ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
GIANG THỊ THẢO
SO S¸NH QUY §ÞNH CñA Bé LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Vµ QUY §ÞNH CñA Bé LUËT H×NH Sù MéT Sè N¦íC
VÒ TéI RöA TIÒN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
GIANG THỊ THẢO
SO S¸NH QUY §ÞNH CñA Bé LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Vµ QUY §ÞNH CñA Bé LUËT H×NH Sù MéT Sè N¦íC
VÒ TéI RöA TIÒN
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS DƢƠNG TUYẾT MIÊN
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
NGƢỜI CAM ĐOAN
Giang Thị Thảo
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI RỬA TIỀN THEO QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999...................7
1.1. Dấu hiệu pháp lý của tội rửa tiền theo quy định của BLHS
Việt Nam năm 1999 ............................................................................ 7
1.1.1. Khách thể của tội rửa tiền..................................................................... 7
1.1.2. Mặt khách quan của tội rửa tiền ......................................................... 12
1.1.3. Mặt chủ quan của tội rửa tiền............................................................. 18
1.1.4. Chủ thể của tội rửa tiền....................................................................... 21
1.2. Đƣờng lối xử lý của tội rửa tiền theo quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999.............................................................................. 24
1.2.1. Khoản 1 Điều 251............................................................................... 24
1.2.2. Khoản 2 Điều 251............................................................................... 25
1.2.3. Khoản 3 Điều 251............................................................................... 30
1.3. So sánh quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 với qui
định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội rửa tiền........................ 35
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 38
Chƣơng 2: SO SÁNH QUY ĐỊNH VỀ TỘI RỬA TIỀN THEO
QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH (BLHS NĂM 1999) VỚI QUY ĐỊNH TƢƠNG ỨNG
CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA THUỘC HỆ THỐNG LUẬT
THÀNH VĂN VÀ HỆ THỐNG ÁN LỆ......................................... 39
2.1. So sánh qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
với qui định của Bộ luật hình sự Trung Quốc, Thụy Điển
(thuộc hệ thống luật thành văn) về tội rửa tiền ............................. 39
2.1.1. So sánh qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam với qui định
của Bộ luật hình sự Trung Quốc về tội rửa tiền ................................. 39
2.1.2. So sánh qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam với qui định
của Bộ luật hình sự Thụy Điển về tội rửa tiền ................................... 43
2.2. So sánh quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
với quy định của pháp luật hình sự Mỹ và Canada (thuộc
hệ thống án lệ) về tội rửa tiền.......................................................... 48
2.2.1. So sánh quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 với quy định
của pháp luật hình sự Mỹ về tội rửa tiền............................................ 48
2.2.2. So sánh quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 với
quy định của Bộ luật hình sự Canada về tội rửa tiền ......................... 53
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 59
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀN............... 60
3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc cần thiết hoàn thiện quy
định của Bộ luật hình sự về tội rửa tiền ......................................... 60
3.1.1. Cơ sở lý luận....................................................................................... 60
3.1.2. Cơ sở thực tiễn.................................................................................... 67
3.2. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự từ việc so sánh với
Bộ luật hình sự Trung Quốc và Thụy Điển, Mỹ và Canada ........ 71
3.2.1. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự từ việc so sánh với
Bộ luật hình sự Trung Quốc và Thụy Điển........................................ 71
3.2.2. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự từ việc so sánh với
pháp luật hình sự của Mỹ và Canada.................................................. 74
3.3. Những đề xuất cụ thể ....................................................................... 75
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 79
KẾT LUẬN.................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 82
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
CTTP:
FATF:
TNHS:
Bộ luật hình sự
Cấu thành tội phạm
Lực lƣợng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền
Trách nhiệm hình sự
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Rửa tiền là hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xuất hiện từ lâu trên thế
giới. Cùng với quá trình toàn cầu hoá và sự phát triển của đời sống xã hội,
hành vi rửa tiền ngày càng lớn về quy mô, đa dạng, tinh vi về cách tiến hành.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, khi mà đời sống kinh tế - xã hội
ngày càng phát triển mạnh mẽ, tội phạm rửa tiền cũng ngày một phát triển.
Không chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế, rửa tiền còn ảnh hƣởng
lớn đến an ninh quốc gia, tác động nghiêm trọng đến sự trong sạch và hoàn
chỉnh của hệ thống tài chính quốc gia. Hơn thế nữa, tội phạm rửa tiền không
chỉ tồn tại trong một quốc gia mà còn phát triển, lan rộng ra khỏi biên giới
quốc gia và mang tính quốc tế. Vì thế, rửa tiền đƣợc xem là loại tội phạm
không biên giới, có ảnh hƣởng lâu dài, thậm chí lũng đoạn kinh tế, chính trị
quốc gia và khu vực. Trên thực tế, hoạt động rửa tiền rất tinh vi, việc phát
hiện, điều tra tội phạm này cực kỳ phức tạp.
Lần đầu tiên đƣợc tội phạm hoá trong BLHS năm 1999, hành vi rửa
tiền có tên gọi là tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có (Điều 251
BLHS 1999). Sau đó, tội danh này đƣợc sửa đổi với tên gọi mới là tội rửa tiền
tại BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 và có hiệu lực ngày 01/01/2010. Cùng
với sự ra đời của Luật phòng, chống rửa tiền, từ đó cho đến nay, Việt Nam
mới chỉ xét xử duy nhất một vụ án về tội phạm này. (Năm 2006, Toà án nhân
dân TP Hà Nội đã xét xử vụ Phan Văn Cẩn về tội hợp pháp tiền, tài sản do
phạm tội mà có. Bị cáo đã bị kết án 1 năm tù nhƣng cho hƣởng án treo. Một
số vụ án rửa tiền khác tuy đã bị phát hiện ở Việt Nam nhƣng do nhiều lí do
khác nhau nên đã không bị xét xử tại Việt Nam. Ví dụ nhƣ vụ án Lê Thị
Phƣơng Mai, Việt Kiều Mỹ. Lê Thị Phƣơng Mai cầm đầu một băng nhóm tội
2
phạm buôn bán ma tuý ở Canada và Mỹ. Lê Thị Phƣơng Mai đã bị Cục điều
tra Liên bang Mỹ (FBI) bắt và xét xử tại Mỹ. Quá trình điều tra của FBI cho
thấy, Lê Thị Phƣơng Mai đã rửa 25 triệu đô la ở Khánh Hoà thông qua việc
đầu tƣ kinh doanh bất động sản tại tỉnh này). Điều này cho thấy còn tồn tại bất
cập trong qui định của BLHS hiện hành về tội danh này cũng nhƣ thực tiễn áp
dụng. Trong khi đó, ở nhiều nƣớc trên thế giới, hoạt động xây dựng và áp
dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm này đã khá phát triển và đạt đƣợc
nhiều bƣớc tiến đáng kể trong phòng, chống rửa tiền. Do đó, nghiên cứu, so
sánh quy định về tội rửa tiền theo qui định của luật hình sự Việt Nam với quy
định của pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới, từ đó đƣa ra các đề
xuất cụ thể để hoàn thiện qui định của BLHS Việt Nam về tội rửa tiền là rất
cần thiết. Với lí do đó, em đã chọn và nghiên cứu đề tài “So sánh quy định
của BLHS Việt Nam và quy định của BLHS một số nước trên thế giới về tội
rửa tiền” làm luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn góp phần nhỏ bé vào
việc hoàn thiện các quy định của BLHS về tội rửa tiền, góp phần vào công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và đấu tranh phòng chống tội
phạm này nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dƣới góc độ luật hình sự, trong thời gian qua đã có một số công trình
nghiên cứu sau có liên quan đến đề tài:
* Về luận văn thạc sĩ luật học có các công trình sau:
+ “Tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có trong luật hình sự
Việt Nam”; tác giả Nguyễn Triệu Nhƣ Thƣờng, Đại học quốc gia Hà Nội,
năm 2008;
+ “Việt Nam với nghĩa vụ pháp lý thành viên nhóm Châu Á - Thái Bình
Dương về chống rửa tiền (APG)”; tác giả Nguyễn Thị Thúy Ngọc, Đại học
quốc gia Hà Nội, năm 2009;
3
+ “Hoàn thiện quy định về tội rửa tiền trong Luật Hình sự Việt Nam
trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế”; tác giả Trần Văn Tuân, Đại học quốc gia Hà
Nội, năm 2013.
* Về khoá luận tốt nghiệp đại học có các công trình sau:
+ “Pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng -
Thực trạng và hướng hoàn thiện”, tác giả Tào Thu Minh Nguyệt, Đại học luật
Hà Nội, năm 2009;
+ “Tội rửa tiền dưới góc độ so sánh luật”; tác giả Nguyễn Thị Vân
Anh, Đại học luật Hà Nội, năm 2012;
+ “Một số đánh giá về pháp luật phòng, chống rửa tiền trong hoạt
động ngân hàng ở Việt Nam”, tác giả Bùi Thị Hằng, Đại học luật Hà Nội,
năm 2012;
* Về bài viết đăng trên tạp chí có các công trình sau:
+ Về hành vi "Rửa tiền" theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam,
tác giả Nguyễn Hữu Thanh, Tạp chí Luật học - Trƣờng Đại học Luật Hà Nội,
Số 6/2001, tr. 36 - 41;
+ Tìm hiểu về việc phòng chống tội phạm rửa tiền trên thế giới, tác giả
Nông Xuân Trƣờng, Tạp chí Kiểm sát - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số
5/2005, tr. 52 - 54;
+ Sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS về tội rửa tiền góp phần tháo gỡ
khó khăn trong thực tiễn và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, tác giả
Nguyễn Văn Hoàn, Tạp chí Kiểm sát - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số
4/2009, tr. 56 - 61;
+ Phòng chống rửa tiền ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế; tác giả Vƣơng Tinh Mạch. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Văn phòng
Quốc hội, Số 7/2009, tr. 48 - 51;
+ Phòng chống rửa tiền - kinh nghiệm của các nước và bài học cho
4
Việt Nam, tác giả Văn Tạo, Tạp chí Ngân hàng - Ngân hàng nhà nƣớc Việt
Nam, Số 1/2010, tr. 31 - 39;
+ Tội phạm rửa tiền trong luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS
và một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng, tác giả Đặng Thu Hiền, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật - Bộ Tƣ pháp, Số 5/2010, tr. 19 - 25;
+ Đánh giá tính tương thích giữa qui định của BLHS Việt Nam với qui
định của chuẩn mức quốc tế về tội rửa tiền, tác giả Dƣơng Tuyết Miên, Tạp
chí Toà án nhân dân, số 4/2011.
Các công trình trên ở các mức độ khác nhau đã nghiên cứu về tội rửa
tiền dƣới góc độ luật hình sự. Đề tài về tội rửa tiền nghiên cứu dƣới góc độ
so sánh đã có một số tác giả tìm hiểu, tuy nhiên, cho đến nay chƣa có tác giả
nào nghiên cứu, so sánh một cách tổng thể về tội rửa tiền theo qui định của
BLHS Việt Nam với một số quốc gia có pháp luật hình sự phát triển thuộc
hai hệ thống pháp luật điển hình trên thế giới là hệ thống luật thành văn
(Civil Law) và hệ thống án lệ hay còn gọi là hệ thống thông luật (Common
Law), từ đó đề xuất kiến nghị, góp phần hoàn thiện qui định tƣơng ứng của
BLHS Việt Nam. Vì lẽ đó, tác giả đã chọn đề tài “So sánh quy định của
BLHS Việt Nam và quy định của BLHS một số nước trên thế giới về tội rửa
tiền” làm luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội rửa tiền
trên cơ sở nghiên cứu qui định của BLHS Việt Nam hiện hành, so sánh với
quy định tƣơng ứng của BLHS của một số quốc gia điển hình thuộc hai hệ
thống pháp luật lớn nhất trên thế giới. Cụ thể là BLHS Trung Quốc và Thuỵ
Điển thuộc hệ thống luật thành văn (Civil Law); BLHS của Mỹ và Canada
thuộc hệ thống án lệ (Common Law); từ đó đề xuất những kiến nghị cụ thể
góp phần hoàn thiện quy định của BLHS nƣớc ta về tội danh này.
5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, tác giả đặt ra những nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Nghiên cứu quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội rửa tiền
(có sự liên hệ với qui định của BLHS năm 2015).
- Nghiên cứu so sánh quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội
rửa tiền với qui định tƣơng ứng của BLHS Trung Quốc và Thuỵ Điển (thuộc
hệ thống luật thành văn), đồng thời, cũng so sánh với qui định BLHS của Mỹ
và Canada (thuộc hệ thống án lệ), từ đó xem xét, học tập kinh nghiệm lập
pháp hình sự của các quốc gia này khi qui định về tội rửa tiền.
- Đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam về
tội danh này.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn đƣợc nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và so sánh luật.
Tác giả sẽ tập trung nghiên cứu các quy định của BLHS Việt Nam hiện hành
về dấu hiệu pháp lý và đƣờng lối xử lí đối với tội rửa tiền, có sự liên hệ với
qui định của BLHS năm 2015 về tội rửa tiền; so sánh với quy định này của
BLHS Việt Nam với BLHS của một số quốc gia điển hình là BLHS Trung
Quốc và Thuỵ Điển (thuộc hệ thống luật thành văn), BLHS của Mỹ và
Canada (thuộc hệ thống án lệ).
6. Tính mới của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu ở cấp độ thạc sĩ nghiên cứu chuyên
sâu, tƣơng đối toàn diện dƣới góc độ so sánh luật trên cơ sở nghiên cứu qui
định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội rửa tiền trong sự so sánh với
BLHS của một số quốc gia có pháp luật hình sự phát triển thuộc hai hệ thống
pháp luật điển hình trên thế giới là hệ thống luật thành văn (Civil Law) và hệ
thống án lệ (Common Law).
6
7. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Để nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa Mác Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử),
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và những chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, Nhà nƣớc
về đấu tranh phòng chống tội phạm, về chính sách hình sự nói chung.
- Tác giả sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: phƣơng pháp so
sánh, phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, phƣơng pháp lịch sử …
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Dấu hiệu pháp lý và đƣờng lối xử lí của tội rửa tiền theo
quy định tại BLHS Việt Nam năm 1999.
Chương 2: So sánh quy định về tội rửa tiền theo qui định của BLHS
Việt Nam hiện hành với quy định tƣơng ứng của BLHS
một số quốc gia điển hình thuộc hệ thống luật thành văn và
hệ thống án lệ.
Chương 3: Phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam
hiện hành về tội rửa tiền.
7
Chương 1
DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI RỬA TIỀN THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
Thuật ngữ “rửa tiền” lần đầu tiên xuất hiện trên báo chí Mỹ vào năm
1973 trong vụ bê bối tài chính Watergate nổi tiếng nƣớc Mỹ, tuy nhiên, phải
đợi 5 năm sau, thuật ngữ "rửa tiền" mới chính thức đƣợc sử dụng trong một số
văn bản pháp lý của tòa án Mỹ [41]. Sau đó, thuật ngữ này dần trở nên phổ
biến trong những thập kỉ gần đây bởi tính phổ biến và mức độ ảnh hƣởng của
chúng. Theo Lực lƣợng đặc nhiệm tài chính FATF (Finance Action Task
Force) - Tổ chức chuyên nghiên cứu và đƣa ra những chuẩn mực quốc tế về
chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố, đƣợc thành lập tại Hội nghị thƣợng
đỉnh của nhóm G7 ở Pari vào năm 1989), rửa tiền đƣợc hiểu là: “rửa tiền là
toàn bộ các hoạt động được tiến hành một cách cố ý nhằm hợp pháp hóa tiền
và tài sản có nguồn gốc từ tội phạm” [41].
Theo quy định tại Luật phòng chống rửa tiền của Việt Nam thì “rửa
tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài
sản do phạm tội mà có” [32, Điều 4, khoản 1]. Cho đến nay, hầu hết luật
hình sự của các nƣớc trên thế giới đều đã qui định về tội rửa tiền. Dƣới đây,
tác giả sẽ trình bày dấu hiệu pháp lí của tội rửa tiền theo qui định của BLHS
Việt Nam năm 1999.
1.1. Dấu hiệu pháp lý của tội rửa tiền theo quy định của BLHS Việt
Nam năm 1999
1.1.1. Khách thể của tội rửa tiền
Theo khoa học luật hình sự, “khách thể của tội phạm là những quan hệ
xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại” [38, tr.78].
Trong BLHS năm 1999, tội rửa tiền đƣợc xếp vào chƣơng XIX “các tội
8
xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng”. Nhƣ vậy theo quy định của
BLHS hiện hành thì khách thể loại của tội phạm này là quan hệ xã hội về trật
tự, an toàn công cộng. An toàn công cộng, trật tự công cộng là hệ thống các
quan hệ xã hội đƣợc hình thành và điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật
và các nội quy, quy tắc về trật tự chung, an toàn chung đòi hỏi mọi thành viên
của xã hội phải tuân theo những quy định đó nhằm đảm bảo cuộc sống, lao
động, sinh hoạt bình thƣờng của mọi ngƣời trong xã hội. Đây là nhóm quan
hệ xã hội rộng lớn, ảnh hƣởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, là nền tảng
cho sự phát triển của xã hội. Theo cách hiểu chung, rửa tiền là hành vi nhằm
hợp pháp hóa nguồn gốc bất hợp pháp của các khoản tiền do phạm tội mà có.
Từ định nghĩa này có thể thấy, hoạt động rửa tiền ảnh hƣởng tiêu cực đến
nhiều mặt của đời sống xã hội nhƣ làm rối loạn hoạt động tài chính - tiền tệ,
ảnh hƣởng đến sự lành mạnh của các định chế tài chính, mặt bằng thu nhập,
tạo điều kiện cho tội phạm và tệ nạn xã hội gia tăng, làm sai lệch mặt bằng
đầu tƣ dẫn đến mất ổn định kinh tế, làm suy yếu việc cải tổ nền kinh tế. Ngoài
ra, tội phạm rửa tiền còn gây khó khăn cho công tác điều tra tội phạm, thu hồi
tài sản phạm pháp, gây ảnh hƣởng xấu tới uy tín quốc gia, gây mất niềm tin
vào công lý, phá vỡ trật tự phát triển kinh tế lành mạnh của quốc gia và quốc
tế. Không phải ngẫu nhiên mà trong Công ƣớc của Liên hợp quốc về chống
buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hƣớng thần năm 1988 - Công
ƣớc đầu tiên đề cập đến việc cần thiết phải hình sự hóa hành vi rửa tiền trong
pháp luật mỗi quốc gia, khi nhận định về hoạt động buôn bán bất hợp pháp
các chất ma túy và chất hƣớng thần trong vai trò là tội phạm nguồn của tội rửa
tiền đã sử dụng những cụm từ nhƣ “ảnh hƣởng bất lợi đối với nền kinh tế, văn
hóa, chính trị của xã hội” và “tạo điều kiện cho các tổ chức tội phạm xuyên
quốc gia thâm nhập, làm ô nhiễm và phá hoại cơ cấu bộ máy Chính phủ, hoạt
động tài chính và thƣơng mại hợp pháp, phá hoại xã hội ở mọi cấp độ” [17].
9
Nhƣ vậy, nhìn nhận một cách chung nhất, tội phạm rửa tiền xâm hại đến trật
tự hoạt động bình thƣờng của đời sống kinh tế - xã hội, đảo lộn trật tự chung,
gây mất an toàn công cộng, làm rối loạn môi trƣờng xã hội. Qua đó, có thể
thấy tính nguy hiểm và cần ngăn chặn tội phạm rửa tiền, đặc biệt là trong bối
cảnh kinh tế thị trƣờng của nƣớc ta hiện nay. Tuy nhiên, với cách sắp xếp của
BLHS hiện hành, tội rửa tiền đang đƣợc xếp vào nhóm tội có khách thể mang
tính vĩ mô hơn là vi mô. Bởi nhìn nhận một cách khách quan thì hoạt động
rửa tiền trƣớc tiên là xâm hại đến các quan hệ xã hội thuộc nhóm kinh tế, làm
mất cân bằng, ổn định và trật tự của nền kinh tế, qua đó mới gián tiếp gây ảnh
hƣởng đến ổn định xã hội, an toàn, trật tự công cộng, đến đời sống xã hội nói
chung. Đây cũng là một vấn đề cần lƣu ý để sắp xếp nhóm cho phù hợp hơn
để việc xác định các đƣờng lối xử lý, ngăn chặn tội phạm này đƣợc hiệu quả,
chính xác hơn.
Về khách thể trực tiếp, tội phạm rửa tiền xâm phạm trật tự quản lý nhà
nƣớc đối với tài sản do phạm tội mà có. Những tài sản mà tội phạm có đƣợc
do phạm tội lẽ ra phải bị phát hiện kịp thời, tịch thu để xử lý theo quy định
pháp luật hiện hành nhằm đảm bảo sự chuẩn mực của hoạt động tƣ pháp, sự
trong sạch, lành mạnh, ổn định của hoạt động kinh tế, nhằm thiết lập trật tự
công cộng chuẩn mực, nhƣng những tài sản này lại bị tội phạm rửa tiền quản
lý, sử dụng theo cách riêng của chúng nhằm hợp pháp hoá tài sản. Nhƣ vậy,
tài sản đã không nằm trong chu trình vận động bình thƣờng trong xã hội mà
đi theo một chu trình mới có sự điều khiển của kẻ phạm tội rửa tiền. Trật tự
quản lý nhà nƣớc đối với tài sản này đã bị phá vỡ hoàn toàn. Xâm hại trật tự
này, tội phạm rửa tiền tạo ra những khối tài sản, những dòng tiền có vẻ
ngoài hợp pháp, sạch sẽ nhƣng thực chất là tài sản, là tiền bất hợp pháp, tiền
bẩn làm đảo lộn, làm mất tính ổn định và cạnh tranh lành mạnh cần thiết của
môi trƣờng kinh tế xã hội trong sạch, bình đẳng, dẫn đến những hệ luỵ phức
10
tạp khó kiểm soát. Số tiền, tài sản do phạm tội mà có này sau khi tẩy rửa lại
đem lại lợi ích cho một nhóm ngƣời trong xã hội. Mâu thuẫn này không chỉ
nguy hiểm cho trật tự, an toàn công cộng, cho nền kinh tế mà còn thể hiện sự
bất lực, yếu kém của Nhà nƣớc trong quản lý xã hội và đấu tranh chống tội
phạm. Về lâu dài, nếu không kiểm soát đƣợc vấn đề này mà để nó phát triển
có thể dẫn tới đổ vỡ tài chính, kinh tế gây nên những hậu quả khôn lƣờng về
chính trị - xã hội. Nhƣ vậy, tội phạm rửa tiền đã xâm hại đến một quan hệ xã
hội quan trọng, có tính thiết yếu trong đời sống công cộng nói chung và đời
sống kinh tế nói riêng.
Xét ở góc độ khác, có thể nói rằng khách thể trực tiếp của tội phạm rửa
tiền là quan hệ sở hữu. Do bản chất sở hữu bất hợp pháp tiền, tài sản do phạm
tội mà có nên tội phạm rửa tiền tìm cách biến đổi thành sở hữu hợp pháp của
chúng. Tài sản, tiền thu đƣợc từ hoạt động phạm tội đó thực chất thuộc sở hữu
hợp pháp của đối tƣợng khác (nhƣ cá nhân, tổ chức, Nhà nƣớc…) nhƣng đã bị
tội phạm nguồn chiếm đoạt rồi tội phạm rửa tiền tìm cách thay đổi, che đậy
bản chất sở hữu bất hợp pháp đó bằng hình thức sở hữu hợp pháp thông qua
nhiều cách thức tinh vi. Tuy nhiên, dù có thay đổi thì về bản chất, tiền, tài sản
này vẫn là bất hợp pháp, không thuộc sở hữu của tội phạm.
Xét về đối tƣợng tác động của tội phạm. Đó là tiền, tài sản do phạm tội
mà có. Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-
BCA-BQP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30/11/2011 của Bộ Công
an, Bộ quốc phòng, Ngân hàng nhà nƣớc, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng quy định của BLHS về tội chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có và tội rửa tiền (sau đây gọi
tắt là Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-NHNNVN-VKSNDTC-
TANDTC) thì tài sản do phạm tội mà có là tài sản do ngƣời phạm tội có đƣợc
trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt đƣợc,
11
tham ô, nhận hối lộ…) hoặc do ngƣời phạm tội có đƣợc từ việc mua bán, đổi
chác bằng tài sản có đƣợc trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví
dụ: xe máy có đƣợc từ việc dùng tiền tham ô để mua) [1]. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 4 Luật phòng, chống rửa tiền số 07/2012/QH13 ngày 18/6/2012
(sau đây gọi tắt là Luật phòng, chống rửa tiền) thì:
Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản
theo quy định của Bộ luật dân sự, có thể tồn tại dƣới hình thức vật
chất hoặc phi vật chất; động sản hoặc bất động sản; hữu hình hoặc
vô hình; các chứng từ hoặc công cụ pháp lý chứng minh quyền sở
hữu hoặc lợi ích đối với tài sản đó [32, Điều 4, khoản 2].
Quy định này phù hợp với định nghĩa về tài sản đƣợc quy định tại
khoản g Điều 1 Công ƣớc Liên hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp
các chất ma túy và chất hƣớng thần năm 1988 (sau đây gọi tắt là Công ƣớc
Viên) “tài sản có nghĩa là tài sản dưới mọi hình thức hữu hình hay vô hình,
động sản hay bất động sản, vật chất hay phi vật chất và cả những tài liệu
hoặc văn bản pháp lý chứng nhận quyền sở hữu hoặc các quyền lợi trong tài
sản đó” [17, Điều 1]. Khác với quy định của pháp luật một số nƣớc giới hạn
tiền, tài sản trong một số tội phạm nguồn nhất định, BLHS Việt Nam 1999
không giới hạn do đó tiền, tài sản này có thể là kết quả của bất kỳ tội phạm
nào khác. Tiền, tài sản này có hai vai trò, vừa là tiền, tài sản mà tội phạm ban
đầu thu đƣợc, tức là kết quả của hành vi phạm tội nguồn, vừa là đối tƣợng tác
động, mục tiêu của tội phạm rửa tiền. Về tính chất, tiền, tài sản này mang tính
phi pháp, do đã bị chuyển đổi hình thức sở hữu một cách bất hợp pháp qua
quá trình thực hiện tội phạm nguồn nên đó không phải là tiền, tài sản hợp
pháp đƣợc phép lƣu thông công khai trên thị trƣờng. Với các tội phạm khác,
sau khi tội phạm hoàn thành, các giá trị vật chất thu đƣợc nhƣ tiền, tài sản
mang tính bất hợp pháp thì với tội phạm rửa tiền, sản phẩm tiền, tài sản lại
12
mang vỏ bọc hợp pháp (mặc dù bản chất của nó vẫn là bất hợp pháp). Do đó,
có thể nói tội phạm rửa tiền là tội phạm mà tất cả các tội phạm thu đƣợc giá trị
vật chất đều hƣớng tới, do tính chất đặc biệt của đối tƣợng tác động của tội
phạm rửa tiền. Tuy nhiên, cách dùng từ “tiền, tài sản” mà BLHS đang sử dụng
chƣa phù hợp với cách dùng từ trong các văn bản pháp luật trong nƣớc và quốc
tế hiện nay chỉ dùng từ “tài sản” là đã bao hàm trong đó cả tiền, tài sản.
1.1.2. Mặt khách quan của tội rửa tiền
“Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan” [38, tr.91]. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi khách quan
nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện tội phạm
nhƣ công cụ, phƣơng tiện phạm tội, phƣơng pháp thủ đoạn phạm tội…
Theo quy định tại Điều 251 BLHS năm 1999, tội rửa tiền đƣợc qui định
là tội phạm có CTTP hình thức có nghĩa là nhà làm luật chỉ qui định (mô tả)
hành vi khách quan và không qui định về hậu quả của tội phạm. Hành vi
khách quan của tội rửa tiền gồm có bốn dạng hành vi sau đây:
Thứ nhất, hành vi “tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài
chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác liên quan đến tiền, tài sản biết rõ là do
phạm tội mà có nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-
BCA-BQP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC thì các hành vi thuộc nhóm một
bao gồm:
a) Gửi tiền và mở tài khoản tại ngân hàng;
b) Cầm cố, thế chấp tài sản;
c) Cho vay, ủy thác, thuê, mua tài chính;
d) Chuyển tiền, đổi tiền;
13
đ) Mua, bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;
e) Phát hành chứng khoán;
g) Phát hành các phƣơng tiện thanh toán;
h) Bảo lãnh và cam kết tài chính, kinh doanh ngoại hối, các
công cụ thị trƣờng tiền tệ, chứng khoán có thể chuyển nhƣợng;
i) Quản lý danh mục đầu tƣ của cá nhân, tập thể;
k) Quản lý tiền mặt hoặc chứng khoán thanh khoản thay mặt
cho cá nhân, tập thể;
l) Đầu tƣ vốn hoặc tiền cho cá nhân, tập thể;
m) Tiến hành các hoạt động bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm
liên quan đến các khoản đầu tƣ khác;
n) Những hoạt động nhằm tạo sự chuyển đổi, chuyển dịch
hoặc thay đổi quyền sở hữu đối với tiền, tài sản của cá nhân, cơ
quan, tổ chức [1, Điều 3, khoản 1].
Ở dạng hành vi này, ngƣời phạm tội đã thực hiện tội phạm bằng cách
thực hiện các giao dịch tài chính, ngân hàng thông qua các tổ chức tài chính
nhƣ tín dụng, chứng khoán, trái phiếu, chuyển tiền, đổi tiền, bảo hiểm…
Đây là dạng hành vi đầu tiên đƣợc nhà làm luật liệt kê đến. Điều này khá
phù hợp với thực tế vì đây là cách thức đầu tiên thƣờng sử dụng trong quy
trình rửa tiền mà tội phạm thƣờng thực hiện. Quy trình này đƣợc trình bày
khá kĩ trong một số tài liệu nghiên cứu của các cá nhân, tổ chức tài chính lớn
trên thế giới [30]. Tác giả xin tóm lƣợc nhƣ sau: Thông thƣờng, quy trình rửa
tiền đƣợc chia là ba giai đoạn. a) Giai đoạn đầu tiên là sắp đặt. Giai đoạn này
liên quan đến việc bố trí các quỹ có nguồn gốc phi pháp vào trong hệ thống
tài chính, thƣờng thông qua một tổ chức tài chính ví dụ nhƣ gửi tiền vào tài
khoản ngân hàng. Những lƣợng tiền mặt lớn đƣợc chia nhỏ và gửi dần vào
các tài khoản, các bộ phận khác nhau của các tổ chức tài chính, hoặc đổi từ
14
tiền này sang tiền kia hay từ mệnh giá thấp sang mệnh giá cao. b) Giai đoạn 2
là sắp lớp (chia nhỏ), kẻ phạm tội sẽ thực hiện việc phân tán, quay vòng tiền.
Giai đoạn này xảy ra khi những khoản tiền bẩn đã đƣợc đƣa vào hệ thống tài
chính, các khoản tiền, chứng khoán hoặc hợp đồng bảo hiểm tiếp tục đƣợc
chuyển đổi hoặc chuyển sang các tổ chức khác nhằm tiếp tục tục tách chúng
ra khỏi nguồn gốc phạm tội. Trong giai đoạn này, những kẻ rửa tiền sử dụng
tiền bẩn để thực hiện càng nhiều giao dịch tài chính càng tốt, đặc biệt là các
giao dịch xuyên quốc gia nhƣ chuyển đổi qua lại giữa các tài khoản ngân
hàng, các quốc gia, đầu tƣ dự án, chuyển đổi thành chứng khoán, séc du
lịch… nhằm tạo ra một mạng lƣới giao dịch chằng chịt, phức tạp và khó lần
dấu vết, càng xa điểm xuất phát càng tốt. c) Giai đoạn cuối cùng là hòa
nhập: đƣa khoản tiền vào nền kinh tế chính thống nhƣ mua tài sản nhƣ hàng
xa xỉ, bất động sản…
Ngƣời phạm tội trong giai đoạn đầu tiên có thể thực hiện hành vi trực
tiếp nhƣ mở tài khoản, mang tiền gửi vào tài khoản, hoặc hoạt động nghiệp vụ
nếu là ngƣời có chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng tài chính, hoặc gián tiếp
nhƣ tƣ vấn, chỉ đạo, nhờ vả, ép buộc ngƣời khác thực hiện hành vi… Nhƣ vậy
trong giai đoạn này, tội phạm rửa tiền thành công nhờ thông qua tính pháp lý
trong các giao dịch với pháp nhân là các tổ chức, các định chế tài chính để
hợp pháp số tiền bẩn. Do đó, Luật phòng, chống rửa tiền đã quy định rất nhiều
nội dung liên quan đến việc theo dõi, giám sát, báo cáo và xử lý các giao dịch
tài chính đáng ngờ [32]. Những quy định này là cần thiết và phù hợp với
nhóm các khuyến nghị B “các biện pháp đƣợc các định chế tài chính và các
loại hình kinh doanh và ngành nghề phi tài chính thực hiện nhằm ngăn ngừa
hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố” đƣợc nêu trong trong 40+9 khuyến
nghị về chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố của Lực lƣợng đặc nhiệm tài
chính về chống rửa tiền FATF [7].
15
Thứ hai, hành vi “sử dụng tiền hoặc tài sản khác biết rõ là do phạm tội
mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Thông tƣ số 09/2011/TTLT-BCA-
BQP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC thì:
Sử dụng tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có vào việc
tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác là việc
dùng tiền, tài sản đó vào các hoạt động kinh doanh, dịch vụ, thành
lập công ty, xây dựng trƣờng học, bệnh viện, mua tài sản dƣới các
hình thức khác nhau hoặc sử dụng dƣới danh nghĩa tài trợ, từ thiện,
viện trợ nhân đạo [1, Điều 3, khoản 2].
Sau hai giai đoạn đầu tiên, ở giai đoạn thứ ba này, đƣa tiền bẩn vào kinh
doanh là lựa chọn hàng đầu cho các biện pháp rửa tiền. Tiền bẩn đã “bƣớc ra”
từ các giao dịch tài chính, ngân hàng, xuất hiện dƣới vỏ bọc hợp pháp đầu tiên
để tiếp tục tham gia vào hoạt động kinh doanh thực tế ngoài thị trƣờng, chuyển
đổi thành các tài sản hữu hình. Điều này đồng nghĩa là lúc này tiền bẩn đã
ngang nhiên tồn tại trên thị trƣờng, vỏ bọc hợp pháp đã phát triển hoàn thiện.
Bằng các cách thức khác nhau, hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận thực tế
hoặc lợi nhuận khống sẽ là vỏ bọc hợp pháp nhất cho tiền bẩn. Ngƣời phạm tội
có thể thành lập doanh nghiệp, công ty, đầu tƣ dự án… những đối tƣợng này
thƣờng chỉ là vỏ bọc rỗng ruột hoặc hoạt động không hiệu quả nhƣng lại đƣợc
báo cáo là hoạt động có lãi. Tiền lãi ở đây chính là tiền bẩn. Để hợp pháp hóa
tiền bẩn bằng cách này, tội phạm thƣờng chọn những lĩnh vực đƣợc đánh giá là
lợi nhuận cao, đang chiếm ƣu thế trên thị trƣờng để dễ dàng qua mắt các cơ
quan chức năng. Ngoài ra, tội phạm còn mua cổ phần của các công ty, doanh
nghiệp chân chính đang làm ăn có lãi để trà trộn tiền bẩn vào tiền sạch, thu lợi
nhuận và tiến tới nắm quyền kiểm soát, chi phối doanh nghiệp với số cổ phần
ngày một tăng, mua hàng xa xỉ, bất động sản…
16
+ Thứ ba, hành vi “che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự,
vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản biết rõ là do
phạm tội mà có hoặc cản trở việc xác minh các thông tin đó”.
Hành vi này không tác động trực tiếp lên tiền, tài sản bẩn mà mang tính
hỗ trợ để các hoạt động rửa tiền đƣợc tiến hành thuận lợi. Nhóm hành vi này
bao gồm các hành vi giấu diếm, cung cấp thông tin sai sự thật hoặc gây khó
khăn, cản trở công tác điều tra làm rõ nguồn gốc, bản chất, vị trí, quá trình di
chuyển hoặc quyền sở hữu tiền, tài sản. Đó là các hành vi tiêu hủy giấy tờ tài
liệu bất lợi, lập các giấy tờ tài liệu khác sai sự thật, làm chệch hƣớng quá trình
theo dõi, điều tra của cơ quan chức năng... Mặc dù không phải là nhóm hành
vi tác động trực tiếp lên tiền, tài sản bẩn nhƣng những hành vi này nguy hiểm
không kém hai nhóm hành vi trƣớc vì vai trò của thông tin về tiền, tài sản bẩn
là rất quan trọng trong quá trình theo dõi, phát hiện và điều tra tội phạm.
Thứ tư, nhóm hành vi “thực hiện một trong các hành vi quy định tại
các điểm a, b và c khoản này đối với tiền, tài sản biết rõ là có được từ việc
chuyển dịch, chuyển nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do phạm tội mà có”.
Trƣờng hợp này bao gồm cả ba dạng hành vi đã đƣợc phân tích ở trên,
tuy nhiên đối tƣợng tác động của nhóm hành vi này là tiền, tài sản mới, xuất
hiện sau khi có hành vi chuyển dịch, chuyển nhƣợng, chuyển đổi từ tiền, tài
sản bất hợp pháp ban đầu. Đây thực chất là hành vi rửa tiền kế tiếp sau những
hành vi rửa tiền đầu tiên, khi tiền, tài sản bẩn đã qua lớp xử lý ban đầu, đã có
vỏ bọc hợp pháp ban đầu nay lại tiếp tục quá trình thay hình đổi dạng trên con
đƣờng tìm kiếm vỏ bọc hợp pháp hoàn hảo cho mình. Bản chất tiền, tài sản
này vẫn là bất hợp pháp, các hành vi ban đầu không làm thay đổi bản chất của
chúng và ngƣời thực hiện các hành vi tác động lên tiền, tài sản thuộc “thế hệ
thứ ba” này đã thực hiện hành vi rửa tiền theo đúng nghĩa của nó.
17
Nhƣ vậy, BLHS Việt Nam năm 1999 qui định 4 dạng hành vi khách
quan của tội rửa tiền ở mức độ khái quát. Quy định này cơ bản phù hợp với
yêu cầu về việc thâu tóm các dạng hành vi, không sa vào trạng thái liệt kê
không hết các hành vi cụ thể do đó có thể dẫn tới bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên,
nếu chỉ khái quát bốn nhóm hành vi nhƣ vậy vẫn chƣa bao quát hết các dạng
hành vi rửa tiền do tính chất phức tạp, đa dạng của hành vi rửa tiền, đặc biệt
khi nền kinh tế càng ngày càng phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ
nhận thức càng ngày càng nâng cao thì sự xuất hiện những hành vi, cách thức
rửa tiền mới là khó lƣờng hết đƣợc do đó cần có thêm quy định khái quát
chung về hành vi rửa tiền để bao quát toàn bộ, tránh bỏ lọt tội phạm do chƣa
có chế tài quy định.
Một điểm cần lƣu ý theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật phòng,
chống rửa tiền thì ngoài bốn nhóm hành vi đƣợc quy định trong BLHS nhƣ đã
nêu trên thì còn có hai hành vi khác là “trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên
quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp
hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có” và hành vi “chiếm hữu tài sản nếu
tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp
pháp hóa nguồn gốc của tài sản” [32]. Hành vi thứ nhất là hành vi mang tính
giúp sức, hỗ trợ nhƣ lập giấy tờ giả chứng minh nguồn gốc tài sản… còn hành
vi thứ hai là nắm giữ, quản lý tài sản do phạm tội mà có. Theo quy định tại
Luật phòng, chống rửa tiền thì hai hành vi này là hành vi rửa tiền. Tuy nhiên
đối chiếu với quy định tại BLHS thì hai hành vi này tƣơng đồng với hành vi
“chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có” quy định tại Điều
250 [31]. Mặt khác, quy định này thể hiện là Điều 251 BLHS năm 1999 chƣa
mô tả hết các hành vi khách quan của tội rửa tiền. Đây là vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu để tiến tới xây dựng một quy phạm tội rửa tiền hoàn chỉnh trong
BLHS Việt Nam.
18
1.1.3. Mặt chủ quan của tội rửa tiền
“Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lí diễn ra bên trong
người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: lỗi, mục đích, động cơ
phạm tội” [38, tr.125].
Xét về lỗi, khi mô tả các nhóm hành vi rửa tiền, nhà làm luật đều sử dụng
cụm từ “biết rõ là do phạm tội mà có”. Theo quy định tại tại khoản 2 Điều 1 Thông
tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC thì
“biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có là có căn cứ chứng minh
biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc
có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người
thực hiện hành vi phạm tội” [1, Điều 1, khoản 2]. Ngoài ra, ở điểm a khoản 1
Điều 251 BLHS năm 1999 còn có thêm cụm từ “nhằm che giấu nguồn gốc
bất hợp pháp của tiền, tài sản đó”. Nhƣ vậy, khi nhận thức đƣợc rằng nguồn
gốc của tiền, tài sản là phi pháp mà vẫn thực hiện các hành vi tác động vào số
tiền, tài sản đó, ngƣời thực hiện hành vi đã thể hiện thái độ tâm lý cố ý, do đó,
lỗi của tội phạm rửa tiền là lỗi cố ý. Ngƣời phạm tội đã nhận thức rõ hành vi
của mình là trái pháp luật, gây khó khăn, phức tạp cho công tác điều tra, xử lý
tội phạm nguồn, xâm hại vào việc quản lý tài sản phạm pháp của Nhà nƣớc.
Với tƣ cách công dân, bất kể ngƣời nào khi đã đạt đến tầm nhận thức nhất
định đều hiểu rằng tiền, tài sản có đƣợc từ bất kể hành vi phạm tội nào đều là
bất hợp pháp, đều cần bị xử lý trƣớc pháp luật, và việc tiếp tay che giấu đều là
phạm pháp, nhƣng ngƣời phạm tội vẫn tiếp nhận và tham gia vào quá trình xử
lý hoặc che đậy nhằm tạo vỏ bọc hợp pháp cho khối tiền, tài sản đó. Điều này
đồng nghĩa với việc ngƣời phạm tội đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý mà ở
đây bao gồm cả hình thức lỗi cố ý trực tiếp và gián tiếp. Ở lỗi cố ý này lại thể
hiện hai trạng thái lỗi của ngƣời rửa tiền, thứ nhất, ngƣời phạm tội đã không
tố giác hành vi phạm tội trƣớc đó (nếu ngƣời rửa tiền không phải là ngƣời
19
thực hiện tội phạm ban đầu), thứ hai, ngƣời rửa tiền còn tiếp tục thực hiện tội
phạm mới nhằm tiếp tay cho tội phạm ban đầu, che đậy nguồn gốc bất hợp
pháp của tiền, tài sản, tạo vỏ bọc hợp pháp cho tiền, tài sản đó để tội phạm
nguồn có thể lẩn tránh sự trừng phạt của pháp luật.
Tuy nhiên cần lƣu ý, ngƣời phạm tội “biết rõ” tài sản là bất hợp pháp,
do phạm tội mà có, nhƣng không bắt buộc ngƣời phạm tội phải biết rõ, chính
xác nguồn gốc của tiền, tài sản là có đƣợc từ tội phạm gì, do ai thực hiện ở
đâu, lúc nào… Ở đây khái niệm “biết rõ” chỉ nhằm phản ánh tình trạng nhận
thức của ngƣời phạm tội nhận biết tài sản mình đang tác động đến là tài sản
có nguồn gốc bất hợp pháp, cần phải bị xử lý theo quy định của pháp luật và
việc mình đang làm sẽ gây khó khăn cho công tác phát hiện, điều tra và xử lý
tội phạm, nhằm phân biệt với trƣờng hợp không biết nguồn gốc bất hợp pháp
của tài sản mà thôi.
Tuy nhiên, ngƣời viết thấy rằng, trƣớc những hậu quả nghiêm trọng mà
tội phạm rửa tiền gây ra, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm này càng
ngày càng đƣợc nâng cao. Nếu chỉ buộc tội những trƣờng hợp cố ý phạm tội,
chúng ta có thể phải trả giá cho những hành động cẩu thả khi một ngƣời hoàn
toàn có thể nhận thức đƣợc những biểu hiện rõ ràng cho thấy số tiền, tài sản
mà mình sắp hoặc đang tác động vào có bản chất phi pháp nhƣng đã bỏ qua
điều này. Đây là trƣờng hợp vô ý phạm tội do cẩu thả, một tình trạng rất nguy
hiểm nếu nhƣ số lƣợng tiền, tài sản bất hợp pháp là rất lớn. Sự cẩu thả này
dẫn đến sự trót lọt trong việc rửa tiền của tội phạm, gây ra những hậu quả
nặng nề cho xã hội. Do đó, cần xem xét trƣờng hợp lỗi này để có biện pháp
xử lý thỏa đáng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi công dân trong công
cuộc phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền nói riêng.
Xét về động cơ phạm tội, đây không phải là dấu hiệu pháp lý bắt buộc
đƣợc quy định tại Điều 251 BLHS năm 1999 nhƣng việc xem xét động cơ sẽ
20
làm sáng tỏ thêm hoạt động tâm lý của ngƣời phạm tội. Đối với tội phạm rửa
tiền, động cơ phạm tội rất phong phú, phổ biến nhất là động cơ vụ lợi, nếu là
ngƣời đã thực hiện hành vi phạm tội trƣớc đó, việc rửa tiền sẽ giúp hợp pháp
hoá số tiền, tài sản đó để việc quản lý, tiêu dùng đƣợc thuận lợi, dễ dàng,
thậm chí là tiếp tục sinh lợi dƣới vỏ bọc hợp pháp; nếu chỉ là ngƣời rửa tiền
đơn thuần, ngƣời phạm tội sẽ đƣợc hƣởng lợi ích vật chất hoặc tinh thần từ
hành vi rửa tiền nhƣ đƣợc tiền thƣởng, tiền ăn chia phần trăm, đƣợc trợ giúp,
tạo thuận lợi trong các hoạt động nghề nghiệp, cuộc sống, kinh doanh… Lợi
ích tinh thần có thể kể ra nhƣ việc rửa tiền giúp ngƣời có quan hệ tình cảm,
ngƣời có công ơn với mình… Ngoài ra phải kể đến động cơ khác nhƣ nể
nang, giúp đỡ, bị đe dọa nên lo sợ ảnh hƣởng đến tính mạng, sức khỏe…
Thực tế con số thống kê của Lực lƣợng đặc nhiệm tài chính FATF thì chi phí
cho hoạt động rửa tiền ngày càng tăng, những năm 60 - 70 là khoảng 10%,
những năm 80-90 là khoảng 20% thì đến thế kỷ 21 đã tăng lên khoảng 30%,
cá biệt có những trƣờng hợp tội phạm nguồn chiếm đến 50% giá trị tài sản
đƣợc rửa [42]. Điều đó đồng nghĩa với thu nhập của ngƣời rửa tiền càng ngày
càng cao và do đó sức hút từ rửa tiền ngày càng tăng càng dẫn đến nguy cơ tội
phạm rửa tiền phát triển nhanh chóng.
Xét về mục đích phạm tội, mục đích của ngƣời phạm tội khi thực hiện
hành vi khách quan nói trên là “nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của
tiền, tài sản” do phạm tội mà có. Đúng nhƣ tên gọi của tội phạm, mục đích
cuối cùng của tội phạm là “rửa” những đồng tiền bẩn thành tiền sạch, trang bị
cho tiền, tài sản “bẩn” vỏ bọc sạch sẽ, hợp pháp để tồn tại công khai trong đời
sống xã hội. Dù sử dụng phƣơng pháp, cách thức nào để phạm tội, dù là một
mình phạm tội hay là một mắt xích trong đƣờng dây tội phạm thì ngƣời phạm
tội cũng hƣớng đến mục đích này.
21
1.1.4. Chủ thể của tội rửa tiền
Về đặc điểm chung, xuất phát từ khái niệm chủ thể của tội phạm, xác
định chủ thể của tội rửa tiền là ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ
tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội rửa tiền đƣợc quy định tại
Điều 251 BLHS năm 1999. Cụ thể hơn đó là ngƣời có năng lực nhận thức và
năng lực điều khiển hành vi trong quá trình thực hiện hành vi rửa tiền, đạt độ
tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên, riêng đối với khoản 2 và khoản 3 Điều 251 thì chủ
thể là ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên.
Về phân loại, chủ thể đƣợc mô tả là ngƣời đã thực hiện bốn nhóm hành
vi quy định tại Điều 251 với ý thức là “biết rõ” tiền, tài sản là do phạm tội mà
có. Cụm từ “biết rõ” diễn tả sự nhận thức đầy đủ, rõ ràng của ngƣời thực hiện
hành vi rửa tiền về nguồn gốc của tiền, tài sản mình đang rửa. Tuy nhiên, do
Điều 251 không xác định rõ mà chỉ quy định là ngƣời “biết rõ” nên đã có
những tranh cãi về chủ thể của tội rửa tiền. Có quan điểm cho rằng chủ thể chỉ
bao gồm những ngƣời thực hiện hành vi rửa tiền mà không thực hiện tội phạm
nguồn, quan điểm khác cho rằng chủ thể bao gồm cả hai, ngƣời có và ngƣời
không thực hiện tội phạm nguồn [24]. Theo tác giả thì quan điểm thứ hai là
chính xác vì cụm từ “biết rõ” phản ánh bản chất nhận thức của ngƣời phạm tội
dù đó là ngƣời thực hiện hay không thực hiện tội phạm nguồn, nhằm phân
biệt với nhóm “không biết” nguồn gốc tiền, tài sản nhƣng vẫn thực hiện các
hành vi tƣơng tự nhƣ hành vi rửa tiền thì nhóm này không phải là chủ thể của
tội phạm. Ngoài ra, việc xác định chủ thể gồm cả ngƣời đã thực hiện hành vi
tội phạm nguồn là phù hợp vì nó đảm bảo nguyên tắc công bằng về trách
nhiệm hình sự. Về mặt lý luận, tội phạm hoàn thành khi đã thể hiện đầy đủ
các yếu tố cấu thành tội phạm đƣợc quy định trong BLHS và ngay khi tội
phạm hoàn thành thì trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội đã hình thành
đầy đủ. Hành vi tội phạm phát sinh sau đó phải chịu trách nhiệm hình sự riêng
22
biệt theo cấu thành tội đó, độc lập với tội phạm ban đầu. Không thể đánh
đồng tránh nhiệm hình sự của hai ngƣời là giống nhau trong khi một ngƣời
chỉ thực hiện tội phạm nguồn, còn ngƣời kia thực hiện cả tội phạm nguồn và
hành vi rửa tiền. Trƣớc đây, chúng ta chỉ xử lý ngƣời phạm tội với tội danh
ban đầu họ thực hiện chứ không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi
tẩu tán, tiêu thụ tài sản, mặc dù hành vi đó mang bản chất là rửa tiền. Tuy
nhiên sự phát triển của các tổ chức tội phạm hiện nay cho thấy hành vi tự rửa
tiền không chỉ giới hạn trong mục đích là che giấu, tiêu thụ tài sản đã chiếm
đoạt đƣợc, mà còn tiềm ẩn nhiều mối nguy hại khác. Số tiền, tài sản chiếm
đoạt đƣợc từ các hành vi phạm tội ngày càng khổng lồ và nếu số tiền, tài sản
này thâm nhập vào hệ thống tài chính thì hệ quả là cực kỳ nghiêm trọng. Đối
với trƣờng hợp tự rửa tiền, có ý kiến cho rằng hình phạt của tội phạm nguồn
đã rất nghiêm khắc, thậm chí có tội còn bị tử hình, do đó không cần thiết phải
truy tố một hành vi có mức độ nguy hiểm thấp hơn là hành vi rửa tiền [23].
Đây là quan điểm không chính xác vì nó không phù hợp với các nguyên tắc
cơ bản của BLHS, đặc biệt là nguyên tắc “mọi hành vi phạm tội phải đƣợc
phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật”. Thứ
hai là xuất phát từ lợi ích quốc gia và yêu cầu của hoạt động hợp tác quốc tế
trong đấu tranh chống rửa tiền. Hiện nay, hình thức tội phạm rửa tiền có tổ
chức, hoạt động xuyên quốc gia ngày càng phát triển, do đó, không phải lúc
nào tội phạm nguồn và tội phạm rửa tiền cũng xảy ra và kết thúc trên lãnh thổ
một quốc gia. Nếu loại trừ ngƣời thực hiện tội phạm nguồn ra khỏi chủ thể
của tội rửa tiền, thì trong trƣờng hợp ngƣời đó thực hiện hành vi rửa tiền ở
quốc gia khác nhƣng lại rửa tiền ở nƣớc ta thì lúc đó luật của chúng ta không
đủ điểu kiện để xử lý ngƣời phạm tội, đồng nghĩ với ta không có tƣ cách tham
gia vào quá trình kiểm soát, quản lý tài sản bị tịch thu từ đối tƣợng phạm tội
và điều này là bất lợi trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia.
23
Trên thực tế, hầu hết việc rửa tiền đều phải thực hiện qua pháp nhân.
Tuy nhiên, BLHS Việt Nam không quy định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân đối với hành vi rửa tiền nên chủ thể của tội rửa tiền chỉ duy nhất là cá
nhân có các đặc điểm nhƣ đã nêu trên. Phân loại theo vai trò, chủ thể của tội
rửa tiền có thể là ngƣời tham gia trong một tổ chức đƣợc lập ra để thực hiện
việc rửa tiền, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gồm các vai trò khác nhau nhƣ
chủ mƣu, cầm đầu, tổ chức hoặc ngƣời thực hành, giúp sức, xúi giục. Phân
loại theo đặc điểm, chủ thể của tội rửa tiền có thể là ngƣời có chức vụ, quyền
hạn, chuyên môn để hành động trực tiếp hoặc gây ảnh hƣởng với ngƣời khác
để thực hiện việc rửa tiền. Cá nhân này có thể ít nhiều hƣởng lợi ích vật chất
hoặc vì một mục đích phi vật chất nào đó mà tham gia vào quá trình rửa tiền
ví dụ nhƣ vì nể nang, giúp đỡ, trả ơn, vì bị đe dọa… Kinh tế xã hội càng phát
triển thì trình độ của các cá nhân này càng cao để thích ứng. Đồng thời, cũng
do sự phát triển của kinh tế xã hội mà sự tham gia của các chủ thể rửa tiền
dƣới hình thức đồng phạm cũng ngày càng phát triển để tránh sự phát hiện dễ
dàng của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Trong BLHS năm 1999, có một tội danh nữa có cùng đối tƣợng tác
động với “Tội rửa tiền” là “Tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác
phạm tội mà có” đƣợc quy định tại Điều 250. Trên diễn đàn khoa học luật
hình sự, có ý kiến cho rằng nên hợp nhất Điều 250 và Điều 251 thành một tội
rửa tiền bởi vì về bản chất, hành vi phạm tội đƣợc quy định tại Điều 250 là
hành vi rửa tiền [15, tr.20]. Ngƣời viết đồng ý với quan điểm này vì khoản 1
Điều 4 Luật phòng, chống rửa tiền xác định hành vi rửa tiền ngoài hành vi
đƣợc quy định trong BLHS còn có hai hành vi tƣơng đồng với hành vi chứa
chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có mà ngƣời viết đã đề cập ở
phần mặt khách quan của tội rửa tiền, ngoài ra hành vi tại Điều 250 BLHS
Việt Nam 1999 đã đƣợc mô tả trong các nhóm hành vi rửa tiền mà Công ƣớc
24
Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (sau
đây gọi tắt là Công ƣớc Palermo) quy định (Công ƣớc Viên 1988 cũng quy
định về hai nhóm hành vi này với nội dung tƣơng tự tại các mục b (i) và c (i)),
đó là nhóm hành vi:
a) (i) Chuyển đổi hoặc chuyển nhƣợng tài sản mà biết rõ là
tài sản do phạm tội mà có với mục đích che giấu hoặc ngụy trang
nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc giúp đỡ bất kỳ ngƣời nào
liên quan đến việc thực hiện một tội phạm nguồn lẩn tránh những
hậu quả pháp lý do hành vi của ngƣời đó gây ra…
b) (i) Nhóm hành vi sở hữu, chiếm hữu hoặc sử dụng tài sản
mà vào thời điểm nhận ngƣời đó biết rõ rằng tài sản này là do phạm
tội mà có [19].
Có thể thấy hành vi “chứa chấp” nằm trong nhóm b của Công ƣớc,
hành vi “tiêu thụ” nằm trong nhóm a của Công ƣớc. Các hành vi này đều
nhằm thay đổi hình thức pháp lý của tiền, tài sản, tìm cách che đậy nguồn gốc
bất hợp pháp thành hợp pháp để tạo thuận lợi cho việc sử dụng tài sản, đặc
biệt là hành vi tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có đƣợc quy định
tại Điều 250 có đầy đủ đặc điểm của hành vi rửa tiền. Do vậy, việc BLHS
hiện hành tách tội rửa tiền với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội
mà có và qui định tại 2 điều luật độc lập là chƣa phù hợp với bản chất của
hành vi và các chuẩn mực quốc tế.
1.2. Đƣờng lối xử lý của tội rửa tiền theo quy định của Bộ luật hình
sự năm 1999
1.2.1. Khoản 1 Điều 251
Theo quy định tại khoản 1 Điều 251 thì “người nào thực hiện một
trong các hành vi sau đây thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm…” (các
hành vi đã đƣợc liệt kê và phân tích ở trên).
25
Khoản 1 Điều 251 quy định cấu thành tội phạm cơ bản của tội rửa tiền.
Với việc thực hiện bốn nhóm hành vi đƣợc mô tả trong khoản 1, ngƣời phạm
tội đã thực hiện tội rửa tiền. Trong trƣờng hợp này, ngƣời phạm tội đã thực
hiện một tội nghiêm trọng và bị xử lý bằng chế tài nghiêm khắc của BLHS là
hình phạt tù có thời hạn. Thực hiện một trong các hành vi đƣợc nêu tại khoản
1 mà không có thêm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự định khung
đƣợc nêu tại khoản 2 và khoản 3 Điều 251, ngƣời phạm tội sẽ bị xem xét áp
dụng các tình tiết tăng nặng đƣợc quy định tại Điều 48 và các tình tiết giảm
nhẹ đƣợc quy định tại Điều 46 BLHS nếu thoả mãn. Nếu có thêm các tình tiết
giảm nhẹ khác đƣợc ghi nhận trong bản án (nhƣ bản thân có thành tích đặc
biệt, gia đình có công với Cách mạng, đã sửa chữa, khắc phục hậu quả…) thì
cũng đƣợc Tòa án xem xét khi quyết định hình phạt. Nếu nhƣ có ít nhất hai
tình tiết giảm nhẹ đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS thì ngƣời phạm
tội còn có thể đƣợc áp dụng mức hình phạt dƣới một năm tù (từ ba tháng đến
dƣới một năm) theo quy định tại Điều 47 BLHS. Khi ngƣời phạm tội rửa tiền
theo khoản 1 Điều 251 BLHS là ngƣời từ 16 đến dƣới 18 tuổi thì việc quyết
định hình phạt còn phải xem xét thêm các quy định trong Chƣơng X BLHS về
những quy định đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội.
1.2.2. Khoản 2 Điều 251
Khoản 2 Điều 251 quy định: Phạm tội thuộc một trong các trƣờng hợp
sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mƣời năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội nhiều lần;
d) Có tính chất chuyên nghiệp;
e) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
f) Tiền, tài sản phạm tội có giá trị lớn;
26
g) Thu lợi bất chính lớn;
h) Gây hậu quả nghiêm trọng;
i) Tái phạm nguy hiểm.
- Phạm tội có tổ chức: theo quy định tại khoản 3 Điều 20 BLHS thì
phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa
những ngƣời cùng thực hiện tội phạm. Trong trƣờng hợp này, có từ hai ngƣời
trở lên cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch tỉ mỉ,
chi tiết, phân công, sắp đặt vai trò của những ngƣời tham gia, trong đó mỗi
ngƣời thực hiện một hoặc một số hành vi trong nhóm các hành vi đƣợc mô tả
tại khoản 1 Điều 251 và chịu sự điều khiển thống nhất của ngƣời cầm đầu để
thực hiện tội rửa tiền. Vai trò của mỗi ngƣời trong trƣờng hợp phạm tội có tổ
chức là khác nhau nhƣ có ngƣời tổ chức, ngƣời thực hành, ngƣời xúi giục,
ngƣời giúp sức, một ngƣời có thể giữ nhiều vai trò khác nhau.
Ngƣời tổ chức là ngƣời chủ mƣu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội
phạm. Đối với tội rửa tiền trong trƣờng hợp phạm tội có tổ chức, vai trò của
ngƣời tổ chức rất quan trọng vì các hoạt động rửa tiền rất phức tạp, đa dạng,
đòi hỏi phải tính toán kỹ càng nhằm xóa mờ hay làm phức tạp dấu vết sau mỗi
bƣớc đi của tiền bẩn, thậm chí ngƣời tổ chức còn phải nắm vững quy định
chuyên môn nghiệp vụ một số ngành nghề nhất định và quy định pháp luật.
Do tính chất đặc biệt của việc rửa tiền thƣờng không phải là những hành động
tay chân đơn thuần và đơn lẻ của từng cá nhân mà là sự phối hợp nhịp nhàng
của nhiều tổ chức, nhiều cá nhân, thƣờng phải thực hiện thông qua hoạt động
của pháp nhân, pháp nhân càng uy tín thì công tác giám sát, theo dõi càng cao
do đó rửa tiền càng khó nhƣng nếu thành công thì việc phát hiện dấu vết tiền
bẩn cũng khó khăn hơn. Do đó, để việc rửa tiền trót lọt đòi hỏi ngƣời tổ chức
phải có trình độ, có đầu óc tính toán. Có thể nói hoạt động rửa tiền có thành
công trót lọt hay không vai trò của ngƣời tổ chức là quyết định. Vì thế không
27
ít ngƣời tổ chức tội phạm rửa tiền thuộc về giới “cổ cồn trắng” - giới trí thức
có hiểu biết và chuyên môn sâu về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nhất là
lĩnh vực chuyên môn tài chính, tin học. Ngƣời tổ chức thực hiện tội rửa tiền
có thể có những hành vi nhƣ: khởi xƣớng việc phạm tội; vạch kế hoạch thực
hiện tội phạm cũng nhƣ kế hoạch che giấu tội phạm; rủ rê, lôi kéo ngƣời
khác cùng thực hiện tội phạm; phân công trách nhiệm cho những ngƣời đồng
phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều khiển hành động của
những ngƣời đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy ngƣời đồng phạm khác thực
hiện tội phạm...
Ngƣời thực hành là ngƣời trực tiếp thực hiện tội phạm, có hành vi
thuộc bốn nhóm hành vi đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 251 nhƣ thực hiện
các giao dịch tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, các hoạt động kinh doanh, cất
giấu các giấy tờ tài liệu liên quan... Ngoài ra còn có thể có ngƣời đồng phạm
khác cũng tham gia rửa tiền nhƣ ngƣời xúi giục (là những ngƣời có vai trò
kích động, dụ dỗ, thúc đẩy tội phạm đƣợc thực hiện), ngƣời giúp sức (là
ngƣời hỗ trợ tạo điều kiện vật chất và tinh thần) cho việc thực hiện tội phạm.
Do tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với trƣờng hợp đơn lẻ
thực hiện hành vi rửa tiền nên nhà làm luật đã xếp trƣờng hợp này vào khoản
2 Điều 251 với mức hình phạt cao hơn khoản 1. Cần lƣu ý khi quyết định hình
phạt trong trƣờng hợp này Tòa án phải phân hóa vai trò của mỗi ngƣời phạm
tội, căn cứ vào tính chất, mức độ thực hiện hành vi, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các quy định liên quan để xem xét quyết
định hình phạt phù hợp với từng cá nhân cụ thể.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: đây là trƣờng hợp chủ thể đặc biệt của
tội rửa tiền. Theo quy định tại Điều 277 BLHS thì “ngƣời có chức vụ là ngƣời
do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hƣởng
lƣơng hoặc không hƣởng lƣơng, đƣợc giao thực hiện một công vụ nhất định
28
và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”. Ngƣời thực hiện
hành vi rửa tiền sử dụng những thuận lợi do chức vụ, quyền hạn của mình
đem đến để thực hiện hành vi phạm tội hoặc dùng nó để ép buộc, dụ dỗ ngƣời
khác phạm tội, điều mà ngƣời không có chức vụ quyền hạn khó có thể thực
hiện đƣợc. Do đó, tính nguy hiểm của tội phạm tăng lên, tội phạm đƣợc hoàn
thành nhanh hơn, gây khó khăn cho công tác điều tra, phát hiện tội phạm, gây
ảnh hƣởng xấu đến dƣ luận xã hội, làm giảm uy tín của nhà nƣớc, tổ chức…
Chính vì thế nhà làm luật đã đƣa trƣờng hợp này là một trong những tình tiết
tăng nặng định khung hình phạt và xếp vào khoản 2 của Điều 251.
- Phạm tội nhiều lần: đây là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
đƣợc quy định tại Điều 48 BLHS, tuy nhiên trong Điều 251 tình tiết này xuất
hiện với tính chất là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Theo quy định
tại khoản 3 Điều 3 Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-
NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC thì “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm
c khoản 2 Điều 251 BLHS là trƣờng hợp rửa tiền từ hai lần trở lên và trong
các lần đó chƣa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chƣa hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự [1]. Tình tiết này thể hiện tính nguy hiểm
của tội phạm khi có ít nhất hai lần qua mặt pháp luật, thực hiện việc rửa tiền
mà nếu không bị phát hiện và ngăn chặn thì việc ngƣời phạm tội tiếp tục thực
hiện những lần phạm tội khác là hoàn toàn có thể xảy ra và nhƣ vậy mức độ
nguy hiểm sẽ còn tăng cao hơn nữa.
- Có tính chất chuyên nghiệp: theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 3
Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-
TANDTC thì:
Chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi có
đủ các điều kiện: có từ 5 lần trở lên thực hiện hành vi rửa tiền, không
phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chƣa, nếu chƣa hết
29
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chƣa đƣợc xóa án tích;
ngƣời phạm tội không có nghề nghiệp hoặc lấy tài sản thu nhập bất
chính do phạm tội mà có làm nguồn sống chính [1, Điều 3, khoản 4].
Nhƣ vậy tình tiết này phân biệt với tình tiết “phạm tội nhiều lần” là ở
số lần phạm tội (năm lần trở lên) và đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội (không
có nghề nghiệp hoặc lấy thu nhập từ việc phạm tội làm nguồn sống chính). Đây
chính là chi tiết thể hiện tính chuyên nghiệp của tội phạm. Phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp nguy hiểm hơn phạm tội nhiều lần vì ngƣời phạm tội đã thực
hiện tội phạm nhiều lần (năm lần), gây hại ở cấp độ cao và thể hiện thái độ coi
thƣờng pháp luật của ngƣời phạm tội. Do đó cần xử lý nghiêm minh với mức
hình phạt nặng hơn hành vi phạm tội đơn lẻ thông thƣờng.
- Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt: nếu nhƣ ở điểm m khoản 1 Điều 48
BLHS có tình tiết “dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội” thì trong khoản
2 Điều 251, để phù hợp với bản chất của hành vi rửa tiền, nhà làm luật đã quy
định về thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Đó là việc ngƣời phạm tội có những cách
thức, mánh khóe, phƣơng pháp gian dối một cách thâm hiểm, khó phát hiện,
gây khó khăn cho công tác điều tra tội phạm. Chính vì thế mà tình tiết này đã
làm tăng tính nguy hiểm của tội phạm so với khoản 1 Điều 251.
- Tiền, tài sản phạm tội có giá trị lớn, thu lợi bất chính lớn, gây hậu
quả nghiêm trọng: theo quy định tại khoản 5, 6 và 7 Điều 3 Thông tƣ liên tịch
số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC thì:
Tiền, tài sản có giá trị lớn” quy định tại điểm e khoản 2 Điều
251 BLHS là tiền, tài sản phạm tội có giá trị từ hai trăm triệu đồng
đến dƣới năm trăm triệu đồng; “thu lợi bất chính lớn” quy định
tại điểm g khoản 2 Điều 251 BLHS là thu lợi có giá trị từ năm mƣơi
triệu đồng đến dƣới một trăm triệu đồng; “gây hậu quả nghiêm
trọng” quy định tại điểm h khoản 2 Điều 251 BLHS là gây thiệt hại
có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dƣới năm trăm triệu đồng [1].
30
- Tái phạm nguy hiểm: theo quy định tại khoản 2 Điều 49 BLHS năm
1999 thì tái phạm nguy hiểm gồm hai trƣờng hợp: đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chƣa đƣợc xóa án tích mà lại
phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý và đã tái phạm,
chƣa đƣợc xóa án tích lại phạm tội do cố ý.
1.2.3. Khoản 3 Điều 251
Trong khoản 1 và khoản 2, từ cấu thành tội phạm cơ bản đến cấu thành
tăng nặng cơ bản đã đƣợc mô tả đầy đủ, tuy nhiên trong những trƣờng hợp
hành vi phạm tội và hậu quả mà nó gây ra ở cấp độ cao hơn thì vẫn cần phải
có chế tài riêng phù hợp với tính chất nguy hiểm cấp độ cao của hành vi. Do
đó, quy định về mức hình phạt từ tám năm đến mƣời lăm năm tù quy định tại
khoản 3 Điều 251 là cần thiết, phù hợp với thực tiễn. Theo quy định tại điểm 6, 8
và 10 Điều 3 Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN -
VKSNDTC-TANDTC thì:
Tiền, tài sản phạm tội có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn” là
tiền, tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; “thu lợi bất chính
rất lớn hoặc đặc biệt lớn” là thu lợi có giá trị từ một trăm triệu đồng
trở lên; “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” là
gây thiệt hại có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên [1, Điều 3].
Có thể thấy các khung hình phạt trong tội rửa tiền nƣớc ta là khá cao.
Tuy nhiên điều này hoàn toàn tƣơng xứng với hậu quả nghiêm trọng mà tội
phạm rửa tiền gây ra. Đứng trƣớc những tác hại nghiêm trọng của tội phạm
rửa tiền đối với nền kinh tế, tài chính quốc gia, trƣớc nguy cơ hoạt động rửa
tiền ngày càng gia tăng cấp độ, quy mô, sự tinh vi, xảo quyệt, sự nghiêm khắc
của chế tài tội rửa tiền thể hiện đƣờng lối đấu tranh mạnh mẽ của Đảng và
Nhà nƣớc ta, không chỉ trừng trị tội phạm mà còn có ý nghĩa cảnh báo, giáo
dục, ngăn ngừa tội phạm xảy ra.
31
Do đó, ngoài các hình phạt chính nêu trên, tại khoản 4 Điều 251 còn
quy định hình phạt bổ sung “ngƣời phạm tội có thể bị tịch thu một phần hoặc
toàn bộ tài sản, phạt tiền đến ba lần số tiền hoặc giá trị tài sản phạm tội, cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm
đến năm năm”. Hình phạt bổ sung đƣợc quy định khá đa dạng gồm cả phạt
tiền, tịch thu tài sản và cấm đảm nhiệm chức vụ. Điều này phù hợp với tính
chất của tội phạm rửa tiền là có thể liên quan đến chức vụ, công việc của một
số ngành nghề chuyên môn nhất định. Các khung hình phạt bổ sung cũng khá
rộng, đảm bảo cho Thẩm phán xét xử có thể lựa chọn mức phạt phù hợp từng
trƣờng hợp cụ thể.
Ngoài ra, tại khoản 11 Điều 3 Thông tƣ số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-
BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC nêu rõ:
Khi áp dụng các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng cần xác định hậu quả thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra nằm ngoài giá trị tài sản do phạm tội mà
có. Ngoài hậu quả là thiệt hại về tài sản thì tội rửa tiền có thể còn có
hậu quả khác ảnh hƣởng xấu đến việc thực hiện đƣờng lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, gây ảnh hƣởng đến an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đến an toàn hệ thống tài chính, tiền
tệ quốc gia và các hậu quả phi vật chất khác. Theo đó, phải tùy vào
từng trƣờng hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội
phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng [1, Điều 3, khoản 11].
Đây là đƣờng lối xử lý tội phạm riêng của tội rửa tiền, nhƣng thể hiện
sự đánh giá toàn diện, thể hiện cái nhìn nhiều chiều về tội phạm, góp phần
làm cho ngƣời phạm tội tâm phục khẩu phục và có ý nghĩa giáo dục với
những ngƣời khác.
32
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật phòng chống rửa tiền thì rửa
tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản
do phạm tội mà có. Nhƣ vậy, bên cạnh chủ thể cá nhân thì tổ chức, trong đó
có pháp nhân cũng cần bị xử lý trách nhiệm. Theo mục b khuyến nghị 2 của
bản 40+9 khuyến nghị của FATF thì:
Trách nhiệm hình sự và khi điều này không đƣợc áp dụng thì
trách nhiệm dân sự hoặc hành chính, sẽ áp dụng đối với các pháp
nhân… Pháp nhân cần phải chịu các hình phạt có hiệu quả, tƣơng
xứng và có tính răn đe. Các biện pháp đó cần áp dụng mà không ảnh
hƣởng gì đến trách nhiệm hình sự cá nhân [7, Điều 4, khoản 1].
Tuy nhiên, ngoài quy định về việc bị xử phạt vi phạm hành chính tại
Điều 24 Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/6/2005 của Chính phủ về
phòng chống rửa tiền đã hết hiệu lực từ ngày 10/10/2013 do bị thay thế bởi
Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền thì hiện nay không có bất
cứ một chế tài nào liên quan đến trách nhiệm của pháp nhân trong việc rửa
tiền. Đây là một thiếu sót lớn của hệ thống pháp luật, không chỉ buông lỏng
việc xử lý trách nhiệm pháp nhân vi phạm pháp luật mà còn không phù hợp
với các quy định quốc tế hiện hành.
Qua nội dung phân tích ở trên, có thể thấy, quy định tại Điều 251
BLHS năm 1999 về tội rửa tiền đã thể hiện đƣợc những điểm pháp lí cơ bản
liên quan đến hành vi rửa tiền, tuy nhiên, qui định này còn tồn tại một số bất
cập, cụ thể là:
Thứ nhất, việc xếp tội rửa tiền nằm trong chƣơng “các tội xâm phạm an
toàn công cộng, trật tự công cộng” chƣa phản ánh quan hệ xã hội mà tội phạm
này xâm hại trƣớc tiên và nghiêm trọng nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là
khách thể gần nhất, trực tiếp nhất của tội phạm, hiểu rộng ra mới là sự xâm
33
hại đến các quan hệ xã hội về an toàn công cộng, trật tự công cộng. Việc sắp
xếp phù hợp theo nhóm khách thể bị tội phạm xâm hại liên quan đến nhận
thức tầm quan trọng của công tác phòng chống tội phạm, đến các chính sách
đấu tranh phòng chống tội phạm trên nhiều lĩnh vực khác của Nhà nƣớc do đó
cần nghiên cứu để sắp xếp tội rửa tiền cho phù hợp hơn.
Thứ hai, Điều 251 BLHS năm 1999 chƣa quy định rõ chủ thể thực hiện
tội rửa tiền bao hàm cả ngƣời phạm tội nguồn hay chỉ là ngƣời thực hiện hành
vi rửa tiền.
Thứ ba, trong BLHS năm 1999, nhà làm luật chƣa hợp nhất Điều 250
và Điều 251 thành một tội danh - tội rửa tiền mà để dƣới dạng hai tội danh
độc lập. Nhƣ trên đã phân tích, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
ngƣời khác phạm tội mà có theo qui định của Công ƣớc Palermo 2000 và
Công ƣớc Viên 1988 là một dạng của hành vi rửa tiền. Do đó, việc quy định
hai tội danh độc lập nhƣ trên là không phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Thứ tư, theo quy định tại Điều 251 thì xác định lỗi của ngƣời phạm tội
là cố ý. Ngƣời phạm tội cố tình thực hiện hành vi với mục đích che giấu
nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản. Tuy nhiên, trong môi trƣờng kinh tế
- xã hội hiện nay, nếu một ngƣời thực hiện hành vi tác động vào khối tiền, tài
sản bẩn, cung cấp vỏ bọc hợp pháp cho tiền, tài sản mà không biết rằng đó là
tiền, tài sản có nguồn gốc phi pháp mặc dù có những dấu hiệu để có thể nhận
biết thì trong trƣờng hợp này cần xác định tội phạm với lỗi vô ý nhằm nâng
cao ý thức bảo vệ pháp luật, phòng chống tội phạm của toàn dân, nâng cao
trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ trật tự an toàn xã hội, trật tự lành
mạnh của nền kinh tế, hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả nghiêm
trọng do hoạt động rửa tiền gây ra.
Thứ năm, việc mô tả hành vi khách quan theo qui định của Điều 251 là
chƣa đầy đủ. Hiện nay tại khoản 1 Điều 4 Luật phòng, chống rửa tiền định
nghĩa rửa tiền gồm:
34
a) Hành vi đƣợc quy định trong BLHS; b) Trợ giúp cho tổ
chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách
nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm
tội mà có; c) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã
biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn
gốc tài sản.
Nhƣ vậy, quy định tại khoản 1 Điều 251 chƣa bao quát hết các hành vi
rửa tiền.
Thứ sáu, Điều 251 cũng chƣa quy định về trách nhiệm hình sự của
pháp nhân đối với trƣờng hợp để xảy ra hành vi rửa tiền trong quá trình hoạt
động của pháp nhân. Do tầm quan trọng của pháp nhân trong quá trình rửa
tiền cũng nhƣ tính nguy hiểm mà tội phạm rửa tiền gây ra, pháp nhân cũng
cần phải chịu trách nhiệm hình sự khi tham gia vào quá trình rửa tiền trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Trƣớc đây chúng ta có một số chế
tài hành chính đối với pháp nhân để xảy ra hành vi rửa tiền tuy nhiên kể từ
ngày 10/10/2013 khi Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2003 của Chính
phủ có hiệu lực đến nay không có một quy định nào về bất kỳ trách nhiệm nào
của pháp nhân liên quan đến tội rửa tiền. Đây là một lỗ hổng lớn của pháp luật,
không phù hợp với qui định của chuẩn mực quốc tế về vấn đề này. Tuy nhiên,
trong tƣơng quan với tính nguy hiểm của tội phạm rửa tiền, chế tài hành chính
không đủ sức răn đe, ngăn chặn mà cần có những chế tài mạnh hơn, cứng rắn
hơn và chế tài hình sự đáp ứng đƣợc điều đó. Trƣớc tình hình phát triển của tội
phạm rửa tiền nhƣ hiện nay, bên cạnh chế tài dành cho thể nhân thì đã đến lúc
cần phải có quy định về chế tài hình sự dành cho pháp nhân.
Thứ bảy, trong Điều 251, nhà làm luật sử dụng từ “tiền, tài sản” là chƣa
phù hợp với các văn bản pháp luật quốc tế và trong nƣớc nhƣ các Công ƣớc
quốc tế, Bộ luật dân sự, Luật phòng, chống rửa tiền. Theo định nghĩa tại các
35
văn bản này thì từ “tài sản” đã bao hàm cả “tiền” trong đó. Do đó chỉ sử dụng
từ “tài sản” là đủ.
Thứ tám, Điều 251 BLHS hiện hành chƣa giải thích rõ các tình tiết
“phạm tội nhiều lần”, “tiền, tài sản phạm tội có giá trị lớn, rất lớn, đặc biệt
lớn, thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn”. Điều này cũng gây khó khăn
nhất định cho việc vận dụng các tình tiết này.
1.3. So sánh quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 với qui định
của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội rửa tiền
Do luận văn đƣợc viết vào thời điểm BLHS năm 2015 đã đƣợc Quốc
hội khóa XIII thông qua ngày 27/11/2015 và chính thức có hiệu lực từ ngày
01/7/2016, do vậy, phần này tác giả sẽ trình bày về so sánh qui định của
BLHS năm 1999 với qui định của BLHS năm 2015 về tội rửa tiền.
Nằm trong mục 4 “Các tội khác xâm phạm trật tự công cộng” thuộc
chƣơng XXI “Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng”, Điều
324 BLHS năm 2015 Tội rửa tiền vẫn giữ nguyên các quy định cơ bản về cấu
thành tội phạm so với Điều 251 BLHS năm 1999 trƣớc đây, chỉ thay thế cụm
từ “biết rõ là do phạm tội mà có” thành “do mình phạm tội mà có hoặc biết
hay có cơ sở để biết là do ngƣời khác phạm tội mà có”, sửa cụm từ “do phạm
tội mà có” tại điểm d khoản 1 thành “do ngƣời khác thực hiện hành vi phạm
tội mà có”, thay cụm từ “phạm tội nhiều lần” thành “phạm tội 02 lần trở
lên”, xác định rõ giá trị tiền, tài sản phạm tội, thu lợi, phạt tiền, tại khoản 2
bỏ quy định “gây hậu quả nghiêm trọng”, tại khoản 3 thay thế quy định “gây
hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” bằng quy định “gây
ảnh hƣởng xấu đến an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia”, bổ sung
khoản 4 quy định: “Ngƣời chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm
đến 05 năm” và sửa đổi hình phạt tại khoản 2 là từ 5 năm đến 10 năm, tại
khoản 3 là từ 10 đến 15 năm.
36
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có quy
định tại Điều 323 BLHS năm 2015 cũng có một số thay đổi nhƣ thay đổi mức
tiền phạt, xác định rõ giá trị tài sản, vật phạm pháp, thu lợi, tăng mức hình
phạt tại khoản 2 là từ 3 năm đến 7 năm, tại khoản 3 là từ 7 năm đến 10 năm,
tại khoản 4 là từ 10 đến 15 năm, sửa đổi quy định tại khoản 5 là ngƣời phạm
tội chỉ bị phạt bổ sung bằng một trong hai hình thức phạt tiền hoặc tịch thu
một phần hoặc toàn bộ tài sản chứ không bị áp dụng hoặc đồng thời hai hình
thức hoặc một trong hai nhƣ quy định tại Bộ luật hiện hành.
Nhƣ vậy, so sánh với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã có một
số thay đổi, đã khắc phục đƣợc một số hạn chế của BLHS năm 1999 về tội
rửa tiền, đó là:
Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã diễn giải rõ từ “biết rõ” thành cụm từ
“do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do ngƣời khác
phạm tội mà có” hay nói cách khác là BLHS năm 2015 đã xác định rõ chủ thể
thực hiện tội rửa tiền bao gồm cả ngƣời thực hiện và không thực hiện tội
phạm nguồn, ngoài ra theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 thì chủ thể
của tội rửa tiền là ngƣời đủ 16 tuổi trở lên.
Thứ hai, Điều 324 đã giải thích rõ, cụ thể hóa bằng con số cụ thể các
quy định “phạm tội nhiều lần”, “tiền, tài sản phạm tội có giá trị lớn, rất lớn,
đặc biệt lớn, thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn”.
Thứ ba, Điều 324 đã bổ sung quy định trƣờng hợp chuẩn bị phạm tội
vào ngay cuối điều luật.
Ngoài các điểm thay đổi tích cực trên đây, phần lớn các mặt hạn chế
khác của quy định về tội rửa tiền trong BLHS năm 1999 mà tác giả đã chỉ ra ở
phần trên vẫn chƣa đƣợc khắc phục trong BLHS năm 2015. Nhà làm luật vẫn
quy định tội rửa tiền thuộc nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng, vẫn tách riêng hai tội “chứa chấp và tiêu thụ tài sản do ngƣời khác
37
phạm tội mà có” và tội “rửa tiền”, chƣa có quy định khái quát bao trùm mọi
dạng hành vi rửa tiền, chƣa quy định trƣờng hợp phạm tội với lỗi vô ý do cẩu
thả, vẫn sử dụng cụm từ “tiền, tài sản”… Một điểm cần lƣu ý là trong BLHS
năm 2015, lần đầu tiên xuất hiện quy định về trách nhiệm hình sự của pháp
nhân thƣơng mại nhƣng phạm vi các tội pháp nhân phải chịu TNHS lại không
có tội rửa tiền. Điều này có nghĩa là nếu pháp nhân rửa tiền (thậm chí có thể
với qui mô rất lớn hoặc đặc biệt lớn) thì vẫn không bị pháp luật hình sự “sờ
gáy”. Theo quan điểm của tác giả, việc BLHS năm 2015 không qui định
TNHS của pháp nhân đối với tội rửa tiền là một bất cập và có thể ảnh hƣởng
không nhỏ đến cuộc đấu tranh chống tội rửa tiền ở nƣớc ta… Những hạn chế
này đặt ra cho ngƣời viết nhiệm vụ phải tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu và đề
xuất phƣơng hƣớng hoàn thiện quy phạm pháp luật về tội rửa tiền trong
BLHS Việt Nam.
38
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Là một loại tội có tính phái sinh, chỉ xuất hiện sau một tội phạm khác
nhƣng không vì thế mà tính nghiêm trọng của tội rửa tiền giảm xuống mà
ngƣợc lại, nhằm che giấu tiền, tài sản bất hợp pháp, ngƣời phạm tội còn dùng
mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để thực hiện. Để đấu tranh phòng chống có
hiệu quả tội phạm này, việc nghiên cứu, nắm vững lý luận về tội rửa tiền là
hết sức cần thiết. Trong chƣơng I, ngƣời viết đã đi sâu phân tích cấu thành tội
rửa tiền theo quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 và xem xét
trong mối tƣơng quan với tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm
tội mà có để tìm ra những điểm hạn chế của quy định tội rửa tiền tại BLHS
năm 1999, những điểm tiến bộ của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999
và những hạn chế cần tiếp tục đƣợc khắc phục của BLHS năm 2015. Trên cơ
sở nhận thức đƣợc những vấn đề căn bản còn vƣớng mắc trong quy định về
tội rửa tiền, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu nhằm khắc phục những
vƣớng mắc này để tiến tới xác lập một quy phạm hoàn thiện về tội rửa tiền
theo đúng chuẩn mực pháp lý quốc gia và quốc tế. Trong những cách thức
nghiên cứu, ngƣời viết chọn phƣơng pháp so sánh với pháp luật một số quốc
gia trên thế giới để rút ra những bài học kinh nghiệm lập pháp có thể áp dụng
vào pháp luật Việt Nam về tội rửa tiền. Đó là những nội dung chính của
chƣơng 2 và chƣơng 3 sẽ đƣợc trình bày dƣới đây.
39
Chương 2
SO SÁNH QUY ĐỊNH VỀ TỘI RỬA TIỀN THEO QUI ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH (BLHS NĂM 1999) VỚI
QUY ĐỊNH TƢƠNG ỨNG CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
THUỘC HỆ THỐNG LUẬT THÀNH VĂN VÀ HỆ THỐNG ÁN LỆ
2.1. So sánh qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 với
qui định của Bộ luật hình sự Trung Quốc, Thụy Điển (thuộc hệ thống
luật thành văn) về tội rửa tiền
2.1.1. So sánh qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam với qui định
của Bộ luật hình sự Trung Quốc về tội rửa tiền
BLHS nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (sau đây gọi là Trung
Quốc) đƣợc thông qua ngày 01/7/1979, có hiệu lực từ ngày 01/01/1980, lần
sửa đổi bổ sung gần đây nhất là vào ngày 28/02/2005. Tại Điều 191 thuộc
Mục 4 “Tội xâm phạm trật tự quản lý tiền tệ” trong Chƣơng III “Tội xâm
phạm trật tự kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa”, BLHS Trung Quốc quy
định nhƣ sau:
Ngƣời nào biết rõ những khoản lợi thu đƣợc một cách phi
pháp do tội phạm ma túy, tội phạm có tổ chức mang tính chất xã hội
đen, tội hoạt động khủng bố, tội buôn lậu để che đậy, giấu giếm
nguồn gốc và tính chất, có một trong những tình tiết dƣới đây, tịch
thu những khoản lợi thu đƣợc do vi phạm pháp luật thì bị phạt tù
đến 5 năm hoặc cải tạo lao động và bị phạt tiền từ 5% đến 20% số
tiền rửa này; nếu có tình tiết nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 5 năm
đến 10 năm và bị phạt tiền từ 5% đến 20% số tiền rửa này:
1. Cung cấp từ khoản vốn;
2. Giúp đỡ bằng cách chuyển tài sản thành tiền mặt hoặc
ngân phiếu;
40
3. Thông qua việc chuyển nợ hoặc các hình thức quyết toán
khác giúp đỡ chuyển vốn;
4. Giúp đỡ bằng cách chuyển tiền ra nƣớc ngoài;
5. Dùng những biện pháp khác để che đậy, giấu giếm tính
chất, nguồn gốc nguồn thu bất hợp pháp.
Đơn vị phạm tội nhƣ quy định trên thì đơn vị đó sẽ bị phạt tiền,
ngƣời chủ quản chịu trách nhiệm trực tiếp và ngƣời chịu trách nhiệm
trực tiếp khác thì bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động; nếu có tình
tiết nghiêm trọng sẽ bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm [29, Điều 191].
So sánh với quy định tại Điều 251 BLHS Việt Nam năm 1999, có thể
thấy điểm giống và khác nhau giữa hai Bộ luật nhƣ sau:
* Điểm giống nhau
- Về mặt chủ quan: qua cụm từ “biết rõ” xác định lỗi của ngƣời phạm
tội là lỗi cố ý tƣơng tự nhƣ quy định trong BLHS Việt Nam.
- Về hình phạt: các bộ luật đều quy định hình phạt tù có thời hạn là
hình phạt chính và phạt tiền là hình phạt bổ sung. Ngoài ra, cả hai bộ luật đều
phân loại mức hình phạt theo tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội;
trƣờng hợp không có tình tiết nghiêm trọng và trƣờng hợp có tình tiết nghiêm
trọng thì khung hình phạt là khác nhau chứ không quy định một khung nhƣ
pháp luật hình sự một số nƣớc khác.
* Điểm khác nhau
- Về khách thể: tội rửa tiền theo pháp luật Trung Quốc đƣợc xếp vào
nhóm tội có khách thể loại là các tội xâm phạm trật tự quản lý tiền tệ hay rộng
hơn là các tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa. Cách sắp
xếp này phù hợp hơn BLHS Việt Nam năm 1999 vì xuất phát từ bản chất hoạt
động rửa tiền trƣớc tiên xâm phạm đến trật tự quản lý tiền tệ, làm đảo lộn và
“gây ảnh hƣởng xấu đến an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia”, từ đó
mới gián tiếp xâm phạm đến an toàn, trật tự công cộng.
41
- Về chủ thể: theo quy định tại Điều 17 BLHS Trung Quốc thì
Ngƣời đủ 16 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ngƣời đủ 14 tuổi nhƣng chƣa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội giết ngƣời hoặc cố ý gây thƣơng tích dẫn đến thƣơng tích nặng
hoặc chết ngƣời, hiếp dâm, cƣớp giật, mua bán chất ma túy, đốt nhà,
đặt bom, đầu độc. Ngƣời đủ 14 tuổi nhƣng chƣa đủ 18 tuổi đƣợc hƣởng
hình phạt giảm nhẹ hoặc giảm khung hình phạt… [29, Điều 17].
Đối chiếu với quy định này thì chủ thể của tội rửa tiền là ngƣời đủ 16
tuổi trở lên. Nếu là ngƣời từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi phạm tội sẽ đƣợc
hƣởng hình phạt giảm nhẹ hoặc giảm khung hình phạt. Trong khi theo BLHS
Việt Nam năm 1999 thì chủ thể của tội phạm là ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên
nếu phạm tội theo khoản 2 và khoản 3, nếu phạm tội theo khoản 1 thì là ngƣời
từ đủ 16 tuổi trở lên.
- Ngoài chủ thể là cá nhân, Điều 191 BLHS Trung Quốc còn quy định
chủ thể là pháp nhân. Đây là một điểm đặc biệt so với BLHS Việt Nam vì
BLHS Việt Nam năm 1999 không quy định pháp nhân phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội rửa tiền. Trong khi đó, trong BLHS Trung Quốc, pháp nhân
chịu trách nhiệm hình sự thông qua đồng thời hai cách: pháp nhân bị phạt tiền
và ngƣời phụ trách trực tiếp và những ngƣời có liên quan cũng phải chịu trách
nhiệm. Mục 4 “chủ thể phạm tội là cơ quan, đơn vị và tổ chức” thuộc chƣơng
II Phần chung quy định:
Điều 30. Công ty, xí nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, pháp luật coi là đơn vị phạm tội
và phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 31. Đơn vị nào phạm tội sẽ bị phạt tiền; ngƣời phụ trách
trực tiếp và những ngƣời có trách nhiệm trực tiếp khác của đơn vị
cũng phải chịu trách nhiệm… .
42
- Về hành vi khách quan: có bốn nhóm hành vi đƣợc liệt kê cụ thể và
một nhóm khái quát. Trong bốn nhóm hành vi này có hành vi tƣơng tự hành
vi đƣợc quy định tại Điều 251 BLHS Việt Nam năm 1999 nhƣ “giúp đỡ bằng
cách chuyển tài sản thành tiền mặt hoặc ngân phiếu” (tƣơng tự hành vi “tham
gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch
khác…” tại điểm a khoản 1 BLHS năm 1999), những hành vi còn lại khác với
quy định của BLHS Việt Nam. Ngoài bốn nhóm hành vi cụ thể, điều luật đã
có một quy định rất khái quát là “dùng những biện pháp khác để che đậy, giấu
giếm tính chất, nguồn gốc nguồn thu bất hợp pháp”, quy định khái quát này
không có trong BLHS Việt Nam năm 1999.
- Về phạm vi tội phạm nguồn: so với BLHS Việt Nam, BLHS Trung
Quốc có khác biệt nổi bật là quy định giới hạn tội phạm nguồn gồm có: tội
phạm ma túy, tội phạm có tổ chức mang tính chất xã hội đen, tội hoạt động
khủng bố, tội buôn lậu. Nhƣ vậy quy định tội phạm nguồn của BLHS Trung
Quốc vừa căn cứ vào đối tƣợng phạm tội (ma túy, khủng bố, buôn lậu) vừa
căn cứ vào tính chất (tội phạm có tổ chức mang tính chất xã hội đen). Nhƣ
vậy, qua quy định về tính chất này, nhiều tội phạm khác ngoài tội phạm về ma
túy, khủng bố và buôn lậu mà đƣợc thực hiện bởi tổ chức tội phạm mang tính
chất xã hội đen cũng trở thành tội phạm nguồn. Nhƣ vậy phạm vi tội phạm
nguồn theo quy định của BLHS Trung Quốc thực chất cũng rất rộng, có thể là
bất kỳ tội phạm nào ngoài các tội phạm về ma túy, khủng bố và buôn lậu
nhƣng đƣợc thực hiện bởi các tổ chức tội phạm mang tính chất xã hội đen.
Điều này thể hiện quan điểm của nhà làm luật Trung Quốc coi những hoạt
động rửa tiền của cá nhân riêng lẻ nếu không phạm vào ba nhóm tội buôn lậu,
ma túy và khủng bố là không cần thiết phải xử lý bằng pháp luật hình sự.
BLHS Việt Nam năm 1999 không qui định về danh mục các tội phạm là tội
phạm nguồn đối với rửa tiền, do đó, có thể hiểu bất kì tội nào cũng có thể là
tội phạm nguồn của rửa tiền.
43
- Về hình phạt: tuy giống nhau là cùng quy định hình phạt chính là tù
có thời hạn và hình phạt bổ sung là phạt tiền nhƣng ở mỗi nƣớc quy định mức
hình phạt là khác nhau, mức hình phạt ở Trung Quốc thấp hơn ở Việt Nam
(mức cao nhất là 10 năm tù), ngoài ra hình phạt chính tù có thời hạn có thể bị
thay thế bằng hình phạt cải tạo lao động. Theo quy định tại điều 42 BLHS
Trung Quốc thì hình phạt cải tạo lao động có thời hạn từ 1 đến 6 tháng, theo
quy định tại Điều 45 thì tù có thời hạn đƣợc quy định từ 6 tháng đến 15 năm.
Đối với hình phạt tiền thì mức phạt trong BLHS Trung Quốc tƣơng đối thấp
so với Việt Nam: 5% đến 20% số tiền rửa trong khi BLHS Việt Nam năm
1999 quy định là phạt đến ba lần số tiền hoặc giá trị tài sản phạm tội. Các
hình phạt áp dụng với cá nhân đƣợc áp dụng nhƣ với pháp nhân (mức hình
phạt của cá nhân giống mức hình phạt của ngƣời chịu trách nhiệm trực tiếp và
ngƣời chịu trách nhiệm khác…). Ngoài ra, BLHS Việt Nam năm 1999 còn
quy định những hình phạt bổ sung khác nhƣ tịch thu tài sản, cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một đến năm năm
còn BLHS Trung Quốc không quy định những hình phạt bổ sung này.
2.1.2. So sánh qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam với qui định
của Bộ luật hình sự Thụy Điển về tội rửa tiền
BLHS Thụy Điển đƣợc thông qua năm 1962, có hiệu lực kể từ ngày
01/01/1965, đƣợc sửa đổi gần nhất vào ngày 01/5/1999, tại chƣơng 9 “Tội lừa
đảo và các tội gian dối khác” ở Điều 6 qui định:
Ngƣời nào:
1. Tiếp nhận tài sản do ngƣời khác chiếm đoạt mà có và việc
tiếp nhận này đƣợc tiến hành theo cách thức khiến cho việc truy thu
tài sản trở nên khó khăn;
2. Thu lời bất chính từ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có;
3. Tạo cơ hội cho ngƣời khác sử dụng, khai thác tài sản bắt
nguồn từ tài sản do phạm tội mà có, hoặc giá trị của tài sản đó;
44
4. Giúp đỡ ngƣời khác di chuyển, chuyển nhƣợng hoặc bán
tài sản bắt nguồn từ tài sản do phạm tội mà có, hoặc tiến hành biện
pháp tƣơng tự, nhằm che giấu nguồn gốc của tài sản; hoặc
5. Theo yêu cầu của ngƣời khác, chuyển hoặc tiến hành biện
pháp tƣơng tự xác nhận quyền đối với tài sản do phạm tội mà có;
Thì bị phạt tù đến hai năm về tội nhận tài sản do phạm tội mà có.
Ngƣời nào trong hoạt động kinh doanh hoặc một phần của
hoạt động kinh doanh đƣợc tiến hành thƣờng xuyên hoặc trên quy
mô lớn, nhận tài sản mà có thể giả định một cách hợp lý là do ngƣời
khác phạm tội chiếm đoạt tài sản mà có, và việc tiếp nhận đó đƣợc
tiến hành theo cách thức khiến cho việc thu hồi tài sản trở nên khó
khăn thì cũng bị xử phạt tƣơng tự nhƣ phạm tội nhận tài sản do
phạm tội mà có.
Phạm tội quy định tại đoạn 1 và đoạn 2 của Điều này trong
trƣờng hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ sáu tháng đến sáu năm [37].
Điều 7.
Nếu hành vi phạm tội quy định tại Điều 6 đƣợc coi là ít nghiêm trọng
thì ngƣời phạm tội sẽ bị phạt tù đến sáu tháng hoặc phạt tiền về tội nhận tài
sản do phạm tội mà có trong trƣờng hợp ít nghiêm trọng.
Ngƣời phạm tội thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây thì cũng bị áp
dụng hình phạt đối với tội nhận tài sản do phạm tội mà có trong trƣờng hợp ít
nghiêm trọng:
1. Ngƣời nhận tài sản có cơ sở hợp lý để cho rằng do ngƣời
khác phạm tội chiếm đoạt mà có và việc tiếp nhận đƣợc tiến hành
theo cách thức khiến cho việc thu hồi tài sản đó trở nên khó khăn,
trừ trƣờng hợp quy định tại đoạn 2 Điều 6.
2. Trong trƣờng hợp quy định tại đoạn 1 Điều 6 nhƣng không
45
nhận thức đƣợc, mặc dù có cơ sở hợp lý để cho rằng tài sản đó có
liên quan đến tội phạm; hoặc
3. Theo cách thức quy định tại điểm 1, đoạn 1 của Điều 6, tham
gia thực hiện tội phạm chiếm đoạt tài sản và không nhận thức đƣợc,
mặc dù có cơ sở hợp lý để cho rằng tội phạm đã đƣợc thực hiện [37].
Nghiên cứu các quy định khác của BLHS Thụy Điển có thể rút ra
những điểm giống và khác của BLHS Thụy Điển và BLHS Việt Nam năm
1999 nhƣ sau:
* Điểm giống nhau
Các Bộ luật đều không có quy định về tội phạm nguồn. Điều này đƣợc
hiểu là bất kỳ tội phạm nào mà tiền thu đƣợc bất hợp pháp từ tội phạm đó đều
là tội phạm nguồn của rửa tiền.
* Điểm khác nhau
- Về khách thể: Trong BLHS Thụy Điển, Điều 6 và Điều 7 đƣợc xếp
vào chƣơng tội lừa đảo và các tội gian dối khác. Có thể thấy nhà làm luật
Thụy Điển đã không đánh giá khách thể của tội phạm giống nhà làm luật Việt
Nam là đánh giá theo quan hệ xã hội bị xâm hại mà đánh giá theo bản chất
hành vi của ngƣời phạm tội. Do bản chất của tội phạm rửa tiền là dùng các thủ
đoạn để xóa giấu vết, che đậy nguồn gốc của tiền bẩn, biến tiền bẩn thành tiền
sạch nên thực chất đây là hoạt động gian dối. Có thể thấy cách nhìn nhận,
đánh giá và sắp xếp của nhà làm luật Thụy Điển trực diện nhƣng cũng nhẹ
nhàng hơn cách đánh giá của nhà làm luật Việt Nam.
Về đối tượng tác động: BLHS Thụy Điển chỉ dùng khái niệm “tài sản”
cho vấn đề này, cách diễn đạt này bao quát mọi giá trị vật chất mà tội phạm
nguồn và tội phạm rửa tiền tác động vào. Trong khi đó, BLHS Việt Nam năm
1999 dùng khái niệm “tiền, tài sản”. Cách sử dụng thuật ngữ của BLHS Việt
Nam vẫn còn chƣa chuẩn xác vì khái niệm tài sản đã bao hàm trong đó cả tiền
46
(theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật phòng, chống rửa tiền Việt Nam và
quy định tại Công ƣớc của Liên hợp quốc).
- Về chủ thể: theo quy định tại Điều 6 Chƣơng I BLHS Thụy Điển thì
“không áp dụng chế tài đối với ngƣời phạm tội khi chƣa đủ 15 tuổi”. Nhƣ
vậy, chủ thể của tội rửa tiền trong BLHS Thụy Điển khác so với BLHS Việt
Nam. Nếu nhƣ chủ thể của tội rửa tiền trong BLHS Việt Nam năm 1999 chia
làm hai loại: ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên đến dƣới 16 tuổi và ngƣời đủ 16 tuổi
trở lên thì BLHS Thụy Điển xác định chủ thể là ngƣời đủ 15 tuổi trở lên.
Trong khi đó, BLHS Việt Nam năm 1999 vẫn buộc ngƣời từ đủ 14 tuổi trở
lên chịu trách nhiệm hình sự về hành vi rửa tiền của mình nếu phạm vào
khoản 2 và khoản 3 Điều 251 BLHS (là tội rất nghiêm trọng). Điều này thể
hiện chính sách cứng rắn của nhà làm BLHS Việt Nam năm 1999 khi buộc
những ngƣời trẻ phải chịu trách nhiệm cho hành động vi phạm pháp luật hình
sự gây nguy hại rất lớn cho xã hội của mình.
- Về mặt chủ quan, điểm khác biệt cần lƣu ý của BLHS Thụy Điển so
với BLHS Việt Nam là trạng thái lỗi vô ý cũng phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội này. Trong khi BLHS Việt Nam nhấn mạnh yếu tố nhận thức “biết rõ là
tiền, tài sản do phạm tội mà có” và “nhằm mục đích che giấu nguồn gốc bất
hợp pháp của tiền, tài sản” để xác định lỗi của ngƣời phạm tội phải là lỗi cố ý
thì trong BLHS Thụy Điển, yếu tố lỗi gồm cả trạng thái cố ý và vô ý. Nếu nhƣ
ở Điều 6, nhà làm luật không nhắc đến trạng thái lỗi nhƣng căn cứ vào mô tả
hành vi và quy định tại Điều 2 Chƣơng 1 “trừ khi có quy định khác, hành vi
chỉ bị coi là tội phạm nếu đƣợc thực hiện một cách cố ý” và cách sử dụng cụm
từ “tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có” mà không đề cập đến trạng thái
nhận thức của ngƣời phạm tội, ngoài ra tại khoản 1 Điều 6 có thêm quy định
“việc tiếp nhận này đƣợc tiến hành theo cách thức khiến cho việc truy thu tài
sản trở nên khó khăn”, khoản 4 Điều 6 “nhằm che giấu nguồn gốc của tài sản”
47
và đặt trong mối tƣơng quan với cách diễn đạt tại câu 2 Điều 6 và Điều 7
(trong hai câu này, nhà làm luật luôn nêu rõ cụm từ “có thể giả định một cách
hợp lý/có cơ sở hợp lý để cho rằng ngƣời khác phạm tội chiếm đoạt mà có”)
thì có thể hiểu ở đây hành vi phạm tội đƣợc xác định với lỗi cố ý. Trong khi
đó, tại Điều 7 về các trƣờng hợp ít nghiêm trọng, yếu tố lỗi vô ý đƣợc xác
định. Ngoài trƣờng hợp tại khoản 1 Điều 7 khi ngƣời phạm tội không biết rõ
ràng, chính xác mà chỉ “có cơ sở hợp lý” để cho rằng tài sản do ngƣời khác
phạm tội chiếm đoạt mà có, nhƣng hành vi tiếp nhận lại đƣợc “tiến hành theo
cách thức khiến cho việc thu hồi tài sản trở nên khó khăn” (tƣơng tự nhƣ quy
định tại câu 2 Điều 6) thực chất đây là một dạng lỗi cố ý nhƣng ở mức thấp
hơn so với cố ý thông thƣờng khi ngƣời phạm tội biết chắc chắn tài sản là
bất hợp pháp. Còn lại, trạng thái lỗi vô ý đƣợc thể hiện đậm nét trong khoản
2 Điều 7, với cụm từ “không nhận thức đƣợc, mặc dù có cơ sở hợp lý để cho
rằng tài sản đó có liên quan đến tội phạm” và “tham gia thực hiện tội phạm
và không nhận thức đƣợc, mặc dù có cơ sở hợp lý để cho rằng tội phạm đã
đƣợc thực hiện”. Trạng thái lỗi này tƣơng tự nhƣ trạng thái lỗi vô ý do cẩu
thả đƣợc quy định tại khoản 2 Điều 10 BLHS Việt Nam 1999. Ngƣời phạm
tội không nhận thức đƣợc rằng tài sản đang tiếp cận là tài sản bất hợp pháp
mặc dù có thể biết.
- Về mặt khách quan, BLHS Thụy Điển quy định 6 hành vi khác nhau
đối với tội rửa tiền. So với quy định tại BLHS Việt Nam năm 1999, quy định
tại Điều 6 BLHS Thụy Điển bao gồm cả hành vi chứa chấp và tiêu thụ tài sản
do ngƣời khác phạm tội mà có, đó là các hành vi tiếp nhận, giúp đỡ ngƣời
khác, điều chuyển, chuyển nhƣợng hoặc bán tài sản bắt nguồn từ tài sản do
phạm tội mà có… Nhƣ vậy, nhà làm luật Thụy Điển đã đánh giá hành vi chứa
chấp, tiêu thụ có bản chất là hành vi rửa tiền bởi chúng đều nhằm xóa dấu vết
của hành vi phạm tội nguồn, hƣớng đến mục tiêu sở hữu tài sản bất hợp pháp
48
của tội phạm. Trong khi đó, BLHS năm 1999 lại qui định chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có là tội danh độc lập và không thuộc
về tội rửa tiền
- Về hình phạt: mức hình phạt mà BLHS Thụy Điển áp dụng tƣơng đối
nhẹ so với hình phạt về tội rửa tiền trong BLHS Việt Nam năm 1999. Trong
trƣờng hợp bình thƣờng hình phạt là đến hai năm tù còn trƣờng hợp nghiêm
trọng là từ sáu tháng đến sáu năm tù. Trƣờng hợp ít nghiêm trọng hình phạt là
tù đến sáu tháng hoặc phạt tiền. Khác với BLHS Việt Nam năm 1999, BLHS
Thụy Điển áp dụng phạt tiền là hình phạt chính trong trƣờng hợp không áp
dụng hình phạt tù. Đây là điểm khác biệt thể hiện tƣ duy linh động của nhà
làm luật trong việc xử lý tội phạm. BLHS Việt Nam năm 1999 quy định phạt
tiền là hình phạt bổ sung, còn BLHS Thụy Điển quy định phạt tiền có thể
đƣợc áp dụng là hình phạt chính trong trƣờng hợp ít nghiêm trọng.
2.2. So sánh quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 với
quy định của pháp luật hình sự Mỹ và Canada (thuộc hệ thống án lệ) về
tội rửa tiền
2.2.1. So sánh quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 với quy định
của pháp luật hình sự Mỹ về tội rửa tiền
Luật kiểm soát rửa tiền năm 1986 quy định 3 tội danh mới trong BLHS
Mỹ là: cố ý giúp đỡ rửa những khoản tiền từ các hoạt động phạm pháp; cố ý thực
hiện giao dịch lớn hơn mức 10.000 USD có đƣợc từ các hoạt động phạm pháp
trong một ngày; cố ý tiến hành những giao dịch nhằm tránh những quy định của
Luật bảo mật ngân hàng (BSA). Tại Điều (1) (A) (1) ở đoạn 1956, 1957:
Ngƣời nào biết rằng các tài sản thu đƣợc từ các hoạt động trái
pháp luật; tham gia vào một giao dịch tài chính, thực hiện hoặc cố
gắng tiến hành một giao dịch tài chính liên quan đến số tiền thu
đƣợc từ hoạt động trái pháp luật; biết rằng các giao dịch đƣợc thiết
49
lập toàn bộ hoặc một phần nhằm che giấu hoặc ngụy trang bản chất,
vị trí, nguồn, quyền sở hữu, hoặc sự kiểm soát của số tiền thu đƣợc
từ hoạt động trái pháp luật thì bị phạt tiền không quá 500.000 USD
hoặc hai lần giá trị của tài sản liên quan đến giao dịch, hoặc phạt tù
trên 20 năm hoặc cả hai [25].
Điều (2) quy định:
Ngƣời nào vận chuyển, cố gắng để vận chuyển, chuyển giao
tiền từ một địa điểm ở Mỹ hoặc thông qua một địa điểm ngoài lãnh
thổ Mỹ đến một địa điểm ở Mỹ hoặc thông qua một địa điểm ngoài
lãnh thổ Mỹ (A) với mục đích thúc đẩy các hoạt động trái pháp luật;
(B) biết rằng tiền tham gia vào quá trình vận chuyển, chuyển giao là
tiền thu đƣợc từ các hoạt động trái pháp luật và biết những giao
dịch vận chuyển, hoặc chuyển giao đƣợc thiết kế toàn bộ hoặc một
phần (i) để che giấu hoặc ngụy trang bản chất, vị trí, nguồn, quyền
sở hữu, hoặc sự kiểm soát của số tiền thu đƣợc từ hoạt động trái
pháp luật; (ii) để tránh một yêu cầu báo cáo giao dịch theo pháp luật
bang hoặc liên bang, thì bị phạt tiền không quá 500.000 USD hoặc
hai lần giá trị của số tiền tham gia trong việc vận chuyển, chuyển
giao hoặc phạt tù không quá hai mƣơi năm, hoặc cả hai [25].
So sánh với quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 về tội rửa tiền, có
thể rút ra những điểm giống và khác nhau giữa BLHS Việt Nam năm 1999 và
pháp luật hình sự Mỹ về tội rửa tiền nhƣ sau:
* Điểm giống nhau:
- Về mặt chủ quan: các quy định trong BLHS hai nƣớc đều thể hiện
ngƣời phạm tội với lỗi cố ý khi ngƣời đó biết nguồn gốc của tiền, tài sản thu
đƣợc từ hoạt động trái pháp luật và mục đích của hành vi mà mình đang thực
hiện là che giấu hoặc ngụy trang bản chất, vị trí, nguồn, quyền sở hữu, hoặc
sự kiểm soát của số tiền đó.
50
- Về chủ thể của tội phạm: nhƣ đã phân tích ở chƣơng I thì quy định
này tại Điều 251 BLHS Việt Nam năm 1999 chƣa rõ ràng, còn gây tranh cãi
là chủ thể có bao gồm cả ngƣời đã thực hiện tội phạm nguồn hay chỉ bao gồm
ngƣời thực hiện hành vi rửa tiền nhƣng đến BLHS Việt Nam 2015, chủ thể đã
đƣợc xác định gồm cả ngƣời thực hiện và ngƣời không thực hiện tội phạm
nguồn. Đối với pháp luật Mỹ, cần xem xét Điều 2 (6) quy định mẫu của các
quốc gia châu Mỹ về chống rửa tiền: “Tội (rửa tiền) đƣợc quy định trong điều
luật này phải đƣợc phát hiện, điều tra và truy tố, xét xử bởi Tòa án hoặc cơ
quan có thẩm quyền nhƣ một tội phạm độc lập với các tội phạm khác”. Nhƣ
vậy, hành vi rửa tiền không nằm trong chuỗi hành vi thực hiện tội phạm
nguồn mà đƣợc xem xét trong một cấu thành tội phạm mới, hoàn toàn độc lập
với bất kỳ hành vi phạm tội nào khác kể cả tội phạm nguồn. Dẫn chiếu đến tội
rửa tiền trong pháp luật hình sự Mỹ, việc sử dụng các cụm từ “ngƣời nào”,
“biết rằng” đã thể hiện chủ thể gồm hai loại đối tƣợng, phù hợp với quy định
mẫu nêu trên.
* Điểm khác nhau
- Về hành vi khách quan: nếu nhƣ BLHS Việt Nam năm 1999 quy định
các hành vi thuộc nhóm chứa chấp, tiêu thụ tài sản thuộc tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có thì trong Luật kiểm soát rửa
tiền Mỹ, các hành vi thuộc về quá trình thực hiện các hành vi chứa chấp, tiêu
thụ (nhƣ vận chuyển, chuyển giao, thực hiện giao dịch…) đƣợc quy định là
hành vi phạm tội rửa tiền và bị trừng trị rất nặng. Ngoài ra, pháp luật hình sự
Mỹ quy định những nhóm hành vi cụ thể, chi tiết và rõ ràng, trong đó có
nhóm hành vi giống BLHS Việt Nam năm 1999 qui định nhƣ tham gia thực
hiện giao dịch tài chính nhằm che giấu nguồn gốc trái pháp luật của tiền, tài
sản do phạm tội mà có, đồng thời có những nhóm hành vi khác nhƣ vận
chuyển tiền đến các địa điểm trong hoặc ngoài lãnh thổ Mỹ để che giấu nguồn
51
gốc tiền, tài sản hoặc để tránh yêu cầu báo cáo giao dịch theo pháp luật liên
bang. Đây là một quy định chi tiết và khác biệt so với BLHS Việt Nam năm
1999 nhƣng lại có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn hoạt động rửa tiền
ngay từ đầu. Bởi vì hoạt động vận chuyển, chuyển giao tiền bẩn là một trong
những cách thức rửa tiền thô sơ nhƣng rất hiệu quả, đặc biệt khi hoạt động đó
nhằm “để tránh một yêu cầu báo cáo giao dịch theo pháp luật bang hoặc liên
bang”. Điều này rất quan trọng vì theo bản 40+9 khuyến nghị của FATF thì
“báo cáo các giao dịch đáng ngờ và tuân thủ” là các khuyến nghị thuộc nhóm
khuyến nghị “B. Các biện pháp đƣợc các định chế tài chính và các loại hình
kinh doanh và ngành nghề phi tài chính thực hiện nhằm ngăn ngừa hoạt động
rửa tiền và tài trợ khủng bố” [7] - nhóm khuyến nghị rất quan trọng nhằm
ngăn chặn hoạt động rửa tiền ngay từ đầu, hạn chế quá trình thâm nhập, trà
trộn sâu hơn dẫn đến khó phát hiện tiền bẩn hơn. Đồng thời, điều này thể hiện
trình độ phát triển cao, có tính tiên phong của pháp luật Mỹ bởi vì FATF là tổ
chức đƣợc thành lập vào năm 1989, trong khi đó Luật kiểm soát rửa tiền Mỹ
đã ra đời từ năm 1986 và đã đề cập đến hành vi rửa tiền liên quan đến hoạt
động báo cáo các giao dịch đáng ngờ. Quy định này chứng tỏ sự hoàn thiện,
đầy đủ và chặt chẽ của pháp luật Mỹ bởi vì cùng với pháp luật hình sự, lúc
này pháp luật Mỹ đã có cả quy định về phòng chống rửa tiền của các định chế
tài chính, liên quan đến hoạt động của cơ quan tình báo tài chính…
Ở Việt Nam, yêu cầu báo cáo giao dịch đáng ngờ liên quan đến tội
phạm rửa tiền mới chỉ lần đầu xuất hiện trong Nghị định số 74/2005/NĐ-CP
ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng chống rửa tiền với tƣ cách là một
cách thức quan trọng để phòng, chống rửa tiền mà chƣa có một chế tài hình sự
nào liên quan đến yêu cầu này. Ngoài ra, Luật kiểm soát rửa tiền Mỹ còn rất
chi tiết khi quy định rõ “các giao dịch tài chính liên quan đến số tiền thu đƣợc
từ hoạt động trái pháp luật đƣợc thiết lập toàn bộ hoặc một phần nhằm che
52
giấu hoặc ngụy trang bản chất, vị trí, nguồn, quyền sở hữu hoặc sự kiểm soát
của số tiền thu đƣợc từ hoạt động trái pháp luật”. Với cách quy định rõ đặc
điểm của giao dịch tài chính “đƣợc thiết lập toàn bộ hoặc một phần nhằm…”,
pháp luật Mỹ đã tránh đƣợc tình trạng mập mờ có thể dẫn đến lách luật của
tội phạm bởi vì quy định này đã bao quát mọi phạm vi giao dịch, không còn
loại giao dịch nào để tội phạm có thể sử dụng để tránh bị trừng trị. Đây là một
chi tiết nhỏ nhƣng thể hiện sự cẩn trọng, hoàn thiện của pháp luật hình sự Mỹ.
- Về hình phạt: mặc dù pháp luật hình sự cả hai nƣớc đều thể hiện sự
nghiêm khắc đối với tội phạm rửa tiền nhƣng trong pháp luật hình sự Mỹ,
mức độ nghiêm khắc rất cao khi hình phạt là “phạt tiền không quá 500.000
USD hoặc hai lần giá trị của tài sản liên quan đến giao dịch, hoặc phạt tù trên
20 năm hoặc cả hai”. Trong khi hình phạt tù đối với tội rửa tiền theo quy định
tại BLHS Việt Nam năm 1999 có mức cao nhất là 15 năm tù. Ngoài ra, nhà
làm luật Việt Nam quy định phạt tiền là một trong số các hình phạt bổ sung
còn nhà làm luật Mỹ quy định phạt tiền là hình phạt chính đƣợc áp dụng thay
thế hoặc áp dụng cùng với hình phạt tù. Quy định này vẫn đảm bảo tính
nghiêm khắc nhƣng cũng tạo sự linh động cho Toà án có thể lựa chọn hình
phạt phù hợp, đạt lợi ích nhất cho cả Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội trong
những hoàn cảnh cụ thể bởi không phải khi nào hình phạt tù cũng đem lại
hiệu quả cao nhất. Qua đây, ta thấy pháp luật hình sự Mỹ trừng trị rất nặng tội
rửa tiền. Điều này có thể đƣợc lý giải bởi nhà làm luật Mỹ nhận thức rất rõ về
hậu quả nghiêm trọng của tội phạm rửa tiền trong bối cảnh đất nƣớc có nền
kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển hàng đầu thế giới, thì đồng
hành với nó là sự phát triển mạnh mẽ, tinh vi và nghiêm trọng ở mức độ hàng
đầu thế giới của tội phạm rửa tiền, đặc biệt là tội phạm rửa tiền có tổ chức. Do
đó việc trừng trị nghiêm là rất cần thiết, vừa tƣơng xứng với hành vi phạm tội,
vừa có tính giáo dục, ngăn chặn ý định phạm tội từ trong trứng nƣớc.
53
2.2.2. So sánh quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 với
quy định của Bộ luật hình sự Canada về tội rửa tiền
Phần “Tội phạm” thuộc Phần XII.2 “Tài sản do phạm tội mà có” của
BLHS Canada quy định:
Hợp pháp hóa tài sản do phạm tội mà có
462.31 (1) Một ngƣời phạm một tội khi sử dụng, chuyển dịch việc
chiếm hữu, gửi đi hay giao cho bất kỳ ngƣời hay tới địa điểm nào, vận tải,
truyền, sửa đổi, định đoạt hay thông qua cách khác giao dịch theo bất kỳ cách
thức hay phƣơng tiện nào đối với bất kỳ tài sản hay bất kỳ lợi ích nào có đƣợc
từ bất kỳ tài sản nào với ý đồ che giấu hay chuyển đổi tài sản đó hay lợi ích
đó mà biết đƣợc hay tin là tất cả hay một phần của tài sản hay lợi ích đó đã có
đƣợc hay có nguồn gốc trực tiếp hay gián tiếp nhƣ là kết quả của:
(a) việc phạm tại Canada một tội đƣợc quy định; hoặc
(b) một hành động hoặc không hành động ở bất kỳ nơi nào
khác mà nếu xảy ra tại Canada sẽ cấu thành một tội đƣợc quy định.
Hình phạt
(2) Bất kỳ ngƣời nào phạm một tội theo khoản (1)
(a) là phạm một tội đại hình và có thể bị tù có thời hạn không
quá 10 năm; hoặc
(b) là phạm một tội có thể bị trừng phạt theo thủ tục kết án
rút gọn.
Ngoại lệ
(3) Cán bộ trật tự hay ngƣời hành động theo chỉ đạo của cán
bộ trật tự không phạm một tội theo khoản (1) nếu cán bộ trật tự huy
động ngƣời này làm bất kỳ việc gì quy định tại khoản đó phục vụ
cho cuộc điều tra hay theo cách khác là thực hiện các nhiệm vụ của
cán bộ trật tự [4].
54
* Điểm giống nhau
- Vấn đề tội phạm nguồn: quy định “việc phạm tại Canada một tội đƣợc
quy định…” cho thấy theo qui định của BLHS Canada, tội phạm nguồn có thể
là bất kì tội nào. BLHS Canada và BLHS Việt Nam năm 1999 đều quy định tội
phạm nguồn là bất kỳ một tội phạm nào đã đƣợc quy định trong BLHS. BLHS
Việt Nam năm 1999 tuy không nêu rõ nhƣ Canada về vấn đề này nhƣng trong
luật chỉ xuất hiện cụm từ “tiền, tài sản do phạm tội mà có” mà không có quy
định khác bổ sung, giải thích cho cụm từ này do đó cũng có thể hiểu là khi một
ngƣời đã phạm bất kỳ một tội nào khác mà muốn “rửa” số tiền, tài sản thu đƣợc
thì tội phạm bất kỳ đó đều là tội phạm nguồn của tội rửa tiền.
- Về mặt chủ quan: Lỗi đƣợc xác định là dạng lỗi cố ý. Trong BLHS
Canada ngƣời phạm tội có “ý đồ che giấu hay chuyển đổi tài sản đó hay lợi
ích đó mà biết đƣợc hay tin là tất cả hay một phần của tài sản hay lợi ích đó
đã có đƣợc hay có nguồn gốc trực tiếp hay gián tiếp nhƣ là kết quả của việc
phạm tại Canada một tội đƣợc quy định…”. Cụm từ “biết đƣợc” xuất hiện ở
đây cũng có nghĩa khá tƣơng đồng với cụm từ “biết rõ” trong BLHS Việt
Nam năm 1999. Mặc dù cấp độ diễn tả khác nhau nhƣng từ “biết” phản ánh
nhận thức rõ ràng của ngƣời phạm tội về nguồn gốc tài sản là bất hợp pháp
nhƣng vẫn thực hiện những hành vi trái pháp luật tác động lên tài sản đó. Đối
với trƣờng hợp “tin là”, nhận thức về tài sản thông qua sự tiếp nhận và xử lý
các thông tin phản ánh về tài sản, qua đó ngƣời phạm tội có cơ sở tin rằng đây
là tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp, chứ không biết rõ ràng, chính xác. Mặc
dù chỉ là sự đánh giá mang tính chủ quan của ngƣời phạm tội về tài sản nhƣng
sau đó ngƣời phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội thì điều đó phản ánh
ngƣời phạm tội đã cố ý phạm tội. Do đó trong cả hai trƣờng hợp này lỗi của
ngƣời phạm tội đều là lỗi cố ý.
- Về hình phạt: hình phạt đƣợc quy định đều là phạt tù có thời hạn. Đây
55
là hình phạt chính trong BLHS Việt Nam năm 1999 và là hình phạt duy nhất
trong BLHS Canada. Nó thể hiện quan điểm cứng rắn của nhà làm luật
Canada trong việc xử lý tội phạm là áp dụng hình thức tƣớc tự do có thời hạn
đối với ngƣời phạm tội.
* Điểm khác nhau
- Về chủ thể: căn cứ vào hai từ “biết đƣợc” và “tin là” trong quy định
của BLHS Canada, có thể thấy chủ thể của tội hợp pháp hóa tài sản do phạm
tội mà có không phải là ngƣời đã thực hiện tội phạm nguồn. Nếu nhƣ theo
BLHS Việt Nam năm 1999 vấn đề này gây tranh cãi theo hai quan điểm
khác nhau là do từ “biết rõ” phản ánh nhận thức của cả ngƣời thực hiện và
ngƣời không thực hiện tội phạm nguồn. Nhƣng với từ “biết đƣợc” thì chỉ
dạng tiếp nhận thông tin về một vấn đề nào đó không phải do bản thân thực
hiện, với từ “tin là” còn thể hiện điều này rõ nét hơn. Do đó, có thể thấy chủ
thể của tội rửa tiền theo quy định của BLHS Canada là ngƣời không thực
hiện tội phạm nguồn.
- Về hành vi khách quan: mục 462.31 của BLHS Canada dẫn ra một
loạt hành vi cụ thể nhƣ “sử dụng, chuyển dịch việc chiếm hữu, gửi đi hay giao
cho bất kỳ ngƣời hay tới địa điểm nào, vận tải, truyền, sửa đổi, định đoạt”.
Đây là những dạng hành vi xuất hiện cả trong tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản
do ngƣời khác phạm tội mà có theo quy định tại BLHS Việt Nam năm 1999.
Do đó có thể thấy tội hợp pháp hóa tài sản do phạm tội mà có trong BLHS
Canada là tổng thể của cả tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm
tội mà có và tội rửa tiền của BLHS Việt Nam năm 1999. Tuy nhiên, không
dừng ở việc mô tả một loạt hành vi cụ thể, sự hoàn thiện của BLHS Canada
thể hiện ở chỗ đã mô tả dạng khái quát nhất bao trùm tất cả mọi hành vi rửa
tiền nhằm tránh bỏ lọt tội phạm, đó là “…hay thông qua cách khác giao dịch
theo bất kỳ cách thức hay phƣơng tiện nào đối với bất kỳ tài sản hay bất kỳ lợi
56
ích nào có đƣợc từ bất kỳ tài sản nào với ý đồ che giấu hay chuyển đổi tài sản
đó hay lợi ích đó”. Nhƣ vậy, cụm từ “bất kỳ” đã thay thế cho việc diễn giải
các hành vi khác liên quan đến việc rửa tiền, quá trình áp dụng pháp luật sẽ
không bị cản trở bởi cái gọi là “chƣa có quy định về vấn đề này trong luật” là
vấn đề mà nhiều nƣớc gặp phải. Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội,
khoa học kỹ thuật, tội phạm rửa tiền sẽ luôn tìm những cách thức mới để thực
hiện do đó hạn chế của phƣơng pháp liệt kê hành vi trong điều luật là rất thực
tế. Bằng cách quy định chung nhƣ vậy, nhà làm luật Canada đã loại bỏ hoàn
toàn trở ngại này, đảm bảo mọi tội phạm có tính chất rửa tiền, hợp pháp hóa
tài sản do phạm tội mà có đều bị xử lý.
- Về tội phạm nguồn: bên cạnh điểm giống nhau là không giới hạn tội
phạm nguồn, BLHS Canada có điểm khác BLHS Việt Nam về quy định tội
phạm nguồn và đây cũng là điểm tiến bộ của BLHS Canada. Đó là ngoài quy
định tại điểm “(a) việc phạm tại Canada một tội đƣợc quy định” còn có phần
“hoặc (b) một hành động hoặc không hành động ở bất kỳ nơi nào khác mà nếu
xảy ra tại Canada sẽ cấu thành một tội đƣợc quy định”. Quy định tai mục (b)
đã cho thấy thêm một kỹ thuật lập pháp tiến bộ nữa của Canada khi bao hàm
đƣợc cả tội phạm nguồn xảy ra bên ngoài lãnh thổ Canada. Xuất phát từ đặc
điểm của tội phạm rửa tiền trong nhiều trƣờng hợp mang tính quốc tế nhƣ khi
tội phạm nguồn xảy ra ở một nƣớc còn tội phạm rửa tiền lại xảy ra ở một hoặc
nhiều nƣớc khác. Với quy định này của BLHS Canada, hành vi phạm tội
nguồn bao gồm cả trƣờng hợp xảy ra ở nƣớc ngoài nhƣng đối chiếu với quy
định trong BLHS Canada thì hành vi phạm tội đó đã cấu thành một tội phạm
cụ thể. Nhƣ vậy, bất kỳ hành vi nào thực hiện ở nƣớc ngoài mà đối chiếu với
BLHS Canada đã cấu thành một tội cụ thể thì hành vi rửa những khoản tài sản
thu đƣợc từ việc thực hiện hành vi ở nƣớc ngoài đó sẽ bị Canada xử lý hình
57
sự. Đây là một quy định hết sức chặt chẽ và đầy đủ trong pháp luật hình sự
Canada, phù hợp với khuyến nghị 1 của bản 40+9 khuyến nghị của FATF:
Các tội phạm nguồn của tội rửa tiền cần bao trùm cả hành vi
xảy ra tại một quốc gia khác, mà hành vi đó cấu thành tội phạm tại
quốc gia đó, đồng thời nó cấu thành tội phạm tiền thân nếu nó xảy
ra trong nƣớc. Các quốc gia có thể quy định điều kiện tiên quyết
duy nhất là hành vi này sẽ cấu thành một tội phạm nguồn nếu nó
xảy ra trong nƣớc [3].
- Ngoài hai khác biệt nêu trên, Điều 462.31 BLHS Canada còn dành
mục (3) để quy định về trƣờng hợp không phạm tội của cán bộ trật tự hay
ngƣời hành động theo chỉ đạo của cán bộ. Quy định này cũng thể hiện tính
toàn diện của BLHS Canada, loại trừ trách nhiệm hình sự trong trƣờng hợp thi
hành công vụ. Điều này xuất phát từ đặc điểm của tội phạm rửa tiền, để phát
hiện ra hành vi phạm tội, ngƣời làm công vụ có thể phải dùng các biện pháp
nghiệp vụ nhƣ gián điệp, tình báo, đóng giả là ngƣời cùng tổ chức phạm tội
rửa tiền và thực hiện các hành vi rửa tiền mà pháp luật quy định là hành vi
phạm tội để phát hiện, bắt giữ tội phạm.
- Về đối tượng tác động của tội phạm, nhà làm luật Canada không gọi
tên là tiền, tài sản nhƣ BLHS Việt Nam mà dùng cách gọi là “tài sản” và “lợi
ích có đƣợc từ bất kỳ tài sản nào”. Cách gọi này cũng bao trùm toàn bộ các
giá trị vật chất liên quan đến tội phạm rửa tiền, phù hợp với quy định của
Công ƣớc Viên [5].
- Về hình phạt: BLHS Canada không phân chia tội hợp pháp hóa tài
sản do phạm tội mà có thành các trƣờng hợp nghiêm trọng hay ít nghiêm
trọng mà quy định chung “(a) là phạm một tội đại hình và có thể bị tù có thời
hạn không quá 10 năm; hoặc (b) là phạm một tội có thể bị trừng phạt theo thủ
tục kết án rút gọn”. Nhƣ vậy, tùy theo đánh giá của Tòa án mà khi xét xử sẽ
58
áp dụng cho phù hợp trong khung hình phạt của tội phạm này là từ 10 năm tù
trở xuống hoặc phải chịu hình phạt theo thủ tục kết án rút gọn. Theo cách
đánh giá của nhà làm luật Canada thì đây là một tội “đại hình” tức là tội nguy
hiểm và mức hình phạt đến 10 năm tù là mức phạt khá cao thể hiện tính
nghiêm khắc của nhà làm luật Canada về vấn đề này.
59
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
So sánh quy định của BLHS Việt Nam về tội rửa tiền với quy định của
BLHS của một số nƣớc để thấy những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa các
nƣớc, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm sửa đổi, bổ sung
quy định pháp luật trong nƣớc là việc làm cần thiết trong quá trình nghiên cứu
khoa học về tội phạm này. Không giống nhƣ nhiều tội phạm khác, tội phạm
rửa tiền thƣờng có xu hƣớng quốc tế hóa do đó sự tƣơng thích, hài hòa giữa
pháp luật các nƣớc là rất cần thiết, tạo điều kiện cho công cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm này đạt hiệu quả cao. Qua chƣơng 2, tác giả đã trình
bày những điểm giống và khác biệt của quy định về tội rửa tiền (với những
tên gọi khác nhau) trong BLHS của các nƣớc thuộc hệ thống luật thành văn là
Trung Quốc, Thụy Điển và các nƣớc thuộc hệ thống án lệ là Mỹ và Canada so
với quy định về tội rửa tiền trong BLHS Việt Nam năm 1999. Qua đó, thấy
rằng mỗi nƣớc đều có những điểm khác biệt nổi trội mà chúng ta cần lƣu ý để
xem xét và học tập nếu phù hợp. Ở BLHS Trung Quốc là cách sắp xếp nhóm
khách thể loại, cách thiết lập quy định mô tả hành vi rửa tiền ở dạng khái quát
nhất để có thể bao quát mọi hành vi phạm tội, tránh bỏ lọt tội phạm, quy định
về trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội rửa tiền; ở BLHS Thụy Điển
là quy định trƣờng hợp phạm tội với lỗi vô ý; ở BLHS Mỹ là quy định hình
phạt tiền có thể thay thế hình phạt tù; ở BLHS Canada là quy định về trƣờng
hợp tội phạm nguồn xảy ra ở nƣớc ngoài; ở BLHS Mỹ và Canada, rửa tiền
bao gồm cả hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có.
Cùng với những phân tích về các điểm còn hạn chế trong quy định của BLHS
Việt Nam năm 1999 và BLHS năm 2015 đã đƣợc trình bày trong chƣơng I,
những kinh nghiệm từ việc so sánh này sẽ là bài học bổ ích và cần thiết mà
chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm để sửa đổi, bổ sung vào quy
định về tội rửa tiền của BLHS Việt Nam, nhằm tiến tới xây dựng một cấu
thành tội phạm hoàn chỉnh cho tội rửa tiền ở Việt Nam, góp phần đƣa công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm này đạt hiệu quả cao nhất.
60
Chương 3
PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀN
3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc cần thiết hoàn thiện quy
định của Bộ luật hình sự về tội rửa tiền
Trên thực tế, tội phạm luôn cần rửa những đồng tiền “dơ bẩn” từ những
hoạt động phi pháp của chúng để che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của số tiền
đó. Cùng với sự phát triển vƣợt bậc của khoa học kỹ thuật và kinh tế thế giới
hiện nay, tội phạm rửa tiền cũng đang trở thành vấn nạn toàn cầu.“Ước tính
mỗi năm bọn tội phạm rửa tiền từ 500 - 1.000.000.000.000 USD trên toàn thế
giới, gây ra những tác hại khôn lường đối với kinh tế, xã hội và cả an ninh
toàn cầu” [43]. Không chỉ phát triển về quy mô, các thủ đoạn rửa tiền cũng
ngày một phong phú, tinh vi, khó phát hiện hơn. Chính vì vậy, việc hoàn thiện
các quy định về tội phạm rửa tiền để đƣa chúng trở thành công cụ đấu tranh
phòng chống tội phạm hữu hiệu đã trở thành yêu cầu cấp thiết, đặc biệt là với
những nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam. Để thực hiện đƣợc điều đó chúng
ta phải xuất phát từ những cơ sở sau:
3.1.1. Cơ sở lý luận
Triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thƣợng tầng trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định
kiến trúc thƣợng tầng, thể hiện ở chỗ cơ sở hạ tầng nào thì sinh ra kiến trúc
thƣợng tầng ấy. Tất cả những hiện tƣợng kiến trúc thƣợng tầng nhƣ nhà nƣớc,
pháp luật, Đảng phái, triết học, đạo đức… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ
thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Khi cơ sở hạ tầng có
biến đổi thì sớm hay muộn cũng dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc
thƣợng tầng. Sự biến đổi này diễn ra ngay trong từng hình thái kinh tế - xã
61
hội. Tuy nhiên, mặc dù cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thƣợng tầng, kiến
trúc thƣợng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng nhƣng đó không phải là sự
phù hợp giản đơn, máy móc. Toàn bộ kiến trúc thƣợng tầng cũng nhƣ những
yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tƣơng đối trong quá trình vận động
phát triển và tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng. Nằm trong kiến trúc
thƣợng tầng, pháp luật chịu sự quyết định căn bản của đời sống kinh tế xã hội.
Nền kinh tế nào thì sản sinh ra hệ thống các quy phạm pháp luật tƣơng ứng
với nền kinh tế đó. Ngƣợc lại, pháp luật có vai trò tác động trở lại đối với nền
kinh tế xã hội. Nếu các quy phạm pháp luật lỗi thời, chậm đổi mới thì sẽ là
rào cản kìm hãm sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội. Đối chiếu với vấn
đề tội phạm rửa tiền hiện nay ta thấy đã xuất hiện những vấn đề mới của đời
sống kinh tế xã hội nhƣ xuất hiện những phƣơng thức, thủ đoạn rửa tiền mới
chƣa đƣợc quy định trong BLHS Việt Nam, vấn đề pháp nhân rửa tiền… đòi
hỏi quy định về tội phạm rửa tiền phải có những chuyển biến phù hợp để thể
hiện vai trò tích cực của nó trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam.
Mặt khác, trong quá trình hội nhập hiện nay, hệ thống pháp luật của
Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng cần tƣơng thích với hệ
thống pháp luật thế giới. Do tính chất nghiêm trọng của vấn đề, trƣớc xu thế
phát triển không ngừng cả về thủ đoạn, phạm vi, quy mô và tính chất của tội
phạm rửa tiền, sự thống nhất giữa các quy định về chống rửa tiền trên bình
diện quốc gia và quốc tế là một trong những vấn đề đƣợc nhiều tổ chức quốc
tế quan tâm. Liên hợp quốc đã có nhiều văn bản về vấn đề này trong đó đặc
biệt quan trọng, khởi xƣớng việc hình sự hóa các hành vi rửa tiền là Công ƣớc
Viên. Tuy thuật ngữ “rửa tiền” không đƣợc sử dụng trong Công ƣớc Viên
nhƣng nội hàm hành vi tẩy rửa những khoản thu đƣợc từ tội phạm ma túy
đƣợc miêu tả đầy đủ trong mục b, c khoản 1 Điều 3 của Công ƣớc này.
Những năm 90 của thế kỷ XX, một lần nữa ngƣời ta lại nói tới việc cần
62
phải trừng trị những hành vi tẩy rửa các khoản thu đƣợc từ tội phạm trong
Điều 6 Công ƣớc Palermo, đồng thời đƣa ra khái niệm “tội phạm nguồn” là
tất cả những loại tội phạm nào mang lại nguồn thu và có thể là đối tƣợng
của tội phạm nêu tại Điều 6 của Công ƣớc. Nếu nhƣ Công ƣớc Viên có
điểm hạn chế là quy định việc cần thiết hình sự hóa các hành vi rửa tiền
nhƣng chỉ liên quan đến hành vi buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và
chất hƣớng thần thì Công ƣớc Palermo đề cập đến vấn đề tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia trong đó có tội rửa tiền. Công ƣớc bắt buộc mỗi nƣớc
thông qua Công ƣớc phải:
- Hình sự hóa hành vi rửa tiền và quy định tất cả các tội nghiêm trọng
là tội phạm nguồn của tội rửa tiền, bất kể tội phạm đƣợc thực hiện ở trong
nƣớc hay ở ngoài nƣớc và cho phép suy đoán về sự cố ý phạm tội từ những
tình tiết khách quan;
- Xây dựng các biện pháp để phòng ngừa và phát hiện mọi hành vi
rửa tiền, kể cả nhận dạng khách hàng, lƣu giữ hồ sơ và báo cáo các giao
dịch đáng ngờ;
- Trao quyền hợp tác và trao đổi thông tin giữa các cơ quan hành chính,
quản lý, thi hành pháp luật và các cơ quan khác, cả ở trong nƣớc và trên phạm
vi quốc tế và xem xét việc thành lập một đơn vị tình báo tài chính để thu thập,
phân tích và phổ biến thông tin và
- Thúc đẩy hợp tác quốc tế.
Ngoài ra còn phải kể đến Công ƣớc quốc tế về chống tài trợ cho khủng
bố (1999) trong đó đề cập đến mối liên quan mật thiết giữa rửa tiền và tài trợ
cho khủng bố, Công ƣớc của Liên hợp quốc về chống tham nhũng tại Điều 14
quy định về các biện pháp chống rửa tiền thông qua việc các quốc gia phải
thiết lập chế độ giám sát và điều tiết toàn diện đối với các ngân hàng, các tổ
chức tài chính phi ngân hàng, kể cả các thể nhân hay pháp nhân cung cấp dịch
63
vụ chính thức hay không chính thức về chuyển tiền hoặc vật có giá trị nhằm
ngăn chặn, phát hiện mọi hình thức rửa tiền… Bên cạnh đó, Công ƣớc cũng
đƣa ra những yêu cầu mang tính chất khuyến nghị và tùy nghi cho các quốc
gia thành viên xem xét thực hiện các biện pháp khả thi nhằm phát hiện, kiểm
soát việc di chuyển tiền và các công cụ có thể chuyển đổi thành tiền qua biên
giới nƣớc mình…
Trên thực tế, ngoài Liên hợp quốc, hoạt động chống rửa tiền đã liên kết
nhiều tổ chức, quốc gia khác nhƣ Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế…
Tuy nhiên, bộ máy có tính chuyên môn cao và ràng buộc chặt chẽ là Lực
lƣợng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) đƣợc nhóm G7 thành lập
tại Pari năm 1989. Đây là tổ chức liên chính phủ chuyên nghiên cứu, đƣa ra
những chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. Việc thành
lập tổ chức này xuất phát từ ý thức cho rằng cần thiết phải tập hợp các cơ
quan chức năng nhƣ Ngân hàng Trung ƣơng, Bộ Tài chính, Công an… để
phòng chống rửa tiền hiệu quả, tạo ra những giải pháp và sự phối hợp toàn
diện để giải quyết vấn đề phức tạp này. FATF đƣợc coi là bộ máy chống rửa
tiền hiệu quả nhất hiện nay bởi liên hệ không chỉ chính phủ sở tại mà còn có
nhiều cơ quan chuyên trách chống tội phạm khác ví dụ nhƣ Tổ chức cảnh sát
quốc tế Interpol… Nhiệm vụ quan trọng nhất của FATF là giúp các nƣớc
thành viên ban hành các quy định về phòng, chống rửa tiền mà mục tiêu cuối
cùng là ban hành đƣợc luật chống rửa tiền. FATF đã ban hành 40 khuyến nghị
về vấn đề rửa tiền. Sau nhiều lần sửa đổi cho phù hợp với sự phát triển của
các phƣơng thức rửa tiền ngày càng tinh vi, đến năm 2001, FATF mở rộng
trách nhiệm giải quyết các vấn đề về tài trợ khủng bố và đã xây dựng 8
khuyến nghị đặc biệt chống tài trợ khủng bố. Vào tháng 10/2004, FATF đã
thông qua khuyến nghị đặc biệt 9 liên quan đến ngƣời vận chuyển tiền mặt
qua biên giới. Khuyến nghị của FATF gồm có:
64
- Các khuyến nghị về khuôn khổ pháp lý: gồm 3 khuyến nghị về phạm
vi của tội rửa tiền và các biện pháp tạm thời và xử lý tài sản của ngƣời phạm
tội. Theo những khuyến nghị này, các quốc gia trên thế giới phải hình sự hóa
hành vi rửa tiền theo các chuẩn mực nêu trong các Công ƣớc Viên và
Palermo. Cũng theo đó, các quốc gia cần cân nhắc áp dụng các biện pháp cho
phép tịch thu các khoản thu nhập phạm pháp đó mà không cần phải buộc tội
hình sự hoặc tịch thu tài sản nếu ngƣời phạm tội không chứng minh đƣợc
nguồn gốc hợp pháp của chúng.
- Các khuyến nghị về các biện pháp phòng ngừa mà các định chế tài
chính và các tổ chức, cá nhân chuyên nghiệp làm dịch vụ tài chính phải áp
dụng để ngăn ngừa hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố
Có 22 khuyến nghị về các biện pháp mà các định chế tài chính cần phải
thực hiện và cơ chế quản lý giám sát tuân thủ. Đó là các khuyến nghị về: các
biện pháp nhận biết khách hàng, đánh giá khách hàng, lƣu giữ các số liệu liên
quan tới các giao dịch tài chính; các biện pháp trong quan hệ ngân hàng đại
lý, quan hệ với các nhân vật có ảnh hƣởng về chính trị; về trách nhiệm báo
cáo các giao dịch đáng ngờ; các biện pháp mà các quốc gia cần áp dụng khi
các tổ chức, cá nhân trong nƣớc không tuân thủ quy định về phòng chống rửa
tiền và đối với các quốc gia không tuân thủ các khuyến nghị của FATF. Ngoài
ra, các khuyến nghị của FATF còn đề cập tới tầm quan trọng của công tác
quản lý, hƣớng dẫn và giám sát việc thực thi của các định chế tài chính.
- Các khuyến nghị về các biện pháp tổ chức và các biện pháp cần
thiết khác
9 Khuyến nghị khác của FATF liên quan tới những chuẩn mực pháp lý
về mặt tổ chức, các nguyên tắc hoạt động, các chức năng, quyền hạn và
những yêu cầu về nguồn lực cho các Cơ quan tình báo tài chính (FIU), cơ
quan điều tra, các cơ quan giám sát, thanh tra có thể thực thi tốt trách nhiệm
65
của mình trong công tác phòng chống rửa tiền và đảm bảo có cơ chế hợp tác
hiệu quả. Bên cạnh đó, những khuyến nghị này cũng đề cập các biện pháp
nhằm ngăn chặn việc sử dụng pháp nhân một cách bất hợp pháp của những
đối tƣợng rửa tiền, cần phải đảm bảo có thông tin đầy đủ, chính xác và kịp
thời về uỷ thác nhanh, bao gồm cả thông tin về ngƣời uỷ thác, ngƣời đƣợc uỷ
thác và ngƣời hƣởng lợi.
- Hợp tác quốc tế về chống rửa tiền
6 Khuyến nghị của FATF đề cập tới các vấn đề liên quan tới hợp tác
quốc tế nói chung về chống rửa tiền, về hỗ trợ pháp lý và dẫn độ và các hình
thức hợp tác quốc tế khác. Khuyến nghị chung là các nƣớc cần tiến hành các
bƣớc nhanh chóng trở thành thành viên và thực hiện các điều khoản quy định
trong Công ƣớc Viên, Công ƣớc Palermo và Công ƣớc Quốc tế năm 1999 của
Liên Hợp Quốc về chống tài trợ khủng bố; khuyến khích thông qua và thực
hiện Công ƣớc quốc tế liên quan khác nhƣ Công ƣớc năm 1990 của Hội đồng
Châu Âu về tẩy rửa, truy tìm, bắt giữ và tịch thu các khoản thu nhập từ tội
phạm và Công ƣớc Liên Mỹ về chống khủng bố năm 2002.
40 khuyến nghị nêu trên đƣợc áp dụng không chỉ đối với hoạt động rửa
tiền mà còn đối với hoạt động tài trợ khủng bố và khi kết hợp với 9 khuyến
nghị đặc biệt về tài trợ khủng bố, chúng tạo ra một khuôn khổ các biện pháp
nhất quán, toàn diện và tối thiểu mà các quốc gia cần thực hiện.
Mặc dù các khuyến nghị về luật pháp đƣợc đƣa ra, nhƣng FATF vẫn
tiến hành đánh giá việc thực hiện của các nƣớc thành viên qua việc từng nƣớc
đã nỗ lực nhƣ thế nào và đã ban hành đƣợc luật mới chƣa. Một chức năng
khác của FATF là cung cấp các trợ giúp kỹ thuật cho các tổ chức ngoài nhóm.
Theo hƣớng này, FATF đã làm việc với FATF Caribê, Hội đồng châu Âu, Tổ
chức những ngƣời giám sát ngân hàng ngoài quốc gia, Hiệp hội châu Á Thái
Bình Dƣơng về rửa tiền (APG) và tổ chức của Mỹ. Năm 1997, FATF thành
66
lập Uỷ ban đặc biệt về Trung và Đông Âu để giúp đỡ, phối hợp và trao đổi
thông tin giữa Uỷ ban và các nƣớc thuộc khối Trung Âu trƣớc kia và hiện nay
đang trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kế hoạch tập trung sang
kinh tế thị trƣờng.
Mặc dù FATF không tham gia trực tiếp vào cuộc chiến chống tội phạm
rửa tiền nhƣ các cơ quan, tổ chức khác nhƣ Interpol, Ngân hàng thế giới… và
các cơ quan tƣ pháp quốc gia, nhƣng FATF đã có ảnh hƣởng tích cực trong
việc tạo ra thêm những quy tắc và luật lệ quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
Qua việc đánh giá các nƣớc trong việc phòng, chống rửa tiền, FATF đã yêu
cầu các nƣớc thành viên không chỉ ban hành hệ thống luật pháp, mà còn phải
thực hiện các luật đó một cách nghiêm túc. Hơn nữa, FATF đã tạo ra một diễn
đàn hợp tác phòng, chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế và đã thúc đẩy mạnh
mẽ hơn nữa các hoạt động phối hợp xuyên quốc gia phòng, chống rửa tiền.
FATF cũng đã thành công trong việc biên soạn danh sách những nƣớc và
những tổ chức khủng bố liên quan đến rửa tiền [36].
Có thể nói, việc thiết lập một hệ thống phòng, chống rửa tiền hoạt động
hiệu quả là một công việc rất khó khăn. Tuy nhiên, với hệ thống các cơ sở lý
luận đã nêu trên, chúng ta đã có nền tảng để có thể hoàn thiện quy định pháp
luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng về chống rửa tiền. Thực tế hiện
nay, hệ thống các văn bản về tội phạm rửa tiền ở Việt Nam có rất ít và còn có
những quy định chƣa tƣơng thích với quy định về rửa tiền của thế giới. Ngoài
các quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 về tội rửa tiền mà sắp tới sẽ đƣợc
thay thế bằng BLHS năm 2015, Luật phòng chống rửa tiền số 07/2012/QH13
ngày 18/6/2012, Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền, Thông tƣ liên
tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC,
Thông tƣ số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 hƣớng dẫn thực hiện một
67
số quy định về phòng, chống rửa tiền và Thông tƣ số 31/2014/TT-NHNN
ngày 11/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tƣ số 35/2013/TT-
NHNN ngày 31/12/2013 nêu trên thì hầu nhƣ không còn văn bản quy phạm
pháp luật nào khác về tội phạm rửa tiền. Về mặt lý luận cũng có rất ít nghiên
cứu chuyên sâu về vấn đề này trong bối cảnh Việt Nam. Do đó, việc sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật về rửa tiền và hệ thống lý
luận bổ trợ về tội danh này là hết sức cần thiết.
3.1.2. Cơ sở thực tiễn
Từ năm 1986 khi nƣớc ta chuyển sang cơ chế thị trƣờng, đời sống kinh
tế xã hội đã có rất nhiều thay đổi. Kinh tế phát triển mạnh mẽ, đời sống ngƣời
dân đƣợc cải thiện, số lƣợng các doanh nghiệp đƣợc thành lập mới gia tăng
nhanh chóng, quá trình đầu tƣ của các doanh nghiệp Việt Nam ra nƣớc ngoài
và sự xuất hiện của các tập đoàn đa quốc gia trong nền kinh tế Việt Nam ngày
càng lớn, lƣợng kiều hối đổ về Việt Nam do ngƣời dân gửi về và các doanh
nghiệp nƣớc ngoài đầu tƣ vào Việt Nam ngày càng nhiều, các sự kiện kinh tế
lớn nhƣ Việt Nam gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO, hiệp định hợp
tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng TTP mở đƣờng cho sự phát triển và
hoà nhập sâu rộng hơn của kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới…
Tuy nhiên, đi cùng với những thuận lợi trên là những khó khăn không
nhỏ, các loại tội phạm nguồn của tội rửa tiền nhƣ mua bán ma túy, tham
nhũng, buôn lậu và làm hàng giả, lừa đảo, đánh bạc, mại dâm, buôn bán phụ
nữ và trẻ em gia tăng nhanh chóng về số lƣợng và quy mô, tội phạm xuyên
quốc gia phát triển nhanh chóng, trong số kiều hối đổ về Việt Nam có cả kiều
hối có nguồn gốc bất hợp pháp liên quan đến rửa tiền, trong số các doanh
nghiệp mới thành lập có cả những doanh nghiệp đƣợc thành lập từ nguồn tiền
bất hợp pháp, duy trì hoạt động để rửa tiền…, những mánh khóe, thủ đoạn
phạm tội mới cũng tinh vi xảo quyệt hơn...
68
Trên thực tế, từ khi có quy định về tội rửa tiền trong BLHS năm 1999
đến nay, số lƣợng các vụ án về tội rửa tiền không nhiều. Một số vụ đã bị phát
hiện ở Việt Nam nhƣ: vụ Ngân hàng đầu tƣ và phát triển Việt Nam nhận đƣợc
email từ một số doanh nhân Nigieria yêu cầu mở tài khoản 28.000.000 USD,
hứa sẽ chi lại 15% tổng số tiền; đầu tháng 10/2008, vụ án rửa tiền xuyên quốc
gia đầu tiên ở Việt Nam đã đƣợc phát hiện, xác định rõ nguồn gốc xuất xứ
tiền phạm pháp và bắt đƣợc đối tƣợng phạm tội là ngƣời nƣớc ngoài. Bọn tội
phạm đánh cắp từ một tài khoản có uy tín tại nƣớc ngoài, chuyển vào Việt
Nam tại 2 chi nhánh ngân hàng thƣơng mại tại Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng
Tàu số tiền 4.100.000.000 đồng rồi ngay sau đó tìm cách rút ra. Trong vụ án
này, đối tƣợng tên Baggio Carlitos Linska (quốc tịch Mozambique), đã bị bắt
tạm giữ tại sân bay Tân Sơn Nhất ngày 24/9/2008. Cùng lúc, Phòng An ninh
kinh tế (PA17) Công an Đà Nẵng cũng phối hợp với Công an tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu bắt tạm giữ khẩn cấp đối với Massamba Lendebe Elvis, quốc tịch
Mozambique tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Riêng đối tƣợng Niaty Lokasso Djamba,
quốc tịch Congo - kẻ đã mở tài khoản và đƣợc chuyển số tiền trên 3,34 tỷ
đồng tại Bà Rịa - Vũng Tàu đã bỏ trốn. Ngoài ra, một số vụ án khác có hành
vi có dấu hiệu rửa tiền nhƣng sau đó đều bị truy tố về những tội danh khác
nhƣ cho vay nặng lãi (vụ Huỳnh Thị Huyền Nhƣ)…
Theo báo cáo kiểm soát ma túy toàn cầu (INSCR) năm 2008 của Mỹ,
mạng lƣới buôn lậu cần sa giữa Mỹ và Việt Nam có khả năng rửa hàng chục
triệu đôla Mỹ hàng tháng tại Việt Nam, không chỉ thông qua hệ thống ngân
hàng chính thức và buôn lậu khối lƣợng tiền mặt lớn, mà còn kéo theo nhiều
tổ chức kinh doanh chuyển tiền trên đất Mỹ, mà theo báo cáo, đã chuyển vào
Việt Nam khoảng trên 100.000.000 đôla Mỹ hàng năm. Ngƣời ta nghi ngờ
rằng phần lớn số tiền trên thu đƣợc từ những hoạt động phạm tội. Các cơ quan
thực thi pháp luật ở Úc và Anh cũng cho rằng có sự vận chuyển một khối
69
lƣợng lớn lợi nhuận từ ma túy ngƣợc vào Việt Nam và sau đó lại đƣợc chuyển
ra khỏi đất nƣớc này [15, tr.14].
Nhƣ vậy, con số phát hiện và xét xử rất ít nhƣng thực tế, tội phạm rửa
tiền ở Việt Nam xảy ra khá phổ biến. Với tình trạng mua bán ma túy bất hợp
pháp đáng báo động nhƣ hiện nay, lƣợng tiền cần rửa là vô cùng lớn. Sự gia
tăng khối lƣợng ma túy mà tội phạm thực hiện qua mỗi vụ án cho thấy khoản
lợi nhuận khổng lồ mà tội phạm ma túy thu đƣợc. Bên cạnh đó, nạn tham
nhũng trầm trọng cũng dẫn đến những khoản tiền khổng lồ cần đƣợc xóa dấu
vết. Cách thức rửa tiền ở Việt Nam cũng không khác nhiều so với thế giới,
chủ yếu là đầu tƣ mua sắm bất động sản trong và ngoài nƣớc, tài sản có giá trị
lớn nhƣ du thuyền, xe hơi, xa xỉ phẩm, đầu tƣ mở nhà hàng, khách sạn, khu
vui chơi giải trí, thậm chí là trƣờng học, bệnh viện, mua cổ phiếu của các
công ty chân chính đang làm ăn có lãi, mở các công ty “ma” (công ty không
hoạt động trên thực tế nhƣng hàng năm vẫn báo cáo có lãi), đầu tƣ vào hoạt
động tài chính, tín dụng, ngân hàng… Những phƣơng thức rửa tiền truyền
thống cũng đang tồn tại ở Việt Nam nhƣ mở tài khoản sau đó rút ngay những
khoản tiền có giá trị lớn…
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thực tế và số lƣợng tội phạm rửa tiền
bị xét xử chênh lệch lớn bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Về mặt khách quan, do thói quen tiêu dùng của ngƣời Việt vẫn dùng tiền mặt
là chủ yếu nên việc giám sát các giao dịch tài chính để phát hiện tiền bẩn rất
khó thực hiện. Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt phổ biến mặc dù tỉ lệ sử
dụng tiền mặt có xu hƣớng giảm qua từng năm (năm 2004 tỉ lệ này là 20,35%,
năm 2005 là 19,01%, năm 2006 là 17,21% và năm 2007 là 16,36%) [15,
tr.10]. Báo cáo kiểm soát ma túy toàn cầu (INSCR) năm 2008 chỉ ra rằng: “có
bằng chứng một khối lƣợng lớn tiền mặt đã đƣợc vận chuyển dƣới hình thức
xách tay vào Việt Nam, điều này là hợp pháp nếu nhƣ các khoản tiền này
70
đƣợc khai báo”. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam không có đòi hỏi bất cứ một
thông tin nào liên quan đến nguồn gốc hay việc sử dụng các khoản tiền đƣợc
đƣa vào Việt Nam [15, tr.13]. Cùng với đó, sự kém phát triển của khoa học kỹ
thuật, trang thiết bị máy móc trong hoạt động tài chính ngân hàng cũng góp
phần tạo điều kiện cho tội phạm dễ dàng xóa hoặc không để lại dấu vết khi
thực hiện các bƣớc rửa tiền. Về mặt chủ quan, chúng ta vẫn giữ thói quen tƣ
duy cũ coi rửa tiền là một khâu trong quá trình thực hiện tội phạm nguồn do
đó chỉ trừng trị tội phạm nguồn và xử lý vật chứng là những phần tài sản thu
hồi đƣợc khi điều tra tội phạm nguồn. Bên cạnh đó, có những trƣờng hợp vụ
án rửa tiền không đƣợc điều tra, truy tố, xét xử do tác động của những cá nhân
có quyền lực mà có thể chính những cá nhân đó đã tham nhũng và chỉ đạo
hoạt động rửa tiền…
Theo Hiệp hội toàn cầu Global Integrity, sự xuất hiện của Luật phòng,
chống tham nhũng giúp chúng ta đƣợc điểm rất mạnh theo tiêu chí “pháp
luật”, nhƣng lại bị điểm rất yếu theo tiêu chí “thực thi” [15, tr.10]. Trong khi
đó, nhƣ đã phân tích tại chƣơng I, quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 và
BLHS Việt Nam năm 2015 về tội rửa tiền còn có những điểm hạn chế. Những
bất cập trong các quy định của pháp luật, đặc biệt là BLHS liên quan đến tội
phạm rửa tiền ngày càng lộ rõ và ảnh hƣởng đến quá trình vận dụng pháp luật
vào thực tiễn. Đây là những khó khăn không nhỏ ảnh hƣởng tới công tác đấu
tranh phòng chống rửa tiền của nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Do đó, yêu
cầu thay đổi, hoàn thiện pháp luật nói chung và BLHS tội rửa tiền nói riêng
đặt ra cấp thiết. Để làm đƣợc điều này, ngoài việc vận dụng các quy định của
các tổ chức quốc tế thì việc tìm hiểu, học hỏi từ pháp luật các nƣớc có vai trò
quan trọng không kém. Trên cơ sở so sánh quy định về tội rửa tiền giữa
BLHS Việt Nam hiện hành và BLHS một số nƣớc thuộc hệ thống luật thành
văn và án lệ đã nêu trong chƣơng II, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm
71
đƣợc nêu trong phần 2 dƣới đây để xem xét áp dụng vào BLHS Việt Nam về
tội rửa tiền.
3.2. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự từ việc so sánh với
Bộ luật hình sự Trung Quốc và Thụy Điển, Mỹ và Canada
3.2.1. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự từ việc so sánh với
Bộ luật hình sự Trung Quốc và Thụy Điển
Qua so sánh với BLHS của mỗi nƣớc có thể rút ra kinh nghiệm để sửa
đổi, bổ sung vào quy định về tội rửa tiền của BLHS Việt Nam nhƣ sau:
Thông qua quy định của BLHS Trung Quốc, thấy tội rửa tiền đƣợc xếp
vào nhóm tội có khách thể loại là các tội xâm phạm trật tự quản lý tiền tệ hay
rộng hơn là các tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa. Đây
là quy định phù hợp với bản chất của hành vi rửa tiền bởi hành vi rửa tiền
trƣớc tiên xâm hại đến sự ổn định, trật tự của nền kinh tế, tài chính, “phá hoại
cơ cấu bộ máy Chính phủ, hoạt động tài chính và thƣơng mại hợp pháp, phá
hoại xã hội ở mọi cấp độ” [17, tr.1]. Trong khi đó, BLHS Việt Nam năm 1999
và năm 2015 đều quy định tội rửa tiền trong chƣơng Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng là nhóm quan hệ xã hội mà tội phạm rửa tiền xâm
hại gián tiếp thông qua việc xâm hại trực tiếp các quan hệ xã hội về trật tự quản
lý kinh tế. Việc quy định nhóm khách thể loại đúng sẽ tạo nhận thức đúng đắn
về tính nghiêm trọng của tội phạm rửa tiền, qua đó chúng ta sẽ có đƣờng lối
đấu tranh phù hợp, hiệu quả hơn. Do đó, cần xem xét qui định tội danh này
trong chƣơng các tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế thì phù hợp hơn.
Ngoài các hành vi phạm tội rửa tiền cụ thể đƣợc liệt kê, nhà làm luật
Trung Quốc đã thiết lập một quy định có tính tổng quát bao trùm mọi dạng
hành vi rửa tiền là “dùng những biện pháp khác để che đậy, giấu diếm tính
chất, nguồn gốc nguồn thu bất hợp pháp” sẽ bị xác định là hành vi phạm tội
rửa tiền. Quy định này đã bao quát tất cả mọi dạng hành vi rửa tiền, kể cả
72
những hành vi chƣa đƣợc liệt kê trong luật. Để buộc tội, chỉ cần chứng minh
hành vi bất kỳ có đặc điểm nhƣ quy định đã nêu là đủ. BLHS Việt Nam năm
1999 và năm 2015 đều không có quy định này mà chỉ có các quy định mô tả
nhóm hành vi cụ thể. Trong khi đó có hai dạng hành vi khác đƣợc Luật
phòng, chống rửa tiền xác định là hành vi rửa tiền nhƣng không đƣợc quy
định trong cả hai BLHS nói trên. Ngoài ra, nếu trong tƣơng lai phát sinh
những dạng hành vi rửa tiền mới không thuộc nhóm các hành vi rửa tiền đã
đƣợc xác định thì chúng ta sẽ không có quy phạm điều chỉnh. Do đó, chúng ta
cần xem xét tiếp thu kinh nghiệm này của BLHS Trung Quốc.
Tuy nhiên, điểm nổi bật nhất trong quy định tội rửa tiền của BLHS
Trung Quốc mà chúng ta cần xem xét là nhà làm luật Trung Quốc quy định
trách nhiệm hình sự của pháp nhân khi thực hiện hành vi phạm tội phải chịu
hình thức phạt tiền, ngƣời chủ quản chịu trách nhiệm trực tiếp và ngƣời chịu
trách nhiệm trực tiếp khác thì bị phạt tù đến 5 năm... Trƣớc khi BLHS Việt
Nam năm 2015 ra đời, pháp nhân chƣa đƣợc quy định là chủ thể tội phạm
trong BLHS và là vấn đề tranh cãi sôi nổi giữa những ngƣời làm công tác
pháp luật. Tuy tại khoản 2 Điều 3 BLHS năm 2015 đã quy định về trách
nhiệm hình sự của pháp nhân thƣơng mại, điều này đƣợc coi là một bƣớc tiến
của pháp luật hình sự Việt Nam, nhƣng tội rửa tiền lại không nằm trong nhóm
các tội danh có chủ thể là pháp nhân thƣơng mại. Nhƣ vậy vẫn xác định chủ
thể duy nhất của tội rửa tiền là thể nhân. Quy định này thể hiện sự bất cập của
BLHS năm 2015 vì pháp nhân là một chủ thể tham gia rất nhiều trong hoạt
động kinh tế - tài chính và việc rửa tiền thƣờng dựa chủ yếu vào tính chất
pháp lý trong các giao dịch với pháp nhân. Do đó nếu không quy định chủ thể
của tội phạm rửa tiền gồm cả pháp nhân sẽ là một lỗ hổng lớn, dẫn đến sự lơ
là mất cảnh giác thậm chí là vô trách nhiệm trong hoạt động của pháp nhân,
trong khi vai trò giám sát, phát hiện và chống rửa tiền của pháp nhân là cực
73
kỳ quan trọng và hữu hiệu. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, kể từ ngày
10/10/2013 trong hệ thống pháp luật Việt Nam không có bất cứ một chế tài
nào để áp dụng khi pháp nhân vi phạm các quy định về chống rửa tiền. Do đó,
để nâng cao ý thức tuân thủ và bảo vệ pháp luật, BLHS Việt Nam cần quy
định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội rửa tiền. Ngoài ra, pháp
luật Trung Quốc ngoài việc xử phạt tiền pháp nhân còn xác định cả trách
nhiệm của ngƣời đứng đầu pháp nhân. Đây là quy định rất nghiêm khắc của
nhà làm luật Trung Quốc mà chúng ta cần xem xét và tiếp thu trong tƣơng lai
Qua nghiên cứu quy định về tội rửa tiền trong pháp luật hình sự Thụy
Điển, thấy BLHS Thụy Điển có điểm khác biệt lớn so với pháp luật hình sự
Việt Nam là quy định trƣờng hợp phạm tội với lỗi vô ý cũng phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Hiện nay, BLHS Việt Nam chỉ xử lý trƣờng hợp cố ý phạm tội. Tuy
nhiên, trong nhiều trƣờng hợp, có những ngƣời đã vô ý thực hiện hành vi rửa
tiền nhƣ cán bộ ngân hàng chủ quan không nghi ngờ và không kiểm tra kỹ các
giao dịch bất thƣờng trong thời gian ngắn với số lƣợng tiền rất lớn tại các tài
khoản mới mở hoặc tài khoản mở lâu nhƣng đã đóng băng trong thời gian dài,
cho nên mặc dù không cố ý che giấu tội phạm, không biết rõ tiền, tài sản do
phạm tội mà có nhƣng đã thực hiện hành vi rửa tiền, tiếp tay cho tội phạm.
Đối chiếu với quy định của BLHS Việt Nam thì trƣờng hợp vô ý mà BLHS
Thụy Điển quy định là trƣờng hợp vô ý do cẩu thả. Với quy định hiện hành
của BLHS Việt Nam, chỉ các trƣờng hợp cố ý mới phạm tội thì trên thực tế sẽ
xảy ra tình trạng một số cá nhân mặc dù có thể nhận biết tiền, tài sản có
nguồn gốc bất hợp pháp nhƣng đã lơ là, cẩu thả, mất cảnh giác, thậm chí là vô
trách nhiệm dẫn đến việc thực hiện hành vi rửa tiền không cố ý, đặc biệt là
những cá nhân công tác trong những ngành nghề liên quan đến tài chính, tiền
tệ, không phát hiện ra những dấu hiệu tiền, tài sản bất hợp pháp mà vẫn thực
74
hiện những hành vi nghiệp vụ hoặc những hành vi khác liên quan đến số tiền,
tài sản đó, vô tình cung cấp vỏ bọc hợp pháp cho chúng. Để tránh bỏ lọt tội
phạm, nâng cao ý thức và trách nhiệm của mọi công dân trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm rửa tiền, nhà làm luật Việt Nam nên xem xét và
đƣa trƣờng hợp phạm tội với lỗi vô ý vào quy định của BLHS tội rửa tiền.
3.2.2. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự từ việc so sánh với
pháp luật hình sự của Mỹ và Canada
Là một quốc gia có nền kinh tế phát triển, Mỹ cũng là nƣớc đi đầu
trong cuộc chiến chống rửa tiền. Nƣớc Mỹ đã xây dựng một hệ thống pháp lý
vững chắc với những chế định tƣơng đối rõ ràng nhằm ngăn chặn nạn rửa
tiền. Pháp luật hình sự Mỹ về tội rửa tiền đã quy định khá chặt chẽ, đầy đủ
trong đó các hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp
cũng đƣợc quy định là hành vi rửa tiền. Đây là quy định mà BLHS Việt Nam
cần học hỏi. Bởi vì quy định nhƣ vậy là chính xác, phù hợp với bản chất của
hành vi và các quy định quốc tế có liên quan. Ngoài ra, pháp luật hình sự Mỹ
còn quy định về hình phạt tiền có thể đƣợc áp dụng là hình phạt chính thay
cho hình phạt tù. Đây là cách nhìn tiến bộ, thể hiện sự linh hoạt trong đƣờng
lối xử lý tội phạm. Trong một xã hội phát triển, không phải lúc nào hình phạt
tù giam cũng cần thiết và có tác dụng hơn các hình phạt khác. Trong một số
trƣờng hợp đặc biệt nhƣ ngƣời phạm tội là ngƣời già, ngƣời lao động duy nhất
trong gia đình… thì hình phạt tiền là giải pháp tốt cho cả Nhà nƣớc và ngƣời
phạm tội. Trong BLHS Việt Nam, một số tội danh đã quy định phạt tiền là
hình phạt chính nhƣng đối với tội rửa tiền, nhà làm luật Việt Nam chỉ quy
định một hình phạt chính là tù có thời hạn, còn phạt tiền là hình phạt bổ sung.
Điều này thể hiện sự nghiêm khắc của nhà làm luật, tuy nhiên việc quy định
chế tài lựa chọn hình phạt chính gồm phạt tiền và tù giam nhƣ pháp luật hình
75
sự Mỹ cũng là một kinh nghiệm hay, tạo sự linh hoạt, mềm dẻo cho những
ngƣời làm công tác áp dụng pháp luật để vận dụng vào những trƣờng hợp cụ
thể khi mà việc xử phạt hình phạt tù là giải pháp ít hiệu quả nhất.
Điểm nổi bật trong quy phạm pháp luật về tội rửa tiền của Canada là
quy định về địa bàn tội phạm nguồn. Đó là quy định về trƣờng hợp tội phạm
nguồn là “một hành động hoặc không hành động ở bất kỳ nơi nào khác mà
nếu xảy ra tại Canada sẽ cấu thành một tội đƣợc quy định”. Quy định này xác
định không chỉ có những tội phạm rửa tiền có tội phạm nguồn thực hiện trong
nƣớc mới bị xem xét mà những tội phạm nguồn thực hiện ở nƣớc ngoài
nhƣng việc rửa tiền thực hiện ở Canada cũng bị xử lý hình sự nếu hành vi
phạm tội ở nƣớc ngoài cấu thành tội phạm theo pháp luật Canada. Đây là một
quy định rất cụ thể xác định rõ giới hạn tội phạm nguồn, tránh những xung
đột pháp lý có thể xảy ra khi tội phạm liên quan đến nhiều quốc gia, đồng thời
thể hiện sự tuân thủ nghiêm túc khuyến nghị 1 trong bản 40+9 khuyến nghị về
chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố của FATF [7]. Trong khi hầu hết các
nƣớc đều tập trung vào xác định hành vi, hình phạt, xác định các tội phạm
nguồn theo tội danh hoặc tính chất thì nhà làm luật Canada ngoài việc xác
định các yếu tố cơ bản của cấu thành tội phạm còn xác định rất rõ về tội phạm
nguồn theo địa bàn. Quy định này là rất cần thiết, rõ ràng, chặt chẽ và đầy đủ
mà nhà làm luật Việt Nam nên xem xét áp dụng trong quy phạm rửa tiền của
BLHS Việt Nam để đảm bảo quyền lợi của quốc gia trong những vụ án rửa
tiền xuyên quốc gia.
3.3. Những đề xuất cụ thể
Qua toàn bộ những phân tích, so sánh, đánh giá đã trình bày trong luận
văn này, trên cơ sở xem xét cấu thành tội phạm rửa tiền của BLHS Việt Nam
năm 1999, tác giả đã chỉ ra những hạn chế của BLHS năm 1999; đồng thời
76
qua nghiên cứu so sánh giữa BLHS năm 1999 với BLHS năm 2015, tác giả đã
chỉ ra một số bất cập của BLHS năm 1999 đã đƣợc BLHS năm 2015 khắc
phục. BLHS năm 2015 tuy là Bộ luật mới và đến 01/7/2015 mới có hiệu lực,
tuy nhiên, qua nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ ra những bất cập về tội rửa
tiền mà BLHS năm 2015 vẫn chƣa giải quyết đƣợc. Do đó, tác giả đề xuất
hƣớng hoàn thiện BLHS năm 2015 nhƣ sau:
1. Sắp xếp tội rửa tiền vào nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế. Bản chất của hành vi rửa tiền là ảnh hƣởng trực tiếp đến trật tự quản lý
kinh tế, sự ổn định lành mạnh của môi trƣờng kinh tế, sau đó mới gián tiếp
xâm hại đến các quan hệ xã hội khác nhƣ an toàn công cộng, trật tự công
cộng là nhóm khách thể mà tội rửa tiền đang đƣợc xếp vào đây. Do đó xếp
tội rửa tiền vào nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là phù hợp,
khoa học hơn.
2. Hợp nhất tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội
mà có và tội rửa tiền thành một điều luật có tên gọi là tội rửa tiền, bởi vì về
bản chất hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có là
hành vi rửa tiền, ngƣời phạm tội biết tài sản do phạm tội mà có và cố tình
thực hiện hành vi nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản.
Bên cạnh đó, các Công ƣớc Palermo và Công ƣớc Viên cũng quy định những
hành vi này là hành vi rửa tiền. BLHS Việt Nam tách riêng thành hai tội nhƣ
hiện nay là không khoa học và không phù hợp với các quy định của quốc tế.
3. Cần bổ sung quy định “thực hiện bất kỳ hành vi nào khác nhằm che
đậy, giấu diếm, thay đổi nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản” là một quy định
trong nhóm các quy định mô tả hành vi phạm tội. Quy định khái quát này
nhằm thâu tóm mọi dạng hành vi rửa tiền khác không nằm trong số các hành
vi đã đƣợc mô tả do chúng mới xuất hiện hoặc nhà làm luật bỏ sót khi xây
dựng luật. Nhƣ vậy sẽ tránh đƣợc tình trạng không có quy phạm xử lý dẫn đến
bỏ lọt tội phạm khi BLHS chƣa kịp sửa đổi để cập nhật các dạng hành vi mới.
77
4. Bổ sung quy định trƣờng hợp phạm tội với lỗi vô ý nhƣ “thực hiện
các hành vi rửa tiền nhƣng không nhận thức đƣợc, mặc dù có cơ sở hợp lý
để cho rằng tài sản có liên quan đến tội phạm”. Quy định nhƣ vậy góp phần
nâng cao ý thức pháp luật của công dân, hạn chế tình trạng cẩu thả, vô
trách nhiệm nên thực hiện hành vi rửa tiền một cách vô ý của nhiều cá
nhân, đặc biệt là những cá nhân làm công tác chuyên môn nghiệp vụ liên
quan đến tài chính, tiền tệ, có thể dẫn đến những hậu quả hết sức nghiêm
trọng cho kinh tế, xã hội.
5. Bổ sung chủ thể của tội rửa tiền là pháp nhân bên cạnh chủ thể thể
nhân. Pháp nhân, đặc biệt là pháp nhân thƣơng mại có vai trò rất quan trọng
trong quá trình tội phạm rửa tiền, vì việc hợp pháp hóa tiền, tài sản bẩn
thƣờng đƣợc thực hiện thông qua giao dịch với các pháp nhân để có vỏ bọc
pháp lý hoàn hảo. Chính vì vậy nhiều văn bản pháp luật khác đã quy định về
các hình thức giám sát, báo cáo các giao dịch đáng ngờ của các định chế tài
chính do vị trí tiên phong quan trọng của định chế tài chính - pháp nhân trong
công tác phòng chống rửa tiền. Do đó, việc quy định chủ thể của tội rửa tiền
là pháp nhân là hết sức cần thiết và hợp lý, hạn chế tình trạng buông lỏng
quản lý, vô trách nhiệm trong quá trình hoạt động của pháp nhân.
6. Bổ sung hình phạt chính là hình phạt tiền bên cạnh hình phạt tù.
Trong những hoàn cảnh nhất định áp dụng hình phạt tiền đem lại lợi ích nhiều
hơn cho cả ngƣời phạm tội và Nhà nƣớc, do đó nên quy định theo cách thức
lựa chọn hình phạt. Quy định nhƣ vậy vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật nhƣng lại thể hiện sự linh động của pháp luật, giúp ngƣời làm công
tác áp dụng pháp luật có những lựa chọn khác nhau phù hợp với hoàn cảnh
của ngƣời phạm tội mà vẫn đảm bảo tính chất trừng trị, giáo dục tội phạm.
7. Quy định phạm vi tội phạm nguồn ngoài những tội phạm đƣợc quy
định trong BLHS còn có những hành vi đƣợc thực hiện ở nƣớc ngoài
78
nhƣng theo pháp luật Việt Nam hành vi đó đã cấu thành tội phạm. Quy
định này không chỉ phù hợp với khuyến nghị 1 trong 40+9 khuyến nghị của
FATF mà còn rất cần thiết để xử lý trong các trƣờng hợp tội phạm nguồn
xảy ra ở quốc gia khác nhƣng rửa tiền tại Việt Nam, tránh tình trạng xung
đột pháp lý, đảm bảo vị trí, vai trò và quyền lợi của nƣớc ta khi xảy ra
những vụ án xuyên quốc gia.
8. Quy định khái niệm “tài sản” trong phần chung BLHS Việt Nam phù
hợp với quy định trong bộ luật dân sự, luật phòng, chống tham nhũng, Công
ƣớc Liên hợp quốc và chỉ sử dụng cụm từ “tài sản do phạm tội mà có” trong
điều luật.
79
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Hoàn thiện các quy định của BLHS nói chung và tội rửa tiền nói riêng
là một yêu cầu tất yếu của công cuộc cải cách tƣ pháp. Quy định tội rửa tiền
trong BLHS năm 2015 mặc dù đã có thay đổi, đã khắc phục đƣợc một số hạn
chế của BLHS năm 1999 nhƣng vẫn còn có những hạn chế, thiếu sót cần đƣợc
tiếp tục sửa đổi, bổ sung để có thể hoàn thành tốt nhất vai trò của mình trong
công tác bảo vệ pháp luật. Dựa trên những bài học kinh nghiệm lập pháp từ
BLHS của một số quốc gia thuộc hệ thống luật thành văn và án lệ, xuất phát
từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quy định của pháp luật quốc
tế và thực tiễn đặc thù của xã hội nƣớc ta, ngƣời viết đã nghiên cứu và đƣa ra
một số vấn đề cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung đối với tội rửa tiền trong BLHS
Việt Nam. Những vấn đề này bao gồm cả sự đánh giá về vị trí sắp xếp hay nói
cách khác là khách thể của tội phạm, tên gọi của đối tƣợng tác động đến
những phân tích về từng khía cạnh nội dung của tội rửa tiền nhƣ chủ thể,
trạng thái lỗi, hành vi, hình phạt, tội phạm nguồn… mà nếu đƣợc áp dụng, sẽ
tạo nên một quy phạm tội rửa tiền chặt chẽ, hoàn chỉnh, không để lọt tội
phạm, góp phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm rửa
tiền trong quốc gia và trên trƣờng quốc tế.
80
KẾT LUẬN
Cùng với xu thế phát triển toàn cầu, ngày nay, tội phạm rửa tiền đã và
đang vƣơn vòi bạch tuộc đến nhiều quốc gia, gây ảnh hƣởng tiêu cực đến nền
kinh tế, ngăn cản tiến trình hội nhập, tạo nguy cơ cô lập kinh tế giữa các
nƣớc, lũng đoạn ngành tài chính ngân hàng, làm thay đổi các khoản đầu tƣ và
suy giảm sức sản xuất, hậu thuẫn cho tội phạm và tham nhũng phát triển. Do
đó, việc ngăn chặn loại tội phạm này là yêu cầu cấp bách không chỉ trong
phạm vi quốc gia mà cả quốc tế. Để làm đƣợc điều này, thiết lập quy phạm tội
rửa tiền hoàn chỉnh là nhiệm vụ đầu tiên và có ý nghĩa quyết định. Xuất phát
từ quan điểm đó, tác giả đã chọn đề tài “So sánh quy định của BLHS Việt
Nam với quy định của BLHS một số nƣớc về tội rửa tiền” nhằm nghiên cứu
quy định tội rửa tiền trong BLHS Việt Nam và so sánh với một số quốc gia để
tìm ra những điểm hạn chế và cách khắc phục. Trong chƣơng I của luận văn,
tác giả đi sâu phân tích cấu thành tội phạm rửa tiền trong BLHS năm 1999 và
BLHS năm 2015, nêu ra những hạn chế của quy định tội rửa tiền trong BLHS
năm 1999 mà BLHS năm 2015 đã khắc phục đƣợc và những điểm hạn chế
còn tồn tại của BLHS năm 2015. Tại chƣơng 2, tác giả so sánh quy định tội
rửa tiền trong BLHS nƣớc ta và BLHS một số nƣớc thuộc hệ thống luật thành
văn (Trung Quốc, Thụy Điển) và một số nƣớc thuộc hệ thống án lệ (Mỹ,
Canada). Trên cơ sở những nghiên cứu ở hai chƣơng đầu, trong chƣơng 3, tác
giả trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn thiện quy định tội rửa tiền,
những bài học kinh nghiệm lập pháp cụ thể rút ra từ quá trình so sánh với quy
định tội rửa tiền ở BLHS các nƣớc nói trên, áp dụng những kinh nghiệm này
để khắc phục những hạn chế của BLHS năm 1999 đã đƣợc BLHS năm 2015
tháo gỡ nhƣng chƣa triệt để. Trong phần cuối luận văn, tác giả đề xuất những
nội dung cần sửa đổi, bổ sung của quy phạm tội rửa tiền, từ việc xác định
81
nhóm khách thể loại cho đến những sửa đổi về chủ thể, hành vi, hình phạt,
cách sử dụng từ ngữ… nhằm hoàn thiện quy phạm này, tiến tới xây dựng một
quy phạm tội rửa tiền chuẩn mực, mang lại hiệu quả cao trong công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm rửa tiền nói riêng và tội phạm nói chung trên
phạm vi quốc gia và quốc tế.
82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tƣ pháp - Ngân hàng Nhà nƣớc Việt
Nam - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (2011),
Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-
VKSNDTC-TANDTC ngày 30/11/2011 hướng dẫn áp dụng quy định
của BLHS về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có và tội rửa tiền, Hà Nội.
2. Lƣơng Long Bình (2014), “Một số đề xuất hoàn thiện quy định về tội
rửa tiền trong BLHS Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân - Tòa án
nhân dân tối cao, (3), tr. 4-8.
3. Nguyễn Hòa Bình (2004), Đấu tranh phòng chống tội phạm rửa tiền ở
Việt Nam, NXB Công an nhân dân.
4. Canada, Bộ luật hình sự.
5. Chính phủ (2013), Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền, Hà Nội.
6. Lê Đăng Doanh, Trần Thị Hồng Nhạn (2010), “Tìm hiểu về tội phạm
rửa tiền – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án nhân
dân, (19), tr. 1-4.
7. FATF (2004), Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền FATF,
40+9 khuyến nghị về chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố.
8. Phƣơng Hà (2009), “Khủng hoảng tài chính mở đƣờng cho hoạt động rửa
tiền bất hợp pháp”, Tạp chí kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, (259).
9. Ngô Văn Hiền (2013), Rửa tiền và các giải pháp phòng chống rửa tiền
ở Việt Nam, Học viện tài chính.
10. Nguyễn Minh Hiển (2013), Phòng ngừa tội phạm rửa tiền ở Việt Nam,
NXB Công an nhân dân.
83
11. Đặng Thu Hiền (2010), “Tội phạm rửa tiền trong luật sửa đổi bổ sung
một số điều của BLHS và một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng”, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp, (5), tr. 19-25.
12. Nguyễn Đình Hòa (2006), “Rửa tiền và cuộc chiến chồng rửa tiền trên thế
giới và ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, (106), tr. 34-37.
13. Nguyễn Văn Hoàn (2009), “Sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS về
tội rửa tiền góp phần tháo gỡ khó khăn trong thực tiễn và đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế”, Tạp chí Kiểm sát - Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao, (4), tr. 56-61.
14. Diệu Hoàng (2007), “Phƣơng thức rửa tiền ở Việt Nam và kinh nghiệm
phòng chống”, Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương, (3), tr. 23-26.
15. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Trung ƣơng (2014),
“Chủ đề Pháp luật về phòng, chống rửa tiền”, Đặc san tuyên truyền
pháp luật, (01).
16. Nguyễn Công Hồng, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Thanh Trúc (2008),
Báo cáo so sánh hệ thống pháp luật Việt Nam với 40 khuyến nghị và 9
khuyến nghị đặc biệt của lực lượng đặc nhiệm tài chính, NXB Hà Nội.
17. Liên hợp quốc (1988), Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các
chất ma túy và chất hướng thần năm 1988 (Công ƣớc Viên).
18. Liên hợp quốc (1999), Công ước về chống tài trợ cho khủng bố.
19. Liên hợp quốc (2000), Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (Công ƣớc Palermo).
20. Liên hợp quốc (2003), Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
21. Vƣơng Tinh Mạch (2009), “Phòng chống rửa tiền ở Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Văn
phòng Quốc hội, (7), tr. 48-51.
84
22. Dƣơng Tuyết Miên (2011), “Đánh giá tính tƣơng thích của pháp luật
hình sự Việt Nam về tội rửa tiền với quy định tƣơng ứng của chuẩn
mực quốc tế và một số kiến nghị”, Tạp chí Toà án nhân dân - Tòa án
nhân dân tối cao, (4), tr. 38-44.
23. Dƣơng Tuyết Miên, Nguyễn Thị Vân Anh (2013, 2014), “Tội rửa tiền -
nghiên cứu dƣới góc độ so sánh”, Tạp chí Tòa án nhân dân - Tòa án
nhân dân tối cao, (24), tr. 41 - 45 & (1), tr. 42-45.
24. Nguyễn Ngọc Minh (2011), “Nghiên cứu phạm vi chủ thể của tội phạm
rửa tiền trong luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật -
Bộ Tư pháp, 12 (237), tr. 9-14.
25. Mỹ (1986), Bộ tổng luật và Luật kiểm soát rửa tiền.
26. Ngân hàng Nhà nƣớc (2013), Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày
31/12/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa
tiền, Hà Nội.
27. Ngân hàng Nhà nƣớc (2014), Thông tư số 31/2014/TT-NHNN ngày
11/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2013/TT-
NHNN ngày 31/12/2013, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Thúy Ngọc (2009), Việt Nam với nghĩa vụ pháp lý thành
viên nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG), Luận
văn thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội.
29. Nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1980), Bộ luật hình sự, được
thông qua ngày 01/7/1979, có hiệu lực từ ngày 01/01/1980, lần sửa đổi
bổ sung gần đây nhất là vào ngày 28/02/2005.
30. Paul Allan Schott (2007), Sách dịch: Hướng dẫn tham khảo về chống
rửa tiền và tài trợ khủng bố của cán bộ thuộc Ngân hàng tái thiết và
phát triển quốc tế, NXB văn hóa thông tin.
31. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2009), Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Hà Nội.
85
32. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2012), Luật phòng, chống rửa
tiền số 07/2012/QH13 ngày 18/6/2012, Hà Nội.
33. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
34. Văn Tạo (2010), “Phòng chống rửa tiền - kinh nghiệm của các nƣớc và
bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, (1).
35. Nguyễn Hữu Thanh (2001), “Về hành vi "Rửa tiền" theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Trƣờng Đại học Luật
Hà Nội, (6), tr. 36-41.
36. Nguyễn Triệu Nhƣ Thƣờng (2008), Tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do
phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học
quốc gia Hà Nội.
37. Thụy Điển (1965), Bộ luật hình sự, được thông qua năm 1962, có hiệu
lực kể từ ngày 01/01/1965, được sửa đổi gần nhất vào ngày 01/5/1999.
38. Trƣờng Đại học luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Tập 1, NXB Công an nhân dân.
39. Nông Xuân Trƣờng (2005), “Tìm hiểu về việc phòng chống tội phạm
rửa tiền trên thế giới”, Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao, (5), tr. 52.
40. Trần Văn Tuân (2013), Hoàn thiện quy định về tội rửa tiền trong Luật
Hình sự Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế, Luận văn thạc sĩ, Đại
học quốc gia Hà Nội.
II. Các tài liệu trên internet
41. http://www.saga.vn/rua-tien-hanh-dong-gay-van-duc-nen-kinhte~31873.
42. http://www.oed.org/fatf.
43. http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-quoc-te/rua-tien-va-chong-rua-tien-
tren-the-gioi-14116.html.

More Related Content

PDF
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
PDF
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
PDF
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
PDF
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
PDF
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
PDF
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
DOC
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
PDF
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn

What's hot (20)

PDF
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
PDF
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
PDF
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
PDF
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
PDF
Luận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình Phước
PDF
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
PDF
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
DOCX
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
PDF
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
PDF
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
PDF
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
PDF
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
PDF
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
PDF
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
PDF
Luận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOT
PDF
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
PDF
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
DOCX
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Ma Túy, Từ Các Trường Đại Học
DOC
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình Phước
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Ma Túy, Từ Các Trường Đại Học
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Ad

Similar to Luận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOT (20)

DOCX
SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀN
DOC
So sánh quy định của BLHS Việt Nam và quy định của BLHS một số nước trên thế ...
PDF
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
PDF
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
PDF
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên Quang
PDF
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
PDF
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật tại Đà Nẵng, 9đ
PDF
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
PDF
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
PDF
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
PDF
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
DOC
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
PDF
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
PDF
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
PDF
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
PDF
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
PDF
Luận văn: Nguyên tắc nhân tạo trong quy chế Rome 1998, HOT
PDF
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
PDF
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
PDF
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀN
So sánh quy định của BLHS Việt Nam và quy định của BLHS một số nước trên thế ...
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật tại Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc nhân tạo trong quy chế Rome 1998, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
Ad

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
DOCX
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao

Recently uploaded (20)

PDF
CHƯƠNG 2 ĐẠI CƯƠNG VỀ TIỀN TẸEEEEEEEEEEE
PDF
Slide bài giảng môn Tâm lý Học Giao tiếp - Chủ đề Tổng quan về Giao tiếp
PDF
BÀI GIẢNG POWERPOINT CHÍNH KHÓA THEO LESSON TIẾNG ANH 11 - HK1 - NĂM 2026 - G...
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 10 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
PDF
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 4 năm 2025 - 2026 có đáp án
PPTX
Bài 02. bệnh da do nhiễm ký sinh trùng .pptx
PDF
Mua Hàng Cần Trở Thành Quản Lý Chuỗi Cung Ứng.pdf
PPTX
Nhận thức chung về vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường
PPTX
Các bước đọc điện tâm đồ bài giảng đại học Phạm ngọc thạch
PDF
DANH SACH TRUNG TUYEN DHCQ_DOT 1_2025_TUNG NGANH.pdf
DOCX
bao cao thuc tap nhan thuc_marketing_pary2
PPTX
843357982-Nhom-8-Điển-Cố-Trong-Thơ-Chữ-Han-Của-Nguyễn-Khuyến.pptx
PDF
Bệnh nhiễm ký sinh trùng LẬU ca-2025.pdf
PPTX
Bài tập về học phần GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG.pptx
PPTX
bai thuyet trinh Presentation-PPNCKH.pptx
PDF
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 5 năm 2025 - 2026 theo 10 chủ điểm
PDF
BỆNH VẨY NẾN do tổn thương cơ bản -2025.pdf
PDF
VIOLYMPIC TOÁN LỚP 3 NĂM 2025 - 2026 TỪ VÒNG 1 ĐẾN VÒNG 10
PPT
CH4 1 Van bagggggggggggggggggggggggggggggn QH.ppt
PPTX
ĐỊNH VỊ BẢN THÂNnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnn.pptx
CHƯƠNG 2 ĐẠI CƯƠNG VỀ TIỀN TẸEEEEEEEEEEE
Slide bài giảng môn Tâm lý Học Giao tiếp - Chủ đề Tổng quan về Giao tiếp
BÀI GIẢNG POWERPOINT CHÍNH KHÓA THEO LESSON TIẾNG ANH 11 - HK1 - NĂM 2026 - G...
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 10 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 4 năm 2025 - 2026 có đáp án
Bài 02. bệnh da do nhiễm ký sinh trùng .pptx
Mua Hàng Cần Trở Thành Quản Lý Chuỗi Cung Ứng.pdf
Nhận thức chung về vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường
Các bước đọc điện tâm đồ bài giảng đại học Phạm ngọc thạch
DANH SACH TRUNG TUYEN DHCQ_DOT 1_2025_TUNG NGANH.pdf
bao cao thuc tap nhan thuc_marketing_pary2
843357982-Nhom-8-Điển-Cố-Trong-Thơ-Chữ-Han-Của-Nguyễn-Khuyến.pptx
Bệnh nhiễm ký sinh trùng LẬU ca-2025.pdf
Bài tập về học phần GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG.pptx
bai thuyet trinh Presentation-PPNCKH.pptx
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 5 năm 2025 - 2026 theo 10 chủ điểm
BỆNH VẨY NẾN do tổn thương cơ bản -2025.pdf
VIOLYMPIC TOÁN LỚP 3 NĂM 2025 - 2026 TỪ VÒNG 1 ĐẾN VÒNG 10
CH4 1 Van bagggggggggggggggggggggggggggggn QH.ppt
ĐỊNH VỊ BẢN THÂNnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnn.pptx

Luận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT GIANG THỊ THẢO SO S¸NH QUY §ÞNH CñA Bé LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Vµ QUY §ÞNH CñA Bé LUËT H×NH Sù MéT Sè N¦íC VÒ TéI RöA TIÒN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT GIANG THỊ THẢO SO S¸NH QUY §ÞNH CñA Bé LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Vµ QUY §ÞNH CñA Bé LUËT H×NH Sù MéT Sè N¦íC VÒ TéI RöA TIÒN Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS DƢƠNG TUYẾT MIÊN HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. NGƢỜI CAM ĐOAN Giang Thị Thảo
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI RỬA TIỀN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999...................7 1.1. Dấu hiệu pháp lý của tội rửa tiền theo quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 ............................................................................ 7 1.1.1. Khách thể của tội rửa tiền..................................................................... 7 1.1.2. Mặt khách quan của tội rửa tiền ......................................................... 12 1.1.3. Mặt chủ quan của tội rửa tiền............................................................. 18 1.1.4. Chủ thể của tội rửa tiền....................................................................... 21 1.2. Đƣờng lối xử lý của tội rửa tiền theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999.............................................................................. 24 1.2.1. Khoản 1 Điều 251............................................................................... 24 1.2.2. Khoản 2 Điều 251............................................................................... 25 1.2.3. Khoản 3 Điều 251............................................................................... 30 1.3. So sánh quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 với qui định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội rửa tiền........................ 35 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 38 Chƣơng 2: SO SÁNH QUY ĐỊNH VỀ TỘI RỬA TIỀN THEO QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH (BLHS NĂM 1999) VỚI QUY ĐỊNH TƢƠNG ỨNG CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA THUỘC HỆ THỐNG LUẬT THÀNH VĂN VÀ HỆ THỐNG ÁN LỆ......................................... 39 2.1. So sánh qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 với qui định của Bộ luật hình sự Trung Quốc, Thụy Điển (thuộc hệ thống luật thành văn) về tội rửa tiền ............................. 39
  • 5. 2.1.1. So sánh qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam với qui định của Bộ luật hình sự Trung Quốc về tội rửa tiền ................................. 39 2.1.2. So sánh qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam với qui định của Bộ luật hình sự Thụy Điển về tội rửa tiền ................................... 43 2.2. So sánh quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 với quy định của pháp luật hình sự Mỹ và Canada (thuộc hệ thống án lệ) về tội rửa tiền.......................................................... 48 2.2.1. So sánh quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 với quy định của pháp luật hình sự Mỹ về tội rửa tiền............................................ 48 2.2.2. So sánh quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 với quy định của Bộ luật hình sự Canada về tội rửa tiền ......................... 53 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 59 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀN............... 60 3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc cần thiết hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tội rửa tiền ......................................... 60 3.1.1. Cơ sở lý luận....................................................................................... 60 3.1.2. Cơ sở thực tiễn.................................................................................... 67 3.2. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự từ việc so sánh với Bộ luật hình sự Trung Quốc và Thụy Điển, Mỹ và Canada ........ 71 3.2.1. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự từ việc so sánh với Bộ luật hình sự Trung Quốc và Thụy Điển........................................ 71 3.2.2. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự từ việc so sánh với pháp luật hình sự của Mỹ và Canada.................................................. 74 3.3. Những đề xuất cụ thể ....................................................................... 75 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 79 KẾT LUẬN.................................................................................................... 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 82
  • 6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: CTTP: FATF: TNHS: Bộ luật hình sự Cấu thành tội phạm Lực lƣợng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền Trách nhiệm hình sự
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Rửa tiền là hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xuất hiện từ lâu trên thế giới. Cùng với quá trình toàn cầu hoá và sự phát triển của đời sống xã hội, hành vi rửa tiền ngày càng lớn về quy mô, đa dạng, tinh vi về cách tiến hành. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, khi mà đời sống kinh tế - xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ, tội phạm rửa tiền cũng ngày một phát triển. Không chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế, rửa tiền còn ảnh hƣởng lớn đến an ninh quốc gia, tác động nghiêm trọng đến sự trong sạch và hoàn chỉnh của hệ thống tài chính quốc gia. Hơn thế nữa, tội phạm rửa tiền không chỉ tồn tại trong một quốc gia mà còn phát triển, lan rộng ra khỏi biên giới quốc gia và mang tính quốc tế. Vì thế, rửa tiền đƣợc xem là loại tội phạm không biên giới, có ảnh hƣởng lâu dài, thậm chí lũng đoạn kinh tế, chính trị quốc gia và khu vực. Trên thực tế, hoạt động rửa tiền rất tinh vi, việc phát hiện, điều tra tội phạm này cực kỳ phức tạp. Lần đầu tiên đƣợc tội phạm hoá trong BLHS năm 1999, hành vi rửa tiền có tên gọi là tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có (Điều 251 BLHS 1999). Sau đó, tội danh này đƣợc sửa đổi với tên gọi mới là tội rửa tiền tại BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 và có hiệu lực ngày 01/01/2010. Cùng với sự ra đời của Luật phòng, chống rửa tiền, từ đó cho đến nay, Việt Nam mới chỉ xét xử duy nhất một vụ án về tội phạm này. (Năm 2006, Toà án nhân dân TP Hà Nội đã xét xử vụ Phan Văn Cẩn về tội hợp pháp tiền, tài sản do phạm tội mà có. Bị cáo đã bị kết án 1 năm tù nhƣng cho hƣởng án treo. Một số vụ án rửa tiền khác tuy đã bị phát hiện ở Việt Nam nhƣng do nhiều lí do khác nhau nên đã không bị xét xử tại Việt Nam. Ví dụ nhƣ vụ án Lê Thị Phƣơng Mai, Việt Kiều Mỹ. Lê Thị Phƣơng Mai cầm đầu một băng nhóm tội
  • 8. 2 phạm buôn bán ma tuý ở Canada và Mỹ. Lê Thị Phƣơng Mai đã bị Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI) bắt và xét xử tại Mỹ. Quá trình điều tra của FBI cho thấy, Lê Thị Phƣơng Mai đã rửa 25 triệu đô la ở Khánh Hoà thông qua việc đầu tƣ kinh doanh bất động sản tại tỉnh này). Điều này cho thấy còn tồn tại bất cập trong qui định của BLHS hiện hành về tội danh này cũng nhƣ thực tiễn áp dụng. Trong khi đó, ở nhiều nƣớc trên thế giới, hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm này đã khá phát triển và đạt đƣợc nhiều bƣớc tiến đáng kể trong phòng, chống rửa tiền. Do đó, nghiên cứu, so sánh quy định về tội rửa tiền theo qui định của luật hình sự Việt Nam với quy định của pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới, từ đó đƣa ra các đề xuất cụ thể để hoàn thiện qui định của BLHS Việt Nam về tội rửa tiền là rất cần thiết. Với lí do đó, em đã chọn và nghiên cứu đề tài “So sánh quy định của BLHS Việt Nam và quy định của BLHS một số nước trên thế giới về tội rửa tiền” làm luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện các quy định của BLHS về tội rửa tiền, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và đấu tranh phòng chống tội phạm này nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Dƣới góc độ luật hình sự, trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu sau có liên quan đến đề tài: * Về luận văn thạc sĩ luật học có các công trình sau: + “Tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam”; tác giả Nguyễn Triệu Nhƣ Thƣờng, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2008; + “Việt Nam với nghĩa vụ pháp lý thành viên nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG)”; tác giả Nguyễn Thị Thúy Ngọc, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2009;
  • 9. 3 + “Hoàn thiện quy định về tội rửa tiền trong Luật Hình sự Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế”; tác giả Trần Văn Tuân, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2013. * Về khoá luận tốt nghiệp đại học có các công trình sau: + “Pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và hướng hoàn thiện”, tác giả Tào Thu Minh Nguyệt, Đại học luật Hà Nội, năm 2009; + “Tội rửa tiền dưới góc độ so sánh luật”; tác giả Nguyễn Thị Vân Anh, Đại học luật Hà Nội, năm 2012; + “Một số đánh giá về pháp luật phòng, chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam”, tác giả Bùi Thị Hằng, Đại học luật Hà Nội, năm 2012; * Về bài viết đăng trên tạp chí có các công trình sau: + Về hành vi "Rửa tiền" theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, tác giả Nguyễn Hữu Thanh, Tạp chí Luật học - Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Số 6/2001, tr. 36 - 41; + Tìm hiểu về việc phòng chống tội phạm rửa tiền trên thế giới, tác giả Nông Xuân Trƣờng, Tạp chí Kiểm sát - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 5/2005, tr. 52 - 54; + Sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS về tội rửa tiền góp phần tháo gỡ khó khăn trong thực tiễn và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, tác giả Nguyễn Văn Hoàn, Tạp chí Kiểm sát - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 4/2009, tr. 56 - 61; + Phòng chống rửa tiền ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; tác giả Vƣơng Tinh Mạch. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Văn phòng Quốc hội, Số 7/2009, tr. 48 - 51; + Phòng chống rửa tiền - kinh nghiệm của các nước và bài học cho
  • 10. 4 Việt Nam, tác giả Văn Tạo, Tạp chí Ngân hàng - Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam, Số 1/2010, tr. 31 - 39; + Tội phạm rửa tiền trong luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS và một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng, tác giả Đặng Thu Hiền, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tƣ pháp, Số 5/2010, tr. 19 - 25; + Đánh giá tính tương thích giữa qui định của BLHS Việt Nam với qui định của chuẩn mức quốc tế về tội rửa tiền, tác giả Dƣơng Tuyết Miên, Tạp chí Toà án nhân dân, số 4/2011. Các công trình trên ở các mức độ khác nhau đã nghiên cứu về tội rửa tiền dƣới góc độ luật hình sự. Đề tài về tội rửa tiền nghiên cứu dƣới góc độ so sánh đã có một số tác giả tìm hiểu, tuy nhiên, cho đến nay chƣa có tác giả nào nghiên cứu, so sánh một cách tổng thể về tội rửa tiền theo qui định của BLHS Việt Nam với một số quốc gia có pháp luật hình sự phát triển thuộc hai hệ thống pháp luật điển hình trên thế giới là hệ thống luật thành văn (Civil Law) và hệ thống án lệ hay còn gọi là hệ thống thông luật (Common Law), từ đó đề xuất kiến nghị, góp phần hoàn thiện qui định tƣơng ứng của BLHS Việt Nam. Vì lẽ đó, tác giả đã chọn đề tài “So sánh quy định của BLHS Việt Nam và quy định của BLHS một số nước trên thế giới về tội rửa tiền” làm luận văn thạc sĩ của mình. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội rửa tiền trên cơ sở nghiên cứu qui định của BLHS Việt Nam hiện hành, so sánh với quy định tƣơng ứng của BLHS của một số quốc gia điển hình thuộc hai hệ thống pháp luật lớn nhất trên thế giới. Cụ thể là BLHS Trung Quốc và Thuỵ Điển thuộc hệ thống luật thành văn (Civil Law); BLHS của Mỹ và Canada thuộc hệ thống án lệ (Common Law); từ đó đề xuất những kiến nghị cụ thể góp phần hoàn thiện quy định của BLHS nƣớc ta về tội danh này.
  • 11. 5 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt đƣợc mục đích trên, tác giả đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Nghiên cứu quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội rửa tiền (có sự liên hệ với qui định của BLHS năm 2015). - Nghiên cứu so sánh quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội rửa tiền với qui định tƣơng ứng của BLHS Trung Quốc và Thuỵ Điển (thuộc hệ thống luật thành văn), đồng thời, cũng so sánh với qui định BLHS của Mỹ và Canada (thuộc hệ thống án lệ), từ đó xem xét, học tập kinh nghiệm lập pháp hình sự của các quốc gia này khi qui định về tội rửa tiền. - Đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam về tội danh này. 5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn đƣợc nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và so sánh luật. Tác giả sẽ tập trung nghiên cứu các quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về dấu hiệu pháp lý và đƣờng lối xử lí đối với tội rửa tiền, có sự liên hệ với qui định của BLHS năm 2015 về tội rửa tiền; so sánh với quy định này của BLHS Việt Nam với BLHS của một số quốc gia điển hình là BLHS Trung Quốc và Thuỵ Điển (thuộc hệ thống luật thành văn), BLHS của Mỹ và Canada (thuộc hệ thống án lệ). 6. Tính mới của đề tài Luận văn là công trình nghiên cứu ở cấp độ thạc sĩ nghiên cứu chuyên sâu, tƣơng đối toàn diện dƣới góc độ so sánh luật trên cơ sở nghiên cứu qui định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội rửa tiền trong sự so sánh với BLHS của một số quốc gia có pháp luật hình sự phát triển thuộc hai hệ thống pháp luật điển hình trên thế giới là hệ thống luật thành văn (Civil Law) và hệ thống án lệ (Common Law).
  • 12. 6 7. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Để nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và những chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, Nhà nƣớc về đấu tranh phòng chống tội phạm, về chính sách hình sự nói chung. - Tác giả sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, phƣơng pháp lịch sử … 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Dấu hiệu pháp lý và đƣờng lối xử lí của tội rửa tiền theo quy định tại BLHS Việt Nam năm 1999. Chương 2: So sánh quy định về tội rửa tiền theo qui định của BLHS Việt Nam hiện hành với quy định tƣơng ứng của BLHS một số quốc gia điển hình thuộc hệ thống luật thành văn và hệ thống án lệ. Chương 3: Phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội rửa tiền.
  • 13. 7 Chương 1 DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI RỬA TIỀN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 Thuật ngữ “rửa tiền” lần đầu tiên xuất hiện trên báo chí Mỹ vào năm 1973 trong vụ bê bối tài chính Watergate nổi tiếng nƣớc Mỹ, tuy nhiên, phải đợi 5 năm sau, thuật ngữ "rửa tiền" mới chính thức đƣợc sử dụng trong một số văn bản pháp lý của tòa án Mỹ [41]. Sau đó, thuật ngữ này dần trở nên phổ biến trong những thập kỉ gần đây bởi tính phổ biến và mức độ ảnh hƣởng của chúng. Theo Lực lƣợng đặc nhiệm tài chính FATF (Finance Action Task Force) - Tổ chức chuyên nghiên cứu và đƣa ra những chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố, đƣợc thành lập tại Hội nghị thƣợng đỉnh của nhóm G7 ở Pari vào năm 1989), rửa tiền đƣợc hiểu là: “rửa tiền là toàn bộ các hoạt động được tiến hành một cách cố ý nhằm hợp pháp hóa tiền và tài sản có nguồn gốc từ tội phạm” [41]. Theo quy định tại Luật phòng chống rửa tiền của Việt Nam thì “rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có” [32, Điều 4, khoản 1]. Cho đến nay, hầu hết luật hình sự của các nƣớc trên thế giới đều đã qui định về tội rửa tiền. Dƣới đây, tác giả sẽ trình bày dấu hiệu pháp lí của tội rửa tiền theo qui định của BLHS Việt Nam năm 1999. 1.1. Dấu hiệu pháp lý của tội rửa tiền theo quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 1.1.1. Khách thể của tội rửa tiền Theo khoa học luật hình sự, “khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại” [38, tr.78]. Trong BLHS năm 1999, tội rửa tiền đƣợc xếp vào chƣơng XIX “các tội
  • 14. 8 xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng”. Nhƣ vậy theo quy định của BLHS hiện hành thì khách thể loại của tội phạm này là quan hệ xã hội về trật tự, an toàn công cộng. An toàn công cộng, trật tự công cộng là hệ thống các quan hệ xã hội đƣợc hình thành và điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật và các nội quy, quy tắc về trật tự chung, an toàn chung đòi hỏi mọi thành viên của xã hội phải tuân theo những quy định đó nhằm đảm bảo cuộc sống, lao động, sinh hoạt bình thƣờng của mọi ngƣời trong xã hội. Đây là nhóm quan hệ xã hội rộng lớn, ảnh hƣởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, là nền tảng cho sự phát triển của xã hội. Theo cách hiểu chung, rửa tiền là hành vi nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc bất hợp pháp của các khoản tiền do phạm tội mà có. Từ định nghĩa này có thể thấy, hoạt động rửa tiền ảnh hƣởng tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội nhƣ làm rối loạn hoạt động tài chính - tiền tệ, ảnh hƣởng đến sự lành mạnh của các định chế tài chính, mặt bằng thu nhập, tạo điều kiện cho tội phạm và tệ nạn xã hội gia tăng, làm sai lệch mặt bằng đầu tƣ dẫn đến mất ổn định kinh tế, làm suy yếu việc cải tổ nền kinh tế. Ngoài ra, tội phạm rửa tiền còn gây khó khăn cho công tác điều tra tội phạm, thu hồi tài sản phạm pháp, gây ảnh hƣởng xấu tới uy tín quốc gia, gây mất niềm tin vào công lý, phá vỡ trật tự phát triển kinh tế lành mạnh của quốc gia và quốc tế. Không phải ngẫu nhiên mà trong Công ƣớc của Liên hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hƣớng thần năm 1988 - Công ƣớc đầu tiên đề cập đến việc cần thiết phải hình sự hóa hành vi rửa tiền trong pháp luật mỗi quốc gia, khi nhận định về hoạt động buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hƣớng thần trong vai trò là tội phạm nguồn của tội rửa tiền đã sử dụng những cụm từ nhƣ “ảnh hƣởng bất lợi đối với nền kinh tế, văn hóa, chính trị của xã hội” và “tạo điều kiện cho các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia thâm nhập, làm ô nhiễm và phá hoại cơ cấu bộ máy Chính phủ, hoạt động tài chính và thƣơng mại hợp pháp, phá hoại xã hội ở mọi cấp độ” [17].
  • 15. 9 Nhƣ vậy, nhìn nhận một cách chung nhất, tội phạm rửa tiền xâm hại đến trật tự hoạt động bình thƣờng của đời sống kinh tế - xã hội, đảo lộn trật tự chung, gây mất an toàn công cộng, làm rối loạn môi trƣờng xã hội. Qua đó, có thể thấy tính nguy hiểm và cần ngăn chặn tội phạm rửa tiền, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế thị trƣờng của nƣớc ta hiện nay. Tuy nhiên, với cách sắp xếp của BLHS hiện hành, tội rửa tiền đang đƣợc xếp vào nhóm tội có khách thể mang tính vĩ mô hơn là vi mô. Bởi nhìn nhận một cách khách quan thì hoạt động rửa tiền trƣớc tiên là xâm hại đến các quan hệ xã hội thuộc nhóm kinh tế, làm mất cân bằng, ổn định và trật tự của nền kinh tế, qua đó mới gián tiếp gây ảnh hƣởng đến ổn định xã hội, an toàn, trật tự công cộng, đến đời sống xã hội nói chung. Đây cũng là một vấn đề cần lƣu ý để sắp xếp nhóm cho phù hợp hơn để việc xác định các đƣờng lối xử lý, ngăn chặn tội phạm này đƣợc hiệu quả, chính xác hơn. Về khách thể trực tiếp, tội phạm rửa tiền xâm phạm trật tự quản lý nhà nƣớc đối với tài sản do phạm tội mà có. Những tài sản mà tội phạm có đƣợc do phạm tội lẽ ra phải bị phát hiện kịp thời, tịch thu để xử lý theo quy định pháp luật hiện hành nhằm đảm bảo sự chuẩn mực của hoạt động tƣ pháp, sự trong sạch, lành mạnh, ổn định của hoạt động kinh tế, nhằm thiết lập trật tự công cộng chuẩn mực, nhƣng những tài sản này lại bị tội phạm rửa tiền quản lý, sử dụng theo cách riêng của chúng nhằm hợp pháp hoá tài sản. Nhƣ vậy, tài sản đã không nằm trong chu trình vận động bình thƣờng trong xã hội mà đi theo một chu trình mới có sự điều khiển của kẻ phạm tội rửa tiền. Trật tự quản lý nhà nƣớc đối với tài sản này đã bị phá vỡ hoàn toàn. Xâm hại trật tự này, tội phạm rửa tiền tạo ra những khối tài sản, những dòng tiền có vẻ ngoài hợp pháp, sạch sẽ nhƣng thực chất là tài sản, là tiền bất hợp pháp, tiền bẩn làm đảo lộn, làm mất tính ổn định và cạnh tranh lành mạnh cần thiết của môi trƣờng kinh tế xã hội trong sạch, bình đẳng, dẫn đến những hệ luỵ phức
  • 16. 10 tạp khó kiểm soát. Số tiền, tài sản do phạm tội mà có này sau khi tẩy rửa lại đem lại lợi ích cho một nhóm ngƣời trong xã hội. Mâu thuẫn này không chỉ nguy hiểm cho trật tự, an toàn công cộng, cho nền kinh tế mà còn thể hiện sự bất lực, yếu kém của Nhà nƣớc trong quản lý xã hội và đấu tranh chống tội phạm. Về lâu dài, nếu không kiểm soát đƣợc vấn đề này mà để nó phát triển có thể dẫn tới đổ vỡ tài chính, kinh tế gây nên những hậu quả khôn lƣờng về chính trị - xã hội. Nhƣ vậy, tội phạm rửa tiền đã xâm hại đến một quan hệ xã hội quan trọng, có tính thiết yếu trong đời sống công cộng nói chung và đời sống kinh tế nói riêng. Xét ở góc độ khác, có thể nói rằng khách thể trực tiếp của tội phạm rửa tiền là quan hệ sở hữu. Do bản chất sở hữu bất hợp pháp tiền, tài sản do phạm tội mà có nên tội phạm rửa tiền tìm cách biến đổi thành sở hữu hợp pháp của chúng. Tài sản, tiền thu đƣợc từ hoạt động phạm tội đó thực chất thuộc sở hữu hợp pháp của đối tƣợng khác (nhƣ cá nhân, tổ chức, Nhà nƣớc…) nhƣng đã bị tội phạm nguồn chiếm đoạt rồi tội phạm rửa tiền tìm cách thay đổi, che đậy bản chất sở hữu bất hợp pháp đó bằng hình thức sở hữu hợp pháp thông qua nhiều cách thức tinh vi. Tuy nhiên, dù có thay đổi thì về bản chất, tiền, tài sản này vẫn là bất hợp pháp, không thuộc sở hữu của tội phạm. Xét về đối tƣợng tác động của tội phạm. Đó là tiền, tài sản do phạm tội mà có. Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT- BCA-BQP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30/11/2011 của Bộ Công an, Bộ quốc phòng, Ngân hàng nhà nƣớc, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng quy định của BLHS về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có và tội rửa tiền (sau đây gọi tắt là Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-NHNNVN-VKSNDTC- TANDTC) thì tài sản do phạm tội mà có là tài sản do ngƣời phạm tội có đƣợc trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt đƣợc,
  • 17. 11 tham ô, nhận hối lộ…) hoặc do ngƣời phạm tội có đƣợc từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có đƣợc trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có đƣợc từ việc dùng tiền tham ô để mua) [1]. Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật phòng, chống rửa tiền số 07/2012/QH13 ngày 18/6/2012 (sau đây gọi tắt là Luật phòng, chống rửa tiền) thì: Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự, có thể tồn tại dƣới hình thức vật chất hoặc phi vật chất; động sản hoặc bất động sản; hữu hình hoặc vô hình; các chứng từ hoặc công cụ pháp lý chứng minh quyền sở hữu hoặc lợi ích đối với tài sản đó [32, Điều 4, khoản 2]. Quy định này phù hợp với định nghĩa về tài sản đƣợc quy định tại khoản g Điều 1 Công ƣớc Liên hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hƣớng thần năm 1988 (sau đây gọi tắt là Công ƣớc Viên) “tài sản có nghĩa là tài sản dưới mọi hình thức hữu hình hay vô hình, động sản hay bất động sản, vật chất hay phi vật chất và cả những tài liệu hoặc văn bản pháp lý chứng nhận quyền sở hữu hoặc các quyền lợi trong tài sản đó” [17, Điều 1]. Khác với quy định của pháp luật một số nƣớc giới hạn tiền, tài sản trong một số tội phạm nguồn nhất định, BLHS Việt Nam 1999 không giới hạn do đó tiền, tài sản này có thể là kết quả của bất kỳ tội phạm nào khác. Tiền, tài sản này có hai vai trò, vừa là tiền, tài sản mà tội phạm ban đầu thu đƣợc, tức là kết quả của hành vi phạm tội nguồn, vừa là đối tƣợng tác động, mục tiêu của tội phạm rửa tiền. Về tính chất, tiền, tài sản này mang tính phi pháp, do đã bị chuyển đổi hình thức sở hữu một cách bất hợp pháp qua quá trình thực hiện tội phạm nguồn nên đó không phải là tiền, tài sản hợp pháp đƣợc phép lƣu thông công khai trên thị trƣờng. Với các tội phạm khác, sau khi tội phạm hoàn thành, các giá trị vật chất thu đƣợc nhƣ tiền, tài sản mang tính bất hợp pháp thì với tội phạm rửa tiền, sản phẩm tiền, tài sản lại
  • 18. 12 mang vỏ bọc hợp pháp (mặc dù bản chất của nó vẫn là bất hợp pháp). Do đó, có thể nói tội phạm rửa tiền là tội phạm mà tất cả các tội phạm thu đƣợc giá trị vật chất đều hƣớng tới, do tính chất đặc biệt của đối tƣợng tác động của tội phạm rửa tiền. Tuy nhiên, cách dùng từ “tiền, tài sản” mà BLHS đang sử dụng chƣa phù hợp với cách dùng từ trong các văn bản pháp luật trong nƣớc và quốc tế hiện nay chỉ dùng từ “tài sản” là đã bao hàm trong đó cả tiền, tài sản. 1.1.2. Mặt khách quan của tội rửa tiền “Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan” [38, tr.91]. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện tội phạm nhƣ công cụ, phƣơng tiện phạm tội, phƣơng pháp thủ đoạn phạm tội… Theo quy định tại Điều 251 BLHS năm 1999, tội rửa tiền đƣợc qui định là tội phạm có CTTP hình thức có nghĩa là nhà làm luật chỉ qui định (mô tả) hành vi khách quan và không qui định về hậu quả của tội phạm. Hành vi khách quan của tội rửa tiền gồm có bốn dạng hành vi sau đây: Thứ nhất, hành vi “tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác liên quan đến tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT- BCA-BQP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC thì các hành vi thuộc nhóm một bao gồm: a) Gửi tiền và mở tài khoản tại ngân hàng; b) Cầm cố, thế chấp tài sản; c) Cho vay, ủy thác, thuê, mua tài chính; d) Chuyển tiền, đổi tiền;
  • 19. 13 đ) Mua, bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; e) Phát hành chứng khoán; g) Phát hành các phƣơng tiện thanh toán; h) Bảo lãnh và cam kết tài chính, kinh doanh ngoại hối, các công cụ thị trƣờng tiền tệ, chứng khoán có thể chuyển nhƣợng; i) Quản lý danh mục đầu tƣ của cá nhân, tập thể; k) Quản lý tiền mặt hoặc chứng khoán thanh khoản thay mặt cho cá nhân, tập thể; l) Đầu tƣ vốn hoặc tiền cho cá nhân, tập thể; m) Tiến hành các hoạt động bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm liên quan đến các khoản đầu tƣ khác; n) Những hoạt động nhằm tạo sự chuyển đổi, chuyển dịch hoặc thay đổi quyền sở hữu đối với tiền, tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức [1, Điều 3, khoản 1]. Ở dạng hành vi này, ngƣời phạm tội đã thực hiện tội phạm bằng cách thực hiện các giao dịch tài chính, ngân hàng thông qua các tổ chức tài chính nhƣ tín dụng, chứng khoán, trái phiếu, chuyển tiền, đổi tiền, bảo hiểm… Đây là dạng hành vi đầu tiên đƣợc nhà làm luật liệt kê đến. Điều này khá phù hợp với thực tế vì đây là cách thức đầu tiên thƣờng sử dụng trong quy trình rửa tiền mà tội phạm thƣờng thực hiện. Quy trình này đƣợc trình bày khá kĩ trong một số tài liệu nghiên cứu của các cá nhân, tổ chức tài chính lớn trên thế giới [30]. Tác giả xin tóm lƣợc nhƣ sau: Thông thƣờng, quy trình rửa tiền đƣợc chia là ba giai đoạn. a) Giai đoạn đầu tiên là sắp đặt. Giai đoạn này liên quan đến việc bố trí các quỹ có nguồn gốc phi pháp vào trong hệ thống tài chính, thƣờng thông qua một tổ chức tài chính ví dụ nhƣ gửi tiền vào tài khoản ngân hàng. Những lƣợng tiền mặt lớn đƣợc chia nhỏ và gửi dần vào các tài khoản, các bộ phận khác nhau của các tổ chức tài chính, hoặc đổi từ
  • 20. 14 tiền này sang tiền kia hay từ mệnh giá thấp sang mệnh giá cao. b) Giai đoạn 2 là sắp lớp (chia nhỏ), kẻ phạm tội sẽ thực hiện việc phân tán, quay vòng tiền. Giai đoạn này xảy ra khi những khoản tiền bẩn đã đƣợc đƣa vào hệ thống tài chính, các khoản tiền, chứng khoán hoặc hợp đồng bảo hiểm tiếp tục đƣợc chuyển đổi hoặc chuyển sang các tổ chức khác nhằm tiếp tục tục tách chúng ra khỏi nguồn gốc phạm tội. Trong giai đoạn này, những kẻ rửa tiền sử dụng tiền bẩn để thực hiện càng nhiều giao dịch tài chính càng tốt, đặc biệt là các giao dịch xuyên quốc gia nhƣ chuyển đổi qua lại giữa các tài khoản ngân hàng, các quốc gia, đầu tƣ dự án, chuyển đổi thành chứng khoán, séc du lịch… nhằm tạo ra một mạng lƣới giao dịch chằng chịt, phức tạp và khó lần dấu vết, càng xa điểm xuất phát càng tốt. c) Giai đoạn cuối cùng là hòa nhập: đƣa khoản tiền vào nền kinh tế chính thống nhƣ mua tài sản nhƣ hàng xa xỉ, bất động sản… Ngƣời phạm tội trong giai đoạn đầu tiên có thể thực hiện hành vi trực tiếp nhƣ mở tài khoản, mang tiền gửi vào tài khoản, hoặc hoạt động nghiệp vụ nếu là ngƣời có chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng tài chính, hoặc gián tiếp nhƣ tƣ vấn, chỉ đạo, nhờ vả, ép buộc ngƣời khác thực hiện hành vi… Nhƣ vậy trong giai đoạn này, tội phạm rửa tiền thành công nhờ thông qua tính pháp lý trong các giao dịch với pháp nhân là các tổ chức, các định chế tài chính để hợp pháp số tiền bẩn. Do đó, Luật phòng, chống rửa tiền đã quy định rất nhiều nội dung liên quan đến việc theo dõi, giám sát, báo cáo và xử lý các giao dịch tài chính đáng ngờ [32]. Những quy định này là cần thiết và phù hợp với nhóm các khuyến nghị B “các biện pháp đƣợc các định chế tài chính và các loại hình kinh doanh và ngành nghề phi tài chính thực hiện nhằm ngăn ngừa hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố” đƣợc nêu trong trong 40+9 khuyến nghị về chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố của Lực lƣợng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền FATF [7].
  • 21. 15 Thứ hai, hành vi “sử dụng tiền hoặc tài sản khác biết rõ là do phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác”. Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Thông tƣ số 09/2011/TTLT-BCA- BQP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC thì: Sử dụng tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác là việc dùng tiền, tài sản đó vào các hoạt động kinh doanh, dịch vụ, thành lập công ty, xây dựng trƣờng học, bệnh viện, mua tài sản dƣới các hình thức khác nhau hoặc sử dụng dƣới danh nghĩa tài trợ, từ thiện, viện trợ nhân đạo [1, Điều 3, khoản 2]. Sau hai giai đoạn đầu tiên, ở giai đoạn thứ ba này, đƣa tiền bẩn vào kinh doanh là lựa chọn hàng đầu cho các biện pháp rửa tiền. Tiền bẩn đã “bƣớc ra” từ các giao dịch tài chính, ngân hàng, xuất hiện dƣới vỏ bọc hợp pháp đầu tiên để tiếp tục tham gia vào hoạt động kinh doanh thực tế ngoài thị trƣờng, chuyển đổi thành các tài sản hữu hình. Điều này đồng nghĩa là lúc này tiền bẩn đã ngang nhiên tồn tại trên thị trƣờng, vỏ bọc hợp pháp đã phát triển hoàn thiện. Bằng các cách thức khác nhau, hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận thực tế hoặc lợi nhuận khống sẽ là vỏ bọc hợp pháp nhất cho tiền bẩn. Ngƣời phạm tội có thể thành lập doanh nghiệp, công ty, đầu tƣ dự án… những đối tƣợng này thƣờng chỉ là vỏ bọc rỗng ruột hoặc hoạt động không hiệu quả nhƣng lại đƣợc báo cáo là hoạt động có lãi. Tiền lãi ở đây chính là tiền bẩn. Để hợp pháp hóa tiền bẩn bằng cách này, tội phạm thƣờng chọn những lĩnh vực đƣợc đánh giá là lợi nhuận cao, đang chiếm ƣu thế trên thị trƣờng để dễ dàng qua mắt các cơ quan chức năng. Ngoài ra, tội phạm còn mua cổ phần của các công ty, doanh nghiệp chân chính đang làm ăn có lãi để trà trộn tiền bẩn vào tiền sạch, thu lợi nhuận và tiến tới nắm quyền kiểm soát, chi phối doanh nghiệp với số cổ phần ngày một tăng, mua hàng xa xỉ, bất động sản…
  • 22. 16 + Thứ ba, hành vi “che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có hoặc cản trở việc xác minh các thông tin đó”. Hành vi này không tác động trực tiếp lên tiền, tài sản bẩn mà mang tính hỗ trợ để các hoạt động rửa tiền đƣợc tiến hành thuận lợi. Nhóm hành vi này bao gồm các hành vi giấu diếm, cung cấp thông tin sai sự thật hoặc gây khó khăn, cản trở công tác điều tra làm rõ nguồn gốc, bản chất, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu tiền, tài sản. Đó là các hành vi tiêu hủy giấy tờ tài liệu bất lợi, lập các giấy tờ tài liệu khác sai sự thật, làm chệch hƣớng quá trình theo dõi, điều tra của cơ quan chức năng... Mặc dù không phải là nhóm hành vi tác động trực tiếp lên tiền, tài sản bẩn nhƣng những hành vi này nguy hiểm không kém hai nhóm hành vi trƣớc vì vai trò của thông tin về tiền, tài sản bẩn là rất quan trọng trong quá trình theo dõi, phát hiện và điều tra tội phạm. Thứ tư, nhóm hành vi “thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c khoản này đối với tiền, tài sản biết rõ là có được từ việc chuyển dịch, chuyển nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do phạm tội mà có”. Trƣờng hợp này bao gồm cả ba dạng hành vi đã đƣợc phân tích ở trên, tuy nhiên đối tƣợng tác động của nhóm hành vi này là tiền, tài sản mới, xuất hiện sau khi có hành vi chuyển dịch, chuyển nhƣợng, chuyển đổi từ tiền, tài sản bất hợp pháp ban đầu. Đây thực chất là hành vi rửa tiền kế tiếp sau những hành vi rửa tiền đầu tiên, khi tiền, tài sản bẩn đã qua lớp xử lý ban đầu, đã có vỏ bọc hợp pháp ban đầu nay lại tiếp tục quá trình thay hình đổi dạng trên con đƣờng tìm kiếm vỏ bọc hợp pháp hoàn hảo cho mình. Bản chất tiền, tài sản này vẫn là bất hợp pháp, các hành vi ban đầu không làm thay đổi bản chất của chúng và ngƣời thực hiện các hành vi tác động lên tiền, tài sản thuộc “thế hệ thứ ba” này đã thực hiện hành vi rửa tiền theo đúng nghĩa của nó.
  • 23. 17 Nhƣ vậy, BLHS Việt Nam năm 1999 qui định 4 dạng hành vi khách quan của tội rửa tiền ở mức độ khái quát. Quy định này cơ bản phù hợp với yêu cầu về việc thâu tóm các dạng hành vi, không sa vào trạng thái liệt kê không hết các hành vi cụ thể do đó có thể dẫn tới bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, nếu chỉ khái quát bốn nhóm hành vi nhƣ vậy vẫn chƣa bao quát hết các dạng hành vi rửa tiền do tính chất phức tạp, đa dạng của hành vi rửa tiền, đặc biệt khi nền kinh tế càng ngày càng phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ nhận thức càng ngày càng nâng cao thì sự xuất hiện những hành vi, cách thức rửa tiền mới là khó lƣờng hết đƣợc do đó cần có thêm quy định khái quát chung về hành vi rửa tiền để bao quát toàn bộ, tránh bỏ lọt tội phạm do chƣa có chế tài quy định. Một điểm cần lƣu ý theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật phòng, chống rửa tiền thì ngoài bốn nhóm hành vi đƣợc quy định trong BLHS nhƣ đã nêu trên thì còn có hai hành vi khác là “trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có” và hành vi “chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản” [32]. Hành vi thứ nhất là hành vi mang tính giúp sức, hỗ trợ nhƣ lập giấy tờ giả chứng minh nguồn gốc tài sản… còn hành vi thứ hai là nắm giữ, quản lý tài sản do phạm tội mà có. Theo quy định tại Luật phòng, chống rửa tiền thì hai hành vi này là hành vi rửa tiền. Tuy nhiên đối chiếu với quy định tại BLHS thì hai hành vi này tƣơng đồng với hành vi “chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có” quy định tại Điều 250 [31]. Mặt khác, quy định này thể hiện là Điều 251 BLHS năm 1999 chƣa mô tả hết các hành vi khách quan của tội rửa tiền. Đây là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để tiến tới xây dựng một quy phạm tội rửa tiền hoàn chỉnh trong BLHS Việt Nam.
  • 24. 18 1.1.3. Mặt chủ quan của tội rửa tiền “Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lí diễn ra bên trong người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: lỗi, mục đích, động cơ phạm tội” [38, tr.125]. Xét về lỗi, khi mô tả các nhóm hành vi rửa tiền, nhà làm luật đều sử dụng cụm từ “biết rõ là do phạm tội mà có”. Theo quy định tại tại khoản 2 Điều 1 Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC thì “biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội” [1, Điều 1, khoản 2]. Ngoài ra, ở điểm a khoản 1 Điều 251 BLHS năm 1999 còn có thêm cụm từ “nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó”. Nhƣ vậy, khi nhận thức đƣợc rằng nguồn gốc của tiền, tài sản là phi pháp mà vẫn thực hiện các hành vi tác động vào số tiền, tài sản đó, ngƣời thực hiện hành vi đã thể hiện thái độ tâm lý cố ý, do đó, lỗi của tội phạm rửa tiền là lỗi cố ý. Ngƣời phạm tội đã nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, gây khó khăn, phức tạp cho công tác điều tra, xử lý tội phạm nguồn, xâm hại vào việc quản lý tài sản phạm pháp của Nhà nƣớc. Với tƣ cách công dân, bất kể ngƣời nào khi đã đạt đến tầm nhận thức nhất định đều hiểu rằng tiền, tài sản có đƣợc từ bất kể hành vi phạm tội nào đều là bất hợp pháp, đều cần bị xử lý trƣớc pháp luật, và việc tiếp tay che giấu đều là phạm pháp, nhƣng ngƣời phạm tội vẫn tiếp nhận và tham gia vào quá trình xử lý hoặc che đậy nhằm tạo vỏ bọc hợp pháp cho khối tiền, tài sản đó. Điều này đồng nghĩa với việc ngƣời phạm tội đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý mà ở đây bao gồm cả hình thức lỗi cố ý trực tiếp và gián tiếp. Ở lỗi cố ý này lại thể hiện hai trạng thái lỗi của ngƣời rửa tiền, thứ nhất, ngƣời phạm tội đã không tố giác hành vi phạm tội trƣớc đó (nếu ngƣời rửa tiền không phải là ngƣời
  • 25. 19 thực hiện tội phạm ban đầu), thứ hai, ngƣời rửa tiền còn tiếp tục thực hiện tội phạm mới nhằm tiếp tay cho tội phạm ban đầu, che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản, tạo vỏ bọc hợp pháp cho tiền, tài sản đó để tội phạm nguồn có thể lẩn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Tuy nhiên cần lƣu ý, ngƣời phạm tội “biết rõ” tài sản là bất hợp pháp, do phạm tội mà có, nhƣng không bắt buộc ngƣời phạm tội phải biết rõ, chính xác nguồn gốc của tiền, tài sản là có đƣợc từ tội phạm gì, do ai thực hiện ở đâu, lúc nào… Ở đây khái niệm “biết rõ” chỉ nhằm phản ánh tình trạng nhận thức của ngƣời phạm tội nhận biết tài sản mình đang tác động đến là tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp, cần phải bị xử lý theo quy định của pháp luật và việc mình đang làm sẽ gây khó khăn cho công tác phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm, nhằm phân biệt với trƣờng hợp không biết nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản mà thôi. Tuy nhiên, ngƣời viết thấy rằng, trƣớc những hậu quả nghiêm trọng mà tội phạm rửa tiền gây ra, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm này càng ngày càng đƣợc nâng cao. Nếu chỉ buộc tội những trƣờng hợp cố ý phạm tội, chúng ta có thể phải trả giá cho những hành động cẩu thả khi một ngƣời hoàn toàn có thể nhận thức đƣợc những biểu hiện rõ ràng cho thấy số tiền, tài sản mà mình sắp hoặc đang tác động vào có bản chất phi pháp nhƣng đã bỏ qua điều này. Đây là trƣờng hợp vô ý phạm tội do cẩu thả, một tình trạng rất nguy hiểm nếu nhƣ số lƣợng tiền, tài sản bất hợp pháp là rất lớn. Sự cẩu thả này dẫn đến sự trót lọt trong việc rửa tiền của tội phạm, gây ra những hậu quả nặng nề cho xã hội. Do đó, cần xem xét trƣờng hợp lỗi này để có biện pháp xử lý thỏa đáng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi công dân trong công cuộc phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền nói riêng. Xét về động cơ phạm tội, đây không phải là dấu hiệu pháp lý bắt buộc đƣợc quy định tại Điều 251 BLHS năm 1999 nhƣng việc xem xét động cơ sẽ
  • 26. 20 làm sáng tỏ thêm hoạt động tâm lý của ngƣời phạm tội. Đối với tội phạm rửa tiền, động cơ phạm tội rất phong phú, phổ biến nhất là động cơ vụ lợi, nếu là ngƣời đã thực hiện hành vi phạm tội trƣớc đó, việc rửa tiền sẽ giúp hợp pháp hoá số tiền, tài sản đó để việc quản lý, tiêu dùng đƣợc thuận lợi, dễ dàng, thậm chí là tiếp tục sinh lợi dƣới vỏ bọc hợp pháp; nếu chỉ là ngƣời rửa tiền đơn thuần, ngƣời phạm tội sẽ đƣợc hƣởng lợi ích vật chất hoặc tinh thần từ hành vi rửa tiền nhƣ đƣợc tiền thƣởng, tiền ăn chia phần trăm, đƣợc trợ giúp, tạo thuận lợi trong các hoạt động nghề nghiệp, cuộc sống, kinh doanh… Lợi ích tinh thần có thể kể ra nhƣ việc rửa tiền giúp ngƣời có quan hệ tình cảm, ngƣời có công ơn với mình… Ngoài ra phải kể đến động cơ khác nhƣ nể nang, giúp đỡ, bị đe dọa nên lo sợ ảnh hƣởng đến tính mạng, sức khỏe… Thực tế con số thống kê của Lực lƣợng đặc nhiệm tài chính FATF thì chi phí cho hoạt động rửa tiền ngày càng tăng, những năm 60 - 70 là khoảng 10%, những năm 80-90 là khoảng 20% thì đến thế kỷ 21 đã tăng lên khoảng 30%, cá biệt có những trƣờng hợp tội phạm nguồn chiếm đến 50% giá trị tài sản đƣợc rửa [42]. Điều đó đồng nghĩa với thu nhập của ngƣời rửa tiền càng ngày càng cao và do đó sức hút từ rửa tiền ngày càng tăng càng dẫn đến nguy cơ tội phạm rửa tiền phát triển nhanh chóng. Xét về mục đích phạm tội, mục đích của ngƣời phạm tội khi thực hiện hành vi khách quan nói trên là “nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản” do phạm tội mà có. Đúng nhƣ tên gọi của tội phạm, mục đích cuối cùng của tội phạm là “rửa” những đồng tiền bẩn thành tiền sạch, trang bị cho tiền, tài sản “bẩn” vỏ bọc sạch sẽ, hợp pháp để tồn tại công khai trong đời sống xã hội. Dù sử dụng phƣơng pháp, cách thức nào để phạm tội, dù là một mình phạm tội hay là một mắt xích trong đƣờng dây tội phạm thì ngƣời phạm tội cũng hƣớng đến mục đích này.
  • 27. 21 1.1.4. Chủ thể của tội rửa tiền Về đặc điểm chung, xuất phát từ khái niệm chủ thể của tội phạm, xác định chủ thể của tội rửa tiền là ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội rửa tiền đƣợc quy định tại Điều 251 BLHS năm 1999. Cụ thể hơn đó là ngƣời có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi trong quá trình thực hiện hành vi rửa tiền, đạt độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên, riêng đối với khoản 2 và khoản 3 Điều 251 thì chủ thể là ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên. Về phân loại, chủ thể đƣợc mô tả là ngƣời đã thực hiện bốn nhóm hành vi quy định tại Điều 251 với ý thức là “biết rõ” tiền, tài sản là do phạm tội mà có. Cụm từ “biết rõ” diễn tả sự nhận thức đầy đủ, rõ ràng của ngƣời thực hiện hành vi rửa tiền về nguồn gốc của tiền, tài sản mình đang rửa. Tuy nhiên, do Điều 251 không xác định rõ mà chỉ quy định là ngƣời “biết rõ” nên đã có những tranh cãi về chủ thể của tội rửa tiền. Có quan điểm cho rằng chủ thể chỉ bao gồm những ngƣời thực hiện hành vi rửa tiền mà không thực hiện tội phạm nguồn, quan điểm khác cho rằng chủ thể bao gồm cả hai, ngƣời có và ngƣời không thực hiện tội phạm nguồn [24]. Theo tác giả thì quan điểm thứ hai là chính xác vì cụm từ “biết rõ” phản ánh bản chất nhận thức của ngƣời phạm tội dù đó là ngƣời thực hiện hay không thực hiện tội phạm nguồn, nhằm phân biệt với nhóm “không biết” nguồn gốc tiền, tài sản nhƣng vẫn thực hiện các hành vi tƣơng tự nhƣ hành vi rửa tiền thì nhóm này không phải là chủ thể của tội phạm. Ngoài ra, việc xác định chủ thể gồm cả ngƣời đã thực hiện hành vi tội phạm nguồn là phù hợp vì nó đảm bảo nguyên tắc công bằng về trách nhiệm hình sự. Về mặt lý luận, tội phạm hoàn thành khi đã thể hiện đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm đƣợc quy định trong BLHS và ngay khi tội phạm hoàn thành thì trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội đã hình thành đầy đủ. Hành vi tội phạm phát sinh sau đó phải chịu trách nhiệm hình sự riêng
  • 28. 22 biệt theo cấu thành tội đó, độc lập với tội phạm ban đầu. Không thể đánh đồng tránh nhiệm hình sự của hai ngƣời là giống nhau trong khi một ngƣời chỉ thực hiện tội phạm nguồn, còn ngƣời kia thực hiện cả tội phạm nguồn và hành vi rửa tiền. Trƣớc đây, chúng ta chỉ xử lý ngƣời phạm tội với tội danh ban đầu họ thực hiện chứ không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tẩu tán, tiêu thụ tài sản, mặc dù hành vi đó mang bản chất là rửa tiền. Tuy nhiên sự phát triển của các tổ chức tội phạm hiện nay cho thấy hành vi tự rửa tiền không chỉ giới hạn trong mục đích là che giấu, tiêu thụ tài sản đã chiếm đoạt đƣợc, mà còn tiềm ẩn nhiều mối nguy hại khác. Số tiền, tài sản chiếm đoạt đƣợc từ các hành vi phạm tội ngày càng khổng lồ và nếu số tiền, tài sản này thâm nhập vào hệ thống tài chính thì hệ quả là cực kỳ nghiêm trọng. Đối với trƣờng hợp tự rửa tiền, có ý kiến cho rằng hình phạt của tội phạm nguồn đã rất nghiêm khắc, thậm chí có tội còn bị tử hình, do đó không cần thiết phải truy tố một hành vi có mức độ nguy hiểm thấp hơn là hành vi rửa tiền [23]. Đây là quan điểm không chính xác vì nó không phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của BLHS, đặc biệt là nguyên tắc “mọi hành vi phạm tội phải đƣợc phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật”. Thứ hai là xuất phát từ lợi ích quốc gia và yêu cầu của hoạt động hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống rửa tiền. Hiện nay, hình thức tội phạm rửa tiền có tổ chức, hoạt động xuyên quốc gia ngày càng phát triển, do đó, không phải lúc nào tội phạm nguồn và tội phạm rửa tiền cũng xảy ra và kết thúc trên lãnh thổ một quốc gia. Nếu loại trừ ngƣời thực hiện tội phạm nguồn ra khỏi chủ thể của tội rửa tiền, thì trong trƣờng hợp ngƣời đó thực hiện hành vi rửa tiền ở quốc gia khác nhƣng lại rửa tiền ở nƣớc ta thì lúc đó luật của chúng ta không đủ điểu kiện để xử lý ngƣời phạm tội, đồng nghĩ với ta không có tƣ cách tham gia vào quá trình kiểm soát, quản lý tài sản bị tịch thu từ đối tƣợng phạm tội và điều này là bất lợi trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia.
  • 29. 23 Trên thực tế, hầu hết việc rửa tiền đều phải thực hiện qua pháp nhân. Tuy nhiên, BLHS Việt Nam không quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với hành vi rửa tiền nên chủ thể của tội rửa tiền chỉ duy nhất là cá nhân có các đặc điểm nhƣ đã nêu trên. Phân loại theo vai trò, chủ thể của tội rửa tiền có thể là ngƣời tham gia trong một tổ chức đƣợc lập ra để thực hiện việc rửa tiền, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gồm các vai trò khác nhau nhƣ chủ mƣu, cầm đầu, tổ chức hoặc ngƣời thực hành, giúp sức, xúi giục. Phân loại theo đặc điểm, chủ thể của tội rửa tiền có thể là ngƣời có chức vụ, quyền hạn, chuyên môn để hành động trực tiếp hoặc gây ảnh hƣởng với ngƣời khác để thực hiện việc rửa tiền. Cá nhân này có thể ít nhiều hƣởng lợi ích vật chất hoặc vì một mục đích phi vật chất nào đó mà tham gia vào quá trình rửa tiền ví dụ nhƣ vì nể nang, giúp đỡ, trả ơn, vì bị đe dọa… Kinh tế xã hội càng phát triển thì trình độ của các cá nhân này càng cao để thích ứng. Đồng thời, cũng do sự phát triển của kinh tế xã hội mà sự tham gia của các chủ thể rửa tiền dƣới hình thức đồng phạm cũng ngày càng phát triển để tránh sự phát hiện dễ dàng của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong BLHS năm 1999, có một tội danh nữa có cùng đối tƣợng tác động với “Tội rửa tiền” là “Tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có” đƣợc quy định tại Điều 250. Trên diễn đàn khoa học luật hình sự, có ý kiến cho rằng nên hợp nhất Điều 250 và Điều 251 thành một tội rửa tiền bởi vì về bản chất, hành vi phạm tội đƣợc quy định tại Điều 250 là hành vi rửa tiền [15, tr.20]. Ngƣời viết đồng ý với quan điểm này vì khoản 1 Điều 4 Luật phòng, chống rửa tiền xác định hành vi rửa tiền ngoài hành vi đƣợc quy định trong BLHS còn có hai hành vi tƣơng đồng với hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có mà ngƣời viết đã đề cập ở phần mặt khách quan của tội rửa tiền, ngoài ra hành vi tại Điều 250 BLHS Việt Nam 1999 đã đƣợc mô tả trong các nhóm hành vi rửa tiền mà Công ƣớc
  • 30. 24 Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (sau đây gọi tắt là Công ƣớc Palermo) quy định (Công ƣớc Viên 1988 cũng quy định về hai nhóm hành vi này với nội dung tƣơng tự tại các mục b (i) và c (i)), đó là nhóm hành vi: a) (i) Chuyển đổi hoặc chuyển nhƣợng tài sản mà biết rõ là tài sản do phạm tội mà có với mục đích che giấu hoặc ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc giúp đỡ bất kỳ ngƣời nào liên quan đến việc thực hiện một tội phạm nguồn lẩn tránh những hậu quả pháp lý do hành vi của ngƣời đó gây ra… b) (i) Nhóm hành vi sở hữu, chiếm hữu hoặc sử dụng tài sản mà vào thời điểm nhận ngƣời đó biết rõ rằng tài sản này là do phạm tội mà có [19]. Có thể thấy hành vi “chứa chấp” nằm trong nhóm b của Công ƣớc, hành vi “tiêu thụ” nằm trong nhóm a của Công ƣớc. Các hành vi này đều nhằm thay đổi hình thức pháp lý của tiền, tài sản, tìm cách che đậy nguồn gốc bất hợp pháp thành hợp pháp để tạo thuận lợi cho việc sử dụng tài sản, đặc biệt là hành vi tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có đƣợc quy định tại Điều 250 có đầy đủ đặc điểm của hành vi rửa tiền. Do vậy, việc BLHS hiện hành tách tội rửa tiền với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có và qui định tại 2 điều luật độc lập là chƣa phù hợp với bản chất của hành vi và các chuẩn mực quốc tế. 1.2. Đƣờng lối xử lý của tội rửa tiền theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 1.2.1. Khoản 1 Điều 251 Theo quy định tại khoản 1 Điều 251 thì “người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm…” (các hành vi đã đƣợc liệt kê và phân tích ở trên).
  • 31. 25 Khoản 1 Điều 251 quy định cấu thành tội phạm cơ bản của tội rửa tiền. Với việc thực hiện bốn nhóm hành vi đƣợc mô tả trong khoản 1, ngƣời phạm tội đã thực hiện tội rửa tiền. Trong trƣờng hợp này, ngƣời phạm tội đã thực hiện một tội nghiêm trọng và bị xử lý bằng chế tài nghiêm khắc của BLHS là hình phạt tù có thời hạn. Thực hiện một trong các hành vi đƣợc nêu tại khoản 1 mà không có thêm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự định khung đƣợc nêu tại khoản 2 và khoản 3 Điều 251, ngƣời phạm tội sẽ bị xem xét áp dụng các tình tiết tăng nặng đƣợc quy định tại Điều 48 và các tình tiết giảm nhẹ đƣợc quy định tại Điều 46 BLHS nếu thoả mãn. Nếu có thêm các tình tiết giảm nhẹ khác đƣợc ghi nhận trong bản án (nhƣ bản thân có thành tích đặc biệt, gia đình có công với Cách mạng, đã sửa chữa, khắc phục hậu quả…) thì cũng đƣợc Tòa án xem xét khi quyết định hình phạt. Nếu nhƣ có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS thì ngƣời phạm tội còn có thể đƣợc áp dụng mức hình phạt dƣới một năm tù (từ ba tháng đến dƣới một năm) theo quy định tại Điều 47 BLHS. Khi ngƣời phạm tội rửa tiền theo khoản 1 Điều 251 BLHS là ngƣời từ 16 đến dƣới 18 tuổi thì việc quyết định hình phạt còn phải xem xét thêm các quy định trong Chƣơng X BLHS về những quy định đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội. 1.2.2. Khoản 2 Điều 251 Khoản 2 Điều 251 quy định: Phạm tội thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mƣời năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Phạm tội nhiều lần; d) Có tính chất chuyên nghiệp; e) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; f) Tiền, tài sản phạm tội có giá trị lớn;
  • 32. 26 g) Thu lợi bất chính lớn; h) Gây hậu quả nghiêm trọng; i) Tái phạm nguy hiểm. - Phạm tội có tổ chức: theo quy định tại khoản 3 Điều 20 BLHS thì phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những ngƣời cùng thực hiện tội phạm. Trong trƣờng hợp này, có từ hai ngƣời trở lên cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch tỉ mỉ, chi tiết, phân công, sắp đặt vai trò của những ngƣời tham gia, trong đó mỗi ngƣời thực hiện một hoặc một số hành vi trong nhóm các hành vi đƣợc mô tả tại khoản 1 Điều 251 và chịu sự điều khiển thống nhất của ngƣời cầm đầu để thực hiện tội rửa tiền. Vai trò của mỗi ngƣời trong trƣờng hợp phạm tội có tổ chức là khác nhau nhƣ có ngƣời tổ chức, ngƣời thực hành, ngƣời xúi giục, ngƣời giúp sức, một ngƣời có thể giữ nhiều vai trò khác nhau. Ngƣời tổ chức là ngƣời chủ mƣu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Đối với tội rửa tiền trong trƣờng hợp phạm tội có tổ chức, vai trò của ngƣời tổ chức rất quan trọng vì các hoạt động rửa tiền rất phức tạp, đa dạng, đòi hỏi phải tính toán kỹ càng nhằm xóa mờ hay làm phức tạp dấu vết sau mỗi bƣớc đi của tiền bẩn, thậm chí ngƣời tổ chức còn phải nắm vững quy định chuyên môn nghiệp vụ một số ngành nghề nhất định và quy định pháp luật. Do tính chất đặc biệt của việc rửa tiền thƣờng không phải là những hành động tay chân đơn thuần và đơn lẻ của từng cá nhân mà là sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều tổ chức, nhiều cá nhân, thƣờng phải thực hiện thông qua hoạt động của pháp nhân, pháp nhân càng uy tín thì công tác giám sát, theo dõi càng cao do đó rửa tiền càng khó nhƣng nếu thành công thì việc phát hiện dấu vết tiền bẩn cũng khó khăn hơn. Do đó, để việc rửa tiền trót lọt đòi hỏi ngƣời tổ chức phải có trình độ, có đầu óc tính toán. Có thể nói hoạt động rửa tiền có thành công trót lọt hay không vai trò của ngƣời tổ chức là quyết định. Vì thế không
  • 33. 27 ít ngƣời tổ chức tội phạm rửa tiền thuộc về giới “cổ cồn trắng” - giới trí thức có hiểu biết và chuyên môn sâu về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nhất là lĩnh vực chuyên môn tài chính, tin học. Ngƣời tổ chức thực hiện tội rửa tiền có thể có những hành vi nhƣ: khởi xƣớng việc phạm tội; vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng nhƣ kế hoạch che giấu tội phạm; rủ rê, lôi kéo ngƣời khác cùng thực hiện tội phạm; phân công trách nhiệm cho những ngƣời đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều khiển hành động của những ngƣời đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy ngƣời đồng phạm khác thực hiện tội phạm... Ngƣời thực hành là ngƣời trực tiếp thực hiện tội phạm, có hành vi thuộc bốn nhóm hành vi đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 251 nhƣ thực hiện các giao dịch tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, các hoạt động kinh doanh, cất giấu các giấy tờ tài liệu liên quan... Ngoài ra còn có thể có ngƣời đồng phạm khác cũng tham gia rửa tiền nhƣ ngƣời xúi giục (là những ngƣời có vai trò kích động, dụ dỗ, thúc đẩy tội phạm đƣợc thực hiện), ngƣời giúp sức (là ngƣời hỗ trợ tạo điều kiện vật chất và tinh thần) cho việc thực hiện tội phạm. Do tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với trƣờng hợp đơn lẻ thực hiện hành vi rửa tiền nên nhà làm luật đã xếp trƣờng hợp này vào khoản 2 Điều 251 với mức hình phạt cao hơn khoản 1. Cần lƣu ý khi quyết định hình phạt trong trƣờng hợp này Tòa án phải phân hóa vai trò của mỗi ngƣời phạm tội, căn cứ vào tính chất, mức độ thực hiện hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các quy định liên quan để xem xét quyết định hình phạt phù hợp với từng cá nhân cụ thể. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: đây là trƣờng hợp chủ thể đặc biệt của tội rửa tiền. Theo quy định tại Điều 277 BLHS thì “ngƣời có chức vụ là ngƣời do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hƣởng lƣơng hoặc không hƣởng lƣơng, đƣợc giao thực hiện một công vụ nhất định
  • 34. 28 và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”. Ngƣời thực hiện hành vi rửa tiền sử dụng những thuận lợi do chức vụ, quyền hạn của mình đem đến để thực hiện hành vi phạm tội hoặc dùng nó để ép buộc, dụ dỗ ngƣời khác phạm tội, điều mà ngƣời không có chức vụ quyền hạn khó có thể thực hiện đƣợc. Do đó, tính nguy hiểm của tội phạm tăng lên, tội phạm đƣợc hoàn thành nhanh hơn, gây khó khăn cho công tác điều tra, phát hiện tội phạm, gây ảnh hƣởng xấu đến dƣ luận xã hội, làm giảm uy tín của nhà nƣớc, tổ chức… Chính vì thế nhà làm luật đã đƣa trƣờng hợp này là một trong những tình tiết tăng nặng định khung hình phạt và xếp vào khoản 2 của Điều 251. - Phạm tội nhiều lần: đây là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đƣợc quy định tại Điều 48 BLHS, tuy nhiên trong Điều 251 tình tiết này xuất hiện với tính chất là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP- NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC thì “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 BLHS là trƣờng hợp rửa tiền từ hai lần trở lên và trong các lần đó chƣa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chƣa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự [1]. Tình tiết này thể hiện tính nguy hiểm của tội phạm khi có ít nhất hai lần qua mặt pháp luật, thực hiện việc rửa tiền mà nếu không bị phát hiện và ngăn chặn thì việc ngƣời phạm tội tiếp tục thực hiện những lần phạm tội khác là hoàn toàn có thể xảy ra và nhƣ vậy mức độ nguy hiểm sẽ còn tăng cao hơn nữa. - Có tính chất chuyên nghiệp: theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 3 Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC- TANDTC thì: Chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi có đủ các điều kiện: có từ 5 lần trở lên thực hiện hành vi rửa tiền, không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chƣa, nếu chƣa hết
  • 35. 29 thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chƣa đƣợc xóa án tích; ngƣời phạm tội không có nghề nghiệp hoặc lấy tài sản thu nhập bất chính do phạm tội mà có làm nguồn sống chính [1, Điều 3, khoản 4]. Nhƣ vậy tình tiết này phân biệt với tình tiết “phạm tội nhiều lần” là ở số lần phạm tội (năm lần trở lên) và đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội (không có nghề nghiệp hoặc lấy thu nhập từ việc phạm tội làm nguồn sống chính). Đây chính là chi tiết thể hiện tính chuyên nghiệp của tội phạm. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nguy hiểm hơn phạm tội nhiều lần vì ngƣời phạm tội đã thực hiện tội phạm nhiều lần (năm lần), gây hại ở cấp độ cao và thể hiện thái độ coi thƣờng pháp luật của ngƣời phạm tội. Do đó cần xử lý nghiêm minh với mức hình phạt nặng hơn hành vi phạm tội đơn lẻ thông thƣờng. - Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt: nếu nhƣ ở điểm m khoản 1 Điều 48 BLHS có tình tiết “dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội” thì trong khoản 2 Điều 251, để phù hợp với bản chất của hành vi rửa tiền, nhà làm luật đã quy định về thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Đó là việc ngƣời phạm tội có những cách thức, mánh khóe, phƣơng pháp gian dối một cách thâm hiểm, khó phát hiện, gây khó khăn cho công tác điều tra tội phạm. Chính vì thế mà tình tiết này đã làm tăng tính nguy hiểm của tội phạm so với khoản 1 Điều 251. - Tiền, tài sản phạm tội có giá trị lớn, thu lợi bất chính lớn, gây hậu quả nghiêm trọng: theo quy định tại khoản 5, 6 và 7 Điều 3 Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC thì: Tiền, tài sản có giá trị lớn” quy định tại điểm e khoản 2 Điều 251 BLHS là tiền, tài sản phạm tội có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dƣới năm trăm triệu đồng; “thu lợi bất chính lớn” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 251 BLHS là thu lợi có giá trị từ năm mƣơi triệu đồng đến dƣới một trăm triệu đồng; “gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 2 Điều 251 BLHS là gây thiệt hại có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dƣới năm trăm triệu đồng [1].
  • 36. 30 - Tái phạm nguy hiểm: theo quy định tại khoản 2 Điều 49 BLHS năm 1999 thì tái phạm nguy hiểm gồm hai trƣờng hợp: đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chƣa đƣợc xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý và đã tái phạm, chƣa đƣợc xóa án tích lại phạm tội do cố ý. 1.2.3. Khoản 3 Điều 251 Trong khoản 1 và khoản 2, từ cấu thành tội phạm cơ bản đến cấu thành tăng nặng cơ bản đã đƣợc mô tả đầy đủ, tuy nhiên trong những trƣờng hợp hành vi phạm tội và hậu quả mà nó gây ra ở cấp độ cao hơn thì vẫn cần phải có chế tài riêng phù hợp với tính chất nguy hiểm cấp độ cao của hành vi. Do đó, quy định về mức hình phạt từ tám năm đến mƣời lăm năm tù quy định tại khoản 3 Điều 251 là cần thiết, phù hợp với thực tiễn. Theo quy định tại điểm 6, 8 và 10 Điều 3 Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN - VKSNDTC-TANDTC thì: Tiền, tài sản phạm tội có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn” là tiền, tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; “thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn” là thu lợi có giá trị từ một trăm triệu đồng trở lên; “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” là gây thiệt hại có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên [1, Điều 3]. Có thể thấy các khung hình phạt trong tội rửa tiền nƣớc ta là khá cao. Tuy nhiên điều này hoàn toàn tƣơng xứng với hậu quả nghiêm trọng mà tội phạm rửa tiền gây ra. Đứng trƣớc những tác hại nghiêm trọng của tội phạm rửa tiền đối với nền kinh tế, tài chính quốc gia, trƣớc nguy cơ hoạt động rửa tiền ngày càng gia tăng cấp độ, quy mô, sự tinh vi, xảo quyệt, sự nghiêm khắc của chế tài tội rửa tiền thể hiện đƣờng lối đấu tranh mạnh mẽ của Đảng và Nhà nƣớc ta, không chỉ trừng trị tội phạm mà còn có ý nghĩa cảnh báo, giáo dục, ngăn ngừa tội phạm xảy ra.
  • 37. 31 Do đó, ngoài các hình phạt chính nêu trên, tại khoản 4 Điều 251 còn quy định hình phạt bổ sung “ngƣời phạm tội có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt tiền đến ba lần số tiền hoặc giá trị tài sản phạm tội, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Hình phạt bổ sung đƣợc quy định khá đa dạng gồm cả phạt tiền, tịch thu tài sản và cấm đảm nhiệm chức vụ. Điều này phù hợp với tính chất của tội phạm rửa tiền là có thể liên quan đến chức vụ, công việc của một số ngành nghề chuyên môn nhất định. Các khung hình phạt bổ sung cũng khá rộng, đảm bảo cho Thẩm phán xét xử có thể lựa chọn mức phạt phù hợp từng trƣờng hợp cụ thể. Ngoài ra, tại khoản 11 Điều 3 Thông tƣ số 09/2011/TTLT-BCA-BQP- BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC nêu rõ: Khi áp dụng các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng cần xác định hậu quả thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nằm ngoài giá trị tài sản do phạm tội mà có. Ngoài hậu quả là thiệt hại về tài sản thì tội rửa tiền có thể còn có hậu quả khác ảnh hƣởng xấu đến việc thực hiện đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, gây ảnh hƣởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đến an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia và các hậu quả phi vật chất khác. Theo đó, phải tùy vào từng trƣờng hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng [1, Điều 3, khoản 11]. Đây là đƣờng lối xử lý tội phạm riêng của tội rửa tiền, nhƣng thể hiện sự đánh giá toàn diện, thể hiện cái nhìn nhiều chiều về tội phạm, góp phần làm cho ngƣời phạm tội tâm phục khẩu phục và có ý nghĩa giáo dục với những ngƣời khác.
  • 38. 32 Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật phòng chống rửa tiền thì rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có. Nhƣ vậy, bên cạnh chủ thể cá nhân thì tổ chức, trong đó có pháp nhân cũng cần bị xử lý trách nhiệm. Theo mục b khuyến nghị 2 của bản 40+9 khuyến nghị của FATF thì: Trách nhiệm hình sự và khi điều này không đƣợc áp dụng thì trách nhiệm dân sự hoặc hành chính, sẽ áp dụng đối với các pháp nhân… Pháp nhân cần phải chịu các hình phạt có hiệu quả, tƣơng xứng và có tính răn đe. Các biện pháp đó cần áp dụng mà không ảnh hƣởng gì đến trách nhiệm hình sự cá nhân [7, Điều 4, khoản 1]. Tuy nhiên, ngoài quy định về việc bị xử phạt vi phạm hành chính tại Điều 24 Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng chống rửa tiền đã hết hiệu lực từ ngày 10/10/2013 do bị thay thế bởi Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền thì hiện nay không có bất cứ một chế tài nào liên quan đến trách nhiệm của pháp nhân trong việc rửa tiền. Đây là một thiếu sót lớn của hệ thống pháp luật, không chỉ buông lỏng việc xử lý trách nhiệm pháp nhân vi phạm pháp luật mà còn không phù hợp với các quy định quốc tế hiện hành. Qua nội dung phân tích ở trên, có thể thấy, quy định tại Điều 251 BLHS năm 1999 về tội rửa tiền đã thể hiện đƣợc những điểm pháp lí cơ bản liên quan đến hành vi rửa tiền, tuy nhiên, qui định này còn tồn tại một số bất cập, cụ thể là: Thứ nhất, việc xếp tội rửa tiền nằm trong chƣơng “các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng” chƣa phản ánh quan hệ xã hội mà tội phạm này xâm hại trƣớc tiên và nghiêm trọng nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là khách thể gần nhất, trực tiếp nhất của tội phạm, hiểu rộng ra mới là sự xâm
  • 39. 33 hại đến các quan hệ xã hội về an toàn công cộng, trật tự công cộng. Việc sắp xếp phù hợp theo nhóm khách thể bị tội phạm xâm hại liên quan đến nhận thức tầm quan trọng của công tác phòng chống tội phạm, đến các chính sách đấu tranh phòng chống tội phạm trên nhiều lĩnh vực khác của Nhà nƣớc do đó cần nghiên cứu để sắp xếp tội rửa tiền cho phù hợp hơn. Thứ hai, Điều 251 BLHS năm 1999 chƣa quy định rõ chủ thể thực hiện tội rửa tiền bao hàm cả ngƣời phạm tội nguồn hay chỉ là ngƣời thực hiện hành vi rửa tiền. Thứ ba, trong BLHS năm 1999, nhà làm luật chƣa hợp nhất Điều 250 và Điều 251 thành một tội danh - tội rửa tiền mà để dƣới dạng hai tội danh độc lập. Nhƣ trên đã phân tích, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có theo qui định của Công ƣớc Palermo 2000 và Công ƣớc Viên 1988 là một dạng của hành vi rửa tiền. Do đó, việc quy định hai tội danh độc lập nhƣ trên là không phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Thứ tư, theo quy định tại Điều 251 thì xác định lỗi của ngƣời phạm tội là cố ý. Ngƣời phạm tội cố tình thực hiện hành vi với mục đích che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản. Tuy nhiên, trong môi trƣờng kinh tế - xã hội hiện nay, nếu một ngƣời thực hiện hành vi tác động vào khối tiền, tài sản bẩn, cung cấp vỏ bọc hợp pháp cho tiền, tài sản mà không biết rằng đó là tiền, tài sản có nguồn gốc phi pháp mặc dù có những dấu hiệu để có thể nhận biết thì trong trƣờng hợp này cần xác định tội phạm với lỗi vô ý nhằm nâng cao ý thức bảo vệ pháp luật, phòng chống tội phạm của toàn dân, nâng cao trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ trật tự an toàn xã hội, trật tự lành mạnh của nền kinh tế, hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả nghiêm trọng do hoạt động rửa tiền gây ra. Thứ năm, việc mô tả hành vi khách quan theo qui định của Điều 251 là chƣa đầy đủ. Hiện nay tại khoản 1 Điều 4 Luật phòng, chống rửa tiền định nghĩa rửa tiền gồm:
  • 40. 34 a) Hành vi đƣợc quy định trong BLHS; b) Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có; c) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản. Nhƣ vậy, quy định tại khoản 1 Điều 251 chƣa bao quát hết các hành vi rửa tiền. Thứ sáu, Điều 251 cũng chƣa quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với trƣờng hợp để xảy ra hành vi rửa tiền trong quá trình hoạt động của pháp nhân. Do tầm quan trọng của pháp nhân trong quá trình rửa tiền cũng nhƣ tính nguy hiểm mà tội phạm rửa tiền gây ra, pháp nhân cũng cần phải chịu trách nhiệm hình sự khi tham gia vào quá trình rửa tiền trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Trƣớc đây chúng ta có một số chế tài hành chính đối với pháp nhân để xảy ra hành vi rửa tiền tuy nhiên kể từ ngày 10/10/2013 khi Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2003 của Chính phủ có hiệu lực đến nay không có một quy định nào về bất kỳ trách nhiệm nào của pháp nhân liên quan đến tội rửa tiền. Đây là một lỗ hổng lớn của pháp luật, không phù hợp với qui định của chuẩn mực quốc tế về vấn đề này. Tuy nhiên, trong tƣơng quan với tính nguy hiểm của tội phạm rửa tiền, chế tài hành chính không đủ sức răn đe, ngăn chặn mà cần có những chế tài mạnh hơn, cứng rắn hơn và chế tài hình sự đáp ứng đƣợc điều đó. Trƣớc tình hình phát triển của tội phạm rửa tiền nhƣ hiện nay, bên cạnh chế tài dành cho thể nhân thì đã đến lúc cần phải có quy định về chế tài hình sự dành cho pháp nhân. Thứ bảy, trong Điều 251, nhà làm luật sử dụng từ “tiền, tài sản” là chƣa phù hợp với các văn bản pháp luật quốc tế và trong nƣớc nhƣ các Công ƣớc quốc tế, Bộ luật dân sự, Luật phòng, chống rửa tiền. Theo định nghĩa tại các
  • 41. 35 văn bản này thì từ “tài sản” đã bao hàm cả “tiền” trong đó. Do đó chỉ sử dụng từ “tài sản” là đủ. Thứ tám, Điều 251 BLHS hiện hành chƣa giải thích rõ các tình tiết “phạm tội nhiều lần”, “tiền, tài sản phạm tội có giá trị lớn, rất lớn, đặc biệt lớn, thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn”. Điều này cũng gây khó khăn nhất định cho việc vận dụng các tình tiết này. 1.3. So sánh quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 với qui định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội rửa tiền Do luận văn đƣợc viết vào thời điểm BLHS năm 2015 đã đƣợc Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 27/11/2015 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, do vậy, phần này tác giả sẽ trình bày về so sánh qui định của BLHS năm 1999 với qui định của BLHS năm 2015 về tội rửa tiền. Nằm trong mục 4 “Các tội khác xâm phạm trật tự công cộng” thuộc chƣơng XXI “Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng”, Điều 324 BLHS năm 2015 Tội rửa tiền vẫn giữ nguyên các quy định cơ bản về cấu thành tội phạm so với Điều 251 BLHS năm 1999 trƣớc đây, chỉ thay thế cụm từ “biết rõ là do phạm tội mà có” thành “do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do ngƣời khác phạm tội mà có”, sửa cụm từ “do phạm tội mà có” tại điểm d khoản 1 thành “do ngƣời khác thực hiện hành vi phạm tội mà có”, thay cụm từ “phạm tội nhiều lần” thành “phạm tội 02 lần trở lên”, xác định rõ giá trị tiền, tài sản phạm tội, thu lợi, phạt tiền, tại khoản 2 bỏ quy định “gây hậu quả nghiêm trọng”, tại khoản 3 thay thế quy định “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” bằng quy định “gây ảnh hƣởng xấu đến an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia”, bổ sung khoản 4 quy định: “Ngƣời chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” và sửa đổi hình phạt tại khoản 2 là từ 5 năm đến 10 năm, tại khoản 3 là từ 10 đến 15 năm.
  • 42. 36 Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có quy định tại Điều 323 BLHS năm 2015 cũng có một số thay đổi nhƣ thay đổi mức tiền phạt, xác định rõ giá trị tài sản, vật phạm pháp, thu lợi, tăng mức hình phạt tại khoản 2 là từ 3 năm đến 7 năm, tại khoản 3 là từ 7 năm đến 10 năm, tại khoản 4 là từ 10 đến 15 năm, sửa đổi quy định tại khoản 5 là ngƣời phạm tội chỉ bị phạt bổ sung bằng một trong hai hình thức phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản chứ không bị áp dụng hoặc đồng thời hai hình thức hoặc một trong hai nhƣ quy định tại Bộ luật hiện hành. Nhƣ vậy, so sánh với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã có một số thay đổi, đã khắc phục đƣợc một số hạn chế của BLHS năm 1999 về tội rửa tiền, đó là: Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã diễn giải rõ từ “biết rõ” thành cụm từ “do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do ngƣời khác phạm tội mà có” hay nói cách khác là BLHS năm 2015 đã xác định rõ chủ thể thực hiện tội rửa tiền bao gồm cả ngƣời thực hiện và không thực hiện tội phạm nguồn, ngoài ra theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 thì chủ thể của tội rửa tiền là ngƣời đủ 16 tuổi trở lên. Thứ hai, Điều 324 đã giải thích rõ, cụ thể hóa bằng con số cụ thể các quy định “phạm tội nhiều lần”, “tiền, tài sản phạm tội có giá trị lớn, rất lớn, đặc biệt lớn, thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn”. Thứ ba, Điều 324 đã bổ sung quy định trƣờng hợp chuẩn bị phạm tội vào ngay cuối điều luật. Ngoài các điểm thay đổi tích cực trên đây, phần lớn các mặt hạn chế khác của quy định về tội rửa tiền trong BLHS năm 1999 mà tác giả đã chỉ ra ở phần trên vẫn chƣa đƣợc khắc phục trong BLHS năm 2015. Nhà làm luật vẫn quy định tội rửa tiền thuộc nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, vẫn tách riêng hai tội “chứa chấp và tiêu thụ tài sản do ngƣời khác
  • 43. 37 phạm tội mà có” và tội “rửa tiền”, chƣa có quy định khái quát bao trùm mọi dạng hành vi rửa tiền, chƣa quy định trƣờng hợp phạm tội với lỗi vô ý do cẩu thả, vẫn sử dụng cụm từ “tiền, tài sản”… Một điểm cần lƣu ý là trong BLHS năm 2015, lần đầu tiên xuất hiện quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thƣơng mại nhƣng phạm vi các tội pháp nhân phải chịu TNHS lại không có tội rửa tiền. Điều này có nghĩa là nếu pháp nhân rửa tiền (thậm chí có thể với qui mô rất lớn hoặc đặc biệt lớn) thì vẫn không bị pháp luật hình sự “sờ gáy”. Theo quan điểm của tác giả, việc BLHS năm 2015 không qui định TNHS của pháp nhân đối với tội rửa tiền là một bất cập và có thể ảnh hƣởng không nhỏ đến cuộc đấu tranh chống tội rửa tiền ở nƣớc ta… Những hạn chế này đặt ra cho ngƣời viết nhiệm vụ phải tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu và đề xuất phƣơng hƣớng hoàn thiện quy phạm pháp luật về tội rửa tiền trong BLHS Việt Nam.
  • 44. 38 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Là một loại tội có tính phái sinh, chỉ xuất hiện sau một tội phạm khác nhƣng không vì thế mà tính nghiêm trọng của tội rửa tiền giảm xuống mà ngƣợc lại, nhằm che giấu tiền, tài sản bất hợp pháp, ngƣời phạm tội còn dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để thực hiện. Để đấu tranh phòng chống có hiệu quả tội phạm này, việc nghiên cứu, nắm vững lý luận về tội rửa tiền là hết sức cần thiết. Trong chƣơng I, ngƣời viết đã đi sâu phân tích cấu thành tội rửa tiền theo quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 và xem xét trong mối tƣơng quan với tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có để tìm ra những điểm hạn chế của quy định tội rửa tiền tại BLHS năm 1999, những điểm tiến bộ của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999 và những hạn chế cần tiếp tục đƣợc khắc phục của BLHS năm 2015. Trên cơ sở nhận thức đƣợc những vấn đề căn bản còn vƣớng mắc trong quy định về tội rửa tiền, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu nhằm khắc phục những vƣớng mắc này để tiến tới xác lập một quy phạm hoàn thiện về tội rửa tiền theo đúng chuẩn mực pháp lý quốc gia và quốc tế. Trong những cách thức nghiên cứu, ngƣời viết chọn phƣơng pháp so sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới để rút ra những bài học kinh nghiệm lập pháp có thể áp dụng vào pháp luật Việt Nam về tội rửa tiền. Đó là những nội dung chính của chƣơng 2 và chƣơng 3 sẽ đƣợc trình bày dƣới đây.
  • 45. 39 Chương 2 SO SÁNH QUY ĐỊNH VỀ TỘI RỬA TIỀN THEO QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH (BLHS NĂM 1999) VỚI QUY ĐỊNH TƢƠNG ỨNG CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA THUỘC HỆ THỐNG LUẬT THÀNH VĂN VÀ HỆ THỐNG ÁN LỆ 2.1. So sánh qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 với qui định của Bộ luật hình sự Trung Quốc, Thụy Điển (thuộc hệ thống luật thành văn) về tội rửa tiền 2.1.1. So sánh qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam với qui định của Bộ luật hình sự Trung Quốc về tội rửa tiền BLHS nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (sau đây gọi là Trung Quốc) đƣợc thông qua ngày 01/7/1979, có hiệu lực từ ngày 01/01/1980, lần sửa đổi bổ sung gần đây nhất là vào ngày 28/02/2005. Tại Điều 191 thuộc Mục 4 “Tội xâm phạm trật tự quản lý tiền tệ” trong Chƣơng III “Tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa”, BLHS Trung Quốc quy định nhƣ sau: Ngƣời nào biết rõ những khoản lợi thu đƣợc một cách phi pháp do tội phạm ma túy, tội phạm có tổ chức mang tính chất xã hội đen, tội hoạt động khủng bố, tội buôn lậu để che đậy, giấu giếm nguồn gốc và tính chất, có một trong những tình tiết dƣới đây, tịch thu những khoản lợi thu đƣợc do vi phạm pháp luật thì bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động và bị phạt tiền từ 5% đến 20% số tiền rửa này; nếu có tình tiết nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm và bị phạt tiền từ 5% đến 20% số tiền rửa này: 1. Cung cấp từ khoản vốn; 2. Giúp đỡ bằng cách chuyển tài sản thành tiền mặt hoặc ngân phiếu;
  • 46. 40 3. Thông qua việc chuyển nợ hoặc các hình thức quyết toán khác giúp đỡ chuyển vốn; 4. Giúp đỡ bằng cách chuyển tiền ra nƣớc ngoài; 5. Dùng những biện pháp khác để che đậy, giấu giếm tính chất, nguồn gốc nguồn thu bất hợp pháp. Đơn vị phạm tội nhƣ quy định trên thì đơn vị đó sẽ bị phạt tiền, ngƣời chủ quản chịu trách nhiệm trực tiếp và ngƣời chịu trách nhiệm trực tiếp khác thì bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động; nếu có tình tiết nghiêm trọng sẽ bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm [29, Điều 191]. So sánh với quy định tại Điều 251 BLHS Việt Nam năm 1999, có thể thấy điểm giống và khác nhau giữa hai Bộ luật nhƣ sau: * Điểm giống nhau - Về mặt chủ quan: qua cụm từ “biết rõ” xác định lỗi của ngƣời phạm tội là lỗi cố ý tƣơng tự nhƣ quy định trong BLHS Việt Nam. - Về hình phạt: các bộ luật đều quy định hình phạt tù có thời hạn là hình phạt chính và phạt tiền là hình phạt bổ sung. Ngoài ra, cả hai bộ luật đều phân loại mức hình phạt theo tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội; trƣờng hợp không có tình tiết nghiêm trọng và trƣờng hợp có tình tiết nghiêm trọng thì khung hình phạt là khác nhau chứ không quy định một khung nhƣ pháp luật hình sự một số nƣớc khác. * Điểm khác nhau - Về khách thể: tội rửa tiền theo pháp luật Trung Quốc đƣợc xếp vào nhóm tội có khách thể loại là các tội xâm phạm trật tự quản lý tiền tệ hay rộng hơn là các tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa. Cách sắp xếp này phù hợp hơn BLHS Việt Nam năm 1999 vì xuất phát từ bản chất hoạt động rửa tiền trƣớc tiên xâm phạm đến trật tự quản lý tiền tệ, làm đảo lộn và “gây ảnh hƣởng xấu đến an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia”, từ đó mới gián tiếp xâm phạm đến an toàn, trật tự công cộng.
  • 47. 41 - Về chủ thể: theo quy định tại Điều 17 BLHS Trung Quốc thì Ngƣời đủ 16 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngƣời đủ 14 tuổi nhƣng chƣa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết ngƣời hoặc cố ý gây thƣơng tích dẫn đến thƣơng tích nặng hoặc chết ngƣời, hiếp dâm, cƣớp giật, mua bán chất ma túy, đốt nhà, đặt bom, đầu độc. Ngƣời đủ 14 tuổi nhƣng chƣa đủ 18 tuổi đƣợc hƣởng hình phạt giảm nhẹ hoặc giảm khung hình phạt… [29, Điều 17]. Đối chiếu với quy định này thì chủ thể của tội rửa tiền là ngƣời đủ 16 tuổi trở lên. Nếu là ngƣời từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi phạm tội sẽ đƣợc hƣởng hình phạt giảm nhẹ hoặc giảm khung hình phạt. Trong khi theo BLHS Việt Nam năm 1999 thì chủ thể của tội phạm là ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên nếu phạm tội theo khoản 2 và khoản 3, nếu phạm tội theo khoản 1 thì là ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên. - Ngoài chủ thể là cá nhân, Điều 191 BLHS Trung Quốc còn quy định chủ thể là pháp nhân. Đây là một điểm đặc biệt so với BLHS Việt Nam vì BLHS Việt Nam năm 1999 không quy định pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rửa tiền. Trong khi đó, trong BLHS Trung Quốc, pháp nhân chịu trách nhiệm hình sự thông qua đồng thời hai cách: pháp nhân bị phạt tiền và ngƣời phụ trách trực tiếp và những ngƣời có liên quan cũng phải chịu trách nhiệm. Mục 4 “chủ thể phạm tội là cơ quan, đơn vị và tổ chức” thuộc chƣơng II Phần chung quy định: Điều 30. Công ty, xí nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, pháp luật coi là đơn vị phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 31. Đơn vị nào phạm tội sẽ bị phạt tiền; ngƣời phụ trách trực tiếp và những ngƣời có trách nhiệm trực tiếp khác của đơn vị cũng phải chịu trách nhiệm… .
  • 48. 42 - Về hành vi khách quan: có bốn nhóm hành vi đƣợc liệt kê cụ thể và một nhóm khái quát. Trong bốn nhóm hành vi này có hành vi tƣơng tự hành vi đƣợc quy định tại Điều 251 BLHS Việt Nam năm 1999 nhƣ “giúp đỡ bằng cách chuyển tài sản thành tiền mặt hoặc ngân phiếu” (tƣơng tự hành vi “tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác…” tại điểm a khoản 1 BLHS năm 1999), những hành vi còn lại khác với quy định của BLHS Việt Nam. Ngoài bốn nhóm hành vi cụ thể, điều luật đã có một quy định rất khái quát là “dùng những biện pháp khác để che đậy, giấu giếm tính chất, nguồn gốc nguồn thu bất hợp pháp”, quy định khái quát này không có trong BLHS Việt Nam năm 1999. - Về phạm vi tội phạm nguồn: so với BLHS Việt Nam, BLHS Trung Quốc có khác biệt nổi bật là quy định giới hạn tội phạm nguồn gồm có: tội phạm ma túy, tội phạm có tổ chức mang tính chất xã hội đen, tội hoạt động khủng bố, tội buôn lậu. Nhƣ vậy quy định tội phạm nguồn của BLHS Trung Quốc vừa căn cứ vào đối tƣợng phạm tội (ma túy, khủng bố, buôn lậu) vừa căn cứ vào tính chất (tội phạm có tổ chức mang tính chất xã hội đen). Nhƣ vậy, qua quy định về tính chất này, nhiều tội phạm khác ngoài tội phạm về ma túy, khủng bố và buôn lậu mà đƣợc thực hiện bởi tổ chức tội phạm mang tính chất xã hội đen cũng trở thành tội phạm nguồn. Nhƣ vậy phạm vi tội phạm nguồn theo quy định của BLHS Trung Quốc thực chất cũng rất rộng, có thể là bất kỳ tội phạm nào ngoài các tội phạm về ma túy, khủng bố và buôn lậu nhƣng đƣợc thực hiện bởi các tổ chức tội phạm mang tính chất xã hội đen. Điều này thể hiện quan điểm của nhà làm luật Trung Quốc coi những hoạt động rửa tiền của cá nhân riêng lẻ nếu không phạm vào ba nhóm tội buôn lậu, ma túy và khủng bố là không cần thiết phải xử lý bằng pháp luật hình sự. BLHS Việt Nam năm 1999 không qui định về danh mục các tội phạm là tội phạm nguồn đối với rửa tiền, do đó, có thể hiểu bất kì tội nào cũng có thể là tội phạm nguồn của rửa tiền.
  • 49. 43 - Về hình phạt: tuy giống nhau là cùng quy định hình phạt chính là tù có thời hạn và hình phạt bổ sung là phạt tiền nhƣng ở mỗi nƣớc quy định mức hình phạt là khác nhau, mức hình phạt ở Trung Quốc thấp hơn ở Việt Nam (mức cao nhất là 10 năm tù), ngoài ra hình phạt chính tù có thời hạn có thể bị thay thế bằng hình phạt cải tạo lao động. Theo quy định tại điều 42 BLHS Trung Quốc thì hình phạt cải tạo lao động có thời hạn từ 1 đến 6 tháng, theo quy định tại Điều 45 thì tù có thời hạn đƣợc quy định từ 6 tháng đến 15 năm. Đối với hình phạt tiền thì mức phạt trong BLHS Trung Quốc tƣơng đối thấp so với Việt Nam: 5% đến 20% số tiền rửa trong khi BLHS Việt Nam năm 1999 quy định là phạt đến ba lần số tiền hoặc giá trị tài sản phạm tội. Các hình phạt áp dụng với cá nhân đƣợc áp dụng nhƣ với pháp nhân (mức hình phạt của cá nhân giống mức hình phạt của ngƣời chịu trách nhiệm trực tiếp và ngƣời chịu trách nhiệm khác…). Ngoài ra, BLHS Việt Nam năm 1999 còn quy định những hình phạt bổ sung khác nhƣ tịch thu tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một đến năm năm còn BLHS Trung Quốc không quy định những hình phạt bổ sung này. 2.1.2. So sánh qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam với qui định của Bộ luật hình sự Thụy Điển về tội rửa tiền BLHS Thụy Điển đƣợc thông qua năm 1962, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1965, đƣợc sửa đổi gần nhất vào ngày 01/5/1999, tại chƣơng 9 “Tội lừa đảo và các tội gian dối khác” ở Điều 6 qui định: Ngƣời nào: 1. Tiếp nhận tài sản do ngƣời khác chiếm đoạt mà có và việc tiếp nhận này đƣợc tiến hành theo cách thức khiến cho việc truy thu tài sản trở nên khó khăn; 2. Thu lời bất chính từ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có; 3. Tạo cơ hội cho ngƣời khác sử dụng, khai thác tài sản bắt nguồn từ tài sản do phạm tội mà có, hoặc giá trị của tài sản đó;
  • 50. 44 4. Giúp đỡ ngƣời khác di chuyển, chuyển nhƣợng hoặc bán tài sản bắt nguồn từ tài sản do phạm tội mà có, hoặc tiến hành biện pháp tƣơng tự, nhằm che giấu nguồn gốc của tài sản; hoặc 5. Theo yêu cầu của ngƣời khác, chuyển hoặc tiến hành biện pháp tƣơng tự xác nhận quyền đối với tài sản do phạm tội mà có; Thì bị phạt tù đến hai năm về tội nhận tài sản do phạm tội mà có. Ngƣời nào trong hoạt động kinh doanh hoặc một phần của hoạt động kinh doanh đƣợc tiến hành thƣờng xuyên hoặc trên quy mô lớn, nhận tài sản mà có thể giả định một cách hợp lý là do ngƣời khác phạm tội chiếm đoạt tài sản mà có, và việc tiếp nhận đó đƣợc tiến hành theo cách thức khiến cho việc thu hồi tài sản trở nên khó khăn thì cũng bị xử phạt tƣơng tự nhƣ phạm tội nhận tài sản do phạm tội mà có. Phạm tội quy định tại đoạn 1 và đoạn 2 của Điều này trong trƣờng hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ sáu tháng đến sáu năm [37]. Điều 7. Nếu hành vi phạm tội quy định tại Điều 6 đƣợc coi là ít nghiêm trọng thì ngƣời phạm tội sẽ bị phạt tù đến sáu tháng hoặc phạt tiền về tội nhận tài sản do phạm tội mà có trong trƣờng hợp ít nghiêm trọng. Ngƣời phạm tội thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây thì cũng bị áp dụng hình phạt đối với tội nhận tài sản do phạm tội mà có trong trƣờng hợp ít nghiêm trọng: 1. Ngƣời nhận tài sản có cơ sở hợp lý để cho rằng do ngƣời khác phạm tội chiếm đoạt mà có và việc tiếp nhận đƣợc tiến hành theo cách thức khiến cho việc thu hồi tài sản đó trở nên khó khăn, trừ trƣờng hợp quy định tại đoạn 2 Điều 6. 2. Trong trƣờng hợp quy định tại đoạn 1 Điều 6 nhƣng không
  • 51. 45 nhận thức đƣợc, mặc dù có cơ sở hợp lý để cho rằng tài sản đó có liên quan đến tội phạm; hoặc 3. Theo cách thức quy định tại điểm 1, đoạn 1 của Điều 6, tham gia thực hiện tội phạm chiếm đoạt tài sản và không nhận thức đƣợc, mặc dù có cơ sở hợp lý để cho rằng tội phạm đã đƣợc thực hiện [37]. Nghiên cứu các quy định khác của BLHS Thụy Điển có thể rút ra những điểm giống và khác của BLHS Thụy Điển và BLHS Việt Nam năm 1999 nhƣ sau: * Điểm giống nhau Các Bộ luật đều không có quy định về tội phạm nguồn. Điều này đƣợc hiểu là bất kỳ tội phạm nào mà tiền thu đƣợc bất hợp pháp từ tội phạm đó đều là tội phạm nguồn của rửa tiền. * Điểm khác nhau - Về khách thể: Trong BLHS Thụy Điển, Điều 6 và Điều 7 đƣợc xếp vào chƣơng tội lừa đảo và các tội gian dối khác. Có thể thấy nhà làm luật Thụy Điển đã không đánh giá khách thể của tội phạm giống nhà làm luật Việt Nam là đánh giá theo quan hệ xã hội bị xâm hại mà đánh giá theo bản chất hành vi của ngƣời phạm tội. Do bản chất của tội phạm rửa tiền là dùng các thủ đoạn để xóa giấu vết, che đậy nguồn gốc của tiền bẩn, biến tiền bẩn thành tiền sạch nên thực chất đây là hoạt động gian dối. Có thể thấy cách nhìn nhận, đánh giá và sắp xếp của nhà làm luật Thụy Điển trực diện nhƣng cũng nhẹ nhàng hơn cách đánh giá của nhà làm luật Việt Nam. Về đối tượng tác động: BLHS Thụy Điển chỉ dùng khái niệm “tài sản” cho vấn đề này, cách diễn đạt này bao quát mọi giá trị vật chất mà tội phạm nguồn và tội phạm rửa tiền tác động vào. Trong khi đó, BLHS Việt Nam năm 1999 dùng khái niệm “tiền, tài sản”. Cách sử dụng thuật ngữ của BLHS Việt Nam vẫn còn chƣa chuẩn xác vì khái niệm tài sản đã bao hàm trong đó cả tiền
  • 52. 46 (theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật phòng, chống rửa tiền Việt Nam và quy định tại Công ƣớc của Liên hợp quốc). - Về chủ thể: theo quy định tại Điều 6 Chƣơng I BLHS Thụy Điển thì “không áp dụng chế tài đối với ngƣời phạm tội khi chƣa đủ 15 tuổi”. Nhƣ vậy, chủ thể của tội rửa tiền trong BLHS Thụy Điển khác so với BLHS Việt Nam. Nếu nhƣ chủ thể của tội rửa tiền trong BLHS Việt Nam năm 1999 chia làm hai loại: ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên đến dƣới 16 tuổi và ngƣời đủ 16 tuổi trở lên thì BLHS Thụy Điển xác định chủ thể là ngƣời đủ 15 tuổi trở lên. Trong khi đó, BLHS Việt Nam năm 1999 vẫn buộc ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên chịu trách nhiệm hình sự về hành vi rửa tiền của mình nếu phạm vào khoản 2 và khoản 3 Điều 251 BLHS (là tội rất nghiêm trọng). Điều này thể hiện chính sách cứng rắn của nhà làm BLHS Việt Nam năm 1999 khi buộc những ngƣời trẻ phải chịu trách nhiệm cho hành động vi phạm pháp luật hình sự gây nguy hại rất lớn cho xã hội của mình. - Về mặt chủ quan, điểm khác biệt cần lƣu ý của BLHS Thụy Điển so với BLHS Việt Nam là trạng thái lỗi vô ý cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Trong khi BLHS Việt Nam nhấn mạnh yếu tố nhận thức “biết rõ là tiền, tài sản do phạm tội mà có” và “nhằm mục đích che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản” để xác định lỗi của ngƣời phạm tội phải là lỗi cố ý thì trong BLHS Thụy Điển, yếu tố lỗi gồm cả trạng thái cố ý và vô ý. Nếu nhƣ ở Điều 6, nhà làm luật không nhắc đến trạng thái lỗi nhƣng căn cứ vào mô tả hành vi và quy định tại Điều 2 Chƣơng 1 “trừ khi có quy định khác, hành vi chỉ bị coi là tội phạm nếu đƣợc thực hiện một cách cố ý” và cách sử dụng cụm từ “tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có” mà không đề cập đến trạng thái nhận thức của ngƣời phạm tội, ngoài ra tại khoản 1 Điều 6 có thêm quy định “việc tiếp nhận này đƣợc tiến hành theo cách thức khiến cho việc truy thu tài sản trở nên khó khăn”, khoản 4 Điều 6 “nhằm che giấu nguồn gốc của tài sản”
  • 53. 47 và đặt trong mối tƣơng quan với cách diễn đạt tại câu 2 Điều 6 và Điều 7 (trong hai câu này, nhà làm luật luôn nêu rõ cụm từ “có thể giả định một cách hợp lý/có cơ sở hợp lý để cho rằng ngƣời khác phạm tội chiếm đoạt mà có”) thì có thể hiểu ở đây hành vi phạm tội đƣợc xác định với lỗi cố ý. Trong khi đó, tại Điều 7 về các trƣờng hợp ít nghiêm trọng, yếu tố lỗi vô ý đƣợc xác định. Ngoài trƣờng hợp tại khoản 1 Điều 7 khi ngƣời phạm tội không biết rõ ràng, chính xác mà chỉ “có cơ sở hợp lý” để cho rằng tài sản do ngƣời khác phạm tội chiếm đoạt mà có, nhƣng hành vi tiếp nhận lại đƣợc “tiến hành theo cách thức khiến cho việc thu hồi tài sản trở nên khó khăn” (tƣơng tự nhƣ quy định tại câu 2 Điều 6) thực chất đây là một dạng lỗi cố ý nhƣng ở mức thấp hơn so với cố ý thông thƣờng khi ngƣời phạm tội biết chắc chắn tài sản là bất hợp pháp. Còn lại, trạng thái lỗi vô ý đƣợc thể hiện đậm nét trong khoản 2 Điều 7, với cụm từ “không nhận thức đƣợc, mặc dù có cơ sở hợp lý để cho rằng tài sản đó có liên quan đến tội phạm” và “tham gia thực hiện tội phạm và không nhận thức đƣợc, mặc dù có cơ sở hợp lý để cho rằng tội phạm đã đƣợc thực hiện”. Trạng thái lỗi này tƣơng tự nhƣ trạng thái lỗi vô ý do cẩu thả đƣợc quy định tại khoản 2 Điều 10 BLHS Việt Nam 1999. Ngƣời phạm tội không nhận thức đƣợc rằng tài sản đang tiếp cận là tài sản bất hợp pháp mặc dù có thể biết. - Về mặt khách quan, BLHS Thụy Điển quy định 6 hành vi khác nhau đối với tội rửa tiền. So với quy định tại BLHS Việt Nam năm 1999, quy định tại Điều 6 BLHS Thụy Điển bao gồm cả hành vi chứa chấp và tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có, đó là các hành vi tiếp nhận, giúp đỡ ngƣời khác, điều chuyển, chuyển nhƣợng hoặc bán tài sản bắt nguồn từ tài sản do phạm tội mà có… Nhƣ vậy, nhà làm luật Thụy Điển đã đánh giá hành vi chứa chấp, tiêu thụ có bản chất là hành vi rửa tiền bởi chúng đều nhằm xóa dấu vết của hành vi phạm tội nguồn, hƣớng đến mục tiêu sở hữu tài sản bất hợp pháp
  • 54. 48 của tội phạm. Trong khi đó, BLHS năm 1999 lại qui định chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có là tội danh độc lập và không thuộc về tội rửa tiền - Về hình phạt: mức hình phạt mà BLHS Thụy Điển áp dụng tƣơng đối nhẹ so với hình phạt về tội rửa tiền trong BLHS Việt Nam năm 1999. Trong trƣờng hợp bình thƣờng hình phạt là đến hai năm tù còn trƣờng hợp nghiêm trọng là từ sáu tháng đến sáu năm tù. Trƣờng hợp ít nghiêm trọng hình phạt là tù đến sáu tháng hoặc phạt tiền. Khác với BLHS Việt Nam năm 1999, BLHS Thụy Điển áp dụng phạt tiền là hình phạt chính trong trƣờng hợp không áp dụng hình phạt tù. Đây là điểm khác biệt thể hiện tƣ duy linh động của nhà làm luật trong việc xử lý tội phạm. BLHS Việt Nam năm 1999 quy định phạt tiền là hình phạt bổ sung, còn BLHS Thụy Điển quy định phạt tiền có thể đƣợc áp dụng là hình phạt chính trong trƣờng hợp ít nghiêm trọng. 2.2. So sánh quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 với quy định của pháp luật hình sự Mỹ và Canada (thuộc hệ thống án lệ) về tội rửa tiền 2.2.1. So sánh quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 với quy định của pháp luật hình sự Mỹ về tội rửa tiền Luật kiểm soát rửa tiền năm 1986 quy định 3 tội danh mới trong BLHS Mỹ là: cố ý giúp đỡ rửa những khoản tiền từ các hoạt động phạm pháp; cố ý thực hiện giao dịch lớn hơn mức 10.000 USD có đƣợc từ các hoạt động phạm pháp trong một ngày; cố ý tiến hành những giao dịch nhằm tránh những quy định của Luật bảo mật ngân hàng (BSA). Tại Điều (1) (A) (1) ở đoạn 1956, 1957: Ngƣời nào biết rằng các tài sản thu đƣợc từ các hoạt động trái pháp luật; tham gia vào một giao dịch tài chính, thực hiện hoặc cố gắng tiến hành một giao dịch tài chính liên quan đến số tiền thu đƣợc từ hoạt động trái pháp luật; biết rằng các giao dịch đƣợc thiết
  • 55. 49 lập toàn bộ hoặc một phần nhằm che giấu hoặc ngụy trang bản chất, vị trí, nguồn, quyền sở hữu, hoặc sự kiểm soát của số tiền thu đƣợc từ hoạt động trái pháp luật thì bị phạt tiền không quá 500.000 USD hoặc hai lần giá trị của tài sản liên quan đến giao dịch, hoặc phạt tù trên 20 năm hoặc cả hai [25]. Điều (2) quy định: Ngƣời nào vận chuyển, cố gắng để vận chuyển, chuyển giao tiền từ một địa điểm ở Mỹ hoặc thông qua một địa điểm ngoài lãnh thổ Mỹ đến một địa điểm ở Mỹ hoặc thông qua một địa điểm ngoài lãnh thổ Mỹ (A) với mục đích thúc đẩy các hoạt động trái pháp luật; (B) biết rằng tiền tham gia vào quá trình vận chuyển, chuyển giao là tiền thu đƣợc từ các hoạt động trái pháp luật và biết những giao dịch vận chuyển, hoặc chuyển giao đƣợc thiết kế toàn bộ hoặc một phần (i) để che giấu hoặc ngụy trang bản chất, vị trí, nguồn, quyền sở hữu, hoặc sự kiểm soát của số tiền thu đƣợc từ hoạt động trái pháp luật; (ii) để tránh một yêu cầu báo cáo giao dịch theo pháp luật bang hoặc liên bang, thì bị phạt tiền không quá 500.000 USD hoặc hai lần giá trị của số tiền tham gia trong việc vận chuyển, chuyển giao hoặc phạt tù không quá hai mƣơi năm, hoặc cả hai [25]. So sánh với quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 về tội rửa tiền, có thể rút ra những điểm giống và khác nhau giữa BLHS Việt Nam năm 1999 và pháp luật hình sự Mỹ về tội rửa tiền nhƣ sau: * Điểm giống nhau: - Về mặt chủ quan: các quy định trong BLHS hai nƣớc đều thể hiện ngƣời phạm tội với lỗi cố ý khi ngƣời đó biết nguồn gốc của tiền, tài sản thu đƣợc từ hoạt động trái pháp luật và mục đích của hành vi mà mình đang thực hiện là che giấu hoặc ngụy trang bản chất, vị trí, nguồn, quyền sở hữu, hoặc sự kiểm soát của số tiền đó.
  • 56. 50 - Về chủ thể của tội phạm: nhƣ đã phân tích ở chƣơng I thì quy định này tại Điều 251 BLHS Việt Nam năm 1999 chƣa rõ ràng, còn gây tranh cãi là chủ thể có bao gồm cả ngƣời đã thực hiện tội phạm nguồn hay chỉ bao gồm ngƣời thực hiện hành vi rửa tiền nhƣng đến BLHS Việt Nam 2015, chủ thể đã đƣợc xác định gồm cả ngƣời thực hiện và ngƣời không thực hiện tội phạm nguồn. Đối với pháp luật Mỹ, cần xem xét Điều 2 (6) quy định mẫu của các quốc gia châu Mỹ về chống rửa tiền: “Tội (rửa tiền) đƣợc quy định trong điều luật này phải đƣợc phát hiện, điều tra và truy tố, xét xử bởi Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền nhƣ một tội phạm độc lập với các tội phạm khác”. Nhƣ vậy, hành vi rửa tiền không nằm trong chuỗi hành vi thực hiện tội phạm nguồn mà đƣợc xem xét trong một cấu thành tội phạm mới, hoàn toàn độc lập với bất kỳ hành vi phạm tội nào khác kể cả tội phạm nguồn. Dẫn chiếu đến tội rửa tiền trong pháp luật hình sự Mỹ, việc sử dụng các cụm từ “ngƣời nào”, “biết rằng” đã thể hiện chủ thể gồm hai loại đối tƣợng, phù hợp với quy định mẫu nêu trên. * Điểm khác nhau - Về hành vi khách quan: nếu nhƣ BLHS Việt Nam năm 1999 quy định các hành vi thuộc nhóm chứa chấp, tiêu thụ tài sản thuộc tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có thì trong Luật kiểm soát rửa tiền Mỹ, các hành vi thuộc về quá trình thực hiện các hành vi chứa chấp, tiêu thụ (nhƣ vận chuyển, chuyển giao, thực hiện giao dịch…) đƣợc quy định là hành vi phạm tội rửa tiền và bị trừng trị rất nặng. Ngoài ra, pháp luật hình sự Mỹ quy định những nhóm hành vi cụ thể, chi tiết và rõ ràng, trong đó có nhóm hành vi giống BLHS Việt Nam năm 1999 qui định nhƣ tham gia thực hiện giao dịch tài chính nhằm che giấu nguồn gốc trái pháp luật của tiền, tài sản do phạm tội mà có, đồng thời có những nhóm hành vi khác nhƣ vận chuyển tiền đến các địa điểm trong hoặc ngoài lãnh thổ Mỹ để che giấu nguồn
  • 57. 51 gốc tiền, tài sản hoặc để tránh yêu cầu báo cáo giao dịch theo pháp luật liên bang. Đây là một quy định chi tiết và khác biệt so với BLHS Việt Nam năm 1999 nhƣng lại có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn hoạt động rửa tiền ngay từ đầu. Bởi vì hoạt động vận chuyển, chuyển giao tiền bẩn là một trong những cách thức rửa tiền thô sơ nhƣng rất hiệu quả, đặc biệt khi hoạt động đó nhằm “để tránh một yêu cầu báo cáo giao dịch theo pháp luật bang hoặc liên bang”. Điều này rất quan trọng vì theo bản 40+9 khuyến nghị của FATF thì “báo cáo các giao dịch đáng ngờ và tuân thủ” là các khuyến nghị thuộc nhóm khuyến nghị “B. Các biện pháp đƣợc các định chế tài chính và các loại hình kinh doanh và ngành nghề phi tài chính thực hiện nhằm ngăn ngừa hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố” [7] - nhóm khuyến nghị rất quan trọng nhằm ngăn chặn hoạt động rửa tiền ngay từ đầu, hạn chế quá trình thâm nhập, trà trộn sâu hơn dẫn đến khó phát hiện tiền bẩn hơn. Đồng thời, điều này thể hiện trình độ phát triển cao, có tính tiên phong của pháp luật Mỹ bởi vì FATF là tổ chức đƣợc thành lập vào năm 1989, trong khi đó Luật kiểm soát rửa tiền Mỹ đã ra đời từ năm 1986 và đã đề cập đến hành vi rửa tiền liên quan đến hoạt động báo cáo các giao dịch đáng ngờ. Quy định này chứng tỏ sự hoàn thiện, đầy đủ và chặt chẽ của pháp luật Mỹ bởi vì cùng với pháp luật hình sự, lúc này pháp luật Mỹ đã có cả quy định về phòng chống rửa tiền của các định chế tài chính, liên quan đến hoạt động của cơ quan tình báo tài chính… Ở Việt Nam, yêu cầu báo cáo giao dịch đáng ngờ liên quan đến tội phạm rửa tiền mới chỉ lần đầu xuất hiện trong Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng chống rửa tiền với tƣ cách là một cách thức quan trọng để phòng, chống rửa tiền mà chƣa có một chế tài hình sự nào liên quan đến yêu cầu này. Ngoài ra, Luật kiểm soát rửa tiền Mỹ còn rất chi tiết khi quy định rõ “các giao dịch tài chính liên quan đến số tiền thu đƣợc từ hoạt động trái pháp luật đƣợc thiết lập toàn bộ hoặc một phần nhằm che
  • 58. 52 giấu hoặc ngụy trang bản chất, vị trí, nguồn, quyền sở hữu hoặc sự kiểm soát của số tiền thu đƣợc từ hoạt động trái pháp luật”. Với cách quy định rõ đặc điểm của giao dịch tài chính “đƣợc thiết lập toàn bộ hoặc một phần nhằm…”, pháp luật Mỹ đã tránh đƣợc tình trạng mập mờ có thể dẫn đến lách luật của tội phạm bởi vì quy định này đã bao quát mọi phạm vi giao dịch, không còn loại giao dịch nào để tội phạm có thể sử dụng để tránh bị trừng trị. Đây là một chi tiết nhỏ nhƣng thể hiện sự cẩn trọng, hoàn thiện của pháp luật hình sự Mỹ. - Về hình phạt: mặc dù pháp luật hình sự cả hai nƣớc đều thể hiện sự nghiêm khắc đối với tội phạm rửa tiền nhƣng trong pháp luật hình sự Mỹ, mức độ nghiêm khắc rất cao khi hình phạt là “phạt tiền không quá 500.000 USD hoặc hai lần giá trị của tài sản liên quan đến giao dịch, hoặc phạt tù trên 20 năm hoặc cả hai”. Trong khi hình phạt tù đối với tội rửa tiền theo quy định tại BLHS Việt Nam năm 1999 có mức cao nhất là 15 năm tù. Ngoài ra, nhà làm luật Việt Nam quy định phạt tiền là một trong số các hình phạt bổ sung còn nhà làm luật Mỹ quy định phạt tiền là hình phạt chính đƣợc áp dụng thay thế hoặc áp dụng cùng với hình phạt tù. Quy định này vẫn đảm bảo tính nghiêm khắc nhƣng cũng tạo sự linh động cho Toà án có thể lựa chọn hình phạt phù hợp, đạt lợi ích nhất cho cả Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội trong những hoàn cảnh cụ thể bởi không phải khi nào hình phạt tù cũng đem lại hiệu quả cao nhất. Qua đây, ta thấy pháp luật hình sự Mỹ trừng trị rất nặng tội rửa tiền. Điều này có thể đƣợc lý giải bởi nhà làm luật Mỹ nhận thức rất rõ về hậu quả nghiêm trọng của tội phạm rửa tiền trong bối cảnh đất nƣớc có nền kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển hàng đầu thế giới, thì đồng hành với nó là sự phát triển mạnh mẽ, tinh vi và nghiêm trọng ở mức độ hàng đầu thế giới của tội phạm rửa tiền, đặc biệt là tội phạm rửa tiền có tổ chức. Do đó việc trừng trị nghiêm là rất cần thiết, vừa tƣơng xứng với hành vi phạm tội, vừa có tính giáo dục, ngăn chặn ý định phạm tội từ trong trứng nƣớc.
  • 59. 53 2.2.2. So sánh quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 với quy định của Bộ luật hình sự Canada về tội rửa tiền Phần “Tội phạm” thuộc Phần XII.2 “Tài sản do phạm tội mà có” của BLHS Canada quy định: Hợp pháp hóa tài sản do phạm tội mà có 462.31 (1) Một ngƣời phạm một tội khi sử dụng, chuyển dịch việc chiếm hữu, gửi đi hay giao cho bất kỳ ngƣời hay tới địa điểm nào, vận tải, truyền, sửa đổi, định đoạt hay thông qua cách khác giao dịch theo bất kỳ cách thức hay phƣơng tiện nào đối với bất kỳ tài sản hay bất kỳ lợi ích nào có đƣợc từ bất kỳ tài sản nào với ý đồ che giấu hay chuyển đổi tài sản đó hay lợi ích đó mà biết đƣợc hay tin là tất cả hay một phần của tài sản hay lợi ích đó đã có đƣợc hay có nguồn gốc trực tiếp hay gián tiếp nhƣ là kết quả của: (a) việc phạm tại Canada một tội đƣợc quy định; hoặc (b) một hành động hoặc không hành động ở bất kỳ nơi nào khác mà nếu xảy ra tại Canada sẽ cấu thành một tội đƣợc quy định. Hình phạt (2) Bất kỳ ngƣời nào phạm một tội theo khoản (1) (a) là phạm một tội đại hình và có thể bị tù có thời hạn không quá 10 năm; hoặc (b) là phạm một tội có thể bị trừng phạt theo thủ tục kết án rút gọn. Ngoại lệ (3) Cán bộ trật tự hay ngƣời hành động theo chỉ đạo của cán bộ trật tự không phạm một tội theo khoản (1) nếu cán bộ trật tự huy động ngƣời này làm bất kỳ việc gì quy định tại khoản đó phục vụ cho cuộc điều tra hay theo cách khác là thực hiện các nhiệm vụ của cán bộ trật tự [4].
  • 60. 54 * Điểm giống nhau - Vấn đề tội phạm nguồn: quy định “việc phạm tại Canada một tội đƣợc quy định…” cho thấy theo qui định của BLHS Canada, tội phạm nguồn có thể là bất kì tội nào. BLHS Canada và BLHS Việt Nam năm 1999 đều quy định tội phạm nguồn là bất kỳ một tội phạm nào đã đƣợc quy định trong BLHS. BLHS Việt Nam năm 1999 tuy không nêu rõ nhƣ Canada về vấn đề này nhƣng trong luật chỉ xuất hiện cụm từ “tiền, tài sản do phạm tội mà có” mà không có quy định khác bổ sung, giải thích cho cụm từ này do đó cũng có thể hiểu là khi một ngƣời đã phạm bất kỳ một tội nào khác mà muốn “rửa” số tiền, tài sản thu đƣợc thì tội phạm bất kỳ đó đều là tội phạm nguồn của tội rửa tiền. - Về mặt chủ quan: Lỗi đƣợc xác định là dạng lỗi cố ý. Trong BLHS Canada ngƣời phạm tội có “ý đồ che giấu hay chuyển đổi tài sản đó hay lợi ích đó mà biết đƣợc hay tin là tất cả hay một phần của tài sản hay lợi ích đó đã có đƣợc hay có nguồn gốc trực tiếp hay gián tiếp nhƣ là kết quả của việc phạm tại Canada một tội đƣợc quy định…”. Cụm từ “biết đƣợc” xuất hiện ở đây cũng có nghĩa khá tƣơng đồng với cụm từ “biết rõ” trong BLHS Việt Nam năm 1999. Mặc dù cấp độ diễn tả khác nhau nhƣng từ “biết” phản ánh nhận thức rõ ràng của ngƣời phạm tội về nguồn gốc tài sản là bất hợp pháp nhƣng vẫn thực hiện những hành vi trái pháp luật tác động lên tài sản đó. Đối với trƣờng hợp “tin là”, nhận thức về tài sản thông qua sự tiếp nhận và xử lý các thông tin phản ánh về tài sản, qua đó ngƣời phạm tội có cơ sở tin rằng đây là tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp, chứ không biết rõ ràng, chính xác. Mặc dù chỉ là sự đánh giá mang tính chủ quan của ngƣời phạm tội về tài sản nhƣng sau đó ngƣời phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội thì điều đó phản ánh ngƣời phạm tội đã cố ý phạm tội. Do đó trong cả hai trƣờng hợp này lỗi của ngƣời phạm tội đều là lỗi cố ý. - Về hình phạt: hình phạt đƣợc quy định đều là phạt tù có thời hạn. Đây
  • 61. 55 là hình phạt chính trong BLHS Việt Nam năm 1999 và là hình phạt duy nhất trong BLHS Canada. Nó thể hiện quan điểm cứng rắn của nhà làm luật Canada trong việc xử lý tội phạm là áp dụng hình thức tƣớc tự do có thời hạn đối với ngƣời phạm tội. * Điểm khác nhau - Về chủ thể: căn cứ vào hai từ “biết đƣợc” và “tin là” trong quy định của BLHS Canada, có thể thấy chủ thể của tội hợp pháp hóa tài sản do phạm tội mà có không phải là ngƣời đã thực hiện tội phạm nguồn. Nếu nhƣ theo BLHS Việt Nam năm 1999 vấn đề này gây tranh cãi theo hai quan điểm khác nhau là do từ “biết rõ” phản ánh nhận thức của cả ngƣời thực hiện và ngƣời không thực hiện tội phạm nguồn. Nhƣng với từ “biết đƣợc” thì chỉ dạng tiếp nhận thông tin về một vấn đề nào đó không phải do bản thân thực hiện, với từ “tin là” còn thể hiện điều này rõ nét hơn. Do đó, có thể thấy chủ thể của tội rửa tiền theo quy định của BLHS Canada là ngƣời không thực hiện tội phạm nguồn. - Về hành vi khách quan: mục 462.31 của BLHS Canada dẫn ra một loạt hành vi cụ thể nhƣ “sử dụng, chuyển dịch việc chiếm hữu, gửi đi hay giao cho bất kỳ ngƣời hay tới địa điểm nào, vận tải, truyền, sửa đổi, định đoạt”. Đây là những dạng hành vi xuất hiện cả trong tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có theo quy định tại BLHS Việt Nam năm 1999. Do đó có thể thấy tội hợp pháp hóa tài sản do phạm tội mà có trong BLHS Canada là tổng thể của cả tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có và tội rửa tiền của BLHS Việt Nam năm 1999. Tuy nhiên, không dừng ở việc mô tả một loạt hành vi cụ thể, sự hoàn thiện của BLHS Canada thể hiện ở chỗ đã mô tả dạng khái quát nhất bao trùm tất cả mọi hành vi rửa tiền nhằm tránh bỏ lọt tội phạm, đó là “…hay thông qua cách khác giao dịch theo bất kỳ cách thức hay phƣơng tiện nào đối với bất kỳ tài sản hay bất kỳ lợi
  • 62. 56 ích nào có đƣợc từ bất kỳ tài sản nào với ý đồ che giấu hay chuyển đổi tài sản đó hay lợi ích đó”. Nhƣ vậy, cụm từ “bất kỳ” đã thay thế cho việc diễn giải các hành vi khác liên quan đến việc rửa tiền, quá trình áp dụng pháp luật sẽ không bị cản trở bởi cái gọi là “chƣa có quy định về vấn đề này trong luật” là vấn đề mà nhiều nƣớc gặp phải. Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, khoa học kỹ thuật, tội phạm rửa tiền sẽ luôn tìm những cách thức mới để thực hiện do đó hạn chế của phƣơng pháp liệt kê hành vi trong điều luật là rất thực tế. Bằng cách quy định chung nhƣ vậy, nhà làm luật Canada đã loại bỏ hoàn toàn trở ngại này, đảm bảo mọi tội phạm có tính chất rửa tiền, hợp pháp hóa tài sản do phạm tội mà có đều bị xử lý. - Về tội phạm nguồn: bên cạnh điểm giống nhau là không giới hạn tội phạm nguồn, BLHS Canada có điểm khác BLHS Việt Nam về quy định tội phạm nguồn và đây cũng là điểm tiến bộ của BLHS Canada. Đó là ngoài quy định tại điểm “(a) việc phạm tại Canada một tội đƣợc quy định” còn có phần “hoặc (b) một hành động hoặc không hành động ở bất kỳ nơi nào khác mà nếu xảy ra tại Canada sẽ cấu thành một tội đƣợc quy định”. Quy định tai mục (b) đã cho thấy thêm một kỹ thuật lập pháp tiến bộ nữa của Canada khi bao hàm đƣợc cả tội phạm nguồn xảy ra bên ngoài lãnh thổ Canada. Xuất phát từ đặc điểm của tội phạm rửa tiền trong nhiều trƣờng hợp mang tính quốc tế nhƣ khi tội phạm nguồn xảy ra ở một nƣớc còn tội phạm rửa tiền lại xảy ra ở một hoặc nhiều nƣớc khác. Với quy định này của BLHS Canada, hành vi phạm tội nguồn bao gồm cả trƣờng hợp xảy ra ở nƣớc ngoài nhƣng đối chiếu với quy định trong BLHS Canada thì hành vi phạm tội đó đã cấu thành một tội phạm cụ thể. Nhƣ vậy, bất kỳ hành vi nào thực hiện ở nƣớc ngoài mà đối chiếu với BLHS Canada đã cấu thành một tội cụ thể thì hành vi rửa những khoản tài sản thu đƣợc từ việc thực hiện hành vi ở nƣớc ngoài đó sẽ bị Canada xử lý hình
  • 63. 57 sự. Đây là một quy định hết sức chặt chẽ và đầy đủ trong pháp luật hình sự Canada, phù hợp với khuyến nghị 1 của bản 40+9 khuyến nghị của FATF: Các tội phạm nguồn của tội rửa tiền cần bao trùm cả hành vi xảy ra tại một quốc gia khác, mà hành vi đó cấu thành tội phạm tại quốc gia đó, đồng thời nó cấu thành tội phạm tiền thân nếu nó xảy ra trong nƣớc. Các quốc gia có thể quy định điều kiện tiên quyết duy nhất là hành vi này sẽ cấu thành một tội phạm nguồn nếu nó xảy ra trong nƣớc [3]. - Ngoài hai khác biệt nêu trên, Điều 462.31 BLHS Canada còn dành mục (3) để quy định về trƣờng hợp không phạm tội của cán bộ trật tự hay ngƣời hành động theo chỉ đạo của cán bộ. Quy định này cũng thể hiện tính toàn diện của BLHS Canada, loại trừ trách nhiệm hình sự trong trƣờng hợp thi hành công vụ. Điều này xuất phát từ đặc điểm của tội phạm rửa tiền, để phát hiện ra hành vi phạm tội, ngƣời làm công vụ có thể phải dùng các biện pháp nghiệp vụ nhƣ gián điệp, tình báo, đóng giả là ngƣời cùng tổ chức phạm tội rửa tiền và thực hiện các hành vi rửa tiền mà pháp luật quy định là hành vi phạm tội để phát hiện, bắt giữ tội phạm. - Về đối tượng tác động của tội phạm, nhà làm luật Canada không gọi tên là tiền, tài sản nhƣ BLHS Việt Nam mà dùng cách gọi là “tài sản” và “lợi ích có đƣợc từ bất kỳ tài sản nào”. Cách gọi này cũng bao trùm toàn bộ các giá trị vật chất liên quan đến tội phạm rửa tiền, phù hợp với quy định của Công ƣớc Viên [5]. - Về hình phạt: BLHS Canada không phân chia tội hợp pháp hóa tài sản do phạm tội mà có thành các trƣờng hợp nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng mà quy định chung “(a) là phạm một tội đại hình và có thể bị tù có thời hạn không quá 10 năm; hoặc (b) là phạm một tội có thể bị trừng phạt theo thủ tục kết án rút gọn”. Nhƣ vậy, tùy theo đánh giá của Tòa án mà khi xét xử sẽ
  • 64. 58 áp dụng cho phù hợp trong khung hình phạt của tội phạm này là từ 10 năm tù trở xuống hoặc phải chịu hình phạt theo thủ tục kết án rút gọn. Theo cách đánh giá của nhà làm luật Canada thì đây là một tội “đại hình” tức là tội nguy hiểm và mức hình phạt đến 10 năm tù là mức phạt khá cao thể hiện tính nghiêm khắc của nhà làm luật Canada về vấn đề này.
  • 65. 59 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 So sánh quy định của BLHS Việt Nam về tội rửa tiền với quy định của BLHS của một số nƣớc để thấy những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa các nƣớc, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật trong nƣớc là việc làm cần thiết trong quá trình nghiên cứu khoa học về tội phạm này. Không giống nhƣ nhiều tội phạm khác, tội phạm rửa tiền thƣờng có xu hƣớng quốc tế hóa do đó sự tƣơng thích, hài hòa giữa pháp luật các nƣớc là rất cần thiết, tạo điều kiện cho công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm này đạt hiệu quả cao. Qua chƣơng 2, tác giả đã trình bày những điểm giống và khác biệt của quy định về tội rửa tiền (với những tên gọi khác nhau) trong BLHS của các nƣớc thuộc hệ thống luật thành văn là Trung Quốc, Thụy Điển và các nƣớc thuộc hệ thống án lệ là Mỹ và Canada so với quy định về tội rửa tiền trong BLHS Việt Nam năm 1999. Qua đó, thấy rằng mỗi nƣớc đều có những điểm khác biệt nổi trội mà chúng ta cần lƣu ý để xem xét và học tập nếu phù hợp. Ở BLHS Trung Quốc là cách sắp xếp nhóm khách thể loại, cách thiết lập quy định mô tả hành vi rửa tiền ở dạng khái quát nhất để có thể bao quát mọi hành vi phạm tội, tránh bỏ lọt tội phạm, quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội rửa tiền; ở BLHS Thụy Điển là quy định trƣờng hợp phạm tội với lỗi vô ý; ở BLHS Mỹ là quy định hình phạt tiền có thể thay thế hình phạt tù; ở BLHS Canada là quy định về trƣờng hợp tội phạm nguồn xảy ra ở nƣớc ngoài; ở BLHS Mỹ và Canada, rửa tiền bao gồm cả hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có. Cùng với những phân tích về các điểm còn hạn chế trong quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 và BLHS năm 2015 đã đƣợc trình bày trong chƣơng I, những kinh nghiệm từ việc so sánh này sẽ là bài học bổ ích và cần thiết mà chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm để sửa đổi, bổ sung vào quy định về tội rửa tiền của BLHS Việt Nam, nhằm tiến tới xây dựng một cấu thành tội phạm hoàn chỉnh cho tội rửa tiền ở Việt Nam, góp phần đƣa công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này đạt hiệu quả cao nhất.
  • 66. 60 Chương 3 PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀN 3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc cần thiết hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tội rửa tiền Trên thực tế, tội phạm luôn cần rửa những đồng tiền “dơ bẩn” từ những hoạt động phi pháp của chúng để che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của số tiền đó. Cùng với sự phát triển vƣợt bậc của khoa học kỹ thuật và kinh tế thế giới hiện nay, tội phạm rửa tiền cũng đang trở thành vấn nạn toàn cầu.“Ước tính mỗi năm bọn tội phạm rửa tiền từ 500 - 1.000.000.000.000 USD trên toàn thế giới, gây ra những tác hại khôn lường đối với kinh tế, xã hội và cả an ninh toàn cầu” [43]. Không chỉ phát triển về quy mô, các thủ đoạn rửa tiền cũng ngày một phong phú, tinh vi, khó phát hiện hơn. Chính vì vậy, việc hoàn thiện các quy định về tội phạm rửa tiền để đƣa chúng trở thành công cụ đấu tranh phòng chống tội phạm hữu hiệu đã trở thành yêu cầu cấp thiết, đặc biệt là với những nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam. Để thực hiện đƣợc điều đó chúng ta phải xuất phát từ những cơ sở sau: 3.1.1. Cơ sở lý luận Triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thƣợng tầng trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thƣợng tầng, thể hiện ở chỗ cơ sở hạ tầng nào thì sinh ra kiến trúc thƣợng tầng ấy. Tất cả những hiện tƣợng kiến trúc thƣợng tầng nhƣ nhà nƣớc, pháp luật, Đảng phái, triết học, đạo đức… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Khi cơ sở hạ tầng có biến đổi thì sớm hay muộn cũng dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thƣợng tầng. Sự biến đổi này diễn ra ngay trong từng hình thái kinh tế - xã
  • 67. 61 hội. Tuy nhiên, mặc dù cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thƣợng tầng, kiến trúc thƣợng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng nhƣng đó không phải là sự phù hợp giản đơn, máy móc. Toàn bộ kiến trúc thƣợng tầng cũng nhƣ những yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tƣơng đối trong quá trình vận động phát triển và tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng. Nằm trong kiến trúc thƣợng tầng, pháp luật chịu sự quyết định căn bản của đời sống kinh tế xã hội. Nền kinh tế nào thì sản sinh ra hệ thống các quy phạm pháp luật tƣơng ứng với nền kinh tế đó. Ngƣợc lại, pháp luật có vai trò tác động trở lại đối với nền kinh tế xã hội. Nếu các quy phạm pháp luật lỗi thời, chậm đổi mới thì sẽ là rào cản kìm hãm sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội. Đối chiếu với vấn đề tội phạm rửa tiền hiện nay ta thấy đã xuất hiện những vấn đề mới của đời sống kinh tế xã hội nhƣ xuất hiện những phƣơng thức, thủ đoạn rửa tiền mới chƣa đƣợc quy định trong BLHS Việt Nam, vấn đề pháp nhân rửa tiền… đòi hỏi quy định về tội phạm rửa tiền phải có những chuyển biến phù hợp để thể hiện vai trò tích cực của nó trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam. Mặt khác, trong quá trình hội nhập hiện nay, hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng cần tƣơng thích với hệ thống pháp luật thế giới. Do tính chất nghiêm trọng của vấn đề, trƣớc xu thế phát triển không ngừng cả về thủ đoạn, phạm vi, quy mô và tính chất của tội phạm rửa tiền, sự thống nhất giữa các quy định về chống rửa tiền trên bình diện quốc gia và quốc tế là một trong những vấn đề đƣợc nhiều tổ chức quốc tế quan tâm. Liên hợp quốc đã có nhiều văn bản về vấn đề này trong đó đặc biệt quan trọng, khởi xƣớng việc hình sự hóa các hành vi rửa tiền là Công ƣớc Viên. Tuy thuật ngữ “rửa tiền” không đƣợc sử dụng trong Công ƣớc Viên nhƣng nội hàm hành vi tẩy rửa những khoản thu đƣợc từ tội phạm ma túy đƣợc miêu tả đầy đủ trong mục b, c khoản 1 Điều 3 của Công ƣớc này. Những năm 90 của thế kỷ XX, một lần nữa ngƣời ta lại nói tới việc cần
  • 68. 62 phải trừng trị những hành vi tẩy rửa các khoản thu đƣợc từ tội phạm trong Điều 6 Công ƣớc Palermo, đồng thời đƣa ra khái niệm “tội phạm nguồn” là tất cả những loại tội phạm nào mang lại nguồn thu và có thể là đối tƣợng của tội phạm nêu tại Điều 6 của Công ƣớc. Nếu nhƣ Công ƣớc Viên có điểm hạn chế là quy định việc cần thiết hình sự hóa các hành vi rửa tiền nhƣng chỉ liên quan đến hành vi buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hƣớng thần thì Công ƣớc Palermo đề cập đến vấn đề tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia trong đó có tội rửa tiền. Công ƣớc bắt buộc mỗi nƣớc thông qua Công ƣớc phải: - Hình sự hóa hành vi rửa tiền và quy định tất cả các tội nghiêm trọng là tội phạm nguồn của tội rửa tiền, bất kể tội phạm đƣợc thực hiện ở trong nƣớc hay ở ngoài nƣớc và cho phép suy đoán về sự cố ý phạm tội từ những tình tiết khách quan; - Xây dựng các biện pháp để phòng ngừa và phát hiện mọi hành vi rửa tiền, kể cả nhận dạng khách hàng, lƣu giữ hồ sơ và báo cáo các giao dịch đáng ngờ; - Trao quyền hợp tác và trao đổi thông tin giữa các cơ quan hành chính, quản lý, thi hành pháp luật và các cơ quan khác, cả ở trong nƣớc và trên phạm vi quốc tế và xem xét việc thành lập một đơn vị tình báo tài chính để thu thập, phân tích và phổ biến thông tin và - Thúc đẩy hợp tác quốc tế. Ngoài ra còn phải kể đến Công ƣớc quốc tế về chống tài trợ cho khủng bố (1999) trong đó đề cập đến mối liên quan mật thiết giữa rửa tiền và tài trợ cho khủng bố, Công ƣớc của Liên hợp quốc về chống tham nhũng tại Điều 14 quy định về các biện pháp chống rửa tiền thông qua việc các quốc gia phải thiết lập chế độ giám sát và điều tiết toàn diện đối với các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, kể cả các thể nhân hay pháp nhân cung cấp dịch
  • 69. 63 vụ chính thức hay không chính thức về chuyển tiền hoặc vật có giá trị nhằm ngăn chặn, phát hiện mọi hình thức rửa tiền… Bên cạnh đó, Công ƣớc cũng đƣa ra những yêu cầu mang tính chất khuyến nghị và tùy nghi cho các quốc gia thành viên xem xét thực hiện các biện pháp khả thi nhằm phát hiện, kiểm soát việc di chuyển tiền và các công cụ có thể chuyển đổi thành tiền qua biên giới nƣớc mình… Trên thực tế, ngoài Liên hợp quốc, hoạt động chống rửa tiền đã liên kết nhiều tổ chức, quốc gia khác nhƣ Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế… Tuy nhiên, bộ máy có tính chuyên môn cao và ràng buộc chặt chẽ là Lực lƣợng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) đƣợc nhóm G7 thành lập tại Pari năm 1989. Đây là tổ chức liên chính phủ chuyên nghiên cứu, đƣa ra những chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. Việc thành lập tổ chức này xuất phát từ ý thức cho rằng cần thiết phải tập hợp các cơ quan chức năng nhƣ Ngân hàng Trung ƣơng, Bộ Tài chính, Công an… để phòng chống rửa tiền hiệu quả, tạo ra những giải pháp và sự phối hợp toàn diện để giải quyết vấn đề phức tạp này. FATF đƣợc coi là bộ máy chống rửa tiền hiệu quả nhất hiện nay bởi liên hệ không chỉ chính phủ sở tại mà còn có nhiều cơ quan chuyên trách chống tội phạm khác ví dụ nhƣ Tổ chức cảnh sát quốc tế Interpol… Nhiệm vụ quan trọng nhất của FATF là giúp các nƣớc thành viên ban hành các quy định về phòng, chống rửa tiền mà mục tiêu cuối cùng là ban hành đƣợc luật chống rửa tiền. FATF đã ban hành 40 khuyến nghị về vấn đề rửa tiền. Sau nhiều lần sửa đổi cho phù hợp với sự phát triển của các phƣơng thức rửa tiền ngày càng tinh vi, đến năm 2001, FATF mở rộng trách nhiệm giải quyết các vấn đề về tài trợ khủng bố và đã xây dựng 8 khuyến nghị đặc biệt chống tài trợ khủng bố. Vào tháng 10/2004, FATF đã thông qua khuyến nghị đặc biệt 9 liên quan đến ngƣời vận chuyển tiền mặt qua biên giới. Khuyến nghị của FATF gồm có:
  • 70. 64 - Các khuyến nghị về khuôn khổ pháp lý: gồm 3 khuyến nghị về phạm vi của tội rửa tiền và các biện pháp tạm thời và xử lý tài sản của ngƣời phạm tội. Theo những khuyến nghị này, các quốc gia trên thế giới phải hình sự hóa hành vi rửa tiền theo các chuẩn mực nêu trong các Công ƣớc Viên và Palermo. Cũng theo đó, các quốc gia cần cân nhắc áp dụng các biện pháp cho phép tịch thu các khoản thu nhập phạm pháp đó mà không cần phải buộc tội hình sự hoặc tịch thu tài sản nếu ngƣời phạm tội không chứng minh đƣợc nguồn gốc hợp pháp của chúng. - Các khuyến nghị về các biện pháp phòng ngừa mà các định chế tài chính và các tổ chức, cá nhân chuyên nghiệp làm dịch vụ tài chính phải áp dụng để ngăn ngừa hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố Có 22 khuyến nghị về các biện pháp mà các định chế tài chính cần phải thực hiện và cơ chế quản lý giám sát tuân thủ. Đó là các khuyến nghị về: các biện pháp nhận biết khách hàng, đánh giá khách hàng, lƣu giữ các số liệu liên quan tới các giao dịch tài chính; các biện pháp trong quan hệ ngân hàng đại lý, quan hệ với các nhân vật có ảnh hƣởng về chính trị; về trách nhiệm báo cáo các giao dịch đáng ngờ; các biện pháp mà các quốc gia cần áp dụng khi các tổ chức, cá nhân trong nƣớc không tuân thủ quy định về phòng chống rửa tiền và đối với các quốc gia không tuân thủ các khuyến nghị của FATF. Ngoài ra, các khuyến nghị của FATF còn đề cập tới tầm quan trọng của công tác quản lý, hƣớng dẫn và giám sát việc thực thi của các định chế tài chính. - Các khuyến nghị về các biện pháp tổ chức và các biện pháp cần thiết khác 9 Khuyến nghị khác của FATF liên quan tới những chuẩn mực pháp lý về mặt tổ chức, các nguyên tắc hoạt động, các chức năng, quyền hạn và những yêu cầu về nguồn lực cho các Cơ quan tình báo tài chính (FIU), cơ quan điều tra, các cơ quan giám sát, thanh tra có thể thực thi tốt trách nhiệm
  • 71. 65 của mình trong công tác phòng chống rửa tiền và đảm bảo có cơ chế hợp tác hiệu quả. Bên cạnh đó, những khuyến nghị này cũng đề cập các biện pháp nhằm ngăn chặn việc sử dụng pháp nhân một cách bất hợp pháp của những đối tƣợng rửa tiền, cần phải đảm bảo có thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời về uỷ thác nhanh, bao gồm cả thông tin về ngƣời uỷ thác, ngƣời đƣợc uỷ thác và ngƣời hƣởng lợi. - Hợp tác quốc tế về chống rửa tiền 6 Khuyến nghị của FATF đề cập tới các vấn đề liên quan tới hợp tác quốc tế nói chung về chống rửa tiền, về hỗ trợ pháp lý và dẫn độ và các hình thức hợp tác quốc tế khác. Khuyến nghị chung là các nƣớc cần tiến hành các bƣớc nhanh chóng trở thành thành viên và thực hiện các điều khoản quy định trong Công ƣớc Viên, Công ƣớc Palermo và Công ƣớc Quốc tế năm 1999 của Liên Hợp Quốc về chống tài trợ khủng bố; khuyến khích thông qua và thực hiện Công ƣớc quốc tế liên quan khác nhƣ Công ƣớc năm 1990 của Hội đồng Châu Âu về tẩy rửa, truy tìm, bắt giữ và tịch thu các khoản thu nhập từ tội phạm và Công ƣớc Liên Mỹ về chống khủng bố năm 2002. 40 khuyến nghị nêu trên đƣợc áp dụng không chỉ đối với hoạt động rửa tiền mà còn đối với hoạt động tài trợ khủng bố và khi kết hợp với 9 khuyến nghị đặc biệt về tài trợ khủng bố, chúng tạo ra một khuôn khổ các biện pháp nhất quán, toàn diện và tối thiểu mà các quốc gia cần thực hiện. Mặc dù các khuyến nghị về luật pháp đƣợc đƣa ra, nhƣng FATF vẫn tiến hành đánh giá việc thực hiện của các nƣớc thành viên qua việc từng nƣớc đã nỗ lực nhƣ thế nào và đã ban hành đƣợc luật mới chƣa. Một chức năng khác của FATF là cung cấp các trợ giúp kỹ thuật cho các tổ chức ngoài nhóm. Theo hƣớng này, FATF đã làm việc với FATF Caribê, Hội đồng châu Âu, Tổ chức những ngƣời giám sát ngân hàng ngoài quốc gia, Hiệp hội châu Á Thái Bình Dƣơng về rửa tiền (APG) và tổ chức của Mỹ. Năm 1997, FATF thành
  • 72. 66 lập Uỷ ban đặc biệt về Trung và Đông Âu để giúp đỡ, phối hợp và trao đổi thông tin giữa Uỷ ban và các nƣớc thuộc khối Trung Âu trƣớc kia và hiện nay đang trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trƣờng. Mặc dù FATF không tham gia trực tiếp vào cuộc chiến chống tội phạm rửa tiền nhƣ các cơ quan, tổ chức khác nhƣ Interpol, Ngân hàng thế giới… và các cơ quan tƣ pháp quốc gia, nhƣng FATF đã có ảnh hƣởng tích cực trong việc tạo ra thêm những quy tắc và luật lệ quốc tế về phòng, chống rửa tiền. Qua việc đánh giá các nƣớc trong việc phòng, chống rửa tiền, FATF đã yêu cầu các nƣớc thành viên không chỉ ban hành hệ thống luật pháp, mà còn phải thực hiện các luật đó một cách nghiêm túc. Hơn nữa, FATF đã tạo ra một diễn đàn hợp tác phòng, chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế và đã thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các hoạt động phối hợp xuyên quốc gia phòng, chống rửa tiền. FATF cũng đã thành công trong việc biên soạn danh sách những nƣớc và những tổ chức khủng bố liên quan đến rửa tiền [36]. Có thể nói, việc thiết lập một hệ thống phòng, chống rửa tiền hoạt động hiệu quả là một công việc rất khó khăn. Tuy nhiên, với hệ thống các cơ sở lý luận đã nêu trên, chúng ta đã có nền tảng để có thể hoàn thiện quy định pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng về chống rửa tiền. Thực tế hiện nay, hệ thống các văn bản về tội phạm rửa tiền ở Việt Nam có rất ít và còn có những quy định chƣa tƣơng thích với quy định về rửa tiền của thế giới. Ngoài các quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 về tội rửa tiền mà sắp tới sẽ đƣợc thay thế bằng BLHS năm 2015, Luật phòng chống rửa tiền số 07/2012/QH13 ngày 18/6/2012, Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền, Thông tƣ liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC, Thông tƣ số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 hƣớng dẫn thực hiện một
  • 73. 67 số quy định về phòng, chống rửa tiền và Thông tƣ số 31/2014/TT-NHNN ngày 11/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tƣ số 35/2013/TT- NHNN ngày 31/12/2013 nêu trên thì hầu nhƣ không còn văn bản quy phạm pháp luật nào khác về tội phạm rửa tiền. Về mặt lý luận cũng có rất ít nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này trong bối cảnh Việt Nam. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật về rửa tiền và hệ thống lý luận bổ trợ về tội danh này là hết sức cần thiết. 3.1.2. Cơ sở thực tiễn Từ năm 1986 khi nƣớc ta chuyển sang cơ chế thị trƣờng, đời sống kinh tế xã hội đã có rất nhiều thay đổi. Kinh tế phát triển mạnh mẽ, đời sống ngƣời dân đƣợc cải thiện, số lƣợng các doanh nghiệp đƣợc thành lập mới gia tăng nhanh chóng, quá trình đầu tƣ của các doanh nghiệp Việt Nam ra nƣớc ngoài và sự xuất hiện của các tập đoàn đa quốc gia trong nền kinh tế Việt Nam ngày càng lớn, lƣợng kiều hối đổ về Việt Nam do ngƣời dân gửi về và các doanh nghiệp nƣớc ngoài đầu tƣ vào Việt Nam ngày càng nhiều, các sự kiện kinh tế lớn nhƣ Việt Nam gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO, hiệp định hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng TTP mở đƣờng cho sự phát triển và hoà nhập sâu rộng hơn của kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới… Tuy nhiên, đi cùng với những thuận lợi trên là những khó khăn không nhỏ, các loại tội phạm nguồn của tội rửa tiền nhƣ mua bán ma túy, tham nhũng, buôn lậu và làm hàng giả, lừa đảo, đánh bạc, mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em gia tăng nhanh chóng về số lƣợng và quy mô, tội phạm xuyên quốc gia phát triển nhanh chóng, trong số kiều hối đổ về Việt Nam có cả kiều hối có nguồn gốc bất hợp pháp liên quan đến rửa tiền, trong số các doanh nghiệp mới thành lập có cả những doanh nghiệp đƣợc thành lập từ nguồn tiền bất hợp pháp, duy trì hoạt động để rửa tiền…, những mánh khóe, thủ đoạn phạm tội mới cũng tinh vi xảo quyệt hơn...
  • 74. 68 Trên thực tế, từ khi có quy định về tội rửa tiền trong BLHS năm 1999 đến nay, số lƣợng các vụ án về tội rửa tiền không nhiều. Một số vụ đã bị phát hiện ở Việt Nam nhƣ: vụ Ngân hàng đầu tƣ và phát triển Việt Nam nhận đƣợc email từ một số doanh nhân Nigieria yêu cầu mở tài khoản 28.000.000 USD, hứa sẽ chi lại 15% tổng số tiền; đầu tháng 10/2008, vụ án rửa tiền xuyên quốc gia đầu tiên ở Việt Nam đã đƣợc phát hiện, xác định rõ nguồn gốc xuất xứ tiền phạm pháp và bắt đƣợc đối tƣợng phạm tội là ngƣời nƣớc ngoài. Bọn tội phạm đánh cắp từ một tài khoản có uy tín tại nƣớc ngoài, chuyển vào Việt Nam tại 2 chi nhánh ngân hàng thƣơng mại tại Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng Tàu số tiền 4.100.000.000 đồng rồi ngay sau đó tìm cách rút ra. Trong vụ án này, đối tƣợng tên Baggio Carlitos Linska (quốc tịch Mozambique), đã bị bắt tạm giữ tại sân bay Tân Sơn Nhất ngày 24/9/2008. Cùng lúc, Phòng An ninh kinh tế (PA17) Công an Đà Nẵng cũng phối hợp với Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bắt tạm giữ khẩn cấp đối với Massamba Lendebe Elvis, quốc tịch Mozambique tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Riêng đối tƣợng Niaty Lokasso Djamba, quốc tịch Congo - kẻ đã mở tài khoản và đƣợc chuyển số tiền trên 3,34 tỷ đồng tại Bà Rịa - Vũng Tàu đã bỏ trốn. Ngoài ra, một số vụ án khác có hành vi có dấu hiệu rửa tiền nhƣng sau đó đều bị truy tố về những tội danh khác nhƣ cho vay nặng lãi (vụ Huỳnh Thị Huyền Nhƣ)… Theo báo cáo kiểm soát ma túy toàn cầu (INSCR) năm 2008 của Mỹ, mạng lƣới buôn lậu cần sa giữa Mỹ và Việt Nam có khả năng rửa hàng chục triệu đôla Mỹ hàng tháng tại Việt Nam, không chỉ thông qua hệ thống ngân hàng chính thức và buôn lậu khối lƣợng tiền mặt lớn, mà còn kéo theo nhiều tổ chức kinh doanh chuyển tiền trên đất Mỹ, mà theo báo cáo, đã chuyển vào Việt Nam khoảng trên 100.000.000 đôla Mỹ hàng năm. Ngƣời ta nghi ngờ rằng phần lớn số tiền trên thu đƣợc từ những hoạt động phạm tội. Các cơ quan thực thi pháp luật ở Úc và Anh cũng cho rằng có sự vận chuyển một khối
  • 75. 69 lƣợng lớn lợi nhuận từ ma túy ngƣợc vào Việt Nam và sau đó lại đƣợc chuyển ra khỏi đất nƣớc này [15, tr.14]. Nhƣ vậy, con số phát hiện và xét xử rất ít nhƣng thực tế, tội phạm rửa tiền ở Việt Nam xảy ra khá phổ biến. Với tình trạng mua bán ma túy bất hợp pháp đáng báo động nhƣ hiện nay, lƣợng tiền cần rửa là vô cùng lớn. Sự gia tăng khối lƣợng ma túy mà tội phạm thực hiện qua mỗi vụ án cho thấy khoản lợi nhuận khổng lồ mà tội phạm ma túy thu đƣợc. Bên cạnh đó, nạn tham nhũng trầm trọng cũng dẫn đến những khoản tiền khổng lồ cần đƣợc xóa dấu vết. Cách thức rửa tiền ở Việt Nam cũng không khác nhiều so với thế giới, chủ yếu là đầu tƣ mua sắm bất động sản trong và ngoài nƣớc, tài sản có giá trị lớn nhƣ du thuyền, xe hơi, xa xỉ phẩm, đầu tƣ mở nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí, thậm chí là trƣờng học, bệnh viện, mua cổ phiếu của các công ty chân chính đang làm ăn có lãi, mở các công ty “ma” (công ty không hoạt động trên thực tế nhƣng hàng năm vẫn báo cáo có lãi), đầu tƣ vào hoạt động tài chính, tín dụng, ngân hàng… Những phƣơng thức rửa tiền truyền thống cũng đang tồn tại ở Việt Nam nhƣ mở tài khoản sau đó rút ngay những khoản tiền có giá trị lớn… Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thực tế và số lƣợng tội phạm rửa tiền bị xét xử chênh lệch lớn bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về mặt khách quan, do thói quen tiêu dùng của ngƣời Việt vẫn dùng tiền mặt là chủ yếu nên việc giám sát các giao dịch tài chính để phát hiện tiền bẩn rất khó thực hiện. Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt phổ biến mặc dù tỉ lệ sử dụng tiền mặt có xu hƣớng giảm qua từng năm (năm 2004 tỉ lệ này là 20,35%, năm 2005 là 19,01%, năm 2006 là 17,21% và năm 2007 là 16,36%) [15, tr.10]. Báo cáo kiểm soát ma túy toàn cầu (INSCR) năm 2008 chỉ ra rằng: “có bằng chứng một khối lƣợng lớn tiền mặt đã đƣợc vận chuyển dƣới hình thức xách tay vào Việt Nam, điều này là hợp pháp nếu nhƣ các khoản tiền này
  • 76. 70 đƣợc khai báo”. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam không có đòi hỏi bất cứ một thông tin nào liên quan đến nguồn gốc hay việc sử dụng các khoản tiền đƣợc đƣa vào Việt Nam [15, tr.13]. Cùng với đó, sự kém phát triển của khoa học kỹ thuật, trang thiết bị máy móc trong hoạt động tài chính ngân hàng cũng góp phần tạo điều kiện cho tội phạm dễ dàng xóa hoặc không để lại dấu vết khi thực hiện các bƣớc rửa tiền. Về mặt chủ quan, chúng ta vẫn giữ thói quen tƣ duy cũ coi rửa tiền là một khâu trong quá trình thực hiện tội phạm nguồn do đó chỉ trừng trị tội phạm nguồn và xử lý vật chứng là những phần tài sản thu hồi đƣợc khi điều tra tội phạm nguồn. Bên cạnh đó, có những trƣờng hợp vụ án rửa tiền không đƣợc điều tra, truy tố, xét xử do tác động của những cá nhân có quyền lực mà có thể chính những cá nhân đó đã tham nhũng và chỉ đạo hoạt động rửa tiền… Theo Hiệp hội toàn cầu Global Integrity, sự xuất hiện của Luật phòng, chống tham nhũng giúp chúng ta đƣợc điểm rất mạnh theo tiêu chí “pháp luật”, nhƣng lại bị điểm rất yếu theo tiêu chí “thực thi” [15, tr.10]. Trong khi đó, nhƣ đã phân tích tại chƣơng I, quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 và BLHS Việt Nam năm 2015 về tội rửa tiền còn có những điểm hạn chế. Những bất cập trong các quy định của pháp luật, đặc biệt là BLHS liên quan đến tội phạm rửa tiền ngày càng lộ rõ và ảnh hƣởng đến quá trình vận dụng pháp luật vào thực tiễn. Đây là những khó khăn không nhỏ ảnh hƣởng tới công tác đấu tranh phòng chống rửa tiền của nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Do đó, yêu cầu thay đổi, hoàn thiện pháp luật nói chung và BLHS tội rửa tiền nói riêng đặt ra cấp thiết. Để làm đƣợc điều này, ngoài việc vận dụng các quy định của các tổ chức quốc tế thì việc tìm hiểu, học hỏi từ pháp luật các nƣớc có vai trò quan trọng không kém. Trên cơ sở so sánh quy định về tội rửa tiền giữa BLHS Việt Nam hiện hành và BLHS một số nƣớc thuộc hệ thống luật thành văn và án lệ đã nêu trong chƣơng II, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm
  • 77. 71 đƣợc nêu trong phần 2 dƣới đây để xem xét áp dụng vào BLHS Việt Nam về tội rửa tiền. 3.2. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự từ việc so sánh với Bộ luật hình sự Trung Quốc và Thụy Điển, Mỹ và Canada 3.2.1. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự từ việc so sánh với Bộ luật hình sự Trung Quốc và Thụy Điển Qua so sánh với BLHS của mỗi nƣớc có thể rút ra kinh nghiệm để sửa đổi, bổ sung vào quy định về tội rửa tiền của BLHS Việt Nam nhƣ sau: Thông qua quy định của BLHS Trung Quốc, thấy tội rửa tiền đƣợc xếp vào nhóm tội có khách thể loại là các tội xâm phạm trật tự quản lý tiền tệ hay rộng hơn là các tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa. Đây là quy định phù hợp với bản chất của hành vi rửa tiền bởi hành vi rửa tiền trƣớc tiên xâm hại đến sự ổn định, trật tự của nền kinh tế, tài chính, “phá hoại cơ cấu bộ máy Chính phủ, hoạt động tài chính và thƣơng mại hợp pháp, phá hoại xã hội ở mọi cấp độ” [17, tr.1]. Trong khi đó, BLHS Việt Nam năm 1999 và năm 2015 đều quy định tội rửa tiền trong chƣơng Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng là nhóm quan hệ xã hội mà tội phạm rửa tiền xâm hại gián tiếp thông qua việc xâm hại trực tiếp các quan hệ xã hội về trật tự quản lý kinh tế. Việc quy định nhóm khách thể loại đúng sẽ tạo nhận thức đúng đắn về tính nghiêm trọng của tội phạm rửa tiền, qua đó chúng ta sẽ có đƣờng lối đấu tranh phù hợp, hiệu quả hơn. Do đó, cần xem xét qui định tội danh này trong chƣơng các tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế thì phù hợp hơn. Ngoài các hành vi phạm tội rửa tiền cụ thể đƣợc liệt kê, nhà làm luật Trung Quốc đã thiết lập một quy định có tính tổng quát bao trùm mọi dạng hành vi rửa tiền là “dùng những biện pháp khác để che đậy, giấu diếm tính chất, nguồn gốc nguồn thu bất hợp pháp” sẽ bị xác định là hành vi phạm tội rửa tiền. Quy định này đã bao quát tất cả mọi dạng hành vi rửa tiền, kể cả
  • 78. 72 những hành vi chƣa đƣợc liệt kê trong luật. Để buộc tội, chỉ cần chứng minh hành vi bất kỳ có đặc điểm nhƣ quy định đã nêu là đủ. BLHS Việt Nam năm 1999 và năm 2015 đều không có quy định này mà chỉ có các quy định mô tả nhóm hành vi cụ thể. Trong khi đó có hai dạng hành vi khác đƣợc Luật phòng, chống rửa tiền xác định là hành vi rửa tiền nhƣng không đƣợc quy định trong cả hai BLHS nói trên. Ngoài ra, nếu trong tƣơng lai phát sinh những dạng hành vi rửa tiền mới không thuộc nhóm các hành vi rửa tiền đã đƣợc xác định thì chúng ta sẽ không có quy phạm điều chỉnh. Do đó, chúng ta cần xem xét tiếp thu kinh nghiệm này của BLHS Trung Quốc. Tuy nhiên, điểm nổi bật nhất trong quy định tội rửa tiền của BLHS Trung Quốc mà chúng ta cần xem xét là nhà làm luật Trung Quốc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân khi thực hiện hành vi phạm tội phải chịu hình thức phạt tiền, ngƣời chủ quản chịu trách nhiệm trực tiếp và ngƣời chịu trách nhiệm trực tiếp khác thì bị phạt tù đến 5 năm... Trƣớc khi BLHS Việt Nam năm 2015 ra đời, pháp nhân chƣa đƣợc quy định là chủ thể tội phạm trong BLHS và là vấn đề tranh cãi sôi nổi giữa những ngƣời làm công tác pháp luật. Tuy tại khoản 2 Điều 3 BLHS năm 2015 đã quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thƣơng mại, điều này đƣợc coi là một bƣớc tiến của pháp luật hình sự Việt Nam, nhƣng tội rửa tiền lại không nằm trong nhóm các tội danh có chủ thể là pháp nhân thƣơng mại. Nhƣ vậy vẫn xác định chủ thể duy nhất của tội rửa tiền là thể nhân. Quy định này thể hiện sự bất cập của BLHS năm 2015 vì pháp nhân là một chủ thể tham gia rất nhiều trong hoạt động kinh tế - tài chính và việc rửa tiền thƣờng dựa chủ yếu vào tính chất pháp lý trong các giao dịch với pháp nhân. Do đó nếu không quy định chủ thể của tội phạm rửa tiền gồm cả pháp nhân sẽ là một lỗ hổng lớn, dẫn đến sự lơ là mất cảnh giác thậm chí là vô trách nhiệm trong hoạt động của pháp nhân, trong khi vai trò giám sát, phát hiện và chống rửa tiền của pháp nhân là cực
  • 79. 73 kỳ quan trọng và hữu hiệu. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, kể từ ngày 10/10/2013 trong hệ thống pháp luật Việt Nam không có bất cứ một chế tài nào để áp dụng khi pháp nhân vi phạm các quy định về chống rửa tiền. Do đó, để nâng cao ý thức tuân thủ và bảo vệ pháp luật, BLHS Việt Nam cần quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội rửa tiền. Ngoài ra, pháp luật Trung Quốc ngoài việc xử phạt tiền pháp nhân còn xác định cả trách nhiệm của ngƣời đứng đầu pháp nhân. Đây là quy định rất nghiêm khắc của nhà làm luật Trung Quốc mà chúng ta cần xem xét và tiếp thu trong tƣơng lai Qua nghiên cứu quy định về tội rửa tiền trong pháp luật hình sự Thụy Điển, thấy BLHS Thụy Điển có điểm khác biệt lớn so với pháp luật hình sự Việt Nam là quy định trƣờng hợp phạm tội với lỗi vô ý cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Hiện nay, BLHS Việt Nam chỉ xử lý trƣờng hợp cố ý phạm tội. Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp, có những ngƣời đã vô ý thực hiện hành vi rửa tiền nhƣ cán bộ ngân hàng chủ quan không nghi ngờ và không kiểm tra kỹ các giao dịch bất thƣờng trong thời gian ngắn với số lƣợng tiền rất lớn tại các tài khoản mới mở hoặc tài khoản mở lâu nhƣng đã đóng băng trong thời gian dài, cho nên mặc dù không cố ý che giấu tội phạm, không biết rõ tiền, tài sản do phạm tội mà có nhƣng đã thực hiện hành vi rửa tiền, tiếp tay cho tội phạm. Đối chiếu với quy định của BLHS Việt Nam thì trƣờng hợp vô ý mà BLHS Thụy Điển quy định là trƣờng hợp vô ý do cẩu thả. Với quy định hiện hành của BLHS Việt Nam, chỉ các trƣờng hợp cố ý mới phạm tội thì trên thực tế sẽ xảy ra tình trạng một số cá nhân mặc dù có thể nhận biết tiền, tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp nhƣng đã lơ là, cẩu thả, mất cảnh giác, thậm chí là vô trách nhiệm dẫn đến việc thực hiện hành vi rửa tiền không cố ý, đặc biệt là những cá nhân công tác trong những ngành nghề liên quan đến tài chính, tiền tệ, không phát hiện ra những dấu hiệu tiền, tài sản bất hợp pháp mà vẫn thực
  • 80. 74 hiện những hành vi nghiệp vụ hoặc những hành vi khác liên quan đến số tiền, tài sản đó, vô tình cung cấp vỏ bọc hợp pháp cho chúng. Để tránh bỏ lọt tội phạm, nâng cao ý thức và trách nhiệm của mọi công dân trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm rửa tiền, nhà làm luật Việt Nam nên xem xét và đƣa trƣờng hợp phạm tội với lỗi vô ý vào quy định của BLHS tội rửa tiền. 3.2.2. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự từ việc so sánh với pháp luật hình sự của Mỹ và Canada Là một quốc gia có nền kinh tế phát triển, Mỹ cũng là nƣớc đi đầu trong cuộc chiến chống rửa tiền. Nƣớc Mỹ đã xây dựng một hệ thống pháp lý vững chắc với những chế định tƣơng đối rõ ràng nhằm ngăn chặn nạn rửa tiền. Pháp luật hình sự Mỹ về tội rửa tiền đã quy định khá chặt chẽ, đầy đủ trong đó các hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp cũng đƣợc quy định là hành vi rửa tiền. Đây là quy định mà BLHS Việt Nam cần học hỏi. Bởi vì quy định nhƣ vậy là chính xác, phù hợp với bản chất của hành vi và các quy định quốc tế có liên quan. Ngoài ra, pháp luật hình sự Mỹ còn quy định về hình phạt tiền có thể đƣợc áp dụng là hình phạt chính thay cho hình phạt tù. Đây là cách nhìn tiến bộ, thể hiện sự linh hoạt trong đƣờng lối xử lý tội phạm. Trong một xã hội phát triển, không phải lúc nào hình phạt tù giam cũng cần thiết và có tác dụng hơn các hình phạt khác. Trong một số trƣờng hợp đặc biệt nhƣ ngƣời phạm tội là ngƣời già, ngƣời lao động duy nhất trong gia đình… thì hình phạt tiền là giải pháp tốt cho cả Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội. Trong BLHS Việt Nam, một số tội danh đã quy định phạt tiền là hình phạt chính nhƣng đối với tội rửa tiền, nhà làm luật Việt Nam chỉ quy định một hình phạt chính là tù có thời hạn, còn phạt tiền là hình phạt bổ sung. Điều này thể hiện sự nghiêm khắc của nhà làm luật, tuy nhiên việc quy định chế tài lựa chọn hình phạt chính gồm phạt tiền và tù giam nhƣ pháp luật hình
  • 81. 75 sự Mỹ cũng là một kinh nghiệm hay, tạo sự linh hoạt, mềm dẻo cho những ngƣời làm công tác áp dụng pháp luật để vận dụng vào những trƣờng hợp cụ thể khi mà việc xử phạt hình phạt tù là giải pháp ít hiệu quả nhất. Điểm nổi bật trong quy phạm pháp luật về tội rửa tiền của Canada là quy định về địa bàn tội phạm nguồn. Đó là quy định về trƣờng hợp tội phạm nguồn là “một hành động hoặc không hành động ở bất kỳ nơi nào khác mà nếu xảy ra tại Canada sẽ cấu thành một tội đƣợc quy định”. Quy định này xác định không chỉ có những tội phạm rửa tiền có tội phạm nguồn thực hiện trong nƣớc mới bị xem xét mà những tội phạm nguồn thực hiện ở nƣớc ngoài nhƣng việc rửa tiền thực hiện ở Canada cũng bị xử lý hình sự nếu hành vi phạm tội ở nƣớc ngoài cấu thành tội phạm theo pháp luật Canada. Đây là một quy định rất cụ thể xác định rõ giới hạn tội phạm nguồn, tránh những xung đột pháp lý có thể xảy ra khi tội phạm liên quan đến nhiều quốc gia, đồng thời thể hiện sự tuân thủ nghiêm túc khuyến nghị 1 trong bản 40+9 khuyến nghị về chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố của FATF [7]. Trong khi hầu hết các nƣớc đều tập trung vào xác định hành vi, hình phạt, xác định các tội phạm nguồn theo tội danh hoặc tính chất thì nhà làm luật Canada ngoài việc xác định các yếu tố cơ bản của cấu thành tội phạm còn xác định rất rõ về tội phạm nguồn theo địa bàn. Quy định này là rất cần thiết, rõ ràng, chặt chẽ và đầy đủ mà nhà làm luật Việt Nam nên xem xét áp dụng trong quy phạm rửa tiền của BLHS Việt Nam để đảm bảo quyền lợi của quốc gia trong những vụ án rửa tiền xuyên quốc gia. 3.3. Những đề xuất cụ thể Qua toàn bộ những phân tích, so sánh, đánh giá đã trình bày trong luận văn này, trên cơ sở xem xét cấu thành tội phạm rửa tiền của BLHS Việt Nam năm 1999, tác giả đã chỉ ra những hạn chế của BLHS năm 1999; đồng thời
  • 82. 76 qua nghiên cứu so sánh giữa BLHS năm 1999 với BLHS năm 2015, tác giả đã chỉ ra một số bất cập của BLHS năm 1999 đã đƣợc BLHS năm 2015 khắc phục. BLHS năm 2015 tuy là Bộ luật mới và đến 01/7/2015 mới có hiệu lực, tuy nhiên, qua nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ ra những bất cập về tội rửa tiền mà BLHS năm 2015 vẫn chƣa giải quyết đƣợc. Do đó, tác giả đề xuất hƣớng hoàn thiện BLHS năm 2015 nhƣ sau: 1. Sắp xếp tội rửa tiền vào nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Bản chất của hành vi rửa tiền là ảnh hƣởng trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế, sự ổn định lành mạnh của môi trƣờng kinh tế, sau đó mới gián tiếp xâm hại đến các quan hệ xã hội khác nhƣ an toàn công cộng, trật tự công cộng là nhóm khách thể mà tội rửa tiền đang đƣợc xếp vào đây. Do đó xếp tội rửa tiền vào nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là phù hợp, khoa học hơn. 2. Hợp nhất tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có và tội rửa tiền thành một điều luật có tên gọi là tội rửa tiền, bởi vì về bản chất hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có là hành vi rửa tiền, ngƣời phạm tội biết tài sản do phạm tội mà có và cố tình thực hiện hành vi nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản. Bên cạnh đó, các Công ƣớc Palermo và Công ƣớc Viên cũng quy định những hành vi này là hành vi rửa tiền. BLHS Việt Nam tách riêng thành hai tội nhƣ hiện nay là không khoa học và không phù hợp với các quy định của quốc tế. 3. Cần bổ sung quy định “thực hiện bất kỳ hành vi nào khác nhằm che đậy, giấu diếm, thay đổi nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản” là một quy định trong nhóm các quy định mô tả hành vi phạm tội. Quy định khái quát này nhằm thâu tóm mọi dạng hành vi rửa tiền khác không nằm trong số các hành vi đã đƣợc mô tả do chúng mới xuất hiện hoặc nhà làm luật bỏ sót khi xây dựng luật. Nhƣ vậy sẽ tránh đƣợc tình trạng không có quy phạm xử lý dẫn đến bỏ lọt tội phạm khi BLHS chƣa kịp sửa đổi để cập nhật các dạng hành vi mới.
  • 83. 77 4. Bổ sung quy định trƣờng hợp phạm tội với lỗi vô ý nhƣ “thực hiện các hành vi rửa tiền nhƣng không nhận thức đƣợc, mặc dù có cơ sở hợp lý để cho rằng tài sản có liên quan đến tội phạm”. Quy định nhƣ vậy góp phần nâng cao ý thức pháp luật của công dân, hạn chế tình trạng cẩu thả, vô trách nhiệm nên thực hiện hành vi rửa tiền một cách vô ý của nhiều cá nhân, đặc biệt là những cá nhân làm công tác chuyên môn nghiệp vụ liên quan đến tài chính, tiền tệ, có thể dẫn đến những hậu quả hết sức nghiêm trọng cho kinh tế, xã hội. 5. Bổ sung chủ thể của tội rửa tiền là pháp nhân bên cạnh chủ thể thể nhân. Pháp nhân, đặc biệt là pháp nhân thƣơng mại có vai trò rất quan trọng trong quá trình tội phạm rửa tiền, vì việc hợp pháp hóa tiền, tài sản bẩn thƣờng đƣợc thực hiện thông qua giao dịch với các pháp nhân để có vỏ bọc pháp lý hoàn hảo. Chính vì vậy nhiều văn bản pháp luật khác đã quy định về các hình thức giám sát, báo cáo các giao dịch đáng ngờ của các định chế tài chính do vị trí tiên phong quan trọng của định chế tài chính - pháp nhân trong công tác phòng chống rửa tiền. Do đó, việc quy định chủ thể của tội rửa tiền là pháp nhân là hết sức cần thiết và hợp lý, hạn chế tình trạng buông lỏng quản lý, vô trách nhiệm trong quá trình hoạt động của pháp nhân. 6. Bổ sung hình phạt chính là hình phạt tiền bên cạnh hình phạt tù. Trong những hoàn cảnh nhất định áp dụng hình phạt tiền đem lại lợi ích nhiều hơn cho cả ngƣời phạm tội và Nhà nƣớc, do đó nên quy định theo cách thức lựa chọn hình phạt. Quy định nhƣ vậy vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật nhƣng lại thể hiện sự linh động của pháp luật, giúp ngƣời làm công tác áp dụng pháp luật có những lựa chọn khác nhau phù hợp với hoàn cảnh của ngƣời phạm tội mà vẫn đảm bảo tính chất trừng trị, giáo dục tội phạm. 7. Quy định phạm vi tội phạm nguồn ngoài những tội phạm đƣợc quy định trong BLHS còn có những hành vi đƣợc thực hiện ở nƣớc ngoài
  • 84. 78 nhƣng theo pháp luật Việt Nam hành vi đó đã cấu thành tội phạm. Quy định này không chỉ phù hợp với khuyến nghị 1 trong 40+9 khuyến nghị của FATF mà còn rất cần thiết để xử lý trong các trƣờng hợp tội phạm nguồn xảy ra ở quốc gia khác nhƣng rửa tiền tại Việt Nam, tránh tình trạng xung đột pháp lý, đảm bảo vị trí, vai trò và quyền lợi của nƣớc ta khi xảy ra những vụ án xuyên quốc gia. 8. Quy định khái niệm “tài sản” trong phần chung BLHS Việt Nam phù hợp với quy định trong bộ luật dân sự, luật phòng, chống tham nhũng, Công ƣớc Liên hợp quốc và chỉ sử dụng cụm từ “tài sản do phạm tội mà có” trong điều luật.
  • 85. 79 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 Hoàn thiện các quy định của BLHS nói chung và tội rửa tiền nói riêng là một yêu cầu tất yếu của công cuộc cải cách tƣ pháp. Quy định tội rửa tiền trong BLHS năm 2015 mặc dù đã có thay đổi, đã khắc phục đƣợc một số hạn chế của BLHS năm 1999 nhƣng vẫn còn có những hạn chế, thiếu sót cần đƣợc tiếp tục sửa đổi, bổ sung để có thể hoàn thành tốt nhất vai trò của mình trong công tác bảo vệ pháp luật. Dựa trên những bài học kinh nghiệm lập pháp từ BLHS của một số quốc gia thuộc hệ thống luật thành văn và án lệ, xuất phát từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quy định của pháp luật quốc tế và thực tiễn đặc thù của xã hội nƣớc ta, ngƣời viết đã nghiên cứu và đƣa ra một số vấn đề cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung đối với tội rửa tiền trong BLHS Việt Nam. Những vấn đề này bao gồm cả sự đánh giá về vị trí sắp xếp hay nói cách khác là khách thể của tội phạm, tên gọi của đối tƣợng tác động đến những phân tích về từng khía cạnh nội dung của tội rửa tiền nhƣ chủ thể, trạng thái lỗi, hành vi, hình phạt, tội phạm nguồn… mà nếu đƣợc áp dụng, sẽ tạo nên một quy phạm tội rửa tiền chặt chẽ, hoàn chỉnh, không để lọt tội phạm, góp phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm rửa tiền trong quốc gia và trên trƣờng quốc tế.
  • 86. 80 KẾT LUẬN Cùng với xu thế phát triển toàn cầu, ngày nay, tội phạm rửa tiền đã và đang vƣơn vòi bạch tuộc đến nhiều quốc gia, gây ảnh hƣởng tiêu cực đến nền kinh tế, ngăn cản tiến trình hội nhập, tạo nguy cơ cô lập kinh tế giữa các nƣớc, lũng đoạn ngành tài chính ngân hàng, làm thay đổi các khoản đầu tƣ và suy giảm sức sản xuất, hậu thuẫn cho tội phạm và tham nhũng phát triển. Do đó, việc ngăn chặn loại tội phạm này là yêu cầu cấp bách không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả quốc tế. Để làm đƣợc điều này, thiết lập quy phạm tội rửa tiền hoàn chỉnh là nhiệm vụ đầu tiên và có ý nghĩa quyết định. Xuất phát từ quan điểm đó, tác giả đã chọn đề tài “So sánh quy định của BLHS Việt Nam với quy định của BLHS một số nƣớc về tội rửa tiền” nhằm nghiên cứu quy định tội rửa tiền trong BLHS Việt Nam và so sánh với một số quốc gia để tìm ra những điểm hạn chế và cách khắc phục. Trong chƣơng I của luận văn, tác giả đi sâu phân tích cấu thành tội phạm rửa tiền trong BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015, nêu ra những hạn chế của quy định tội rửa tiền trong BLHS năm 1999 mà BLHS năm 2015 đã khắc phục đƣợc và những điểm hạn chế còn tồn tại của BLHS năm 2015. Tại chƣơng 2, tác giả so sánh quy định tội rửa tiền trong BLHS nƣớc ta và BLHS một số nƣớc thuộc hệ thống luật thành văn (Trung Quốc, Thụy Điển) và một số nƣớc thuộc hệ thống án lệ (Mỹ, Canada). Trên cơ sở những nghiên cứu ở hai chƣơng đầu, trong chƣơng 3, tác giả trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn thiện quy định tội rửa tiền, những bài học kinh nghiệm lập pháp cụ thể rút ra từ quá trình so sánh với quy định tội rửa tiền ở BLHS các nƣớc nói trên, áp dụng những kinh nghiệm này để khắc phục những hạn chế của BLHS năm 1999 đã đƣợc BLHS năm 2015 tháo gỡ nhƣng chƣa triệt để. Trong phần cuối luận văn, tác giả đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung của quy phạm tội rửa tiền, từ việc xác định
  • 87. 81 nhóm khách thể loại cho đến những sửa đổi về chủ thể, hành vi, hình phạt, cách sử dụng từ ngữ… nhằm hoàn thiện quy phạm này, tiến tới xây dựng một quy phạm tội rửa tiền chuẩn mực, mang lại hiệu quả cao trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm rửa tiền nói riêng và tội phạm nói chung trên phạm vi quốc gia và quốc tế.
  • 88. 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tƣ pháp - Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (2011), Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN- VKSNDTC-TANDTC ngày 30/11/2011 hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tội rửa tiền, Hà Nội. 2. Lƣơng Long Bình (2014), “Một số đề xuất hoàn thiện quy định về tội rửa tiền trong BLHS Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân - Tòa án nhân dân tối cao, (3), tr. 4-8. 3. Nguyễn Hòa Bình (2004), Đấu tranh phòng chống tội phạm rửa tiền ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân. 4. Canada, Bộ luật hình sự. 5. Chính phủ (2013), Nghị định 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền, Hà Nội. 6. Lê Đăng Doanh, Trần Thị Hồng Nhạn (2010), “Tìm hiểu về tội phạm rửa tiền – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (19), tr. 1-4. 7. FATF (2004), Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền FATF, 40+9 khuyến nghị về chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố. 8. Phƣơng Hà (2009), “Khủng hoảng tài chính mở đƣờng cho hoạt động rửa tiền bất hợp pháp”, Tạp chí kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, (259). 9. Ngô Văn Hiền (2013), Rửa tiền và các giải pháp phòng chống rửa tiền ở Việt Nam, Học viện tài chính. 10. Nguyễn Minh Hiển (2013), Phòng ngừa tội phạm rửa tiền ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân.
  • 89. 83 11. Đặng Thu Hiền (2010), “Tội phạm rửa tiền trong luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS và một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp, (5), tr. 19-25. 12. Nguyễn Đình Hòa (2006), “Rửa tiền và cuộc chiến chồng rửa tiền trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, (106), tr. 34-37. 13. Nguyễn Văn Hoàn (2009), “Sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS về tội rửa tiền góp phần tháo gỡ khó khăn trong thực tiễn và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”, Tạp chí Kiểm sát - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, (4), tr. 56-61. 14. Diệu Hoàng (2007), “Phƣơng thức rửa tiền ở Việt Nam và kinh nghiệm phòng chống”, Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương, (3), tr. 23-26. 15. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Trung ƣơng (2014), “Chủ đề Pháp luật về phòng, chống rửa tiền”, Đặc san tuyên truyền pháp luật, (01). 16. Nguyễn Công Hồng, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Thanh Trúc (2008), Báo cáo so sánh hệ thống pháp luật Việt Nam với 40 khuyến nghị và 9 khuyến nghị đặc biệt của lực lượng đặc nhiệm tài chính, NXB Hà Nội. 17. Liên hợp quốc (1988), Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần năm 1988 (Công ƣớc Viên). 18. Liên hợp quốc (1999), Công ước về chống tài trợ cho khủng bố. 19. Liên hợp quốc (2000), Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (Công ƣớc Palermo). 20. Liên hợp quốc (2003), Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng. 21. Vƣơng Tinh Mạch (2009), “Phòng chống rửa tiền ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Văn phòng Quốc hội, (7), tr. 48-51.
  • 90. 84 22. Dƣơng Tuyết Miên (2011), “Đánh giá tính tƣơng thích của pháp luật hình sự Việt Nam về tội rửa tiền với quy định tƣơng ứng của chuẩn mực quốc tế và một số kiến nghị”, Tạp chí Toà án nhân dân - Tòa án nhân dân tối cao, (4), tr. 38-44. 23. Dƣơng Tuyết Miên, Nguyễn Thị Vân Anh (2013, 2014), “Tội rửa tiền - nghiên cứu dƣới góc độ so sánh”, Tạp chí Tòa án nhân dân - Tòa án nhân dân tối cao, (24), tr. 41 - 45 & (1), tr. 42-45. 24. Nguyễn Ngọc Minh (2011), “Nghiên cứu phạm vi chủ thể của tội phạm rửa tiền trong luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật - Bộ Tư pháp, 12 (237), tr. 9-14. 25. Mỹ (1986), Bộ tổng luật và Luật kiểm soát rửa tiền. 26. Ngân hàng Nhà nƣớc (2013), Thông tư số 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền, Hà Nội. 27. Ngân hàng Nhà nƣớc (2014), Thông tư số 31/2014/TT-NHNN ngày 11/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2013/TT- NHNN ngày 31/12/2013, Hà Nội. 28. Nguyễn Thị Thúy Ngọc (2009), Việt Nam với nghĩa vụ pháp lý thành viên nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG), Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội. 29. Nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1980), Bộ luật hình sự, được thông qua ngày 01/7/1979, có hiệu lực từ ngày 01/01/1980, lần sửa đổi bổ sung gần đây nhất là vào ngày 28/02/2005. 30. Paul Allan Schott (2007), Sách dịch: Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố của cán bộ thuộc Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế, NXB văn hóa thông tin. 31. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2009), Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Hà Nội.
  • 91. 85 32. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2012), Luật phòng, chống rửa tiền số 07/2012/QH13 ngày 18/6/2012, Hà Nội. 33. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội. 34. Văn Tạo (2010), “Phòng chống rửa tiền - kinh nghiệm của các nƣớc và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, (1). 35. Nguyễn Hữu Thanh (2001), “Về hành vi "Rửa tiền" theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, (6), tr. 36-41. 36. Nguyễn Triệu Nhƣ Thƣờng (2008), Tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội. 37. Thụy Điển (1965), Bộ luật hình sự, được thông qua năm 1962, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1965, được sửa đổi gần nhất vào ngày 01/5/1999. 38. Trƣờng Đại học luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập 1, NXB Công an nhân dân. 39. Nông Xuân Trƣờng (2005), “Tìm hiểu về việc phòng chống tội phạm rửa tiền trên thế giới”, Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, (5), tr. 52. 40. Trần Văn Tuân (2013), Hoàn thiện quy định về tội rửa tiền trong Luật Hình sự Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế, Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội. II. Các tài liệu trên internet 41. http://www.saga.vn/rua-tien-hanh-dong-gay-van-duc-nen-kinhte~31873. 42. http://www.oed.org/fatf. 43. http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-quoc-te/rua-tien-va-chong-rua-tien- tren-the-gioi-14116.html.