung câu, khung đoạn như bài tập 3,4 lại đặt người học vào những tình huống cụ thể, nói cách khác sẽ quy định cách triển khai ý trong đoạn để đảm bảo tính chặt chẽ, sự liên kết cả hình thức lẫn nội dung. Bên cạnh các cách cấu trúc bài tập nêu trên, chúng tôi cũng giới thiệu một số trò chơi học tập nhằm góp phần tạo nên những không gian học tập thoải mái, hứng thú trong tạo lập văn bản miêu tả ở lớp 4. Trò chơi học tập luôn là công cụ, phương tiện dạy học gợi nhiều hứng khởi. Nếu GV đề xuất các trò chơi học tập một cách thường xuyên, khoa học trong quá trình dạy học thì chất lượng tạo lập văn bản miêu tả chắc chắn sẽ được cải thiện so với bối cảnh hiện nay. Trò chơi cần phải có tính mới về hình thức, những biến chuyển linh hoạt trong ngữ liệu, phương tiện hỗ trợ...  Trò chơi “Hỏi nhanh, đáp gọn” (hỗ trợ phát triển NL sử dụng từ ngữ) Cách chơi: Các đội chơi (4 đội) lần lượt mở ô cửa bí mật, mỗi ô cửa sẽ chứa hình ảnh một con vật. GV đặt nhanh câu hỏi, từng đội chơi nối tiếp trả lời bằng 1 từ (hoặc tổ hợp từ) thoả mãn yêu cầu. M: Con gà trống H: Hình dáng chú gà trống thế nào? TL (đáp án mong đợi): oai vệ, mạnh mẽ, chắc nịch, to lớn,...  Trò chơi “Hãy tiếp lời tôi” (hỗ trợ phát triển năng lực cấu trúc câu) Cách chơi: GV nêu một phần của câu gắn với một đồ vật (chiếu trên màn hình, khuyến khích tăng cường sử dụng hình ảnh động ngộ nghĩnh), chỉ định học sinh bất kì tiếp lời để nối tiếp hoàn thành câu văn miêu tả. Việc hoàn thành câu có thể gắn với yêu cầu sử dụng từ láy hoặc hình ảnh so sánh, nhân hoá... M: Chiếc bút chì (dùng hình ảnh so sánh hoặc nhân hoá) GV: Thân bút có màu xanh...  HS (đáp án mong đợi): như sắc màu của bầu trời mùa thu. / như màu lá mạ. / tựa mặt nước hồ mùa xuân. GV: Ngòi bút nhỏ xinh...  HS (đáp án mong đợi): đang chờ đợi bàn tay ngoan của bé. / trò chuyện với trang giấy trắng thơm bằng những nét vẽ đáng yêu...
  • 92. 83 Trò chơi “Chọn ô số” để viết câu văn tương ứng với hình vẽ trên ô số đó (hỗ trợ năng lực viết câu) 1 2 3 4 5 5 7 8 9 Cách chơi: HS chọn bất kì một ô nào đó, rồi đặt một câu văn tương ứng cho sự vật có trên ở đó (ưu tiên những HS xung phong).  Trò chơi “Thi đố bạn” (hỗ trợ năng lực viết đoạn văn) Đoạn văn tổ 1 Em yêu quý các bàn học này lắm bởi ngày nào nó cũng cùng em học tập miệt mài. Áp má lên mặt bàn, em nghe mát rượi như có ngọn gió nào thổi từ khu rừng xa xưa nơi cây gỗ này sinh sống. Em tưởng như nghe được lời gió thì thầm nhắc nhở: “Cô chủ nhỏ ơi, cố gắng lên! Chúng tôi tin tưởng nhiều ở cô đấy nhé!” Đoạn văn tổ 2 Hoa phượng đẹp giản dị mà tươi tắn. Hoa đậu thành chùm. Lúc đầu là những nụ hoa mập ú như những viên kẹo bột. Những cành hoa chen chúc ôm sát nhau đã chòi ra đầu nụ. Bấy giờ nụ hoa khẽ tách làm năm múi đều nhau nở ra cong xuống thành đài hoa. Rồi thì hoa đàng hoàng khoe từng cánh một. Mỗi cánh hoa có hình giống như chiếc vá múc canh tí xíu, cán dài và nhỏ. Bốn cánh màu đỏ, mỏng và mịn, cánh thứ năm lại dày hơn và điểm nhiều chấm đỏ trên mặt cánh hoa màu vàng kem. Mấy sợi nhị hoa cong cong như lưỡi câu, có túi phấn bé tẹo trên đầu điểm thêm cho hoa phượng một nét duyên đáo để. Hoa rụng, đem ép vào vở mấy cánh hoa và nhị xếp thành hình con bướm rất đẹp.
  • 93. 84 Cách chơi: Lớp chia thành 2 nhóm, mỗi nhóm chuẩn bị một đoạn văn miêu tả (cây cối, con vật hay đồ vật), trong đó có sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ. Tổ 1 đọc đoạn văn của tổ mình lên (viết sẵn trong bảng phụ để treo lên bảng lớp) yêu cầu tổ 2 nêu các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ có trong đoạn văn, nêu tác dụng của nó. Tổ 2 làm tương tự ngược lại với tổ 1. Đội nào nói đúng, nhanh sẽ thắng cuộc. Theo quan điểm dạy học tạo lập văn bản miêu tả, để giúp HS nắm rõ cách thức thực hiện và phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ, chúng tôi đã đề xuất xây dựng hệ thống bài tập và trò chơi học tập. Những công cụ dạy học này một mặt góp phần giải quyết những khó khăn của HS trong quá trình quan sát, sắp xếp ý, lựa chọn từ ngữ biểu đạt,... để biểu đạt tư tưởng, cảm xúc khi viết, duy trì cảm xúc chủ đạo của bài văn; mặt khác tạo hứng thú cho một hoạt động mang tính sáng tạo. Một số bài tập và trò chơi học tập nêu trên tuy chưa phản ảnh hết được những hướng thiết kế nhằm thoả mãn yêu cầu thực tiễn nhưng cũng phần nào khẳng định niềm tin, sự kì vọng về sự đầu tư đúng mức cho hoạt động dạy học, là nỗ lực về việc bồi dưỡng, rèn luyện tay nghề của người giáo viên tiểu học trong giai đoạn mới. Việc dạy học các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi văn miêu tả không những đảm bảo tính thông báo thông tin mà còn mang tính nghệ thuật, thẩm mỹ và biểu đạt tình cảm. Khi HS học những kiến thức về sử dụng biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong văn miêu tả, các em sẽ nhận thấy cái hay, cái đẹp chứa đựng trong từng cách nhân hóa, so sánh một sự vật. Từ đó, các em sẽ vận dụng vào trong viết văn để tạo lập nên những văn bản miêu tả đầy hấp dẫn, gợi cảm xúc
  • 94. 85 Tiểu kết chƣơng 2 Trong chương 2, chúng tôi đã xác định ba nguyên tắc đề xuất biện pháp phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4. Theo đó, có ba nhóm biện pháp GV cần vận dụng để dạy văn miêu tả nhằm phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4: 1. Phát triển kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong tạo lập văn bản 2. Phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu tả 3. Phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả Với hai nhóm biện pháp đầu, đề tài đã đưa ra những ví dụ tương ứng và vận dụng các biện pháp đó vào trong những tiết dạy cụ thể để rèn luyện kĩ năng quan sát, tìm ý và lập dàn ý, còn với nhóm biện pháp thứ ba, chúng tôi đã đi thiết kế các bài tập về tìm từ ngữ, ngữ pháp, viết câu, dựng đoạn và đặc biệt là tổ chức các trò chơi học tập nhằm hỗ trợ phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4. Những đề xuất này của chúng tôi sẽ được hiện thực hóa và kiểm chứng tính hiệu quả và tính khả thi qua việc thiết kế một số giáo án và hoạt động dạy thực nghiệm sẽ được trình bày cụ thể ở chương 3.
  • 95. 86 Chƣơng 3 THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 3.1. Mục đích thực nghiệm Chúng tôi tiến hành dạy học thực nghiệm với mục đích kiểm tra, đánh giá tính khả thi của các biện pháp nhằm phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4. Từ đó chứng minh cho những giả thuyết khoa học mà luận văn đã đề xuất. 3.2. Đối tƣợng và phạm vi thực nghiệm 3.2.1. Đối tượng thực nghiệm Đối tượng là học sinh khối lớp 4 ở hai trường mà chúng tôi đã lựa chọn. Mỗi trường chọn 2 lớp: Lớp thực nghiệm (LTN) và Lớp đối chứng (LĐC). Cả hai lớp này cần phải có sự cân bằng về mọi phương diện. Chỉ khác là Lớp thực nghiệm được dạy theo giáo án mà chúng tôi đã thiết kế còn Lớp đối chứng thì được dạy theo giáo án bình thường. 3.2.2. Phạm vi thực nghiệm Các trường được chọn thực nghiệm là trường Tiểu học Số 2 Kim Long - thành phố Huế và trường Tiểu học Phú Cát - thành phố Huế. Bảng 3.1. Các nhóm thực nghiệm và đối chứng Trƣờng Nhóm thực nghiệm Nhóm đối chứng Lớp Số HS Lớp Số HS Tiểu học Số 2 Kim Long 43 29 41 28 Tiểu học Phú Cát 41 33 42 31 3.3. Phƣơng pháp và nguyên tắc thực nghiệm 3.3.1. Phương pháp thực nghiệm Luận văn tiến hành thực nghiệm dạy học thăm dò bởi giáo án thực nghiệm được thiết kế theo hướng lồng ghép các biện pháp phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả đã đề xuất trong luận văn thông qua các tiết luyện tập thực hành trong chương trình văn miêu tả lớp 4, giáo án này được tiến hành song song với các giáo án bình thường, không xen lồng tất cả các biện phát phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả trong cùng một thời gian nhất định mà tùy vào nội dung của mỗi bài để lựa chọn một trong các biện pháp trên cho phù hợp.
  • 96. 87 3.3.2. Nguyên tắc thực nghiệm Đảm bảo chất lượng kiến thức một cách khoa học và khách quan. Để tiến hành thực nghiệm đạt hiệu quả, cần phải lựa chọn được lớp thực nghiệm và lớp đối chứng có sự đồng đều về số lượng và năng lực của HS. 3.4. Nội dung thực nghiệm 3.4.1. Thời gian thực nghiệm Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 5 năm 2017. 3.4.2.Giáo án thực nghiệm Tổ chức dạy học một số bài trong chương trình văn miêu tả lớp 4 để ứng dụng một số biện pháp mà chúng tôi đã đề xuất trong luận văn nhằm phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4. Những giáo án được soạn tương ứng với từng tiết dạy và đều do GV các trường soạn theo định hướng của đề tài. Tuy nhiên, khi thiết kế và biên soạn giáo án thực nghiệm thì người soạn cũng cần tính đến khả năng vận dụng sáng tạo của GV trong tiến trình tiết dạy, đồng thời cũng chuẩn bị tâm thế cho những tình huống sư phạm bất ngờ cũng như việc biên soạn phải phù hợp với khả năng tiếp thu và trình độ nhận thức của HS từng trường, từng lớp cụ thể. Sau khi thiết kế xong giáo án, chúng tôi tổ chức dạy thử nhằm phát hiện những điểm chưa hợp lí để điều chỉnh và bổ sung cho hoàn thiện trước khi chính thức tiến hành dạy trên lớp thực nghiệm đã chọn. Cũng cần phải lưu ý rằng khi soạn giáo án thực nghiệm, người biên soạn phải chỉ ra được những nét mới trong giáo án thực nghiệm so với giáo án không thực nghiệm. Giáo án thực nghiệm đó phải được thiết kế xen lồng các biện pháp rèn luyện nhằm phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 mà luận văn đã đề cập. Kiểu bài văn miêu tả cho HS được học ở lớp 4 với ba dạng thức (đồ vật, con vật, cây cối). Mỗi dạng thức như thế, chúng tôi chọn một bài dạy thực nghiệm để chứng minh cho những giả thuyết mà luận văn đã đề cập. Theo đó mà có 3 tiết học đã được tiến hành dạy thực nghiệm. Bảng 3.2. Các bài dạy thực nghiệm Tuần Bài học Tuần 15 Tập làm văn: Quan sát đồ vật (Tiết 2, SGK TV tập 1 trang 153) Tuần 24 Tập làm văn: Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối (Tiết 1, SGK TV tập 2 trang 60) Tuần 32 Tập làm văn: Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật (Tiết 1, SGK TV tập 2 trang 139)
  • 97. 88 3.4.3. Tiến hành thực nghiệm Trong cùng một tiết dạy của một bài học đó, ở các lớp thực nghiệm chúng tôi tiến hành dạy học thực nghiệm theo các giáo án đã thiết kế, còn ở các lớp đối chứng GV tiến hành dạy học bình thường. Ở đây chúng tôi xin trích dẫn hai giáo án thực nghiệm (Xem phụ lục 6). 3.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả thực nghiệm 3.5.1. Hình thức kiểm tra Sau khi tiến hành dạy học thực nghiệm chúng tôi đánh giá bằng cách ra các đề kiểm tra cho HS thực nghiệm trên lớp, cùng với đó là tiến hành trắc nghiệm khách quan để đánh giá mức độ hứng thú của HS khi được tổ chức cách thức rèn luyện và phát triển các kĩ năng trong tạo lập văn bản miêu tả qua các bài luyện tập thực hành trong chương trình văn miêu tả lớp 4. Đề kiểm tra tự luận yêu cầu HS viết một bài văn miêu tả (HS được chọn 1 trong 2 đề bài) (Xem phụ lục 7). Phần trắc nghiệm là 1 câu hỏi trắc nghiệm nhằm đánh giá sự hứng thú của học sinh (Xem phụ lục 8). 3.5.2. Tiêu chí đánh giá - Bài văn đạt điểm giỏi là những bài văn phải có bố cục rõ ràng thể hiện dàn ý gồm ba phần (mở bài, thân bài, kết bài); phần thân bài cần gồm nhiều đoạn ý; mỗi đoạn ý thể hiện một chi tiết về đối tượng miêu tả, trong đoạn gồm có những thông tin cốt lõi, tiêu biểu về đối tượng được kết nối bằng sự mô tả, phân tích, suy luận hoặc bộc lộ cảm xúc của cá nhân. Kĩ năng viết chữ và trình bày bài khoa học, có kĩ năng chính tả; có kĩ năng sử dụng từ, đặt câu phù hợp và đặc biệt là kĩ năng sử dụng một cách có hiệu quả các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong khi viết bài văn miêu tả mang đậm dấu ấn cá nhân. - Bài văn đạt điểm khá là bài văn có bố cục rõ ràng gồm ba phần (mở bài, thân bài, kết bài); kĩ năng viết chữ và trình bày bài văn khá sạch sẽ; không mắc lỗi chính tả, biết dùng từ và đặt câu; có sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong viết văn nhưng hiệu quả mang lại là bài viết chưa sinh động và gợi tả lắm. - Bài văn đạt điểm trung bình là những bài văn có bố cục gồm ba phần (mở bài, thân bài, kết bài) nhưng cách diễn đạt lủng củng; còn mắc lỗi chính tả, kĩ năng dùng từ và đặt câu còn kém; chưa biết sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong viết văn hoặc có sử dụng nhưng chưa phù hợp.
  • 98. 89 - Bài văn đạt điểm dưới trung bình là những bài văn có bố cục không rõ ràng (không thể hiện đầy đủ ba phần là mở bài, thân bài, kết bài); không miêu tả đúng đối tượng mà đề bài yêu cầu (lạc đề); còn mắc nhiều lỗi chính tả, kĩ năng dùng từ và đặt câu sai, diễn đạt bài văn lủng củng và chưa biết sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong khi viết bài văn miêu tả. 3.5.3.Kết quả thực nghiệm sư phạm 3.5.3.1. Kết quả bài làm văn miêu tả của HS Bảng 3.3. Kết quả làm bài văn miêu tả của HS trƣờng Tiểu học Số 2 Kim Long Lớp Hình thức Số HS Kết quả Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 43 Thực nghiệm 29 8 27,6 14 48,3 6 20,7 1 3,5 41 Đối chứng 28 5 17,9 9 32,1 11 39,3 3 10,7 Bảng 3.4. Kết quả làm bài văn miêu tả của HS trƣờng Tiểu học Phú Cát Lớp Đối tƣợng Số HS Kết quả Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 41 Thực nghiệm 33 9 27,3 16 48,5 7 21,2 1 3 42 Đối chứng 31 5 16,1 9 29 15 48,4 2 6,5 Bảng 3.5. Kết quả tổng hợp bài làm văn miêu tả của HS Đối tƣợng TSHS Kết quả Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % Thực nghiệm 62 17 27,4 30 48,4 13 21 2 3,2 Đối chứng 59 10 16,9 18 30,5 26 44,1 5 8,5
  • 99. 90 Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh kết quả lớp đối chứng và lớp thực nghiệm (theo Số lƣợng) Biểu đồ 3.2. Biểu đồ so sánh kết quả lớp đối chứng và lớp thực nghiệm (theo Tỉ lệ) Qua biểu đồ so sánh kết bài văn miêu tả của HS lớp giữa LTN và LĐC, chúng tôi nhận thấy rằng: tỉ lệ HS đạt điểm giỏi, khá ở LTN nhiều hơn (G: 27,4%, K: 48,4%) so với LĐC (G: 16,9%, K: 30,5%). Ngược lại, ở LTN HS có điểm kém (3,2%) thấp hơn nhiều so với LĐC (8,5%). Biểu đồ cho thấy rõ sự chênh lệch về hai mức độ bài văn đạt điểm giỏi và yếu giữa hai lớp thực nghiệm và đối chứng. Ở các LĐC, đa số kết quả bài làm của các em nằm ở mức độ trung bình, khá chiếm tỉ lệ khá cao (TB: 41,1%, K: 30,5%). Điểm giỏi khoảng cách là 10,5%, điểm yếu khoảng cách là 5,3%), còn tỉ lệ đạt điểm giỏi chỉ 16,9%, thấp hơn lớp đối chứng đến 10,5%.
  • 100. 91 Ở LTN thì đa số bài làm các em nằm ở khung Giỏi, Khá (chiếm 75,8%), còn một số bài đạt mức Trung Bình, Yếu (24,2%). Căn cứ vào kết quả điểm số bài làm của HS giữa hai lớp nhóm thực nghiệm và lớp đối chứng, chúng tôi rút ra một số nguyên nhân như sau: - Ở lớp đối chứng, các em viết bài văn bố cục chưa rõ ràng, chưa làm nổi bật được đối tượng miêu tả, viết câu không đủ thành phần, sắp xếp ý lủng củng, còn lúng túng trong cách diễn đạt, đặc biệt chưa sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong viết văn miêu tả, có một số rất ít học sinh có sử dụng nhưng chưa mang lại hiệu quả, khiến cho bài văn trở nên khô khan, các ý rời rạc, thiếu sự liên kết làm cho tổng thể bài văn kém hay, làm mất đi tính sinh động, mượt mà vốn có của bài văn miêu tả. - Ở các lớp thực nghiệm, hầu hết các bài viết của các em đều có bố cục rõ ràng, làm bật lên các đối tượng miêu tả. Đặc biệt rất nhiều HS đã sử dụng và sử dụng rất thành công các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong viết văn miêu tả mang lại hiệu quả bài viết sinh động, hấp dẫn. Với sự giúp đỡ hướng dẫn HS cách vận dụng tất cả các giác quan trong quan sát, tri giác đối tượng miêu tả, cách thức tổ chức lập dàn ý rồi cả vận dụng các phương tiện ngôn ngữ và các biện pháp tu từ trong viết câu, dựng đoạn, cộng với sự tư duy nhạy bén trong suy nghĩ, sự liên tưởng, tưởng tượng độc đáo và cách cảm cái hay cái đẹp trong văn chương ..., nhờ đó mà chúng tôi thấy rất nhiều bài viết của HS đã thể hiện cái nhìn rất riêng của các em, các em đã tái hiện lại các đối tượng miêu tả trước mắt chúng tôi một cách đầy lôi cuốn, hấp dẫn hơn và với sự liên tưởng, tưởng tượng đầy thi vị đó khiến cho các sự vật dù nhỏ nhất nhưng qua ngòi bút của các em thì thú vị biết bao. Đặc biệt ngôn ngữ HS sử dụng cũng giàu hình ảnh và cảm xúc hơn, kĩ năng viết câu dựng đoạn thành thạo hơn, kĩ năng hành văn được nâng cao hơn trước. Nhờ thành thạo các kĩ năng trên nên các em đã tạo lập nên những văn bản miêu tả hay, hấp dẫn. Chính vì thế mà HS ở lớp thực nghiệm đạt điểm số cao hơn. Sau đây chúng tôi xin trích dẫn một số bài văn hay của HS mà chúng tôi thu nhận được sau khi kiểm tra thực nghiệm:
  • 101. 92 (Bài làm của em Nguyễn Thị Lan Anh lớp 4/1 Trường Tiểu học Phú Cát)
  • 102. 93 (Bài làm của em Trần Hữu Duy Hoàng lớp 4/3 Trường Tiểu học Số 2 Kim Long)
  • 103. 94 3.5.3.2. Kết quả trắc nghiệm về mức độ hứng thú học tập của HS Bảng 3.6. Bảng thống kê mức độ hứng thú học tập của HS Trƣờng Lớp Hình thức Số HS Mức độ hứng thú học tập Rất hứng thú Tƣơng đối hứng thú Bình thƣờng Không hứng thú SL % SL % SL % SL % Tiểu học Số 2 Kim Long 43 TN 29 15 51,7 11 37,9 2 6,9 1 3,4 41 ĐC 28 8 28,6 10 35,7 7 25 3 10,7 Tiếu học Phú Cát 41 TN 33 17 51,5 12 36,4 2 6,1 2 6,1 42 ĐC 31 7 22,6 9 29 11 35,5 4 12,9 Tống hợp TN 62 32 51,6 23 37,1 4 6,5 3 4,8 ĐC 59 15 25,4 19 32,2 18 30,5 7 11,9 Kết quả thống kê trên cho thấy, đa số HS cảm thấy rất hứng thú và hứng thú với các tiết dạy thực nghiệm và chiếm tỉ lệ tương đối cao (chiếm đến 51,6%). Nhờ nắm vững các kĩ năng quan sát, tìm ý và lập dàn ý rồi vận dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ để tạo lập văn bản miêu tả nên HS không còn thấy băn khoăn, bối rối khi viết bài văn miêu tả nữa mà ngược lại HS bắt đầu hứng thú khi học tập làm văn. Tuy nhiên vẫn còn một số ít HS không hứng thú, chiếm tỉ lệ thấp (4,8%). Trong khi đó, ở các lớp đối chứng, HS không cảm thấy hứng thú và cho rằng tiết dạy bình thường có số lượng tương đối lớn (7HS), chiếm tới ( 11,9%), còn tỉ lệ HS rất hứng thú và tương đối hứng thú cũng có nhưng chưa nhiều ( rất hứng thú là 15 HS chiếm 25,4%, tương đối hứng thú là 19 HS chiếm 32,2%) và vẫn còn thấp hơn so với lớp dạy học thực nghiệm ( rất hứng thú và hứng thú là 55HS, chiếm 88,7%). Cùng với đó chính là trong quá trình soạn thảo giáo án thực nghiệm, các GV đã lồng ghép nhiều bài tập củng cố rồi nâng cao hay, hấp dẫn khiến HS rất tò mò, thích thú, đặc biệt là GV còn đưa ra các trò chơi tìm hiểu các kiến thức về thế giới xung quanh liên quan đến nội dung bài học làm cho HS rất phấn khởi, tích cực hơn, tiết học sôi nổi hẳn lên không còn vẻ mệt mỏi, buồn ngủ như khi học các tiết làm văn trước. Đồng thời trong quá trình lên lớp thực hiện dạy thực nghiệm, GV cũng lựa chọn và sử dụng phối hợp nhiều phương pháp và hình thức dạy học tích cực hỗ
  • 104. 95 trợ dạy học tạo lập văn miêu tả. Nhờ vậy mà bài làm văn miêu tả của HS được cải thiện hơn, chất lượng bài viết và điểm số cao hơn trước, HS đam mê học tập làm văn hơn và nhận thấy được cuộc sống xung quanh thật muôn màu, muôn vẻ và tươi đẹp biết bao. Tiểu kết chƣơng 3 Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệp sư phạm một cách khoa học, tự nhiên và khách quan. Kết quả thực nghiệm cho thấy có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực giữa LĐC và LTN. Học sinh hứng thú, chủ động và sáng tạo trong học tập, còn GV thì tổ chức giờ học một cách nhẹ nhàng hơn; vì thế mà giờ học trở nên sinh động, lôi cuốn và hiệu quả. GV tham gia thực nghiệm cũng đánh giá khá cao các biện pháp phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả mà luận văn đã đề xuất. Kết quả thực nghiệm đã chứng minh các biện pháp đề xuất trong luận văn nhằm phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 là có tính khả thi và bước đầu cho thấy tính hiệu quả.
  • 105. 96 KẾT LUẬN Trong các môn học ở nhà trường tiểu học, môn Tiếng Việt là môn học giúp học sinh phát triển khả năng ngôn ngữ nhiều nhất. Ngôn ngữ là công cụ vàng, vạn năng , có vai trò đặc biệt quan trọng trong các hoạt động học tập và giao tiếp đời sống. Tuy nhiên, học sinh trong các nhà trường hiện nay chỉ mới được chú ý dạy nói và viết đúng chứ chưa được chú trọng dạy nói và viết hay, cuốn hút mọi người. Trong khi đó phân môn Tập làm văn mà cụ thể là thể loại văn miêu tả rất cần thiết trong cuộc sống hằng ngày của mỗi chúng ta, nhờ văn miêu tả các em thể hiện được nét vẽ hoặc viết câu văn chân tướng sự việc một cách độc đáo. Không những thế các em còn được thể hiện cái nhìn nhận, sự rung động của bản thân trước các sự vật hiện tượng xung quanh và các em càng được thoả mãn khả năng sáng tạo, “tô điểm” cho bức tranh muôn màu của cuộc sống bằng chất liệu ngôn từ... Nhưng thực sự chúng ta đã bỏ lỡ một miền đất ngôn ngữ màu mỡ cho sự phát triển tư duy và năng lực liên tưởng sáng tạo của trẻ. Do đó để làm được điều này thì cần có sự hỗ trợ của giáo viên. Thực tế dạy học tập làm văn miêu tả cho HS hiện nay cho thấy chất lượng bài viết của HS chưa cao, ít có bài văn mang đậm dấu ấn cá nhân, đa số đều dựa vào sự bắt chước câu, từ của giáo viên hay là sự sao chép văn mẫu nên bài viết của học sinh mang tính rập khuôn, bắt chước. Có chăng thì cũng có một số bài viết hay nhưng còn rất hạn chế bởi các em còn thiếu vắng các kĩ năng tạo lập văn bản miêu tả cần thiết như quan sát trải nghiệm sáng ta; chọn ý và lập dàn ý chi tiết cho bài văn; viết câu, dựng đoạn văn, bài văn cụ thể; rồi cả sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và các biện pháp tu từ , tích lũy vốn từ ngữ, kiến thức qua các phân môn khác của Tiếng việt mà GV cần rèn luyện cho HS trong quá trình dạy học tạo lập văn bản miêu tả. Vì thế mà luận văn hướng đến rèn luyện các kĩ năng cần thiết này khi dạy văn miêu tả cho HS lớp 4. Đối chiếu với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trong phần mở đầu, về cơ bản luận văn đã hoàn thành các vấn đề sau: 1. Luận văn đã xác định được cơ sơ lí luận, nghiên cứu và phân tích thực trạng dạy học tạo lập văn bản miêu tả lớp 4 hiện nay từ góc độ rèn luyện các kĩ năng quan sát trải nghiệm sáng tạo; chọn ý và lập dàn ý; vận dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong viết văn miêu tả để làm nền tảng, cơ sở vững chắc cho việc đề xuất các biện pháp phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4.
  • 106. 97 2. Luận văn đã đưa ra ba nhóm biện pháp, với mỗi biện pháp như vậy chúng tôi đã trình bày đặc điểm và cách thức tổ chức thực hiện cụ thể nhằm hỗ trợ phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4. Theo đó, luận văn đề xuất ba nhóm biện pháp sau: - Biện pháp phát triển kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong tạo lập văn bản - Biện pháp phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu tả - Biện pháp phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả 3. Các biện pháp trên đã được tổ chức dạy học thực nghiệm tại các trường Tiểu học trên địa bàn thành phố Huế. Kết quả thu được là bài viết của HS được nâng lên, có nhiều bài văn hay, nhiều bài văn đã vận dụng và vận dụng có hiệu quả các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong viết bài văn miêu tả, số lượng bài văn đạt điểm khá, giỏi cao hơn trước, ít có bài văn điểm kém, còn HS thì hứng thú hơn với các tiết học Tập làm văn miêu tả, GV thì truyền tải kiến thức một cách nhẹ nhàng, tất cả làm cho tiết học Tập làm văn miêu tả trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết. Kết quả này cho thấy tính khả thi và tính hiệu quả của các biện pháp mà luận văn đã đề xuất. Tuy nhiên để việc rèn luyện các kĩ năng hỗ trợ phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 mà luận văn đã nói trên đạt kết quả cao thì đòi hỏi người GV không chỉ áp dụng các biện pháp thường xuyên và có mục đích vào trong từng bài dạy cụ thể mà còn phải chú ý đến trình độ nhận thức của HS từng lớp, trường cụ thể để vận dụng cho phù hợp, sáng tạo và hiệu quả. Mặt khác, GV cũng thường xuyên phân tích, bình giảng và hướng dẫn cho HS cảm thụ các đoạn văn, bài văn miêu tả hay để bồi dưỡng tâm hồn và sự tư duy nhạy cảm trước cuộc sống cho các em. Rồi cả việc cần thiết phải xây dựng, thiết kế những bài tập từ gợi ý khám phá, tiếp cận và lĩnh hội kiến thức đến luyện tập - thực hành và đặc biệt là các trò chơi học tập lôi cuốn để các em từng bước rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản miêu tả. Cũng phải kể đến khâu chấm bài và sửa lỗi – một khâu quan trọng trong dạy tạo lập văn bản miêu tả mà lâu nay GV chưa thật sự chú trọng lắm. Chấm bài thì GV cần tỉ mĩ, phân loại học sinh để có hướng giúp đỡ kịp thời, còn sửa bài thì trong các tiết trả bài viết GV cần xây dựng nhiều bài tập sửa lỗi dùng từ, viết câu, dựng đoạn và
  • 107. 98 cũng có thể sử dụng các trò chơi như Tuyển chọn biên tập viên mà ở trên chúng tôi có đề cập để các em tự chửa lỗi cho bài viết của mình thì các em sẽ ghi nhớ hơn, khơi gợi cho HS nhiều cách viết, cách diễn đạt sinh động, gợi tả hơn và cách tổ chức dạy học như vậy cũng làm cho không khí lớp học trở nên sôi nổi hơn, HS học tập tích cực hơn, mang lại hiệu quả học tập cao. Chúng ta biết rằng, tâm lí chung của HS tiểu học là thích tìm hiểu khám phá về thế giới xung quanh để nhận lấy những hình ảnh về đồ vật, con vật và cây cối vốn rất giản dị, gần gũi và quen thân trong cuộc sống. Vậy tại sao GV không tổ chức cho HS các buổi tham quan dã ngoại hay lớp học ngoài trời? Vâng, cần tạo ra môi trường học tập tích cực, hấp dẫn và lôi cuốn HS bằng cách cho các em được tận mắt nhìn, tay sờ, tai nghe, mũi ngửi... về các sự vật hiện tượng, về các âm thanh, về các mùi hương,... trong hiện thực của cuộc sống xung quanh với những lớp học trải nghiệm ngoài trời, với những chuyến tham quan dã ngoại chứ không phải cứ cứng nhắc trong bốn bức tường phòng học mà lâu nay chúng ta vẫn làm. Chúng tôi tin rằng với cách học và môi trường học tập thế này thì mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống xung quanh sẽ hiện lên qua lăng kính trong trẻo của các em rất bất ngờ và đầy lí thú. Ngoài ra, cuộc sống hiện nay với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, GV nên tận dụng điều này vào trong dạy học nhằm bù đắp những thiếu sót về sự trải nghiệm cuộc sống của một bộ phận HS thành thị bằng các tranh ảnh, những băng hình động, các video về các sự vật hiện tượng xung quanh, rồi cả các phần mềm thiết kế trò chơi học tập hấp dãn, lí thú hay các phần mềm thiết kế bài giảng điện tử phục vụ dạy học công nghệ,... Tuy nhiên GV cần sử dụng hợp lí và tránh lạm dụng để phát huy tối đa giá trị của chúng trong hỗ trợ dạy tạo lập văn bản miêu tả. Nếu sử dụng đúng lúc và phù hợp với nội dung bài học thì sẽ mang lại hiệu quả cao trong dạy - học tạo lập văn bản miêu tả, HS sẽ có cái nhìn nhận thế giới xung quanh một cách đầy đủ và sâu sắc hơn, từ đó vận dụng vào bài viết của mình để tạo lập nên những văn bản miêu tả hay, mượt mà và cuốn hút. Tạo lập văn bản nói chung và văn miêu tả nói riêng là một năng lực thể hiện, đòi hỏi cao sự sáng tạo của người học; là sự cộng hưởng, kết tinh của các năng lực học tập khác. Để phát triển năng lực tạo lập văn bản bên cạnh việc chú trọng phát triển các kĩ năng cụ thể GV cũng cần đặt năng lực này bên cạnh các năng lực khác để nâng cao hiệu quả dạy học, tạo nên sự phát triển hài hòa, toàn diện cho HS.
  • 108. 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban chấp hành Trung ương (2013), Nghị quyết Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam, (số 29-NQ/TW). 2. Ban chấp hành Trung ương (2014), Nghị quyết về Đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông, (số 88/2014/QH13). 3. Đào Duy Anh (1998), Từ điển Hán_Việt, NXB KHXH Hà Nội. 4. Đinh Quang Báo (2013), Mục tiêu và chuẩn trong Chương trình giáo dục phổ thông sau 2015 (Dự thảo), Tài liệu sử dụng nội bộ. 5. Hoàng Hòa Bình (2002), Dạy văn cho học sinh tiểu học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 6. Hoàng Hòa Bình - Nguyễn Minh Thuyết (2012), Phương pháp dạy học Tiếng Việt nhìn từ tiểu học, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 7. Nguyễn Thị Hạnh (2004), Một số vấn đề về đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt ở tiểu học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 8. Trần Mạnh Hưởng - Lê Hữu Tỉnh (2008), Giải đáp 188 câu hỏi về giảng dạy môn Tiếng Việt ở tiểu học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 9. Tô Hoài (1997), Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả, NXB Giáo dục, Hà Nội. 10. Đinh Trọng Lạc (2003), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội. 11. Hoàng Thị Mai (chủ biên) - Lê Thị Lan Anh - Nguyễn Văn Đông - Mai Hảo Yến (2009), Rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh tiểu học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 12. Vũ Tú Nam - Phạm Hổ - Bùi Hiển - Nguyễn Quang Sáng (2002), Văn miêu tả và kể chuyện, NXB Giáo dục, Hà Nội. 13. Lê Phương Nga (2006), Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học II, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 14. Lê Phương Nga (2009), Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở tiểu học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 15. Lê Phương Nga (2015), 35 đề ôn luyện Tiếng Việt 4, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 16. Lê Phương Nga, Lê Hữu Tỉnh (2004) , Tiếng Việt nâng cao 3, NXB Giáo dục, Hà Nội
  • 109. 100 17. Lê Phương Nga, Lê Hữu Tỉnh (2005) , Tiếng Việt nâng cao 4, NXB Giáo dục, Hà Nội 18. Lê Phương Nga, Lê Hữu Tỉnh (2006) , Tiếng Việt nâng cao 5, NXB Giáo dục, Hà Nội 19. Đào Ngọc - Nguyễn Quang Ninh (1993), Rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội. 20. Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 21. Hoàng Thị Tuyết (2012 ), Lí luận dạy học tiếng Việt ở tiểu học, NXB Thời đại, TP Hồ Chí Minh. 22. Đỗ Ngọc Thống - Phạm Minh Diệu (2008), Văn miêu tả ở nhà trường phổ thông, NXB Giáo dục, Hà Nội. 23. Đỗ Ngọc Thống (2013), “Dạy học Ngữ văn trong nhà trường Việt Nam - hiện trạng, hướng phát triển và những vấn đề liên quan”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, (1196), (9-32). 24. Đỗ Ngọc Thống (2011), “Xây dựng chương trình giáo dục phổ thông theo hướng tiếp cận năng lực”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, (68). 25. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) (2002), Tiếng Việt 4, NXB Giáo dục, Hà Nội. 26. Nguyễn Minh Thuyết (2006), Hỏi - đáp về dạy học Tiếng Việt 4, NXB Giáo dục, Hà Nội. 27. Nguyễn Minh Thuyết (2013), “Một số vấn đề về đánh giá chương trình, SGK Ngữ văn hiện hành và đề xuất định hướng biên soạn chương trình, SGK mới”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, (1196), (35-48). 28. Nguyễn Minh Thuyết (2014), “Về mô hình sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học tương lai”, Kỉ yếu Hội thảo dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh. 29. Nguyễn Trí (2007), Văn miêu tả và phương pháp dạy học văn miêu tả ở tiểu học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 30. Bùi Thanh Truyền, Trần Thị Quỳnh Nga (2012), Học và thực hành theo chuẩn kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt 4, NXB Giáo dục, Hà Nội. 31. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 2, NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội.
  • 111. P1 PHỤ LỤC 1 Bảng 1.1. Chƣơng trình văn miêu tả ở lớp 4 Tuần CHỦ ĐIỂM NỘI DUNG 14 Tiếng sáo diều Thế nào là miêu tả 14 Tiếng sáo diều Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật 15 Tiếng sáo diều Luyện tập miêu tả đồ vật 15 Tiếng sáo diều Quan sát đồ vật 16 Tiếng sáo diều Luyện tập miêu tả đồ vật 17 Tiếng sáo diều Đoạn văn trong bài miêu tả đồ vật 17 Tiếng sáo diều Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả đồ vật 19 Người ta là hoa đất Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả đồ vật 19 Người ta là hoa đất Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu tả đồ vật 20 Người ta là hoa đất Miêu tả đồ vật (Kiểm tra viết) 21 Người ta là hoa đất Trả bài văn miêu tả đồ vật 21 Người ta là hoa đất Cấu tạo bài văn miêu tả cây cối 22 Vẻ đẹp muôn màu Luyện tập quan sát cây cối 22 Vẻ đẹp muôn màu Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối 23 Vẻ đẹp muôn màu Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối 23 Vẻ đẹp muôn màu Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối 24 Vẻ đẹp muôn màu Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối 25 Những người quả cảm Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả cây cối 26 Những người quả cảm Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu tả cây cối 26 Những người quả cảm Luyện tập miêu tả cây cối
  • 112. P2 Tuần CHỦ ĐIỂM NỘI DUNG 27 Những người quả cảm Miêu tả cây cối (Kiểm tra viết) 27 Những người quả cảm Trả bài văn miêu tả cây cối 29 Khám phá thế giới Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật 30 Khám phá thế giới Luyện tập quan sát con vật 31 Khám phá thế giới Luyện tập miêu tả các bộ phận của con vật 31 Khám phá thế giới Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật 32 Tình yêu cuộc sống Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật 32 Tình yêu cuộc sống Luyện tập xây dựng mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả con vật 33 Tình yêu cuộc sống Miêu tả con vật (Kiểm tra viết) 34 Tình yêu cuộc sống Trả bài văn miêu tả con vật Bảng 1.2. Nội dung phép tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3 Tuần Chủ điểm Nội dung 1 Măng non Làm quen với phép tu từ so sánh 3 Mái ấm - Tìm các hình ảnh so sánh. - Nhận biết các từ chỉ so sánh. 5 Tới trường So sánh hơn kém, thêm các từ so sánh vào những câu chưa có từ so sánh. 7 Cộng đồng So sánh con vật với con người. 10 Quê hương So sánh âm thanh với âm thanh 12 Bắc – Trung –Nam So sánh hoạt động với hoạt động. 15 Anh em một nhà Luyện đặt câu có hình ảnh so sánh.
  • 113. P3 Bảng 1.3. Phép tu từ nhân hóa trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3 Tuần Chủ điểm Nội dung 19 Bảo vệ Tổ quốc Nhận biết các hiện tượng nhân hóa, các cách nhân hóa. 21 Sáng tạo Tìm các sự vật được nhân hóa, nhận biết ba cách nhân hóa. 23 Nghệ thuật Tìm các sự vật được nhân hóa, xác định cách nhân hóa. Nói lên suy nghĩ, cảm xúc của mình về hình ảnh nhân hóa. 25 Lễ hội Nhận diện các sự vật, con vật được nhân hóa. 28 Thể thao Nhận diện các sự vật và cây cối được nhân hóa. 33 Bầu trời và mặt đất Nhận diện các sự vật được nhân hóa, cách nhân hóa. Nói lên suy nghĩ, cảm xúc về hình ảnh nhân hóa. Viết đoạn văn ngắn (4 – 5 câu) trong đó sử dụng phép nhân hóa.
  • 114. P4 PHỤ LỤC 2 PHIẾU ĐIỀU TRA GIÁO VIÊN Họ và tên:.................................................................................................................. Trƣờng:..................................................................................................................... Xin quý thầy (cô) cho biết ý kiến của mình về những vấn đề sau đây bằng cách khoanh tròn vào chữ cái trước phương án trả lời: 1. Thầy cô nhận thức như thế nào về sự cần thiết của việc phát triển năng lực tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4. A. Rất cần thiết. B. Cần thiết C. Bình thường. D. Không cần thiết. 2. Thầy cô chú ý đến yếu tố nào khi đánh giá kết quả làm văn của học sinh? A. Dùng từ, đặt câu đúng, viết đúng chính tả và trình bày đẹp. B. Bố cục nội dung rõ ràng, nêu bật đối tượng miêu tả. C. Sử dụng hiệu quả các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ. D. Tất cả các ý trên. 3. Thầy cô đánh giá thế nào về NL tạo lập văn bản miêu tả của HS hiện nay? A. Giỏi B. Khá C. Trung bình D. Yếu 4. Thầy cô chú ý đến những kĩ năng tạo lập văn bản khi đánh giá kết quả bài làm văn của học sinh? A.Kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo trong tạo lập văn bản. B. Kĩ năng tìm ý và làm dàn ý cho bài văn miêu tả. C.Kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả. D.Tất cả các ý trên. 5. Khi dạy tạo lập văn bản miêu tả cho học sinh lớp 4, thầy cô có chú ý rèn luyện kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo cho học sinh không? A. Rất chú ý B. Chú ý C. Có chú ý D. Hầu như không chú ý
  • 115. P5 6. Theo thầy cô, việc phát triển kĩ năng sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả có tác dụng gì? A. Làm cho bài văn trở nên mượt mà, sống động, thú vị hơn. B. Làm cho sự vật trở nên có “hồn”, gần gũi thân thiết với con người. C. Bồi dưỡng tâm hồn trong sáng và giúp các em thể hiện những cảm xúc, khả năng sáng tạo của mình. D. Tất cả các ý trên. 7. Theo thầy cô, để tạo lập nên một văn bản miêu tả cần sử dụng những phương pháp và hình thức dạy học nào? A. Xây dựng hệ thống bài tập. B. Tổ chức các trò chơi học tập. C. Ứng dụng công nghệ thông tin và các kĩ thuật hiện đại trong dạy học. D. Tích lũy kiến thức qua các phân môn khác của Tiếng Việt. 8. Theo thầy cô, việc phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu tả đóng vai trò như thế nào đối với A. Quan trọng B. Không quan trọng C. Bình thường D. Rất quan trọng 9. Thầy cô có hứng thú trước năng lực học tạo lập văn bản miêu tả của học sinh lớp 4 không? A. Hứng thú B. Không hứng thú C. Bình thường D. Rất hứng thú 10. Tài liệu tham khảo cho việc dạy phát triển các năng lực tạo lập văn bản miêu tả ? A. Phong phú, đầy đủ B. Có nhưng ít C. Rất ít D. Không có
  • 116. P6 PHỤ LỤC 3 PHIẾU ĐIỀU TRA HỌC SINH Họ và tên: .................................................................................................................... Học sinh lớp: ..........................Trƣờng........................................................................ I. Phần trắc nghiệm 1. Điền từ thích hợp vào chỗ chấm để hoàn chỉnh định nghĩa sau: “ ..................... là vẻ lại bằng lời hoặc những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người, của vật giúp người đọc, người nghe có thể hình dung được các đối tượng ấy”. A. Kể chuyện B. Viết thư C. Văn miêu tả D. Văn biểu cảm 2. Theo em, khi quan sát đồ vật, cần chú ý những gì? A. Nên quan sát theo một trình tự nhất định B. Nên quan sát bằng nhiều giác quan C. Cố gắng tìm ra những đặc điểm riêng của đồ vật, phân biệt nó với những đồ vật khác, nhất là những đồ vật cùng loại. D. Tất cả các ý trên. 3. Theo các em, khi tả một đồ vật, ta cần tả những gì? A. Tả bao quát toàn bộ đồ vật. B. Tả những biện pháp có đặc điểm nổi bật. C. Tả hình dáng bên ngoài và hoạt động của nó. D. Nên tả bao quát toàn bộ đồ vật rồi tả những biện pháp có đặc điểm nổi bật. 4. Để tạo lập nên một bài văn miêu tả, các em thực hiện theo trình tự nào sau đây? A. Chọn cách mở bài, xây dựng dàn ý, viết từng đoạn thân bài, chọn cách kết bài. B. Viết mở bài, viết thân bài, viết kết bài. C. Xây dựng dàn ý, chọn cách mở bài, viết từng đoạn thân bài, chọn cách kết bài. D. Các trình tự trên đều đúng.
  • 117. P7 5. Trong đoạn văn: “Màu lông hung hung có sắc vằn đỏ đỏ, rất đúng với cái tên mà tôi đã đặt cho nó. Mèo Hung có cái đầu tròn tròn, hai tai dong dóng dựng đứng rất thính nhạy”, tác giả đã sử dụng từ loại gì để miêu tả màu lông, cái đầu và tai của Mèo Hung? A. Từ ghép B. Từ láy C. Từ đơn D. Từ phức 6. Trong đoạn văn: “Sầu riêng thơm mùi thơm của mít chín quyện với hương bưởi, béo cái béo của trứng gà, ngọt cái vị của mật ong già hạn. Hương vị quyến rũ đến kì lạ”, tác giả đã sử dụng biện pháp nt nào để miêu tả hương thơm của sầu riêng? A. Nhân hóa B. So sánh C. Nhân hóa và so sánh D. Không sử dụng biện pháp nt nào. 7. Trong các câu văn sau: Bản giao hưởng Mùa thu do Dế Mèn trình diễn đã gợi ra biết bao cảnh tượng mùa thu êm dịu. Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào khi miêu tả? A. So sánh B. Nhân hóa C. So sánh và nhân hóa D. Không sử dụng biện pháp nào. 8. Các em có hứng thú khi học tạo lập văn miêu tả không? A. Hứng thú B. Không hứng thú C. Bình thường D. Rất hứng thú
  • 118. P8 9. Các em có hứng thú với cách dạy tạo lập văn bản miêu tả của các thầy cô giáo? A. Nhàm chán B. Bình thường C. Hấp dẫn, hứng thú D. Dễ hiểu 10. Mức độ cung cấp tài liệu học tập văn miêu tả của nhà trường. A. Rất nhiều B. Nhiều C. Có nhưng chưa đầy đủ D. Không có II. Phần tự luận Đề bài: Hãy tả một đồ vật gần gũi với em nhất (một con vật em yêu quý hay một cây hoa em yêu thích), trong đó sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ. Bài làm:
  • 119. P9 PHỤ LỤC 4 MỘT SỐ BÀI TẬP VÀ TRÒ CHƠI HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO LẬP VĂN BẢN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4  Bài tập phát triển kĩ năng quan sát và trải nghiệm sáng tạo Bài tập 1: Quan sát cây bàng mùa lá rụng, ghi chép theo những câu hỏi dưới đây: a. Hàng năm, cây bàng thay lá khoảng thời gian nào? b. Lá bàng khi già ngả sang màu gì? Bắt đầu rụng ngã sang màu gì? c. Cây bàng khi rụng hết lá trông thế nào? Giống như cái gì? d. Vì sao cây bàng thay lá, thay lá để làm gì? Em có suy nghĩ gì về cuộc sống của con người trước cảnh cây bàng mùa lá rụng? Trả lời: HS trả lời theo cách quan sát riêng của mình Bài tập 2: Quan sát các con vật sau và ghi chép theo những câu hỏi gợi ý: Ví dụ HS đang quan sát con chó: 1. Con chó thuộc giống gì? 2. Ngoại hình (to hay nhỏ, màu lông, đầu, mũi, tai, miệng, răng, ria mép, chân, đuôi,...). 3. Một số hoạt động và thói quen (khi ăn cơm, khi đón chủ về nhà, khi có khách lạ,...). Với những con vật khác như con mèo, con trâu, con gà,... thì HS làm tương tự. Trả lời: HS quan sát rồi ghi theo cách quan sát riêng của mình.
  • 120. P10  Bài tập phát triển kĩ năng tìm ý và lập dàn ý Bài tập 1: Với đề văn, hãy tả lại một cây cổ thụ mà em đã có dịp quan sát, bạn Lan định viết bài của mình theo lần lượt các ý như sau và chưa biết sắp xếp thế nào? Hãy giúp bạn Lan sắp xếp các ý trên cho phù hợp. A. Cây cao vút, tán rộng che kín cả một khoảng trời. B. Dưới gốc đa diễn ra nhiều sinh hoạt của con người. C. Đó là cây đa đầu làng em. D. Thân cây to lớn dễ phải năm người nối vòng tay mới ôm nổi. Đ. Cành lá rậm rạp sum xuê, tỏa bóng mát xuống cả một khoảng đất rộng thênh thang. E. Gốc đa xù xì, có nhiều chiếc rễ trồi cả lên mặt đất như những con trăn đất khổng lồ. G. Lá đa xanh, quả đa khi chín đỏ thẫm trông lên như có muôn ngàn đốm lửa nhỏ trên vòm lá của cây. H. Cây đa ấy đã chứng kiến bao sự thay đổi của làng quê, gắn bó với tuổi thơ của em, dù có đi đâu chăng nữa em vẫn sẽ nhớ về gốc đa làng mình như một kỉ niệm khó quên. I. Rất nhiều đàn chim rủ nhau đến đây tìm quả chín và bắt sâu, tìm mồi, nhảy múa, hát ca, cãi vã ... huyên náo cả một vùng. K. Có cả những chùm rễ buông lửng lơ như những tấm lụa màu, lại có nhiều chiếc lớn hơn quấn quýt lấy thân cây như hàng trăm con rắn vây quanh. Trả lời: HS sắp xếp theo cảm nhận riêng. Bài tập 2: Cho đoạn văn sau: Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp. Thân hình chú cao lớn, chắc khỏe. Bộ lông rực rỡ với những màu vàng, đỏ, nâu. Cái đầu tròn có mào đỏ thắm hình răng cưa trông nó như đang đội vương miện. Đôi mắt tròn, nhỏ bằng hạt tiêu có đường mí đỏ viền quanh. Đôi cánh úp xuôi theo thân. Đặc biệt là cái đuôi có chùm lông dài màu đen óng ánh sắc xanh và tím biếc, cong vồng lên tạo cho chú vẻ đẹp oai vệ. Đôi chân cao cứng cáp có vuốt nhọn, lớp da chân xù xì dày lên trông cứ như một anh chàng đỏm dáng đi giày cao cổ màu vàng. Mỗi khi đi, đầu chú ta cứ lúc lắc, trông rất buồn cười. Khi cho gà ăn, em thấy chú gà trống thật mạnh mẽ. Chú
  • 121. P11 mổ lia lịa cứ như sợ những chú gà khác ăn hết phần của mình. Khi đi kiếm ăn, chú dùng đôi chân khoẻ mạnh bới tung đống rác mùn ra. Họ hàng nhà giun không có lối thoát. Mấy chị gà mái và mấy chú gà con cũng được nhờ vào đôi chân khoẻ mạnh bới thức ăn của chú gà trống tía. Chú nổi bật lên trong đàn gà. Hãy tìm: a) Những câu văn miêu tả ngoại hình của con gà trống? b) Những câu văn miêu tả hoạt động của con gà trống? Trả lời: HS tìm câu văn theo cảm nhận riêng.  Bài tập phát triển kĩ năng sử dụng các phƣơng tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ Bài tập 1: Tìm các từ ngữ miêu tả: a) Tiếng gà gáy. b) Tiếng chim hót. c) Tiếng lá rơi. d) Tiếng các đồ vật va vào nhau. Trả lời: (Đáp án mong đợi) a) ò..ó...o, éc...è..e, kéc..ke..ke, râm ran, lanh lảnh, te te,... b) líu lo, râm rang, cúc cu, náo động, lít chít,... c) xào xạt, lạt xạt, rào rào, ào ào,... d) sột soạt, chạng chạng, leng keng, loạt xoạt, ầm ầm, lẻng xẻng,.. Bài tập 2: Đọc đoạn văn sau: Thế là mưa xuống thật rồi. Từng giọt mưa tí xíu nhảy dù trên nền đất đã nứt toác vì nắng. Những giọt mưa to dần, to dần quật đèn đẹt xuống đất. Hết thảy mọi loài từ lớn đến nhỏ, từ bác phượng vĩ già nua cho đến mấy cậu choai choai dương xỉ nhảy múa, reo hò ầm ĩ. Khung cảnh náo nhiệt tưng bừng như có đại tiệc. Cây lá ngoắc tay vào nhau hồ hởi chúc tụng nhau mãi không thôi. Chẳng mấy chốc ao hồ đã đầy nước. Họ hàng nhà cá, nhà tôm lũ lượt kéo nhau đi đón mưa. (Hoàng Long) Trong đoạn văn trên, những sự vật nào được nhân hóa? Biện pháp nhân hóa đã giúp người đọc cảm nhận được bức tranh thiên nhiên sinh động như thế nào?
  • 122. P12 Trả lời: (Đáp án mong đợi) Sự vật đƣợc nhân hóa Từ ngữ thể hiện biện pháp nhân hóa - Giọt mưa - nhảy dù - Phượng vĩ - bác, già nua - Dương xỉ - cậu choai choai, nhảy múa, reo hò - Cây lá - ngoắc tay vào nhau hồ hởi chúc tụng nhau - Cá, tôm - họ hàng nhà cá, nhà tôm lũ lượt kéo nhau đi đón mưa Biện pháp nhân hóa đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên sinh động, tạo ra một “hoạt cảnh” với sự xuất hiện của khá nhiều nhân vật. Mỗi “nhân vật” lại có một nét riêng trong niềm vui chung. Cảnh cơn mưa đến sau những ngày nắng hạn kéo dài và niềm vui của vạn vật trở nên lí thú và hấp dẫn hơn nhiều nhờ những khám phá, phát hiện thú vị và khả năng tưởng tượng phong phú của người viết. Bài tập 3: Hãy viết những câu văn khác nhau (trong đó có sử dụng biện pháp so sánh) để miêu tả: - Chiếc cặp của em. - Con chó nhà em. - Một loài hoa em thích nhất. Trả lời: (Đáp án mong muốn) - Chiếc cặp như một người bạn thân thiết cùng em đến trường mỗi ngày. - Chú Đen nhà em như một chàng vệ sĩ thực thụ canh giấc ngủ bình yên cho mọi người. - Nàng Tuy – luýp dịu dàng tỏa hương thơm ngát như làm đắm say mọi người trong bữa tiệc dưới ánh đèn vàng cùng ly rượu vang nồng nàn và sự du dương của khúc nhạc tình say. Bài tập 4: Nối để tạo thành câu văn hoàn chỉnh. Cho biết các câu đó đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì và nêu tác dụng của nó. 1.Ve Sầu a. mở đầu khúc nhạc nhan đề Bình minh bằng tiết tấu nhanh khỏe, đầy hứng khởi. 2.Bảng giao hưởng mùa thu do Dế Mèn trình diễn b.đã gợi ra biết bao cảnh tượng mùa thu êm dịu. 3.Gà Trống c. đã kết thúc bản nhạc rộn rã.
  • 123. P13 Trả lời: (Đáp án mong đợi) - Các từ được nối như sau: 1 – b, 2 – c, 3 – a. - Biện pháp nghệ thuật sử dụng: nhân hóa. - Tác dụng: khiến các loài vật là Ve Sầu, Dế Mèn, Gà Trống hiện lên sinh động, thú vị giống như những nghệ sĩ thực thụ. Bài tập 5: Dùng các cách nói khác nhau (sử dụng biện pháp nhân hóa) để diễn đạt lại những ý dưới đây cho sinh động, gợi cảm hơn: a. Tiếng trống trường báo hiệu giờ ra chơi. b. Con gà trống gáy báo hiệu một ngày mới. c. Hoa phượng nở báo hiệu mùa hè đến. Trả lời: (Đáp án mong đợi) a. Bác Trống ngân dài các hồi trống báo hiệu giờ ra chơi. b. Con gà trống kiêu hãnh cất tiếng gáy vang vọng gọi ngày mới. c. Chú ve kêu râm rang và những cánh hoa phượng như những con bướm thắm gọi mùa hè đến với chúng em. Bài tập 6: Với mỗi trường hợp dưới đây, hãy viết một vài câu văn trong đó có sử dụng các biện pháp so sánh và nhân hóa để tả: a. Tả cánh phượng rơi b. Cái đồng hồ báo thức c. Chiếc bảng đen d. Con vật trong truyên cổ tích Trả lời: (Đáp án tham khảo) a. Tả cánh phƣợng rơi: Chỉ cần một cơn gió nhẹ lướt qua, những cánh hoa phượng thắm đỏ dứt mình bay chấp chới trong không trung như một cơn mưa tuyết của những cánh phượng đỏ thắm. Và rồi những cánh phượng mỏng manh rụng khắp sân trường, trải cái màu đỏ may mắn lên đầu, lên tóc, lên vai những người bạn như lời tâm sự. b. Cái đồng hồ báo thức: Tích tắc! Tích tắc! Mấy chị em nhà kim đồng hồ cứ người nào việc nấy suốt ngày, suốt tháng để làm công việc báo thời gian mà không lúc nào than vãn mệt mỏi một lời.
  • 124. P14 c. Chiếc bảng đen: Chiếc bảng đen là người bạn thân thiết của cả lớp. Bảng đen rất vui khi chúng em học giỏi. Bảng đen buồn khi chúng em đến lớp chưa thuộc bài. Hôm bạn Bảo trực nhật lau vội khăn ướt, bảng đen rơm rớm nước mắt nhìn chúng em, trông thương quá! d. Con vật trong truyên cổ tích: Nhà chị Dế Mèn ở bụi tre. Tối nào chị dế cũng ngồi kéo đàn trên bãi cỏ trước nhà. Mấy bác đom đóm đi gác về rất muộn vẫn thấy chị dế say sưa kéo đàn. Một bác đom đóm liền dừng chân trên bãi cỏ và soi đèn cho chị dế biểu diễn bài “Tâm tình quê hương”. Bài tập 7: Một HS lớp 4 đã tả chú gà trống như sau : “Chú gà nhà bà em nặng tớ i 9 kg. Sáng sớ m chú nhảy tót lên đống rơm nhà bà gáy một hồi dài kéc…ke….ke….” . Bạn viết như vậy đúng chưa, nếu chưa đúng em hãy giúp bạn sửa lại cho đúng. Trả lời: (Đáp án mong đợi) Rõ ràng, đây là tiếng gáy của một chú trống choai chứ không phải tiếng gáy của một chú gà trống nặng hơn 3 ki-lô-gam và trong thực tế , không có một chú gà nào nặng tới 9 ki-lô-gam. Bạn đó đã viết sai. HS có thể sửa lại: “Chú gà nhà bà em năng gần 3 ki - lô – gam. Sáng nào chú cũng nhảy tót lên đống rơm nhà bà gáy một hồi dài ò...ó...o báo hiệu cho mội ngƣời mau mau thứ dậy.” Bài tập 8: Tác giả “Hoa học trò” đã rất yêu cây phượng vĩ. Ông đã tả cây phượng với những hình ảnh đẹp đẽ. Còn em, em yêu loài cây nào? Hãy sử dụng biện pháp so sánh và nhân hóa để viết một đoạn văn ngắn (3 – 5 câu) tả một cây bóng mát mà em yêu thích. Trả lời: (Đáp án tham khảo) Cây đa đầu làng em bao đời nay đứng đó để nghe và hiểu được những tâm sự nỗi niềm của những người dừng chân nghỉ dưới bóng râm. Nó đã trở thành người bạn già hiền lành tốt bụng của mọi người. Vì vậy đi đâu xa trở về, chỉ thấy thấp thoáng cây đa cổ thụ đầu làng là người ta đã thấy yên tâm như đã bước vào mái nhà quen thuộc ấm cúng của mình.
  • 125. P15 Bài tập 9: Bạn em rất ghét động vật. Bằng những những từ ngữ gợi tả, em hãy viết một đoạn văn ngắn tả con vật mà em yêu thích để cho bạn em cũng yêu thích nhân vật đó như em. Trả lời: (Đáp án tham khảo) Con chó nhà em tên là Zét. Nó khôn lắm, lại giữ nhà rất giỏi. Ban đêm, trong khi cả nhà say ngủ thì nó thức để canh bọn xấu hay lẻn vào sân để ăn trộm vặt. Ban ngày nó nằm duỗi trước hiên nhà lim dim sưởi nắng nhưng đôi tai rất thính nhạy của nó thì có thể nghe được những tiếng động dù là nhỏ nhất. Có người lạ vào sân, nó chạy xồ ra, sủa toáng lên cho tới khi có người trong nhà ra quat gọi nó mới im. Thỉnh thoảng nó lại chạy ra ngõ chơi với lũ chó của mấy hàng xóm. Nghe tiếng liếp chiếp của đàn gà bên kia vườn lao nhao liếng nhiếng sang gốc mít kiếm ăn là nó ra oai phóng đến, rượt bọn này chạy trối trời. Vậy mà nó lại làm ra vẻ hiền lành khi cọ đầu vào chân em như đòi em vuốt ve trò chuyện. Nhiều lúc em muốn nó làm trò, bèn tưng tửng mẩu bánh ngọt lên cao. Thế là nó nhảy phốc lên há mõm đớp gọn gàng, đố có rơi vụng bánh nào ra ngoài! Nghe tiếng em đi đâu về đến cổng là nó chạy xổ ra, rướn mình cao lên, chổm cả hai chân trước lên đầu gối em, vừa lệt bệt đi bằng hai chân sau theo em vừa vẩy đuôi mừng rỡ. Trông bộ dạng của nó lúc này thật ngộ nghĩnh và đáng yêu làm sao! Bài tập 10: Viết những đoạn văn mở bài khác nhau cho bài văn miêu tả cái bàn học của em (có thể là cái bàn ở lớp hoặc bàn học ở nhà). Trả lời: (Đáp án tham khảo) - Đến lớp, ngoài bạn bè và thầy cô giáo thì có lẽ cái bàn học sinh là gần gũi và gắn bó với em nhiều nhất. - Từ đầu năm học đến nay, ngày nào đến lớp em cũng gặp gỡ và thân thiết với chiếc bàn học sinh xinh xắn này. - Năm nay, em đã lên lớp 4. Do em phải học bài và làm nhiều bài tập về nhà, bố mẹ đã sắp xếp cho em một góc học tập ngăn nắp, thoáng mát. Đặc biệt hơn cả là cái bàn học xinh xắn đặt kề cửa sổ nhìn ra vườn cây xanh rợp bóng. - Ngoài thời gian học ở trường, em còn phải học bài và giải quyết đầy đủ các bài tập về nhà được giao. Để giúp em có điều kiện học tốt ở nhà, bố đã đóng cho em một cái bàn học ngay từ giữa năm học lớp 3.
  • 126. P16 Bài tập 11: Bằng cách sử dụng các biện pháp tu từ, em hãy viết kết bài mở rộng cho mỗi bài văn theo đề tài sau: a. Chiếc áo em mặc đến trường b. Cây tre ở làng quê c. Cây bằng lăng tím trong sân trường d. Chiếc nón lá Huế e. Con chó nhà em f. Cây gạo đầu làng Trả lời: (Đáp án tham khảo) a. Chiếc áo em mặc đến trƣờng: Mặc chiếc áo do chính tay mẹ đan cho, em rất sung sướng và tự hào để khoe với mẹ. Dù trời mùa đông xứ Huế có lạnh lẽo đến mấy, em cũng cảm thấy ấm áp bởi bao tình thương mến mà mẹ đã gửi gắm trong chiếc áo len này. b. Cây tre ở làng quê: Cây tre gâng gũi với cuộc sống của người dân quê: chiếc nôi từ lúc mới lọt lòng, giường tre nằm ngủ, phên tre làm nhà, đôi đũa tre trong mâm cơm hằng ngày rồi cả những mặt hàng thủ công mĩ nghệ làm từ tre,... Vì vậy mà người dân làng em yêu mến và gắn bó biết bao với cây tre. Đi đâu xa, nhớ về làng quê là nhớ về lũy tre xanh luôn đậm đà tình mến thương. c. Cây bằng lăng tím trong sân trƣờng: Dưới gốc cây bằng lăng tím này, trong những giờ nghỉ giải lao, em đã cùng các bạn ngồi trò chuyện hoặc đọc báo Nhi đồng. Nhặt cánh hoa bằng lăng rụng, em kết làm chuỗi tặng bạn làm vương miện đội lên đầu cứ như là công chúa trong truyện cổ tích. Dẫu mùa hoa bằng lăng đã qua rất lâu nhưng em vẫn thích nhìn ngắm vẻ đẹp của cây. Em cảm thấy cây bằng lăng này rất gần gũi vì nó đã gắn bó với nhiều kỉ niệm học trò của chúng em. d. Chiếc nón lá Huế: Khi đội nón lên đầu, trông mẹ đẹp và duyên dáng hơn. Chiếc nón lá đúng là món quà xứ Huế có ý nghĩa bởi nó không những làm tăng thêm vẻ đẹp cho người phụ nữ mà còn thể hiện bàn tay khéo léo tài hoa của những người thợ thủ công đất cố đô. e. Con chó nhà em: Mới có mấy tháng mà con chó Tô-ny đã quen thuộc gần gũi như một thành viên trong gia đình. Thấy em yêu mến và chăm sóc nó chu đáo, bố bảo: “Phải đấy con ạ! Chó không những có ích vì giữ nhà giỏi mà nó còn là con vật trung thành, tình nghĩa với chủ lắm đấy!”
  • 127. P17 f. Cây gạo đầu làng: Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là minh chứng thầm lặng của dòng đời. Cô giáo em nói thế. Đi học về đứng trên bến đò, hoặc đi xa về mà ngắm nhìn cây gạo đầu làng em thấy lòng bồn chồn xôn xao. Cây gạo là hồn quê, là tình quê vơi đầy. Bài tập 12: Với biện pháp tu từ, em hãy viết một đoạn văn ngắn miêu tả cách bảo quản đồ dùng học tập của em. Trả lời: (Đáp án tham khảo) Ngay từ đầu năm học, mẹ đã mua cho em đầy đủ các đồ dùng học tập: sách, vở, bút, thước, com-pa,... Mẹ cũng căn dặn em phải biết sắp xếp, lau chùi chúng cho gọn gàng, sạch sẽ. Nghe lời mẹ, sau khi dùng xong món đồ nào em lại đặt chúng ngay ngắn vào vị trí: sách vở để lên giá; bút, thước,... để vào hộp. Em cũng không hề viết, vẽ linh tinh lên bìa sách vở hay bàn ghế. Những đồ dùng học tập của em lúc nào cũng sạch sẽ, gọn gàng, chúng nằm ngay ngắn trong vị trí của mình như thì thầm khẽ nói với em: "Cám ơn cô chủ nhỏ!”. Bài tập 13: Nhà thơ Nguyễn Duy đã miêu tả cây tre với những hình ảnh gợi lên phẩm chất cần cù, đoàn kết, ngay thẳng - đó là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Dựa vào những hình ảnh có trong bài thơ “Tre Việt Nam”, em hãy viết một đoạn văn ngắn (từ 5 đến 7 câu) trong đó có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa để tả cây tre quê hương. Trả lời: (Đáp án tham khảo) Làng tôi bốn mùa rợp mát bóng tre. Đi đâu cũng thấy những bụi tre xanh rờn, um tùm vươn mình hát ru trong gió. Những hàng tre xanh biếc đó đã chứng kiến biết bao trò chơi của tuổi thơ chúng tôi. Những trưa hè oi ả, chỉ cần chị gió lướt qua lũy tre thôi cũng đủ mang lại sự mát rượi, ngọt ngào nhường nào. Rồi bà và mẹ còn treo võng ở bụi tre để ru cho chúng tôi giấc ngủ ngon, lúc ấy tiếng tre kẽo cà kẽo kẹt như đệm khúc nhạc du dương cho những bài hát ru của bà và mẹ. Các bạn biết không, tre không bao giờ ở riêng từng cây mà luôn theo từng bụi, từng hàng, từng lũy như một gia đình ấm áp. Mỗi mùa mưa bão đến, tre lại như gần nhau hơn, ôm lấy nhau mà oằn mình chống lại mưa gió vì sự giận dữ của đất trời để bảo vệ, che chở cho làng tôi. Bài tập 14: Bằng các hình ảnh so sánh và nhân hóa, hãy viết một đoạn văn miêu tả một loại quả mà em thích.
  • 128. P18 Trả lời: (Đáp án tham khảo) Những quả mít to và dài như những chú lợn con nghịch ngợm đeo bám quanh thân nhưng không dễ gì rơi vì cuống to và chắc. Vỏ ngoài đầy gai nhọn như một chiếc áo giáp bảo vệ cho nó. Bổ quả mít ra, em thấy những múi mít ken sát vào nhau. Múi nào cũng dày cơm màu vàng rực, vị ngọt đậm. Bám ngoài múi là những tép sơ dẹt và có màu vàng nhạt hơn múi. Hạt mít to bằng đốt tay, màu nâu có vân như vân gỗ trên mặt bàn rất đẹp. Mùi mít chín tỏa ra thơm lừng, chảy qua cánh mũi nên không giấu được ai. Bài tập 15: Bằng các hình ảnh so sánh và nhân hóa, hãy viết một đoạn văn miêu tả một con vật mà em quý mến. Trả lời: (Đáp án tham khảo) Chú gà mới đẹp làm sao! Chú kiêu hãnh khoác bộ áo sặc sỡ đủ màu như một chàng hoàng tử. Thân hình chú thon thon gần bằng chiếc ấm tích. Trông chú thật khoẻ và rắn rỏi như một chàng hiệp sĩ. Chiếc mào đỏ tươi rung rinh theo bước chân của chú. Toàn thân chú phủ một lớp lông vũ óng mượt màu vàng xuộm. Phía dưới cánh có lớp lông màu lông đen. Còn cái đuôi thì cong vổng lên như chiếc cầu vồng. Đôi chân khoẻ khoắn và thoắt cái đã thấy chú trên đỉnh đống rơm rướn dài cổ gáy vang ò..ó..o..o. Lát sau đã thấy chú bên bụi chuối. Chớp mắt chú đã bới được mấy con giun đất to như chiếc đũa. Nhưng lạ chưa kìa, em không thấy chú ăn mà cứ kêu “tục tục!”. Một lũ gà mái chạy xô đến. À thì ra chú muốn mời mấy chị gà mái cùng ăn. Thật tình cảm ghê! Bài tập 16: Một bạn viết đoạn văn tả cây chuối ở vườn nhà như sau: “Cây chuối cao quá tầng hai nhà em, nó tròn và có nhiều cành xum xuê. Vài cành có vỏ cây khô héo tróc lơ lửng từng mảng. Bóc lớp vỏ khô ấy ra, em thấy lớp bẹ bên trong xanh tươi nhẵn bóng, sờ vào mát cả tay. Chiều chiều, em thường trèo lên cây chuối để hái chuối ăn.” Theo em, bạn miêu tả như vậy có thích hợp không? Bằng sự hiểu biết của mình, em hãy giúp bạn viết lại những câu chưa đúng để có đoạn văn miêu tả cây chuối phù hợp. Trả lời: (Đáp án mong đợi) Cây chuối nhà em cao quá mái bếp, tròn và thẳng không có cành trông lù lù như cái cột nhà. Vài đoạn vỏ cây khô héo tróc lơ lửng từng mảng. Bóc lớp vỏ khô ấy ra, em thấy lớp bẹ bên trong xanh tươi nhẵn bóng, sờ vào mát cả tay. Thì ra thân cây chuối là do nhiều lớp bẹ ôm sát nhau mà thành. Khi chuối sắp chín, ba thường chặt buồng chuối mang vào nhà để chuối chín dần ăn rất ngon và bổ.
  • 129. P19  Các trò chơi hỗ trợ phát triển NL tạo lập văn bản miêu tả cho HS lớp 4 Trò chơi 1: Trò chơi “Tiếp sức đồng đội” bằng cách tìm các từ láy là tên các con vật. Cách chơi: Chia lớp thành 4 nhóm, các thành viên trong nhóm lần lượt lên bảng viết các từ láy là tên các con vật. Trong thời gian 3 phút nhóm nào tìm được nhiều từ đúng thì chiến thắng. Gợi ý đáp án: chuồn chuồn, cào cào, châu chấu, đa đa, chích chòe, chào mào, sáo sậu, đom đóm, tê tê, ... Trò chơi 2: Trò chơi “Thi tìm từ nhanh” Chia các từ, cụm từ sau thành 2 nhóm: từ tƣợng thanh và từ tƣợng hình: san sát, chen chúc, rầm rập, mênh mông, ào ào, long lanh, lom khom, duyên dáng, xôn xao, thăm thẳm, lách cách, trùi trũi, ươn ướt, len lỏi, vun vút, lè tè, ngất ngểu, sặc sỡ, thướt tha, lẻng kẻng, hả hê, hu hú, sòng sọc, loảng xoảng, ầm ầm, tí tách, lênh khênh, vênh vểnh, thon thon, bệ vệ, nặng nề, tun tủn, khệnh khạng, xào xạc, ăng ẳng, róc rách. Cách chơi: Chia lớp thành 2 nhóm, trong vòng 3 phút nhóm nào chia đúng và xong trước sẽ thắng cuộc. Gợi ý đáp án: Từ tƣợng thanh Từ tƣợng hình rậm rập, ào ào, xôn xao, lách cách, vun vút, hu hú, sòng sọc, loảng xoảng, ầm ầm, tí tách, tun tủn, xào xạc, ăng ẳng, róc rách, lẻng kẻng. san sát, chen chúc, mênh mông, long lanh, lom khom, duyên dáng, thăm thẳm, trùi trũi, ươn ướt, hả hê, len lỏi, lè tè, ngất ngểu, sặc sỡ, thướt tha, thon thon, bệ vệ, nặng nề, khệnh khạng, vênh vểnh, lênh khênh. Trò chơi 3: Trò chơi “Tập làm bác sĩ” bằng cách sắp xếp các từ gợi hình ảnh và cảm giác sau thành 4 nhóm thích hợp (xao xuyến, xù xì, lạnh ngắt, la đà, lơ lửng, phân vân, sầm sập, rì rào, mặn chát, nóng bỏng, chua lòm, bâng khuâng, chấp chới, thánh thót, ngọt lịm) Gợi về tâm trạng Gợi về thị giác Gợi về vị giác Gợi về xúc giác
  • 130. P20 Cách chơi: Chia lớp thành 4 nhóm, trong vòng 3 phút nhóm nào sắp xếp đúng và xong trước sẽ thắng cuộc. Gợi ý đáp án: - Gợi về tâm trạng: xao xuyến, bâng khuâng, phân vân. - Gợi về thị giác: la đà, lơ lửng, chấp chới. - Gợi về vị giác: mặn chát, chua lòm, ngọt lịm. - Gợi về xúc giác: lạnh ngắt, nóng bỏng, xù xì. Trò chơi 4: Trò chơi “Thi tìm từ nhanh” với chủ đề Tả cây hoa phượng: - Từ chỉ màu xanh của lá - Từ chỉ cành lá - Từ chỉ thân cây - Từ chỉ lợi ích - Từ chỉ màu sắc của hoa Cách chơi: Trong vòng 3 phút, HS thi tìm từ theo một số câu cho sẵn ở trên. Gợi ý đáp án: - Từ chỉ màu xanh của lá: xanh um, xanh tươi, xanh thẫm, xanh non, xanh mơn mởn,... - Từ chỉ cành lá: xum xuê, um tùm, tốt tươi,... - Từ chỉ thân cây: sần sùi, nham nhám, đầy vết sẹo lồi lõm, có nhiều hốc bướu,... - Từ chỉ lợi ích: che mát, giúp HS vui chơi, lấy cánh phượng ép vào vở làm kỉ niệm, cho vẻ đẹp, ăn quả, báo hiệu mùa hè,... - Từ chỉ màu sắc của hoa: đỏ thắm, thắm đỏ, đỏ rực, đỏ tía,... Trò chơi 5: Trò chơi “Tuyển chọn biên tập viên” GV dán bảng phụ 2 đoạn văn miêu tả sau lên bảng lớp, yêu cầu tìm những câu văn miêu tả chưa đúng rồi sửa lại cho phù hợp: Đoạn 1 Tuần trước về quê, bố mang lên cho em một chú cún con rất dễ thương. Chú có bộ lông màu trắng pha đen, cái đầu to như trái dừa và cân nặng khoảng bảy ki – lô – gam. Vì về nhà mới nên trông cún có vẻ sợ sệt, rụt rè lắm. Có ai đến là cún liền nhảy xồ ra sủm om cả nhà, khi nào có người nhà rầy la cún mới chịu chạy vào trong.
  • 131. P21 Đoạn 2 Nhà ngoại em có trồng một hàng cau thẳng tắp rất đẹp. Những cây cao cao lớn, thẳng thớm lên trời như những “chàng ngự lâm hộ giá” bảo vệ xung quanh ngôi nhà của ngoại”. Đến mùa cau, hoa cau nở tung toé rụng vương vãi khắp hiên nhà giống như bà rải gạo cho gà ăn. Rồi mùa hoa tàn, trái cau xuất hiện. Nhiều trái cau lủng lẳng quay quanh tạo thành một buồng cau xum xuê trĩu quả. Nó cứ bu bám vào nhau và ôm lấy thân cau như sợ bị rụng vậy. Nhìn những trái câu đưa qua đưa lại trong gió trông thật vui mắt. Gợi ý đáp án: (Đáp án mong đợi) Đoạn 1 - cái đầu to như trái dừa và cân nặng khoảng bảy ki – lô – gam => cái đầu to bằng quả cam hoặc nắm tay ba em và cân nặng khoảng ba ki-lô-gam (vì là cún con nên không thể miêu tả như chú chó trưởng thành được) - Có ai đến là cún liền nhảy xồ ra sủm om cả nhà, khi nào có người nhà rầy la cún mới chịu chạy vào trong => có ai đến là cún liền chui tọt xƣớng gầm giƣờng lẩn trốn, chỉ khi nào không có ai cún mới chạy ra ngoài chơi (vì rụt rè, sợ sệt nên không thể chạy ra ngoài sủa om sòm được.) - Viết lại đoạn văn 1: Tuần trước về quê, bố mang lên cho em một chú cún con rất dễ thương. Chú có bộ lông màu trắng pha đen, cái đầu to như nắm tay ba em và cân nặng khoảng ba ki – lô – gam. Vì về nhà mới nên trông cún có vẻ sợ sệt, rụt rè lắm. Có ai đến là cún liền chui tọt xƣớng gầm giƣờng lẩn trốn, chỉ khi nào không có ai cún mới chạy ra ngoài chơi. Đoạn 2 - cao lớn =>cao vút, thẳng thớm => thẳng đuột, đưa qua đua lại => đung đƣa (cách dùng từ chưa hợp lí) - Đến mùa cau, hoa cau nở tung tóe rụng vương vãi khắp hiên nhà giống như bà rải gạo cho gà ăn => Đến mùa cau, hoa cau nở tung tóe rụng vương vãi khắp hiên nhà giống nhƣ những thảm hoa lộng lẫy, kiêu sa. Nó cứ bu bám vào nhau và ôm lấy thân cau như sợ bị rụng vậy => Nó cứ bu bám vào nhau và ôm lấy thân cau nhƣ đám trẻ con đòi bú tí mẹ.(hình ảnh so sánh chưa gợi tả, gợi cảm) - Viết lại đoạn văn 2:
  • 132. P22 Nhà ngoại em có trồng một hàng cau thẳng tắp rất đẹp. Những cây cao cao lớn vút, thẳng đuột lên trời như những “chàng ngự lâm hộ giá” bảo vệ xung quanh ngôi nhà của ngoại”. Đến mùa cau, hoa cau nở tung téo rụng vương vãi khắp hiên nhà giống nhƣ những thảm hoa lộng lẫy, kiêu sa. Rồi mùa hoa tàn, trái câu xuất hiện. Nhiều trái cau lủng lẳng quay quanh tạo thành một buồng cau xum xuê trĩu quả. Nó cứ bu bám vào nhau và ôm lấy thân cau nhƣ đám trẻ con đòi bú tí mẹ. Nhìn những trái câu đung đƣa trong gió trông thật vui mắt. Trò chơi 6: Trò chơi Nhà thông thái. Các em hãy đóng vai là các nhà thông thái để ví von các sự vật sau: 1. Hương thơm của một loài hoa 2. Đàn gà con mới nở 3. Lợi ích của một đồ vật Gợi ý đáp án: (Đáp án tham khảo) 1. Khi ánh mặt trời nhường chỗ cho sự ngự trị của màn đêm yên tĩnh cũng là lúc cả giàn hoa thiên lý trên ban công nhà em ngát dậy một mùi hương ngọt ngào chảy qua cánh mũi. Hương thơm cứ theo chiều đi vào tối, tới tận đêm khuya làm mát dịu cái nóng của đêm hè. 2. Lũ con cả thảy là mười hai đứa. Con nào con nấy với bộ lông vàng nhạt trông như những nắm bông gòn mịn mượt biết đi. Đôi cánh mới chỉ nhú lên bên hông trông thật đáng yêu. Đôi mắt nhỏ bằng hột cườm, long lanh thật hồn nhiên. Cái mỏ nhỏ xíu màu trắng ngần như hạt gạo luôn há ra kêu chiêm chiếp thật vui nhộn. Những đôi chân bé bỏng, mảnh mai như que tăm đua nhau bước ngắn lủn củn quanh chân mẹ. 3. Bác đồng hồ đã có mặt trong gia đình em lâu lắm rồi. Tuy già nua cũ kĩ thế nhưng bác làm việc rất cần mẫn và chính xác. Bác chẳng đòi hỏi gì nhiều. Mỗi năm, bố em lại lau dầu cho bác một lần. Cả nhà em đều coi bác đồng hồ là người bạn thân thiết và gắn bó vì có bác mà mọi công việc của mỗi người luôn hoàn thành đúng giờ.
  • 133. P23 PHỤ LỤC 5 MỘT SỐ ĐỀ BÀI SÁNG TẠO HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO LẬP VĂN BẢN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4 Đề bài 1: Quanh ta mọi vật đều làm việc. Cái đồng hồ tích tắc báo giờ; cái quạt máy bận chạy để đem lại không khí mát lạnh cho mọi người; cái cặp, chiếc bút, quyển vở thì bận học cùng bé; cái đèn thì chiếu sáng cho mẹ khâu áo, cho bố đọc báo, cho bé học bài,... Bằng cách nói nhân hóa, em hãy viết đoạn văn miêu tả công dụng của một đồ vật mà em thích. Đề bài 2: Có những con vật đã trở thành nhân vật nổi tiếng trong các bộ phim hoạt hình. Em hãy tả lại một trong những con vật đó. (Lưu ý sử dụng các biện pháp tu từ trong miêu tả) Đề bài 3: Các em có nghe mùa xuân thì thầm bên cửa sổ không? Đúng vậy, mùa xuân là mùa của cỏ cây, hoa lá đua nhau khoe sắc. Bằng biện pháp tu từ so sánh và cách nói nhân hóa, em hãy viết một đoạn văn ngắn miêu tả một loài hoa của mùa xuân mà em thích. Đề bài 4: Trước thực trạng chặt cây xanh hàng loạt ở các thành phố lớn để xây dựng chỉnh trang đô thị, em hãy hóa thân thành những cây xanh “tội nghiệp” đó để nói lên sự suy tư, trăn trở của mình về lợi ích của cây xanh đối với môi trường xung quanh. Đề bài 5: Cô chủ nhỏ của em lúc nào học bài xong cũng quăng em hộp bút vào một xó xỉnh nào đó. Em hộp bút thấy buồn và tủi thân lắm! Em hãy giúp bạn hộp bút đáng thương bằng cách viết một đoạn văn trò chuyện với cô chủ nhỏ để nói cho cô biết cách giữ gìn đồ dùng học tập cẩn thận nhé! Đề bài 6: Các em chắc đã quen thuộc với hai nhân vật mèo, chuột trong bộ phim hoạt hình Tom và Jerry. Chú chuột lúc nào cũng tinh nghịch, quậy phá khắp nhà. Em hãy hóa thân thành nhân vật Tom để viết một đoạn văn ngắn tả hoạt động bắt và trừng trị bọn chuột của mèo Tom.
  • 134. P24 PHỤ LỤC 6 GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM 1 Tập làm văn: Quan sát đồ vật (Tuần 15 tiết 2, lớp 4) I. Mục tiêu: Giúp HS: - Biết cách quan sát đồ vật theo một trình tự hợp lí bằng nhiều cách (mắt nhìn, mũi ngửi, tai nghe, tay sờ,...). - Phát hiện được những đặc điểm riêng, độc đáo của từng đồ vật để phân biệt nó với những đồ vật khác cùng loại. - Lập dàn ý đồ chơi theo kết quả quan sát. II. Đồ dùng dạy học: - Sách giáo khoa - Phiếu học tập - Các bảng phụ - HS chuẩn bị các đồ chơi. III. Hoạt động dạy và học: Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh A. Kiểm tra bài cũ: - Yêu cầu HS nêu: Cấu tạo của bài văn miêu tả đồ vật? - Yêu cầu 1 – 2 HS đọc dàn ý bài văn tả chiếc áo đã làm ở nhà. - GV nhận xét, đánh giá về cách quan sát và lựa chọn các chi tiết trong dàn ý của HS. (Lưu ý: cần quan sát theo trình tự hợp lí bằng nhiều giác quan, lựa chọn chi tiết nổi bật của đối tượng miêu tả) - HS nêu cấu tạo cấu bài văn miêu tả đồ vật. - HS đọc bài làm của mình. - Lớp nhận xét. B. Dạy bài mới: 1. Giới thiệu bài: - Nêu mục đích, yêu cầu của bài học ( Mỗi bạn lớp ta ai cũng có một đồ chơi. Nhưng làm thế nào để giới thiệu với các bạn khác về đặc điểm, hình dáng, màu sắc, lợi ích của nó cho các bạn biết. Bài học hôm nay sẽ giúp các em làm được điều đó.) - HS lắng nghe. - HS đọc yêu cầu của bài tập.
  • 135. P25 2. Phần nhận xét: Yêu cầu HS đọc đề. Bài tập 1: Xác định yêu cầu của bài tập và các gợi ý a, b, c, d. - GV yêu cầu tổ trưởng kiểm tra việc chuẩn bị đồ chơi của các bạn tổ mình. - GV gọi 1 vài HS giới thiệu về tên gọi đồ chơi của mình. - GV: Thảo luận nhóm 4: Em hãy quan sát đồ chơi đồng thời dựa vào các gợi ý a, b, c, d trong SGK để viết kết quả quan sát được của đồ chơi đó vào phiếu học tập. - GV yêu cầu nhóm trình bày. - HS cả lớp nhận xét, bổ sung. - GV nhận xét, sửa lỗi dùng từ và cách diễn đạt phần trình bày của các nhóm. Bài tập 2: Theo em, khi quan sát đồ vật cần chú ý những gì? - HS đọc yêu cầu của bài tập 2, suy nghĩ trả lời miệng. - Tổ trưởng báo cáo việc chuẩn bị của các tổ viên. - HS nêu: + Em có chú gấu bông rất đáng yêu. + Đồ chơi của em là chiếc ô tô chạy bằng pin. + Đồ chơi của em là chú thỏ đang cầm củ cà rốt rất ngộ nghĩnh. + Đồ chơi của em là một con búp bê bằng nhựa. - Các nhóm thảo luận. - Đại diện các nhóm trình bày: N1: Gấu bông: đầu tròn, mặt tròn, mắt tròn. Màu xanh pha hồng. Hai tay chắp trước bụng. Miệng nhoẻn cười. Chân hình, chân tay mũm mĩm. N2: Búp bê lật đật: đầu tròn, thân tròn không có chân, vẻ mặt xinh xắn, đôi má hồng hào. Đặt xuống có thể tự ngồi dậy. N3: Chong chóng giấy: có bốn cánh, ở giữa là trục quay, đằng sau có cán để cầm. Để trước gió sẽ quay tít. N4: Rô bốt bằng nhựa: cấu tạo bởi các khối hình chữ nhật, mắt to, miệng rộng, hoạt động bằng pin. N5: Ngôi nhà đồ chơi: Được xếp bằng những miếng gỗ có hình vuông, hình chữ nhật hoặc miếng gỗ vát thành hình cong. Ngôi nhà có nhiều tầng, dưới rộng trên thu nhỏ. - Nhận xét, bổ sung cho nhóm bạn. - HS lắng nghe. - HS trả lời:  Phải quan sát theo một trình tự
  • 136. P26 - GV chốt lại và giảng giải thêm: Ví dụ khi quan sát gấu bông thì hình ảnh đập vào mắt đầu tiên phải là hình dáng, màu sắc của nó rồi mới thấy đầu, mắt, mũi, mõm, chân tay. Phải sử dụng nhiều giác quan khi quan sát để tìm ra những đặc điểm, phát hiện những đặc điểm độc đáo của nó, làm nó không giống em gấu khác. Tập trung miêu tả những đặc điểm độc đáo, không tả lan man, quá chi tiết, tỉ mỉ. Vậy muốn miêu tả đồ vật cần chú ý những gì? 3. Phần ghi nhớ: - GV gọi 2, 3 HS đọc ghi nhớ trong SGK. 4. Phần luyện tập: - GV nêu yêu cầu của đề bài. - Lớp chia thành 4 nhóm (4 tổ), mỗi nhóm lập dàn ý cho bài văn tả đồ chơi mà nhóm thích nhất (4 nhóm 4 đồ chơi khác nhau để có nhiều dàn ý đa dạng) rồi viết vào bảng phụ. - GV đưa ra dàn ý chung để các nhóm thực hiện: 1. Phần mở đầu: - Giới thiệu đồ chơi mà em sẽ tả. 2. Phần thân bài: - Tả bao quát hình dáng, màu sắc, kích thước, chất liệu, ... - Tả chi tiết các bộ phận đầu, tai, mắt, mũi, chân, tay. 3. Phần kết bài: - Tình cảm của em đối với đồ chơi đó. - GV yêu cầu: Dán 4 bảng phụ lên bảng và hợp lí, từ bao quát đến từng bộ phận (bên trên / bên dưới, đầu, mình, chân, tay..).  Quan sát bằng nhiều giác quan: dùng mắt để xem hình dáng, màu sắc, kích thước,...; tai để nghe có phát ra tiếng động hay không và tiếng động ấy như thế nào,...; tay để biết đồ vật mềm hay rắn, nhẵn nhụi hay thô ráp, nặng hay nhẹ,...  Tìm ra đặc điểm riêng, phân biệt đồ vật này với đồ vật khác, nhất là những đồ vật cùng loại. - HS lắng nghe - HS đọc - HS lắng nghe. - Các nhóm lập dàn ý vào bảng phụ GV đã chuẩn bị sẵn. - 4 HS lần lượt đọc dàn ý đã lập
  • 137. P27 đại diện mỗi nhóm lên đọc dàn ý của nhóm mình trước lớp. Các nhóm khác lắng nghe và nhận xét dàn ý của nhóm bạn. - GV nhận xét, bình chọn nhóm lập được dàn ý tốt nhất. trước lớp. Dàn ý: Tả con gấu bông - HS tuyên dương nhóm có dàn ý hay. C. Củng cố - dặn dò: - GV tổ chức trò chơi: Xem gợi ý – Đoán đồ chơi. - GV đọc lần lượt các gợi ý, HS trả lời đáp án. Đồ chơi 1: 1. Đây là đồ vật xuất hiện trong bộ truyện tranh Đô – rê – mon được dùng để di chuyển từ nơi này đến nơi khác. 2. Có bốn cánh, ở giữa là trục quay, có cán để cầm. 3. Hoạt động nhờ sức gió. Đồ chơi 2: 1. Đồ chơi này gồm nhiều chi tiết với các hình khối, màu sắc kháu nhau. 2. Đòi hỏi ở người chơi sự thông minh, khéo léo, sáng tạo. 3. Từ những khối đó, ta có thể xếp được nhiều thứ: nhà, ô tô, cầu, rô bốt ... Đồ chơi 3: 1. Đồ chơi này được làm bằng nhựa, bao gồm nhiều khối tròn gắn lại với nhau. 2. Đầu tròn, thân tròn, không có chân, vẻ mặt xinh xắn, đôi má hồng hào, mắt to. 3. Nằm xuống nó có thể tự ngồi dậy. Đồ chơi 4: 1. Đây là đồ chơi các bé gái rất yêu thích. 2. Thường được làm bằng bông hoặc nhựa, có thể hát hay khóc. 3. Khuôn mặt bầu bĩnh, dễ thương. Đôi mắt to, tròn xoe, mặc trang phục lộng lẫy. (Lưu ý: GV đọc lần lượt từng gợi ý, gợi ý 1 HS chưa tìm ra đáp án thì đọc tiếp gợi ý 2 ... HS tìm ra đáp án với các gợi ý đầu thì GV nên khuyến khích, khen ngợi) - GV chốt lại: Khi quan sát cần chú ý những gì? - GV nhận xét tiết học. - Dặn HS về nhà chuẩn bị bài sau: “Luyện tập giới thiệu địa phương”. - HS trả lời - Đáp án: Chong chóng. - Đáp án: Bộ lắp ghép - Đáp án: Búp bê lật đật - Đáp án: Búp bê - 2 HS nêu. - HS lắng nghe.
  • 138. P28 GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM 2 Tập làm văn: Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối (Tuần 24, tiết 1, lớp 4) I. Mục tiêu: - Học sinh vận dụng những hiểu biết về đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối đã học để viết một số đoạn văn (còn thiếu ý) cho hoàn chỉnh (bài tập 2). - Tiếp tục rèn kĩ năng quan sát và trình bày được những đặc điểm cơ bản về các bộ phận của cây cối. - Rèn luyện ý thức chăm sóc và bảo vệ cây trồng. II. Đồ dùng dạy học: - Các bảng phụ ghi nội dung 4 đoạn chưa hoàn chỉnh của bài văn miêu tả cây chuối tiêu (bài tập 2). III. Hoạt động dạy – học: Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh A. Kiểm tra bài cũ: - Yêu cầu 2 HS đọc đoạn văn miêu tả về một bộ phận: gốc, cành hay lá của một loài cây cối đã học. - GV nhận xét, đánh giá về cách lựa chọn và sắp xếp các chi tiết trong viết đoạn văn tả các bộ phận cây cối. (Lưu ý: đoạn văn miêu tả sẽ hay hơn, sinh động hơn nếu HS sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ khi miêu tả). - HS đọc bài làm của mình. - Lớp nhận xét. - HS lắng nghe. B. Dạy bài mới: 1. Giới thiệu bài: - Nêu mục đích, yêu cầu của bài học. 2. Hướng dẫn thực hành: Bài tập 1: Yêu cầu HS đọc dàn ý về bài văn miêu tả cây chuối tiêu. - Từng ý trong dàn ý trên thuộc phần nào trong cấu tạo của bài văn tả cây cối? - Yêu cầu HS phát biểu ý kiến. - HS lắng nghe. - 2 HS đọc thành tiếng, cả lớp đọc thầm. - 2 HS ngồi cùng bàn trao đổi và sửa cho nhau. - Tiếp nối nhau phát biểu: Đoạn 1: Giới thiệu cây chuối tiêu. Thuộc phần Mở bài. Đoạn 2 và 3: Tả bao quát, tả từng bộ phận của cây chuối tiêu. Thuộc phần Thân bài.
  • 139. P29 - Cả lớp nhận xét. - GV nhận xét và sửa lỗi, khen ngợi HS trả lời đúng. Bài tập 2: Yêu cầu HS đọc kĩ bài tập 2, xác định yêu cầu của đề. - GV chốt: Yêu cầu của bài tập là diễn đạt cho hoàn chỉnh đoạn văn trong bài văn tả cây chuối tiêu. - Để có thể giúp bạn Hồng Nhung hoàn chỉnh bài văn tả cây chuối tiêu, GV chia lớp thành 4 nhóm, cho bốc thăm chọn 1 trong 4 đoạn văn để thảo luận điền vào chỗ trống để giúp bạn viết hoàn chỉnh bốn đoạn văn này. (GV treo bảng phụ các đoạn văn lên bảng lớp). - Yêu cầu phần trình bày của các nhóm. - Phần trả lời của nhóm có đoạn 1: [...] Em thích nhất một cây chuối tiêu sai quả trong bụi chuối và góc vườn.  đoạn 1 đã có phần nào? Còn thiếu phần nào? - Đại diện nhóm báo cáo kết quả thảo luận. - Các nhóm khác nhận xét, bổ sung. - GV nhận xét và gợi ý cho HS diễn đạt sao cho sinh động hơn. - Phần trả lời của nhóm có đoạn 2: Nhìn từ xa, cây chuối như một chiếc ô xanh mát rượi. Thân cây cao hơn đầu người, mọc thẳng, không có cành, chạy quanh là mấy cây con đứng sát lại thành bụi [...].  đoạn 2 là phần nào của dàn ý? Đoạn này đã có phần nào và cần bổ sung phần nào? - Nhóm báo cáo kết quả thảo luận. Đoạn 4: Nêu lợi ích của cây chuối tiêu. Thuộc phần Kết bài. - HS nhận xét. - HS lắng nghe. - HS đọc yêu cầu BT, suy nghĩ để trả lời. - Đại diện nhóm lên bốc thăm, các nhóm thảo luận trong vòng 10 phút rồi lần lượt lên trình bày kết quả của nhóm mình theo thứ tự xuất hiện của đoạn văn. - HS lần lượt trả lời, các nhóm khác nhận xét, bổ sung. - Đoạn 1 mới có câu kết đoạn, ta cần bổ sung câu mở đoạn và phần phát triển thân đoạn. - Kết quả thảo luận: [Vườn nhà em trồng nhiều loại cây ăn quả. Nào mít, nào nhãn, nào vải thiều, ... và nhiều hơn cả là chuối.] - Nhận xét, bổ sung cho nhóm bạn. - Diễn đạt sinh động hơn: [Hè vừa qua, về thăm quê ngoại, em vô cùng sung sướng khi được ngắm cảnh đẹp của vườn cây ăn quả nhà ngoại. Nơi đó có ổi, mận, mít, xoài, táo, ...] - Đoạn này thuộc phần thân bài. Đoạn này đã có câu mở đoạn, ta cần bổ sung câu phát triển đoạn và kết đoạn. - Kết quả thảo luận: [như người mẹ đang dắt con đi dạo mát.
  • 140. P30 - GV nhận xét và gợi ý cho HS diễn đạt tự nhiên, sinh động hơn. - Phần trả lời của nhóm có đoạn 3: Cây chuối có nhiều tàu lá, có tàu đã già khô, bị gió đánh rách ngang và rũ xuống gốc. Các tàu lá còn xanh thì liền tấm, to như cái máng nước úp sấp. Những tàu lá ở dưới màu xanh thẫm. Những tàu lá ở trên màu xanh mát, nhạt dần. [...]  tiếp nối dòng cảm xúc của bạn Hồng Nhung khi viết đoạn văn tả chi tiết các bộ phận của cây chuối tiêu. Các em cần bổ sung câu văn tả thân chuối, buồng chuối để có đoạn văn hoàn chỉnh. - Nhóm báo cáo kết quả. - GV nhận xét: Các em có thể sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và các biện pháp tu từ để miêu tả các bộ phận của cây chuối sinh động, hấp dẫn hơn. - Phần trả lời của nhóm có đoạn 4: Đến gần mới thấy rõ chiếc o xanh đã không còn lành lặn, sắc màu đã không còn tươi tốt. Vỏ cây đã hơi khô lại, sờ vào thấy ram ráp.] - Các nhóm khác nhận xét, bổ sung. - Diễn đạt theo cách khác: [trông như một người mẹ dắt con đi dạo mát trong những ngày hè oi bức. Sờ vào thân cây chuối có buồng, tay em không còn cảm giác mát rượi vì cái vỏ nhẵn bóng đã hơi khô lại nhường chỗ cho sự ram rám bởi quá trình làm mẹ vất vả của thân chuối đơn sơ.] [Thân chuối đã có những vết đen sẫm, chạy suốt thân. Đó là dấu hiệu của sự tàn úa. Em sờ tay vào thấy nham nhám chứ không trơn láng như cây chuối còn non. Buồng chuối dài lê thê, từ ngọn đổ xuống gốc. Buồng chuối có tới chục nải. Những nải chuối xếp thành từng lớp ngửa lên trên. Các quả chuối như bàn tay xòe ngón. Những trái chuối còn non, ốm gầy, ở đầu trái loe hoe túm râu đen] - Miêu tả theo cách khác: [Tàu trên ngọn, lá còn cuộn chưa nở hết trông như một chiếc loa. Buồng chuối dài lê thê như muốn kéo thân chuối ngã về một phía. Những nải chuối úp sát vào nhau, trái nhỏ dần phía dưới. Mỗi nải chen chúc những trái sởn sơ, to bằng cẳng tay em bé, dáng cong cong, phía dưới có cọng nhỏ kéo đen.]
  • 141. P31 [...] Chuối có ích như thế nên bà em thường xuyên chăm bón cho chuối tốt tươi.  đoạn này nêu vấn đề gì? Ta cần bổ sung thêm phần nào cho hoàn chỉnh? - Nhóm báo cáo kết quả thảo luận. - GV nhận xét: Gợi ý HS viết kết bài mở rộng để bài văn thuyết phục hơn, nêu bật được lợi ích của cây chuối tiêu. - GV chốt: Các câu trong đoạn văn điều hướng đến một nội dung nhất định. Muốn viết được những câu văn hay, trọn vẹn ý mà nêu bật được đối tượng miêu tả các em cần sử dụng linh hoạt các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong viết câu, dựng đoạn văn. - Gọi 1 – 2 HS đọc lại bài văn hoàn chỉnh. - Là đoạn văn nói về lợi ích của cây chuối. Ta cần bổ sung thêm phần mở đoạn và phát triển đoạn. - Kết quả thảo luận: [Cây chuối rất có ích. Trái chuối ăn rất ngon và là nguồn dinh dưỡng vô cùng quý giá.] - HS nhận xét và bổ sung cho nhóm bạn. - Có thể viết như sau: [Cây chuối cống hiến trọn vẹn cho con người. Củ chuối, thân chuối người ăn được nhưng chủ yếu để nuôi heo. Lá chuối bà dùng gói bánh tét ngày Tết. Hoa chuối dùng làm gỏi ăn rất ngon. Còn quả chuối chín thì vừa ngọt thơm vừa bổ dưỡng] - HS lắng nghe. - HS đọc bài văn miêu tả cây chuối tiêu. Bài tập củng cố: Chọn phương án thích hợp (mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông) để điền vào chỗ trống trong các đoạn văn dưới đây. Sắp xếp lại các đoạn văn để hoàn chỉnh bài văn tả sự thay đổi của lá bàng qua các mùa. 1. Vào....................... , khi tiết trời se lạnh những chiếc lá bàng to như hai bàn tay người lớn vốn màu xanh đậm chuyển sang màu vàng gạch quăn dần mép lá rồi vồng lên như hình mo cau. Lúc này nó biến sang màu đỏ tía và khi những chị gió thu tinh nghịch thổi đến nó vội vã bứt ra khỏi cành chao liệng giữa không trung i hệt những cánh tay vẫy chào tạm biệt nơi đã sinh ra mình. Nhìn những chiếc lá bàng nằm trải dài trên sân trường trông mới tuyệt làm sao! Cứ thế, những chiếc lá bàng chuyển dần màu sắc cho đến khi những cơn gió lạnh buốt từ phương Bắc tràn về thì cây bàng không còn một chiếc lá nào nữa. Cây bàng là một loại cây rất nhạy cảm với sự thay đổi của bốn mùa. Nhìn lá bàng người ta có thể nhận biết chính xác các mùa trong năm. Cho đến khi..........................về, lá vàng rợp mát cả một khoảng sân và đây là thời điểm mà tụi nhỏ chúng tôi tụm năm tụm bẩy vui đùa nhảy nhót hết sức thoải mái vào những giờ chơi dưới gốc bàng mát rượi thân yêu này. Bàng còn là nơi gọi chim về tụ hội ca hát nhảy múa trong vòm lá. Càng tô điểm cho cây vẻ đẹp mĩ miều. Rồi tiết trời như ấm lại,............................. đã về. Chỉ một tuần thôi thì những chồi
  • 142. P32 non xanh li ti đã điểm hết những cành to, cành nhỏ. Thoáng cái đã thấy màu xanh non bao phủ lấy toàn thân cây và chuyển dần sang màu xanh đậm. Những chiếc lá của tầng thấp, tầng cao phát triển nhanh đến kì lạ. Từ bé bằng bàn tay trẻ nhỏ mà nay đã phè phè như cái quạt mo. Tụi nhỏ chúng tôi yêu cây bàng này lắm bởi nó đã gắn bó với ngôi trường tôi. Nó còn là nơi chứng kiến bao kỉ niệm vui buồn của tuổi học trò. Dù mai này có phải xa mái trường, xa cây bàng yêu dấu này thì hình ảnh về cây bàng mãi mãi in đậm trong tâm trí tôi. Còn lại những cành trơ trụi trông có vẻ khẳng khiu gồng mình chịu đựng cái rét lạnh buốt của.............................nhưng trong những cành khẳng khiu ấy vẫn tràn trề nhựa sống. (Gợi ý đáp án: mùa thu – mùa đông – mùa xuân – mùa hạ, thứ tự sắp xếp 2 – 1 – 6 – 4 – 3 – 5 ) 3. Củng cố - dặn dò: - Muốn viết được một đoạn văn miêu tả cây cối hay, ngoài việc biết quan sát, chọn lựa chi tiết, tìm ý, lập dàn ý thì cần phải sử dụng các phương tiện ngôn ngữ để liên kết các câu, đoạn văn lại và các biện pháp tu từ trong viết văn để cho bài văn trở nên sinh động, lôi cuốn hơn. - Nhận xét tiết học, chuẩn bị cho bài học sau: Tóm tắt tin tức. - HS lắng nghe
  • 143. P33 PHỤ LỤC 7 ĐỀ KIỂM TRA SAU THỰC NGHIỆM Đề 1: Bằng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ trong tạo lập văn bản miêu tả, em hãy viết bài văn ngắn tả một con vật mà em quý mến. Đề 2: Hãy viết đoạn văn ngắn tả một cây bóng mát trong sân trường em, trong đó có sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và biện pháp tu từ.
  • 144. P34 PHỤ LỤC 8 PHIẾU ĐIỀU TRA HỨNG THÚ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH Họ và tên:................................................................................................................. Lớp: ..................Trƣờng:......................................................................................... Em hãy khoanh tròn vào chữ cái đầu câu trả lời: Sau khi học xong các bài thực nghiệm Tập làm văn, em có cảm thấy hứng thú hơn với các tiết học Tập làm văn trước đây không? A. Rất hứng thú C. Bình thường B. Tương đối hứng thú D. Không hứng thú
  • 145. P35 PHỤ LỤC 9 ĐƠN XÁC NHẬN THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM