SlideShare a Scribd company logo
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THỊ THÚY NGA
CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ
INTERNET TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THỊ THÚY NGA
CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ
INTERNET TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số : 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Xuân Nhự
HÀ NỘI - 2012
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Đỗ Thị Thúy Nga
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: GIỚI THIỆU VỀ INTERNET SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI
CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT DỊCH VỤ INTERNET
8
1.1 . Tổng quan chung về Internet 8
1.1.1. Khái quát chung về Internet 8
1.1.1.1. Khái niệm Internet 8
1.1.1.2. Phân loại các nhóm dịch vụ Internet 10
1.1.1.3. Các chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ Internet 11
1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ Internet 14
1.1.2.1. Lợi ích và hạn chế đối với Internet 14
1.1.2.2. Những yêu cầu đặt ra đối với dịch vụ Internet 16
1.1.2.3. Một số chỉ tiêu liên quan khi đánh giá, thống kê mức độ phát
triển Internet
18
1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển Internet ở Việt Nam 20
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách và pháp luật dịch
vụ Internet
22
1.2.1. Nhân tố thuộc môi trường quốc tế 23
1.2.2. Nhân tố thuộc môi trường trong nước 23
1.2.3. Nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp 24
5
1.2.4. Nhân tố quản lý nhà nước 26
1.3. Sự cần thiết phải đổi mới chính sách và pháp luật về dịch
vụ Internet
28
1.3.1. Mối quan hệ giữa pháp luật và Internet 28
1.3.2. Sự cần thiết phải xây dựng, đổi mới chính sách và pháp luật
về dịch vụ Internet
29
Chương 2: HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN ĐIỀU CHỈNH INTERNET 32
2.1. Hệ thống văn bản về Internet 32
2.1.1. Đặc điểm sự hình thành và phát triển hệ thống văn bản điều
chỉnh Internet
32
2.1.2. Hệ thống văn bản quốc tế điều chỉnh Internet 34
2.1.3. Hệ thống văn bản điều chỉnh Internet của Việt Nam 36
2.2. Đánh giá chung hệ thống văn bản điều chỉnh Internet của
Việt Nam
40
2.2.1. Đối với nhu cầu khách quan 40
2.2.2. Đối với yêu cầu quản lý kinh tế và xã hội 42
2.2.3. Đối với sự phát triển của cộng đồng mạng toàn cầu 43
2.2.4. Đối với yêu cầu của các nước trong cộng đồng quốc tế 45
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIẺN
INTERNET VIỆT NAM THEO XU HƯỚNG HỘI NHẬP
QUỐC TẾ
51
3.1. Văn bản hiện đang điều chỉnh Internet của Việt Nam 51
3.1.1. Những mặt tích cực 51
3.1.1.1. Những nhân tố cho sự ra đời Nghị định 97/2008/NĐ-CP 51
3.1.1.2. Nguyên tắc xây dựng Nghị định 53
3.1.1.3. Những nội dung, sửa đổi quan trọng của Nghị định 53
3.1.1.4. Những nội dung cơ bản của Nghị 58
6
3.1.2. Những mặt còn hạn chế 69
3.1.3. Một số giải pháp của Việt Nam 79
3.2. Việc áp dụng một số qui định quản lý Internet của Trung
Quốc, Mỹ tại Việt Nam
82
3.2.1. Trung Quốc 83
3.2.2. Hoa Kỳ (USA) 84
3.3. Định hướng phát triển Internet Việt Nam theo xu hướng hội
nhập quốc tế
87
3.3.1. Chính sách của nhà nước 88
3.3.1.1. Mục tiêu giai đoạn 2001 - 2005 88
3.3.1.2. Mục tiêu giai đoạn 2006-2010 88
3.3.1.3. Mục tiêu giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến 2020 90
3.3.2. Thuận lợi, khó khăn và thách thức 93
3.3.2.1. Thuận lợi 93
3.3.2.2. Thách thức 94
3.3.2.3. Khó khăn 95
3.3.3. Định hướng và giải pháp để phát triển Internet Việt Nam
theo xu hướng hội nhập quốc tế
96
3.3.3.1. Về công nghệ, dịch vụ 96
3.3.3.2. Về tài nguyên Internet 96
3.3.3.3. Về ứng dụng và nội dung thông tin 96
3.3.3.4. Về an toàn, an ninh 97
3.3.3.5. Về tổ chức và công tác thực thi 98
3.3.4. Hội nhập quốc tế về Internet 101
KẾT LUẬN 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADSL (Asymmetric Digital
Subscriber Line)
Đường dây thuê bao số bất đối xứng
BCC (Business Cooperation Contract) Hợp đồng hợp tác kinh doanh hình
thức đầu tư
BTA (Bilateral Trade Agreement) Hiệp định thương mại song phương
ESRB, PEGI Các tổ chức độc lập và phi lợi nhuận
chuyên phân loại các sản phẩm phần
mềm giải trí và game của Mỹ
HRW (Human Rights Watch - HRW) Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc
IPV6 (Internet Protocol version 6) Một giao thức để xác định địa chỉ
một máy trên Internet
ISO/IEC27002 Qui chuẩn kỹ thuật về an toàn hệ thống
thông tin do Tổ chức tiêu chuẩn quốc
tế phụ trách xây dựng
ITU (International
Telecommunication Union)
Tổ chức viễn thông quốc tế thuộc Liên
hiệp quốc
OECD (Organization for Economic
Cooperation and Development)
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
UNCITRAL Ủy ban pháp luật Thương mại Quốc
tế của Liên hợp quốc
UNESCO (United Nations Educational
Scientific and Cultural Organization)
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hoá của Liên hợp quốc
UPR (Universal Periodic Report) Cơ chế kiểm điểm định kỳ của Tổ
chức HRW
VNCERT Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy
tính quốc gia Việt Nam
WB (Word Bank) Ngân hàng thế giới
WIFI (Wireless Fidelity) Hệ thống mạng không dây sử dụng
sóng vô tuyến
WIPO (World Intellectual Property
Organization)
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới
WTO (World Trade Organization) Tổ chức Thương mại Thế giới
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
1.1 Tốc độ và chi phí truyền gửi 14
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghệ thông tin và truyền thông phát triển nhanh đã và đang tác
động mạnh tới hiệu quả của nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế phát triển trên
cơ sở công nghệ và tri thức. Nền kinh tế tri thức này mang lại giá trị cao cho
con người, mang lại sức khỏe, đời sống văn minh và sự tinh tế... Điều này
được khẳng định thông qua các giá trị của Internet - con đẻ của công nghệ
thông tin và truyền thông.
Internet là hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công
cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau giữa các chính phủ, tổ
chức chính trị, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, người dùng cá
nhân…trên toàn cầu gọi là mạng Internet (network). Trên Internet một khối
lượng thông tin và dịch vụ khổng lồ được cung cấp. Mạng Internet mang lại
rất nhiều tiện ích hữu dụng cho người sử dụng, một trong các tiện ích phổ
thông của Internet là hệ thống thư điện tử (email), trò chuyện trực tuyến
(chat), máy truy tìm dữ liệu (search engine), các dịch vụ thương mại điện tử
và chuyển ngân, các dịch vụ về y tế, giáo dục như chữa bệnh từ xa hoặc tổ
chức các lớp học ảo, lĩnh vực giải trí như trò chơi trực tuyến, hay báo
mạng…có thể thấy các tiện ích này không chỉ được áp dụng và có ảnh hưởng
trong lĩnh vực kinh tế mà bao trùm cả xã hội.
Ngày 19/11/1997, dịch vụ Internet mới xuất hiện ở Việt Nam. Từ đó
cho đến nay, dịch vụ Internet không chỉ có mặt ở các đô thị, mà đã lan tỏa
rộng khắp 63 tỉnh, thành phố, từ những khu dân cư đông đúc đến các bản
làng xa xôi. Qua đó có thể thấy, từ cả hai phía Chính phủ và người dân Việt
Nam đều rất nhanh nhạy tiếp cận, sử dụng Internet làm công cụ giao tiếp,
công cụ hoạt động trong lao động, sản xuất. Nhờ vậy Việt Nam không
10
những phát triển về kinh tế mà còn có tốc độ phát triển Internet ở mức cao
trong khu vực biểu thị bằng quy mô số thuê bao Internet.
Tuy nhiên song hành cùng với các lợi ích của Internet mang lại, ở các
nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam cũng đã xuất hiện ngày càng nhiều
biểu hiện lợi dụng Internet để thực hiện các hoạt động tiêu cực, không phù
hợp với đạo lý, nhân phẩm, văn hóa truyền thống và nền văn minh hiện đại.
Cụ thể tại Việt Nam, qua số liệu kiểm tra:
Tháng 7-2009, cơ quan chức năng đã thanh, kiểm tra 895
đại lý Internet trên toàn quốc, trong đó xử lý vi phạm hành chính
205 đại lý, 58 đại lý bị xử phạt vi phạm hành chính gần 80 triệu
đồng, tịch thu gần 20 bộ CPU máy vi tính. Những vi phạm của các
đại lý Internet chủ yếu là để khách hàng sử dụng dịch vụ quá giờ
quy định, để khách hàng truy cập vào các website đồi trụy, lưu trữ
phim ảnh đồi trụy trong máy tính. Ngoài ra, nhiều cơ sở kinh doanh
không ký hợp đồng đại lý Internet với doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ, không niêm yết nội quy sử dụng, không đảm bảo công tác an
ninh, an toàn phòng cháy chữa cháy. Toàn quốc hiện có 18 doanh
nghiệp chuyên kinh doanh trong lĩnh vực trò chơi trực tuyến
(games online), trong đó, Hà Nội có 5 doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp cung cấp trên thị trường khoảng 72 trò chơi trực tuyến được
Bộ Thông tin và truyền thông cấp phép. Đồng thời, hàng trăm game
từ các máy chủ nước ngoài, đĩa lậu mà hầu hết là games bạo lực.
Trong số, 72 games online được phép lưu hành, chỉ có 1 games
"Thuận Thiên Kiếm" là do Việt Nam sản xuất, còn lại chủ yếu của
Trung Quốc và Hàn Quốc [29].
Trước tình hình trên, cũng như bất kỳ quốc gia nào khác, Chính phủ
Việt Nam phải có trách nhiệm quản lý công cụ thông tin hiện đại này. Đây là
quyền và là trách nhiệm của chính phủ của mỗi quốc gia trong thế giới hiện
11
đại, vì cuộc sống văn minh, lành mạnh không chỉ của công dân nước mình,
mà còn vì sự an toàn của công dân toàn cầu.
Một trong các công cụ quản lý hữu hiệu của Chính phủ là chính sách
quản lý Internet được thể hiện bằng các qui định tại hệ thống các văn bản
pháp qui của Nhà nước. Nhà nước sử dụng công cụ này có mục đích không
phải là để ngăn cấm Internet, mà là để tăng cường sử dụng nó một cách hữu
hiệu, mục tiêu là vừa đáp ứng yêu cầu thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng viễn
thông Internet, vừa đáp ứng nhu cầu quản lý nội dung thông tin trên Internet,
đồng thời đảm bảo quyền được thông tin của người dân và nhu cầu phòng
chống những thông tin độc hại, ảnh hưởng xấu đến đời sống tinh thần, thuần
phong và mỹ tục, trật tự, an toàn xã hội, đặc biệt là bảo vệ giới trẻ.
Cho đến nay các cơ quan chức năng đã xây dựng được hệ thống văn
bản pháp luật tương đối đầy đủ để quản lý dịch vụ Internet. Song hệ thống
văn bản này đã phản ánh đúng, phù hợp với thực tế khách quan hay đã tích
hợp được các giải pháp quản lý vừa mang tính lâu dài, vừa mang tính tình thế
để đi vào thực thi và trở thành một công cụ quản lý hữu hiệu trong xã hội và
nền kinh tế "mở" như hiện nay thì còn phải nghiên cứu và xem xét.
Chính vì vậy, tôi có ý tưởng nghiên cứu và thực hiện đề tài "Các qui
định của pháp luật Việt Nam về dịch vụ Internet trong thời kỳ hội nhập
quốc tế" và đó cũng là vấn đề vừa cơ bản, không những về lý luận, mà còn là
đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Như ta đã biết xã hội ngày nay là kết quả của một quá trình phát triển
đi lên được hỗ trợ bởi những thành tựu của Khoa học kỹ thuật. Kết quả đó có
thể nhìn thấy rõ ở ngành Công nghệ Thông tin mà mạng Internet là điển hình.
Đến nay, máy vi tính có kết nối mạng toàn cầu đã trở thành phương
tiện không thể thiếu trong cuộc sống. Đặc biệt, nó đã làm thay đổi hoàn toàn
cách thức giao tiếp xã hội và quản lý xã hội và cũng làm nảy sinh những vấn
12
đề mới như: tiện ích, tác hại, các hình thức thể hiện, các trạng thái,…là những
vấn đề nóng bỏng hiện nay, đặt ra những thách thức cho các nhà quản lý. Vì
vậy, dịch vụ Internet (hay mạng xã hội ảo) đã được nhiều tác giả là những
người quản lý, các nhà chính sách, thậm chí là khách hàng (người đang sử
dụng các tiện ích từ Internet mang lại) đề cập đến trên mọi phương tiện
báochí.... về các góc cạnh, vấn đề thuộc lĩnh vực này từ góc độ quản lý đến
thực thi; phân tích mặt tốt, mặt xấu; đưa giải pháp v.v…
Trong phương diện luật học, một số góc cạnh của lĩnh vực này được
đề cập đến, phản ánh thông qua các bài viết tại các chương VI, X, XI, XII về
giao dịch thương mại quốc tế, mua bán công nghệ, bản quyền.... tại sách Luật
thương mại quốc tế thuộc bộ môn Luật Quốc tế. Tuy nhiên, các công trình,
bài viết trên các tác giả chỉ mới đề cập một cách khái quát, chung chung có
động chạm đến một vài khía cạnh, vấn đề đơn lẻ về Internet. Tóm lại, trong
lĩnh vực luật học thì mới chỉ có bài viết đề cập một cách khái quát hoặc đơn lẻ
về Internet chưa có một công trình, bài viết nào nghiên cứu một cách hệ thống
và toàn diện về lĩnh vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Phân tích và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, những điểm mạnh và
yếu của hệ thống văn bản pháp lý quản lý dịch vụ Internet của Việt Nam.
- Rút kinh nghiệm, bài học quản lý của một số nước trên thế giới và
đưa ra các giải pháp, khuyến nghị….để nâng cao hiệu quả việc áp dụng những
qui định của pháp luật cũng như xây dựng hệ thống pháp luật cho lĩnh vực
quản lý dịch vụ Internet tại Việt Nam.
Nhiệm vụ:
Để đạt được các mục đích đặt ra tác giả đặt ra những nhiệm vụ phải
giải quyết sau đây:
13
- Phân tích và làm rõ sự hình thành và phát triển cũng như khái niệm
về Internet và dịch vụ Internet
- Nêu ra đặc điểm, ý nghĩa của dịch vụ Internet trong đời sống xã hội
và các yếu tố ảnh hưởng đến lĩnh vực này.
- Phân tích và làm rõ những qui định của pháp luật về lĩnh vực
Internet hiện hành; làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng nêu nên các vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng đòi hỏi sự nghiên cứu và giải quyết.
- Đánh giá thực trạng, tìm nguyên nhân của vấn đề từ đó đề xuất một
số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các quy định pháp luật của
nhà nước Việt Nam về dịch vụ Internet và một số giải pháp quản lý của một
số quốc gia trong khu vực phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu quy định pháp luật Việt Nam về dịch vụ Internet và thực
tiễn áp dụng pháp luật về quản lý dịch vụ Internet ở Việt Nam. Phân tích
những ưu điểm/khuyết điểm của hệ thống qui phạm quản lý dịch vụ Internet
và thực tiễn áp dụng luật pháp của Việt Nam.
- Nghiên cứu một số giải pháp thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý
dịch vụ Internet của một số quốc gia trong khu vực phù hợp với tình hình thực
tiễn của Việt Nam. Rút ra những bài học và áp dụng.
- Đề xuất hoàn thiện các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam
để vừa hài hòa các mục tiêu quản lý có hiệu quả vừa phù hợp với sự phát triển
của xã hội và cam kết quốc tế chung.
14
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
- Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là số liệu thống kế, báo cáo của cơ quan
quản lý chuyên ngành lĩnh vực Internet.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học liên ngành và chuyên ngành; coi trọng phương pháp phân tích,
thống kê, tổng hợp và kết hợp với các phương pháp khác như hệ thống, lịch
sử, so sánh, logic; và phương pháp chuyên gia, tổng kết thực tiễn….
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và có
hệ thống các qui định quản lý dịch vụ Internet tại Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập quốc tế dưới góc độ pháp lý. Có thể xem những nội dung sau đây là
những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về khái niệm Internet và
dịch vụ Internet
- Phân tích, đánh giá những qui định hiện hành về dịch vụ Internet
trong nước và một số qui định áp dụng của một vài nước trên thế giới nhằm
rút ra những bài học để vận dụng có chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và
giải pháp được đề xuất trong luận văn.
- Phân tích, làm rõ thực tiễn áp dụng, nêu lên những vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng những qui định của pháp luật về dịch vụ này.
15
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả việc áp dụng những qui định của pháp luật về lĩnh vực này.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với việc nâng cao hiệu quả việc áp dụng những qui định của pháp
luật đối với dịch vụ Internet ở nước ta. Thông qua kết quả nhiên cứu và các đề
xuất, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc quản lý
dịch vụ Internet nói riêng và công cụ quản lý nhà nước là lĩnh vực pháp lý
nói chung.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung và cho các cán
bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
Internet nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Giới thiệu về Internet và sự cần thiết đổi mới chính sách và
pháp luật về dịch vụ Internet.
Chương 2: Hệ thống các văn bản điều chỉnh Internet.
Chương 3: Thực trạng và định hướng phát triển Internet Việt Nam
theo xu hướng hội nhập quốc tế.
16
Chương 1
GIỚI THIỆU VỀ INTERNET SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI
CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT DỊCH VỤ INTERNET
1.1. TỔNG QUAN CHUNG VỀ INTERNET
Trong thập kỷ 1980, khi tổ chức khoa học Mỹ NSF thành lập mạng
liên kết các trung tâm máy tính lớn với nhau gọi là NSFNET, máy tính cá
nhân được sử dụng rộng rãi trong các Công ty và Trường Đại học trên thế
giới. Từ đây tạo nên một sự bùng nổ trong việc phát triển Internet.
Giữa thập niên 1980 khi máy vi tính cá nhân trở nên thông dụng trên
thế giới và bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam. Đây cũng là lúc xuất hiện khái
niệm về mạng máy tính, từ mạng nội bộ LAN, đến mạng diện rộng WAN và
nay là mạng toàn cầu INTERNET.
1.1.1. Khái quát chung về Internet
1.1.1.1. Khái niệm Internet
Thuật ngữ: "Internet" xuất hiện lần đầu tiên năm 1993 khi giáo sư Vint
Cef thuộc trường Đại học Califonia - Mỹ đáp lại mong muốn của chính quyền
Mỹ cài đặt một mã chung cho tất cả các máy tính giao thức TCP/IP (TCP/IP là
tên chung cho một tập hợp hơn 100 giao thức được sử dụng để kết nối các máy
tính vào mạng, trong đó hai giao thức chính là TCP viết tắt Transmission
Control Protocol và IP viết tắt của Internet Protocol) và đặt tên là Internet.
Các nhà kỹ thuật thì định nghĩa Internet là mạng máy tính được kết
nối dựa trên giao thức mạng TCP/IP (Transmission Control Protocol/Internet
Protocol). Trong phạm vi Internet, thông tin được chia thành những gói nhỏ
gọi là packet, các packet này được gửi trên mạng máy tính qua IP, TCP nhận
các packet và kiểm tra lỗi. Nếu một lỗi xuất hiện, TCP yêu cầu gói riêng biệt
đó phải được gửi lại. Chỉ khi tất cả các packet đã nhận được là đúng, TCP sẽ
sử dụng số thứ tự để tạo lại thông tin ban đầu. Nói cách khác, công việc của IP là
17
chuyển dữ liệu thô - các packet - từ nơi này tới nơi khác. Công việc của TCP là
quản lý dòng chảy và đảm bảo rằng dữ liệu là đúng. Khái niệm này nêu bật đặc
điểm của mạng Internet, phân biệt được sự khác nhau căn bản của mạng Internet
với các mạng khác như mạng truyền số liệu, mạng điện thoại công cộng.
Ngày nay, Internet được định nghĩa là một hệ thống thông tin toàn cầu
(hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh
nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá
nhân, và các chính phủ trên toàn cầu) hệ thống này truyền thông tin theo kiểu
nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng
đã được chuẩn hóa (gọi là giao thức IP). Và sử dụng một hệ thống địa chỉ
thống nhất trên phạm vi toàn cầu để cung cấp các dịch vụ và ứng dụng khác
nhau cho người sử dụng thông qua các hệ thống kênh viễn thông.
Qua các định nghĩa về Internet nêu trên có thể đưa ra một khái niệm
tổng quát nhất về thuật ngữ "Internet" như sau: Internet là hệ thống hàng triệu
máy tính trên toàn thế giới kết nối với nhau thành mạng, nhằm trao đổi thông
tin và chia sẻ các tài nguyên của các máy tính trên mạng.
Một người kết nối vào mạng Internet bằng cách đăng ký một tài khoản
(internet account) từ một nhà cung cấp dịch vụ internet (Internet Service
Provider-ISP) tại địa phương. Nhà cung cấp này cho phép họ truy cập e-mail
(electronic mail - thư điện tử) và World Wide Web viết tắt là WWW (hệ
thống truy cập thông tin toàn cầu).
Nhờ có Web, nên dù không phải là một chuyên gia, bạn vẫn có thể sử
dụng Internet. Sự ra đời của trình duyệt Web (Internet Explorer và Netscape)
hết sức tiện lợi cho người sử dụng cùng với ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản
(HTML - Hyper Text Markup Language) và một loạt các công nghệ web
mutimedia đã tạo cho Internet trở thành một phương tiện hết sức tiện lợi đối
với mọi tổ chức và cá nhân.
Theo định nghĩa của các nhà lập pháp Việt Nam: "Internet là hệ thống
thông tin toàn cầu sử dụng giao thức Internet và tài nguyên Internet để cung
18
cấp các dịch vụ và ứng dụng khác nhau cho người sử dụng dịch vụ viễn
thông" [36, Khoản 14, Điều 3]; "Internet là hệ thống thông tin toàn cầu sử dụng
giao thức Internet (Internet Protocol - IP) và tài nguyên Internet để cung cấp các
dịch vụ và ứng dụng khác nhau cho người sử dụng" [20, Khoản 1, Điều 3].
1.1.1.2. Phân loại các nhóm dịch vụ Internet
a. Dịch vụ kết nối Internet
Là dịch vụ cung cấp cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp khả năng
kết nối với nhau để truyền tải lưu lượng Internet trong nước giữa các tổ chức,
doanh nghiệp đó.
b. Dịch vụ truy nhập Internet
Là dịch vụ cung cấp cho mọi người sử dụng khả năng truy nhập Internet.
Đặc trưng của dịch vụ này là cung cấp các đường truy nhập Internet
trực tiếp và gián tiếp cho khách hàng.
c. Dịch vụ ứng dụng Internet
Là dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng được cung cấp cho người sử
dụng thông qua mạng lưới thiết bị Internet.
Dịch vụ ứng dụng Internet được chia làm 2 nhóm là dịch vụ cơ bản và
dịch vụ giá trị gia tăng:
- Dịch vụ cơ bản là các dịch vụ khách hàng (người sử dụng) sẽ được
sử dụng một cách đương nhiên khi đăng ký sử dụng (chấp nhận sử dụng) như
truy cập từ xa (truy cập gián tiếp qua mạng điện thoại công cộng), truyền tệp
dữ liệu, truy cập các cơ sở dữ liệu theo các phương thức khác nhau (website).
- Dịch vụ gia tăng giá trị là dịch vụ cộng thêm hoặc được phát triển
trên nền các dịch vụ cơ bản, ngoài các dịch vụ cơ bản. Dịch vụ gia tăng giá trị
được chia thành 2 nhóm chính là:
+ Nhóm các dịch vụ không tương tác là các dịch vụ đang được thực hiện
chỉ có một phía khách hàng là người có khả năng chủ động giao tiếp với hệ thống
19
cung cấp dịch vụ của nhà cung cấp. Các dịch vụ không tương tác chỉ thỏa mãn
nhu cầu cho khách hàng bằng những nội dung mà nhà cung cấp đã định sẵn bằng
phương thức chào hàng mà người được chào hàng là các khách hàng. Ví dụ như
dịch vụ Video on Demand (xem video theo yêu cầu), dịch vụ cung cấp thông tin...
+ Nhóm các dịch vụ tương tác là các dịch vụ cho phép các chủ thể có
khả năng chủ động cùng lúc gửi và nhận thông tin qua hệ thống cung cấp dịch
vụ của nhà cung cấp. Ví dụ như Internet Telephony (điện thoại qua Internet),
video conferancing (hội thảo qua mạng Internet), distance learning online
(đào tạo từ xa trên mạng), chatting (trò chuyện qua mạng)...
Ở Việt Nam Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet là văn bản pháp lý hiện hành
cũng qui định các nhóm dịch vụ Internet như trên. Dịch vụ Internet trong
Nghị định 97 được định nghĩa là một loại hình dịch vụ viễn thông.
1.1.1.3. Các chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ Internet
a. Nhà cung cấp dịch vụ kết nối Internet là đơn vị cung cấp dịch vụ kết
nối Internet, cung cấp cổng kết nối Internet ra quốc tế (còn gọi là IXP)
IXP là một đơn vị có trách nhiệm đảm bảo thông suốt cho tất cả mọi
truy cập, mọi giao dịch với Internet từ tất cả những người sử dụng đến từ các
nhà cung cấp dịch vụ. Hai hệ thống lớn mà IXP phải có là hệ thống thiết bị
kết nối truy cập Internet và hệ thống đường trục tốc độ cao nối với các Trung
tâm Viễn thông trong nước và quốc tế.
b. Nhà cung cấp dịch vụ truy nhập Internet là đơn vị cung cấp dịch vụ
truy nhập Internet, cung cấp đường truy nhập Internet trực tiếp và gián tiếp
(còn gọi là ISP)
ISP là những người trung gian giữa người sử dụng và Internet. ISP
cung cấp cho người dùng các dịch vụ như thư điện tử (E-mail), truyền tập tin
(FTP), truy cập các Website trên Internet. Các ISP thuê các dịch vụ kết nối
Internet và đường trục tốc độ cao nối đến cổng của IXP. Trên cơ sở đó, ISP
20
thực hiện các dịch vụ cho khách hàng. Để có thể cung cấp cho khách hàng
những dịch vụ truy cập Internet có chất lượng thì hệ thống thiết bị và năng lực
truyền thông của các ISP phải được trang bị mạnh.
c. Nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng trên mạng Internet là đơn vị cung
cấp các dịch vụ ứng dụng Internet như là điện thoại trên Internet, thương mại
điện tử, thư điện tử (còn gọi là OSP)
d. Nhà cung cấp dịch vụ thông tin trên mạng Internet là đơn vị cung
cấp dịch vụ thông tin trên Internet bao gồm: báo chí (báo nói, báo hình, báo
điện tử), phát hành, sản xuất sản phẩm trên internet và dịch vụ cung cấp các
loại hình tin tức điện tử khác trên Internet (còn gọi là ICP)
Internet được coi như một xa lộ thông tin quốc tế. Thông tin là thành
phần chính giao lưu trên siêu xa lộ đó. Vì vậy, ICP đóng một vai trò rất quan
trọng. Họ là những người thiết lập nên các Website chứa đựng các cơ sở dữ
liệu cho mọi người truy cập. Phần lớn thông tin trên Internet là miễn phí. Các
ICP hoạt động tương tự như các "tòa soạn báo điện tử". Sự sống của các ICP
nằm ở nội dung thông tin. Nội dung đó phải thường xuyên cập nhật, dễ sử
dụng, dễ hệ thống hóa.
Nếu chúng ta có dịp truy cập Website của Ngân hàng thế giới (World
Bank), các Đầu mối Thương mại (Trade Point) hay của các thị trường chứng
khoán (Down Jones), chúng ta sẽ thấy tốc độ cập nhật tin chóng mặt. Đã là
một tòa soạn thì phải có ban biên tập, hệ thống cộng tác viên, các nhà phân
tích và xử lý tin hùng hậu. Ở nước ta, những ICP được phép hoạt động không
mấy ai đạt được yêu cầu đó.
e. Nhà cung cấp tích hợp tất cả các dịch vụ trên:
Một doanh nghiệp có thể tham gia cung cấp dịch vụ Internet với tất cả
các vai trò trên vừa là IXP, ISP, OSP, ICP. Nhưng cũng có thể chỉ là một nhà
cung cấp dịch vụ Internet riêng biệt.
Cho đến nay đã có hơn 10 đơn vị được cấp giấy phép triển khai dịch
vụ truy cập Internet gồm: Công ty Điện toán và truyền số liệu - VDC (là đơn
21
vị được Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam VNPT giao làm đại diện
cho VNPT quản lý, kinh doanh dịch vụ Internet vì vậy VDC là nhà cung cấp
dịch vụ kết nối Internet (IXP) duy nhất đồng thời là nhà cung cấp dịch vụ truy
cập Internet (ISP) và dịch vụ giá trị gia tăng trên Internet (OSP) ở Việt Nam
từ năm 1997), Viettel, FPT, Hanoi Telecom, ETC, Netnam, SPT, Công ty cổ
phần công nghệ mạng (Qtinet), Công ty cổ phần công nghệ Internet (OCI),
Công ty đầu tư phát triển kỹ nghệ (Techcom)... Tuy nhiên trong số đó chỉ có 7
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy cập Internet đó là VDC, FPT, Viettel,
SPT, Netnam, Hanoi Telecom và OCI.
1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ Internet
1.1.2.1. Lợi ích và hạn chế đối với Internet
Internet phát triển nhanh là lý do tiện ích trong sử dụng, cho phép
giảm nhanh chi phí. Sau đây là các lợi ích của Interent:
a. Nắm bắt được thông tin phong phú
Sử dụng Internet trước hết giúp cho các tổ chức, doanh nghiệp nắm
được thông tin phong phú về kinh tế- chính trị- xã hội, nhờ đó có thể xây
dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển
với thị trường trong nước, khu vực và thị trường quốc tế. Điều này đặc biệt có
ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đang được nhiều nước quan
tâm, coi là một trong những động lực phát triển chủ yếu của nền kinh tế.
b. Giảm chi phí sản xuất
Internet giúp giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng.
Các văn phòng không giấy tờ (paperless office) chiếm diện tích nhỏ hơn rất
nhiều, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần (trong đó khâu in
ấn gần như được bỏ hẳn); theo số liệu của hãng General Electricity của Mỹ,
tiết kiệm trên hướng này đạt 30%. Điều quan trọng hơn là các nhân viên có
năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ, có thể tập trung vào
nghiên cứu phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn lâu dài.
22
c. Giảm chi phí giao dịch
Internet giúp giảm thấp chi phí giao dịch, bán hàng và chi phí tiếp thị,
giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí
giao dịch. Bằng phương tiện Internet/Web, một nhân viên bán hàng có thể
giao dịch được với rất nhiều khách hàng, cataloge điện tử trên Web phong
phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với cataloge in ấn chỉ có khuôn
khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời. Chi phí thời gian giao dịch qua Internet chỉ
bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0,05% thời gian giao
dịch qua bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng 5% chi phí giao
dịch qua Fax hay qua bưu điện chuyển phát nhanh. Chi phí thanh toán điện tử
qua Internet chỉ bằng 10% tới 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường.
Bảng 1.1: Tốc độ và chi phí truyền gửi
Đường truyền Thời gian Chi phí
New York đi Tokyo
- Qua bưu điện 5 ngày 7.40 USD
- Chuyển phát nhanh 24 giờ 26.25 USD
- Qua máy Fax 31 phút 28.83 USD
- Qua Internet 2 phút 0.04 USD
New York đi Los Angeles
- Qua bưu điện 2-3 ngày 3.00 USD
- Chuyển phát nhanh 24 giờ 15.50 USD
- Qua máy Fax 31 phút 9.36 USD
- Qua Internet 2 phút 0.04 USD
Hà Nội đi TP. HCM
- Qua bưu điện 3-4 ngày 8.000 VND
- Chuyển phát nhanh 24 giờ 24.000 VND
- Qua máy Fax 31 phút 71.000 VND
- Qua Internet 4 phút 720 VND
(Nguồn: Tài liệu hội thảo Tuần Lễ tin học Việt Nam lần thứ XI, 2002).
23
d. Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác
Internet tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa
các thành tố tham gia vào quá trình giao dịch: Thông qua mạng Internet các
thành tố tham gia (người tiêu thụ, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ) có
thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau (liên lạc trực tuyến) gần như không
còn khoảng cách địa lý và thời gian nữa; nhờ đó cả sự hợp tác đều được tiến
hành nhanh chóng và liên tục; các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới
được phát hiện nhanh chóng trên bình diện toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế
giới và có nhiều cơ hội hơn nữa để lựa chọn.
e. Tiếp cận nền kinh tế số hóa
Đối với quốc gia, Internet sẽ kích thích sự phát triển của ngành công
nghệ thông tin là ngành có lợi nhuận cao nhất và đóng vai trò ngày càng lớn
trong nền kinh tế. Nhìn rộng hơn, Internet tạo điều kiện cho việc sớm tiếp cận
với nền kinh tế số hóa (digital economy) mà xu thế và tầm quan trọng đã được
đề cập đến. Lợi ích này có một ý nghĩa đặc biệt đối với các nước đang phát
triển: nếu không tiếp cận vào nền kinh tế số hóa thì sau một thời gian nữa, các
nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang
tính tiềm tàng, tính chiến lược công nghệ và tính chính sách phát triển mà các
nước chưa công nghiệp hóa cần lưu ý. Có luận điểm cho rằng: sớm chuyển
sang kinh tế số hóa thì một nước đang phát triển có thể tạo ra một bước nhảy
vọt, có thể tiến kịp các nước đã đi trước trong một thời gian ngắn hơn.
Tuy nhiên, mọi vấn đề đều có tính hai mặt. Bên cạnh các lợi ích nêu
trên, Internet cũng có những hạn chế nhất định. Đó là những khó khăn,
những rào cản trong quá trình phát triển Internet. Có thể liệt kê khá nhiều
những thuận lợi của Internet về mặt lý thuyết nhưng vào thời điểm hiện tại
nhận thức của người sử dụng, nhu cầu của người tiêu dùng, khả năng thanh
toán và các điều kiện cần thiết khác chưa xuất hiện là những cản trở Internet
tại Việt Nam. Bên cạnh đó hàng loạt các vấn đề như lợi dụng Internet để đưa
24
tin xuyên tạc, cung cấp thông tin kích động, hình ảnh khiêu dâm, hay vấn đề
bảo mật thông tin, quyền sở hữu trí tuệ, hệ lụy của những trò chơi trực tuyến
đối với xã hội...là những hạn chế của dịch vụ Internet đòi hỏi bất cứ quốc gia
nào trong quá trình phát triển Internet cũng phải quan tâm và có những giải
pháp hợp lý.
1.1.2.2. Những yêu cầu đặt ra đối với dịch vụ Internet
Song song với những lợi ích và những cơ hội rõ rệt có thể mang lại,
Internet đã và đang đặt ra hàng loạt vấn đề phải giải quyết, trên tất cả các bình
diện doanh nghiệp, quốc gia và quốc tế. Để cung cấp dịch vụ Internet (không
phân biệt loại hình dịch dụ Internet gián tiếp hay trực tiếp) cần phải giải quyết
tổng thể hàng chục vấn đề phức tạp đan xen nhau trong một mối quan hệ hữu
cơ bao gồm:
a. Hạ tầng cơ sở công nghệ
Internet là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hóa, của công
nghệ thông tin, mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện tử. Vì thế, chỉ có thể
thực sự tham gia sử dụng Internet hiệu quả đích thực khi đã có một hạ tầng cơ
sở công nghệ thông tin vững chắc, bao gồm tính toán điện tử và truyền thông
điện tử.
b. Yêu cầu đối với nhân lực, trình độ công nghệ thông tin, khả năng
ngoại ngữ
Sử dụng dịch vụ Internet tất yếu làm nảy sinh hai đòi hỏi: một là mọi
người đều quen thuộc và có khả năng thành thạo hoạt động trên mạng, hai là
có một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên bắt kịp các công nghệ
thông tin mới phát triển ra để phục vụ cho kinh tế số hóa nói chung và
Internet nói riêng, cũng như có khả năng thiết kế các công cụ phần mềm đáp
ứng được nhu cầu hoạt động của một nền kinh tế số hóa, tránh bị động, lệ
thuộc hoàn toàn vào nước khác.
25
c. Bảo mật, an toàn
Các giao dịch trên mạng Internet đòi hỏi rất cao về bảo mật và an
toàn, nhất là khi hoạt động trên Internet/Web. Điều đáng ngại nhất là an toàn
và bảo mật dữ liệu. Các hacker dùng nhiều thủ đoạn khác nhau như mạo quan
hệ, bẻ mật khẩu, virus và các chương trình phá từ bên trong, giả mạo địa chỉ
Internet, phong tỏa dịch vụ
Kỹ thuật mã hóa hiện đại đang giúp giải quyết vấn đề này nhưng bản
thân các mã mật cũng có thể bị khám phá bởi các kỹ thuật giải mã tinh vi,
nhất là kỹ thuật của bên có đẳng cấp công nghệ cao hơn hẳn. Cho nên, một
chiến lược quốc gia về mã hóa, kèm theo các chương trình bảo vệ an toàn
thông tin của các cơ quan, doanh nghiệp và của cá nhân đang trở thành một
vấn đề rất lớn.
d. Hệ thống thanh toán điện tử
Internet yêu cầu có một thống thanh toán tài chính phát triển cho phép
thực hiện thanh toán tự động (trong đó, thẻ thông minh có tầm quan trọng đặc
biệt đối với kinh doanh), khi chưa có hệ thống này thì giao dịch trên Internet
chỉ ứng dụng được phần trao đổi thông tin, buôn bán vẫn phải kết thúc bằng
trả tiền trực tiếp hoặc bằng các phương tiện thanh toán truyền thống, khi ấy
hiệu quả của giao dịch qua mạng bị giảm thấp, và có thể không đủ để bù lại
các chi phí trang bị công nghệ đã bỏ ra.
e. Bảo vệ sở hữu trí tuệ
Hiện nay, xu hướng cho thấy, giá trị sản phẩm ngày càng cao ở khía
cạnh chất xám của nó, mà không phải là bản thân nó, tài sản cơ bản của từng
đất nước, từng tổ chức và từng con người đã và đang chuyển thành "tài sản
chất xám" là chủ yếu; thông tin trở thành tài sản, và bảo vệ tài sản cuối cùng
sẽ có nghĩa là bảo vệ thông tin. Vì vậy, vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ và bản
quyền của các thông tin trên Web (các hình thức quảng cáo, các nhãn hiệu
26
thương mại, các cơ sở dữ liệu, các nội dung tài liệu truyền gửi qua mạng) là
một vấn đề đáng quan tâm.
f. Bảo vệ người tiêu dùng
Trên Internet, thông tin về hàng hóa đều là thông tin số hóa, nói giản
đơn là người mua không có điều kiện nếm thử hay dùng thử hàng trước khi
mua, khả năng rơi vào một thị trường mà tại thị trường ấy, người bán không
có cách nào để thuyết phục người mua về chất lượng của cùng một loại hàng
hóa. Chưa kể tới khả năng bị nhầm lẫn các cơ sở dữ liệu, bị lừa gạt bởi các
thông tin và các tổ chức phi pháp có mặt trên mạng.
g. Tác động văn hóa xã hội của Internet
Tác động của văn hóa xã hội của Internet đang là một mối quan tâm
quốc tế, vì hàng loạt tác động tiêu cực của nó đã xuất hiện: một "hòm thư"
giao dịch các tệ nạn; các phim ảnh xấu; các hướng dẫn làm bom thư; các loại
tuyên truyền kích động bạo lực trên Internet đã trở thành một phương tiện
thuận lợi cho các lực lượng chống đối sử dụng để tuyên truyền, kích động lật
đổ chính phủ và gây rối loạn trật tự xã hội.
1.1.2.3. Một số chỉ tiêu liên quan khi đánh giá, thống kê mức độ
phát triển Internet
Internet đã có ảnh hưởng lớn đối với xã hội và kinh doanh trong hiện
tại và tương lai. Tuy vậy, những lợi ích phổ biến mà nó mang lại, cho đến nay
vẫn còn thiếu những số liệu để đánh giá về sự phát triển của Internet, cách
đánh giá về số lượng, chất lượng của thông tin. Để đánh giá mức độ phát triển
dịch vụ Internet thì cần phải có các chỉ số mang tính chuẩn mực. Dưới đây là
một số chỉ tiêu cơ bản để đánh giá:
a. Chỉ số cơ sở hạ tầng
Chỉ số cơ sở hạ tầng là các chỉ số về thiết bị cần dùng cho việc truy
nhập Internet. Nó bao gồm:
27
- Máy chủ (host): Số lượng máy chủ hoặc chỉ số về số lượng máy chủ
trên đầu người là chỉ số thông thường nhất để so sánh sự phát triển Internet.
Chỉ số máy chủ có thể là hữu ích khi nói về lượng máy tính trong một quốc
gia, song nó không nói được nhiều về khả năng truy nhập, vì nó không đo
được số người sử dụng (user).
- Điện thoại và máy tính cá nhân: đường điện thoại và máy tính cá
nhân là các bộ phận quan trọng để truy nhập Internet. Cả hai đều có ảnh
hưởng lớn đến việc phát triển Internet trong một nước. Quốc gia nào có số
lượng máy tính và điện thoại nhiều thì mức độ phát triển Internet cao hơn.
b. Chỉ số truy nhập:
Nhóm chỉ tiêu này đo mức độ truy nhập Internet, bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Người sử dụng: Số người sử dụng dịch vụ Internet là cách đánh giá
cơ bản và toàn diện về truy nhập Internet. Việc thực hiện thống kê số lượng
người sử dụng được thực hiện bởi nhiều đơn vị khác nhau như nhà cung cấp
dịch vụ (ISP) hoặc các trung tâm thông tin mạng.
- Số lượng thuê bao: Số lượng thuê bao Internet (account) là một chỉ
số truy nhập chính xác hơn số lượng người sử dụng Internet. Số lượng thuê
bao cũng nói lên cường độ sử dụng nhất định.
- Độ bao phủ: Là chỉ số phản ánh mức độ dễ dàng truy nhập Internet,
bất kể họ có sử dụng hay không. Chỉ số này biểu thị tiềm năng thị trường
người sử dụng và là số đo cơ bản mức độ phổ cập truy nhập Internet.
c. Chỉ số về chính sách
Đây là nhóm chỉ số quan trọng về phương diện phân tích chính sách
-Số lượng ISP: Một thị trường có nhiều ISP tham gia về lý thuyết sẽ
gây áp lực giá cả và do đó mở rộng khả năng truy nhập. Số lượng ISP trong
một nước thường được lấy làm một chỉ số về tự do hóa thị trường.
28
-Cước phí: Cước phí dịch vụ Internet là một chỉ số quan trọng về
khả năng truy nhập vì nếu người dân không thể chi cho Internet thì họ sẽ
không sử dụng.
-Lưu lượng: Lưu lượng Internet đo việc sử dụng. Lưu lượng sử dụng
ít có thể phản ánh các vấn đề về khả năng thanh toán, hoặc việc thiếu kiến
thức trong sử dụng của khách hàng.
Trên đây là một số chỉ tiêu khi đánh giá mức độ phát triển dịch vụ
Internet cần phải tham khảo tới. Khi phân tích vấn đề dựa vào những mục tiêu
phân tích khác nhau, người ta dùng những chỉ số khác nhau, hoặc sử dụng
tổng hợp các chỉ số.
1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển Internet ở Việt Nam
Internet ở Việt Nam được bắt đầu manh nha từ hệ thống email do
nhóm các nhà khoa học của Viện công nghệ thông tin thiết lập và sau sự kiện
đăng ký tên miền Việt Nam chính thức có tên trên bản đồ công nghệ thế giới,
đến ngày 19/12/1996 Việt Nam tham gia hòa mạng Internet toàn cầu.
Về chính sách lần đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII họp
bàn về quyết định cho phép mở Internet ở Việt Nam. Ngay sau đó Việt Nam
đã ban hành Nghị định 21/CP ngày 05/03/1997 "qui định tạm thời về quản lý
Internet" tạo lập cơ sở hành lang pháp lý nền móng cho các hoạt động Internet
tại Việt Nam. Ngày 19/11/1997, dịch vụ Internet Việt Nam kết nối với thế giới.
Tuy nhiên lúc đó, Internet là một công nghệ mang đậm chất kỹ thuật và rất
đắt đỏ, nó được xem là dịch vụ cao cấp chỉ dành cho những người thu nhập cao,
cán bộ cao cấp hoặc doanh nghiệp lớn. Đến nay, dịch vụ Internet đã có mặt
trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Mạng thông tin toàn cầu đã trở thành dịch vụ
không thể thiếu, ảnh hưởng sâu rộng tới thói quen, sinh hoạt, giải trí của một
bộ phận người dân Việt Nam.
Về hạ tầng mạng, ban đầu, hạ tầng Internet Việt Nam chỉ là một hệ
thống thiết bị nhỏ, được một đối tác của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông
29
Việt Nam viết tắt là VNPT (nay là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam)
lúc bấy giờ đảm nhiệm. Năm 2002, để tạo động lực cạnh tranh, nhà nước
không còn cho phép VNPT độc quyền khai thác hạ tầng kỹ thuật và cho phép
thành lập các IXP (các nhà cung cấp dịch vụ kết nối Internet) khác. Quy định
này đã làm thị trường Internet Việt Nam có sự đột phá mới. Giá cước ngày
càng rẻ. Thủ tục ngày càng đơn giản.
Cụ thể:
Năm 2003, với các quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước cho giảm cước truy cập sử dụng Internet ngang với các quốc gia
trong khu vực, thậm chí có khung cước còn rẻ hơn, đồng thời cho
phép các doanh nghiệp tự mình áp dụng các chính sách quản lý và ấn
định mức cước, số khách hàng thuê bao của các ISP tăng đột biến:
VNPT tăng 258%, SPT - 255%, NetNam - 227%, Viettel - 184% và
FPT - 174%.
Tháng 5-2003, dịch vụ Internet băng thông rộng, gọi tắt là
ADSL, được tung ra thị trường. Ngay từ buổi ban đầu, dịch vụ này
luôn trong tình trạng cung không đủ cầu. Các nhà cung cấp lắp đặt
cáp tới đâu, khách hàng đăng ký tới đó. Có nhiều khu vực, dù chưa
có cáp nhưng đã có khách hàng đăng ký "chờ". Sau 5 tháng triển
khai, số khách thuê bao dịch vụ ADSL của VNPT và FPT đã đạt
đến gần 20.000; sau một năm, số khách thuê bao đã tăng lên đến
71.000 và hiện nay đã lên tới gần 30 triệu người [43].
Nhờ công nghệ ADSL, dịch vụ nội dung trên môi trường mạng phong
phú hơn thuở ban đầu rất nhiều. Nhiều dịch vụ cao cấp hơn như VoIP, Wi-Fi,
các dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng (chat, trò chơi trực tuyến, blog...) ngày
càng sôi động. Nhưng quan trọng hơn là khi băng thông lớn, tốc độ truy cập
nhanh, Internet Việt Nam đã có sự phát triển đột biến. Bên cạnh các tờ báo
điện tử lớn như Vietnamnet, Vnexpress,... các trang web thông tin của các
30
báo, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đều phát triển rất mạnh. Đây
không chỉ là nơi cung cấp thông tin cho người đọc mà còn là nơi trao đổi kinh
nghiệm, là diễn đàn mở về nhiều lĩnh vực trong cuộc sống của con người
trong môi trường ảo
Đến năm 2007, "so với 10 năm trước tốc độ truy cập Internet tăng tới
7.500 lần, từ kết nối 2 Mbps đi Mỹ và Úc trước đây mở rộng thành mạng lưới
tổng băng thông 10,5 Gbps đi nhiều nước khác nhau. Số người sử dụng lên tới
18 triệu, chiếm 21% dân số cả nước" [39]
Sau hơn 10 năm, Internet đã trở thành một bộ phận cơ sở hạ tầng quan
trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội đất nước. Việt Nam trở
thành một điểm sáng trên bản đồ phát triển Internet trên thế giới.
Qua qua lịch sử hình thành và phát triển trên ta có thể thấy sự phát
triển nhanh chóng của Internet tại Việt Nam.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT
DỊCH VỤ INTERNET
Dịch vụ Internet sau một thời gian chuẩn bị đã được chính thức cung
cấp vào tháng 12/1997. Trong hơn 10 năm, Việt Nam đã có những chính sách
để phát triển Internet phù hợp với mỗi giai đoạn. Ban đầu cho VNPT (doanh
nghiệp nhà nước) cung cấp độc quyền, thế thượng phong này bị phá vỡ khi
nhà nước "cởi trói" cho hàng loạt các doanh nghiệp như FPT, Viettel, SPT,
Netnam và EVN Telecom tham gia vào thị trường này. Cuộc cạnh tranh nội
bộ đã mở ra một tương lai sáng cho Internet Việt Nam.
Trên thế giới, quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra một cách mạnh
mẽ, nó lôi cuốn các quốc gia, các ngành, các lĩnh vực tham gia cuộc chơi
chung. Trong xu thế này, Việt Nam đã ký kết Hiệp định thương mại Việt Mỹ
và BTA năm 2003 và đã chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
WTO tháng 12/2006. Đây chính là cơ hội đồng thời cũng là thách thức cho
31
các doanh nghiệp Việt Nam trong hợp tác phát triển kinh tế nói chung và lĩnh
vực Internet nói riêng khi có sự gia nhập của các nhà đầu tư nước ngoài khi
các cam kết Quốc tế của Việt Nam liên quan đến ngành viễn thông bắt đầu có
hiệu lực.
1.2.1. Nhân tố thuộc môi trường quốc tế
Với lộ trình mở cửa viễn thông theo bối cảnh nêu trên, Tập đoàn Bưu
chính Viễn thông và các doanh nghiệp viễn thông khác trong nước sẽ phải đối
mặt với cạnh tranh có yếu tố nước ngoài. Đầu tiên, các công ty Hoa Kỳ và các
công ty nước ngoài khác thuộc lĩnh vực Viễn thông sẽ thâm nhập vào thị
trường viễn thông Việt Nam bằng nhiều cách như thành lập công ty liên
doanh, hoặc hợp tác kinh doanh (BCC) với các nhà khai thác viễn thông Việt
Nam bao gồm cả nhà khai thác viễn thông chủ đạo như VNPT và các nhà khai
thác mới như SPT, VIETEL, Hanoi Telecom, VP Telecom. Sau nữa theo lộ
trình cam kết khi gia nhập WTO, chính phủ Việt Nam phải cho phép các
doanh nghiệp nước ngoài được tham gia sâu hơn nữa vào thị trường viễn
thông Việt Nam như cho phép Công ty 100% vốn nước ngoài hay chi nhánh
công ty nước ngoài được phép hoạt động trong lĩnh vực viễn thông tại Việt
Nam. Như vậy, doanh nghiệp viễn thông Việt Nam sẽ vừa phải cạnh tranh với
các nhà khai thác viễn thông liên doanh, liên kết nước ngoài vừa phải cạnh
tranh với chính các nhà khai thác nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
Vì vậy, các doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một lộ trình và
chính phủ phải có chính sách phù hợp với yêu cầu của quá trình hội nhập để
tận dụng được các lợi ích, đồng thời hạn chế đến mức tối đa các xáo trộn hay
thiệt hại khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế theo các lộ trình đã cam kết.
1.2.2. Nhân tố thuộc môi trường trong nước
Các nhân tố ảnh hưởng tới dịch vụ Internet theo nghiên cứu thị trường
Việt Nam:
32
a. Xu hướng tiêu dùng của khách hàng sử dụng dịch vụ Internet
- Lựa chọn đầu tiên là Internet tốc độ cao
- Mong muốn sử dụng nhiều dịch vụ, tiện ích giải trí mới trên mạng
- Sử dụng nhiều dịch vụ trên cùng một kết nối, một nhà cung cấp
- Tiếp tục gia tăng nhu cầu sử dụng Internet công cộng và Internet tại
các khu tập trung.
- Thị trường bắt đầu chuyển dịch về khu vực lân cận thành phố, thị
trấn thị xã.
b. Xu hướng công nghệ
- Dịch vụ nội dung và GTGT (giá trị gia tăng) trên mạng phát triển
- Mạng Wi-Fi có xu hướng bùng nổ, triển khai mở rộng tại nơi công cộng
- Băng rộng không dây thế hệ mới được triển khai mạnh hơn
(Wimax, EVDO)
c. Xu hướng nhà cung cấp
- Đẩy mạnh đầu tư phát triển và nâng cấp hệ thống, tăng nhanh thị phần
- Mở rộng kênh bán hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng
đăng ký, đẩy nhanh thời gian cung cấp dịch vụ.
- Tổ chức khuyến mại liên tiếp trong năm nhằm lôi kéo khách hàng
- Triển khai các dịch vụ giá trị gia tăng đi kèm, tạo sự hấp dẫn, tối đa
khai thác nhu cầu của khách hàng
1.2.3. Nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp
- Nhân tố con người
Nhân tố con người tác động đến mạnh lên hàng hóa, dịch vụ thông
qua các yếu tố năng suất lao động, sự sáng tạo, ý thức chấp hành kỷ luật, thái
33
độ phục vụ khách hàng và ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng
sản phẩm, chi phí sản xuất
- Khả năng tài chính
Cũng như bất kì lĩnh vực kinh doanh nào, một doanh nghiệp nếu có
tiềm lực tài chính lớn sẽ có thuận lợi trong việc nắm bắt cơ hội kinh doanh,
thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao giá trị của hàng hóa, dịch vụ như đổi
mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị để đảm bảo, nâng cao chất
lượng sản phẩm, hạ giá thành hay tăng cường quảng cáo và xúc tiến bán
hàng... để khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, củng cố vị trí
của mình trên thị trường.
- Sự phù hợp của công nghệ:
Tình trạng, trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một
cách sâu sắc tới sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Đó là yếu tố vật chất quan trọng
bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến
chất lượng, năng suất sản xuất cũng như giá thành và giá bán sản phẩm, dịch
vụ. Một doanh nghiệp có công nghệ phù hợp sẽ có một lợi thế lớn so với các
đối thủ khác do có chi phí sản xuất thấp, chất lượng hàng hóa cao, mẫu mã
đẹp. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ bị bất lợi khi họ chỉ có công nghiệp lạc hậu.
- Chiến lược kinh doanh:
Mục tiêu đề ra của doanh nghiệp không chỉ là tăng lợi nhuận mà còn
phải tìm một chỗ đứng thích hợp nhưng vững chắc trong thị trường, đặc biệt
khi càng ngày càng có nhiều đối thủ tham gia thị trường, mạnh hơn, năng
động hơn và được sự hỗ trợ rất nhiều của khoa học công nghệ hiện đại. Để có
được kết quả khả quan trong môi trường kinh doanh gay gắt đó thì doanh
nghiệp phải thực hiện tốt các công tác nghiên cứu, đánh giá tổng quát thị
trường; phân tích khả năng của doanh nghiệp; lựa chọn và phân đoạn thị
trường nước ngoài, tìm hiểu các đối thủ với những chiến lược Marketing và
34
chiến lược thị trường Quốc tế nhằm cụ thể hóa định hướng hoạt động và phát
triển cho doanh nghiệp nhằm mục đích khai thác lợi thế và nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm.
- Uy tín của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có uy tín với khách hàng thì đồng nghĩa với việc
doanh nghiệp đó có được lợi thế trong kinh doanh trong lĩnh vực sản phẩm,
dịch vụ của mình. Uy tín doanh nghiệp được xây dựng dựa trên chất lượng,
giá trị sử dụng của sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng, thời gian giao hàng, giá
trị sử dụng của sản phẩm, quy mô của doanh nghiệp.
- Sức ép tăng trưởng - tái cơ cấu doanh nghiệp
VNPT đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thành lập Tập đoàn
Bưu chính Viễn thông năm 2006 đã tạo ra bước phát triển mới cho ngành Bưu
chính viễn thông. Từ doanh nghiệp nhà nước với các công ty thành viên hạch
toán phục thuộc nay đã trở thành tập đoàn đa ngành nghề theo mô hình hoạt
động công ty mẹ và các công ty con.
1.2.4. Nhân tố quản lý nhà nước
Internet bắt đầu vào Việt Nam từ 1997, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Việt Nam đã có đường lối và chính sách khá "mở" cho quản lý dịch vụ Internet.
Chính sách này được thể hiện ở hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật của
Nhà nước điều chỉnh việc quản lý các hoạt động liên quan đến lĩnh vực viễn
thông và Internet. Chính sách này có các mục tiêu cụ thể như sau:
- Đảm bảo tự do Internet, khuyến khích sử dụng Internet để phục vụ
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; hỗ trợ cải cách hành chính; nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt
Nam. Khuyến khích việc ứng dụng Internet trong các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội để nâng cao năng suất lao động; mở rộng các hoạt động thương
mại; hỗ trợ cải cách hành chính, tăng tiện ích xã hội, nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân và bảo đảm an ninh, quốc phòng.
35
Chính nhờ đó, qua hơn mười năm hình thành và phát triển dịch vụ
Internet ở Việt Nam, trình độ phát triển và tốc độ đăng ký sử dụng Internet tại
Việt Nam đã tăng nhanh, đạt mức tương đương nhiều nước ở khu vực. Hiện
nay Internet đã hình thành mạng lưới cung cấp dịch vụ phủ khắp các tỉnh,
thành phố. Việt Nam đã và đang thực hiện kế hoạch phát triển các điểm nối
mạng Internet tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Theo đánh giá của
tổ chức Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), Việt Nam là nước có tốc độ phát
triển Internet nhanh nhất thế giới.
- Nhà nước Việt Nam chủ trương khuyến khích phát triển và sử dụng
trang thông tin điện tử cá nhân.
Khuyến khích khả năng tương tác trên môi trường Internet để trao đổi,
chia sẻ các thông tin; làm phong phú thêm đời sống xã hội và tinh thần gắn
kết cộng đồng. Số người tham gia các diễn đàn trên mạng ngày càng nhiều,
hiện ở Việt Nam đã có khoảng trên 1,1 triệu người viết nhật ký cá nhân trên
mạng (blog).
- Tạo mọi điều kiện ưu tiên, hình thành môi trường thuận lợi để Việt
Nam trở thành địa điểm đầu tư hấp dẫn và tin cậy của các đối tác quốc tế, đặc
biệt là các tập đoàn ICT lớn. Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế, các
hình thức đầu tư nước ngoài, kể cả hình thức 100% vốn nước ngoài tham gia
phát triển công nghiệp ICT.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh - sử dụng internet.
Tiếp tục gia tăng giấy phép IXP, ISP, IXP, OSP.
- Đưa số lượng người dùng Internet tại Việt năm tính trên 100 dân
bằng mức trung bình trên thế giới đến 2010. Tuy nhiên nếu so sánh với mức
thu nhập trung bình trên thế giới thì chi phí cho sử dụng Internet tại Việt Nam
vẫn còn cao.
Như vậy có thể nói Việt Nam đã có những chính sách cơ bản và quan
trọng về môi trường pháp lý với mục tiêu thành lập một ngành viễn thông
36
mạnh mẽ điều này lần lượt sẽ là nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế trong
ngành viễn thông và các doanh nghiệp có khả năng về công nghệ thông tin.
Tuy nhiên quá trình cải cách của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện.
Nhiều cơ chế, chính sách còn chưa được ban hành kịp thời, phù hợp với tốc
độ và nhu cầu phát triển công nghệ và thị trường. Về tính minh bạch trong
quản lý, cơ quan quản lý hiện nay không thực sự đạt được những chuẩn mực
quốc tế về độc lập, điều này tác động tới việc cấp phép, kết nối không phân
biệt đối xử và bù chéo về giá cước.
1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ
DỊCH VỤ INTERNET
1.3.1. Mối quan hệ giữa pháp luật và Internet
Pháp luật hình thành và phát triển từ xa xưa trong khi Internet là sản
phẩm tiên tiến của công nghệ do con người tạo ra thế kỷ thứ XVIIII. Tuy
pháp luật và Internet khác biệt nhau về bản chất, quá trình hình thành và phát
triển song giữa pháp luật và công nghệ nói chung và công nghệ thông tin nói
riêng (và ở đây tôi đang đề cập đến một sản phẩm cụ thể của công nghệ đó là
Internet) có mối liên hệ tác động qua lại với nhau, đặc biệt trong bối cảnh hiện
nay như các mối quan hệ cụ thể giữa pháp luật với tội phạm công nghệ cao,
hay pháp luật với các hành vi lừa đảo buôn bán trên mạng, pháp luật đối với
việc quản lý dịch vụ kinh doanh mạng... là các vấn đề thời sự hiện nay.
Công nghệ phát triển tác động và làm thay đổi diện mạo của pháp luật,
thậm chí làm thay đổi cả nền tảng của pháp luật. Với đặc thù của Công nghệ
thông tin sự toàn cầu hóa, số hóa, khả năng ứng dụng từ xa của công nghệ số
dẫn đến không cần cơ quan trung ương điều khiển, quản lý là đặc điểm cơ
bản, quan trọng của pháp luật. Với đặc thù này, công nghệ làm mất đi cơ sở
của hoạt động quản lý bằng pháp luật, hay đúng hơn là nó đặt ra yêu cầu phải
xây dựng phương thức quản lý mới mà pháp luật quốc gia đã không thể đảm
nhận được đó là phương thức quản lý bằng công cụ pháp luật "chung".
37
Công nghệ thông tin phát triển cho đến nay đã trở thành một hiện
tượng xã hội quan trọng và ứng dụng Internet đang xâm chiếm các doanh
nghiệp, các cơ quan hành chính và các gia đình và trong mối quan hệ giữa con
người. Chính vì vậy cần có công cụ quản lý hiện tượng xã hội nảy sinh và
quan trọng đang xâm chiếm hoạt động của con người đó chính là pháp luật.
Pháp luật tác động lại Công nghệ thông tin bằng việc đặt ra một số qui tắc, qui
định bắt buộc cho hoạt động phát triển công nghệ, nhằm một mặt bảo vệ các
quyền cơ bản vốn là nền tảng của xã hội và mặt khác là bảo vệ sự cân bằng
thiết yếu trong hệ thống pháp luật hiện hành đã được thiết lập trong một xã
hội thông tin. Đồng thời pháp luật cũng tạo ra một môi trường thuận lợi cho
việc phát triển xã hội đó, đó là xã hội thông tin. Và hai vấn đề quan tâm đó
được thể hiện trong nhiều qui định đặc thù trong bối cảnh phát triển của công
nghệ thông tin và truyền thông hiện nay mà ta sẽ xem xét và phân tích tại các
chương tiếp theo của luận văn này.
1.3.2. Sự cần thiết phải xây dựng, đổi mới chính sách và pháp luật
về dịch vụ Internet
Trong những năm qua, sự phát triển các ứng dụng trên nền Internet đã
đem lại cho mọi người dân trên thế giới những lợi ích không thể phủ nhận.
Thông tin trên Internet vô cùng phong phú và đa dạng và cung cấp cho người
sử dụng khắp nơi khả năng truy cập, chia sẻ dữ liệu dễ dàng khi có kết nối,
tăng cường khả năng giao lưu, trao đổi thông tin giữa mọi người với nhau,
thúc đẩy xã hội phát triển. Đây là xu thế phát triển chung không biên giới của
thời đại khoa học - công nghệ. Vì vậy có thể nói Internet ngày càng có ảnh
hưởng lớn tới đời sống của con người và trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên bên cạnh các lợi ích của Internet, mặt trái, mặt tiêu cực của
Internet cũng là vấn đề nổi cộm mà các nhà chính sách, quản lý phải lưu tâm.
Do đặc thù của môi trường công nghệ thông tin cho phép mọi người đều có
38
thể dễ dàng cung cấp thông tin ở mọi lúc, mọi nơi nên Internet cũng là môi
trường thuận lợi cho các đối tượng xấu lợi dụng cung cấp những thông tin không
lành mạnh, độc hại, lừa đảo và người sử dụng không phải lúc nào cũng có đủ
sự tỉnh táo trong việc lựa chọn hoặc loại bỏ những thông tin này. Như việc lợi
dụng Internet để thực hiện các hoạt động tiêu cực, không phù hợp với đạo lý,
nhân phẩm, văn hóa truyền thống và nền văn minh hiện đại cụ thể như kinh
doanh dịch vụ sex trên mạng, hay game bạo lực ảnh hưởng đến thế hệ trẻ...
Vì vậy song hành cùng với các chính sách khuyến khích, phát triển
Internet để tối đa hóa sử dụng các lợi ích, hiệu quả cộng hưởng mà Internet
mang lại đối với xã hội và kinh doanh. Nhà nước Việt Nam cũng như các
nước khác trên thế giới cũng phải lưu tâm tới việc quản lý lĩnh vực này để bảo
vệ an ninh quốc gia, các giá trị đạo đức - thuần phong mỹ tục, bảo vệ trẻ em
khỏi tác động tiêu cực của Internet, ngăn chặn các hành vi phạm pháp, thông
tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức và danh dự của công
dân... Đây là một yêu cầu tất yếu và là thực tế áp dụng ở nhiều nước trên thế
giới. Môi trường Internet cần phải được quản lý bằng luật lệ và quy định của
các chính phủ nhằm bảo vệ vấn đề bản quyền, ngăn chặn sự độc quyền và bảo
vệ trẻ em khỏi những nội dung độc hại đang tồn tại trên Internet.
Tuy nhiên, công tác quản lý không theo kịp những phát triển của công
nghệ cùng những ứng dụng kèm theo của dịch vụ Internet. Như trò chơi trực
tuyến hay còn gọi là Game online. Gần đây trên phương tiện thông tin đại
chúng nói nhiều đến các trường hợp thanh thiếu niên phạm tội nghiêm trọng
như giết người, cướp của để lấy tiền đi lướt "net" hay chơi game. Có trường
hợp gần đây cháu giết ông để lấy tiền chơi game, hay bản thân các em bị
chứng hoang tưởng do game đem lại...ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, đạo đức
xã hội.
Chính vì vậy cần thiết phải lưu tâm đến vấn đề xây dựng, đổi mới,
điều chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật để quản lý lĩnh vực Internet. Đảm
39
bảo hệ thống quản lý này phù hợp với khách quan, phát triển của xã hội; trong
từng giai đoạn cụ thể phải tích hợp được các giải pháp quản lý hiệu quả ngăn
chặn được các tiêu cực của Internet giảm thiệt hại xã hội đồng thời phù hợp
với qui ước, chuẩn mực của cộng đồng quốc tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 đã đề cập và hệ thống hóa những lý luận chung nhất, cô
đọng nhất về dịch vụ Internet, đưa ra các khái niệm, những đặc điểm chung
của Internet, ý nghĩa và sự cần thiết của hệ thống văn bản điều chỉnh lĩnh vực
này. Đây thực sự là công cụ và nền tảng cần thiết để xem xét, đánh giá, phân
tích thực trạng hệ thống qui định hiện hành về Internet trong các chương sau.
40
Chương 2
HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN ĐIỀU CHỈNH INTERNET
2.1. HỆ THỐNG VĂN BẢN VỀ INTERNET
Nguồn của pháp luật về Internet là tổng thể các nguyên tắc và qui
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về Internet. Nguồn của hệ thống văn
bản luật điều chỉnh Internet bao gồm hai nguồn đó là nguồn từ văn bản Quốc
tế (điều ước Quốc tế đa phương, song phương, văn bản kỹ thuật Quốc tế
chuyên ngành) và nguồn văn bản từ trong nội bộ mỗi nước.
Để hiểu được hệ thống nguồn văn bản điều chỉnh Internet trước tiên ta
tìm hiểu đặc điểm sự hình thành và phát triển hệ thống văn bản điều chỉnh
Internet.
2.1.1. Đặc điểm sự hình thành và phát triển hệ thống văn bản điều
chỉnh Internet
Do đặc tính "mở" về công nghệ, mạng Internet toàn cầu cho phép mọi
người trên toàn thế giới có thể dễ dàng truy cập để khai thác thông tin, nhưng
đồng thời cũng có thể cung cấp thông tin lên mạng Internet một cách không
hạn chế. Với đặc tính trên mạng Internet trở thành môi trường lưu giữ thông
tin đáp ứng các nhu cầu thông tin thiết yếu của con người.
Hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật theo phương thức truyền
thống cũng bị tác động sâu sắc bởi chính các đặc tính của công nghệ này.
Trong tất cả các lĩnh vực Nhà nước áp đặt pháp luật theo thẩm quyền đã được
qui định rõ trong Hiến pháp của từng quốc gia và giữ độc quyền thông qua bộ
máy tư pháp của mình. Tính toàn cầu của Internet, cơ sở hạ tầng phân tán,
hoạt động bằng công nghệ số không cần thiết lập trên một lãnh thổ nhất định
và tính chất tương tác của Internet đã làm đảo lộn cấu trúc truyền thống của
hệ thống pháp luật dựa trên chủ quyền của một quốc gia. Ngày nay, một hệ
41
thống thông tin được thiết lập, sử dụng và vận hành không thể tách rời khỏi
mạng lưới toàn cầu là các giao thức (ICP/IP) và ứng dụng của mạng Internet.
Vì vậy mạng Internet được điều tiết trong bối cảnh rộng hơn một quốc gia vì
thực tế các mạng tương tác với nhau và Internet không bị giới hạn bởi biên
giới quốc gia.
Trong bối cảnh như vậy khó thể có cơ chế quản lý Internet bằng pháp
luật quốc gia. Và thay vào đó là một hệ thống các qui chuẩn và cơ chế điều
tiết theo ý chí của người thiết lập mạng và người sử dụng Internet như cơ chế
điều tiết bằng kỹ thuật, bằng việc qui chuẩn hóa cơ sở hạ tầng mạng toàn cầu,
bằng qui luật về giao thức... Từ đó, bên cạnh hệ thống pháp luật truyền thống,
các cộng đồng mạng có thêm nhiều hệ thống qui chuẩn riêng với những nội
dung, phương thức kiểm soát, cơ chế giải quyết tranh chấp, chế tài khác. Cụ
thể, trong kiến trúc kỹ thuật cùng với các đặc tính của mạng (các giao thức,
tiêu chuẩn giao tiếp...) tạo ra một môi trường trong đó qui định một số hành vi
được phép thực hiện và các hành vi khác bị cấm để kiểm soát không gian
mạng còn được gọi là qui tắc về kỹ thuật. Và các nhà lập pháp sẽ phải tính
đến các qui chuẩn kỹ thuật này trong hoạt động xây dựng pháp luật về Internet.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển Internet không chỉ thâm nhập vào
trong hoạt động của doanh nghiệp, cơ quan, gia đình mà còn tác động đến các
giá trị văn hóa, đạo đức, mọi mặt của xã hội...do đó Nhà nước buộc phải can
thiệp, một mặt để đáp ứng yêu cầu đảm bảo an ninh quốc gia, mặt khác thiết
lập một môi trường pháp lý để phát triển kinh tế trên nền công nghệ gọi là
thương mại điện tử. Với đặc điểm của công nghệ đã phân tích ở trên làm thay
đổi diện mạo quản lý thông thường của pháp luật do đó các quốc gia phải hợp
tác để thiết lập và xây dựng tổ chức quản lý mang tính chất toàn cầu, tổ chức
này có chức năng điều hành mạng toàn cầu của tất các quốc gia. Và các tổ
chức quốc tế là giải pháp cho vấn đề này. Năm 1992 Hiệp hội Internet ra đời,
đến khi có công nghệ web thì Liên minh mạng toàn cầu - W3C được thành
lập năm 1994, tiếp đó cơ quan quản lý tên miền Internet Quốc tế là ICANN
42
thành lập 1998...Các tổ chức này không chỉ có thẩm quyền về mặt kỹ thuật
mà còn là một nguồn qui phạm dùng để định hướng ứng xử của người sử
dụng Internet.
2.1.2 . Hệ thống văn bản quốc tế điều chỉnh Internet
Như trên đã nói, các tổ chức toàn cầu do các nước thành lập ra không
chỉ là tổ chức xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật đặc thù mà còn cả qui phạm điều tiết
các quan hệ về Internet. Có thể kể ra đây các tổ chức có thẩm quyền điều tiết lĩnh
vực Internet:
a. Unesco
Là tổ chức có thẩm quyền truyền thống trong lĩnh vực phát triển khoa
học, văn hóa và giáo dục có nhiều qui phạm điều chỉnh và áp dụng trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, truyền thông.
b. ISO/IEC27002
Qui chuẩn kỹ thuật về an toàn hệ thống thông tin do Tổ chức tiêu
chuẩn quốc tế phụ trách xây dựng
c. WTO
Tổ chức đảm bảo vấn đề tự do trao đổi trong thương mại quốc tế, bao
gồm cả thương mại điện tử và một số thỏa thuận về dịch vụ và sản phẩm
trong lĩnh vực thông tin và truyền thông. 1994 WTO soạn thảo Hiệp định
TRIPS_ Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại trong đó
có một số qui định về việc bảo vệ chương trình máy tính.
d. UNCITRAL
Ủy ban pháp luật Thương mại Quốc tế của Liên hợp quốc đã xây dựng
bộ luật mẫu trong lĩnh vực thương mại điện tử gồm có Luật mẫu về chữ ký
điện tử năm 2001, Luật mẫu về Thương mại điện tử năm 1996, Công ước của
Liên hợp quốc về sử dụng công cụ điện tử trong việc ký kết hợp đồng quốc tế
năm 2005.
43
e. OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế đưa ra bộ nguyên tắc chỉ đạo
năm 1980 về bảo vệ dữ liệu, Nguyên tắc về an toàn các hệ thống thông tin 1992,
Điều kiện chung về việc tính thế năm 1998 và định hướng về chính sách cần
thực hiện nhằm bảo vệ và tăng cường sự tự chủ của người tiêu dùng trong
thương mại điện tử 1999, và định hướng trong đấu tranh chống hành vi trộm
cắp thông tin về danh tính cá nhân 2008.
f. WIPO
Tổ chức thế giới về Sở hữu trí tuệ đã đưa ra Qui chế CISAC và
SECEM điều chỉnh công tác bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan và kiểm
chứng của các tác thẩm trên mạng kỹ thuật số toàn cầu.
g. ITU
Hoạt động chính của ITU bao trùm tất cả các vấn đề thuộc lĩnh vực
viễn thông. ITU có ba khu vực hoạt động chính: ITU-R liên quan đến hệ
thống và thiết bị phát thanh; ITU-T: Biên soạn các quy định kỹ thuật về hệ
thống, mạng và dịch vụ bưu chính - viễn thông; ITU-D: Soạn thảo những
khuyến nghị, nghị quyết, hướng dẫn, sổ tay, báo cáo...
Việt Nam tham gia vào hoạt động của ITU từ năm 1976. Hiện nay, Bộ
Thông tin Truyền thông đang là đại diện của Việt Nam tại tổ chức này. Trong
các hoạt động tiêu chuẩn hóa của ITU-T, chúng ta chỉ mới tập trung chủ yếu
vào việc tham gia ở những lĩnh vực nhạy cảm và có ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi quốc gia như vấn đề tính cước, thanh toán cước quốc tế (do nhóm
nghiên cứu số 3 - SG3 - đảm nhiệm). Bên cạnh SG3, chúng ta đã bắt đầu
tham gia các hoạt động của SG4 về tương thích điện từ (EMC). Từ năm 1996,
Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam đã tham gia các khóa họp hội
nghị về Tiêu chuẩn viễn thông thế giới (tổ chức 4 năm 1 lần) và từ năm 2002,
tham gia nhóm Tư vấn về Tiêu chuẩn hóa viễn thông (TSAG).
44
Ngoài các Qui chế do các Tổ chức Quốc tế xây dựng, còn có các văn
bản Quốc tế khác do các nước tự nguyện ký cam kết vì lợi ích chung, trong
các văn bản này có các điểm liên quan đến lĩnh vực Công nghệ, Internet như:
- Hiệp định TRIPs
- Công ước Toàn cầu về bản quyền ký tại Geneva 1952 (còn gọi là
Công ước Berne)
- Công ước Quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất ghi âm tổ
chức phát sóng (Công ước Rome 1961)
- Công ước WIPO về quyền tác giả thông qua Geneva 12/1996 (Công
ước WCT)
- Công ước WIPO về cuộc biểu diễn và ghi âm thông qua tại Geneva
ngày 20/12/1996 (Công ước WPPT)
- Công ước Brussels hay còn gọi là Công ước Vệ tinh năm 1974 liên
quan đến việc phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh.
- Qui chế của WTO
Đặc điểm chung của các Qui chế do tổ chức quốc tế xây dựng thường
thuộc phạm trù « luật mềm » theo kiểu luật mẫu, hoặc các khuyến cáo,
khuyến nghị...để các nước xem xét, áp dụng không có tính chất ép buộc.
Các qui chế do tổ chức đa Quốc gia xây dựng, đưa ra vẫn tồn tại các
qui định có sự chồng lấn lẫn nhau như vấn đề sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền
của WIPO nhưng qui chế của WTO hay UNESCO cũng được đề cập.
2.1.3. Hệ thống văn bản điều chỉnh Internet của Việt Nam
Thời điểm 1997 khi dịch vụ Internet có mặt tại Việt Nam:
- Qui chế tạm thời về quản lý, thiết lập sử dụng mạng Internet ở Việt
Nam ban hành kèm theo Nghị định 21/CP ngày 05/3/1997 của Chính phủ.
45
- Thông tư liên tịch nội vụ, văn hóa - thông tin và Tổng cục Bưu điện
hướng dẫn việc cấp phép kết nối, cung cấp và sử dụng Internet ở Việt Nam.
- Qui định về cấp phép cung cấp thông tin lên mạng Internet ban hành
kèm theo Quyết định số 1110/BC ngày 21/5/1997 của Bộ Văn hóa - Thông tin.
Cùng với hơn 10 năm hình thành và phát triển của Internet, Việt Nam
ban hành nhiều văn bản điều chỉnh lĩnh vực này. Danh mục sau:
- Nghị định 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ
Internet ban hành 23/8/2001.
- Thông tư số 04/2001/TT-TCBĐ của Tổng cục Bưu điện về quản lý,
cung cấp và sử dụng dịch vụ internet, và dịch vụ kết nối;
- Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông số 43/2002/PL-UBTVQH10 đã
được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X thông qua ngày 25/02/2002, có
hiệu lực từ ngày 01/10/2002;
- Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT ngày 10 tháng 10 năm 2002
của Bộ Văn hóa - Thông tin về việc ban hành Quy chế quản lý và cấp giấy
phép cung cấp thông tin, thiết lập trang tin điện tử trên Internet.
- Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg ngày 8/2/2002 phê duyệt "kế hoạch
phát triển Internet VN"
- Quyết định số 217/2003/QĐ-TTg ngày 27/10/2003 của Thủ tướng
Chính phủ về "quản lý giá và cước bưu chính viễn thông".
- Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA (A11) về đảm bảo an toàn, an ninh
trong hoạt động quản lý, sử dụng internet tại Việt Nam...
- Nghị định số 160/2004/NĐ-CP ngày 3/9/2004 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông.
Đến thời điểm này hệ thống các văn bản hiện đang điều chỉnh các hoạt
động liên quan đến lĩnh vực này bao gồm:
46
a. Hệ thống văn bản liên quan
- Luật Báo chí
- Luật Công nghệ thông tin
- Luật Công nghệ cao
- Luật tần số vô tuyến điện
- Luật giao dịch điện tử
- Luật sở hữu trí tuệ
- Pháp luật về xuất bản
- Pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
- Pháp luật về bản quyền
- Pháp luật về quảng cáo
- Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 Qui định chi tiết Luật
Thương mại về hàng hóa dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và
kinh doanh có điều kiện
- Nghị định 63/2007/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực công nghệ thông tin
- Nghị định số 90/2008/NĐ-CP về chống Thư rác
- Nghị định số 03/2000/CP ngày 03/2/2000 hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Doanh nghiệp
b. Hệ thống văn bản điều chỉnh trực tiếp
- Luật Viễn thông
- Nghị định số 25/2011/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật Viễn thông
- Nghị định số 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
Internet và thông tin điện tử trên Internet
47
- Thông tư 14/2010/TT-BTTTT qui định chi tiết một số điều của
Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và
thông tin điện tử trên Internet
- Thông tư số 07/2008/TT-BTTTT hướng dẫn một số nội dung về
hoạt động cung cấp thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân và thông tin
điện tử trên Internet.
- Thông tư 09/2008/TT-BTTTT ngày 24/12/2008 về quản lý, cung
cấp và sử dụng tài nguyên Internet
- Nghị định số 28/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet
- Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BBCVT-BVHTT-BCA-BKHĐT
về quản lý đại lý Internet
- Thông tư liên tịch số 60/2006/TTLT-BVHTT-BCVT-BCA (Thông
tư 60) về quản lý trò chơi trực tuyến
Ngoài ra, chính phủ Việt Nam còn ban hành các văn bản, quyết định
mang tính kế hoạch, chiến lược như sau:
- Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch phát triển
Internet Việt Nam giai đoạn 2001-2005
- Quyết định số 32/2006/QĐ-TTg ngày 07/02/2006 phê duyệt Qui
hoạch phát triển viễn thông và Internet Việt Nam đến năm 2010
- Quyết định số 158/2001/QĐ-TTg ngày 18/10/2001 về phê duyệt
"Chiến lược phát triển Bưu chính, Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và
định hướng đến 2020".
- Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 1/6/2009 Phê duyệt Kế hoạch tổng
thể phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020
48
- Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 Phê duyệt chiến
lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020
- Chỉ thị 07/CT-BBCVT ngày 7/7/2007 Về Định hướng Chiến lược
phát triển Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam giai đoạn 2011 -
2020 (gọi tắt là "Chiến lược Cất cánh")
- Quyết định số: 1755/QĐ-TTg ngày 22 tháng 09 năm 2010 phê duyệt
đề án "Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về Công nghệ thông tin và
Truyền thông".
Bên cạnh đó còn một hệ thống các cơ chế, chính sách và văn bản khác
của Bộ Bưu chính, Viễn thông và các văn bản liên tịch giữa Bộ Bưu chính,
Viễn thông và các Bộ Ngành liên quan điều chỉnh chuyên ngành, và các văn
bản thuộc các Tỉnh, Thành phố địa phương ban hành quản lý dịch vụ Internet
tại địa phương như Quyết định số 15/2010/QĐ-UBND ngày 26/4/2010 của
Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội qui định về quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ Internet tại các đại lý Interrnet trên địa bàn thành phố Hà Nội.
2.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG HỆ THỐNG VĂN BẢN ĐIỀU CHỈNH INTERNET
CỦA VIỆT NAM
2.2.1. Đối với nhu cầu khách quan
Trong hơn nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, Nhà nước Việt Nam đã ban
hành một khối lượng rất lớn các văn bản pháp luật để điều hành và quản lý xã
hội, quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước bằng pháp luật là một nguyên tắc rất
quan trọng và đã được thể hiện trong Hiến pháp Việt Nam - đạo luật cơ bản của
Nhà nước. Lĩnh vực Internet cũng không nằm ngoài qui luật và nguyên tắc trên.
Trên thế giới, Internet được sử dụng từ thập niên 1980. Ở Việt Nam,
đến thập niên 1990 Internet mới được biết đến và đến cuối năm 1999 Internet
mới chính thức đi vào sử dụng khi Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt
49
Nam (nay là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam) khai trương ra mắt
dịch vụ Internet và kết nối với mạng thế giới vào ngày 19 tháng 11 năm 1999.
Trong lĩnh vực pháp luật, để "đón đầu" sự kiện trên cũng như thiết lập
trước hành lang pháp lý để quản lý lĩnh vực này từ tháng 3 năm 1997 Chính
phủ Việt Nam đã ban hành Qui chế tạm thời về quản lý, thiết lập sử dụng
mạng Internet ở Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 21/CP ngày 05/3/1997
của Chính phủ. Đó là các văn bản đầu tiên của nhà nước quản lý lĩnh vực
Internet. Và từ đó cho đến nay, trong quá trình phát triển của dịch vụ Internet,
nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp lý để quản lý lĩnh vực này đáp ứng
yêu cầu quản lý thực tế, điều này có thể thấy rõ tại phần 2.1.3 của luận văn
này mục hệ thống các văn bản của Việt Nam điều chỉnh Internet. Các văn bản
tập trung điều chỉnh ba vấn đề lớn thuộc lĩnh vực Internet đó là việc quản lý,
cung cấp và sử dụng Internet; việc cấp phép điều chỉnh hoạt động thuộc lĩnh
vực báo chí cụ thể là báo điện tử, và các trang website thông tin điện tử và trò
chơi trực tuyến gameonline và các văn bản liên quan đến định hướng phát
triển Internet Việt Nam.
Nhìn chung, Việt Nam đã ban hành được một hệ thống các văn bản
điều chỉnh quan hệ Internet tương đối đầy đủ và phù hợp với khách quan. Tuy
nhiên, theo qui luật của cuộc sống, xã hội luôn luôn phát triển, các vấn đề xã
hội hàng ngày nảy sinh các nhân tố mới đòi hỏi văn bản pháp luật phải đáp
ứng và điều chỉnh kịp thời, do đó các cơ quan chuyên môn quản lý lĩnh vực
Internet vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế, chính sách quản
lý thông tin trên Internet đáp ứng yêu cầu thực tế cuộc sống đặt ra, góp phần
nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này, đồng thời
hoàn thiện thêm những vấn đề lý thuyết cũng như quy trình kỹ thuật thông
qua việc rà soát, hệ thống hóa văn bản pháp luật về Internet sẽ có tác dụng rất
lớn, hỗ trợ cho hoạt động quản lý lĩnh vực này trong tương lai.
50
2.2.2. Đối với yêu cầu quản lý kinh tế và xã hội
Từ khi xuất hiện cho tới nay Internet ngày càng có những ảnh hưởng
và tác động lớn làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế và xã hội.
Về kinh tế, khi có Internet, xuất hiện ngành kinh tế mới như Thương
mại điện tử, việc mua bán, giao dịch không theo phương thức truyền thống
mà chọn hàng, giao dịch, mua bán, trả tiền đều trên mạng thông qua việc số
hóa thông tin, người mua và người bán không cần gặp mặt nhau, dù cách xa
nhau về địa lý. Internet kéo theo nhiều dịch vụ ra đời như dịch vụ tư vấn, thiết
kế và duy trì website, dịch vụ và phần mềm máy tính, dịch vụ mua, bán tên
miền, dịch vụ thuê chỗ đặt máy chủ trên mạng, dịch vụ chứng thực điện tử
(dịch vụ đảm bảo an toàn và bảo mật thông tin trên đường truyền), kinh
doanh, quảng cáo trên mạng...
Về xã hội, Internet ảnh hưởng vô cùng to lớn, ngày nay hiếm thấy
người không sử dụng đến máy tính và Internet, đọc báo, sách điện tử trên
mạng, tìm kiếm thông tin, mua bán, học hành trên mạng... Qua bài viết về câu
chuyện của một người "ăn mày" tại Pháp được đăng trên báo điện tử mới đây
ta có thể thấy con người trong xã hội hiện nay có thể không có nhà cửa nhưng
không thể thiếu máy tính và kết nối mạng Internet. Ông tâm sự như sau trên
mạng facebook của mình:
Tôi vô gia cư, nhưng tôi sở hữu một chiếc iPad và netbook
MSI Wind u130. Đây là những công cụ không thể thiếu. Thực tế,
không có nhà không phải là vấn đề quá to tát hiện nay, khả năng kết
nối với thế giới mới là điều quan trọng. Tôi dùng laptop để viết sách
trong công viên, gọi điện Skype, Google Voice, viết ứng dụng cho
iPad, cập nhật thông tin và trao đổi mua bán, liên lạc với mọi người
qua Wifi miễn phí, kiếm tiền qua dịch vụ quảng cáo Google Ads,
một số công việc trên web, viết lách tự do. Thiếu laptop, sao tôi có
thể làm được những điều như thế? Bởi mọi thứ tôi có đều nhờ
Internet, tôi thực sự không cần một ngôi nhà [1].
51
Tuy nhiên đồng hành với các vai trò tích cực của Internet đối với đời
sống kinh tế xã hội. Có rất nhiều mặt tiêu cực, rủi ro, tệ nạn xã hội nảy sinh
đòi hỏi sự quản lý của cơ quan nhà nước. Trong lĩnh vực kinh tế, xuất hiện
các tội phạm công nghệ cao, buôn bán lừa đảo qua mạng... Về xã hội, báo
động các hiện tượng băng hoại đạo đức của thế hệ trẻ, do gameonline, phim
ảnh đồi trụy, kích động bạo lực của Internet tác động. Nhà nước Việt Nam đã
ban hành các văn bản "đón đầu" để quản lý Internet ngay từ khi Internet có
mặt tại Việt Nam năm 1997 và cho đến nay đã có một hệ thống văn bản điều
tiết, quản lý lĩnh vực này. Quản lý chung có Luật Công nghệ, Luật bảo vệ bí
mật, Luật sở hữu trí tuệ... Đối với mảng kinh tế, đã ban hành Luật giao dịch
Thương mại điện tử, các văn bản dưới luật như Nghị định, thông tư quản lý
việc cung cấp, sử dụng Internet, thông tin điện tử Internet...Đối với các mặt
tiêu cực của Internet đối với xã hội như gameonline, trang điện tử cá nhân
(facebook) trên Internet văn bản quản lý và điều chỉnh mảng này hiện nay là
thông tư 60/2006/TTLT-BVHTT-BCVT-BCA (Thông tư 60) về quản lý trò
chơi trực tuyến hay thông tư số 07/2008/TT-BTTTT hướng dẫn một số nội
dung về hoạt động cung cấp thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân và
thông tin điện tử trên Internet. Ngoài ra còn rất nhiều các văn bản khác điều
chỉnh lĩnh vực này.
Có thể nói, hệ thống văn bản pháp luật ra đời có mục tiêu quản lý đưa
mọi hoạt động xã hội đi trong hành lang pháp lý qui chuẩn. Tuy nhiên các văn
bản mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không phù hợp với tình hình phát triển của
xã hội cũng còn nhiều. Như vấn đề quản lý gameonline thông tư
60/2006/TTLT-BVHTT-BCVT-BCA (Thông tư 60) về quản lý trò chơi trực
tuyến hiện nay đã bộc lộ nhiều qui định bất hợp lý, không phù hợp thực tế.
2.2.3. Đối với sự phát triển của cộng đồng mạng toàn cầu
Internet ngày nay được sử dụng phổ biến và sâu rộng đến người dân.
Internet có mặt trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đặc biệt đối với giới
trẻ hầu như không thể thiếu Internet trong hoạt động hàng ngày từ giải trí, tư
52
vấn, bày tỏ tình cảm, tìm kiếm thông tin, tìm việc, kinh doanh, mua bán....tất
cả đều được thực hiện thông qua Internet. Với ảnh hưởng to lớn trên mọi
phương diện đời sống xã hội vậy, Internet được ví như xã hội thứ hai, xã hội
đó được gọi là thế giới ảo, cộng động trong xã hội đó được gọi là các cư dân
mạng hay cộng đồng mạng toàn cầu.
Cũng giống bất kỳ xã hội nào, xã hội ảo, cộng đồng mạng toàn cầu này
cũng cần có sự quản lý của nhà nước. Để quản lý xã hội ảo, cộng đồng mạng
toàn cầu này, pháp luật Việt Nam đã ban hành các văn bản không những quản
lý mà còn đáp ứng được mỗi giai đoạn phát triển của xã hội này. Điểm lại các
mốc phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam về lĩnh vực Internet:
Ngay khi Internet xuất hiện nhà nước Việt Nam đã xây dựng và ban
hành "Qui chế tạm thời về quản lý, thiết lập sử dụng mạng Internet » ban hành
kèm theo Nghị định 21/CP ngày 05/3/1997 của Chính phủ để điều chỉnh lĩnh
vực mới mẻ song rất phát triển này. Được gọi tên là "Qui định tạm thời" song
cũng phải mất 4 năm Nghị định 21/CP năm 1997 mới được thay thế bằng Nghị
định số 55/2001/NĐ-CP về "Quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet",
Nghị định 55/2001/NĐ-CP có các qui phạm quản lý lĩnh vực Internet chi tiết,
toàn diện hơn Nghị định 21/CP. Tuy nhiên do Internet phát triển với tốc độ
nhanh sau một thời gian Nghị định 55/2001/NĐ-CP lộ các điểm hạn chế, không
còn phù hợp với thực tế và để quản lý đồng thời khuyến khích các điểm tích cực
của lĩnh vực này cho xã hội cùng với nhu cầu quản lý cộng đồng mạng của Nhà
nước, nên Nghị định 55/2001 được thay thế bằng Nghị định số 97/2008/NĐ-CP
về "Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên
Internet". Để hướng dẫn Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử
dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet, Việt Nam còn ban hành
các Thông tư hướng dẫn nghị định đi kèm như Thông tư số 14/2010/TT-
BTTTT qui định chi tiết một số điều của Nghị định 97/2008/NĐ-CP; Thông tư
số 07/2008/TT-BTTTT hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cung cấp
thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân và thông tin điện tử trên Internet.
53
Sau 3 năm triển khai, thực hiện Nghị định 97/2008/NĐ-CP
số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet (được cấp phép) tăng
gấp 5 lần, băng thông quốc tế tăng 9 lần, băng thông trong nước
tăng 8 lần. Việt Nam là một trong hai mươi nước có số người sử
dụng Internet cao nhất thế giới [28].
Internet Việt Nam thực hiện tốt vai trò ngành kinh tế mũi nhọn, giá
cước dịch vụ tiếp tục giảm, góp phần giữ vững an ninh quốc gia và ổn định
kinh tế xã hội. Tuy nhiên để xem xét khía cạnh qui chuẩn của xã hội toàn cầu
thì hiện nay văn bản số 97/2008/NĐ-CP qui định "xã hội ảo" tại Việt Nam
còn hẹp chưa đáp ứng được cộng đồng mạng thế giới. Cách hiểu về mạng xã
hội được quy định chính thức trong văn bản 97/2008/NĐ-CP khi chỉ khoanh
vùng ở blog, chat và forum trong khi đó cách hiểu của cộng đồng mạng trên
thế giới mạng xã hội hay mạng xã hội ảo (social network) là dịch vụ nối kết
các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích
khác nhau không phân biệt không gian và thời gian qua những tính năng
như chat, e-mail, phim ảnh, voice chat, chia sẻ file, blog và xã luận.
Không chỉ xây dựng và ban hành văn bản qui phạm điều chỉnh, quản lý
xã hội ảo, hệ thống văn bản qui phạm Việt Nam còn xây dựng ban hành văn bản
qui định về cấp phép hay còn gọi là cấp cơ sở hạ tầng của xã hội này và văn
bản xử phạt khi vi phạm lĩnh vực này như Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT
Bộ Văn hóa Thông tin về quản lý và cấp phép cung cấp thông tin, thiết lập
trang thông tin điện tử trên Internet; Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA về đảm
bảo an toàn, an ninh trong hoạt động quản lý, sử dụng internet tại Việt Nam;
Nghị định số 28/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet.
2.2.4. Đối với yêu cầu của các nước trong cộng đồng quốc tế
Internet ngày nay đã trở thành một trong các mối quan tâm của cộng
đồng Quốc tế. Điều này được minh chứng bằng việc Internet là một trong các
lĩnh vực mà các nước, tổ chức quốc tế là thành viên của Liên hiệp quốc phải
54
báo cáo việc thực thi của nước mình tại "báo cáo quốc gia UPR" trong các
phiên họp về Cơ chế kiểm điểm định kỳ (UPR) của Hội đồng Nhân quyền
HRW. Cộng đồng Quốc tế yêu cầu lĩnh vực Internet cũng phải đảm bảo được
tự do giống như vấn đề về quyền tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, tự
do hội họp Qui định tại Điều 19 Công ước Quyền Dân sự - Chính trị. Nói đến
tự do Internet cũng phải nói đến các vấn đề trực tiếp liên quan đến lĩnh vực
Internet hay nói đúng hơn Internet là ngọn nguồn sinh ra lĩnh vực đó như báo
chí mạng, và blog, facebook. Cộng đồng Quốc tế quan tâm tới lĩnh vực chính
là Internet và cả các lĩnh vực phái sinh của Internet.
Việt Nam là thành viên của Liên hiệp Quốc, do đó Việt Nam cũng
phải đánh giá và báo cáo việc thực thi Internet tại Việt Nam trong "báo cáo
Quốc gia UPR". Tại "báo cáo Quốc gia UPR" phiên gần đây nhất Việt Nam
báo cáo tình hình thực thi về Internet tại Việt Nam như sau:
a. Về chính sách
Nhà nước Việt Nam có chính sách khuyến khích sử dụng Internet để
phục vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, hỗ trợ cải cách hành chính và để
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Điều này được Việt Nam không
chỉ chứng minh thực tế bằng các con số ấn tượng mà chính sách này còn được
cụ thể hóa trong văn bản pháp luật tại Điều 5, Nghị định 55/2001/NĐ-CP
ngày 28/2/2008 và Điều 4 Nghị định 97/2007/NĐ-CP về quản lý, cung cấp,
sử dụng dịch vụ Internet.
Trình độ phát triển và tốc độ đăng ký sử dụng Internet tại Việt Nam đã
tăng nhanh và đạt mức tương đương nhiều nước ở khu vực sau 10 năm. Hiện
nay Internet đã hình thành mạng lưới cung cấp dịch vụ trên 63/63 tỉnh, thành
phố. Số người sử dụng dịch vụ Internet "tính đến cuối tháng 2-2012 đã có hơn
30,8 triệu người Việt Nam sử dụng internet, chiếm gần 35,3% dân số. Trong
giai đoạn 2000-2010, tỷ lệ tăng trưởng người sử dụng internet ở Việt Nam đạt
hơn 12%/năm" [42].
55
b. Về dịch vụ
Ngày 01/12/1997, Việt Nam chính thức kết nối Internet toàn cầu. Và
chỉ 6 năm sau, năm 2003, dịch vụ Internet băng rộng ADSL (là dịch vụ
Internet tốc độ cao) tại Việt Nam đã được cung cấp rộng rãi trên toàn quốc với
thương hiệu MegaVNN. Chỉ hơn 10 năm sau khi kết nối Internet toàn cầu, Việt
Nam đã trở thành một điểm sáng trên bản đồ phát triển Internet thế giới. Việt
Nam hiện đang đạt tốc độ kết nối Internet nhanh nhất khu vực Đông Nam Á và
đứng thứ 3 Châu Á với 374KBps. Năm 2011, Ban Tổ chức Giải thưởng Băng
rộng thế giới (Broadband Infovision Awards) - một trong những giải thưởng uy
tín hàng đầu trong lĩnh vực băng rộng đã trao giải "Băng rộng thay đổi cuộc
sống" cho Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đơn vị tại Việt
Nam cung cấp dịch vụ. Giải thưởng đã thêm một lần nữa ghi danh Việt Nam trên
bản đồ công nghệ thông tin thế giới nhờ những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam
nói chung và VNPT nói riêng trong việc phát triển mạng băng rộng tại Việt Nam.
c. Về lĩnh vực báo chí mạng, blog, facebook
Báo chí Việt Nam là diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân
dân, là công cụ bảo vệ lợi ích của xã hội và các quyền tự do của nhân dân, là
lực lượng quan trọng trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính
sách và pháp luật của Nhà nước. Mọi người dân có quyền đề đạt nguyện
vọng, phát biểu và đóng góp ý kiến trên tất cả các vấn đề chính trị, kinh tế, xã
hội trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trước khi có Internet, báo viết
thống trị diễn đàn ngôn luận của Việt Nam, từ khi có Internet chưa bao giờ
báo chí lại có nhiều phương tiện để truyền tải thông tin cũng như quyền tự do
ngôn luận của nhân dân được phát huy tối đa như hiện nay. Báo mạng hay báo
điện tử giờ chiếm thị phần chủ yếu trong lĩnh vực báo chí. Ngoài ra Luật báo chí
hiện hành của Việt Nam quy định các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã
hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp được phép ra báo và sở hữu báo chí. Trên
thực tế, Nhà nước Việt Nam đã cho phép nhiều doanh nghiệp sở hữu các
phương tiện truyền thông, báo chí và truyền hình hoặc tham gia vào nhiều
56
công đoạn trong quy trình hoạt động báo chí như các tập đoàn kinh tế như
Tập đoàn Bưu chính-Viễn thông (VNPT), FPT, Tập đoàn Dầu khí, Truyền
hình Cáp Việt Nam (VTC)… đã sở hữu báo in, báo điện tử và đài truyền hình.
Các trang thông tin điện tử cá nhân (blog; facebook): Với chủ trương
khuyến khích phát triển và sử dụng trang thông tin điện tử cá nhân. Việt Nam
xây dựng và ban hành Nghị định của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet. Nghị định 97/2008/NĐ-CP về
"Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet"
được ban hành gần đây nhất và hiện đang có hiệu lực thi hành cùng hướng
dẫn sử dụng thi hành Nghị định là Thông tư 07 của Bộ Thông tin và Truyền
thông ban hành ngày 18-12-2008 đã đưa ra các qui định nêu rõ mục đích của
việc khuyến khích phát triển việc sử dụng trang tin điện tử cá nhân nhằm giúp
mở rộng khả năng tương tác trên môi trường Internet để trao đổi, chia sẻ các
thông tin làm phong phú thêm đời sống xã hội và tinh thần gắn kết cộng đồng.
Bằng chứng là số người tham gia các diễn đàn trên mạng ngày càng nhiều,
hiện ở Việt Nam đã có khoảng 1,1 triệu người viết nhật ký cá nhân trên mạng.
d. Về kinh doanh và xã hội
Nhà nước Việt Nam có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh - sử dụng Internet, cụ thể Nghị định 97/2008/NĐ-CP về
quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet
của Việt Nam hiện đang có hiệu lực thi hành khuyến khích các loại hình
doanh nghiệp, cung cấp dịch vụ Internet. Điều 7 Nghị định qui định "doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ Internet là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế được thành lập theo pháp luật Việt Nam để cung cấp dịch vụ Internet cho
công cộng". Bên cạnh cho phép các loại hình doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
Internet, Nghị định còn qui định mở rộng hơn về hệ thống đại lý cung cấp
dịch vụ Internet tới người dân.
Song song với chính sách rộng mở về kinh doanh Internet, nhà nước
Việt Nam xây dựng và ban hành các quy định để bảo vệ an ninh quốc gia, các
57
giá trị đạo đức - thuần phong mỹ tục, bảo vệ trẻ em khỏi tác động tiêu cực của
Internet, ngăn chặn các hành vi phạm pháp, thông tin sai sự thật, vu khống,
xúc phạm uy tín của tổ chức và danh dự của công dân.
Việc xây dựng các qui phạm mang tính chất quản lý ngăn chặn, bảo vệ
với các tiêu cực của Internet sinh ra là một yêu cầu tất yếu và là thực tế áp dụng
ở nhiều nước trên thế giới. Việt Nam cũng phải ngoại lệ, tuy nhiên đôi khi việc
hiểu nhầm về chính sách của nhà nước của cộng đồng thế giới cũng xảy ra như
năm 2010 khi Việt Nam ban hành Thông tư 14/2010/TT-BTTTT qui định chi
tiết một số điều của Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet, đã có luồng thông tin (nhận
định của Công ty Internet Google) cho rằng chính phủ Việt Nam đang tìm cách
ngăn chặn dân chúng tiếp cận các trang mạng và theo dõi các hoạt động của người
sử dụng Internet với qui định bắt buộc tất cả các địa điểm dịch vụ Internet và
các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ web từ khi Thông tư 14/2010/TT-BTTTT
có hiệu lực cho đến năm 2011 phải cài đặt một phần mềm đặc biệt vào các
máy chủ. Phát ngôn viên của Công ty Internet Google phát biểu trên các hãng
thông tấn AP và AFD cho rằng với qui định này những người sử dụng
Internet tại Hà Nội sẽ không thể truy cập vào một số trang web khi lên mạng
tại các quán cà phê Internet công cộng và nếu quy định này nới rộng ra ngoài
địa bàn Hà Nội, thì cũng có nghĩa là các giới hạn không rõ ràng và thiếu minh
bạch sẽ được áp đặt lên toàn bộ cộng đồng mạng và cho đây là hành động
ngăn cản sự truy cập thông tin của người dân, đồng thời cho rằng quy định
này là một ví dụ gây quan ngại về hành động của chính phủ Việt Nam đe dọa
quyền tự do bày tỏ quan điểm trên mạng và đe dọa mạng lưới thông tin mở.
Song song với việc xây dựng các qui chế về lĩnh vực Internet tại Việt
Nam phù hợp với yêu cầu của cộng đồng mạng các nước trên thế giới, Việt
Nam cũng đã tham gia ký kết các văn bản quốc tế về lĩnh vực này như gia
nhập Biểu cam kết cụ thể về thương mại dịch vụ gia nhập WTO, Hiệp định
TRIPs về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền Sở hữu trí tuệ
58
năm 1994 trong khuôn khổ các văn kiện của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), hay công ước Công ước Toàn cầu về bản quyền ký tại Geneva 1952
(còn gọi là Công ước Berne), Công ước Geneve 1971 bảo hộ nhà xuất bản,
ghi âm chống việc sao chép không được phép, Công ước Quốc tế về bảo hộ
người biểu diễn, nhà sản xuất ghi âm tổ chức phát sóng (Công ước Rome
1961) Công ước WIPO về quyền tác giả, biểu diễn và ghi âm và Công ước
Brussels hay còn gọi là Công ước Vệ tinh năm 1974 liên quan đến việc phân
phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh...
Nhìn chung với đặc điểm đặc thù của hệ thống qui phạm quản lý, điều
tiết lĩnh vực Internet vừa phải tương thích với qui định chung của cộng đồng
mạng Thế giới vừa phải đảm bảo việc quản lý theo chủ quyền quốc gia như đã
xem xét và phân tích tại mục một của chương này, nếu hệ thống pháp luật
không có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ thì không thể có kết quả thực tế
khả quan. Đánh giá toàn bộ lĩnh vực Internet thì Việt Nam là nước được cộng
đồng thế giới đánh giá tốt như đánh giá của tổ chức Liên minh Viễn thông quốc
tế (ITU), Việt Nam là nước có tốc độ phát triển Internet nhanh nhất thế giới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Như vậy, nội dung Chương 2 đã hệ thống lại toàn bộ các qui chế, văn
bản điều chỉnh về lĩnh vực Internet của cộng đồng mạng trên Thế giới cũng
như các văn bản của Việt Nam đã và đang điều chỉnh lĩnh vực Internet, đồng
thời phân tích và chỉ ra các đặc điểm hình thành và phát triển của hệ thống qui
phạm điều chỉnh về Internet. Bên cạnh đó Chương 2 đã đánh giá về toàn bộ
hệ thống Pháp luật Việt Nam đang điều chỉnh lĩnh vực Internet trên bốn
phương diện lớn là đối với nhu cầu khách quan, đối với yêu cầu về quản lý
kinh tế, xã hội tại Việt Nam và đối với yêu cầu của cộng đồng mạng toàn cầu
và cộng đồng các quốc gia trên thế giới.
59
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN INTERNET
VIỆT NAM THEO XU HƯỚNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
3.1. VĂN BẢN HIỆN ĐANG ĐIỀU CHỈNH INTERNET CỦA VIỆT NAM
Trong hệ thống văn bản điều chỉnh về Internet hiện nay của Việt Nam,
Nghị định 97/2008/NĐ-CP của Chính phủ về "Quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet" là văn bản hiện đang có
hiệu lực, có tính chất điều chỉnh trực tiếp, bao trùm về lĩnh vực Internet.
Chính vì vậy có thể nói Nghị định 97/2008/NĐ-CP phản ánh thực trạng công
tác quản lý điều hành về dịch vụ Internet tại Việt Nam. Nói cách khác việc xem
xét, phân tích Nghị định 97/2008/NĐ-CP với hiện trạng quản lý Internet ở
Việt Nam là hai mặt trong một vấn đề.
3.1.1. Những mặt tích cực
3.1.1.1. Những nhân tố cho sự ra đời Nghị định 97/2008/NĐ-CP
Nghị định 97/2008/NĐ-CP (NĐ 97) "Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch
vụ Internet và thông tư điện tử trên Internet" được xây dựng, soạn thảo từ
tháng 6/2007 với sự phối hợp của các Bộ ngành lúc đó là Bộ công an, Bộ Tư
pháp, Bộ Văn hóa Thông tin và Bộ Bưu chính Viễn thông và Văn phòng
Chính phủ và được ban hành ngày 28/8/2008. NĐ97 ra đời thay thế cho Nghị
định 55/2001/NĐ-CP (NĐ55) "Quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Interrnet"
được chính phủ ban hành ngày 23/8/2001 khi đó đã bộc lộ nhiều điểm lỗi thời.
Cụ thể:
- Nghị định 55 được ban hành trước khi có Pháp lệnh Bưu chính Viễn
thông và Luật Công nghệ thông tin nên có một số các khái niệm và nội dung
của Nghị định không đồng nhất thậm chí có qui định còn trái ngược với Luật
và Pháp lệnh (Qui định về sở hữu nhà nước đối với các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ kết nối IXP).
60
- Nghị định 97 có các nội dung qui định về quản lý thông tin điện tử
trên Internet (lấp khoảng trống cho Nghị định 55 trước đây chủ yếu tập trung
điều chỉnh các hoạt động liên quan đến hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ dẫn đến
việc triển khai trên thực tế về quản lý thông tin điện tử trên Internet gặp nhiều
khó khăn, bất cập).
- Cùng với thời gian, thị trường và công nghệ phát triển dẫn đến một
số nội dung của Nghị định 55 không còn phù hợp với thực tế và thông lệ
Quốc tế dẫn đến cản trở việc phát triển mạng lưới và dịch vụ Internet như qui
định việc phân loại doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet có quá nhiều loại
hình doanh nghiệp IXP, ISP, OSP, ICP dẫn đến qui trình, thủ tục cấp phép
phức tạp, gây khó khăn cho các doanh nghiệp muốn tham gia thị trường, thêm
gánh nặng cho các cơ quan quản lý nhà nước; hoặc như qui định về kết nối
Nghị định 55 không cho phép doanh nghiệp ISP kết nối trực tiếp đi quốc tế
mà phải thông qua doanh nghiệp IXP làm cho chất lượng dịch vụ giảm đi, chi
phí tăng cao.
- Ngoài ra còn một yếu tố dẫn đến việc cần thiết ban hành Nghị định
mới để quản lý dịch vụ Internet thay cho Nghị định 55 do việc tổ chức lại bộ
máy quản lý nhà nước dẫn đến việc thay đổi về cơ bản phân công nhiệm vụ
quản lý nhà nước về Internet giữa các Bộ, ngành. Bộ Thông tin Truyền thông
được phê chuẩn thành lập bởi thủ tướng tại Quốc hội khóa XII (5/2007) trên
cơ sở sát nhập Bộ Bưu chính Viễn thông và Cục Báo chí và Cục Xuất bản Bộ
Văn hóa Thông tin cũ, ngoài chức năng quản lý nhà nước về bưu chính, viễn
thông, công nghệ thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông được giao bổ sung
thêm chức năng quản lý nhà nước về báo chí và xuất bản, trong đó có cả phần
thông tin điện tử trên Internet.
Từ những nguyên nhân trên dẫn đến sự cần thiết phải xây dựng Nghị
định mới thay thế và khắc phục những hạn chế của Nghị định 55 để thúc đẩy
sự phát triển của Internet Việt Nam trong giai đoạn mới.
61
3.1.1.2. Nguyên tắc xây dựng Nghị định
Trước khi bắt đầu việc soạn thảo xây dựng bất kỳ văn bản pháp luật
thuộc các lĩnh vực nhà soạn thảo phải có chủ trương, đường lối, chính sách
cũng như nguyên tắc làm kim chỉ nam dẫn đường. Nghị định 97 được xây
dựng, soạn thảo trên các nguyên tắc sau:
- Nghị định mới xây dựng phải đảm bảo sự phù hợp với các qui định
cả các văn bản qui phạm pháp luật khác Luật công nghệ thông tin, Luật báo
chí, Luật Xuất bản, Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông, Nghị định
160/2004/NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông
- Nghị định xây dựng trên nguyên tắc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp và đảm bảo lợi ích tối đa cho người sử dụng dịch vụ mà vẫn
đảm bảo được yêu cầu quản lý nhà nước.
- Tham khảo, đối chiếu với luật pháp và kinh nghiệm triển khai của
các nước trên thế giới, đảm bảo qui định phù hợp với thông lệ quốc tế, với các
qui định hiện hành của pháp luật Việt Nam, với đặc thù kinh tế, xã hội và tình
hình phát triển của Việt Nam.
- Cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, đơn giản hóa và minh bạch
hóa thủ tục hành chính để giảm phiền hà cho doanh nghiệp, người dân và gánh
nặng cho các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực cấp phép các dịch vụ Internet
- Cố gắng chi tiết tối đa các qui định nhằm Nghị định triển khai đi vào
thực tế, hạn chế phải ban hành thêm các văn bản hướng dẫn dưới Nghị định.
3.1.1.3. Những nội dung, sửa đổi quan trọng của Nghị định
a. Cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia cung cấp tất cả các loại
hình dịch vụ Internet
Như chương 1 đã nêu, dịch vụ Internet về tổng quan có ba loại hình
bao gồm dịch vụ kết nối, dịch vụ truy nhập và dịch vụ ứng dụng. Nghị định
62
97 qui định doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tham gia
cung cấp cả ba loại hình trên tại khoản 9 Điều 3 và khoản 1 Điều 7, miễn là
doanh nghiệp đó được thành lập, đăng ký phù hợp với pháp luật của Việt Nam.
Nội dung này "mở" hơn rất nhiều so với Nghị định 55. Nghị định 55 qui định
tương ứng với ba loại hình dịch vụ Internet là ba loại hình doanh nghiệp gồm
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối (IXP), doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
truy nhập (ISP) và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ứng dụng (OSP). Nghị
định qui định mọi thành phần kinh tế có thể được làm dịch vụ truy nhập (ISP)
và dịch vụ ứng dụng Internet (OSP), riêng dịch vụ kết nối (IXP) chỉ có doanh
nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp mà nhà nước chiếm cổ phần chi phối
hoặc cổ phần đặc biệt mới được thực hiện. Điều này không phù hợp với qui
định tại Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông, theo đó doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ IXP không phải là doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng và do đó không
nhất thiết phải là doanh nghiệp nhà nước hoặc Nhà nước giữ cổ phần chi phối.
b. Thúc đẩy phát triển Internet băng rộng
Nghị định 97 qui định tại điểm a khoản 2 điều 10 buộc các doanh
nghiệp cung cấp hạ tầng mạng viễn thông phải có trách nhiệm cung cấp
đường truyền dẫn viễn thông và phân tách mạch vòng nội hạt kịp thời, đầy đủ
khi có yêu cầu của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet. Qui định này tiến
bộ hơn Nghị định 55, Nghị định 55 không qui định cụ thể và chưa có chế tài
bắt buộc đối với doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng viễn thông trong việc
cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet thuê kênh truyền dẫn và chia
sẻ hạ tầng mạng lưới viễn thông, các đường thuê bao. Dẫn đến các doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ Internet không có hạ tầng mạng đã gặp không ít khó khăn
trong việc triển khai cung cấp dịch vụ truy nhập Internet tốc độ cao (xDSL).
c. Tạo điều kiện nâng cao chất lượng và giảm chi phí cung cấp dịch vụ
Nghị định 55 qui định các doanh nghiệp ISP và OSP Viễn thông
không được trực tiếp thuê kênh kết nối Internet quốc tế mà phải thông qua các
63
IXP. Chính sách này đã làm giảm chất lượng và tăng chi phí cung cấp dịch vụ
đối với các doanh nghiệp Internet.
Nhằm thúc đẩy Internet phát triển, tạo điều kiện nâng cao chất lượng và
giảm giá thành dịch vụ Internet, Nghị định 97 qui định mọi doanh nghiệp Internet
đều có quyền thuê kênh để trực tiếp kết nối với Internet Quốc tế và với các
trạm trung chuyển Internet (điểm b khoản 2 Điều 7 và khoản 1, 2 Điều 16).
Ngoài ra để nâng cao chất lượng dịch vụ và đảm bảo an toàn thông tin
của toàn bộ mạng lưới Internet Việt Nam thì Nghị định 97 cũng chính thức
qui định việc thành lập trạm trung chuyển Internet Quốc gia (VNIX) thuộc
Trung tâm Internet Việt Nam để trung chuyển lưu lượng Internet trong nước
trên phạm vi toàn quốc để tránh việc lưu lượng Internet trong nước lại phải đi
vòng ra nước ngoài (khoản 3, Điều 16)
d. Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc cấp phép
So với Nghị định 55, Nghị định 97 đơn giản hóa thủ tục hành chính
trong việc cấp phép rất nhiều. Cụ thể: Nghị định 55 qui định việc cung cấp
các dịch vụ kết nối Internet, truy nhập Internet và ứng dụng Internet trong
viễn thông cần phải có giấy phép của Tổng cục Bưu điện (nay là Bộ Thông tin
và Truyền thông). Nghị định cũng qui định có ba loại hình giấy phép tương
ứng với ba loại hình dịch vụ trên. Như vậy nếu một doanh nghiệp muốn cung
cấp cả 3 loại hình dịch vụ, sẽ phải làm ba bộ hồ sơ, qua ba lần thẩm định.
Nghị định 55 cũng qui định đoàn kiểm tra liên ngành Viễn thông - Công an sẽ
tiến hành kiểm tra thực tế hệ thống thiết bị của doanh nghiệp trước khi doanh
nghiệp chính thức cung cấp dịch vụ và doanh nghiệp chỉ được chính thức
cung cấp dịch vụ khi có văn bản cho phép của Tổng cục Bưu điện.
Để đơn giản hóa thủ tục hành chính, Nghị định 97 đã qui định chỉ có
một loại hình doanh nghiệp gọi là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet
(ISP) có thể cung cấp một, hai hoặc cả ba loại hình dịch vụ Internet là dịch vụ
truy nhập (ISP), kết nối (IXP) và ứng dụng (OSP) tùy thuộc vào yêu cầu của
64
doanh nghiệp và chỉ cần một giấy phép (khoản 1 Điều 7 và khoản 1 Điều 3).
Đồng thời, Nghị định 97 đã bỏ qui định về kiểm tra liên ngành và văn bản cho
phép chính thức cung cấp dịch vụ của Tổng cục Bưu điện. Thay vào đó,
doanh nghiệp chỉ cần thông báo thời điểm bắt đầu chính thức và kế hoạch
triển khai cung cấp dịch vụ cho Bộ Thông tin Truyền thông và Bộ Công an
trước khi cung cấp dịch vụ bằng văn bản hay thông qua môi trường mạng
(điểm k khoản 2 Điều 7). Với các qui định này các cơ quan nhà nước vẫn thực
hiện được công tác quản lý doanh nghiệp nhưng hình thức quản lý nhà nước theo
dạng tiền kiểm tra trước đây được thay thế bằng hình thức hậu kiểm tra và để
các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của mình.
e. Tạo điều kiện và tăng cường quản lý đại lý Internet
Trong những năm qua, đại lý Internet đã góp phần quan trọng trong
việc phổ cập dịch vụ Internet đến mọi người dân, kể cả ở vùng sâu, vùng xa,
nhất là trong điều kiện Việt Nam khi thu nhập của người dân còn thấp, không
phải gia đình nào cũng có thể lắp đặt máy tính kết nối Internet. Bên cạnh
những ưu điểm của loại hình cung cấp dịch vụ này, trong thời gian gần đây
tình trạng người sử dụng đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên truy cập nhiều
vào các thông tin độc hại trên Internet hoặc bỏ học để chơi trò chơi trực tuyến
tại các đại lý Internet là một vấn đề nóng bỏng, gây lo lắng và bức xúc trong
gia đình và xã hội. Để khắc phục tình trạng trên, thực hiện chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ trong thời gian đó các Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Văn
hóa Thông tin, Bộ Công An và Bộ Kế hoạch Đầu tư đã ban hành thông tư liên
tịch về quản lý đại lý Internet, Thông tư số 02/2005/TTLT-BCVT-VHTT-
CA-KHĐT ngày 14/7/2005. Tuy nhiên, Thông tư 02 chỉ là giải pháp tình thế
trong khi chưa bổ sung, sửa đổi được Nghị định 55. Vì theo qui định của pháp
luật các điều kiện kinh doanh cần được qui định ở văn bản qui phạm pháp luật
của Chính phủ mới phù hợp. Mặt khác, sau một thời gian triển khai, một số
qui định tại Thông tư số 02 cũng có nhiều bất cập và thiếu khả thi. Do đó khi
Nghị định 97 được xây dựng, Thông tư 02 đã được sửa đổi bổ sung và đưa
65
các qui định về điều kiện kinh doanh Đại lý Internet vào Nghị định 97 trên
nguyên tắc phù hợp với qui định của Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại và
Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông
f. Tăng cường quản lý và thúc đẩy phát triển nội dung thông tin điện
tử trên Internet
Nghị định 55 đưa ra một khái niệm đơn vị cung cấp thông tin trên
Internet (ICP) khá chung chung và theo Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT
ban hành qui chế quản lý và cấp giấy phép cung cấp thông tin, thiết lập trang
tin điện tử trên Internet ngày 10/10/2002 của Bộ Văn hóa thông tin trước đây
hướng dẫn Nghị định 55 thì ICP và mọi trang thông tin trên Internet của các
tổ chức, doanh nghiệp đều phải cấp phép. Các qui định về quản lý thông tin
như Nghị định 55 và các văn bản hướng dẫn đã làm cho công tác quản lý
thông tin trên Internet không khả thi và gây nhiều bất cập cho việc quản lý và
phát triển ngành công nghiệp nội dung số.
Nghị định 97 đã loại bỏ khái niệm về Đơn vị cung cấp thông tin trên
Internet (ICP) mà thay vào đó là phân loại và qui định về việc quản lý đối với
từng loại hình thông tin điện tử cụ thể tại Điều 19 qui định:
 Các cơ quan báo chí có yêu cầu và đủ điều kiện theo qui định tại
Luật báo chí được cấp giấy phép hoạt động báo điện tử theo qui định.
 Các tổ chức thiết lập trang thông tin điện tử để đưa hoặc trao đổi
thông tin tổng hợp về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội phải có giấy phép do
Bộ thông tin và Truyền thông cấp và phải tuân theo các qui định về báo chí,
xuất bản, các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet
 Các doanh nghiệp thiết lập trang thông tin điện tử để cung cấp dịch
vụ mạng xã hội trực tuyến phải đăng ký với Bộ Thông tin và Truyền thông và
tuân theo các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet
 Các tổ chức thiết lập trang thông tin điện tử để cung cấp dịch vụ
ứng dụng chuyên ngành trên Internet trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
66
hội thực hiện theo các qui định của pháp luật chuyên ngành và các qui định có
liên quan tại Nghị định này
 Tổ chức, cá nhân thiết lập các trang thông tin điện tử không thuộc
các đối tượng nằm trong các qui định nêu trên thì không cần giấy phép và
không cần phải đăng ký nhưng phải tuân theo các qui định tại Nghị định này
và các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet.
Như vậy Nghị định 97 đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh
nghiệp Internet và các tổ chức, cá nhân có nhu cầu cung cấp nội dung thông
tin điện tử đặc biệt việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, phù hợp với chủ
trương của Nhà nước và các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam.
3.1.1.4. Những nội dung cơ bản của Nghị định
Nghị định 97 gồm có 6 chương với 26 Điều được phân bổ như sau:
- Chương I là qui định chung từ Điều 1 đến Điều 6 về phạm vi điều
chỉnh, đối tượng áp dụng, chính sách quản lý và phát triển Internet, các hành
vi nghiêm cấm...
- Chương II qui định các bên tham gia cung cấp, sử dụng dịch vụ
Internet và thông tin điện tử trên Internet từ Điều 7 đến Điều 12 qui định về
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia cung cấp, sử dụng dịch
vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet.
- Chương III qui định quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet từ
Điều 13 đến Điều 18 qui định về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet.
- Chương IV là các qui định về quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin
điện tử trên Internet từ Điều 19 đến Điều 22 qui định về quản lý, cung cấp và
sử dụng thông tin điện tử trên Internet.
- Chương V qui định về các điều khoản thanh tra, kiểm tra và xử lý vi
phạm gồm 3 điều từ Điều 23 đến Điều 25 qui định về việc thanh tra, kiểm tra
và xử lý vi phạm.
67
- Chương VI qui định về hiệu lực và trách nhiệm thi hành Nghị định
gồm 1 điều.
Những nội dung cơ bản của Nghị định:
- Về định hướng chính sách quản lý và phát triển Internet của nhà nước:
Nhà nước khuyến khích việc ứng dụng Internet trong các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội để nâng cao năng suất lao động; mở rộng các hoạt
động thương mại; hỗ trợ cải cách hành chính, tăng tiện ích xã hội, nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân và bảo đảm an ninh quốc phòng. Đồng
thời, thúc đẩy việc ứng dụng Internet trong các cơ quan Đảng, Nhà nước,
trường học, bệnh viện, các cơ sở nghiên cứu và đưa Internet đến nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo.
Nhà nước khuyến khích tăng cường đưa thông tin tiếng Việt lên mạng
Internet. Tên miền quốc gia ".vn", địa chỉ Internet và số hiệu mạng Internet do
Việt Nam quản lý là một phần của tài nguyên thông tin quốc gia, cần phải
được quản lý, khai thác, sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Khuyến
khích và tạo điều kiện để sử dụng rộng rãi tên miền quốc gia ".vn" và thế hệ
địa chỉ Internet IPv6. Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền đăng ký và sử dụng
tên miền quốc gia Việt Nam và các tên miền quốc tế.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp và sử
dụng Internet. Có biện pháp để bảo vệ trẻ em khỏi tác động tiêu cực của Internet.
- Quyền hạn và nghĩa vụ của các bên tham gia cung cấp, sử dụng
dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet:
+ Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet (ISP): là doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo pháp luật Việt Nam để cung
cấp dịch vụ Internet cho công cộng. Theo đó, không hạn chế đối tượng muốn
trở thành doanh nghiệp doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet (tất cả các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đều được cung cấp
dịch vụ Internet công cộng).
68
 Doanh nghiệp có quyền từ chối hoặc tạm ngừng, ngừng cung cấp
dịch vụ trong một số trường hợp như: Người sử dụng dịch vụ Internet vi
phạm pháp luật về Internet; không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cước sử
dụng...; thiết bị truy cập đầu cuối Internet gây mất an toàn cho hệ thống thiết
bị Internet, cho doanh nghiệp cung cấp và người sử dụng Internet...
 Thiết lập hệ thống thiết bị Internet tại cơ sở và tại các điểm cung
cấp dịch vụ công cộng củ doanh nghiệp để cung cấp dịch vụ Internet theo qui
định của giấy phép.
 Thuê đường truyền dẫn viễn thông của các doanh nghiệp cung cấp
hạ tầng mạng đã được cấp phép để thiết lập mạng lưới thiết bị Internet của
doanh nghiệp, kết nối trực tiếp với Internet Quốc tế và cung cấp dịch vụ đến
đại lý, người sử dụng dịch vụ Internet
 Giao kết hợp đồng (mẫu hợp đồng do doanh nghiệp xây dựng, ban
hành trên cơ sở pháp luật về hợp đồng) cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet với
người sử dụng dịch vụ và ký hợp đồng đại lý Internet với các tổ chức, và cá nhân.
 Được sử dụng tài nguyên internet theo qui hoạch và qui định về
quản lý tài nguyên. Được triển khai các thiết bị và phương án kỹ thuật, nghiệp
vụ đảm bảo an toàn an ninh thông tin.
+ Đại lý Internet: là tổ chức, cá nhân tại Việt Nam nhân danh doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ Internet để cung cấp dịch vụ truy nhập Internet, dịch vụ
ứng dụng Internet trong viễn thông cho người sử dụng thông qua hợp đồng đại lý
và hưởng thù lao. Trong đó lưu ý, các tổ chức, cá nhân là chủ khách sạn, nhà hàng,
văn phòng, sân bay... khi cung cấp dịch vụ Internet cho người sử dụng không thu
cước dịch vụ trong phạm vi các địa điểm nói trên đều phải ký hợp đồng đại lý
với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet và thực hiện đầy đủ các quy định về
đại lý, trừ các quy định liên quan đến giá cước đối với người sử dụng dịch vụ.
 Về điều kiện kinh doanh đại lý Internet. Nghị định qui định, đại lý
phải có địa điểm và mặt bằng bảo đảm quy định, tiêu chuẩn về phòng cháy,
69
chữa cháy; vệ sinh môi trường; phải đăng ký kinh doanh và ký hợp đồng đại
lý với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet; phải niêm yết nội quy sử dụng
dịch vụ Internet tại địa điểm kinh doanh.
+ Doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng: là doanh nghiệp viễn thông
được cấp phép thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ viễn thông theo qui định
của pháp luật. Trong hoạt động cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet doanh
nghiệp có các quyền và nghĩa vụ sau:
 Cung cấp đường truyền dẫn viễn thông và phân tách mạch vòng nội
hạt đầy đủ, kịp thời khi có yêu cầu của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
Internet trên cơ sở hợp đồng giao kết giữa các bên, trong các điều kiện công
bằng và hợp lý, để đảm bảo kịp thời việc triển khai cung cấp các dịch vụ
Internet, dịch vụ băng rộng
 Không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
Internet là đơn vị thành viên của mình với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
Internet khác
 Phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ Internet trong công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin và điều
tra, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động Internet
+ Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến: là doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo pháp luật để cung
cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến công cộng. Doanh nghiệp có trách nhiệm:
 Xây dựng qui chế cung cấp, sử dụng và trao đổi thông tin phù hợp
với các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet tại Nghị định 97
 Thực hiện ngăn chặn, loại bỏ các nội dung thông tin vi phạm qui
định của pháp luật khi phát hiện hoặc theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền.
+ Chủ mạng Internet dùng riêng: là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoạt
động tại Việt Nam thiết lập mạng Internet dùng riêng theo quy định. Thành viên
70
của mạng là thành viên của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng. Tư
cách thành viên được xác định theo điều lệ hoạt động, văn bản quy định cơ cấu,
tổ chức, bộ máy của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đó hoặc các quy định pháp
lý liên quan khác. Chủ mạng Internet dùng riêng có các quyền và nghĩa vụ sau:
 Thiết lập hệ thống thiết bị Internet tại các địa điểm mà mình được
quyền sử dụng theo qui định của pháp luật để cung cấp dịch vụ Internet cho
các thành viên của mạng:
 Thuê hoặc xây dựng đường truyền dẫn viễn thông để thiết lập mạng
Internet dùng riêng và kết nối trực tiếp với Internet quốc tế;
 Thực hiện các qui định về cấp phép, kết nối, tiêu chuẩn, chất lượng,
giá cước, an toàn, an ninh thông tin, tài nguyên Internet.
 Thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước huy động trong trường hợp
khẩn cấp và các nhiệm vụ công ích khác.
+ Người sử dụng Internet: là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet hoặc với đại lý Internet để sử dụng
dịch vụ có quyền và nghĩa vụ sau
 Sử dụng các dịch vụ Internet trừ các dịch vụ bị cấm theo qui định
của pháp luật
 Chịu trách nhiệm vè nội dung thông tin do mình post lên, lưu trữ và
truyền đi trên Internet theo qui định của pháp luật
 Bảo vệ mật khẩu, mã khóa, thông tin cá nhân trên hệ thống thiết bị
và chấp hành qui định về an toàn, an ninh thông tin
 Không được kinh doanh lại dịch vụ hay cung cấp dịch vụ cho công cộng
- Qui định về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet
+ Cấp phép cung cấp dịch vụ Internet:
Các doanh nghiệp được cung cấp dịch vụ Internet cho công cộng sau
khi có Giấy phép cung cấp dịch vụ do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp.
71
Các mạng Internet dùng riêng phải có Giấy phép thiết lập mạng do Bộ
Thông tin Truyền thông cấp:
 Mạng Internet dùng riêng có đường truyền tự xây dựng
 Mạng Internet dùng riêng mà thành viên của mạng là cơ quan, tổ
chức có tư cách pháp nhân độc lập, hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, có cùng
tính chất hoạt động hay mục đích công việc và được liên kết với nhau thông
qua điều lệ hoạt động hoặc văn bản qui định cơ cấu tổ chức chung hoặc hình
thức liên kết, hoạt động chung giữa các thành viên
Ngoài các mạng Internet dùng riêng qui định (tại khoản 1 Điều 14)
nêu trên, các mạng Internet dùng riêng khác không cần phải có Giấy phép
thiết lập mạng nhưng phải tuân theo các qui định của pháp luật về kết nối, tiêu
chuẩn, giá cước, chất lượng, tài nguyên Internet và an toàn, an ninh thông tin.
Các nguyên tắc, điều kiện, thủ tục cấp, sửa đổi, bổ sung, gia hạn và
thu hồi Giấy phép cung cấp dịch vụ Internet công cộng và thiết lập mạng
Internet dùng riêng thực hiện theo các qui định tại các Điều 36, 40, 41 và điều
36, 44,45 của Nghị định số 160/2004/NĐ-CP ngày 03/09/2004 của Chính phủ
qui định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông.
+ Điều kiện kinh doanh đại lý Internet:
Kinh doanh đại lý Internet là dạng kinh doanh có điều kiện. Đại lý
Internet muốn kinh doanh, cung cấp dịch vụ cho công cộng phải đáp ứng các
điều kiện sau:
 Có địa điểm và mặt bằng bảo đảm các qui định, tiêu chuẩn về phòng
cháy, chữa cháy, vệ sinh môi trường để đảm bảo và bảo vệ an toàn, sức khỏe
cho người sử dụng dịch vụ.
 Đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật về doanh nghiệp
 Ký hợp đồng đại lý với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet sau
khi đã hoàn thành thủ tục đăng ký kinh doanh
72
 Có hệ thống thiết bị Internet đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo an
toàn, an ninh thông tin theo qui định
 Niêm yết nội qui sử dụng dịch vụ tại địa điểm kinh doanh. Nội qui
phải ghi đầy đủ nội dung về các điều cấm và quyền nghĩa vụ của người sử
dụng Internet đã qui định tại điều 6 và Điều 12 của Nghị định 97.
+ Các qui định về kết nối:
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet được thuê đường truyền
dẫn của các doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng để kết nối trực tiếp đi quốc
tế; trực tiếp kết nối với nhau; kết nối với các trạm trung chuyển Internet
Các mạng Internet dùng riêng được xây dựng hoặc thuê đường truyền
dẫn của các doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng để kết nối trực tiếp đi quốc
tế hoặc với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet hay kết nối với các
trạm trung chuyển Internet (gọi là IX). Các mạng Internet dùng riêng không
được kết nối trực tiếp với nhau
Thiết lập mạng trung chuyển Internet quốc gia (VNIX) hoạt động theo
nguyên tắc phi lợi nhuận để trung chuyển lưu lượng Internet trong nước trên
phạm vi toàn quốc. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet đồng thời là
doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng có trách nhiệm thiết lập đường truyền
dẫn kết nối đến trạm trung chuyển Internet Quốc gia.
+ Các qui định về tiêu chuẩn chất lượng, giá cước dịch vụ Internet:
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Interne có trách nhiệm thực hiện qui
định về quản lý chất lượng dịch vụ như công bố chất lượng dịch vụ theo qui
định, thường xuyên tự kiểm tra, giám sát và bảo đảm cung cấp dịch vụ cho
người sử dụng theo đúng chất lượng qui định hoặc mức chất lượng đã công bố
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet có trách nhiệm đối với việc
quản lý về giá như sau: hạch toán riêng dịch vụ Internet và xác định giá thành
các dịch vụ Internet heo qui định (quyết định, đăng ký, thông báo, báo cáo giá
73
cước). Niêm yết và thu cước của người sử dụng theo đúng mức giá cước đã
công bố. Thanh toán giá cước với các doanh nghiệp khác theo đúng mức giá
cước trên cơ sở hợp đồng đã ký.
+ Qui định về tài nguyên Internet:
Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền đăng ký và sử dụng tên miền Quốc
gia Việt Nam ".vn" và các tên miền Quốc tế. Việc đăng ký và sử dụng tên
miền Quốc gia Việt Nam thực hiện thông qua các nhà đăng ký tên miền theo
các nguyên tắc (qui định tại điều 68 Luật Công nghệ Thông tin):
 Bình đẳng, không phân biệt đối xử,
 Đăng ký trước được quyền sử dụng trước
 Tuân thủ các qui định về bảo vệ tên miền quốc gia
Các trang thông tin điện tử chính thức của các cơ quan Đảng, Nhà
nước phải sử dụng tên miền Quốc gia Việt Nam và lưu trữ trong các máy chủ
có địa chỉ IP ở Việt Nam.
Việc đăng ký tên miền Quốc tế được thực hiện trực tiếp với các tổ chức
cung cấp tên miền Quốc tế ở nước ngoài hoặc thông qua các nhà đăng ký tên
miền Quốc tế làm đại lý cho các tổ chức cung cấp tên miền Quốc tế ở nước
ngoài. Tổ chức, cá nhân đăng ký tên miền Quốc tế phải thông báo với Bộ Thông
tin và Truyền thông theo qui định tại Điều 23 Luật Công nghệ Thông tin
Nhà đăng ký tên miền ".vn" thực hiện hoạt động đăng ký tên miền trên
cơ sở hợp đồng ký với Trung tâm Internet Việt Nam và qui định về quản lý và
sử dụng tài nguyên Internet. Nhà đăng ký tên miền Quốc tế làm đại lý cho các
tổ chức cung cấp tên miền Quốc tế ở nước ngoài thực hiện việc đăng ký hoạt
động và báo cáo theo qui định của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet và các mạng Internet
dùng riêng được quyền xin cấp địa chỉ Internet, số hiệu mạng từ Trung tâm
Internet Việt Nam để sử dụng hoặc phân bổ và cấp phát lại cho người sử dụng
74
của mình. Việc xin cấp địa chỉ Internet và số hiệu mạng trực tiếp từ các tổ chức
quốc tế phải được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Qui định về quản lý, cung cấp và sử dụng thông tin điện tử trên Internet
+ Nguyên tắc quản lý, cung cấp và sử dụng thông tin điện tử (Điều 19)
 Việc thiết lập trang thông tin điện tử, việc cung cấp, truyền đưa, lưu
trữ và sử dụng thông tin điện tử trên Interent phải tuân thủ các qui định của
pháp luật chuyên ngành bao gồm Luật Công nghệ Thông tin, Luật sở hữu trí
tuệ, Luật Báo chí, Luật xuất bản và luật bảo vệ bí mật nhà nước, Luật quảng cáo.
 Các cơ quan báo chí đã được cấp Giấy phép hoạt động báo điện tử
theo qui định của pháp luật về báo chí được thiết lập trang thông tin điện tử sử
dụng cho hoạt động báo chí.
 Các tổ chức, và doanh nghiệp thiết lập trang thông tin điện tử để
cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến phải đăng ký với Bộ Thông tin và
Truyền thông.
 Tổ chức, doanh nghiệp thiết lập các trang thông tin điện tử và sử
dụng Internet để cung cấp dịch vụ ứng dụng chuyên ngành trên Internet thực
hiện theo các qui định của pháp luật chuyên ngành và các qui định liên quan
tại Nghị định 97.
 Tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân thiết lập các trang thông tin điện tử
không thuộc các đối tượng qui định tại các điểm 2 đến điểm 5 Điều 19 Nghị
định 97 thì không cần giấy phép và không cần đăng ký với Bộ Thông tin
Truyền thông, nhưng phải tuân theo các qui định tại Nghị định này và các qui
định về quản lý thông tin điện tử trên Internet.
+ Qui định về phát hành báo điện tử, xuất bản trên mạng Internet
Điều kiện, qui trình, thủ tục cấp Giấy phép hoạt động báo điện tử thực
hiện theo qui định của pháp luật về báo chí. Hoạt động về báo chí và xuất bản
phải tuân theo qui định của Luật báo chí và Luật xuất bản.
75
Cơ quan báo chí và nhà xuất bản có giấy phép hoạt động báo điện tử
và xuất bản trên mạng Internet được thiết lập hệ thống thiết bị Internet tại cơ
sở của mình để trực tiếp thực hiện hoặc ủy thác cho doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ Internet thực hiện việc phát hành báo điện tử và xuất bản phẩm trên
mạng Internet.
+ Đăng ký cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến không cần
phải xin Giấy phép nhưng phải đăng ký với Bộ Thông tin và Truyền thông.
Điều kiện để được đăng ký phải là tổ chức, doanh nghiệp có đủ phương tiện
kỹ thuật, nhân sự, hệ thống quản lý phục vụ cho việc cung cấp dịch vụ mạng
xã hội trực tuyến phù hợp với qui mô hoạt động, cam kết tuân thủ các qui
định tại Nghị định 97 và các qui định về quản lý thông tin điện tử trên
Internet. Doanh nghiệp chỉ được chính thức cung cấp dịch vụ cho công cộng
sau khi nhận được thông báo của Bộ Thông tin và Truyền thông xác nhận đã
nhận được hồ sơ đăng ký hợp lệ của Doanh nghiệp. Hình thức đăng ký và xác
nhận bằng văn bản hoặc thông qua môi trường mạng theo các địa chỉ do Bộ
Thông tin và Truyền thông qui định.
+ Cấp phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp
Các tổ chức, doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo qui định
của pháp luật tại Việt Nam muốn được cấp phép thiết lập trang thông tin điện
tử tổng hợp phải đáp ứng các điều kiện qui định sau:
 Có đủ phương tiện kỹ thuật, nhân sự, chương trình quản lý phục vụ
cho việc thiết lập, cung cấp và quản lý thông tin phù hợp với qui mô hoạt động
 Cam kết của người đứng đầu tổ chức, doanh nghiệp hoàn toàn chịu
trách nhiệm về nội dung trang thông tin điện tử và tuân thủ các qui định tại
Nghị định này và các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet
Hồ sơ cấp phép qui định tại khoản 2 điều 21 của Nghị định. Trong hồ
sơ cấp phép phải nêu rõ loại hình dịch vụ dùng để cung cấp hoặc trao đổi
76
thông tin bao gồm: website, blog, forum... và tên miền dự kiến sử dụng.
Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ Bộ Thông tin và Truyền
thông sẽ cấp phép. Trường hợp không được cấp giấy phép Bộ Thông tin và
Truyền thông sẽ trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp có thời gian trong
vòng 5 năm và chỉ được gia hạn 01 lần, thời hạn gia hạn tối đa là 01 năm.
Việc bị thu hồi giấy phép chỉ khi: Doanh nghiệp cung cấp nội dung
thông tin vi phạm các qui định nêu tại Điều 6 Nghị định và các qui định về
quản lý thông tin điện tử trên Internet theo văn bản kết luận của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc rong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp phép mà
tổ chức, doanh nghiệp đó không triển khai hoạt động cung cấp thông tin lên
mạng Internet theo qui định tại giấy phép được cấp.
Tổ chức, doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép không được cấp phép lại
ít nhất trong vòng 01 năm kể từ ngày bị thu hồi giấy phép.
- Qui định về Quản lý nhà nước về Internet tại Nghị định (Điều 5)
+ Bộ Thông tin và Truyền thông: chịu trách nhiệm trong việc thực
hiện quản lý nhà nước về Internetn cụ thể
 Xây dựng cơ chế, chính sách, chiến lược, qui hoạch phát triển Internet
 Hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp qui về cấp phép cung cấp
dịch vụ, kết nối, tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật, chất lượng, giá cước, tài
nguyên Internet, an toàn thông tin, cấp phép bảo điện tử, xuất bản trên mạng
Internet và quản lý thông tin điện tử trên Internet
 Thực hiện thanh, kiểm tra các hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet
 Tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về Internet
+ Bộ Công an: chịu trách nhiệm trong việc đảm bảo an ninh thông tin
trong lĩnh vực Internet gồm
77
 Hướng dẫn thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật về an ninh
thông tin trong lĩnh vực hoạt động Internet
 Chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin Truyền thông và các bộ, ngành
khác liên quan, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp viễn thông,
Internet tổ chức thực hiện các biện pháp kỹ thuật, nghiệp vụ đảm bảo an ninh
quốc gia và phòng chống tội phạm Internet
+ Bộ Kế hoạch và đầu tư: phối hợp với Bộ Thông tin Truyền thông xây
dựng cơ chế, quản ý chính sách đầu tư, tài chính để thúc đẩy việc sử dụng Internet
trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, trường học, bệnh viện, các cơ sở nghiên
cứu và đưa Internet đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.
+ Bộ Tài chính: ban hành theo thẩm quyền và hướng dẫn việc thực
hiện các qui định về phí, lệ phí liên quan đến tài nguyên Internet
+ Bộ Nội vụ: thực hiện quản lý nhà nước về mật mã dân sự đối với các
thông tin được bảo mật trong các hoạt động thương mại, dân sự trên Internet
+ Ủy ban Nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương: thực
hiện việc quản lý nhà nước về Internet tại địa phương
Các điểm tại mục 3 nêu trên đã đưa ra nguyên tắc xây dựng và các nội dung
có tính chất thay đổi quan trọng của Nghị định 97 cũng như tóm tắt các nội dung
cơ bản toàn văn Nghị định làm cơ sở cho việc phân tích các nội dung tiếp sau.
3.1.2. Những mặt còn hạn chế
Theo qui luật hai mặt đối lập, các qui định điều chỉnh dịch vụ Internet
cũng không tránh khỏi các khiếm khuyết, hạn chế:
a. Về định nghĩa mạng xã hội
Trên Từ điển mở Wikipedia thì mạng xã hội hay mạng xã hội ảo
(social network) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại
với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian
78
qua những tính năng như chat, e-mail, phim ảnh, voice chat, chia sẻ file, blog
và xã luận; còn theo khoản 14 Điều 3 Chương I Nghị định 97/2008/NĐ-CP thì:
Mạng xã hội trực tuyến là dịch vụ cung cấp cho cộng đồng
rộng rãi người sử dụng khả năng tương tác, chia sẻ, lưu trữ và trao
đổi thông tin với nhau trên môi trường Internet, bao gồm dịch vụ
tạo nhật ký (blog), diễn đàn (forum), trò chuyện trực tuyến (chat)
và các hình thức tương tự khác [20].
Qua hai định nghĩa nêu trên về mạng xã hội, có thể thấy rằng cách
hiểu về mạng xã hội được quy định chính thức trong văn bản của nước ta cụ
thể tại Nghị định 97 đang hiện hành hẹp hơn rất nhiều so với cách hiểu của
cộng đồng xã hội khi chỉ khoanh vùng ở blog, chat và forum. Sự rộng hơn hay
hẹp hơn này, có thể, không có ý nghĩa nhiều đối với cư dân mạng, song rất có
ý nghĩa quan trọng đối với những người hoạch định và thực thi chính sách. Vì
thế, để phòng các hình thức phát sinh, các cán bộ xây dựng Nghị định 97 đã
cho thêm cụm từ "các hình thức tương tự khác". Song điều đáng nói ở đây,
điểm mở thường thấy ở các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam này lại
rất mơ hồ mà khi ứng vào thực tế sẽ tùy thuộc vào quan điểm riêng của cơ
quan chức năng ở từng địa phương dẫn đến khó khăn cho công tác thực thi.
b. Về chính sách quản lý và phát triển Internet với thực thi
Trong khoản 3 Điều 4 Chương 1 Nghị định 97 có nêu: "tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn pháp luật về Internet… bảo vệ trẻ
em khỏi tác động tiêu cực của Internet". Nhưng trên thực tế, nội dung này chưa
khi nào có báo cáo tổng kết hay được đưa ra để đúc kết và rút kinh nghiệm tại
các buổi họp của các ngành, các cấp. Tuy rằng chính sách có ý nghĩa định
hướng hơn là bắt buộc, nhưng khi đã cụ thể hóa dưới dạng các văn bản quy
phạm pháp luật thì nó đã trở thành phần tử của hệ thống pháp luật và phải
được bảo đảm thực thi. Vì vậy, nó phải được xây dựng bởi "một chỉ tiêu cụ thể"
để có thể đạt được những kết quả hợp lý nhất, nhưng thực tế hiện nay có vẻ
79
như nhiều chính sách đã không được quan tâm đúng mức. Ví dụ về gameonline:
chưa có cơ quan quản lý nhà nước nào có qui định về độ tuổi chơi những trò
chơi điện tử nào là phù hợp hay chưa có hệ thống cơ quan, tổ chức nào thẩm
định các trò chơi điện tử để đưa ra các khuyến cáo cho cha mẹ hay người chơi
điện tử game online chơi trò nào là phù hợp với từng độ tuổi. Đó là một biểu
hiện của việc thực thi chính sách quản lý và phát triển các hoạt động trên mạng
Internet từ trung ương tới địa phương, không đáp ứng với các chính sách do
chính chúng ta lập ra. Nói cách khác là chính sách chúng ta đưa ra là chính
sách "xuông" chưa kết hợp các biện pháp để đưa chính sách đi vào đời sống.
c. Chưa có qui định về chế tài, xử phạt đối với mạng xã hội trực tuyến
Facebook, YouTube hay các trang mạng xã hội được xem là nơi để
chia sẻ thông tin và kết nối bạn bè. Thiết kế trên các trang mạng ngày nay cho
phép người đọc và người sử dụng chúng thể hiện cảm xúc tức thời của mình
sau khi xem hình ảnh hay thông tin bằng cách đưa ra nhận xét cá nhân hoặc
chỉ đơn giản là nhấn nút like hay dislike để thể hiện cảm xúc.
Chính sách quản lý mạng xã hội tại Việt Nam tuy đã được quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật như Nghị định 55/2001/NĐ-CP, và
hiện nay là Nghị định 97, Thông tư 14/2010/TT-BTTTT… nhưng vẫn có
những quan điểm chưa thực sự thống nhất và việc thực thi chính sách này
trong quản lý xã hội còn nhiều thiếu sót:
Thông tư 14/2010/TT-BTTTT Quy định chi tiết một số điều của Nghị
định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ về quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet đối
với hoạt động quản lý trang thông tin điện tử và dịch vụ mạng xã hội trực
tuyến (Như vậy, ta thấy ngay từ tên gọi đã phân biệt mạng xã hội với trang
thông tin điện tử trong hoạt động quản lý). Thông tư 14/2010/TT-BTTTT có
quy định riêng tại Điều 7 về trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
mạng xã hội trực tuyến như sau:
80
Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã
hội trực tuyến
1. Xây dựng và công khai quy chế cung cấp, trao đổi thông
tin trên trang thông tin điện tử cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực
tuyến của doanh nghiệp, bảo đảm không vi phạm các quy định của
pháp luật và quy định tại Điều 4 Thông tư này.
2. Xây dựng quy trình quản lý thông tin và cơ sở dữ liệu về
các thành viên tham gia phù hợp với quy mô cung cấp dịch vụ do
doanh nghiệp quản lý.
3. Có biện pháp kỹ thuật và quy trình quản lý để chủ động
thực hiện việc ngăn chặn và loại bỏ những nội dung thông tin vi
phạm các quy định tại Điều 4 Thông tư này ngay khi tự phát hiện
hoặc nhận được phản ánh của người sử dụng hoặc khi có yêu cầu
của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
4. Cung cấp thông tin có liên quan đến nội dung thông tin vi
phạm quy định tại Điều 4 Thông tư này theo yêu cầu của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền.
5. Chịu sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo quy định.
6. Có trách nhiệm báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước
theo quy định tại khoản 2 Điều 11 Thông tư này [8].
Khoản 2 Điều 11 Nghị định 97/2008/NĐ-CP qui định trách nhiệm của
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến như sau:
Điều 11. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội
trực tuyến
2. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến có
trách nhiệm:
81
a) Xây dựng quy chế cung cấp, sử dụng và trao đổi thông tin
phù hợp với các quy định về quản lý thông tin điện tử trên Internet
tại Nghị định này;
b) Cung cấp các thông tin có liên quan đến người sử dụng
dịch vụ vi phạm quy định tại Điều 6 Nghị định này theo yêu cầu của
cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền;
c) Thực hiện việc ngăn chặn và loại bỏ các nội dung thông
tin vi phạm quy định tại Điều 6 Nghị định này khi phát hiện hoặc
theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền;
d) Thực hiện chế độ báo cáo và chịu sự thanh tra, kiểm tra
của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định [20].
Qua việc điểm mục các nội dung trong Điều 7 của Thông tư số
14/2010/TT-BTTTT và khoản 2 Điều 11 Chương II của Nghị định số
97/2008/NĐ-CP ta thấy nội dung tại Điều 7 của Thông tư số 14/2010/TT-BTTTT
được căn cứ tại khoản 2 Điều 11 Chương II của Nghị định 97/2008/NĐ-CP và
có bổ sung chi tiết hơn.
Tuy nhiên trong cả Thông tư 14 lẫn Nghị định 97 đều không có những
quy định cụ thể về chế tài hay xử phạt như thế nào đối với mạng xã hội ngoài
chế độ báo cáo định kỳ hai lần trong một năm. Có lẽ, do mạng xã hội chưa thể
hiện những tác hại gây ra bức xúc đối với một nhóm xã hội nên việc quản lý
mạng xã hội chưa được chú ý như đối với trò chơi trực tuyến hiện nay.
Nhưng, lướt qua các số liệu thống kê trên mạng xã hội, chúng ta sẽ thấy khả
năng phát triển bùng nổ của mạng xã hội, như là:
+ Tỉ lệ người Việt Nam trên 18 tuổi có tài khoản mạng xã hội: 43%
người có một tài khoản, 25% có hai tài khoản, 13% có từ bốn tài khoản trở lên
+ Thống kê trên thế giới: tăng trưởng 47% mỗi năm, 80% số người sử
dụng Internet đã từng dùng các tiện ích của mạng xã hội, người sử dụng ngày
càng đa dạng về lứa tuổi…
82
Như vậy, mạng xã hội là một môi trường kinh doanh đầy tiềm năng và sẽ
cạnh tranh gay gắt hơn trong thời gian tới. Hai mô hình kinh doanh chủ yếu của
mạng xã hội là quảng cáo trực tuyến và dịch vụ đi kèm như bán tài sản ảo... Hiệu
quả kinh doanh của các mạng xã hội có liên quan trực tiếp tới lượng người truy
cập và sử dụng các dịch vụ trên mạng xã hội đó. Việc xây dựng nội dung sao cho
thu hút nhiều người dùng sẽ gắn với khai thác tin nóng, giật gân, hoặc khai thác
triệt để quan điểm, sở thích của giới trẻ vì giới trẻ là đội ngũ tham gia đông đảo
nhất. Từ đó, những nguy cơ, tác hại cũng sẽ bộc lộ rõ ràng hơn mà chỉ có chế độ
báo cáo thì không thể thể hiện tính chiến lược, đón đầu sự vụ, trong hoạt động
quản lý. Nội dung của các báo cáo cũng không thể hiện được những vấn đề xấu
để kiến nghị các cơ quan chức năng có biện pháp xử lý. Khoản 2, Điều 11,
Thông tư số 14/2010/TT-BTTTT qui định về chế độ báo cáo như sau:
2. Các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội
trực tuyến:
a) Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ 6 tháng một lần và
báo cáo đột xuất theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền.
b) Nội dung báo cáo định kỳ bao gồm:
- Tên tổ chức, ngày, tháng, năm và ký hiệu văn bản xác
nhận đăng ký cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền;
- Các loại hình dịch vụ đang cung cấp;
- Số lượng thành viên sử dụng các dịch vụ của doanh nghiệp
đang quản lý và các dữ liệu thống kê theo yêu cầu của cơ quan có
thẩm quyền.
c) Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến
có cung cấp dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân có trách
83
nhiệm gửi báo cáo trước ngày 15 tháng 01 và trước ngày 15 tháng 7
hàng năm [8].
Các mạng xã hội có thể tăng lên như thế nào trong quá trình phát triển
hiện nay và các tác động đối với đời sống cá nhân, quan hệ xã hội và chính trị,
hiện vẫn chưa có những đánh giá chính thức. Vì không có bức tranh tổng thể
nên thật sự khó cho những nhà hoạch định chính sách. Nhưng một số hậu quả
đã xuất hiện trong thời gian qua như:
- Lừa đảo để chiếm đoạt tài sản cá nhân, tổ chức khác qua mạng xã hội.
- Mạng xã hội "tấn công" giới trẻ bằng nhiều chiêu thức nguy hiểm
như bói toán, đánh bạc và sex để thu hút và moi tiền giới trẻ.
- Lợi dụng mạng xã hội để tuyên truyền chống phá Nhà nước, phá
hoại tài sản công dân (virus mạng)
- Đánh mất bản thân (Chìm đắm trong các mạng xã hội và bị ảnh
hưởng bởi những người mà chúng ta có liên kết, dường như chúng ta đang
mất dần đi một số tính chất của cá nhân mình)
Trên là các hậu quả xấu ảnh hưởng rộng lớn tới nhiều tầng lớp trong
xã hội. Ngoài ra còn những hậu quả tuy không lớn nhưng cũng là những sự
việc nói lên "lỗ hổng" của qui phạm pháp luật về xử phạt đối với mạng xã hội
trực tuyến. Ví dụ hành động lấy format của các trang nội dung trực tuyến nổi
tiếng như vnexpress.net, dantri.com.vn...để lồng vào các thông tin cá nhân
đưa lên. Vụ việc điển hình là vào ngày 01/4/2011 một số bạn trẻ đã lấy format
của các trang báo điện tử có tên tuổi lồng ghép vào đó các tin tức khống về cá
nhân (là bạn bè, đồng nghiệp, người thân quen...) rồi đưa comment, đường
link giới thiệu tin tức khống đó trên facebook của mình dẫn đến các nhầm
tưởng sự việc có thật. Hay việc tự do hóa trong comment trên trang facebook
dẫn đến việc tự tử hay suy sụp tinh thần của bạn trẻ ở Việt Nam vụ việc bé
Quỳnh Anh tham gia thi Got Talent, ở Thế giới thì có rất nhiều vụ việc xảy ra.
Tuy bản chất sự việc chỉ là sự đùa giỡn của một số các bạn trẻ giỏi trong lĩnh
84
vực Công nghệ hoặc sử dụng Internet để giải trí chơi đùa nhưng nếu đi quá
giới hạn sự việc trở thành nghiêm trọng trong khi ranh giới đến đâu thì được
thì pháp luật chưa qui định.
Những dẫn chứng trên cho thấy ngày nay xu hướng sử dụng công
nghệ cao để khiêu khích hay xúc phạm người khác đang trở thành trào lưu.
Với tính năng của mạng xã hội, thông tin được chia sẻ một cách nhanh chóng,
tin đồn dù không có thật cũng có thể được cho là sự thật.
Lợi dụng công nghệ như Internet hay tin nhắn để đưa những tin đồn ác ý,
lan truyền bí mật về đời tư khi chưa được phép, hay tạo dư luận phẫn nộ trong
cộng đồng bằng những nhận xét xúc phạm, đe dọa, hoặc việc hack vào tài khoản
online của cá nhân để đưa những thông tin làm hại đến uy tín và danh dự của
người khác, cũng như quấy nhiễu bằng thư nặc danh liên tục và cô lập một người
trên cộng đồng mạng hiện nay xảy ra rất nhiều. Tại Mỹ, Anh, Úc và ngay cả
Trung Quốc, các nghiên cứu cho thấy từ 10-55% bạn trẻ (13-20 tuổi) từng là nạn
nhân thường xuyên của việc nói xấu, hay bị xúc phạm nghiêm trọng trong một
giới hạn nào đó, những nhận xét ấy trở nên quá khắc nghiệt, thậm chí cay độc,
có thể làm suy sụp tinh thần của người tiếp nhận. "Vì thế, trước khi chờ đợi
giải pháp cụ thể từ các nhà quản lý, có lẽ người trong cuộc - những nạn nhân
của các tin đồn ác ý trên thế giới mạng - cần chuẩn bị cho mình một số giải
pháp để tự vệ, bao gồm: "Hãy can đảm nói chuyện với cha mẹ hay người bạn
tin tưởng; hay ngừng tham gia những trang mạng có những người công kích
bạn. Điều này bao gồm cả việc đóng tài khoản của bạn trên trang mạng xã hội
như Facebook hay forum của trường, cộng đồng" [30].
d. Chưa qui định hoạt động kinh doanh mạng xã hội trực tuyến trong
danh mục dịch vụ kinh doanh có điều kiện
Trong Nghị định 59/2006/NĐ-CP, ở danh mục dịch vụ kinh doanh có
điều kiện có các dịch vụ như: đại lý dịch vụ Internet công cộng, dịch vụ truy
nhập Internet, dịch vụ kết nối Internet. Trong khi đó, dịch vụ mạng xã hội và
85
trò chơi trực tuyến không có trong danh mục này và danh mục dự thảo sửa đổi
năm 2010 mặc dù đây là hai dịch vụ đã, đang và sẽ tiếp tục bộc lộ những tệ
nạn và vi phạm pháp luật, để lại hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triển thế hệ
trẻ và phát triển xã hội.
e. Qui phạm vẫn đi sau so với thực tế phát triển của xã hội
Việc vi phạm an ninh mạng thì phải bị xử lý theo pháp luật nhưng
khung pháp lý về vấn đề này hiện nay chưa rõ ràng, chưa cụ thể. Các quy chế,
quy định được ban hành nhằm tạo những khuôn mẫu chuẩn trong quản lý xã
hội nhưng pháp luật ở nước ta vẫn đi sau sự phát triển của xã hội
Ví dụ thực tế tại một số đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh là siêu đô thị với tốc độ phát triển rất nhanh về khoa học công nghệ và
cởi mở du nhập những cái mới, thì cũng đồng thời là nơi xuất hiện những trục
trặc trong khâu quản lý. Chính sách quản lý mạng xã hội của địa phương theo
qui luật không thể tách rời chính sách quản lý của trung ương thể hiện qua các
văn bản pháp lý như Luật, Nghị định, thông tư hướng dẫn của Bộ. Cụ thể ở
đây là các chính sách quản lý của thành phố vẫn phải đặt trong khuôn khổ
ràng buộc của một địa phương dù cho những quy định, mô hình tổ chức,
khuôn khổ pháp lý của Trung ương không theo kịp với thực tế của thành phố.
Có thể dễ dàng nhận thấy đây là một bất cập khi cùng một sự vụ nhưng không
được xử lý thống nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Từ đó cho ta thầy việc "thống
nhất" là một ý muốn chủ quan khó thực hiện trong điều kiện quyền quản lý
thuộc địa phương nhưng căn cứ theo khung pháp lý ban hành từ trung ương
như hiện nay.
Thế nên, các thành phố phát triển như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh ngoài việc chủ động đề xuất, kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung
những quy định hiện hành không còn phù hợp nhằm tạo ra cơ chế thông
thoáng, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa Luật và thực tiễn, còn phải tiên
phong trong việc xây dựng và thử nghiệm chính sách mới trong quản lý mạng
86
xã hội, trò chơi trực tuyến và các dịch vụ công nghệ cao khác để hoàn thiện
chính sách quản lý cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn.
f. Qui định thiếu tính khả thi trong triển khai
Các quy định quản lý của nhà nước ban hành khi triển khai thiếu tính
khả thi vì chưa đồng bộ và không thực hiện được triệt để. Thực tế khi triển
khai các qui định về điều kiện kinh doanh của Đại lý Internet qui định tại
Nghị định 97 và Thông tư 02/2005/TTLT-BBCVT-BVHTT-BCA-BKHĐT về
quản lý đại lý Internet thấy bất cập sau:
- Đối với qui định đóng cửa vào 23h đêm và mở cửa vào 6h sáng, qui
định áp dụng phần mềm quản lý các đại lý Internet khi triển khai còn nhiều
bất cập cho cả hai bên quản lý và đại lý Internet. Đối với bên quản lý: các cơ
quan QLNN sử dụng lực lượng chính quyền địa phương để kiểm tra, bắt và
xử phạt. Việc này được doanh nghiệp đánh giá là hành động "bắt cóc bỏ vào
đĩa" bởi với khoảng 30.000 đại lý Internet và game online trên cả nước, không
có lực lượng chính quyền địa phương nào có thể kiểm soát chắc chắn việc
thực hiện nghiêm túc quy định về giờ giấc này. Thậm chí, ngay cả với những
địa phương làm chặt thì vẫn có tình trạng đối phó của các đơn vị này bằng cách
đóng cửa, tắt đèn, nhưng bên trong vẫn cung cấp dịch vụ. Đối với các đại lý
Internet: các đại lý phản ứng không ủng hộ qui định này vì việc thực hiện chưa
triệt để, không công bằng giữa các đại lý và đại lý ở các địa phương khác nhau
(có địa phương qui định giờ đóng có địa phương không, có đại lý đóng cửa đúng
giờ qui định thì lại thấy thiệt thòi hơn các đại lý không thực hiện qui định). Hơn
nữa các đại lý cho rằng họ chỉ cung cấp đường truyền, còn người sử dụng
Internet để làm gì thì họ không biết. Việc bắt đại lý chặn địa chỉ cấm thứ nhất
những người trông nom đại lý không phải người hiểu biết kỹ thuật, thứ hai họ
không biết địa chỉ nào cấm để thực hiện việc chặn địa chỉ xấu.
- Đối với quy định nêu đại lý Internet phải cách trường học 200m
cũng chưa rõ ràng dẫn đến khó trong quá trình áp dụng, khoảng cách 200m
87
này được tính từ đâu? Từ khuôn viên, từ tường rào hay từ cổng trường?… Tại
Thành phố Hồ chí Minh trường học rất nhiều, nếu áp dụng quy định này thì
chẳng còn bao nhiêu đại lý đủ điều kiện hoạt động. Bà Lê Lý Lệ Quỳnh - chủ
tiệm Internet ở quận 1 Thành phố Hồ chí Minh nói:
Tiệm tôi đối diện với trường học, từ ngày có quy định cấm
một số game online, tiệm của tôi vắng khách hẳn đi, từ 120 máy đến
nay tôi giảm còn 60 máy mà vẫn ế ẩm. Trong khi đó, tôi biết có
nhiều tiệm vẫn cho chơi game thoải mái, rất đông khách. Rồi còn
quy định tiệm phải cách xa trường học 200m, nếu thực hiện đúng
như vậy thì khu vực này chẳng có tiệm nào được phép hoạt động cả,
vì ở đây trường học rất nhiều [37].
3.1.3. Một số giải pháp của Việt Nam
Bên cạnh các chính sách khuyến khích, phát triển Internet Nhà nước
Việt Nam cũng chú ý tới việc xây dựng hệ thống văn bản tạo hành lang pháp
lý cho hoạt động dịch vụ Internet vừa bảo vệ an ninh quốc gia, các giá trị đạo
đức - thuần phong mỹ tục, bảo vệ trẻ em khỏi tác động tiêu cực của Internet,
ngăn chặn các hành vi phạm pháp... Tuy nhiên vì đặc thù của ngành công
nghệ phát triển quá nhanh trong khi công tác xây dựng pháp luật lại qua quá
nhiều khâu dẫn đến việc quản lý của nhà nước không theo kịp những phát
triển của công nghệ. Do đó các văn bản pháp luật của Việt Nam không đáp
ứng, bao quát được hết thực tế.
Hiện nay, tại Việt Nam Nghị định 97/2008/NĐ-CP là văn bản luật
quản lý bao trùm về lĩnh vực Internet khi ra đời có nhiều điểm tiến bộ hơn
nhiều so với Qui định 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ
Internet ban hành 23/8/2001 trước đó. Tuy nhiên Nghị định 97/2008/NĐ-CP
ngay khi ra đời đã có nhiều điều khoản gây nhiều tranh cãi, phản ứng trái
chiều và sau 3 năm triển khai, đến nay những nội dung quy định trong nghị
định đã thật sự bộc lộ nhiều sự bất hợp lý. Ví dụ một số các qui định về điều
88
kiện kinh doanh của đại lý Internet tại Nghị định 97 có bất cập như quy định
về điều kiện kinh doanh, thời gian đóng mở cửa, cài đặt phần mềm quản lý,
chặn game online… Tuy nhiên, cho đến nay, việc triển khai các quy định này
trong thực tế gặp khó khăn. Chính vì vậy mà song hành với việc đưa ra các
chính sách, văn bản, qui định để quản lý nhà nước Việt Nam vần luôn coi
trọng các giải pháp mang tính chất giải quyết tình thế trong lúc chờ các biện
pháp có tính chất lâu dài.
Rõ ràng, chúng ta không thể ngăn sự phát triển như vũ bão của công
nghệ thông tin, do đó Việt Nam cần những biện pháp quản lý khoa học bên
cạnh việc xây dựng một chiến lược đường dài trong lộ trình quản lý. Để ngăn
chặn các tiêu cực của Internet, hiện nay Nhà nước Việt Nam thực hiện kết
hợp và đồng thời các biện pháp hành chính - giáo dục - kỹ thuật, biện pháp
vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài:
- Biện pháp Hành chính: Sử dụng cả biện pháp tình thế tạm thời kết
hợp với biện pháp lâu dài như đối với dịch vụ chơi game online vấn đề đang
"nóng" của xã hội
 Tạm dừng cấp phép các trò chơi game online trong thời gian để rà
soát lại cơ chế, chính sách, rà soát lại thực tiễn, tổng kết, rút kinh nghiệm để
làm tốt hơn, sau đó xây dựng chủ trương mới.
 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử phạt các đại lý Internet
về việc tuân thủ các qui định của pháp luật và qui chế hoạt động của đại lý
Internet; các doanh nghiệp sản xuất gameonline, các doanh nghiệp cung cấp
nội dung bằng các biện pháp thu hồi giấy phép hoạt động, tiêu hủy các sản
phẩm không đúng tiêu chuẩn, xử phạt hành chính...
 Lập cơ quan chuyên trách để lo an toàn thông tin trên mạng bằng
việc thành lập Cục an toàn thông tin để đủ cơ sở pháp lý "lo" vấn đề an ninh
trên mạng.
89
 Tích cực hợp tác với các tổ chức an ninh mạng thế giới, trong đó
nhanh xúc tiến việc tham gia Impact - tổ chức an ninh mạng thế giới (Việt
Nam sẽ là thành viên thứ 42. Các nước trong tổ chức này có thiết bị bảo vệ trẻ
em). Việt Nam tìm hiểu để có thể áp dụng ngay từ năm 2011.
 Triển khai nhóm giải pháp cơ bản để hoàn thiện khung pháp lý
đang thiếu: hình thành Luật an toàn thông tin trên mạng trên cơ sở nghiên cứu
kinh nghiệm quản lý của các nước trên thế giới để học hỏi kỹ thuật quản lý vì
game online là một vấn đề xã hội mới và chưa có luật
 Có các chính sách Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất
game cho ra các sản phẩm game mang tính cộng đồng và văn hóa, bản sắc Việt
 Tăng cường trách nhiệm phối hợp hành động giữa các các Bộ
ngành và giữa các Bộ, ngành với chính quyền địa phương và gia đình. Cụ thể:
cần thiết có sự phối hợp chặt chẽ của Bộ Công an thì mới thể ngăn chặn
đường truyền từ máy chủ đặt tại nước ngoài không lành mạnh vào Việt Nam;
Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch kiểm tra băng đĩa trôi nổi trên thị trường;
Bộ GD-ĐT quản lý toàn bộ đường truyền vào trường học và ký túc xá…
 Hệ thống hóa qui định pháp luật về lĩnh vực Internet giúp cho các
cơ quan thi hành pháp luật có điều kiện nắm bắt dễ dàng, nhanh chóng những
quy định của pháp luật hiện hành cũng như đánh giá, nhìn nhận lại hiệu quả
thực tế của hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật.
- Biện pháp Giáo dục: Sử dụng các hình thức thông tin, tuyên truyền
trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo viết, báo nói, báo hình), qua hệ
thống trường học (đối với học sinh, sinh viên), qua hệ thống thông tin Quận,
phường, xã….hay sử dụng cả hệ thống mạng lưới các Bưu điện trên 64 tỉnh
thành nhằm hướng dẫn, nâng cao ý thức sử dụng thông tin trên Internet của
người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ
 Giáo dục người sử dụng Internet phải tự nâng cao ý thức sử dụng
thông tin, tự mình chắt lọc những nội dung để khai thác những thông tin có
lợi, loại bỏ những thông tin xấu.
90
 Đối với thanh thiếu niên kết hợp các biện pháp giáo dục từ gia đình,
nhà trường, các tổ chức xã hội.
 Tạo điều kiện cho nhân dân có điều kiện tiếp cận, hiểu biết pháp
luật về các vấn đề mà họ quan tâm góp phần vào việc thực hiện được tốt.
- Biện pháp kỹ thuật:
 Yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ cắt đường truyền của các đại lý Internet
(quán café online, game online…) vào các giờ như sau 23h đêm đến 6h sáng.
 Đối với những gia đình có trẻ nhỏ nhưng tự nhận thấy không thể
quản lý được con em mình chơi game hoặc sử dụng Internet như thế nào thì
có thể đăng ký với các nhà cung cấp dịch vụ mạng biện pháp cắt mạng Internet
tương tự.
 Xây dựng các chương trình phần mềm quản lý hoạt động của các
đại lý Internet hay kiểm soát tại gia đình
3.2. VIỆC ÁP DỤNG MỘT SỐ QUI ĐỊNH QUẢN LÝ INTERNET CỦA
TRUNG QUỐC, MỸ TẠI VIỆT NAM
Nghiên cứu, phân tích, xem xét thực trạng quản lý Internet của Việt
Nam không thể không nghiên cứu qui định của một số nước trên thế giới, từ
đó có cái nhìn toàn cảnh về văn bản điều chỉnh Internet của Việt Nam so với
Thế giới.
Internet có nguồn gốc hình thành từ nước Mỹ và đã được các nước
trên thế giới ứng dụng và phát triển mạnh mẽ. Do đó việc học hỏi kinh
nghiệm quản lý, xây dựng qui định quản lý Internet của các nước đã có bề dày
lịch sử đi trước là việc các nhà quản lý và soạn thảo qui phạm pháp luật các
nước đã làm để đón bắt, đuổi kịp xu thế, tạo sức sống cho các nguyên tắc, qui
phạm trong thực tiễn và Việt Nam cũng không nằm trong ngoại lệ. Đặc biệt
Internet cũng như game online ở Việt Nam còn khá mới mẻ. Trong quá trình
quản lý, chúng ta cần học tập sự đi trước của các quốc gia.
91
Nguyên tắc soạn thảo, xây dựng văn bản pháp luật của các nhà làm
luật Việt Nam là phải tham khảo, đối chiếu với luật pháp và kinh nghiệm triển
khai của các nước trên thế giới, đảm bảo qui định đưa ra phải phù hợp với
thông lệ quốc tế, với các qui định hiện hành của pháp luật Việt Nam, với đặc thù
kinh tế, xã hội và tình hình phát triển của Việt Nam, nhằm đảm bảo việc các
qui phạm pháp luật ban hành ra phải phù hợp với thực tế và đi vào cuộc sống.
Như vậy các nhà quản lý của nhà nước Việt Nam cũng đã rất chú trọng đến
việc tham khảo học tập kinh nghiệm của các nước để xây dựng Qui chế cho
việc quản lý Internet cũng như các dịch vụ gia tăng phát triển trên nền Internet.
3.2.1. Trung Quốc
Kinh nghiệm quản lý của Trung Quốc, được thế giới cho là quốc gia
có số lượng người sử dụng Internet lớn nhất thế giới (khoảng 384 triệu người)
về lĩnh vực Internet.
- Qui định quản lý về mạng Internet của Trung Quốc:
Trung Quốc có khoảng 81.000 quán café Internet với khoảng 4,7 triệu
máy tính. Chính vì vậy để quản lý số lượng lớn điểm truy nhập công cộng này
(quán cafe Internet), Chính phủ Trung Quốc đã có những quy định nhằm siết
chặt việc sử dụng Internet tại các điểm truy nhập công cộng này bằng quy
định, bất kỳ khách hàng nào muốn sử dụng Internet tại các quán café Internet
đều phải xuất trình thẻ căn cước (Chứng minh thư) và thực thi việc kiểm soát
mạng Internet bằng quy định, nếu cơ quan quản lý phát hiện các điểm truy
cập Internet công cộng tiếp nhận các khách hàng vị thành niên (dưới 18 tuổi)
sẽ ngay lập tức bị tước giấy phép và cắt đường truyền. Các nhà làm luật
Trung Quốc lý giải qui định trên là một biện pháp nhằm hạn chế sự gia tăng
của những vụ án có tính chất dã man mà nguyên nhân gốc từ Internet xảy ra
gần đây, đồng thời để bảo vệ giới trẻ nước này trước những nội dung độc hại
của Internet.
- Qui định về thời gian và độ tuổi chơi game:
92
Trung Quốc ban hành qui định quản lý giờ chơi game đối với lứa tuổi
thanh thiếu niên rất ngặt nghèo. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn quản lý về độ
tuổi chơi và độ tuổi được sử dụng mạng Internet bằng hệ thống kiểm soát độ
tuổi người chơi game và sử dụng điểm truy nhập Internet công cộng (cafe
Internet) bằng chứng minh thư điện tử. Và trên thực tế, sau 2 năm áp dụng
hình thức quản lý này, chính phủ Trung Quốc đã hạn chế đáng kể các tiêu cực
của game online.
Việt Nam đã học hỏi đúc rút kinh nghiệm trên từ qui phạm quản lý về
mạng của Trung Quốc tuy nhiên sáng tạo để có những áp dụng phù hợp với
hoàn cảnh thực tiễn và hệ thống quản lý của Việt Nam. Việt Nam đã ban hành
các văn bản cụ thể như Nghị định số 28/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông
tin điện tử trên Internet; hay Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BBCVT-
BVHTT-BCA-BKHĐT về quản lý đại lý Internet, Thông tư liên tịch số
60/2006/TTLT-BVHTT-BCVT-BCA (Thông tư 60) về quản lý trò chơi trực
tuyến. Cụ thể ngày ngày 13/4/2010, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ra dự
thảo về Qui chế quản lý trò chơi trực tuyến, quy định các đại lý Internet trên
địa bàn Hà Nội chỉ được mở cửa lúc 8 giờ cho đến 22 giờ hàng ngày học tập
kinh nghiệm quản lý giờ sử dụng điểm truy cập Internet công cộng của Trung
Quốc. Và ngay sau dự thảo trên, ngày 26 tháng 4 năm 2010, UBND thành phố
Hà Nội đã cụ thể hóa dự thảo trên bằng việc ban hành "Qui định số
15/2010/QĐ - UBND" qui định về việc quản lý giờ giấc hoạt động của các đại
lý Internet và hành vi người sử dụng. Cụ thể trẻ em dưới 14 tuổi không được
vào các đại lý Internet một mình; các đại lý internet phải cách xa trường học ít
nhất 200m; đại lý Internet phải gắn các phần mềm quản lý của các cơ quan
chức năng vào các máy kết nối…
3.2.2. Hoa Kỳ (USA)
Ở Mỹ, việc quản lý mạng và các game có yếu tố bạo lực đã được phát
triển từ lâu và được xếp cùng với các văn hóa phẩm khác của xã hội như sách
93
báo, phim ảnh. Ở Mỹ "hơn 60% trẻ em dưới 6 tuổi tại đất nước này đã biết
xem video trực tuyến, game, search thông tin sử dụng máy tính và với 20%
thông qua những thiết bị giải trí di động như điện thoại di động hay iPod" [26].
Mỹ chọn cách phân loại đối tượng và thể loại game để quản lý cho
phù hợp thay cho việc có các qui định cấm đoán, hạn chế. Hệ thống phân loại
theo chuẩn mực đã được các tổ chức như ESRB, PEGI, ACB đặt ra và các
nhà làm luật chỉ việc thi hành luật để áp dụng phân loại đó cho các đối tượng
sử dụng.
Hệ thống Phân loại Phần mềm Giải trí ESRB, PEGI... là các tổ chức
độc lập và phi lợi nhuận chuyên phân loại các sản phẩm phần mềm giải trí và
game cho nước Mỹ. Ví dụ Hệ thống Phân loại Phần mềm Giải trí ESRB là
một tổ chức chuyên phân loại các sản phẩm phần mềm giải trí và game tại
khu vực Bắc Mỹ. ESRB nổi tiếng nhất trong các tổ chức phân loại bởi sự phát
triển công nghiệp game. Mặc dù việc phân loại về lý thuyết là tự nguyện và
tùy chọn, nhưng gần như mọi game phát hành bởi các nhà phát hành game
chuyên nghiệp đều nộp cho ESRB phân loại. Các nhãn phân loại ESRB trở
thành tiêu chí quan trọng để các bậc phụ huynh quyết định chọn game cho
con cái của mình, bao gồm: EC (trẻ 3 tuổi hoặc nhỏ hơn), E (6 tuổi trở lên),
E10+ (10 tuổi trở lên), T (13 tuổi trở lên), M (17 tuổi trở lên) và AO (18 tuổi
trở lên).
Mỹ cũng qui định người mua phải xuất trình căn cước khi mua game
để nhà phân phối có thể cung cấp sản phẩm game đúng độ tuổi theo hệ thống
phân loại phần mềm giải trí ESRB nêu trên. Các nhà phân phối có quyền từ
chối bán các game bạo lực nếu người mua không xuất trình được chứng minh
thư đủ 17 tuổi hoặc có người lớn đi cùng. Còn nếu người mua đã đủ 18 tuổi,
có đầy đủ nhận thức về hành vi của bản thân mình, thì có quyền tiếp xúc với
các văn hóa phẩm có yếu tố bạo lực. Tức là ở các nước phát triển như nước
Mỹ thì góc độ tiếp cận của nhà quản lý luôn là tôn trọng quyền tự quyết và tự
94
quản: nhà trường phải giáo dục học sinh, gia đình phải quản lý con cái, mỗi cá
nhân đủ tuổi trưởng thành phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Còn
nếu bạn đã đủ 18 tuổi mà vẫn không phân biệt được giữa game và đời thực,
lời khuyên chân thành của các nhà quản lý là bạn cần tìm cho mình một bác sĩ
chuyên khoa tâm lý. Như vậy Mỹ qui định rõ ràng các trách nhiệm với từng
đối tượng:
- Trách nhiệm của cơ quan quản lý là phải đặt ra các chế tài ngăn cấm
các cửa hàng kinh doanh bán game hoặc cung cấp dịch vụ chơi game dán
nhãn bạo lực (theo phân loại quốc tế hoặc nội địa) cho các trẻ em dưới 18 tuổi
mà không có người lớn đi cùng;
- Trách nhiệm của gia đình và nhà trường là phải thường xuyên giám
sát, quản lý, giáo dục con em của mình về các thể loại game phù hợp với độ
tuổi của mình, về việc chơi game điều độ và chừng mực;
- Trách nhiệm của truyền thông là phải tích cực tuyên truyền các kiến
thức chính xác và có cơ sở khoa học về các tiêu chuẩn phân loại game như
ESRB, BBFC, PEGI cho đại đa số nhân dân nắm bắt và tuân theo;
- Trách nhiệm của mỗi cá nhân đủ 18 tuổi là phải ý thức được tác
động của game đối với bản thân mình, phân biệt rạch ròi giữa game và đời
thực và phải tự chịu trách nhiệm về những hành vi của mình như một người
trưởng thành.
Ngoài qui định mang tính chất "mềm" nêu trên, các nhà quản lý của
Mỹ, còn đưa ra qui định "cứng" yêu cầu tất cả những người chơi game phải
đăng ký số chứng minh nhân dân thật với nhà cung cấp dịch vụ. Số chứng
minh thư này có thể kiểm chứng được thông qua một cơ sở dữ liệu chung của
toàn quốc gia.
Qua nghiên cứu, xem xét cách quản lý của nước Mỹ về vấn đề mạng
và trò chơi trực tuyến ở trên thấy rằng hạ tầng vật chất cũng như quan điểm,
trình độ quản lý,....giữa Việt Nam và các nước phát triển đại diện nước Mỹ
95
còn quá cách xa nhau. Do đó Việt Nam chỉ học hỏi kinh nghiệm quản lý
mạng và game ở một số điểm phù hợp như qui định về đối tượng sử dụng
game theo độ tuổi hay đưa ra các qui định khác như về giờ giấc được sử dụng
dịch vụ, hành vi người sử dụng dịch vụ như trẻ em dưới 14 tuổi không được
vào các đại lý Internet một mình...phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của Việt
Nam, tuy nhiên việc thực thi các qui định có đạt kết quả khả quan không là
vấn đề ta xem xét trong mục sau. Còn do văn hóa, quan điểm và trình độ còn
nhiều khác biệt nên Việt Nam chưa thể học hỏi việc sử dụng hệ thống Phân
loại Phần mềm Giải trí ESRB...hay việc sử dụng hệ thống có thể kiểm tra số
chứng minh thư thông qua một cơ sở dữ liệu chung của toàn quốc gia. Qua
phân tích, nghiên cứu cách quản lý của Mỹ về mạng và game nêu trên có lẽ
Việt Nam cũng đã tìm ra bản chất lõi của tác nhân vào giới trẻ của mạng và
game để có thể chấm dứt việc đổ lỗi lẫn nhau giữa cá nhân, gia đình và nhà
trường của xã hội Việt Nam.
3.3. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN INTERNET VIỆT NAM THEO XU
HƯỚNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
- Công nghệ thông tin - truyền thông, mạng Internet đã làm cho
khoảng cách trên thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé. Tri thức và thông tin
không biên giới đã đưa hoạt động kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở
thành hoạt động mang tính toàn cầu. Sự hội tụ công nghệ viễn thông - tin học -
truyền thông quảng bá đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu và dẫn đến
sự hình thành những loại hình dịch vụ mới, tạo ra khả năng mới và cách tiếp cận
mới đối với phát triển kinh tế xã hội. Hòa với xu thế chung của thế giới, Việt
Nam đã tích cực và nỗ lực xây dựng định hướng chiến lược về Công nghệ
Thông tin bắt nhịp với xu thế hội nhập của quốc tế. Định hướng của Việt Nam
được cụ thể hóa bằng các văn bản (Quyết định, Thông tư của Chính phủ)
trong đó nêu rõ các mục tiêu và giải pháp cụ thể để đạt được các mục tiêu đã
đề ra. Trong hơn 10 năm xây dựng và phát triển sự nghiệp Công nghệ Thông
96
tin nước nhà, Chính phủ Việt Nam đã có hệ thống quyết sách chiến lược cho
từng giai đoạn phát triển ngành Công nghệ trong chính sách phát triển dài hạn
và các văn bản này đã được hệ thống và đề cập đến tại mục b khoản 2.1.3
chương II của luận văn.
3.3.1. Chính sách của nhà nước
Chính sách phát triển công nghệ thông tin nói chung và Internet nói
riêng của nhà nước Việt Nam được cụ thể hóa bằng các văn bản nêu trên
trong đó nhà nước đưa ra các mục tiêu cần đạt trong từng giai đoạn:
3.3.1.1. Mục tiêu Giai đoạn 2001 - 2005
Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai đoạn 2001-2005 đã nêu rõ
các mục tiêu tổng quát sau:
- Đẩy nhanh việc phổ cập Internet trong mọi hoạt động của nền kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng với chất lượng tốt, giá cả thập hơn
hoặc tương đương các nước trong khu vực.
- Phát triển hạ tầng Internet trở thành môi trường ứng dụng thuận lợi
các loại hình dịch vụ điện tử về thương mại, hành chính, báo chí, bưu chính,
viễn thông, tài chính, ngân hàng, giáo dục đào tạo từ xa, y tế qua mạng...phục
vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
- Tạo lập môi trường cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ kết nối (IXP), truy nhập (ISP) và ứng dụng (OSP)
3.3.1.2. Mục tiêu giai đoạn 2006-2010
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32/2006/QĐ-TTg
ngày 07/02/2006 phê duyệt Qui hoạch phát triển viễn thông và Internet Việt
Nam đến 2010. Trong đó nêu rõ các chỉ số mục tiêu, chỉ tiêu Internet Việt
Nam đạt được các kết quả sau đến năm 2010.
97
a. Mục tiêu
- Viễn thông Internet trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tỷ trọng
đóng góp cho tăng trưởng GDP ngày càng tăng, tạo nhiều việc làm cho xã
hội. Tốc độ tăng trưởng đạt 1,5 - 2 lần so với tốc độ tăng trưởng chung của
nền kinh tế, đến năm 2010 tổng doanh thu dịch vụ viễn thông và Internet đạt
khoảng 55 ngàn tỷ đồng (3,5 tỷ USD)
- Đẩy nhanh việc phổ cập viễn thông và Internet trên phạm vi cả
nước, rút ngắn khoảng cách về sử dụng dịch vụ giữa các vùng, miền, tạo điều
kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh,
quốc phòng.
- Bảo đảm an toàn, an ninh thông tin cho các hoạt động ứng dụng và
phát triển công nghệ thông tin và truyền thông trong mọi lĩnh vực chính trị,
kinh tế, xã hội
- Cung cấp các dịch vụ viễn thông và Internet với chất lượng tốt, giá
cước hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người sử dụng dịch vụ
b. Chỉ tiêu
- Chỉ tiêu phát triển dịch vụ:
Cung cấp cho xã hội, người sử dụng các dịch vụ viễn thông và
Internet hiện đại, đa dạng, phong phú với giá cước tương đương hoặc thấp
hơn mức bình quân của các nước trong khu vực, đáp ứng nhu cầu thông tin
phục vụ kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng. Thực hiện phổ cập các dịch
vụ viễn thông và Internet đến tất cả các vùng, miền trong cả nước với chất
lượng dịch vụ và phục vụ ngày càng cao. Đến năm 2010, mật độ thuê bao
Internet đạt từ 8 tới 12 thuê bao/100 dân (trong đó có 30/%) là thuê bao băng
rộng), tỷ lệ người sử dụng Internet đạt 25% đến 35% dân số.
Đảm bảo đa số cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên, bác sĩ, sinh
viên đại học và cao đẳng, họ sinh trung học chuyên nghiệp và học sinh phổ
thông trung học có điều kiện sử dụng Internet
98
Đẩy mạnh phổ cập dịch vụ điện thoại cố định và Internet đến tất cả
các xã trong cả nước. Đến năm 2010 bảo đảm 100% số xã có điểm truy nhập
dịch vụ điện thoại công cộng, 70% số xã có điểm truy nhập Internet công
cộng, 100% số huyện hầu hết các xã trong các vùng kinh tế trọng điểm được
cung cấp dịch vụ Internet băng rộng
Bảo đảm 100% người sử dụng được truy nhập miễn phí đến các dịch
vụ bắt buộc, thông tin cứu hỏa, cấp cứu y tế, thông tin khẩn cấp về an ninh,
trật tự xã hội. Duy trì và mở rộng, bảo đảm thông tin tìm kiếm, cứu nạn và
phòng chống thiên tai.
- Chỉ tiêu phát triển mạng lưới:
Đảm bảo tất cả các Bộ, ngành, cơ quan hành chính nhà nước, chính
quyền cấp quận, tỉnh được kết nối Internet băng rộng và kết nối với mạng diện
rộng của chính phủ, 100% viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và trung học phổ thông có kế nối để truy nhập Internet băng
rộng, trên 90% các trường trung học cơ sở, bệnh viện được kết nối Internet.
3.3.1.3. Mục tiêu giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến 2020
Để định hướng và thúc đẩy phát triển Internet trong giai đoạn mới và
từng bước hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực trong đó có cả lĩnh vực
Internet, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số Quyết định số
158/2001/QĐ-TTg ngày 18/10/2001 về phê duyệt "Chiến lược phát triển Bưu
chính, Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến 2020" và
Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 Phê duyệt "Chiến lược
phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và
định hướng đến năm 2020". Trong đó nêu rõ các mục tiêu phát triển như sau:
+ Mục tiêu 2005 đến 2015:
Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia có công nghệ
hiện đại ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực, có độ phủ rộng khắp trên
99
cả nước với thông lượng lớn, tốc độ và chất lượng cao, hoạt động hiệu quả,
tạo điều kiện để toàn xã hội cùng khai thác, chia sẻ thông tin trên nền xa lộ
thông tin quốc gia đã xây dựng; làm nền tảng cho việc ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Cung cấp cho xã hội, người tiêu dùng các dịch vụ BCVT hiện đại,
phong phú, đa dạng với giá cả thấp hơn hoặc tương đương mức bình quân của
các nước trong khu vực; đáp ứng mọi nhu cầu thông tin phục vụ kinh tế - xã hội,
an ninh, quốc phòng. Thực hiện phổ cập các dịch vụ BC,VT, Th tới tất cả các
vùng miền trong cả nước với chất lượng phục vụ cao. Đến 2010 số mày điện
thoại số người sử dụng Internet trên 100 dân đạt mức trung bình trong khu vực
Xây dựng bưu chính - viễn phòng trong xu thế hội tụ công nghệ thành
ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn hoạt động hiệu quả, đóng góp ngày càng
cao vào tăng trưởng GDP của cả nước, tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội.
Công nghệ thông tin và truyền thông có tốc độ tăng trưởng trên
20%/năm, đạt tổng doanh thu khoảng 15 tỷ USD.
Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông trong mọi lĩnh
vực, khai thác có hiệu quả thông tin và tri thức trong tất cả các ngành. Xây
dựng và phát triển Việt Nam điện tử vói công dân điện tử, Chính phủ điện tử,
doanh nghiêp điện tử, giao dịch và thương mại điện tử để Việt Nam đạt trình
độ khá trong khu vực ASEAN. Hình thành xã hội thông tin.
+ Các mục tiêu định hướng đến năm 2020:
Chỉ thị 07/CT-BBCVT ngày 7/7/2007 về Định hướng Chiến lược phát
triển Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (gọi
tắt là "Chiến lược Cất cánh") đã đưa ra các mục tiêu định hướng cụ thể về việc
phát triển công nghệ thông tin - truyền thông của Việt Nam đến năm 2020 như sau:
Đến năm 2020 Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam trở
thành một ngành quan trọng đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP với tỷ lệ
100
ngày càng tăng. Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam đạt trình độ
tiên tiến trong các nước ASEAN góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế tri thức và
xã hội thông tin.
Hạ tầng Bưu chính Viễn thông và Công nghệ thông tin đạt các chỉ tiêu
về mức độ sử dụng dịch vụ tương đương với mức bình quân của các nước
công nghiệp phát triển, đa dạng các loại hình dịch vụ, bắt kịp xu thế hội tụ
công nghệ và dịch vụ Viễn thông - Công nghệ thông tin - Truyền thông, hình
thành hệ thống mạng tích hợp theo công nghệ thế hệ mới, băng thông rộng,
dung lượng lớn, mọi nơi, mọi lúc với mọi thiết bị truy cập, đáp ứng nhu cầu
ứng dụng Công nghệ thông tin và Truyền thông, rút ngắn khoảng cách số, bảo
đảm tốt an ninh, quốc phòng.
Ứng dụng Công nghệ thông tin và Truyền thông và Internet sâu rộng
trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quản lý tạo nên sức
mạnh và động lực để chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao
hiệu suất lao động, tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân, thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ; góp phần xây dựng nhà
nước minh bạch, hiệu lực, hiệu quả, dân chủ và phục vụ người dân ngày càng
tốt hơn. Khai thác có hiệu quả thông tin và tri thức trong tất cả các ngành.
Xây dựng và phát triển Việt Nam điện tử với công dân điện tử, chính
phủ điện tử và doanh nghiệp điện tử, giao dịch và thương mại điện tử đạt trình
độ nhóm các nước dẫn đầu khu vực ASEAN.
Công nghiệp Công nghệ thông tin và Truyền thông trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn và khâu quan trọng trong dây chuyền gia công, sản xuất và
cung cấp toàn cầu, đảm bảo tăng trưởng tốc độ cao, công nghệ hiện đại, sản
xuất nhiều sản phẩm Việt Nam ngày càng có hàm lượng sáng tạo cao. Một số
sản phẩm công nghiệp quan trọng trong lĩnh vực điện tử, phần cứng, phần
mềm đạt trình độ nhóm nước phát triển trên thế giới. Phát triển mạnh công
101
nghiệp phần mềm, công nghiệp nội dung, coi trọng sở hữu trí tuệ và bản
quyền tác giả.
Nguồn nhân lực Công nghệ thông tin và Truyền thông đạt trình độ
nhóm các nước dẫn đầu khu vực ASEAN về số lượng, trình độ và chất lượng
đáp ứng các yêu cầu quản lý, sản xuất, dịch vụ và ứng dụng trong nước và
xuất khẩu quốc tế. Phổ cập, xóa mù tin học, nâng cao trình độ, kỹ năng ứng
dụng Công nghệ thông tin và Truyền thông cho người dân, đặc biệt thanh
thiếu niên.
3.3.2. Thuận lợi, khó khăn và thách thức
Để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu theo kế hoạch đặt ra, ta cần nhìn
thấy được những khó khăn, thách thức và những thuận lợi trong quá trình
triển khai thực hiện kế hoạch và chỉ tiêu đã đặt ra
3.3.2.1. Thuận lợi
Trong thời gian qua nhờ sự quan tâm của Đảng và Chính phủ mà trực
tiếp Thủ tướng Chính phủ là trưởng Ban chỉ đạo công nghệ thông tin - truyền
thông quốc gia, hành lang pháp lý về phát triển công nghệ thông tin và
Internet đã được kiện toàn, một số chính sách và văn bản quan trọng đã được
phê chuẩn trong đó có một số đang được triển khai bao gồm:
- Luật giao dịch điện tử; Luật công nghệ thông tin và các Nghị định
hướng dẫn
- Chiến lược, Qui hoạch phát triển tổng thể Thương mại điện tử 2010
- Chiến lược qui hoạch phát triển viễn thông và Internet đến năm 2010
- Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích đến năm 2010
- Thành lập Quĩ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam
- Chương trình phát triển công nghệ phần mềm đến năm 2010
- Chương trình phát triển công nghiệp nội dung thông tin số đến năm 2010
102
Từ phía doanh nghiệp, một số doanh nghiệp lớn đã có nguồn lực nhất
định và đã có kinh nghiệm trong cạnh tranh thị trường đã chủ động tích cực
mạnh dạn áp dụng các biện pháp, chiến lược kinh doanh mang tầm dài hơi để
ngày càng phát triển thị trường Internet ngày một toàn diện. Bên cạnh đó, sự
phát triển mạnh mẽ, liên tục các công nghệ mới như Wifi, điện thoại IP, 3G,
Wimax....sẽ thúc đẩy nhanh số lượng và mật độ thuê bao băng rộng cũng như
khuyến khích các doanh nghiệp mới đầu tư vào kinh doanh
Chất lượng và giá cả Internet sẽ ngày càng tốt hơn khi cạnh tranh càng
mạnh, đặc biệt cạnh tranh về viễn thông. Để thu hút khách hàng, các doanh
nghiệp đã chú trọng nhiều hơn đến mặt chất lượng dịch vụ, nghiên cứu và
cung cấp thêm các loại hình dịch vụ mới trên nền tảng thuê bao có sẵn nhằm
hướng tới sự tiện lợi cho khách hàng
3.3.2.2. Thách thức
Bên cạnh những thuận lợi rất lớn, sự quan tâm của các cấp từ Chính
phủ, các Bộ, ngànhh đến mọi người dân trong xã hội thì sự phát triển Internet
trong giai đoạn tới cũng phải đương đầu với một số thách thức đòi hỏi phải có
một chính sách phát triển linh hoạt, hợp lý, đó là:
- Xu hướng hội tụ công nghệ và dịch vụ Viễn thông, Internet, truyền
thông quảng bá dẫn đến ngày càng nhiều dịch vụ mới ra đời như truy nhập
Internet qua mạng truyền hình cáp, trò chơi trực tuyến, điện thoại Internet...
đòi hỏi cá cơ quan quản lý nhà nước phải có chính sách quản lý nhà nước phải
chính sách quản lý các dịch vụ thật hợp lý thật hợp lý để tạo được sự phát
triển bền vững và hài hòa được cả lợi ích của 3 chủ thể (nhà nước, doanh
nghiệp, người sử dụng)
- Ngày càng xuất hiện nhiều thông tin độc hại, không lành mạnh,
những dịch vụ giải trí gây ảnh hưởng không tốt đến tầng lớp thanh thiếu niên,
nạn virut, hacker, lừa đảo trên mạng xuất hiện phổ biến và mức độ ngày càng
tinh vi hơn đòi hỏi phải có những biện pháp, chính sách nhằm định hướng
người dân sử dụng Internet một cách hiệu quả nhất.
103
Với vai trò một kho dữ liệu vô tận, vô cùng quí giá, là một công cụ
đắc lực trong phát triển nền kinh tế tri thức, nâng cao trình độ người dân nên
song song với việc đưa viễn thông, Internet trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
thì nhà nước, doanh nghiệp cần chú trọng đến việc phổ cập Internet cho các
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa để tạo điều kiện cho mọi người dân có cơ
hội tiếp xúc với nền công nghệ hiện đại, tạo đà cho sự phát triển kinh tế xã hội.
3.3.2.3. Khó khăn
Hạ tầng mạng là điều kiện cơ bản nhất để truy cập Internet. Ở nông
thôn, mở rộng mạng lưới mới đang ở giai đoạn tiền đề, chưa thực sự được đầu tư
thích đáng bởi vì các nhà cung cấp dịch vụ không có động lực kinh tế đầu tư xây
dựng. Trong môi trường phát triển nóng và cạnh tranh mạnh như thị trường Việt
Nam hiện nay, các nhà cung cấp dịch vụ không đủ sức quan tâm đến các khu
vực chưa có lợi nhuận ngay. Do vậy, trước mắt việc xây dựng các chương trình,
dự án tổng thể có sự chung tay, góp sức của đông đảo tất cả các thành phần trong
xã hội từ cơ quan chính phủ, các doanh nghiệp đến các đội ngũ sinh viên tình
nguyện từ các trường đại học, thu hút đầu tư nước ngoài là rất cần thiết. Tuy
nhiên, vấn đề này hiện nay cũng đang gặp phải nhiều khó khăn:
- Khó tìm được nguồn kinh phí để triển khai các kế hoạch, chương
trình, dự án. Đến nay chỉ có rất ít chương trình và dự án đã được phê duyệt đã
chắc chắn có nguồn kinh phí như: chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông
công ích 2010 (Quĩ Viễn thông công ích), Dự án Internet cho cộng đồng
(ODA Nhật Bản), Dự án công nghệ thông tin - truyền thông phục vụ phát triển
(World Bank)
- Một số chương trình, dự án khác không được phê duyệt hoặc không
triển khai tiếp được vì thiếu kinh phí
- Nguồn nhân lực nói chung còn yếu và thiếu, đặc biệt là đội ngũ cán
bộ quản lý các dự án, xây dựng chính sách và thực thi pháp luật (bưu chính -
viễn thông, Công an, Tòa án, kiểm sát...),
104
Bên cạnh đó, mặt trái của Internet xuất hiện ngày càng nhiều, ảnh
hưởng đến an toàn mạng, an ninh thông tin và văn hóa xã hội đặc biệt những
tác động không tốt đến lớp trẻ, thanh thiếu niên. Do vậy, song song với việc
nỗ lực kiện toàn hệ thống mạng, phấn đấu tạo điều kiện cho mọi người dân
được tiếp cận với Internet thì việc làm thế nào để hạn chế mặt trái của Internet
một cách hiệu quả, phát huy mặt tích cực và giúp người dân sử dụng Internet
một cách tốt nhất.
3.3.3. Định hướng và giải pháp để phát triển Internet Việt Nam
theo xu hướng hội nhập quốc tế
Để Internet Việt Nam từng bước phát triển và hội nhập với quốc tế,
chúng ta đã có những định hướng và các giải pháp cho phát triển Internet
trong giai đoạn tới như sau:
3.3.3.1. Về công nghệ, dịch vụ
Khuyến khích tạo điều kiện để triển khai công nghệ mới, dịch vụ mới
đặc biệt là truy nhập băng rộng.
Nhanh chóng hoàn thành qui hoạch băng tần và tiêu chí cấp phép để
hoàn thiện Wimax, 3G và tiến tới 4G.
Chương trình Viễn thông công ích ưu tiên cho các dự án có kế hoạch
triển khai băng rộng ở những địa phương khả thi về mặt kỹ thuật
Hoàn thiện chính sách quản lý và phát triển điện thoại Internet để tạo điều
kiện cho người sử dụng đặc biệt là nông thôn sử dụng dịch vụ điện thoại giá rẻ
3.3.3.2. Về tài nguyên Internet
Để giải quyết vấn đề cạn kiệt tài nguyên, đòi hỏi trong thời gian tới cần
từng bước triển khai Ipv6 và tiếp tục nghiên cứu chính sách triển khai ENUM.
3.3.3.3. Về ứng dụng và nội dung thông tin
Mặc dù Luật giao dịch điện tử, Luật công nghệ thông tin đã được ban
hành nhưng chưa thực sự đi vào cuộc sống do chưa có các văn bản hướng dẫn
105
chi tiết, đặc biệt liên quan đến thương mại điện tử. Do vậy thời gian tới các cơ
quan quản lý nhà nước cần tiếp tục ban hành những văn bản điều chỉnh các
lĩnh vực cụ thể phù hợp với xu hướng mới của công nghệ, ban hành các thông
tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 97.
3.3.3.4. Về an toàn, an ninh
Thời gian gần đây vấn đề về an toàn thông tin, an ninh mạng đã được
nhà nước chú trọng thể hiện trong Luật Công nghệ Thông tin, Luật Giao dịch
điện tử, Nghị định 97, Nghị định về chữ ký số...tuy nhiên những văn bản này
vẫn chưa đủ đề điều chỉnh hết cá hành vi phạm tội ngày càng tinh vi hơn. Quá
trình phối hợp, kết hợp trong việc đối phó, giải quyết nhanh các sự cố cũng là
một trong những khó khăn lớn hiện nay. Có một số loại sự cố đòi hỏi các bên
có liên quan phải đồng loạt thực hiện một biện pháp thì mới mang lại hiệu
quả. Một số sự cố lớn muốn giải quyết cần có thông tin, thiết bị, nguồn lực
vượt quá khả năng của một đơn vị. Tuy nhiên, trách nhiệm giải quyết sự cố
đôi khi không gắn liền trực tiếp hoặc đi ngược với quyền lợi của đơn vị tham
gia giải quyết nên thường không được ủng hộ. Việc phải có một đơn vị theo
dõi tình hình chung, cảnh báo sớm, điều phối các đơn vị khác cùng tham gia
giải quyết các sự cố lớn vượt quá sự quan tâm của một đơn vị là một tất yếu.
Hiện nay trong qui định về Chức năng, nhiệm vụ thì trung tâm VNCERT
đang đảm nhiệm vai trò này. Tuy nhiên, việc điều phối là rất khó khăn và
chưa đáp ứng được nhu cầu do chưa có qui chế điều phối, chưa có bộ phận
chuyên trách cũng như kênh giao tiếp khẩn cấp. Do vậy, trong thời gian tới
cần thực hiện ngay các công việc sau:
- Khẩn trương triển khai và nâng cao năng lực kỹ thuật, con người
của Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính quốc gia (VNCERT)
- Nhanh chóng đưa Trung tâm chứng thực chữ ký số Quốc gia đi vào
hoạt động để thúc đẩy dịch vụ chứng thực trong nước nhằm tạo ra môi trường
an toàn, hiệu quả cho sự phát triển của thương mại điện tử
106
- Khẩn trương xây dựng và ban hành tiêu chuẩn đặc biệt là các tiêu
chuẩn liên quan đến chữ ký số, dịch vụ chứng thực chữ ký số và tiêu chuẩn về
an toàn thông tin và an ninh mạng
- Tập trung đề án phòng chống các tội phạm công nghệ cao và nâng
cao năng lực Phòng chống tội phạm công nghệ cao
- Bổ sung qui định liên quan đến tội phạm mạng trong Bộ luật hình
sự và Bộ luật tố tụng hình sự (Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ ngành)
3.3.3.5. Về tổ chức và công tác thực thi
Việc quản lý nhà nước về Internet và thúc đẩy phổ cập sử dụng
Internet cần được tiến hành đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa
phương. Trước sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ, đòi hỏi các cơ quan
quản lý nhà nước từ cấp Trung ương đến địa phương cần thường xuyên nâng
cao năng lực quản lý nhằm có được những chính sách thúc đẩy hợp lý.
Thời gian tới việc nhanh chóng triển khai có hiệu quả dự án công nghệ
thông tin và Truyền thông để phát triển WB (word bank) chắc chắn sẽ góp
phần thúc đẩy phát triển Internet mạnh hơn nữa.
Bên cạnh việc xây dựng các chính sách hợp lý, công tác thanh kiểm
tra các hoạt động của doanh nghiệp đặc biệt hoạt động liên quan đến kết nối
mạng, giá cước, chất lượng, thanh tra, kiểm tra hoạt động của các đại lý
Internet và việc phối hợp liên ngành cần phải thực hiện thường xuyên nhằm
tại ra môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục định hướng nhằm nâng cao
mặt bằng nhận thức về công nghệ thông tin của người dân bằng các hình thức:
- Thực hiện đưa Internet vào chương trình đào tạo, giảng dạy trong
các trường trung học cơ sở và các chương trình huấn luyện, hướng dẫn cho
cán bộ công viên chức
- Xây dựng chương trình phổ biến kiến thức về Internet trên các
phương tiện thông tin truyền thông và ngay cả trên Internet
107
- Đẩy mạnh các hoạt động cung cấp trực tuyến các dịch vụ hành
chính công, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, người dân qua mạng và
đồng thời đa dạng hóa các hình thức trao đổi, giải đá, đối thoại với người dân
như thông qua email, đối thoại trực tuyến, hội nghị truyền hình...
Bên cạnh việc tiếp tục kiện toàn các văn bản điều chỉnh hoạt động về
Internet, các bộ, ngành cần rà soát lại tính khả thi, nguồn kinh phí và có
những điều chỉnh, kiến nghị kịp thời với Chính phủ nhằm tiếp tục triển khai
các chương trình, dự án trọng điểm như:
- Chương trình Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, phát
triển Việt Nam điện tử:
 Các dự án cấp quốc gia về xây dựng nền tảng cho phát triển công
dân điện tử, doanh nghiệp điện tử, Chính phủ điện tử cụ thể như:
 Đề án phát triển mạng và dịch vụ giáo dục - đào tạo ứng dụng
trên Internet
 Các dự án xây dựng triển khai hệ thống thông tin của các
Bộ/ngành/CQQLNN
 Chương trình phát triển công nghiệp nội dung thông tin số đến
năm 2020
 Chương trình phát triển công nghiệp phần mềm đến năm 2020
 Xây dựng dự án máy tính giá rẻ cho nông thôn và trường học
 Xây dựng chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó chú trọng lồng ghép các
chương trình, dự án của các Bộ/ngành.
- Chương trình phát triển hạ tầng viễn thông và Internet:
 Các dự án cấp quốc gia về xây dựng nền tảng cho phát triển năng
lực truy cập như xây dựng mạng diện rộng của Chính phủ; Kết nối Internet
băng rộng cho tất cả các Bộ/ngành, viện nghiên cứu, trường học, bệnh viện....
108
 Phát triển hệ thống các điểm Bưu điện văn hóa xã và các điểm truy
cập Internet công cộng. Đưa Internet đến 100% các điểm Bưu điện văn hóa xã
và các Trung tâm giáo dục cộng đồng, phục vụ ứng dụng công nghệ thông tin -
truyền thông vào nông nghiệp và phát triển nông thôn.
- Chương trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và
truyền thông:
 Triển khai các chương trình đào tạo công nghệ thông tin - truyền
thông cho cán bộ quản lý nhà nước, học sinh, sinh viên (khuyến khích các mô
hình liên kết đào tạo nước ngoài)
 Kết nối Internet cho các đối tượng trên
 Phát triển mạng và các dịch vụ giáo dục, đào tạo ứng dụng trên Internet
- Chương trình phát triển Công nghiệp công nghệ thông tin và
Truyền thông:
 Hình thành các quĩ đầu tư mạo hiểm thu hút vốn đầu tư cho phát
triển công nghiệp công nghệ thông tin truyền thông; công nghệ phần mềm, nội
dung số
 Công nghiệp sản xuất thiết bị, máy tính, thiết bị viễn thông...
 Phát triển công nghiệp phần mềm, dịch vụ chú trọng xuất khẩu các
sản phẩm phần mềm.
- Xây dựng môi trường thể chế, pháp lý, chính sách thúc đẩy ứng
dụng và phát triển công nghệ thông tin - truyền thông:
 Các dự án cấp quốc gia về tăng cường năng lực quản lý công nghệ
thông tin - truyền thông
 Xây dựng thể chế, cơ chế quản lý điều hành ứng dụng công nghệ
thông tin - truyền thông; hệ thống chuẩn thông tin và công nghệ thông tin -
truyền thông quốc gia
109
 Xây dựng, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính sách hỗ trợ
thúc đẩy phát triển hạ tầng, thương mại điện tử, nhân lực, ứng dụng, Công
nghệ công nghiệp, công nghệ thông tin - truyền thông
3.3.4. Hội nhập quốc tế về Internet
Ngày 07/11/2006, tại Giơnevơ (Thụy sĩ) Việt Nam và WTO chính
thức ký Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế
giới của nước cộng hòa XHCN Việt Nam. Từ thời điểm đó Việt Nam bắt đầu
bước vào một "sân chơi" mới về hoạt động thương mại với tất cả nước là
thành viên của WTO.
Ngày 29/11/2006, Quốc hội khóa 11 đã thông qua Nghị quyết số
71/2006/QHH11 về việc phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành
lập WTO của Việt Nam. Theo đó, Việt Nam sẽ áp dụng trực tiếp các cam kết
của Việt Nam với WTO được qui định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các
Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập
Hiệp định WTO. Trong trường hợp qui định của pháp luật Việt Nam không
phù hợp với qui định của Hiệp định thành lập WTO, Nghị định thư và các tài
liệu đính kèm thì áp dụng qui định của Hiệp định thành lập WTO, Nghị định
thư và các tài liệu đính kèm.
Theo danh mục phân loại ngành dịch vụ của Ban Thư ký WTO, có tất cả
11 ngành, và 155 phân ngành dịch vụ được các thành viên WTO tiến hành đàm
phán. Theo phân loại của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GÁT thì dịch vụ
thông tin bao gồm: dịch vụ chuyển phát, dịch vụ viễn thông (trong đó có Internet),
dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan là 1 trong 11 ngành phải đàm phán
GATS qui định 4 phương thức cung cấp dịch vụ gồm:
- Phương thức (1): Phương thức cung cấp qua biên giới, theo đó dịch
vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một Thành viên này sang lãnh thổ của một
Thành viên khác, tức là không có sự di chuyển của người cung cấp dịch vụ và
110
người tiêu thụ dịch vụ sang lãnh thổ của nhau. Ví dụ như các dịch vụ tư vấn
có thể cung cấp theo phương thức này.
- Phương thức (2): Phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ, theo đó
người tiêu dùng của một Thành viên di chuyển sang lãnh thổ của một
thành viên khác để tiêu dùng dịch vụ. Ví dụ: khách du lịch nước ngoài sang
Việt Nam
- Phương thức (3): Phương thức hiện diện thương mại, theo đó nhà
cung cấp dịch vụ của một thành viên thiết lập các hình thức hiện diện như
công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, chi nhánh...trên lãnh thổ
của một Thành viên khác để cung cấp dịch vụ. Ví dụ Ngân hàng của Mỹ
thành lập chi nhánh kinh doanh tại Việt Nam
- Phương thức (4): Phương thức hiện diện thể nhân, theo đó thể nhân
cung cấp dịch vụ của một Thành viên di chuyển sang lãnh thổ cua một Thành
viên khác để cung cấp dịch vụ. Ví dụ các nghệ sĩ nước ngoài sang Việt Nam
biểu diễn.
Trong biểu cam kết cụ thể về thương mại, dịch vụ gia nhập WTO,
Việt Nam cam kết gia nhập WTO đối với dịch vụ Internet như sau:
- Hạn chế về đãi ngộ (đối xử) quốc gia: Đối với dịch vụ IXP, ISP,
phương thức (1), (2), (3) không hạn chế, phương thức (4) chưa cam kết
- Hạn chế về tiếp cận thị trường:
Đối với dịch vụ IXP, ISP
+ Phương thức (1):
Dịch vụ hữu tuyến và di động mặt đất
Dịch vụ phải được cung cấp thông qua thỏa thuận thương mại với
pháp nhân được thành lập tại Việt Nam và được cấp phép cung cấp dịch vụ
viễn thông quốc tế)
111
Dịch vụ viễn thông vệ tinh
Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải có thỏa thuận thương mại với
nhà cung cấp dịch vụ viễn thông vệ tinh quốc tế Việt Nam được cấp phép, trừ
trường hợp dịch vụ viễn thông vệ tinh cung cấp cho:
Ngay khi gia nhập: Các dịch vụ cho cá khách hàng kinh doanh ngoài
biển, các Cơ quan chính phủ, các nhà cung cấp dịch vụ có hạ tầng mạng, các nhà
phát thanh và truyền hình quảng bá, các văn phòng đại diện của các tổ chức quốc
tế chính thức, các cơ quan đại diện ngoại giao và lãnh sự, các khu phát triển phần
mềm và khu công nghệ cao đã được cấp phép sử dụng trạm vệ tinh mặt đất.
Ba năm sau khi gia nhập: các công ty đa quốc gia được cấp phép sử
dụng trạm vệ tinh mặt đất
+ Phương thức (2): không hạn chế
+ Phương thức (3):
Các dịch vụ không có hạ tầng mạng
Ngay sau khi gia nhập: cho phép liên doanh với các nhà cung cấp dịch
vụ viễn thông được cấp phép tại Việt Nam. Phần vốn góp của phía nước ngoài
liên doanh không được phép vượt quá 51% vốn pháp định của liên doanh
Ba năm sau khi gia nhập: cho phép liên doanh và tự do chọn đối tác.
Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không được vượt quá
65% vốn pháp định của liên doanh.
Các dịch vụ có hạ tầng mạng
Đối với IXP: ngày sau khi gia nhập cho phép liên doanh với nhà cung
cấp dịch vụ viễn thông được cấp phép tại Việt Nam. Phần vốn góp của phía
nước ngoài trong liên doanh không được vượt quá 49% vốn pháp định của
liên doanh. 51% cho nắm quyền kiểm soát trong việc quản lý liên doanh.
Trong ngành Viễn thông, các nhà đầu tư nước ngoài tham gia các hợp đồng
BCC sẽ có thể ký mới thỏa thuận hiện tại hoặc chuyển sang hình thức hiện
diện khác với điều kiện không kém thuận lợi hơn điều kiện họ được hưởng.
112
Đối với ISP: Ngay sau khi gia nhập cho phép BCC hoặc liên doanh
với nhà cung cấp dịch vụ Viễn thông được cấp phép tại Việt Nam. Phần vốn
góp của phía nước ngoài trong liên doanh không được vượt quá 50% vốn
pháp định của liên doanh.
+ Phương thức (4): chưa cam kết
Như vậy qua việc thực hiện các cam kết với WTO cho thấy chúng ta đã
từng bước hội nhập với quốc tế trên mọi lĩnh vực, trong đó có cả Internet. Cho
đến hiện nay chúng ta tự hào đã có một cơ sở hạ tầng kỹ thuật về Internet với
chất lượng dịch vụ bằng và vượt một số nước trong khu vực và thế giới, trong
khi giá cả dịch vụ Internet từng bước được giảm xuống thấp hơn một số nước.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Ý nghĩa và vai trò của Công nghệ thông tin nói chung và Internet nói
riêng trong phát triển xã hội ngày nay ở nước ta và trên thế giới đã được thừa
nhận và khẳng định. Nhận thức được điều đó nhà nước ta đã xác định Công nghệ
là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và được cụ thể
hóa bằng các đường lối, chính sách, chiến lược... trong các văn bản pháp qui.
Chương 3 đã phân tích chi tiết các văn bản quản lý nhà nước hiện
hành điều chỉnh lĩnh vực Internet nói riêng và Công nghệ thông tin nói chung
của Việt Nam. Nêu lên hiện trạng, các điểm mạnh, điểm yếu cũng như các giải
pháp đã và đang thực hiện cũng như các giải pháp thực hiện trong tương lai.
Trước yêu cầu của xu thế hội nhập Quốc tế, cùng với nỗ lực phát triển
kinh tế - xã hội với phát triển công nghệ nước nhà, chúng ta phải nâng cao hiệu
quả áp dụng những qui định của pháp luật về lĩnh vực Viễn thông - Công nghệ
thông tin nói chung và hoàn thiện các qui định về dịch vụ Internet nói riêng. Đây
cũng chính là mục tiêu, nhiệm vụ đã được Đảng, Nhà nước ta đặt lên hàng đầu
trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đưa
pháp luật Việt Nam cùng hòa nhập với pháp luật khu vực và pháp luật quốc tế.
113
KẾT LUẬN
Trong hơn 10 năm qua kể từ khi có mặt tại Việt Nam dịch vụ Internet
đã phát triển nhanh, khá ấn tượng và đạt được một số thành tựu nhất định, tạo
bước đột phá cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Ngành Viễn thông
đã có tốc độ tăng trưởng vào loại nhanh nhất thế giới, chúng ta đã phá đi tình
trạng độc quyền một doanh nghiệp và tạo ra một môi trường cạnh tranh trong
lĩnh vực viễn thông, về cơ bản môi trường pháp lý là phù hợp với yêu cầu của
hội nhập.
Sau hơn mười năm triển khai Internet tại Việt Nam đã đạt được những
kết quả khả quan và khá toàn diện. Có thể đánh giá sơ bộ về kết quả đạt được
của Internet sau hơn mười năm gia nhập với Internet toàn cầu như sau:
- Cơ chế, chính sách pháp luật: đã tạo ra môi trường cạnh tranh và có
những chính sách thúc đẩy phát triển Internet hiệu quả
- Mạng lưới và dịch vụ: Có được sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng
người sử dụng, phát triển mạnh mẽ về hạ tầng mạng và dịch vụ, đạt và vượt
chỉ tiêu đề ra theo kịp trình độ phát triển chung của thế giới
- Về ứng dụng: Đã có được một số kết quả tuy nhiên cần chú trọng
triển khai các biện pháp để bảo đảm vấn đề an toàn mạng và nội dung thông tin.
- Về an toàn, an ninh mạng: Đã có được một số kết quả tuy nhiên cần
chú trọng triển khai các biện pháp để đảm bảo vấn đề an toàn mạng và nội
dung thông tin
- Tổ chức thực thi pháp luật: Nâng cao hơn nữa năng lực xây dựng
chính sách và thực thi đặc biệt chú trọng phân cấp và đầu tư nguồn lực cho
các sở thông tin truyền thông
Đạt được kết quả trên do có sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ
và việc triển khai ứng dụng Internet của các bộ, ngành đặc biệt trong các lĩnh
114
vực giáo dục, nghiên cứu, thương mại, tài chính, ngân hàng, y tế, kế hoạch
đầu tư...
Bên cạnh các kết quả đạt được nêu trên, còn có những hạn chế cần
khắc phục để thúc đẩy Internet Việt Nam phát triển hơn nữa, tiến kịp với các
nước cụ thể như sau:
- Chênh lệch sử dụng dịch vụ Internet giữa nông thôn và thành thị
còn lớn, cần nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ khu vực nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo trong thời gian tới
- Việc triển khai ứng dụng Internet trong các CQNN còn chậm; nhìn
chung các ứng dụng còn ít và các nội dung trên mạng còn nghèo nàn, đặc biệt
là cho nông thôn và y tế giáo dục
- Công tác thẩm định, cấp phép còn chậm
- Chưa kịp thời và kiên quyết xử lý trong công tác quản lý doanh
nghiệp đối với dịch vụ internet như chậm triển khai giấy phép, không báo cáo
theo qui định...
- Năng lực của một số Sở TTTT chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý
nhà nước tại địa phương
Internet Việt Nam phát triển có những nhân tố thuận lợi nhưng cũng
có nhiều thách thức, đòi hỏi chúng ta phải có những quyết sách và nỗ lực lớn
để đạt được và vượt những mục tiêu đã đề ra nhằm khai thác hết tiềm năng,
lợi ích của Internet, theo kịp trình độ phát triển của các nước, đặc biệt sau khi
Việt Nam chính thức gia nhập WTO tháng 12/2006, cùng với những cơ hội
hợp tác phát triển là những thách thức khi các doanh nghiệp nước ngoài tham
gia vào thị trường Việt Nam đòi hỏi các doanh nghiệp viễn thông, trong nước
cần phải nỗ lực hơn nữa nhằm nâng cao tiềm lực, khả năng của mình.
Trong thời gian tới, các bộ, ngành, tổ chức, doanh nghiệp và mọi công
dân phải cùng nhau hợp lực để thúc đẩy việc ứng dụng Internet trong mọi lĩnh
vực, mọi ngành nghề đặc biệt tận dụng ứng dụng Internet trong các cơ quan
115
nhà nước để đưa thông tin và các dịch vụ công đến với người dân, tạo điều
kiện thuận lợi cho nhân dân và các cơ quan, tổ chức cùng nhau khai thác có
hiệu quả những thông tin do Internet mang lại.
Như vậy để Internet phát triển mạnh trở thành một công cụ hữu ích
cần có sự tham gia của cả chính phủ, doanh nghiệp và xã hội; là trách nhiệm
của nhiều bộ, ngành, tổ chức, đoàn thể có liên quan. Do đó, việc phối hợp liên
ngành là kết sức cần thiết không chỉ trong các đề án, dự án phát triển viễn
thông, công nghệ thông tin nông thôn mà cả trong phối hợp giải quyết các sự
cố về an ninh mạng. Song song với biện pháp để thúc đẩy Internet luôn phải
có những chính sách và biện pháp nhằm phát huy những mặt tích cực, đồng
thời hạn chế tiêu cực của Internet đặc biệt là đối với trẻ em, vị thành niên định
hướng cho người dân sử dụng Internet một cách hiệu quả.
116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Châu An (2010), "Câu chuyện của một người vô gia cư dùng Ipad",
vnexpress.net, ngày 13/10.
2. Bộ Bưu chính Viễn thông (2007), Chỉ thị 07/CT/BBCVT ngày 07/7 về
định hướng chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội.
3. Bộ Bưu chính Viễn thông (2007), Báo cáo tổng kết tình hình phát triển
Internet 1997-2007 và phương hướng thúc đẩy phát triển Internet trong
giai đoạn mới, Hà Nội.
4. Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Văn hóa thông tin, Bộ Công an, Bộ Kế
hoạch và đầu tư (2005), Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BBCVT-
BVHTT-BCA-BKHĐT ngày 14/7 về quản lý đại lý Internet, Hà Nội.
5. Bộ Nội vụ (2010), Thông tư số 05/2010/TT-BNV ngày 01/7 hướng dẫn về
cung cấp, quản lý và sử dụng dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng
phục vụ các cơ quan thuộc hệ thống chính trị, Hà Nội.
6. Bộ Thông tin truyền thông (2008), Thông tư số 07/2008/TT-BTTTT ngày
18/12 hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cung cấp thông tin trên
trang thông tin điện tử cá nhân và thông tin điện tử trên Internet, Hà Nội.
7. Bộ Thông tin Truyền thông (2008), Thông tư 09/2008/TT-BTTTT ngày
24/12 hướng dẫn về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet, Hà Nội.
8. Bộ Thông tin truyền thông (2010), Thông tư số 14/2010/TT-BTTTT ngày
29/6 qui định chi tiết một số điều của Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet,
Hà Nội.
9. Bộ Văn hóa thông tin (2002), Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT ngày
10/10 ban hành Quy chế quản lý và cấp giấy phép cung cấp thông tin,
thiết lập trang tin điện tử trên Internet, Hà Nội.
117
10. Bộ Văn hóa thông tin, Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Công an (2006),
Thông tư liên tịch số 60/2006/TTLT-BVHTT-BCVT-BCA ngày 01/6 về
quản lý trò chơi trực tuyến, Hà Nội.
11. Chính phủ (2001), Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8 về quản lý,
cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet, Hà Nội.
12. Chính phủ (2001), Quyết định 158/2001/QĐ-TTg ngày 18/10 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển Bưu chính - Viễn thông
Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
13. Chính phủ (2002), Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg ngày 08/02 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai
đoạn 2001-2005, Hà Nội.
14. Chính phủ (2002), Quyết định số 95/2002/QĐ-TTg ngày 17/7 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch tổng thể ứng dụng và phát triển
CNTT ở Việt Nam đến 2005, Hà Nội.
15. Chính phủ (2004), Nghị định số 160/2004/NĐ-CP ngày 3/9 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông về viễn
thông, Hà Nội
16. Chính phủ (2005), Quyết định 246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển Công nghệ Thông tin và truyền
thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
17. Chính phủ (2006), Quyết định số 32/2006/QĐ-TTg ngày 07/02 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Qui hoạch phát triển viễn thông và Internet
Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội.
18. Chính phủ (2006), Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6 quy định chi tiết
Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh
doanh và kinh doanh có điều kiện, Hà Nội.
19. Chính phủ (2007), Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/2 quy định chi
tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực
chữ ký số, Hà Nội.
118
20. Chính phủ (2008), Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28/8 về quản lý, cung
cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet, Hà Nội.
21. Chính phủ (2009), Nghị định số 28/2009/NĐ-CP ngày 20/3 về xử phạt vi
phạm hành chính trong quản lý, cung cấp sử dụng dịch vụ Internet và
thông tin điện tử trên Internet, Hà Nội.
22. Chính phủ (2009), Báo cáo về tình hình nhân quyền của Việt Nam trước
Hội đồng Nhân quyền thế giới theo cơ chế kiểm điểm định kỳ (UPR) của
Liên hiệp quốc trong khuôn khổ khóa họp thứ 5 ngày 8/5, tại Geneve,
Thụy sĩ.
23. Chính phủ (2009), Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực công
nghệ thông tin đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
24. Chính phủ (2011), Nghị định số 25/2011/NĐ-CP ngày 6/4 hướng dẫn
Luật Viễn thông, Hà Nội
25. Nguyễn Bá Diến (2005), Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
26. T. Hoa (2011), "80% trẻ dưới 5 tuổi ở Mỹ sử dụng Internet", tin 247.com,
ngày 24/4.
27. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính
trị, Geneve, Thụy sĩ.
28. Hồng Loan (2012), "Tổng kết Nghị định 97/2008/NĐ-CP và triển khai
xây dựng Nghị định mới về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và
nội dung thông tin trên mạng", mic.gov.vn, ngày 8/5.
29. Xuân Nguyễn (2011), "Thực chất của sự quản lý Internet tại Việt Nam",
cpv.org.vn, ngày 18/2.
30. Nghiên cứu sinh Đại học Northumbria (2012), "Bắt nạt công nghệ cao",
tuoitre.vn, ngày 26/2.
31. Quốc hội (1989), Luật Báo chí, Hà Nội.
119
32. Quốc hội (2004), Luật xuất bản, Hà Nội.
33. Quốc hội (2005), Luật Giao dịch điện tử, Hà Nội.
34. Quốc hội (2006), Luật Công nghệ thông tin, Hà Nội.
35. Quốc hội (2006), Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29/11 về việc phê
chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO của nước Việt
Nam, Hà Nội.
36. Quốc hội (2009), Luật Viễn thông, Hà Nội.
37. Quang Thuần (2011), "Lạc hậu trong quản lý Internet", thanhnien.com.vn,
ngày 24/10.
38. Tổ chức Thương mại Thế giới (2006), Biểu cam kết cụ thể về thương mại
dịch vụ gia nhập WTO của Việt Nam, Gieneve, Thụy Sĩ.
39. Bảo Trung (2007), "Internet đã biến đổi sâu sắc nhiều mặt của đời sống",
vietbao.vn, ngày 30/11.
40. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2010), Quyết định số 15/2010/QĐ-UBND
ngày 26/4 qui định về việc quản lý giờ giấc hoạt động của các đại lý
Internet và hành vi người sử dụng, Hà Nội.
41. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông,
Hà Nội.
42. Thiện Văn (2012), "Internet, người bạn của Việt Nam", qdnd.vn, ngày 24/4.
43. Thiện Vũ (2007), "Internet Việt Nam - Câu chuyện 10 năm", tbvtsg.com.vn,
ngày 10/11.

More Related Content

PDF
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
DOC
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
PDF
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
PDF
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
PDF
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
PDF
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
PDF
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
PDF
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY

What's hot (20)

DOCX
Tiểu Luận Hệ Thống Pháp Luật Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.docx
PDF
Luận văn: Nạn nhân của các tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM
PDF
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
PDF
Luận văn: Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh tại quận 7
PDF
Luận văn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam
PDF
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
PDF
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
PDF
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
PDF
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường
PDF
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
PDF
Luận văn: Quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm
PDF
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
PDF
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
PDF
Luận văn: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị tại Hà Nội
PDF
Luận văn: Hoạt động giám sát, phản biện xã hội tỉnh Tiền Giang
PDF
Luận văn: Bạo lực gia đình ở Hàn Quốc và Việt Nam, HAY, 9đ
PDF
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
PDF
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, HAY
PDF
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
PDF
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Tiểu Luận Hệ Thống Pháp Luật Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.docx
Luận văn: Nạn nhân của các tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh tại quận 7
Luận văn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị tại Hà Nội
Luận văn: Hoạt động giám sát, phản biện xã hội tỉnh Tiền Giang
Luận văn: Bạo lực gia đình ở Hàn Quốc và Việt Nam, HAY, 9đ
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, HAY
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Ad

Similar to Luận văn: Qui định của pháp luật Việt Nam về dịch vụ Internet, 9đ (20)

PDF
Luận văn: Quản lý về thông tin đối với mạng xã hội tại Việt Nam
PDF
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam hiện nay
PDF
Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY
PDF
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
PDF
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.pdf
PDF
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
PDF
Pháp luật về thương mại điện tử tại Việt Nam thực trạng và một số khuyến nghị
PDF
Luận án: Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay, HAY
PDF
Luận văn: Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam, HOT, HAY
PDF
Đề tài: Phương pháp giải quyết các vấn đề an toàn dữ liệu trên mạng
DOC
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ - TẢI FREE...
PDF
Ri_ro_va_thach_thc_an_ninh_mng_trong.pdf
DOC
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG MÔI TRƯỜNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ - TẢI FREE Z...
PDF
Cam nang thuong mai dien tu cho doanh nhan ths.duong dung
PDF
Khóa luận Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luậ...
PDF
Luận văn: Tội sử dụng mạng internet chiếm đoạt tài sản, HAY
PDF
Luận văn: Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt Nam
PPTX
pháp luật trong thương mại điện tử
PDF
Mot so van de can quan tam trong quan ly nha nuoc ve thong tin dien tu
PDF
Báo cáo NetCitizens Việt Nam- Tình hình sử dụng và tốc độ phát triển...
Luận văn: Quản lý về thông tin đối với mạng xã hội tại Việt Nam
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam hiện nay
Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.pdf
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Pháp luật về thương mại điện tử tại Việt Nam thực trạng và một số khuyến nghị
Luận án: Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam, HOT, HAY
Đề tài: Phương pháp giải quyết các vấn đề an toàn dữ liệu trên mạng
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ - TẢI FREE...
Ri_ro_va_thach_thc_an_ninh_mng_trong.pdf
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG MÔI TRƯỜNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ - TẢI FREE Z...
Cam nang thuong mai dien tu cho doanh nhan ths.duong dung
Khóa luận Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luậ...
Luận văn: Tội sử dụng mạng internet chiếm đoạt tài sản, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt Nam
pháp luật trong thương mại điện tử
Mot so van de can quan tam trong quan ly nha nuoc ve thong tin dien tu
Báo cáo NetCitizens Việt Nam- Tình hình sử dụng và tốc độ phát triển...
Ad

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

DOC
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
DOC
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
DOC
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
DOC
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
DOC
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
DOC
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
DOC
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
DOC
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
DOC
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
DOC
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
DOC
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
DOC
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
DOC
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
DOC
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
DOC
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
DOC
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
DOC
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
DOC
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
DOC
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
DOC
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...

Recently uploaded (20)

PPTX
Direct Marketing- chieu thi truyen thong
PDF
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC KHÁM PHÁ TỰ NHIÊN CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VẬT S...
PPTX
24. 9cqbq2reu57m5igbsz-signature-40d40b8bd600bcde0d0584523c684ec4933c280de74a...
PDF
100-Mon-Ngon-Christine-Ha.pdfnfeifefefefef
PDF
BỘ TÀI LIỆU CHINH PHỤC ĐỈNH CAO TIẾNG ANH NĂM 2026 CHUYÊN ĐỀ ÔN HỌC SINH GIỎI...
PDF
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
PPTX
2. tràn khí màng phổi bệnh học nộii.pptx
PPTX
TIẾT 8, 9, 10. BÀI 32. DINH DƯỠNG VÀ TIÊU HÓA Ở NGƯỜI.pptx
DOCX
Ôn tập văn học phương đông thi giữa kì ..
PPTX
Bài 6 Du an bua an ket noi yeu thuong.pptx
PDF
BÀI TẬP TEST FOR UNIT TIẾNG ANH LỚP 8 GLOBAL SUCCESS CẢ NĂM THEO TỪNG ĐƠN VỊ ...
PDF
Public economy và vai trò trong phân bổ nguồn lực, cung cấp hàng hóa công, đi...
PDF
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
PPTX
Chương 5 của Tâm lí học - Tâm Lí Học Giáo Dục Đạo Đức
PPTX
CHƯƠNG I excel,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
PDF
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT THEO CHỦ ĐỀ NHẰ...
PDF
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
PDF
BÀI HỌC ÔN TẬP CHO THI NỘI DUNG MÔN HOẠCH ĐỊNH
PPTX
Triet hoc con nguoi va triet hoc thac si
PPTX
Bài 9.4 TUYẾN SINH DỤC NAM VÀ NU CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG
Direct Marketing- chieu thi truyen thong
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC KHÁM PHÁ TỰ NHIÊN CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VẬT S...
24. 9cqbq2reu57m5igbsz-signature-40d40b8bd600bcde0d0584523c684ec4933c280de74a...
100-Mon-Ngon-Christine-Ha.pdfnfeifefefefef
BỘ TÀI LIỆU CHINH PHỤC ĐỈNH CAO TIẾNG ANH NĂM 2026 CHUYÊN ĐỀ ÔN HỌC SINH GIỎI...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
2. tràn khí màng phổi bệnh học nộii.pptx
TIẾT 8, 9, 10. BÀI 32. DINH DƯỠNG VÀ TIÊU HÓA Ở NGƯỜI.pptx
Ôn tập văn học phương đông thi giữa kì ..
Bài 6 Du an bua an ket noi yeu thuong.pptx
BÀI TẬP TEST FOR UNIT TIẾNG ANH LỚP 8 GLOBAL SUCCESS CẢ NĂM THEO TỪNG ĐƠN VỊ ...
Public economy và vai trò trong phân bổ nguồn lực, cung cấp hàng hóa công, đi...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
Chương 5 của Tâm lí học - Tâm Lí Học Giáo Dục Đạo Đức
CHƯƠNG I excel,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM QUA CÁC TIẾT SINH HOẠT THEO CHỦ ĐỀ NHẰ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
BÀI HỌC ÔN TẬP CHO THI NỘI DUNG MÔN HOẠCH ĐỊNH
Triet hoc con nguoi va triet hoc thac si
Bài 9.4 TUYẾN SINH DỤC NAM VÀ NU CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG

Luận văn: Qui định của pháp luật Việt Nam về dịch vụ Internet, 9đ

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ THÚY NGA CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ INTERNET TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ THÚY NGA CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ INTERNET TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Xuân Nhự HÀ NỘI - 2012
  • 3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Đỗ Thị Thúy Nga
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: GIỚI THIỆU VỀ INTERNET SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT DỊCH VỤ INTERNET 8 1.1 . Tổng quan chung về Internet 8 1.1.1. Khái quát chung về Internet 8 1.1.1.1. Khái niệm Internet 8 1.1.1.2. Phân loại các nhóm dịch vụ Internet 10 1.1.1.3. Các chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ Internet 11 1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ Internet 14 1.1.2.1. Lợi ích và hạn chế đối với Internet 14 1.1.2.2. Những yêu cầu đặt ra đối với dịch vụ Internet 16 1.1.2.3. Một số chỉ tiêu liên quan khi đánh giá, thống kê mức độ phát triển Internet 18 1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển Internet ở Việt Nam 20 1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách và pháp luật dịch vụ Internet 22 1.2.1. Nhân tố thuộc môi trường quốc tế 23 1.2.2. Nhân tố thuộc môi trường trong nước 23 1.2.3. Nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp 24
  • 5. 5 1.2.4. Nhân tố quản lý nhà nước 26 1.3. Sự cần thiết phải đổi mới chính sách và pháp luật về dịch vụ Internet 28 1.3.1. Mối quan hệ giữa pháp luật và Internet 28 1.3.2. Sự cần thiết phải xây dựng, đổi mới chính sách và pháp luật về dịch vụ Internet 29 Chương 2: HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN ĐIỀU CHỈNH INTERNET 32 2.1. Hệ thống văn bản về Internet 32 2.1.1. Đặc điểm sự hình thành và phát triển hệ thống văn bản điều chỉnh Internet 32 2.1.2. Hệ thống văn bản quốc tế điều chỉnh Internet 34 2.1.3. Hệ thống văn bản điều chỉnh Internet của Việt Nam 36 2.2. Đánh giá chung hệ thống văn bản điều chỉnh Internet của Việt Nam 40 2.2.1. Đối với nhu cầu khách quan 40 2.2.2. Đối với yêu cầu quản lý kinh tế và xã hội 42 2.2.3. Đối với sự phát triển của cộng đồng mạng toàn cầu 43 2.2.4. Đối với yêu cầu của các nước trong cộng đồng quốc tế 45 Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIẺN INTERNET VIỆT NAM THEO XU HƯỚNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ 51 3.1. Văn bản hiện đang điều chỉnh Internet của Việt Nam 51 3.1.1. Những mặt tích cực 51 3.1.1.1. Những nhân tố cho sự ra đời Nghị định 97/2008/NĐ-CP 51 3.1.1.2. Nguyên tắc xây dựng Nghị định 53 3.1.1.3. Những nội dung, sửa đổi quan trọng của Nghị định 53 3.1.1.4. Những nội dung cơ bản của Nghị 58
  • 6. 6 3.1.2. Những mặt còn hạn chế 69 3.1.3. Một số giải pháp của Việt Nam 79 3.2. Việc áp dụng một số qui định quản lý Internet của Trung Quốc, Mỹ tại Việt Nam 82 3.2.1. Trung Quốc 83 3.2.2. Hoa Kỳ (USA) 84 3.3. Định hướng phát triển Internet Việt Nam theo xu hướng hội nhập quốc tế 87 3.3.1. Chính sách của nhà nước 88 3.3.1.1. Mục tiêu giai đoạn 2001 - 2005 88 3.3.1.2. Mục tiêu giai đoạn 2006-2010 88 3.3.1.3. Mục tiêu giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến 2020 90 3.3.2. Thuận lợi, khó khăn và thách thức 93 3.3.2.1. Thuận lợi 93 3.3.2.2. Thách thức 94 3.3.2.3. Khó khăn 95 3.3.3. Định hướng và giải pháp để phát triển Internet Việt Nam theo xu hướng hội nhập quốc tế 96 3.3.3.1. Về công nghệ, dịch vụ 96 3.3.3.2. Về tài nguyên Internet 96 3.3.3.3. Về ứng dụng và nội dung thông tin 96 3.3.3.4. Về an toàn, an ninh 97 3.3.3.5. Về tổ chức và công tác thực thi 98 3.3.4. Hội nhập quốc tế về Internet 101 KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADSL (Asymmetric Digital Subscriber Line) Đường dây thuê bao số bất đối xứng BCC (Business Cooperation Contract) Hợp đồng hợp tác kinh doanh hình thức đầu tư BTA (Bilateral Trade Agreement) Hiệp định thương mại song phương ESRB, PEGI Các tổ chức độc lập và phi lợi nhuận chuyên phân loại các sản phẩm phần mềm giải trí và game của Mỹ HRW (Human Rights Watch - HRW) Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc IPV6 (Internet Protocol version 6) Một giao thức để xác định địa chỉ một máy trên Internet ISO/IEC27002 Qui chuẩn kỹ thuật về an toàn hệ thống thông tin do Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế phụ trách xây dựng ITU (International Telecommunication Union) Tổ chức viễn thông quốc tế thuộc Liên hiệp quốc OECD (Organization for Economic Cooperation and Development) Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế UNCITRAL Ủy ban pháp luật Thương mại Quốc tế của Liên hợp quốc UNESCO (United Nations Educational Scientific and Cultural Organization) Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc UPR (Universal Periodic Report) Cơ chế kiểm điểm định kỳ của Tổ chức HRW VNCERT Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính quốc gia Việt Nam WB (Word Bank) Ngân hàng thế giới WIFI (Wireless Fidelity) Hệ thống mạng không dây sử dụng sóng vô tuyến WIPO (World Intellectual Property Organization) Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới WTO (World Trade Organization) Tổ chức Thương mại Thế giới
  • 8. 8 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1.1 Tốc độ và chi phí truyền gửi 14
  • 9. 9 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công nghệ thông tin và truyền thông phát triển nhanh đã và đang tác động mạnh tới hiệu quả của nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế phát triển trên cơ sở công nghệ và tri thức. Nền kinh tế tri thức này mang lại giá trị cao cho con người, mang lại sức khỏe, đời sống văn minh và sự tinh tế... Điều này được khẳng định thông qua các giá trị của Internet - con đẻ của công nghệ thông tin và truyền thông. Internet là hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau giữa các chính phủ, tổ chức chính trị, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, người dùng cá nhân…trên toàn cầu gọi là mạng Internet (network). Trên Internet một khối lượng thông tin và dịch vụ khổng lồ được cung cấp. Mạng Internet mang lại rất nhiều tiện ích hữu dụng cho người sử dụng, một trong các tiện ích phổ thông của Internet là hệ thống thư điện tử (email), trò chuyện trực tuyến (chat), máy truy tìm dữ liệu (search engine), các dịch vụ thương mại điện tử và chuyển ngân, các dịch vụ về y tế, giáo dục như chữa bệnh từ xa hoặc tổ chức các lớp học ảo, lĩnh vực giải trí như trò chơi trực tuyến, hay báo mạng…có thể thấy các tiện ích này không chỉ được áp dụng và có ảnh hưởng trong lĩnh vực kinh tế mà bao trùm cả xã hội. Ngày 19/11/1997, dịch vụ Internet mới xuất hiện ở Việt Nam. Từ đó cho đến nay, dịch vụ Internet không chỉ có mặt ở các đô thị, mà đã lan tỏa rộng khắp 63 tỉnh, thành phố, từ những khu dân cư đông đúc đến các bản làng xa xôi. Qua đó có thể thấy, từ cả hai phía Chính phủ và người dân Việt Nam đều rất nhanh nhạy tiếp cận, sử dụng Internet làm công cụ giao tiếp, công cụ hoạt động trong lao động, sản xuất. Nhờ vậy Việt Nam không
  • 10. 10 những phát triển về kinh tế mà còn có tốc độ phát triển Internet ở mức cao trong khu vực biểu thị bằng quy mô số thuê bao Internet. Tuy nhiên song hành cùng với các lợi ích của Internet mang lại, ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam cũng đã xuất hiện ngày càng nhiều biểu hiện lợi dụng Internet để thực hiện các hoạt động tiêu cực, không phù hợp với đạo lý, nhân phẩm, văn hóa truyền thống và nền văn minh hiện đại. Cụ thể tại Việt Nam, qua số liệu kiểm tra: Tháng 7-2009, cơ quan chức năng đã thanh, kiểm tra 895 đại lý Internet trên toàn quốc, trong đó xử lý vi phạm hành chính 205 đại lý, 58 đại lý bị xử phạt vi phạm hành chính gần 80 triệu đồng, tịch thu gần 20 bộ CPU máy vi tính. Những vi phạm của các đại lý Internet chủ yếu là để khách hàng sử dụng dịch vụ quá giờ quy định, để khách hàng truy cập vào các website đồi trụy, lưu trữ phim ảnh đồi trụy trong máy tính. Ngoài ra, nhiều cơ sở kinh doanh không ký hợp đồng đại lý Internet với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, không niêm yết nội quy sử dụng, không đảm bảo công tác an ninh, an toàn phòng cháy chữa cháy. Toàn quốc hiện có 18 doanh nghiệp chuyên kinh doanh trong lĩnh vực trò chơi trực tuyến (games online), trong đó, Hà Nội có 5 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cung cấp trên thị trường khoảng 72 trò chơi trực tuyến được Bộ Thông tin và truyền thông cấp phép. Đồng thời, hàng trăm game từ các máy chủ nước ngoài, đĩa lậu mà hầu hết là games bạo lực. Trong số, 72 games online được phép lưu hành, chỉ có 1 games "Thuận Thiên Kiếm" là do Việt Nam sản xuất, còn lại chủ yếu của Trung Quốc và Hàn Quốc [29]. Trước tình hình trên, cũng như bất kỳ quốc gia nào khác, Chính phủ Việt Nam phải có trách nhiệm quản lý công cụ thông tin hiện đại này. Đây là quyền và là trách nhiệm của chính phủ của mỗi quốc gia trong thế giới hiện
  • 11. 11 đại, vì cuộc sống văn minh, lành mạnh không chỉ của công dân nước mình, mà còn vì sự an toàn của công dân toàn cầu. Một trong các công cụ quản lý hữu hiệu của Chính phủ là chính sách quản lý Internet được thể hiện bằng các qui định tại hệ thống các văn bản pháp qui của Nhà nước. Nhà nước sử dụng công cụ này có mục đích không phải là để ngăn cấm Internet, mà là để tăng cường sử dụng nó một cách hữu hiệu, mục tiêu là vừa đáp ứng yêu cầu thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông Internet, vừa đáp ứng nhu cầu quản lý nội dung thông tin trên Internet, đồng thời đảm bảo quyền được thông tin của người dân và nhu cầu phòng chống những thông tin độc hại, ảnh hưởng xấu đến đời sống tinh thần, thuần phong và mỹ tục, trật tự, an toàn xã hội, đặc biệt là bảo vệ giới trẻ. Cho đến nay các cơ quan chức năng đã xây dựng được hệ thống văn bản pháp luật tương đối đầy đủ để quản lý dịch vụ Internet. Song hệ thống văn bản này đã phản ánh đúng, phù hợp với thực tế khách quan hay đã tích hợp được các giải pháp quản lý vừa mang tính lâu dài, vừa mang tính tình thế để đi vào thực thi và trở thành một công cụ quản lý hữu hiệu trong xã hội và nền kinh tế "mở" như hiện nay thì còn phải nghiên cứu và xem xét. Chính vì vậy, tôi có ý tưởng nghiên cứu và thực hiện đề tài "Các qui định của pháp luật Việt Nam về dịch vụ Internet trong thời kỳ hội nhập quốc tế" và đó cũng là vấn đề vừa cơ bản, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Như ta đã biết xã hội ngày nay là kết quả của một quá trình phát triển đi lên được hỗ trợ bởi những thành tựu của Khoa học kỹ thuật. Kết quả đó có thể nhìn thấy rõ ở ngành Công nghệ Thông tin mà mạng Internet là điển hình. Đến nay, máy vi tính có kết nối mạng toàn cầu đã trở thành phương tiện không thể thiếu trong cuộc sống. Đặc biệt, nó đã làm thay đổi hoàn toàn cách thức giao tiếp xã hội và quản lý xã hội và cũng làm nảy sinh những vấn
  • 12. 12 đề mới như: tiện ích, tác hại, các hình thức thể hiện, các trạng thái,…là những vấn đề nóng bỏng hiện nay, đặt ra những thách thức cho các nhà quản lý. Vì vậy, dịch vụ Internet (hay mạng xã hội ảo) đã được nhiều tác giả là những người quản lý, các nhà chính sách, thậm chí là khách hàng (người đang sử dụng các tiện ích từ Internet mang lại) đề cập đến trên mọi phương tiện báochí.... về các góc cạnh, vấn đề thuộc lĩnh vực này từ góc độ quản lý đến thực thi; phân tích mặt tốt, mặt xấu; đưa giải pháp v.v… Trong phương diện luật học, một số góc cạnh của lĩnh vực này được đề cập đến, phản ánh thông qua các bài viết tại các chương VI, X, XI, XII về giao dịch thương mại quốc tế, mua bán công nghệ, bản quyền.... tại sách Luật thương mại quốc tế thuộc bộ môn Luật Quốc tế. Tuy nhiên, các công trình, bài viết trên các tác giả chỉ mới đề cập một cách khái quát, chung chung có động chạm đến một vài khía cạnh, vấn đề đơn lẻ về Internet. Tóm lại, trong lĩnh vực luật học thì mới chỉ có bài viết đề cập một cách khái quát hoặc đơn lẻ về Internet chưa có một công trình, bài viết nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về lĩnh vực này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: - Phân tích và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, những điểm mạnh và yếu của hệ thống văn bản pháp lý quản lý dịch vụ Internet của Việt Nam. - Rút kinh nghiệm, bài học quản lý của một số nước trên thế giới và đưa ra các giải pháp, khuyến nghị….để nâng cao hiệu quả việc áp dụng những qui định của pháp luật cũng như xây dựng hệ thống pháp luật cho lĩnh vực quản lý dịch vụ Internet tại Việt Nam. Nhiệm vụ: Để đạt được các mục đích đặt ra tác giả đặt ra những nhiệm vụ phải giải quyết sau đây:
  • 13. 13 - Phân tích và làm rõ sự hình thành và phát triển cũng như khái niệm về Internet và dịch vụ Internet - Nêu ra đặc điểm, ý nghĩa của dịch vụ Internet trong đời sống xã hội và các yếu tố ảnh hưởng đến lĩnh vực này. - Phân tích và làm rõ những qui định của pháp luật về lĩnh vực Internet hiện hành; làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng nêu nên các vướng mắc trong thực tiễn áp dụng đòi hỏi sự nghiên cứu và giải quyết. - Đánh giá thực trạng, tìm nguyên nhân của vấn đề từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các quy định pháp luật của nhà nước Việt Nam về dịch vụ Internet và một số giải pháp quản lý của một số quốc gia trong khu vực phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: - Nghiên cứu quy định pháp luật Việt Nam về dịch vụ Internet và thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý dịch vụ Internet ở Việt Nam. Phân tích những ưu điểm/khuyết điểm của hệ thống qui phạm quản lý dịch vụ Internet và thực tiễn áp dụng luật pháp của Việt Nam. - Nghiên cứu một số giải pháp thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý dịch vụ Internet của một số quốc gia trong khu vực phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam. Rút ra những bài học và áp dụng. - Đề xuất hoàn thiện các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam để vừa hài hòa các mục tiêu quản lý có hiệu quả vừa phù hợp với sự phát triển của xã hội và cam kết quốc tế chung.
  • 14. 14 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận - Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. - Cơ sở thực tiễn của luận văn là số liệu thống kế, báo cáo của cơ quan quản lý chuyên ngành lĩnh vực Internet. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành và chuyên ngành; coi trọng phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp và kết hợp với các phương pháp khác như hệ thống, lịch sử, so sánh, logic; và phương pháp chuyên gia, tổng kết thực tiễn…. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và có hệ thống các qui định quản lý dịch vụ Internet tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế dưới góc độ pháp lý. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về khái niệm Internet và dịch vụ Internet - Phân tích, đánh giá những qui định hiện hành về dịch vụ Internet trong nước và một số qui định áp dụng của một vài nước trên thế giới nhằm rút ra những bài học để vận dụng có chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn. - Phân tích, làm rõ thực tiễn áp dụng, nêu lên những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng những qui định của pháp luật về dịch vụ này.
  • 15. 15 - Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những qui định của pháp luật về lĩnh vực này. 7. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả việc áp dụng những qui định của pháp luật đối với dịch vụ Internet ở nước ta. Thông qua kết quả nhiên cứu và các đề xuất, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc quản lý dịch vụ Internet nói riêng và công cụ quản lý nhà nước là lĩnh vực pháp lý nói chung. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Internet nói riêng. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Giới thiệu về Internet và sự cần thiết đổi mới chính sách và pháp luật về dịch vụ Internet. Chương 2: Hệ thống các văn bản điều chỉnh Internet. Chương 3: Thực trạng và định hướng phát triển Internet Việt Nam theo xu hướng hội nhập quốc tế.
  • 16. 16 Chương 1 GIỚI THIỆU VỀ INTERNET SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT DỊCH VỤ INTERNET 1.1. TỔNG QUAN CHUNG VỀ INTERNET Trong thập kỷ 1980, khi tổ chức khoa học Mỹ NSF thành lập mạng liên kết các trung tâm máy tính lớn với nhau gọi là NSFNET, máy tính cá nhân được sử dụng rộng rãi trong các Công ty và Trường Đại học trên thế giới. Từ đây tạo nên một sự bùng nổ trong việc phát triển Internet. Giữa thập niên 1980 khi máy vi tính cá nhân trở nên thông dụng trên thế giới và bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam. Đây cũng là lúc xuất hiện khái niệm về mạng máy tính, từ mạng nội bộ LAN, đến mạng diện rộng WAN và nay là mạng toàn cầu INTERNET. 1.1.1. Khái quát chung về Internet 1.1.1.1. Khái niệm Internet Thuật ngữ: "Internet" xuất hiện lần đầu tiên năm 1993 khi giáo sư Vint Cef thuộc trường Đại học Califonia - Mỹ đáp lại mong muốn của chính quyền Mỹ cài đặt một mã chung cho tất cả các máy tính giao thức TCP/IP (TCP/IP là tên chung cho một tập hợp hơn 100 giao thức được sử dụng để kết nối các máy tính vào mạng, trong đó hai giao thức chính là TCP viết tắt Transmission Control Protocol và IP viết tắt của Internet Protocol) và đặt tên là Internet. Các nhà kỹ thuật thì định nghĩa Internet là mạng máy tính được kết nối dựa trên giao thức mạng TCP/IP (Transmission Control Protocol/Internet Protocol). Trong phạm vi Internet, thông tin được chia thành những gói nhỏ gọi là packet, các packet này được gửi trên mạng máy tính qua IP, TCP nhận các packet và kiểm tra lỗi. Nếu một lỗi xuất hiện, TCP yêu cầu gói riêng biệt đó phải được gửi lại. Chỉ khi tất cả các packet đã nhận được là đúng, TCP sẽ sử dụng số thứ tự để tạo lại thông tin ban đầu. Nói cách khác, công việc của IP là
  • 17. 17 chuyển dữ liệu thô - các packet - từ nơi này tới nơi khác. Công việc của TCP là quản lý dòng chảy và đảm bảo rằng dữ liệu là đúng. Khái niệm này nêu bật đặc điểm của mạng Internet, phân biệt được sự khác nhau căn bản của mạng Internet với các mạng khác như mạng truyền số liệu, mạng điện thoại công cộng. Ngày nay, Internet được định nghĩa là một hệ thống thông tin toàn cầu (hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân, và các chính phủ trên toàn cầu) hệ thống này truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (gọi là giao thức IP). Và sử dụng một hệ thống địa chỉ thống nhất trên phạm vi toàn cầu để cung cấp các dịch vụ và ứng dụng khác nhau cho người sử dụng thông qua các hệ thống kênh viễn thông. Qua các định nghĩa về Internet nêu trên có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất về thuật ngữ "Internet" như sau: Internet là hệ thống hàng triệu máy tính trên toàn thế giới kết nối với nhau thành mạng, nhằm trao đổi thông tin và chia sẻ các tài nguyên của các máy tính trên mạng. Một người kết nối vào mạng Internet bằng cách đăng ký một tài khoản (internet account) từ một nhà cung cấp dịch vụ internet (Internet Service Provider-ISP) tại địa phương. Nhà cung cấp này cho phép họ truy cập e-mail (electronic mail - thư điện tử) và World Wide Web viết tắt là WWW (hệ thống truy cập thông tin toàn cầu). Nhờ có Web, nên dù không phải là một chuyên gia, bạn vẫn có thể sử dụng Internet. Sự ra đời của trình duyệt Web (Internet Explorer và Netscape) hết sức tiện lợi cho người sử dụng cùng với ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML - Hyper Text Markup Language) và một loạt các công nghệ web mutimedia đã tạo cho Internet trở thành một phương tiện hết sức tiện lợi đối với mọi tổ chức và cá nhân. Theo định nghĩa của các nhà lập pháp Việt Nam: "Internet là hệ thống thông tin toàn cầu sử dụng giao thức Internet và tài nguyên Internet để cung
  • 18. 18 cấp các dịch vụ và ứng dụng khác nhau cho người sử dụng dịch vụ viễn thông" [36, Khoản 14, Điều 3]; "Internet là hệ thống thông tin toàn cầu sử dụng giao thức Internet (Internet Protocol - IP) và tài nguyên Internet để cung cấp các dịch vụ và ứng dụng khác nhau cho người sử dụng" [20, Khoản 1, Điều 3]. 1.1.1.2. Phân loại các nhóm dịch vụ Internet a. Dịch vụ kết nối Internet Là dịch vụ cung cấp cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp khả năng kết nối với nhau để truyền tải lưu lượng Internet trong nước giữa các tổ chức, doanh nghiệp đó. b. Dịch vụ truy nhập Internet Là dịch vụ cung cấp cho mọi người sử dụng khả năng truy nhập Internet. Đặc trưng của dịch vụ này là cung cấp các đường truy nhập Internet trực tiếp và gián tiếp cho khách hàng. c. Dịch vụ ứng dụng Internet Là dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng được cung cấp cho người sử dụng thông qua mạng lưới thiết bị Internet. Dịch vụ ứng dụng Internet được chia làm 2 nhóm là dịch vụ cơ bản và dịch vụ giá trị gia tăng: - Dịch vụ cơ bản là các dịch vụ khách hàng (người sử dụng) sẽ được sử dụng một cách đương nhiên khi đăng ký sử dụng (chấp nhận sử dụng) như truy cập từ xa (truy cập gián tiếp qua mạng điện thoại công cộng), truyền tệp dữ liệu, truy cập các cơ sở dữ liệu theo các phương thức khác nhau (website). - Dịch vụ gia tăng giá trị là dịch vụ cộng thêm hoặc được phát triển trên nền các dịch vụ cơ bản, ngoài các dịch vụ cơ bản. Dịch vụ gia tăng giá trị được chia thành 2 nhóm chính là: + Nhóm các dịch vụ không tương tác là các dịch vụ đang được thực hiện chỉ có một phía khách hàng là người có khả năng chủ động giao tiếp với hệ thống
  • 19. 19 cung cấp dịch vụ của nhà cung cấp. Các dịch vụ không tương tác chỉ thỏa mãn nhu cầu cho khách hàng bằng những nội dung mà nhà cung cấp đã định sẵn bằng phương thức chào hàng mà người được chào hàng là các khách hàng. Ví dụ như dịch vụ Video on Demand (xem video theo yêu cầu), dịch vụ cung cấp thông tin... + Nhóm các dịch vụ tương tác là các dịch vụ cho phép các chủ thể có khả năng chủ động cùng lúc gửi và nhận thông tin qua hệ thống cung cấp dịch vụ của nhà cung cấp. Ví dụ như Internet Telephony (điện thoại qua Internet), video conferancing (hội thảo qua mạng Internet), distance learning online (đào tạo từ xa trên mạng), chatting (trò chuyện qua mạng)... Ở Việt Nam Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet là văn bản pháp lý hiện hành cũng qui định các nhóm dịch vụ Internet như trên. Dịch vụ Internet trong Nghị định 97 được định nghĩa là một loại hình dịch vụ viễn thông. 1.1.1.3. Các chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ Internet a. Nhà cung cấp dịch vụ kết nối Internet là đơn vị cung cấp dịch vụ kết nối Internet, cung cấp cổng kết nối Internet ra quốc tế (còn gọi là IXP) IXP là một đơn vị có trách nhiệm đảm bảo thông suốt cho tất cả mọi truy cập, mọi giao dịch với Internet từ tất cả những người sử dụng đến từ các nhà cung cấp dịch vụ. Hai hệ thống lớn mà IXP phải có là hệ thống thiết bị kết nối truy cập Internet và hệ thống đường trục tốc độ cao nối với các Trung tâm Viễn thông trong nước và quốc tế. b. Nhà cung cấp dịch vụ truy nhập Internet là đơn vị cung cấp dịch vụ truy nhập Internet, cung cấp đường truy nhập Internet trực tiếp và gián tiếp (còn gọi là ISP) ISP là những người trung gian giữa người sử dụng và Internet. ISP cung cấp cho người dùng các dịch vụ như thư điện tử (E-mail), truyền tập tin (FTP), truy cập các Website trên Internet. Các ISP thuê các dịch vụ kết nối Internet và đường trục tốc độ cao nối đến cổng của IXP. Trên cơ sở đó, ISP
  • 20. 20 thực hiện các dịch vụ cho khách hàng. Để có thể cung cấp cho khách hàng những dịch vụ truy cập Internet có chất lượng thì hệ thống thiết bị và năng lực truyền thông của các ISP phải được trang bị mạnh. c. Nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng trên mạng Internet là đơn vị cung cấp các dịch vụ ứng dụng Internet như là điện thoại trên Internet, thương mại điện tử, thư điện tử (còn gọi là OSP) d. Nhà cung cấp dịch vụ thông tin trên mạng Internet là đơn vị cung cấp dịch vụ thông tin trên Internet bao gồm: báo chí (báo nói, báo hình, báo điện tử), phát hành, sản xuất sản phẩm trên internet và dịch vụ cung cấp các loại hình tin tức điện tử khác trên Internet (còn gọi là ICP) Internet được coi như một xa lộ thông tin quốc tế. Thông tin là thành phần chính giao lưu trên siêu xa lộ đó. Vì vậy, ICP đóng một vai trò rất quan trọng. Họ là những người thiết lập nên các Website chứa đựng các cơ sở dữ liệu cho mọi người truy cập. Phần lớn thông tin trên Internet là miễn phí. Các ICP hoạt động tương tự như các "tòa soạn báo điện tử". Sự sống của các ICP nằm ở nội dung thông tin. Nội dung đó phải thường xuyên cập nhật, dễ sử dụng, dễ hệ thống hóa. Nếu chúng ta có dịp truy cập Website của Ngân hàng thế giới (World Bank), các Đầu mối Thương mại (Trade Point) hay của các thị trường chứng khoán (Down Jones), chúng ta sẽ thấy tốc độ cập nhật tin chóng mặt. Đã là một tòa soạn thì phải có ban biên tập, hệ thống cộng tác viên, các nhà phân tích và xử lý tin hùng hậu. Ở nước ta, những ICP được phép hoạt động không mấy ai đạt được yêu cầu đó. e. Nhà cung cấp tích hợp tất cả các dịch vụ trên: Một doanh nghiệp có thể tham gia cung cấp dịch vụ Internet với tất cả các vai trò trên vừa là IXP, ISP, OSP, ICP. Nhưng cũng có thể chỉ là một nhà cung cấp dịch vụ Internet riêng biệt. Cho đến nay đã có hơn 10 đơn vị được cấp giấy phép triển khai dịch vụ truy cập Internet gồm: Công ty Điện toán và truyền số liệu - VDC (là đơn
  • 21. 21 vị được Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam VNPT giao làm đại diện cho VNPT quản lý, kinh doanh dịch vụ Internet vì vậy VDC là nhà cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) duy nhất đồng thời là nhà cung cấp dịch vụ truy cập Internet (ISP) và dịch vụ giá trị gia tăng trên Internet (OSP) ở Việt Nam từ năm 1997), Viettel, FPT, Hanoi Telecom, ETC, Netnam, SPT, Công ty cổ phần công nghệ mạng (Qtinet), Công ty cổ phần công nghệ Internet (OCI), Công ty đầu tư phát triển kỹ nghệ (Techcom)... Tuy nhiên trong số đó chỉ có 7 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy cập Internet đó là VDC, FPT, Viettel, SPT, Netnam, Hanoi Telecom và OCI. 1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ Internet 1.1.2.1. Lợi ích và hạn chế đối với Internet Internet phát triển nhanh là lý do tiện ích trong sử dụng, cho phép giảm nhanh chi phí. Sau đây là các lợi ích của Interent: a. Nắm bắt được thông tin phong phú Sử dụng Internet trước hết giúp cho các tổ chức, doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về kinh tế- chính trị- xã hội, nhờ đó có thể xây dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển với thị trường trong nước, khu vực và thị trường quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đang được nhiều nước quan tâm, coi là một trong những động lực phát triển chủ yếu của nền kinh tế. b. Giảm chi phí sản xuất Internet giúp giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn phòng không giấy tờ (paperless office) chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần (trong đó khâu in ấn gần như được bỏ hẳn); theo số liệu của hãng General Electricity của Mỹ, tiết kiệm trên hướng này đạt 30%. Điều quan trọng hơn là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ, có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn lâu dài.
  • 22. 22 c. Giảm chi phí giao dịch Internet giúp giảm thấp chi phí giao dịch, bán hàng và chi phí tiếp thị, giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. Bằng phương tiện Internet/Web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, cataloge điện tử trên Web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với cataloge in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời. Chi phí thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0,05% thời gian giao dịch qua bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng 5% chi phí giao dịch qua Fax hay qua bưu điện chuyển phát nhanh. Chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10% tới 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường. Bảng 1.1: Tốc độ và chi phí truyền gửi Đường truyền Thời gian Chi phí New York đi Tokyo - Qua bưu điện 5 ngày 7.40 USD - Chuyển phát nhanh 24 giờ 26.25 USD - Qua máy Fax 31 phút 28.83 USD - Qua Internet 2 phút 0.04 USD New York đi Los Angeles - Qua bưu điện 2-3 ngày 3.00 USD - Chuyển phát nhanh 24 giờ 15.50 USD - Qua máy Fax 31 phút 9.36 USD - Qua Internet 2 phút 0.04 USD Hà Nội đi TP. HCM - Qua bưu điện 3-4 ngày 8.000 VND - Chuyển phát nhanh 24 giờ 24.000 VND - Qua máy Fax 31 phút 71.000 VND - Qua Internet 4 phút 720 VND (Nguồn: Tài liệu hội thảo Tuần Lễ tin học Việt Nam lần thứ XI, 2002).
  • 23. 23 d. Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác Internet tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành tố tham gia vào quá trình giao dịch: Thông qua mạng Internet các thành tố tham gia (người tiêu thụ, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ) có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau (liên lạc trực tuyến) gần như không còn khoảng cách địa lý và thời gian nữa; nhờ đó cả sự hợp tác đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục; các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát hiện nhanh chóng trên bình diện toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế giới và có nhiều cơ hội hơn nữa để lựa chọn. e. Tiếp cận nền kinh tế số hóa Đối với quốc gia, Internet sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin là ngành có lợi nhuận cao nhất và đóng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế. Nhìn rộng hơn, Internet tạo điều kiện cho việc sớm tiếp cận với nền kinh tế số hóa (digital economy) mà xu thế và tầm quan trọng đã được đề cập đến. Lợi ích này có một ý nghĩa đặc biệt đối với các nước đang phát triển: nếu không tiếp cận vào nền kinh tế số hóa thì sau một thời gian nữa, các nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang tính tiềm tàng, tính chiến lược công nghệ và tính chính sách phát triển mà các nước chưa công nghiệp hóa cần lưu ý. Có luận điểm cho rằng: sớm chuyển sang kinh tế số hóa thì một nước đang phát triển có thể tạo ra một bước nhảy vọt, có thể tiến kịp các nước đã đi trước trong một thời gian ngắn hơn. Tuy nhiên, mọi vấn đề đều có tính hai mặt. Bên cạnh các lợi ích nêu trên, Internet cũng có những hạn chế nhất định. Đó là những khó khăn, những rào cản trong quá trình phát triển Internet. Có thể liệt kê khá nhiều những thuận lợi của Internet về mặt lý thuyết nhưng vào thời điểm hiện tại nhận thức của người sử dụng, nhu cầu của người tiêu dùng, khả năng thanh toán và các điều kiện cần thiết khác chưa xuất hiện là những cản trở Internet tại Việt Nam. Bên cạnh đó hàng loạt các vấn đề như lợi dụng Internet để đưa
  • 24. 24 tin xuyên tạc, cung cấp thông tin kích động, hình ảnh khiêu dâm, hay vấn đề bảo mật thông tin, quyền sở hữu trí tuệ, hệ lụy của những trò chơi trực tuyến đối với xã hội...là những hạn chế của dịch vụ Internet đòi hỏi bất cứ quốc gia nào trong quá trình phát triển Internet cũng phải quan tâm và có những giải pháp hợp lý. 1.1.2.2. Những yêu cầu đặt ra đối với dịch vụ Internet Song song với những lợi ích và những cơ hội rõ rệt có thể mang lại, Internet đã và đang đặt ra hàng loạt vấn đề phải giải quyết, trên tất cả các bình diện doanh nghiệp, quốc gia và quốc tế. Để cung cấp dịch vụ Internet (không phân biệt loại hình dịch dụ Internet gián tiếp hay trực tiếp) cần phải giải quyết tổng thể hàng chục vấn đề phức tạp đan xen nhau trong một mối quan hệ hữu cơ bao gồm: a. Hạ tầng cơ sở công nghệ Internet là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hóa, của công nghệ thông tin, mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện tử. Vì thế, chỉ có thể thực sự tham gia sử dụng Internet hiệu quả đích thực khi đã có một hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin vững chắc, bao gồm tính toán điện tử và truyền thông điện tử. b. Yêu cầu đối với nhân lực, trình độ công nghệ thông tin, khả năng ngoại ngữ Sử dụng dịch vụ Internet tất yếu làm nảy sinh hai đòi hỏi: một là mọi người đều quen thuộc và có khả năng thành thạo hoạt động trên mạng, hai là có một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên bắt kịp các công nghệ thông tin mới phát triển ra để phục vụ cho kinh tế số hóa nói chung và Internet nói riêng, cũng như có khả năng thiết kế các công cụ phần mềm đáp ứng được nhu cầu hoạt động của một nền kinh tế số hóa, tránh bị động, lệ thuộc hoàn toàn vào nước khác.
  • 25. 25 c. Bảo mật, an toàn Các giao dịch trên mạng Internet đòi hỏi rất cao về bảo mật và an toàn, nhất là khi hoạt động trên Internet/Web. Điều đáng ngại nhất là an toàn và bảo mật dữ liệu. Các hacker dùng nhiều thủ đoạn khác nhau như mạo quan hệ, bẻ mật khẩu, virus và các chương trình phá từ bên trong, giả mạo địa chỉ Internet, phong tỏa dịch vụ Kỹ thuật mã hóa hiện đại đang giúp giải quyết vấn đề này nhưng bản thân các mã mật cũng có thể bị khám phá bởi các kỹ thuật giải mã tinh vi, nhất là kỹ thuật của bên có đẳng cấp công nghệ cao hơn hẳn. Cho nên, một chiến lược quốc gia về mã hóa, kèm theo các chương trình bảo vệ an toàn thông tin của các cơ quan, doanh nghiệp và của cá nhân đang trở thành một vấn đề rất lớn. d. Hệ thống thanh toán điện tử Internet yêu cầu có một thống thanh toán tài chính phát triển cho phép thực hiện thanh toán tự động (trong đó, thẻ thông minh có tầm quan trọng đặc biệt đối với kinh doanh), khi chưa có hệ thống này thì giao dịch trên Internet chỉ ứng dụng được phần trao đổi thông tin, buôn bán vẫn phải kết thúc bằng trả tiền trực tiếp hoặc bằng các phương tiện thanh toán truyền thống, khi ấy hiệu quả của giao dịch qua mạng bị giảm thấp, và có thể không đủ để bù lại các chi phí trang bị công nghệ đã bỏ ra. e. Bảo vệ sở hữu trí tuệ Hiện nay, xu hướng cho thấy, giá trị sản phẩm ngày càng cao ở khía cạnh chất xám của nó, mà không phải là bản thân nó, tài sản cơ bản của từng đất nước, từng tổ chức và từng con người đã và đang chuyển thành "tài sản chất xám" là chủ yếu; thông tin trở thành tài sản, và bảo vệ tài sản cuối cùng sẽ có nghĩa là bảo vệ thông tin. Vì vậy, vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ và bản quyền của các thông tin trên Web (các hình thức quảng cáo, các nhãn hiệu
  • 26. 26 thương mại, các cơ sở dữ liệu, các nội dung tài liệu truyền gửi qua mạng) là một vấn đề đáng quan tâm. f. Bảo vệ người tiêu dùng Trên Internet, thông tin về hàng hóa đều là thông tin số hóa, nói giản đơn là người mua không có điều kiện nếm thử hay dùng thử hàng trước khi mua, khả năng rơi vào một thị trường mà tại thị trường ấy, người bán không có cách nào để thuyết phục người mua về chất lượng của cùng một loại hàng hóa. Chưa kể tới khả năng bị nhầm lẫn các cơ sở dữ liệu, bị lừa gạt bởi các thông tin và các tổ chức phi pháp có mặt trên mạng. g. Tác động văn hóa xã hội của Internet Tác động của văn hóa xã hội của Internet đang là một mối quan tâm quốc tế, vì hàng loạt tác động tiêu cực của nó đã xuất hiện: một "hòm thư" giao dịch các tệ nạn; các phim ảnh xấu; các hướng dẫn làm bom thư; các loại tuyên truyền kích động bạo lực trên Internet đã trở thành một phương tiện thuận lợi cho các lực lượng chống đối sử dụng để tuyên truyền, kích động lật đổ chính phủ và gây rối loạn trật tự xã hội. 1.1.2.3. Một số chỉ tiêu liên quan khi đánh giá, thống kê mức độ phát triển Internet Internet đã có ảnh hưởng lớn đối với xã hội và kinh doanh trong hiện tại và tương lai. Tuy vậy, những lợi ích phổ biến mà nó mang lại, cho đến nay vẫn còn thiếu những số liệu để đánh giá về sự phát triển của Internet, cách đánh giá về số lượng, chất lượng của thông tin. Để đánh giá mức độ phát triển dịch vụ Internet thì cần phải có các chỉ số mang tính chuẩn mực. Dưới đây là một số chỉ tiêu cơ bản để đánh giá: a. Chỉ số cơ sở hạ tầng Chỉ số cơ sở hạ tầng là các chỉ số về thiết bị cần dùng cho việc truy nhập Internet. Nó bao gồm:
  • 27. 27 - Máy chủ (host): Số lượng máy chủ hoặc chỉ số về số lượng máy chủ trên đầu người là chỉ số thông thường nhất để so sánh sự phát triển Internet. Chỉ số máy chủ có thể là hữu ích khi nói về lượng máy tính trong một quốc gia, song nó không nói được nhiều về khả năng truy nhập, vì nó không đo được số người sử dụng (user). - Điện thoại và máy tính cá nhân: đường điện thoại và máy tính cá nhân là các bộ phận quan trọng để truy nhập Internet. Cả hai đều có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển Internet trong một nước. Quốc gia nào có số lượng máy tính và điện thoại nhiều thì mức độ phát triển Internet cao hơn. b. Chỉ số truy nhập: Nhóm chỉ tiêu này đo mức độ truy nhập Internet, bao gồm các chỉ tiêu sau: - Người sử dụng: Số người sử dụng dịch vụ Internet là cách đánh giá cơ bản và toàn diện về truy nhập Internet. Việc thực hiện thống kê số lượng người sử dụng được thực hiện bởi nhiều đơn vị khác nhau như nhà cung cấp dịch vụ (ISP) hoặc các trung tâm thông tin mạng. - Số lượng thuê bao: Số lượng thuê bao Internet (account) là một chỉ số truy nhập chính xác hơn số lượng người sử dụng Internet. Số lượng thuê bao cũng nói lên cường độ sử dụng nhất định. - Độ bao phủ: Là chỉ số phản ánh mức độ dễ dàng truy nhập Internet, bất kể họ có sử dụng hay không. Chỉ số này biểu thị tiềm năng thị trường người sử dụng và là số đo cơ bản mức độ phổ cập truy nhập Internet. c. Chỉ số về chính sách Đây là nhóm chỉ số quan trọng về phương diện phân tích chính sách -Số lượng ISP: Một thị trường có nhiều ISP tham gia về lý thuyết sẽ gây áp lực giá cả và do đó mở rộng khả năng truy nhập. Số lượng ISP trong một nước thường được lấy làm một chỉ số về tự do hóa thị trường.
  • 28. 28 -Cước phí: Cước phí dịch vụ Internet là một chỉ số quan trọng về khả năng truy nhập vì nếu người dân không thể chi cho Internet thì họ sẽ không sử dụng. -Lưu lượng: Lưu lượng Internet đo việc sử dụng. Lưu lượng sử dụng ít có thể phản ánh các vấn đề về khả năng thanh toán, hoặc việc thiếu kiến thức trong sử dụng của khách hàng. Trên đây là một số chỉ tiêu khi đánh giá mức độ phát triển dịch vụ Internet cần phải tham khảo tới. Khi phân tích vấn đề dựa vào những mục tiêu phân tích khác nhau, người ta dùng những chỉ số khác nhau, hoặc sử dụng tổng hợp các chỉ số. 1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển Internet ở Việt Nam Internet ở Việt Nam được bắt đầu manh nha từ hệ thống email do nhóm các nhà khoa học của Viện công nghệ thông tin thiết lập và sau sự kiện đăng ký tên miền Việt Nam chính thức có tên trên bản đồ công nghệ thế giới, đến ngày 19/12/1996 Việt Nam tham gia hòa mạng Internet toàn cầu. Về chính sách lần đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII họp bàn về quyết định cho phép mở Internet ở Việt Nam. Ngay sau đó Việt Nam đã ban hành Nghị định 21/CP ngày 05/03/1997 "qui định tạm thời về quản lý Internet" tạo lập cơ sở hành lang pháp lý nền móng cho các hoạt động Internet tại Việt Nam. Ngày 19/11/1997, dịch vụ Internet Việt Nam kết nối với thế giới. Tuy nhiên lúc đó, Internet là một công nghệ mang đậm chất kỹ thuật và rất đắt đỏ, nó được xem là dịch vụ cao cấp chỉ dành cho những người thu nhập cao, cán bộ cao cấp hoặc doanh nghiệp lớn. Đến nay, dịch vụ Internet đã có mặt trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Mạng thông tin toàn cầu đã trở thành dịch vụ không thể thiếu, ảnh hưởng sâu rộng tới thói quen, sinh hoạt, giải trí của một bộ phận người dân Việt Nam. Về hạ tầng mạng, ban đầu, hạ tầng Internet Việt Nam chỉ là một hệ thống thiết bị nhỏ, được một đối tác của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông
  • 29. 29 Việt Nam viết tắt là VNPT (nay là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam) lúc bấy giờ đảm nhiệm. Năm 2002, để tạo động lực cạnh tranh, nhà nước không còn cho phép VNPT độc quyền khai thác hạ tầng kỹ thuật và cho phép thành lập các IXP (các nhà cung cấp dịch vụ kết nối Internet) khác. Quy định này đã làm thị trường Internet Việt Nam có sự đột phá mới. Giá cước ngày càng rẻ. Thủ tục ngày càng đơn giản. Cụ thể: Năm 2003, với các quyết định của cơ quan quản lý nhà nước cho giảm cước truy cập sử dụng Internet ngang với các quốc gia trong khu vực, thậm chí có khung cước còn rẻ hơn, đồng thời cho phép các doanh nghiệp tự mình áp dụng các chính sách quản lý và ấn định mức cước, số khách hàng thuê bao của các ISP tăng đột biến: VNPT tăng 258%, SPT - 255%, NetNam - 227%, Viettel - 184% và FPT - 174%. Tháng 5-2003, dịch vụ Internet băng thông rộng, gọi tắt là ADSL, được tung ra thị trường. Ngay từ buổi ban đầu, dịch vụ này luôn trong tình trạng cung không đủ cầu. Các nhà cung cấp lắp đặt cáp tới đâu, khách hàng đăng ký tới đó. Có nhiều khu vực, dù chưa có cáp nhưng đã có khách hàng đăng ký "chờ". Sau 5 tháng triển khai, số khách thuê bao dịch vụ ADSL của VNPT và FPT đã đạt đến gần 20.000; sau một năm, số khách thuê bao đã tăng lên đến 71.000 và hiện nay đã lên tới gần 30 triệu người [43]. Nhờ công nghệ ADSL, dịch vụ nội dung trên môi trường mạng phong phú hơn thuở ban đầu rất nhiều. Nhiều dịch vụ cao cấp hơn như VoIP, Wi-Fi, các dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng (chat, trò chơi trực tuyến, blog...) ngày càng sôi động. Nhưng quan trọng hơn là khi băng thông lớn, tốc độ truy cập nhanh, Internet Việt Nam đã có sự phát triển đột biến. Bên cạnh các tờ báo điện tử lớn như Vietnamnet, Vnexpress,... các trang web thông tin của các
  • 30. 30 báo, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đều phát triển rất mạnh. Đây không chỉ là nơi cung cấp thông tin cho người đọc mà còn là nơi trao đổi kinh nghiệm, là diễn đàn mở về nhiều lĩnh vực trong cuộc sống của con người trong môi trường ảo Đến năm 2007, "so với 10 năm trước tốc độ truy cập Internet tăng tới 7.500 lần, từ kết nối 2 Mbps đi Mỹ và Úc trước đây mở rộng thành mạng lưới tổng băng thông 10,5 Gbps đi nhiều nước khác nhau. Số người sử dụng lên tới 18 triệu, chiếm 21% dân số cả nước" [39] Sau hơn 10 năm, Internet đã trở thành một bộ phận cơ sở hạ tầng quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội đất nước. Việt Nam trở thành một điểm sáng trên bản đồ phát triển Internet trên thế giới. Qua qua lịch sử hình thành và phát triển trên ta có thể thấy sự phát triển nhanh chóng của Internet tại Việt Nam. 1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT DỊCH VỤ INTERNET Dịch vụ Internet sau một thời gian chuẩn bị đã được chính thức cung cấp vào tháng 12/1997. Trong hơn 10 năm, Việt Nam đã có những chính sách để phát triển Internet phù hợp với mỗi giai đoạn. Ban đầu cho VNPT (doanh nghiệp nhà nước) cung cấp độc quyền, thế thượng phong này bị phá vỡ khi nhà nước "cởi trói" cho hàng loạt các doanh nghiệp như FPT, Viettel, SPT, Netnam và EVN Telecom tham gia vào thị trường này. Cuộc cạnh tranh nội bộ đã mở ra một tương lai sáng cho Internet Việt Nam. Trên thế giới, quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra một cách mạnh mẽ, nó lôi cuốn các quốc gia, các ngành, các lĩnh vực tham gia cuộc chơi chung. Trong xu thế này, Việt Nam đã ký kết Hiệp định thương mại Việt Mỹ và BTA năm 2003 và đã chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO tháng 12/2006. Đây chính là cơ hội đồng thời cũng là thách thức cho
  • 31. 31 các doanh nghiệp Việt Nam trong hợp tác phát triển kinh tế nói chung và lĩnh vực Internet nói riêng khi có sự gia nhập của các nhà đầu tư nước ngoài khi các cam kết Quốc tế của Việt Nam liên quan đến ngành viễn thông bắt đầu có hiệu lực. 1.2.1. Nhân tố thuộc môi trường quốc tế Với lộ trình mở cửa viễn thông theo bối cảnh nêu trên, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông và các doanh nghiệp viễn thông khác trong nước sẽ phải đối mặt với cạnh tranh có yếu tố nước ngoài. Đầu tiên, các công ty Hoa Kỳ và các công ty nước ngoài khác thuộc lĩnh vực Viễn thông sẽ thâm nhập vào thị trường viễn thông Việt Nam bằng nhiều cách như thành lập công ty liên doanh, hoặc hợp tác kinh doanh (BCC) với các nhà khai thác viễn thông Việt Nam bao gồm cả nhà khai thác viễn thông chủ đạo như VNPT và các nhà khai thác mới như SPT, VIETEL, Hanoi Telecom, VP Telecom. Sau nữa theo lộ trình cam kết khi gia nhập WTO, chính phủ Việt Nam phải cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được tham gia sâu hơn nữa vào thị trường viễn thông Việt Nam như cho phép Công ty 100% vốn nước ngoài hay chi nhánh công ty nước ngoài được phép hoạt động trong lĩnh vực viễn thông tại Việt Nam. Như vậy, doanh nghiệp viễn thông Việt Nam sẽ vừa phải cạnh tranh với các nhà khai thác viễn thông liên doanh, liên kết nước ngoài vừa phải cạnh tranh với chính các nhà khai thác nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một lộ trình và chính phủ phải có chính sách phù hợp với yêu cầu của quá trình hội nhập để tận dụng được các lợi ích, đồng thời hạn chế đến mức tối đa các xáo trộn hay thiệt hại khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế theo các lộ trình đã cam kết. 1.2.2. Nhân tố thuộc môi trường trong nước Các nhân tố ảnh hưởng tới dịch vụ Internet theo nghiên cứu thị trường Việt Nam:
  • 32. 32 a. Xu hướng tiêu dùng của khách hàng sử dụng dịch vụ Internet - Lựa chọn đầu tiên là Internet tốc độ cao - Mong muốn sử dụng nhiều dịch vụ, tiện ích giải trí mới trên mạng - Sử dụng nhiều dịch vụ trên cùng một kết nối, một nhà cung cấp - Tiếp tục gia tăng nhu cầu sử dụng Internet công cộng và Internet tại các khu tập trung. - Thị trường bắt đầu chuyển dịch về khu vực lân cận thành phố, thị trấn thị xã. b. Xu hướng công nghệ - Dịch vụ nội dung và GTGT (giá trị gia tăng) trên mạng phát triển - Mạng Wi-Fi có xu hướng bùng nổ, triển khai mở rộng tại nơi công cộng - Băng rộng không dây thế hệ mới được triển khai mạnh hơn (Wimax, EVDO) c. Xu hướng nhà cung cấp - Đẩy mạnh đầu tư phát triển và nâng cấp hệ thống, tăng nhanh thị phần - Mở rộng kênh bán hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đăng ký, đẩy nhanh thời gian cung cấp dịch vụ. - Tổ chức khuyến mại liên tiếp trong năm nhằm lôi kéo khách hàng - Triển khai các dịch vụ giá trị gia tăng đi kèm, tạo sự hấp dẫn, tối đa khai thác nhu cầu của khách hàng 1.2.3. Nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp - Nhân tố con người Nhân tố con người tác động đến mạnh lên hàng hóa, dịch vụ thông qua các yếu tố năng suất lao động, sự sáng tạo, ý thức chấp hành kỷ luật, thái
  • 33. 33 độ phục vụ khách hàng và ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất - Khả năng tài chính Cũng như bất kì lĩnh vực kinh doanh nào, một doanh nghiệp nếu có tiềm lực tài chính lớn sẽ có thuận lợi trong việc nắm bắt cơ hội kinh doanh, thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao giá trị của hàng hóa, dịch vụ như đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị để đảm bảo, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành hay tăng cường quảng cáo và xúc tiến bán hàng... để khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, củng cố vị trí của mình trên thị trường. - Sự phù hợp của công nghệ: Tình trạng, trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Đó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến chất lượng, năng suất sản xuất cũng như giá thành và giá bán sản phẩm, dịch vụ. Một doanh nghiệp có công nghệ phù hợp sẽ có một lợi thế lớn so với các đối thủ khác do có chi phí sản xuất thấp, chất lượng hàng hóa cao, mẫu mã đẹp. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ bị bất lợi khi họ chỉ có công nghiệp lạc hậu. - Chiến lược kinh doanh: Mục tiêu đề ra của doanh nghiệp không chỉ là tăng lợi nhuận mà còn phải tìm một chỗ đứng thích hợp nhưng vững chắc trong thị trường, đặc biệt khi càng ngày càng có nhiều đối thủ tham gia thị trường, mạnh hơn, năng động hơn và được sự hỗ trợ rất nhiều của khoa học công nghệ hiện đại. Để có được kết quả khả quan trong môi trường kinh doanh gay gắt đó thì doanh nghiệp phải thực hiện tốt các công tác nghiên cứu, đánh giá tổng quát thị trường; phân tích khả năng của doanh nghiệp; lựa chọn và phân đoạn thị trường nước ngoài, tìm hiểu các đối thủ với những chiến lược Marketing và
  • 34. 34 chiến lược thị trường Quốc tế nhằm cụ thể hóa định hướng hoạt động và phát triển cho doanh nghiệp nhằm mục đích khai thác lợi thế và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. - Uy tín của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có uy tín với khách hàng thì đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đó có được lợi thế trong kinh doanh trong lĩnh vực sản phẩm, dịch vụ của mình. Uy tín doanh nghiệp được xây dựng dựa trên chất lượng, giá trị sử dụng của sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng, thời gian giao hàng, giá trị sử dụng của sản phẩm, quy mô của doanh nghiệp. - Sức ép tăng trưởng - tái cơ cấu doanh nghiệp VNPT đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thành lập Tập đoàn Bưu chính Viễn thông năm 2006 đã tạo ra bước phát triển mới cho ngành Bưu chính viễn thông. Từ doanh nghiệp nhà nước với các công ty thành viên hạch toán phục thuộc nay đã trở thành tập đoàn đa ngành nghề theo mô hình hoạt động công ty mẹ và các công ty con. 1.2.4. Nhân tố quản lý nhà nước Internet bắt đầu vào Việt Nam từ 1997, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã có đường lối và chính sách khá "mở" cho quản lý dịch vụ Internet. Chính sách này được thể hiện ở hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật của Nhà nước điều chỉnh việc quản lý các hoạt động liên quan đến lĩnh vực viễn thông và Internet. Chính sách này có các mục tiêu cụ thể như sau: - Đảm bảo tự do Internet, khuyến khích sử dụng Internet để phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; hỗ trợ cải cách hành chính; nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Khuyến khích việc ứng dụng Internet trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội để nâng cao năng suất lao động; mở rộng các hoạt động thương mại; hỗ trợ cải cách hành chính, tăng tiện ích xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và bảo đảm an ninh, quốc phòng.
  • 35. 35 Chính nhờ đó, qua hơn mười năm hình thành và phát triển dịch vụ Internet ở Việt Nam, trình độ phát triển và tốc độ đăng ký sử dụng Internet tại Việt Nam đã tăng nhanh, đạt mức tương đương nhiều nước ở khu vực. Hiện nay Internet đã hình thành mạng lưới cung cấp dịch vụ phủ khắp các tỉnh, thành phố. Việt Nam đã và đang thực hiện kế hoạch phát triển các điểm nối mạng Internet tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Theo đánh giá của tổ chức Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), Việt Nam là nước có tốc độ phát triển Internet nhanh nhất thế giới. - Nhà nước Việt Nam chủ trương khuyến khích phát triển và sử dụng trang thông tin điện tử cá nhân. Khuyến khích khả năng tương tác trên môi trường Internet để trao đổi, chia sẻ các thông tin; làm phong phú thêm đời sống xã hội và tinh thần gắn kết cộng đồng. Số người tham gia các diễn đàn trên mạng ngày càng nhiều, hiện ở Việt Nam đã có khoảng trên 1,1 triệu người viết nhật ký cá nhân trên mạng (blog). - Tạo mọi điều kiện ưu tiên, hình thành môi trường thuận lợi để Việt Nam trở thành địa điểm đầu tư hấp dẫn và tin cậy của các đối tác quốc tế, đặc biệt là các tập đoàn ICT lớn. Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế, các hình thức đầu tư nước ngoài, kể cả hình thức 100% vốn nước ngoài tham gia phát triển công nghiệp ICT. - Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh - sử dụng internet. Tiếp tục gia tăng giấy phép IXP, ISP, IXP, OSP. - Đưa số lượng người dùng Internet tại Việt năm tính trên 100 dân bằng mức trung bình trên thế giới đến 2010. Tuy nhiên nếu so sánh với mức thu nhập trung bình trên thế giới thì chi phí cho sử dụng Internet tại Việt Nam vẫn còn cao. Như vậy có thể nói Việt Nam đã có những chính sách cơ bản và quan trọng về môi trường pháp lý với mục tiêu thành lập một ngành viễn thông
  • 36. 36 mạnh mẽ điều này lần lượt sẽ là nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế trong ngành viễn thông và các doanh nghiệp có khả năng về công nghệ thông tin. Tuy nhiên quá trình cải cách của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện. Nhiều cơ chế, chính sách còn chưa được ban hành kịp thời, phù hợp với tốc độ và nhu cầu phát triển công nghệ và thị trường. Về tính minh bạch trong quản lý, cơ quan quản lý hiện nay không thực sự đạt được những chuẩn mực quốc tế về độc lập, điều này tác động tới việc cấp phép, kết nối không phân biệt đối xử và bù chéo về giá cước. 1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ INTERNET 1.3.1. Mối quan hệ giữa pháp luật và Internet Pháp luật hình thành và phát triển từ xa xưa trong khi Internet là sản phẩm tiên tiến của công nghệ do con người tạo ra thế kỷ thứ XVIIII. Tuy pháp luật và Internet khác biệt nhau về bản chất, quá trình hình thành và phát triển song giữa pháp luật và công nghệ nói chung và công nghệ thông tin nói riêng (và ở đây tôi đang đề cập đến một sản phẩm cụ thể của công nghệ đó là Internet) có mối liên hệ tác động qua lại với nhau, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay như các mối quan hệ cụ thể giữa pháp luật với tội phạm công nghệ cao, hay pháp luật với các hành vi lừa đảo buôn bán trên mạng, pháp luật đối với việc quản lý dịch vụ kinh doanh mạng... là các vấn đề thời sự hiện nay. Công nghệ phát triển tác động và làm thay đổi diện mạo của pháp luật, thậm chí làm thay đổi cả nền tảng của pháp luật. Với đặc thù của Công nghệ thông tin sự toàn cầu hóa, số hóa, khả năng ứng dụng từ xa của công nghệ số dẫn đến không cần cơ quan trung ương điều khiển, quản lý là đặc điểm cơ bản, quan trọng của pháp luật. Với đặc thù này, công nghệ làm mất đi cơ sở của hoạt động quản lý bằng pháp luật, hay đúng hơn là nó đặt ra yêu cầu phải xây dựng phương thức quản lý mới mà pháp luật quốc gia đã không thể đảm nhận được đó là phương thức quản lý bằng công cụ pháp luật "chung".
  • 37. 37 Công nghệ thông tin phát triển cho đến nay đã trở thành một hiện tượng xã hội quan trọng và ứng dụng Internet đang xâm chiếm các doanh nghiệp, các cơ quan hành chính và các gia đình và trong mối quan hệ giữa con người. Chính vì vậy cần có công cụ quản lý hiện tượng xã hội nảy sinh và quan trọng đang xâm chiếm hoạt động của con người đó chính là pháp luật. Pháp luật tác động lại Công nghệ thông tin bằng việc đặt ra một số qui tắc, qui định bắt buộc cho hoạt động phát triển công nghệ, nhằm một mặt bảo vệ các quyền cơ bản vốn là nền tảng của xã hội và mặt khác là bảo vệ sự cân bằng thiết yếu trong hệ thống pháp luật hiện hành đã được thiết lập trong một xã hội thông tin. Đồng thời pháp luật cũng tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc phát triển xã hội đó, đó là xã hội thông tin. Và hai vấn đề quan tâm đó được thể hiện trong nhiều qui định đặc thù trong bối cảnh phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông hiện nay mà ta sẽ xem xét và phân tích tại các chương tiếp theo của luận văn này. 1.3.2. Sự cần thiết phải xây dựng, đổi mới chính sách và pháp luật về dịch vụ Internet Trong những năm qua, sự phát triển các ứng dụng trên nền Internet đã đem lại cho mọi người dân trên thế giới những lợi ích không thể phủ nhận. Thông tin trên Internet vô cùng phong phú và đa dạng và cung cấp cho người sử dụng khắp nơi khả năng truy cập, chia sẻ dữ liệu dễ dàng khi có kết nối, tăng cường khả năng giao lưu, trao đổi thông tin giữa mọi người với nhau, thúc đẩy xã hội phát triển. Đây là xu thế phát triển chung không biên giới của thời đại khoa học - công nghệ. Vì vậy có thể nói Internet ngày càng có ảnh hưởng lớn tới đời sống của con người và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống xã hội. Tuy nhiên bên cạnh các lợi ích của Internet, mặt trái, mặt tiêu cực của Internet cũng là vấn đề nổi cộm mà các nhà chính sách, quản lý phải lưu tâm. Do đặc thù của môi trường công nghệ thông tin cho phép mọi người đều có
  • 38. 38 thể dễ dàng cung cấp thông tin ở mọi lúc, mọi nơi nên Internet cũng là môi trường thuận lợi cho các đối tượng xấu lợi dụng cung cấp những thông tin không lành mạnh, độc hại, lừa đảo và người sử dụng không phải lúc nào cũng có đủ sự tỉnh táo trong việc lựa chọn hoặc loại bỏ những thông tin này. Như việc lợi dụng Internet để thực hiện các hoạt động tiêu cực, không phù hợp với đạo lý, nhân phẩm, văn hóa truyền thống và nền văn minh hiện đại cụ thể như kinh doanh dịch vụ sex trên mạng, hay game bạo lực ảnh hưởng đến thế hệ trẻ... Vì vậy song hành cùng với các chính sách khuyến khích, phát triển Internet để tối đa hóa sử dụng các lợi ích, hiệu quả cộng hưởng mà Internet mang lại đối với xã hội và kinh doanh. Nhà nước Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới cũng phải lưu tâm tới việc quản lý lĩnh vực này để bảo vệ an ninh quốc gia, các giá trị đạo đức - thuần phong mỹ tục, bảo vệ trẻ em khỏi tác động tiêu cực của Internet, ngăn chặn các hành vi phạm pháp, thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức và danh dự của công dân... Đây là một yêu cầu tất yếu và là thực tế áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Môi trường Internet cần phải được quản lý bằng luật lệ và quy định của các chính phủ nhằm bảo vệ vấn đề bản quyền, ngăn chặn sự độc quyền và bảo vệ trẻ em khỏi những nội dung độc hại đang tồn tại trên Internet. Tuy nhiên, công tác quản lý không theo kịp những phát triển của công nghệ cùng những ứng dụng kèm theo của dịch vụ Internet. Như trò chơi trực tuyến hay còn gọi là Game online. Gần đây trên phương tiện thông tin đại chúng nói nhiều đến các trường hợp thanh thiếu niên phạm tội nghiêm trọng như giết người, cướp của để lấy tiền đi lướt "net" hay chơi game. Có trường hợp gần đây cháu giết ông để lấy tiền chơi game, hay bản thân các em bị chứng hoang tưởng do game đem lại...ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, đạo đức xã hội. Chính vì vậy cần thiết phải lưu tâm đến vấn đề xây dựng, đổi mới, điều chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật để quản lý lĩnh vực Internet. Đảm
  • 39. 39 bảo hệ thống quản lý này phù hợp với khách quan, phát triển của xã hội; trong từng giai đoạn cụ thể phải tích hợp được các giải pháp quản lý hiệu quả ngăn chặn được các tiêu cực của Internet giảm thiệt hại xã hội đồng thời phù hợp với qui ước, chuẩn mực của cộng đồng quốc tế. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Chương 1 đã đề cập và hệ thống hóa những lý luận chung nhất, cô đọng nhất về dịch vụ Internet, đưa ra các khái niệm, những đặc điểm chung của Internet, ý nghĩa và sự cần thiết của hệ thống văn bản điều chỉnh lĩnh vực này. Đây thực sự là công cụ và nền tảng cần thiết để xem xét, đánh giá, phân tích thực trạng hệ thống qui định hiện hành về Internet trong các chương sau.
  • 40. 40 Chương 2 HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN ĐIỀU CHỈNH INTERNET 2.1. HỆ THỐNG VĂN BẢN VỀ INTERNET Nguồn của pháp luật về Internet là tổng thể các nguyên tắc và qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về Internet. Nguồn của hệ thống văn bản luật điều chỉnh Internet bao gồm hai nguồn đó là nguồn từ văn bản Quốc tế (điều ước Quốc tế đa phương, song phương, văn bản kỹ thuật Quốc tế chuyên ngành) và nguồn văn bản từ trong nội bộ mỗi nước. Để hiểu được hệ thống nguồn văn bản điều chỉnh Internet trước tiên ta tìm hiểu đặc điểm sự hình thành và phát triển hệ thống văn bản điều chỉnh Internet. 2.1.1. Đặc điểm sự hình thành và phát triển hệ thống văn bản điều chỉnh Internet Do đặc tính "mở" về công nghệ, mạng Internet toàn cầu cho phép mọi người trên toàn thế giới có thể dễ dàng truy cập để khai thác thông tin, nhưng đồng thời cũng có thể cung cấp thông tin lên mạng Internet một cách không hạn chế. Với đặc tính trên mạng Internet trở thành môi trường lưu giữ thông tin đáp ứng các nhu cầu thông tin thiết yếu của con người. Hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật theo phương thức truyền thống cũng bị tác động sâu sắc bởi chính các đặc tính của công nghệ này. Trong tất cả các lĩnh vực Nhà nước áp đặt pháp luật theo thẩm quyền đã được qui định rõ trong Hiến pháp của từng quốc gia và giữ độc quyền thông qua bộ máy tư pháp của mình. Tính toàn cầu của Internet, cơ sở hạ tầng phân tán, hoạt động bằng công nghệ số không cần thiết lập trên một lãnh thổ nhất định và tính chất tương tác của Internet đã làm đảo lộn cấu trúc truyền thống của hệ thống pháp luật dựa trên chủ quyền của một quốc gia. Ngày nay, một hệ
  • 41. 41 thống thông tin được thiết lập, sử dụng và vận hành không thể tách rời khỏi mạng lưới toàn cầu là các giao thức (ICP/IP) và ứng dụng của mạng Internet. Vì vậy mạng Internet được điều tiết trong bối cảnh rộng hơn một quốc gia vì thực tế các mạng tương tác với nhau và Internet không bị giới hạn bởi biên giới quốc gia. Trong bối cảnh như vậy khó thể có cơ chế quản lý Internet bằng pháp luật quốc gia. Và thay vào đó là một hệ thống các qui chuẩn và cơ chế điều tiết theo ý chí của người thiết lập mạng và người sử dụng Internet như cơ chế điều tiết bằng kỹ thuật, bằng việc qui chuẩn hóa cơ sở hạ tầng mạng toàn cầu, bằng qui luật về giao thức... Từ đó, bên cạnh hệ thống pháp luật truyền thống, các cộng đồng mạng có thêm nhiều hệ thống qui chuẩn riêng với những nội dung, phương thức kiểm soát, cơ chế giải quyết tranh chấp, chế tài khác. Cụ thể, trong kiến trúc kỹ thuật cùng với các đặc tính của mạng (các giao thức, tiêu chuẩn giao tiếp...) tạo ra một môi trường trong đó qui định một số hành vi được phép thực hiện và các hành vi khác bị cấm để kiểm soát không gian mạng còn được gọi là qui tắc về kỹ thuật. Và các nhà lập pháp sẽ phải tính đến các qui chuẩn kỹ thuật này trong hoạt động xây dựng pháp luật về Internet. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển Internet không chỉ thâm nhập vào trong hoạt động của doanh nghiệp, cơ quan, gia đình mà còn tác động đến các giá trị văn hóa, đạo đức, mọi mặt của xã hội...do đó Nhà nước buộc phải can thiệp, một mặt để đáp ứng yêu cầu đảm bảo an ninh quốc gia, mặt khác thiết lập một môi trường pháp lý để phát triển kinh tế trên nền công nghệ gọi là thương mại điện tử. Với đặc điểm của công nghệ đã phân tích ở trên làm thay đổi diện mạo quản lý thông thường của pháp luật do đó các quốc gia phải hợp tác để thiết lập và xây dựng tổ chức quản lý mang tính chất toàn cầu, tổ chức này có chức năng điều hành mạng toàn cầu của tất các quốc gia. Và các tổ chức quốc tế là giải pháp cho vấn đề này. Năm 1992 Hiệp hội Internet ra đời, đến khi có công nghệ web thì Liên minh mạng toàn cầu - W3C được thành lập năm 1994, tiếp đó cơ quan quản lý tên miền Internet Quốc tế là ICANN
  • 42. 42 thành lập 1998...Các tổ chức này không chỉ có thẩm quyền về mặt kỹ thuật mà còn là một nguồn qui phạm dùng để định hướng ứng xử của người sử dụng Internet. 2.1.2 . Hệ thống văn bản quốc tế điều chỉnh Internet Như trên đã nói, các tổ chức toàn cầu do các nước thành lập ra không chỉ là tổ chức xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật đặc thù mà còn cả qui phạm điều tiết các quan hệ về Internet. Có thể kể ra đây các tổ chức có thẩm quyền điều tiết lĩnh vực Internet: a. Unesco Là tổ chức có thẩm quyền truyền thống trong lĩnh vực phát triển khoa học, văn hóa và giáo dục có nhiều qui phạm điều chỉnh và áp dụng trong lĩnh vực công nghệ thông tin, truyền thông. b. ISO/IEC27002 Qui chuẩn kỹ thuật về an toàn hệ thống thông tin do Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế phụ trách xây dựng c. WTO Tổ chức đảm bảo vấn đề tự do trao đổi trong thương mại quốc tế, bao gồm cả thương mại điện tử và một số thỏa thuận về dịch vụ và sản phẩm trong lĩnh vực thông tin và truyền thông. 1994 WTO soạn thảo Hiệp định TRIPS_ Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại trong đó có một số qui định về việc bảo vệ chương trình máy tính. d. UNCITRAL Ủy ban pháp luật Thương mại Quốc tế của Liên hợp quốc đã xây dựng bộ luật mẫu trong lĩnh vực thương mại điện tử gồm có Luật mẫu về chữ ký điện tử năm 2001, Luật mẫu về Thương mại điện tử năm 1996, Công ước của Liên hợp quốc về sử dụng công cụ điện tử trong việc ký kết hợp đồng quốc tế năm 2005.
  • 43. 43 e. OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế đưa ra bộ nguyên tắc chỉ đạo năm 1980 về bảo vệ dữ liệu, Nguyên tắc về an toàn các hệ thống thông tin 1992, Điều kiện chung về việc tính thế năm 1998 và định hướng về chính sách cần thực hiện nhằm bảo vệ và tăng cường sự tự chủ của người tiêu dùng trong thương mại điện tử 1999, và định hướng trong đấu tranh chống hành vi trộm cắp thông tin về danh tính cá nhân 2008. f. WIPO Tổ chức thế giới về Sở hữu trí tuệ đã đưa ra Qui chế CISAC và SECEM điều chỉnh công tác bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan và kiểm chứng của các tác thẩm trên mạng kỹ thuật số toàn cầu. g. ITU Hoạt động chính của ITU bao trùm tất cả các vấn đề thuộc lĩnh vực viễn thông. ITU có ba khu vực hoạt động chính: ITU-R liên quan đến hệ thống và thiết bị phát thanh; ITU-T: Biên soạn các quy định kỹ thuật về hệ thống, mạng và dịch vụ bưu chính - viễn thông; ITU-D: Soạn thảo những khuyến nghị, nghị quyết, hướng dẫn, sổ tay, báo cáo... Việt Nam tham gia vào hoạt động của ITU từ năm 1976. Hiện nay, Bộ Thông tin Truyền thông đang là đại diện của Việt Nam tại tổ chức này. Trong các hoạt động tiêu chuẩn hóa của ITU-T, chúng ta chỉ mới tập trung chủ yếu vào việc tham gia ở những lĩnh vực nhạy cảm và có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi quốc gia như vấn đề tính cước, thanh toán cước quốc tế (do nhóm nghiên cứu số 3 - SG3 - đảm nhiệm). Bên cạnh SG3, chúng ta đã bắt đầu tham gia các hoạt động của SG4 về tương thích điện từ (EMC). Từ năm 1996, Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam đã tham gia các khóa họp hội nghị về Tiêu chuẩn viễn thông thế giới (tổ chức 4 năm 1 lần) và từ năm 2002, tham gia nhóm Tư vấn về Tiêu chuẩn hóa viễn thông (TSAG).
  • 44. 44 Ngoài các Qui chế do các Tổ chức Quốc tế xây dựng, còn có các văn bản Quốc tế khác do các nước tự nguyện ký cam kết vì lợi ích chung, trong các văn bản này có các điểm liên quan đến lĩnh vực Công nghệ, Internet như: - Hiệp định TRIPs - Công ước Toàn cầu về bản quyền ký tại Geneva 1952 (còn gọi là Công ước Berne) - Công ước Quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất ghi âm tổ chức phát sóng (Công ước Rome 1961) - Công ước WIPO về quyền tác giả thông qua Geneva 12/1996 (Công ước WCT) - Công ước WIPO về cuộc biểu diễn và ghi âm thông qua tại Geneva ngày 20/12/1996 (Công ước WPPT) - Công ước Brussels hay còn gọi là Công ước Vệ tinh năm 1974 liên quan đến việc phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh. - Qui chế của WTO Đặc điểm chung của các Qui chế do tổ chức quốc tế xây dựng thường thuộc phạm trù « luật mềm » theo kiểu luật mẫu, hoặc các khuyến cáo, khuyến nghị...để các nước xem xét, áp dụng không có tính chất ép buộc. Các qui chế do tổ chức đa Quốc gia xây dựng, đưa ra vẫn tồn tại các qui định có sự chồng lấn lẫn nhau như vấn đề sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền của WIPO nhưng qui chế của WTO hay UNESCO cũng được đề cập. 2.1.3. Hệ thống văn bản điều chỉnh Internet của Việt Nam Thời điểm 1997 khi dịch vụ Internet có mặt tại Việt Nam: - Qui chế tạm thời về quản lý, thiết lập sử dụng mạng Internet ở Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 21/CP ngày 05/3/1997 của Chính phủ.
  • 45. 45 - Thông tư liên tịch nội vụ, văn hóa - thông tin và Tổng cục Bưu điện hướng dẫn việc cấp phép kết nối, cung cấp và sử dụng Internet ở Việt Nam. - Qui định về cấp phép cung cấp thông tin lên mạng Internet ban hành kèm theo Quyết định số 1110/BC ngày 21/5/1997 của Bộ Văn hóa - Thông tin. Cùng với hơn 10 năm hình thành và phát triển của Internet, Việt Nam ban hành nhiều văn bản điều chỉnh lĩnh vực này. Danh mục sau: - Nghị định 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet ban hành 23/8/2001. - Thông tư số 04/2001/TT-TCBĐ của Tổng cục Bưu điện về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet, và dịch vụ kết nối; - Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông số 43/2002/PL-UBTVQH10 đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X thông qua ngày 25/02/2002, có hiệu lực từ ngày 01/10/2002; - Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT ngày 10 tháng 10 năm 2002 của Bộ Văn hóa - Thông tin về việc ban hành Quy chế quản lý và cấp giấy phép cung cấp thông tin, thiết lập trang tin điện tử trên Internet. - Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg ngày 8/2/2002 phê duyệt "kế hoạch phát triển Internet VN" - Quyết định số 217/2003/QĐ-TTg ngày 27/10/2003 của Thủ tướng Chính phủ về "quản lý giá và cước bưu chính viễn thông". - Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA (A11) về đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động quản lý, sử dụng internet tại Việt Nam... - Nghị định số 160/2004/NĐ-CP ngày 3/9/2004 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông. Đến thời điểm này hệ thống các văn bản hiện đang điều chỉnh các hoạt động liên quan đến lĩnh vực này bao gồm:
  • 46. 46 a. Hệ thống văn bản liên quan - Luật Báo chí - Luật Công nghệ thông tin - Luật Công nghệ cao - Luật tần số vô tuyến điện - Luật giao dịch điện tử - Luật sở hữu trí tuệ - Pháp luật về xuất bản - Pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước - Pháp luật về bản quyền - Pháp luật về quảng cáo - Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 Qui định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện - Nghị định 63/2007/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công nghệ thông tin - Nghị định số 90/2008/NĐ-CP về chống Thư rác - Nghị định số 03/2000/CP ngày 03/2/2000 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp b. Hệ thống văn bản điều chỉnh trực tiếp - Luật Viễn thông - Nghị định số 25/2011/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật Viễn thông - Nghị định số 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet
  • 47. 47 - Thông tư 14/2010/TT-BTTTT qui định chi tiết một số điều của Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet - Thông tư số 07/2008/TT-BTTTT hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cung cấp thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân và thông tin điện tử trên Internet. - Thông tư 09/2008/TT-BTTTT ngày 24/12/2008 về quản lý, cung cấp và sử dụng tài nguyên Internet - Nghị định số 28/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet - Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BBCVT-BVHTT-BCA-BKHĐT về quản lý đại lý Internet - Thông tư liên tịch số 60/2006/TTLT-BVHTT-BCVT-BCA (Thông tư 60) về quản lý trò chơi trực tuyến Ngoài ra, chính phủ Việt Nam còn ban hành các văn bản, quyết định mang tính kế hoạch, chiến lược như sau: - Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai đoạn 2001-2005 - Quyết định số 32/2006/QĐ-TTg ngày 07/02/2006 phê duyệt Qui hoạch phát triển viễn thông và Internet Việt Nam đến năm 2010 - Quyết định số 158/2001/QĐ-TTg ngày 18/10/2001 về phê duyệt "Chiến lược phát triển Bưu chính, Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến 2020". - Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 1/6/2009 Phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020
  • 48. 48 - Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 Phê duyệt chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 - Chỉ thị 07/CT-BBCVT ngày 7/7/2007 Về Định hướng Chiến lược phát triển Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (gọi tắt là "Chiến lược Cất cánh") - Quyết định số: 1755/QĐ-TTg ngày 22 tháng 09 năm 2010 phê duyệt đề án "Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về Công nghệ thông tin và Truyền thông". Bên cạnh đó còn một hệ thống các cơ chế, chính sách và văn bản khác của Bộ Bưu chính, Viễn thông và các văn bản liên tịch giữa Bộ Bưu chính, Viễn thông và các Bộ Ngành liên quan điều chỉnh chuyên ngành, và các văn bản thuộc các Tỉnh, Thành phố địa phương ban hành quản lý dịch vụ Internet tại địa phương như Quyết định số 15/2010/QĐ-UBND ngày 26/4/2010 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội qui định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet tại các đại lý Interrnet trên địa bàn thành phố Hà Nội. 2.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG HỆ THỐNG VĂN BẢN ĐIỀU CHỈNH INTERNET CỦA VIỆT NAM 2.2.1. Đối với nhu cầu khách quan Trong hơn nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, Nhà nước Việt Nam đã ban hành một khối lượng rất lớn các văn bản pháp luật để điều hành và quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước bằng pháp luật là một nguyên tắc rất quan trọng và đã được thể hiện trong Hiến pháp Việt Nam - đạo luật cơ bản của Nhà nước. Lĩnh vực Internet cũng không nằm ngoài qui luật và nguyên tắc trên. Trên thế giới, Internet được sử dụng từ thập niên 1980. Ở Việt Nam, đến thập niên 1990 Internet mới được biết đến và đến cuối năm 1999 Internet mới chính thức đi vào sử dụng khi Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt
  • 49. 49 Nam (nay là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam) khai trương ra mắt dịch vụ Internet và kết nối với mạng thế giới vào ngày 19 tháng 11 năm 1999. Trong lĩnh vực pháp luật, để "đón đầu" sự kiện trên cũng như thiết lập trước hành lang pháp lý để quản lý lĩnh vực này từ tháng 3 năm 1997 Chính phủ Việt Nam đã ban hành Qui chế tạm thời về quản lý, thiết lập sử dụng mạng Internet ở Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 21/CP ngày 05/3/1997 của Chính phủ. Đó là các văn bản đầu tiên của nhà nước quản lý lĩnh vực Internet. Và từ đó cho đến nay, trong quá trình phát triển của dịch vụ Internet, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp lý để quản lý lĩnh vực này đáp ứng yêu cầu quản lý thực tế, điều này có thể thấy rõ tại phần 2.1.3 của luận văn này mục hệ thống các văn bản của Việt Nam điều chỉnh Internet. Các văn bản tập trung điều chỉnh ba vấn đề lớn thuộc lĩnh vực Internet đó là việc quản lý, cung cấp và sử dụng Internet; việc cấp phép điều chỉnh hoạt động thuộc lĩnh vực báo chí cụ thể là báo điện tử, và các trang website thông tin điện tử và trò chơi trực tuyến gameonline và các văn bản liên quan đến định hướng phát triển Internet Việt Nam. Nhìn chung, Việt Nam đã ban hành được một hệ thống các văn bản điều chỉnh quan hệ Internet tương đối đầy đủ và phù hợp với khách quan. Tuy nhiên, theo qui luật của cuộc sống, xã hội luôn luôn phát triển, các vấn đề xã hội hàng ngày nảy sinh các nhân tố mới đòi hỏi văn bản pháp luật phải đáp ứng và điều chỉnh kịp thời, do đó các cơ quan chuyên môn quản lý lĩnh vực Internet vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý thông tin trên Internet đáp ứng yêu cầu thực tế cuộc sống đặt ra, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này, đồng thời hoàn thiện thêm những vấn đề lý thuyết cũng như quy trình kỹ thuật thông qua việc rà soát, hệ thống hóa văn bản pháp luật về Internet sẽ có tác dụng rất lớn, hỗ trợ cho hoạt động quản lý lĩnh vực này trong tương lai.
  • 50. 50 2.2.2. Đối với yêu cầu quản lý kinh tế và xã hội Từ khi xuất hiện cho tới nay Internet ngày càng có những ảnh hưởng và tác động lớn làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế và xã hội. Về kinh tế, khi có Internet, xuất hiện ngành kinh tế mới như Thương mại điện tử, việc mua bán, giao dịch không theo phương thức truyền thống mà chọn hàng, giao dịch, mua bán, trả tiền đều trên mạng thông qua việc số hóa thông tin, người mua và người bán không cần gặp mặt nhau, dù cách xa nhau về địa lý. Internet kéo theo nhiều dịch vụ ra đời như dịch vụ tư vấn, thiết kế và duy trì website, dịch vụ và phần mềm máy tính, dịch vụ mua, bán tên miền, dịch vụ thuê chỗ đặt máy chủ trên mạng, dịch vụ chứng thực điện tử (dịch vụ đảm bảo an toàn và bảo mật thông tin trên đường truyền), kinh doanh, quảng cáo trên mạng... Về xã hội, Internet ảnh hưởng vô cùng to lớn, ngày nay hiếm thấy người không sử dụng đến máy tính và Internet, đọc báo, sách điện tử trên mạng, tìm kiếm thông tin, mua bán, học hành trên mạng... Qua bài viết về câu chuyện của một người "ăn mày" tại Pháp được đăng trên báo điện tử mới đây ta có thể thấy con người trong xã hội hiện nay có thể không có nhà cửa nhưng không thể thiếu máy tính và kết nối mạng Internet. Ông tâm sự như sau trên mạng facebook của mình: Tôi vô gia cư, nhưng tôi sở hữu một chiếc iPad và netbook MSI Wind u130. Đây là những công cụ không thể thiếu. Thực tế, không có nhà không phải là vấn đề quá to tát hiện nay, khả năng kết nối với thế giới mới là điều quan trọng. Tôi dùng laptop để viết sách trong công viên, gọi điện Skype, Google Voice, viết ứng dụng cho iPad, cập nhật thông tin và trao đổi mua bán, liên lạc với mọi người qua Wifi miễn phí, kiếm tiền qua dịch vụ quảng cáo Google Ads, một số công việc trên web, viết lách tự do. Thiếu laptop, sao tôi có thể làm được những điều như thế? Bởi mọi thứ tôi có đều nhờ Internet, tôi thực sự không cần một ngôi nhà [1].
  • 51. 51 Tuy nhiên đồng hành với các vai trò tích cực của Internet đối với đời sống kinh tế xã hội. Có rất nhiều mặt tiêu cực, rủi ro, tệ nạn xã hội nảy sinh đòi hỏi sự quản lý của cơ quan nhà nước. Trong lĩnh vực kinh tế, xuất hiện các tội phạm công nghệ cao, buôn bán lừa đảo qua mạng... Về xã hội, báo động các hiện tượng băng hoại đạo đức của thế hệ trẻ, do gameonline, phim ảnh đồi trụy, kích động bạo lực của Internet tác động. Nhà nước Việt Nam đã ban hành các văn bản "đón đầu" để quản lý Internet ngay từ khi Internet có mặt tại Việt Nam năm 1997 và cho đến nay đã có một hệ thống văn bản điều tiết, quản lý lĩnh vực này. Quản lý chung có Luật Công nghệ, Luật bảo vệ bí mật, Luật sở hữu trí tuệ... Đối với mảng kinh tế, đã ban hành Luật giao dịch Thương mại điện tử, các văn bản dưới luật như Nghị định, thông tư quản lý việc cung cấp, sử dụng Internet, thông tin điện tử Internet...Đối với các mặt tiêu cực của Internet đối với xã hội như gameonline, trang điện tử cá nhân (facebook) trên Internet văn bản quản lý và điều chỉnh mảng này hiện nay là thông tư 60/2006/TTLT-BVHTT-BCVT-BCA (Thông tư 60) về quản lý trò chơi trực tuyến hay thông tư số 07/2008/TT-BTTTT hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cung cấp thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân và thông tin điện tử trên Internet. Ngoài ra còn rất nhiều các văn bản khác điều chỉnh lĩnh vực này. Có thể nói, hệ thống văn bản pháp luật ra đời có mục tiêu quản lý đưa mọi hoạt động xã hội đi trong hành lang pháp lý qui chuẩn. Tuy nhiên các văn bản mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không phù hợp với tình hình phát triển của xã hội cũng còn nhiều. Như vấn đề quản lý gameonline thông tư 60/2006/TTLT-BVHTT-BCVT-BCA (Thông tư 60) về quản lý trò chơi trực tuyến hiện nay đã bộc lộ nhiều qui định bất hợp lý, không phù hợp thực tế. 2.2.3. Đối với sự phát triển của cộng đồng mạng toàn cầu Internet ngày nay được sử dụng phổ biến và sâu rộng đến người dân. Internet có mặt trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đặc biệt đối với giới trẻ hầu như không thể thiếu Internet trong hoạt động hàng ngày từ giải trí, tư
  • 52. 52 vấn, bày tỏ tình cảm, tìm kiếm thông tin, tìm việc, kinh doanh, mua bán....tất cả đều được thực hiện thông qua Internet. Với ảnh hưởng to lớn trên mọi phương diện đời sống xã hội vậy, Internet được ví như xã hội thứ hai, xã hội đó được gọi là thế giới ảo, cộng động trong xã hội đó được gọi là các cư dân mạng hay cộng đồng mạng toàn cầu. Cũng giống bất kỳ xã hội nào, xã hội ảo, cộng đồng mạng toàn cầu này cũng cần có sự quản lý của nhà nước. Để quản lý xã hội ảo, cộng đồng mạng toàn cầu này, pháp luật Việt Nam đã ban hành các văn bản không những quản lý mà còn đáp ứng được mỗi giai đoạn phát triển của xã hội này. Điểm lại các mốc phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam về lĩnh vực Internet: Ngay khi Internet xuất hiện nhà nước Việt Nam đã xây dựng và ban hành "Qui chế tạm thời về quản lý, thiết lập sử dụng mạng Internet » ban hành kèm theo Nghị định 21/CP ngày 05/3/1997 của Chính phủ để điều chỉnh lĩnh vực mới mẻ song rất phát triển này. Được gọi tên là "Qui định tạm thời" song cũng phải mất 4 năm Nghị định 21/CP năm 1997 mới được thay thế bằng Nghị định số 55/2001/NĐ-CP về "Quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet", Nghị định 55/2001/NĐ-CP có các qui phạm quản lý lĩnh vực Internet chi tiết, toàn diện hơn Nghị định 21/CP. Tuy nhiên do Internet phát triển với tốc độ nhanh sau một thời gian Nghị định 55/2001/NĐ-CP lộ các điểm hạn chế, không còn phù hợp với thực tế và để quản lý đồng thời khuyến khích các điểm tích cực của lĩnh vực này cho xã hội cùng với nhu cầu quản lý cộng đồng mạng của Nhà nước, nên Nghị định 55/2001 được thay thế bằng Nghị định số 97/2008/NĐ-CP về "Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet". Để hướng dẫn Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet, Việt Nam còn ban hành các Thông tư hướng dẫn nghị định đi kèm như Thông tư số 14/2010/TT- BTTTT qui định chi tiết một số điều của Nghị định 97/2008/NĐ-CP; Thông tư số 07/2008/TT-BTTTT hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cung cấp thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân và thông tin điện tử trên Internet.
  • 53. 53 Sau 3 năm triển khai, thực hiện Nghị định 97/2008/NĐ-CP số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet (được cấp phép) tăng gấp 5 lần, băng thông quốc tế tăng 9 lần, băng thông trong nước tăng 8 lần. Việt Nam là một trong hai mươi nước có số người sử dụng Internet cao nhất thế giới [28]. Internet Việt Nam thực hiện tốt vai trò ngành kinh tế mũi nhọn, giá cước dịch vụ tiếp tục giảm, góp phần giữ vững an ninh quốc gia và ổn định kinh tế xã hội. Tuy nhiên để xem xét khía cạnh qui chuẩn của xã hội toàn cầu thì hiện nay văn bản số 97/2008/NĐ-CP qui định "xã hội ảo" tại Việt Nam còn hẹp chưa đáp ứng được cộng đồng mạng thế giới. Cách hiểu về mạng xã hội được quy định chính thức trong văn bản 97/2008/NĐ-CP khi chỉ khoanh vùng ở blog, chat và forum trong khi đó cách hiểu của cộng đồng mạng trên thế giới mạng xã hội hay mạng xã hội ảo (social network) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian qua những tính năng như chat, e-mail, phim ảnh, voice chat, chia sẻ file, blog và xã luận. Không chỉ xây dựng và ban hành văn bản qui phạm điều chỉnh, quản lý xã hội ảo, hệ thống văn bản qui phạm Việt Nam còn xây dựng ban hành văn bản qui định về cấp phép hay còn gọi là cấp cơ sở hạ tầng của xã hội này và văn bản xử phạt khi vi phạm lĩnh vực này như Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT Bộ Văn hóa Thông tin về quản lý và cấp phép cung cấp thông tin, thiết lập trang thông tin điện tử trên Internet; Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA về đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động quản lý, sử dụng internet tại Việt Nam; Nghị định số 28/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet. 2.2.4. Đối với yêu cầu của các nước trong cộng đồng quốc tế Internet ngày nay đã trở thành một trong các mối quan tâm của cộng đồng Quốc tế. Điều này được minh chứng bằng việc Internet là một trong các lĩnh vực mà các nước, tổ chức quốc tế là thành viên của Liên hiệp quốc phải
  • 54. 54 báo cáo việc thực thi của nước mình tại "báo cáo quốc gia UPR" trong các phiên họp về Cơ chế kiểm điểm định kỳ (UPR) của Hội đồng Nhân quyền HRW. Cộng đồng Quốc tế yêu cầu lĩnh vực Internet cũng phải đảm bảo được tự do giống như vấn đề về quyền tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, tự do hội họp Qui định tại Điều 19 Công ước Quyền Dân sự - Chính trị. Nói đến tự do Internet cũng phải nói đến các vấn đề trực tiếp liên quan đến lĩnh vực Internet hay nói đúng hơn Internet là ngọn nguồn sinh ra lĩnh vực đó như báo chí mạng, và blog, facebook. Cộng đồng Quốc tế quan tâm tới lĩnh vực chính là Internet và cả các lĩnh vực phái sinh của Internet. Việt Nam là thành viên của Liên hiệp Quốc, do đó Việt Nam cũng phải đánh giá và báo cáo việc thực thi Internet tại Việt Nam trong "báo cáo Quốc gia UPR". Tại "báo cáo Quốc gia UPR" phiên gần đây nhất Việt Nam báo cáo tình hình thực thi về Internet tại Việt Nam như sau: a. Về chính sách Nhà nước Việt Nam có chính sách khuyến khích sử dụng Internet để phục vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, hỗ trợ cải cách hành chính và để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Điều này được Việt Nam không chỉ chứng minh thực tế bằng các con số ấn tượng mà chính sách này còn được cụ thể hóa trong văn bản pháp luật tại Điều 5, Nghị định 55/2001/NĐ-CP ngày 28/2/2008 và Điều 4 Nghị định 97/2007/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet. Trình độ phát triển và tốc độ đăng ký sử dụng Internet tại Việt Nam đã tăng nhanh và đạt mức tương đương nhiều nước ở khu vực sau 10 năm. Hiện nay Internet đã hình thành mạng lưới cung cấp dịch vụ trên 63/63 tỉnh, thành phố. Số người sử dụng dịch vụ Internet "tính đến cuối tháng 2-2012 đã có hơn 30,8 triệu người Việt Nam sử dụng internet, chiếm gần 35,3% dân số. Trong giai đoạn 2000-2010, tỷ lệ tăng trưởng người sử dụng internet ở Việt Nam đạt hơn 12%/năm" [42].
  • 55. 55 b. Về dịch vụ Ngày 01/12/1997, Việt Nam chính thức kết nối Internet toàn cầu. Và chỉ 6 năm sau, năm 2003, dịch vụ Internet băng rộng ADSL (là dịch vụ Internet tốc độ cao) tại Việt Nam đã được cung cấp rộng rãi trên toàn quốc với thương hiệu MegaVNN. Chỉ hơn 10 năm sau khi kết nối Internet toàn cầu, Việt Nam đã trở thành một điểm sáng trên bản đồ phát triển Internet thế giới. Việt Nam hiện đang đạt tốc độ kết nối Internet nhanh nhất khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 3 Châu Á với 374KBps. Năm 2011, Ban Tổ chức Giải thưởng Băng rộng thế giới (Broadband Infovision Awards) - một trong những giải thưởng uy tín hàng đầu trong lĩnh vực băng rộng đã trao giải "Băng rộng thay đổi cuộc sống" cho Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đơn vị tại Việt Nam cung cấp dịch vụ. Giải thưởng đã thêm một lần nữa ghi danh Việt Nam trên bản đồ công nghệ thông tin thế giới nhờ những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam nói chung và VNPT nói riêng trong việc phát triển mạng băng rộng tại Việt Nam. c. Về lĩnh vực báo chí mạng, blog, facebook Báo chí Việt Nam là diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân, là công cụ bảo vệ lợi ích của xã hội và các quyền tự do của nhân dân, là lực lượng quan trọng trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước. Mọi người dân có quyền đề đạt nguyện vọng, phát biểu và đóng góp ý kiến trên tất cả các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trước khi có Internet, báo viết thống trị diễn đàn ngôn luận của Việt Nam, từ khi có Internet chưa bao giờ báo chí lại có nhiều phương tiện để truyền tải thông tin cũng như quyền tự do ngôn luận của nhân dân được phát huy tối đa như hiện nay. Báo mạng hay báo điện tử giờ chiếm thị phần chủ yếu trong lĩnh vực báo chí. Ngoài ra Luật báo chí hiện hành của Việt Nam quy định các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp được phép ra báo và sở hữu báo chí. Trên thực tế, Nhà nước Việt Nam đã cho phép nhiều doanh nghiệp sở hữu các phương tiện truyền thông, báo chí và truyền hình hoặc tham gia vào nhiều
  • 56. 56 công đoạn trong quy trình hoạt động báo chí như các tập đoàn kinh tế như Tập đoàn Bưu chính-Viễn thông (VNPT), FPT, Tập đoàn Dầu khí, Truyền hình Cáp Việt Nam (VTC)… đã sở hữu báo in, báo điện tử và đài truyền hình. Các trang thông tin điện tử cá nhân (blog; facebook): Với chủ trương khuyến khích phát triển và sử dụng trang thông tin điện tử cá nhân. Việt Nam xây dựng và ban hành Nghị định của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet. Nghị định 97/2008/NĐ-CP về "Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet" được ban hành gần đây nhất và hiện đang có hiệu lực thi hành cùng hướng dẫn sử dụng thi hành Nghị định là Thông tư 07 của Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành ngày 18-12-2008 đã đưa ra các qui định nêu rõ mục đích của việc khuyến khích phát triển việc sử dụng trang tin điện tử cá nhân nhằm giúp mở rộng khả năng tương tác trên môi trường Internet để trao đổi, chia sẻ các thông tin làm phong phú thêm đời sống xã hội và tinh thần gắn kết cộng đồng. Bằng chứng là số người tham gia các diễn đàn trên mạng ngày càng nhiều, hiện ở Việt Nam đã có khoảng 1,1 triệu người viết nhật ký cá nhân trên mạng. d. Về kinh doanh và xã hội Nhà nước Việt Nam có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh - sử dụng Internet, cụ thể Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet của Việt Nam hiện đang có hiệu lực thi hành khuyến khích các loại hình doanh nghiệp, cung cấp dịch vụ Internet. Điều 7 Nghị định qui định "doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo pháp luật Việt Nam để cung cấp dịch vụ Internet cho công cộng". Bên cạnh cho phép các loại hình doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet, Nghị định còn qui định mở rộng hơn về hệ thống đại lý cung cấp dịch vụ Internet tới người dân. Song song với chính sách rộng mở về kinh doanh Internet, nhà nước Việt Nam xây dựng và ban hành các quy định để bảo vệ an ninh quốc gia, các
  • 57. 57 giá trị đạo đức - thuần phong mỹ tục, bảo vệ trẻ em khỏi tác động tiêu cực của Internet, ngăn chặn các hành vi phạm pháp, thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức và danh dự của công dân. Việc xây dựng các qui phạm mang tính chất quản lý ngăn chặn, bảo vệ với các tiêu cực của Internet sinh ra là một yêu cầu tất yếu và là thực tế áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Việt Nam cũng phải ngoại lệ, tuy nhiên đôi khi việc hiểu nhầm về chính sách của nhà nước của cộng đồng thế giới cũng xảy ra như năm 2010 khi Việt Nam ban hành Thông tư 14/2010/TT-BTTTT qui định chi tiết một số điều của Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet, đã có luồng thông tin (nhận định của Công ty Internet Google) cho rằng chính phủ Việt Nam đang tìm cách ngăn chặn dân chúng tiếp cận các trang mạng và theo dõi các hoạt động của người sử dụng Internet với qui định bắt buộc tất cả các địa điểm dịch vụ Internet và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ web từ khi Thông tư 14/2010/TT-BTTTT có hiệu lực cho đến năm 2011 phải cài đặt một phần mềm đặc biệt vào các máy chủ. Phát ngôn viên của Công ty Internet Google phát biểu trên các hãng thông tấn AP và AFD cho rằng với qui định này những người sử dụng Internet tại Hà Nội sẽ không thể truy cập vào một số trang web khi lên mạng tại các quán cà phê Internet công cộng và nếu quy định này nới rộng ra ngoài địa bàn Hà Nội, thì cũng có nghĩa là các giới hạn không rõ ràng và thiếu minh bạch sẽ được áp đặt lên toàn bộ cộng đồng mạng và cho đây là hành động ngăn cản sự truy cập thông tin của người dân, đồng thời cho rằng quy định này là một ví dụ gây quan ngại về hành động của chính phủ Việt Nam đe dọa quyền tự do bày tỏ quan điểm trên mạng và đe dọa mạng lưới thông tin mở. Song song với việc xây dựng các qui chế về lĩnh vực Internet tại Việt Nam phù hợp với yêu cầu của cộng đồng mạng các nước trên thế giới, Việt Nam cũng đã tham gia ký kết các văn bản quốc tế về lĩnh vực này như gia nhập Biểu cam kết cụ thể về thương mại dịch vụ gia nhập WTO, Hiệp định TRIPs về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền Sở hữu trí tuệ
  • 58. 58 năm 1994 trong khuôn khổ các văn kiện của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hay công ước Công ước Toàn cầu về bản quyền ký tại Geneva 1952 (còn gọi là Công ước Berne), Công ước Geneve 1971 bảo hộ nhà xuất bản, ghi âm chống việc sao chép không được phép, Công ước Quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất ghi âm tổ chức phát sóng (Công ước Rome 1961) Công ước WIPO về quyền tác giả, biểu diễn và ghi âm và Công ước Brussels hay còn gọi là Công ước Vệ tinh năm 1974 liên quan đến việc phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh... Nhìn chung với đặc điểm đặc thù của hệ thống qui phạm quản lý, điều tiết lĩnh vực Internet vừa phải tương thích với qui định chung của cộng đồng mạng Thế giới vừa phải đảm bảo việc quản lý theo chủ quyền quốc gia như đã xem xét và phân tích tại mục một của chương này, nếu hệ thống pháp luật không có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ thì không thể có kết quả thực tế khả quan. Đánh giá toàn bộ lĩnh vực Internet thì Việt Nam là nước được cộng đồng thế giới đánh giá tốt như đánh giá của tổ chức Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), Việt Nam là nước có tốc độ phát triển Internet nhanh nhất thế giới. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Như vậy, nội dung Chương 2 đã hệ thống lại toàn bộ các qui chế, văn bản điều chỉnh về lĩnh vực Internet của cộng đồng mạng trên Thế giới cũng như các văn bản của Việt Nam đã và đang điều chỉnh lĩnh vực Internet, đồng thời phân tích và chỉ ra các đặc điểm hình thành và phát triển của hệ thống qui phạm điều chỉnh về Internet. Bên cạnh đó Chương 2 đã đánh giá về toàn bộ hệ thống Pháp luật Việt Nam đang điều chỉnh lĩnh vực Internet trên bốn phương diện lớn là đối với nhu cầu khách quan, đối với yêu cầu về quản lý kinh tế, xã hội tại Việt Nam và đối với yêu cầu của cộng đồng mạng toàn cầu và cộng đồng các quốc gia trên thế giới.
  • 59. 59 Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN INTERNET VIỆT NAM THEO XU HƯỚNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ 3.1. VĂN BẢN HIỆN ĐANG ĐIỀU CHỈNH INTERNET CỦA VIỆT NAM Trong hệ thống văn bản điều chỉnh về Internet hiện nay của Việt Nam, Nghị định 97/2008/NĐ-CP của Chính phủ về "Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet" là văn bản hiện đang có hiệu lực, có tính chất điều chỉnh trực tiếp, bao trùm về lĩnh vực Internet. Chính vì vậy có thể nói Nghị định 97/2008/NĐ-CP phản ánh thực trạng công tác quản lý điều hành về dịch vụ Internet tại Việt Nam. Nói cách khác việc xem xét, phân tích Nghị định 97/2008/NĐ-CP với hiện trạng quản lý Internet ở Việt Nam là hai mặt trong một vấn đề. 3.1.1. Những mặt tích cực 3.1.1.1. Những nhân tố cho sự ra đời Nghị định 97/2008/NĐ-CP Nghị định 97/2008/NĐ-CP (NĐ 97) "Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tư điện tử trên Internet" được xây dựng, soạn thảo từ tháng 6/2007 với sự phối hợp của các Bộ ngành lúc đó là Bộ công an, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa Thông tin và Bộ Bưu chính Viễn thông và Văn phòng Chính phủ và được ban hành ngày 28/8/2008. NĐ97 ra đời thay thế cho Nghị định 55/2001/NĐ-CP (NĐ55) "Quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Interrnet" được chính phủ ban hành ngày 23/8/2001 khi đó đã bộc lộ nhiều điểm lỗi thời. Cụ thể: - Nghị định 55 được ban hành trước khi có Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông và Luật Công nghệ thông tin nên có một số các khái niệm và nội dung của Nghị định không đồng nhất thậm chí có qui định còn trái ngược với Luật và Pháp lệnh (Qui định về sở hữu nhà nước đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối IXP).
  • 60. 60 - Nghị định 97 có các nội dung qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet (lấp khoảng trống cho Nghị định 55 trước đây chủ yếu tập trung điều chỉnh các hoạt động liên quan đến hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ dẫn đến việc triển khai trên thực tế về quản lý thông tin điện tử trên Internet gặp nhiều khó khăn, bất cập). - Cùng với thời gian, thị trường và công nghệ phát triển dẫn đến một số nội dung của Nghị định 55 không còn phù hợp với thực tế và thông lệ Quốc tế dẫn đến cản trở việc phát triển mạng lưới và dịch vụ Internet như qui định việc phân loại doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet có quá nhiều loại hình doanh nghiệp IXP, ISP, OSP, ICP dẫn đến qui trình, thủ tục cấp phép phức tạp, gây khó khăn cho các doanh nghiệp muốn tham gia thị trường, thêm gánh nặng cho các cơ quan quản lý nhà nước; hoặc như qui định về kết nối Nghị định 55 không cho phép doanh nghiệp ISP kết nối trực tiếp đi quốc tế mà phải thông qua doanh nghiệp IXP làm cho chất lượng dịch vụ giảm đi, chi phí tăng cao. - Ngoài ra còn một yếu tố dẫn đến việc cần thiết ban hành Nghị định mới để quản lý dịch vụ Internet thay cho Nghị định 55 do việc tổ chức lại bộ máy quản lý nhà nước dẫn đến việc thay đổi về cơ bản phân công nhiệm vụ quản lý nhà nước về Internet giữa các Bộ, ngành. Bộ Thông tin Truyền thông được phê chuẩn thành lập bởi thủ tướng tại Quốc hội khóa XII (5/2007) trên cơ sở sát nhập Bộ Bưu chính Viễn thông và Cục Báo chí và Cục Xuất bản Bộ Văn hóa Thông tin cũ, ngoài chức năng quản lý nhà nước về bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông được giao bổ sung thêm chức năng quản lý nhà nước về báo chí và xuất bản, trong đó có cả phần thông tin điện tử trên Internet. Từ những nguyên nhân trên dẫn đến sự cần thiết phải xây dựng Nghị định mới thay thế và khắc phục những hạn chế của Nghị định 55 để thúc đẩy sự phát triển của Internet Việt Nam trong giai đoạn mới.
  • 61. 61 3.1.1.2. Nguyên tắc xây dựng Nghị định Trước khi bắt đầu việc soạn thảo xây dựng bất kỳ văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực nhà soạn thảo phải có chủ trương, đường lối, chính sách cũng như nguyên tắc làm kim chỉ nam dẫn đường. Nghị định 97 được xây dựng, soạn thảo trên các nguyên tắc sau: - Nghị định mới xây dựng phải đảm bảo sự phù hợp với các qui định cả các văn bản qui phạm pháp luật khác Luật công nghệ thông tin, Luật báo chí, Luật Xuất bản, Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông, Nghị định 160/2004/NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông - Nghị định xây dựng trên nguyên tắc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và đảm bảo lợi ích tối đa cho người sử dụng dịch vụ mà vẫn đảm bảo được yêu cầu quản lý nhà nước. - Tham khảo, đối chiếu với luật pháp và kinh nghiệm triển khai của các nước trên thế giới, đảm bảo qui định phù hợp với thông lệ quốc tế, với các qui định hiện hành của pháp luật Việt Nam, với đặc thù kinh tế, xã hội và tình hình phát triển của Việt Nam. - Cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, đơn giản hóa và minh bạch hóa thủ tục hành chính để giảm phiền hà cho doanh nghiệp, người dân và gánh nặng cho các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực cấp phép các dịch vụ Internet - Cố gắng chi tiết tối đa các qui định nhằm Nghị định triển khai đi vào thực tế, hạn chế phải ban hành thêm các văn bản hướng dẫn dưới Nghị định. 3.1.1.3. Những nội dung, sửa đổi quan trọng của Nghị định a. Cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia cung cấp tất cả các loại hình dịch vụ Internet Như chương 1 đã nêu, dịch vụ Internet về tổng quan có ba loại hình bao gồm dịch vụ kết nối, dịch vụ truy nhập và dịch vụ ứng dụng. Nghị định
  • 62. 62 97 qui định doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tham gia cung cấp cả ba loại hình trên tại khoản 9 Điều 3 và khoản 1 Điều 7, miễn là doanh nghiệp đó được thành lập, đăng ký phù hợp với pháp luật của Việt Nam. Nội dung này "mở" hơn rất nhiều so với Nghị định 55. Nghị định 55 qui định tương ứng với ba loại hình dịch vụ Internet là ba loại hình doanh nghiệp gồm doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối (IXP), doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy nhập (ISP) và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ứng dụng (OSP). Nghị định qui định mọi thành phần kinh tế có thể được làm dịch vụ truy nhập (ISP) và dịch vụ ứng dụng Internet (OSP), riêng dịch vụ kết nối (IXP) chỉ có doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp mà nhà nước chiếm cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt mới được thực hiện. Điều này không phù hợp với qui định tại Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông, theo đó doanh nghiệp cung cấp dịch vụ IXP không phải là doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng và do đó không nhất thiết phải là doanh nghiệp nhà nước hoặc Nhà nước giữ cổ phần chi phối. b. Thúc đẩy phát triển Internet băng rộng Nghị định 97 qui định tại điểm a khoản 2 điều 10 buộc các doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng viễn thông phải có trách nhiệm cung cấp đường truyền dẫn viễn thông và phân tách mạch vòng nội hạt kịp thời, đầy đủ khi có yêu cầu của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet. Qui định này tiến bộ hơn Nghị định 55, Nghị định 55 không qui định cụ thể và chưa có chế tài bắt buộc đối với doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng viễn thông trong việc cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet thuê kênh truyền dẫn và chia sẻ hạ tầng mạng lưới viễn thông, các đường thuê bao. Dẫn đến các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet không có hạ tầng mạng đã gặp không ít khó khăn trong việc triển khai cung cấp dịch vụ truy nhập Internet tốc độ cao (xDSL). c. Tạo điều kiện nâng cao chất lượng và giảm chi phí cung cấp dịch vụ Nghị định 55 qui định các doanh nghiệp ISP và OSP Viễn thông không được trực tiếp thuê kênh kết nối Internet quốc tế mà phải thông qua các
  • 63. 63 IXP. Chính sách này đã làm giảm chất lượng và tăng chi phí cung cấp dịch vụ đối với các doanh nghiệp Internet. Nhằm thúc đẩy Internet phát triển, tạo điều kiện nâng cao chất lượng và giảm giá thành dịch vụ Internet, Nghị định 97 qui định mọi doanh nghiệp Internet đều có quyền thuê kênh để trực tiếp kết nối với Internet Quốc tế và với các trạm trung chuyển Internet (điểm b khoản 2 Điều 7 và khoản 1, 2 Điều 16). Ngoài ra để nâng cao chất lượng dịch vụ và đảm bảo an toàn thông tin của toàn bộ mạng lưới Internet Việt Nam thì Nghị định 97 cũng chính thức qui định việc thành lập trạm trung chuyển Internet Quốc gia (VNIX) thuộc Trung tâm Internet Việt Nam để trung chuyển lưu lượng Internet trong nước trên phạm vi toàn quốc để tránh việc lưu lượng Internet trong nước lại phải đi vòng ra nước ngoài (khoản 3, Điều 16) d. Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc cấp phép So với Nghị định 55, Nghị định 97 đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc cấp phép rất nhiều. Cụ thể: Nghị định 55 qui định việc cung cấp các dịch vụ kết nối Internet, truy nhập Internet và ứng dụng Internet trong viễn thông cần phải có giấy phép của Tổng cục Bưu điện (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông). Nghị định cũng qui định có ba loại hình giấy phép tương ứng với ba loại hình dịch vụ trên. Như vậy nếu một doanh nghiệp muốn cung cấp cả 3 loại hình dịch vụ, sẽ phải làm ba bộ hồ sơ, qua ba lần thẩm định. Nghị định 55 cũng qui định đoàn kiểm tra liên ngành Viễn thông - Công an sẽ tiến hành kiểm tra thực tế hệ thống thiết bị của doanh nghiệp trước khi doanh nghiệp chính thức cung cấp dịch vụ và doanh nghiệp chỉ được chính thức cung cấp dịch vụ khi có văn bản cho phép của Tổng cục Bưu điện. Để đơn giản hóa thủ tục hành chính, Nghị định 97 đã qui định chỉ có một loại hình doanh nghiệp gọi là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet (ISP) có thể cung cấp một, hai hoặc cả ba loại hình dịch vụ Internet là dịch vụ truy nhập (ISP), kết nối (IXP) và ứng dụng (OSP) tùy thuộc vào yêu cầu của
  • 64. 64 doanh nghiệp và chỉ cần một giấy phép (khoản 1 Điều 7 và khoản 1 Điều 3). Đồng thời, Nghị định 97 đã bỏ qui định về kiểm tra liên ngành và văn bản cho phép chính thức cung cấp dịch vụ của Tổng cục Bưu điện. Thay vào đó, doanh nghiệp chỉ cần thông báo thời điểm bắt đầu chính thức và kế hoạch triển khai cung cấp dịch vụ cho Bộ Thông tin Truyền thông và Bộ Công an trước khi cung cấp dịch vụ bằng văn bản hay thông qua môi trường mạng (điểm k khoản 2 Điều 7). Với các qui định này các cơ quan nhà nước vẫn thực hiện được công tác quản lý doanh nghiệp nhưng hình thức quản lý nhà nước theo dạng tiền kiểm tra trước đây được thay thế bằng hình thức hậu kiểm tra và để các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của mình. e. Tạo điều kiện và tăng cường quản lý đại lý Internet Trong những năm qua, đại lý Internet đã góp phần quan trọng trong việc phổ cập dịch vụ Internet đến mọi người dân, kể cả ở vùng sâu, vùng xa, nhất là trong điều kiện Việt Nam khi thu nhập của người dân còn thấp, không phải gia đình nào cũng có thể lắp đặt máy tính kết nối Internet. Bên cạnh những ưu điểm của loại hình cung cấp dịch vụ này, trong thời gian gần đây tình trạng người sử dụng đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên truy cập nhiều vào các thông tin độc hại trên Internet hoặc bỏ học để chơi trò chơi trực tuyến tại các đại lý Internet là một vấn đề nóng bỏng, gây lo lắng và bức xúc trong gia đình và xã hội. Để khắc phục tình trạng trên, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong thời gian đó các Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Văn hóa Thông tin, Bộ Công An và Bộ Kế hoạch Đầu tư đã ban hành thông tư liên tịch về quản lý đại lý Internet, Thông tư số 02/2005/TTLT-BCVT-VHTT- CA-KHĐT ngày 14/7/2005. Tuy nhiên, Thông tư 02 chỉ là giải pháp tình thế trong khi chưa bổ sung, sửa đổi được Nghị định 55. Vì theo qui định của pháp luật các điều kiện kinh doanh cần được qui định ở văn bản qui phạm pháp luật của Chính phủ mới phù hợp. Mặt khác, sau một thời gian triển khai, một số qui định tại Thông tư số 02 cũng có nhiều bất cập và thiếu khả thi. Do đó khi Nghị định 97 được xây dựng, Thông tư 02 đã được sửa đổi bổ sung và đưa
  • 65. 65 các qui định về điều kiện kinh doanh Đại lý Internet vào Nghị định 97 trên nguyên tắc phù hợp với qui định của Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại và Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông f. Tăng cường quản lý và thúc đẩy phát triển nội dung thông tin điện tử trên Internet Nghị định 55 đưa ra một khái niệm đơn vị cung cấp thông tin trên Internet (ICP) khá chung chung và theo Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT ban hành qui chế quản lý và cấp giấy phép cung cấp thông tin, thiết lập trang tin điện tử trên Internet ngày 10/10/2002 của Bộ Văn hóa thông tin trước đây hướng dẫn Nghị định 55 thì ICP và mọi trang thông tin trên Internet của các tổ chức, doanh nghiệp đều phải cấp phép. Các qui định về quản lý thông tin như Nghị định 55 và các văn bản hướng dẫn đã làm cho công tác quản lý thông tin trên Internet không khả thi và gây nhiều bất cập cho việc quản lý và phát triển ngành công nghiệp nội dung số. Nghị định 97 đã loại bỏ khái niệm về Đơn vị cung cấp thông tin trên Internet (ICP) mà thay vào đó là phân loại và qui định về việc quản lý đối với từng loại hình thông tin điện tử cụ thể tại Điều 19 qui định:  Các cơ quan báo chí có yêu cầu và đủ điều kiện theo qui định tại Luật báo chí được cấp giấy phép hoạt động báo điện tử theo qui định.  Các tổ chức thiết lập trang thông tin điện tử để đưa hoặc trao đổi thông tin tổng hợp về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội phải có giấy phép do Bộ thông tin và Truyền thông cấp và phải tuân theo các qui định về báo chí, xuất bản, các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet  Các doanh nghiệp thiết lập trang thông tin điện tử để cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến phải đăng ký với Bộ Thông tin và Truyền thông và tuân theo các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet  Các tổ chức thiết lập trang thông tin điện tử để cung cấp dịch vụ ứng dụng chuyên ngành trên Internet trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
  • 66. 66 hội thực hiện theo các qui định của pháp luật chuyên ngành và các qui định có liên quan tại Nghị định này  Tổ chức, cá nhân thiết lập các trang thông tin điện tử không thuộc các đối tượng nằm trong các qui định nêu trên thì không cần giấy phép và không cần phải đăng ký nhưng phải tuân theo các qui định tại Nghị định này và các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet. Như vậy Nghị định 97 đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp Internet và các tổ chức, cá nhân có nhu cầu cung cấp nội dung thông tin điện tử đặc biệt việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, phù hợp với chủ trương của Nhà nước và các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. 3.1.1.4. Những nội dung cơ bản của Nghị định Nghị định 97 gồm có 6 chương với 26 Điều được phân bổ như sau: - Chương I là qui định chung từ Điều 1 đến Điều 6 về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, chính sách quản lý và phát triển Internet, các hành vi nghiêm cấm... - Chương II qui định các bên tham gia cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet từ Điều 7 đến Điều 12 qui định về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet. - Chương III qui định quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet từ Điều 13 đến Điều 18 qui định về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet. - Chương IV là các qui định về quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin điện tử trên Internet từ Điều 19 đến Điều 22 qui định về quản lý, cung cấp và sử dụng thông tin điện tử trên Internet. - Chương V qui định về các điều khoản thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm gồm 3 điều từ Điều 23 đến Điều 25 qui định về việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm.
  • 67. 67 - Chương VI qui định về hiệu lực và trách nhiệm thi hành Nghị định gồm 1 điều. Những nội dung cơ bản của Nghị định: - Về định hướng chính sách quản lý và phát triển Internet của nhà nước: Nhà nước khuyến khích việc ứng dụng Internet trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội để nâng cao năng suất lao động; mở rộng các hoạt động thương mại; hỗ trợ cải cách hành chính, tăng tiện ích xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và bảo đảm an ninh quốc phòng. Đồng thời, thúc đẩy việc ứng dụng Internet trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, trường học, bệnh viện, các cơ sở nghiên cứu và đưa Internet đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo. Nhà nước khuyến khích tăng cường đưa thông tin tiếng Việt lên mạng Internet. Tên miền quốc gia ".vn", địa chỉ Internet và số hiệu mạng Internet do Việt Nam quản lý là một phần của tài nguyên thông tin quốc gia, cần phải được quản lý, khai thác, sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Khuyến khích và tạo điều kiện để sử dụng rộng rãi tên miền quốc gia ".vn" và thế hệ địa chỉ Internet IPv6. Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền đăng ký và sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam và các tên miền quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp và sử dụng Internet. Có biện pháp để bảo vệ trẻ em khỏi tác động tiêu cực của Internet. - Quyền hạn và nghĩa vụ của các bên tham gia cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet: + Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet (ISP): là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo pháp luật Việt Nam để cung cấp dịch vụ Internet cho công cộng. Theo đó, không hạn chế đối tượng muốn trở thành doanh nghiệp doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet (tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đều được cung cấp dịch vụ Internet công cộng).
  • 68. 68  Doanh nghiệp có quyền từ chối hoặc tạm ngừng, ngừng cung cấp dịch vụ trong một số trường hợp như: Người sử dụng dịch vụ Internet vi phạm pháp luật về Internet; không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cước sử dụng...; thiết bị truy cập đầu cuối Internet gây mất an toàn cho hệ thống thiết bị Internet, cho doanh nghiệp cung cấp và người sử dụng Internet...  Thiết lập hệ thống thiết bị Internet tại cơ sở và tại các điểm cung cấp dịch vụ công cộng củ doanh nghiệp để cung cấp dịch vụ Internet theo qui định của giấy phép.  Thuê đường truyền dẫn viễn thông của các doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng đã được cấp phép để thiết lập mạng lưới thiết bị Internet của doanh nghiệp, kết nối trực tiếp với Internet Quốc tế và cung cấp dịch vụ đến đại lý, người sử dụng dịch vụ Internet  Giao kết hợp đồng (mẫu hợp đồng do doanh nghiệp xây dựng, ban hành trên cơ sở pháp luật về hợp đồng) cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet với người sử dụng dịch vụ và ký hợp đồng đại lý Internet với các tổ chức, và cá nhân.  Được sử dụng tài nguyên internet theo qui hoạch và qui định về quản lý tài nguyên. Được triển khai các thiết bị và phương án kỹ thuật, nghiệp vụ đảm bảo an toàn an ninh thông tin. + Đại lý Internet: là tổ chức, cá nhân tại Việt Nam nhân danh doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet để cung cấp dịch vụ truy nhập Internet, dịch vụ ứng dụng Internet trong viễn thông cho người sử dụng thông qua hợp đồng đại lý và hưởng thù lao. Trong đó lưu ý, các tổ chức, cá nhân là chủ khách sạn, nhà hàng, văn phòng, sân bay... khi cung cấp dịch vụ Internet cho người sử dụng không thu cước dịch vụ trong phạm vi các địa điểm nói trên đều phải ký hợp đồng đại lý với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet và thực hiện đầy đủ các quy định về đại lý, trừ các quy định liên quan đến giá cước đối với người sử dụng dịch vụ.  Về điều kiện kinh doanh đại lý Internet. Nghị định qui định, đại lý phải có địa điểm và mặt bằng bảo đảm quy định, tiêu chuẩn về phòng cháy,
  • 69. 69 chữa cháy; vệ sinh môi trường; phải đăng ký kinh doanh và ký hợp đồng đại lý với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet; phải niêm yết nội quy sử dụng dịch vụ Internet tại địa điểm kinh doanh. + Doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng: là doanh nghiệp viễn thông được cấp phép thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ viễn thông theo qui định của pháp luật. Trong hoạt động cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet doanh nghiệp có các quyền và nghĩa vụ sau:  Cung cấp đường truyền dẫn viễn thông và phân tách mạch vòng nội hạt đầy đủ, kịp thời khi có yêu cầu của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet trên cơ sở hợp đồng giao kết giữa các bên, trong các điều kiện công bằng và hợp lý, để đảm bảo kịp thời việc triển khai cung cấp các dịch vụ Internet, dịch vụ băng rộng  Không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet là đơn vị thành viên của mình với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet khác  Phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet trong công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin và điều tra, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động Internet + Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến: là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo pháp luật để cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến công cộng. Doanh nghiệp có trách nhiệm:  Xây dựng qui chế cung cấp, sử dụng và trao đổi thông tin phù hợp với các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet tại Nghị định 97  Thực hiện ngăn chặn, loại bỏ các nội dung thông tin vi phạm qui định của pháp luật khi phát hiện hoặc theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. + Chủ mạng Internet dùng riêng: là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam thiết lập mạng Internet dùng riêng theo quy định. Thành viên
  • 70. 70 của mạng là thành viên của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng. Tư cách thành viên được xác định theo điều lệ hoạt động, văn bản quy định cơ cấu, tổ chức, bộ máy của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đó hoặc các quy định pháp lý liên quan khác. Chủ mạng Internet dùng riêng có các quyền và nghĩa vụ sau:  Thiết lập hệ thống thiết bị Internet tại các địa điểm mà mình được quyền sử dụng theo qui định của pháp luật để cung cấp dịch vụ Internet cho các thành viên của mạng:  Thuê hoặc xây dựng đường truyền dẫn viễn thông để thiết lập mạng Internet dùng riêng và kết nối trực tiếp với Internet quốc tế;  Thực hiện các qui định về cấp phép, kết nối, tiêu chuẩn, chất lượng, giá cước, an toàn, an ninh thông tin, tài nguyên Internet.  Thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước huy động trong trường hợp khẩn cấp và các nhiệm vụ công ích khác. + Người sử dụng Internet: là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet hoặc với đại lý Internet để sử dụng dịch vụ có quyền và nghĩa vụ sau  Sử dụng các dịch vụ Internet trừ các dịch vụ bị cấm theo qui định của pháp luật  Chịu trách nhiệm vè nội dung thông tin do mình post lên, lưu trữ và truyền đi trên Internet theo qui định của pháp luật  Bảo vệ mật khẩu, mã khóa, thông tin cá nhân trên hệ thống thiết bị và chấp hành qui định về an toàn, an ninh thông tin  Không được kinh doanh lại dịch vụ hay cung cấp dịch vụ cho công cộng - Qui định về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet + Cấp phép cung cấp dịch vụ Internet: Các doanh nghiệp được cung cấp dịch vụ Internet cho công cộng sau khi có Giấy phép cung cấp dịch vụ do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp.
  • 71. 71 Các mạng Internet dùng riêng phải có Giấy phép thiết lập mạng do Bộ Thông tin Truyền thông cấp:  Mạng Internet dùng riêng có đường truyền tự xây dựng  Mạng Internet dùng riêng mà thành viên của mạng là cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập, hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, có cùng tính chất hoạt động hay mục đích công việc và được liên kết với nhau thông qua điều lệ hoạt động hoặc văn bản qui định cơ cấu tổ chức chung hoặc hình thức liên kết, hoạt động chung giữa các thành viên Ngoài các mạng Internet dùng riêng qui định (tại khoản 1 Điều 14) nêu trên, các mạng Internet dùng riêng khác không cần phải có Giấy phép thiết lập mạng nhưng phải tuân theo các qui định của pháp luật về kết nối, tiêu chuẩn, giá cước, chất lượng, tài nguyên Internet và an toàn, an ninh thông tin. Các nguyên tắc, điều kiện, thủ tục cấp, sửa đổi, bổ sung, gia hạn và thu hồi Giấy phép cung cấp dịch vụ Internet công cộng và thiết lập mạng Internet dùng riêng thực hiện theo các qui định tại các Điều 36, 40, 41 và điều 36, 44,45 của Nghị định số 160/2004/NĐ-CP ngày 03/09/2004 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông. + Điều kiện kinh doanh đại lý Internet: Kinh doanh đại lý Internet là dạng kinh doanh có điều kiện. Đại lý Internet muốn kinh doanh, cung cấp dịch vụ cho công cộng phải đáp ứng các điều kiện sau:  Có địa điểm và mặt bằng bảo đảm các qui định, tiêu chuẩn về phòng cháy, chữa cháy, vệ sinh môi trường để đảm bảo và bảo vệ an toàn, sức khỏe cho người sử dụng dịch vụ.  Đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật về doanh nghiệp  Ký hợp đồng đại lý với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet sau khi đã hoàn thành thủ tục đăng ký kinh doanh
  • 72. 72  Có hệ thống thiết bị Internet đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo an toàn, an ninh thông tin theo qui định  Niêm yết nội qui sử dụng dịch vụ tại địa điểm kinh doanh. Nội qui phải ghi đầy đủ nội dung về các điều cấm và quyền nghĩa vụ của người sử dụng Internet đã qui định tại điều 6 và Điều 12 của Nghị định 97. + Các qui định về kết nối: Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet được thuê đường truyền dẫn của các doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng để kết nối trực tiếp đi quốc tế; trực tiếp kết nối với nhau; kết nối với các trạm trung chuyển Internet Các mạng Internet dùng riêng được xây dựng hoặc thuê đường truyền dẫn của các doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng để kết nối trực tiếp đi quốc tế hoặc với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet hay kết nối với các trạm trung chuyển Internet (gọi là IX). Các mạng Internet dùng riêng không được kết nối trực tiếp với nhau Thiết lập mạng trung chuyển Internet quốc gia (VNIX) hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận để trung chuyển lưu lượng Internet trong nước trên phạm vi toàn quốc. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet đồng thời là doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng có trách nhiệm thiết lập đường truyền dẫn kết nối đến trạm trung chuyển Internet Quốc gia. + Các qui định về tiêu chuẩn chất lượng, giá cước dịch vụ Internet: Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Interne có trách nhiệm thực hiện qui định về quản lý chất lượng dịch vụ như công bố chất lượng dịch vụ theo qui định, thường xuyên tự kiểm tra, giám sát và bảo đảm cung cấp dịch vụ cho người sử dụng theo đúng chất lượng qui định hoặc mức chất lượng đã công bố Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet có trách nhiệm đối với việc quản lý về giá như sau: hạch toán riêng dịch vụ Internet và xác định giá thành các dịch vụ Internet heo qui định (quyết định, đăng ký, thông báo, báo cáo giá
  • 73. 73 cước). Niêm yết và thu cước của người sử dụng theo đúng mức giá cước đã công bố. Thanh toán giá cước với các doanh nghiệp khác theo đúng mức giá cước trên cơ sở hợp đồng đã ký. + Qui định về tài nguyên Internet: Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền đăng ký và sử dụng tên miền Quốc gia Việt Nam ".vn" và các tên miền Quốc tế. Việc đăng ký và sử dụng tên miền Quốc gia Việt Nam thực hiện thông qua các nhà đăng ký tên miền theo các nguyên tắc (qui định tại điều 68 Luật Công nghệ Thông tin):  Bình đẳng, không phân biệt đối xử,  Đăng ký trước được quyền sử dụng trước  Tuân thủ các qui định về bảo vệ tên miền quốc gia Các trang thông tin điện tử chính thức của các cơ quan Đảng, Nhà nước phải sử dụng tên miền Quốc gia Việt Nam và lưu trữ trong các máy chủ có địa chỉ IP ở Việt Nam. Việc đăng ký tên miền Quốc tế được thực hiện trực tiếp với các tổ chức cung cấp tên miền Quốc tế ở nước ngoài hoặc thông qua các nhà đăng ký tên miền Quốc tế làm đại lý cho các tổ chức cung cấp tên miền Quốc tế ở nước ngoài. Tổ chức, cá nhân đăng ký tên miền Quốc tế phải thông báo với Bộ Thông tin và Truyền thông theo qui định tại Điều 23 Luật Công nghệ Thông tin Nhà đăng ký tên miền ".vn" thực hiện hoạt động đăng ký tên miền trên cơ sở hợp đồng ký với Trung tâm Internet Việt Nam và qui định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet. Nhà đăng ký tên miền Quốc tế làm đại lý cho các tổ chức cung cấp tên miền Quốc tế ở nước ngoài thực hiện việc đăng ký hoạt động và báo cáo theo qui định của Bộ Thông tin và Truyền thông. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet và các mạng Internet dùng riêng được quyền xin cấp địa chỉ Internet, số hiệu mạng từ Trung tâm Internet Việt Nam để sử dụng hoặc phân bổ và cấp phát lại cho người sử dụng
  • 74. 74 của mình. Việc xin cấp địa chỉ Internet và số hiệu mạng trực tiếp từ các tổ chức quốc tế phải được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ Thông tin và Truyền thông. - Qui định về quản lý, cung cấp và sử dụng thông tin điện tử trên Internet + Nguyên tắc quản lý, cung cấp và sử dụng thông tin điện tử (Điều 19)  Việc thiết lập trang thông tin điện tử, việc cung cấp, truyền đưa, lưu trữ và sử dụng thông tin điện tử trên Interent phải tuân thủ các qui định của pháp luật chuyên ngành bao gồm Luật Công nghệ Thông tin, Luật sở hữu trí tuệ, Luật Báo chí, Luật xuất bản và luật bảo vệ bí mật nhà nước, Luật quảng cáo.  Các cơ quan báo chí đã được cấp Giấy phép hoạt động báo điện tử theo qui định của pháp luật về báo chí được thiết lập trang thông tin điện tử sử dụng cho hoạt động báo chí.  Các tổ chức, và doanh nghiệp thiết lập trang thông tin điện tử để cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến phải đăng ký với Bộ Thông tin và Truyền thông.  Tổ chức, doanh nghiệp thiết lập các trang thông tin điện tử và sử dụng Internet để cung cấp dịch vụ ứng dụng chuyên ngành trên Internet thực hiện theo các qui định của pháp luật chuyên ngành và các qui định liên quan tại Nghị định 97.  Tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân thiết lập các trang thông tin điện tử không thuộc các đối tượng qui định tại các điểm 2 đến điểm 5 Điều 19 Nghị định 97 thì không cần giấy phép và không cần đăng ký với Bộ Thông tin Truyền thông, nhưng phải tuân theo các qui định tại Nghị định này và các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet. + Qui định về phát hành báo điện tử, xuất bản trên mạng Internet Điều kiện, qui trình, thủ tục cấp Giấy phép hoạt động báo điện tử thực hiện theo qui định của pháp luật về báo chí. Hoạt động về báo chí và xuất bản phải tuân theo qui định của Luật báo chí và Luật xuất bản.
  • 75. 75 Cơ quan báo chí và nhà xuất bản có giấy phép hoạt động báo điện tử và xuất bản trên mạng Internet được thiết lập hệ thống thiết bị Internet tại cơ sở của mình để trực tiếp thực hiện hoặc ủy thác cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet thực hiện việc phát hành báo điện tử và xuất bản phẩm trên mạng Internet. + Đăng ký cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến không cần phải xin Giấy phép nhưng phải đăng ký với Bộ Thông tin và Truyền thông. Điều kiện để được đăng ký phải là tổ chức, doanh nghiệp có đủ phương tiện kỹ thuật, nhân sự, hệ thống quản lý phục vụ cho việc cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến phù hợp với qui mô hoạt động, cam kết tuân thủ các qui định tại Nghị định 97 và các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet. Doanh nghiệp chỉ được chính thức cung cấp dịch vụ cho công cộng sau khi nhận được thông báo của Bộ Thông tin và Truyền thông xác nhận đã nhận được hồ sơ đăng ký hợp lệ của Doanh nghiệp. Hình thức đăng ký và xác nhận bằng văn bản hoặc thông qua môi trường mạng theo các địa chỉ do Bộ Thông tin và Truyền thông qui định. + Cấp phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp Các tổ chức, doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo qui định của pháp luật tại Việt Nam muốn được cấp phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp phải đáp ứng các điều kiện qui định sau:  Có đủ phương tiện kỹ thuật, nhân sự, chương trình quản lý phục vụ cho việc thiết lập, cung cấp và quản lý thông tin phù hợp với qui mô hoạt động  Cam kết của người đứng đầu tổ chức, doanh nghiệp hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung trang thông tin điện tử và tuân thủ các qui định tại Nghị định này và các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet Hồ sơ cấp phép qui định tại khoản 2 điều 21 của Nghị định. Trong hồ sơ cấp phép phải nêu rõ loại hình dịch vụ dùng để cung cấp hoặc trao đổi
  • 76. 76 thông tin bao gồm: website, blog, forum... và tên miền dự kiến sử dụng. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ cấp phép. Trường hợp không được cấp giấy phép Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp có thời gian trong vòng 5 năm và chỉ được gia hạn 01 lần, thời hạn gia hạn tối đa là 01 năm. Việc bị thu hồi giấy phép chỉ khi: Doanh nghiệp cung cấp nội dung thông tin vi phạm các qui định nêu tại Điều 6 Nghị định và các qui định về quản lý thông tin điện tử trên Internet theo văn bản kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc rong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp phép mà tổ chức, doanh nghiệp đó không triển khai hoạt động cung cấp thông tin lên mạng Internet theo qui định tại giấy phép được cấp. Tổ chức, doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép không được cấp phép lại ít nhất trong vòng 01 năm kể từ ngày bị thu hồi giấy phép. - Qui định về Quản lý nhà nước về Internet tại Nghị định (Điều 5) + Bộ Thông tin và Truyền thông: chịu trách nhiệm trong việc thực hiện quản lý nhà nước về Internetn cụ thể  Xây dựng cơ chế, chính sách, chiến lược, qui hoạch phát triển Internet  Hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp qui về cấp phép cung cấp dịch vụ, kết nối, tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật, chất lượng, giá cước, tài nguyên Internet, an toàn thông tin, cấp phép bảo điện tử, xuất bản trên mạng Internet và quản lý thông tin điện tử trên Internet  Thực hiện thanh, kiểm tra các hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet  Tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về Internet + Bộ Công an: chịu trách nhiệm trong việc đảm bảo an ninh thông tin trong lĩnh vực Internet gồm
  • 77. 77  Hướng dẫn thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật về an ninh thông tin trong lĩnh vực hoạt động Internet  Chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin Truyền thông và các bộ, ngành khác liên quan, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp viễn thông, Internet tổ chức thực hiện các biện pháp kỹ thuật, nghiệp vụ đảm bảo an ninh quốc gia và phòng chống tội phạm Internet + Bộ Kế hoạch và đầu tư: phối hợp với Bộ Thông tin Truyền thông xây dựng cơ chế, quản ý chính sách đầu tư, tài chính để thúc đẩy việc sử dụng Internet trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, trường học, bệnh viện, các cơ sở nghiên cứu và đưa Internet đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. + Bộ Tài chính: ban hành theo thẩm quyền và hướng dẫn việc thực hiện các qui định về phí, lệ phí liên quan đến tài nguyên Internet + Bộ Nội vụ: thực hiện quản lý nhà nước về mật mã dân sự đối với các thông tin được bảo mật trong các hoạt động thương mại, dân sự trên Internet + Ủy ban Nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương: thực hiện việc quản lý nhà nước về Internet tại địa phương Các điểm tại mục 3 nêu trên đã đưa ra nguyên tắc xây dựng và các nội dung có tính chất thay đổi quan trọng của Nghị định 97 cũng như tóm tắt các nội dung cơ bản toàn văn Nghị định làm cơ sở cho việc phân tích các nội dung tiếp sau. 3.1.2. Những mặt còn hạn chế Theo qui luật hai mặt đối lập, các qui định điều chỉnh dịch vụ Internet cũng không tránh khỏi các khiếm khuyết, hạn chế: a. Về định nghĩa mạng xã hội Trên Từ điển mở Wikipedia thì mạng xã hội hay mạng xã hội ảo (social network) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian
  • 78. 78 qua những tính năng như chat, e-mail, phim ảnh, voice chat, chia sẻ file, blog và xã luận; còn theo khoản 14 Điều 3 Chương I Nghị định 97/2008/NĐ-CP thì: Mạng xã hội trực tuyến là dịch vụ cung cấp cho cộng đồng rộng rãi người sử dụng khả năng tương tác, chia sẻ, lưu trữ và trao đổi thông tin với nhau trên môi trường Internet, bao gồm dịch vụ tạo nhật ký (blog), diễn đàn (forum), trò chuyện trực tuyến (chat) và các hình thức tương tự khác [20]. Qua hai định nghĩa nêu trên về mạng xã hội, có thể thấy rằng cách hiểu về mạng xã hội được quy định chính thức trong văn bản của nước ta cụ thể tại Nghị định 97 đang hiện hành hẹp hơn rất nhiều so với cách hiểu của cộng đồng xã hội khi chỉ khoanh vùng ở blog, chat và forum. Sự rộng hơn hay hẹp hơn này, có thể, không có ý nghĩa nhiều đối với cư dân mạng, song rất có ý nghĩa quan trọng đối với những người hoạch định và thực thi chính sách. Vì thế, để phòng các hình thức phát sinh, các cán bộ xây dựng Nghị định 97 đã cho thêm cụm từ "các hình thức tương tự khác". Song điều đáng nói ở đây, điểm mở thường thấy ở các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam này lại rất mơ hồ mà khi ứng vào thực tế sẽ tùy thuộc vào quan điểm riêng của cơ quan chức năng ở từng địa phương dẫn đến khó khăn cho công tác thực thi. b. Về chính sách quản lý và phát triển Internet với thực thi Trong khoản 3 Điều 4 Chương 1 Nghị định 97 có nêu: "tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn pháp luật về Internet… bảo vệ trẻ em khỏi tác động tiêu cực của Internet". Nhưng trên thực tế, nội dung này chưa khi nào có báo cáo tổng kết hay được đưa ra để đúc kết và rút kinh nghiệm tại các buổi họp của các ngành, các cấp. Tuy rằng chính sách có ý nghĩa định hướng hơn là bắt buộc, nhưng khi đã cụ thể hóa dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật thì nó đã trở thành phần tử của hệ thống pháp luật và phải được bảo đảm thực thi. Vì vậy, nó phải được xây dựng bởi "một chỉ tiêu cụ thể" để có thể đạt được những kết quả hợp lý nhất, nhưng thực tế hiện nay có vẻ
  • 79. 79 như nhiều chính sách đã không được quan tâm đúng mức. Ví dụ về gameonline: chưa có cơ quan quản lý nhà nước nào có qui định về độ tuổi chơi những trò chơi điện tử nào là phù hợp hay chưa có hệ thống cơ quan, tổ chức nào thẩm định các trò chơi điện tử để đưa ra các khuyến cáo cho cha mẹ hay người chơi điện tử game online chơi trò nào là phù hợp với từng độ tuổi. Đó là một biểu hiện của việc thực thi chính sách quản lý và phát triển các hoạt động trên mạng Internet từ trung ương tới địa phương, không đáp ứng với các chính sách do chính chúng ta lập ra. Nói cách khác là chính sách chúng ta đưa ra là chính sách "xuông" chưa kết hợp các biện pháp để đưa chính sách đi vào đời sống. c. Chưa có qui định về chế tài, xử phạt đối với mạng xã hội trực tuyến Facebook, YouTube hay các trang mạng xã hội được xem là nơi để chia sẻ thông tin và kết nối bạn bè. Thiết kế trên các trang mạng ngày nay cho phép người đọc và người sử dụng chúng thể hiện cảm xúc tức thời của mình sau khi xem hình ảnh hay thông tin bằng cách đưa ra nhận xét cá nhân hoặc chỉ đơn giản là nhấn nút like hay dislike để thể hiện cảm xúc. Chính sách quản lý mạng xã hội tại Việt Nam tuy đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật như Nghị định 55/2001/NĐ-CP, và hiện nay là Nghị định 97, Thông tư 14/2010/TT-BTTTT… nhưng vẫn có những quan điểm chưa thực sự thống nhất và việc thực thi chính sách này trong quản lý xã hội còn nhiều thiếu sót: Thông tư 14/2010/TT-BTTTT Quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet đối với hoạt động quản lý trang thông tin điện tử và dịch vụ mạng xã hội trực tuyến (Như vậy, ta thấy ngay từ tên gọi đã phân biệt mạng xã hội với trang thông tin điện tử trong hoạt động quản lý). Thông tư 14/2010/TT-BTTTT có quy định riêng tại Điều 7 về trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến như sau:
  • 80. 80 Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến 1. Xây dựng và công khai quy chế cung cấp, trao đổi thông tin trên trang thông tin điện tử cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến của doanh nghiệp, bảo đảm không vi phạm các quy định của pháp luật và quy định tại Điều 4 Thông tư này. 2. Xây dựng quy trình quản lý thông tin và cơ sở dữ liệu về các thành viên tham gia phù hợp với quy mô cung cấp dịch vụ do doanh nghiệp quản lý. 3. Có biện pháp kỹ thuật và quy trình quản lý để chủ động thực hiện việc ngăn chặn và loại bỏ những nội dung thông tin vi phạm các quy định tại Điều 4 Thông tư này ngay khi tự phát hiện hoặc nhận được phản ánh của người sử dụng hoặc khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. 4. Cung cấp thông tin có liên quan đến nội dung thông tin vi phạm quy định tại Điều 4 Thông tư này theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. 5. Chịu sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định. 6. Có trách nhiệm báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 11 Thông tư này [8]. Khoản 2 Điều 11 Nghị định 97/2008/NĐ-CP qui định trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến như sau: Điều 11. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến 2. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến có trách nhiệm:
  • 81. 81 a) Xây dựng quy chế cung cấp, sử dụng và trao đổi thông tin phù hợp với các quy định về quản lý thông tin điện tử trên Internet tại Nghị định này; b) Cung cấp các thông tin có liên quan đến người sử dụng dịch vụ vi phạm quy định tại Điều 6 Nghị định này theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; c) Thực hiện việc ngăn chặn và loại bỏ các nội dung thông tin vi phạm quy định tại Điều 6 Nghị định này khi phát hiện hoặc theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; d) Thực hiện chế độ báo cáo và chịu sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định [20]. Qua việc điểm mục các nội dung trong Điều 7 của Thông tư số 14/2010/TT-BTTTT và khoản 2 Điều 11 Chương II của Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ta thấy nội dung tại Điều 7 của Thông tư số 14/2010/TT-BTTTT được căn cứ tại khoản 2 Điều 11 Chương II của Nghị định 97/2008/NĐ-CP và có bổ sung chi tiết hơn. Tuy nhiên trong cả Thông tư 14 lẫn Nghị định 97 đều không có những quy định cụ thể về chế tài hay xử phạt như thế nào đối với mạng xã hội ngoài chế độ báo cáo định kỳ hai lần trong một năm. Có lẽ, do mạng xã hội chưa thể hiện những tác hại gây ra bức xúc đối với một nhóm xã hội nên việc quản lý mạng xã hội chưa được chú ý như đối với trò chơi trực tuyến hiện nay. Nhưng, lướt qua các số liệu thống kê trên mạng xã hội, chúng ta sẽ thấy khả năng phát triển bùng nổ của mạng xã hội, như là: + Tỉ lệ người Việt Nam trên 18 tuổi có tài khoản mạng xã hội: 43% người có một tài khoản, 25% có hai tài khoản, 13% có từ bốn tài khoản trở lên + Thống kê trên thế giới: tăng trưởng 47% mỗi năm, 80% số người sử dụng Internet đã từng dùng các tiện ích của mạng xã hội, người sử dụng ngày càng đa dạng về lứa tuổi…
  • 82. 82 Như vậy, mạng xã hội là một môi trường kinh doanh đầy tiềm năng và sẽ cạnh tranh gay gắt hơn trong thời gian tới. Hai mô hình kinh doanh chủ yếu của mạng xã hội là quảng cáo trực tuyến và dịch vụ đi kèm như bán tài sản ảo... Hiệu quả kinh doanh của các mạng xã hội có liên quan trực tiếp tới lượng người truy cập và sử dụng các dịch vụ trên mạng xã hội đó. Việc xây dựng nội dung sao cho thu hút nhiều người dùng sẽ gắn với khai thác tin nóng, giật gân, hoặc khai thác triệt để quan điểm, sở thích của giới trẻ vì giới trẻ là đội ngũ tham gia đông đảo nhất. Từ đó, những nguy cơ, tác hại cũng sẽ bộc lộ rõ ràng hơn mà chỉ có chế độ báo cáo thì không thể thể hiện tính chiến lược, đón đầu sự vụ, trong hoạt động quản lý. Nội dung của các báo cáo cũng không thể hiện được những vấn đề xấu để kiến nghị các cơ quan chức năng có biện pháp xử lý. Khoản 2, Điều 11, Thông tư số 14/2010/TT-BTTTT qui định về chế độ báo cáo như sau: 2. Các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến: a) Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ 6 tháng một lần và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. b) Nội dung báo cáo định kỳ bao gồm: - Tên tổ chức, ngày, tháng, năm và ký hiệu văn bản xác nhận đăng ký cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; - Các loại hình dịch vụ đang cung cấp; - Số lượng thành viên sử dụng các dịch vụ của doanh nghiệp đang quản lý và các dữ liệu thống kê theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. c) Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến có cung cấp dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân có trách
  • 83. 83 nhiệm gửi báo cáo trước ngày 15 tháng 01 và trước ngày 15 tháng 7 hàng năm [8]. Các mạng xã hội có thể tăng lên như thế nào trong quá trình phát triển hiện nay và các tác động đối với đời sống cá nhân, quan hệ xã hội và chính trị, hiện vẫn chưa có những đánh giá chính thức. Vì không có bức tranh tổng thể nên thật sự khó cho những nhà hoạch định chính sách. Nhưng một số hậu quả đã xuất hiện trong thời gian qua như: - Lừa đảo để chiếm đoạt tài sản cá nhân, tổ chức khác qua mạng xã hội. - Mạng xã hội "tấn công" giới trẻ bằng nhiều chiêu thức nguy hiểm như bói toán, đánh bạc và sex để thu hút và moi tiền giới trẻ. - Lợi dụng mạng xã hội để tuyên truyền chống phá Nhà nước, phá hoại tài sản công dân (virus mạng) - Đánh mất bản thân (Chìm đắm trong các mạng xã hội và bị ảnh hưởng bởi những người mà chúng ta có liên kết, dường như chúng ta đang mất dần đi một số tính chất của cá nhân mình) Trên là các hậu quả xấu ảnh hưởng rộng lớn tới nhiều tầng lớp trong xã hội. Ngoài ra còn những hậu quả tuy không lớn nhưng cũng là những sự việc nói lên "lỗ hổng" của qui phạm pháp luật về xử phạt đối với mạng xã hội trực tuyến. Ví dụ hành động lấy format của các trang nội dung trực tuyến nổi tiếng như vnexpress.net, dantri.com.vn...để lồng vào các thông tin cá nhân đưa lên. Vụ việc điển hình là vào ngày 01/4/2011 một số bạn trẻ đã lấy format của các trang báo điện tử có tên tuổi lồng ghép vào đó các tin tức khống về cá nhân (là bạn bè, đồng nghiệp, người thân quen...) rồi đưa comment, đường link giới thiệu tin tức khống đó trên facebook của mình dẫn đến các nhầm tưởng sự việc có thật. Hay việc tự do hóa trong comment trên trang facebook dẫn đến việc tự tử hay suy sụp tinh thần của bạn trẻ ở Việt Nam vụ việc bé Quỳnh Anh tham gia thi Got Talent, ở Thế giới thì có rất nhiều vụ việc xảy ra. Tuy bản chất sự việc chỉ là sự đùa giỡn của một số các bạn trẻ giỏi trong lĩnh
  • 84. 84 vực Công nghệ hoặc sử dụng Internet để giải trí chơi đùa nhưng nếu đi quá giới hạn sự việc trở thành nghiêm trọng trong khi ranh giới đến đâu thì được thì pháp luật chưa qui định. Những dẫn chứng trên cho thấy ngày nay xu hướng sử dụng công nghệ cao để khiêu khích hay xúc phạm người khác đang trở thành trào lưu. Với tính năng của mạng xã hội, thông tin được chia sẻ một cách nhanh chóng, tin đồn dù không có thật cũng có thể được cho là sự thật. Lợi dụng công nghệ như Internet hay tin nhắn để đưa những tin đồn ác ý, lan truyền bí mật về đời tư khi chưa được phép, hay tạo dư luận phẫn nộ trong cộng đồng bằng những nhận xét xúc phạm, đe dọa, hoặc việc hack vào tài khoản online của cá nhân để đưa những thông tin làm hại đến uy tín và danh dự của người khác, cũng như quấy nhiễu bằng thư nặc danh liên tục và cô lập một người trên cộng đồng mạng hiện nay xảy ra rất nhiều. Tại Mỹ, Anh, Úc và ngay cả Trung Quốc, các nghiên cứu cho thấy từ 10-55% bạn trẻ (13-20 tuổi) từng là nạn nhân thường xuyên của việc nói xấu, hay bị xúc phạm nghiêm trọng trong một giới hạn nào đó, những nhận xét ấy trở nên quá khắc nghiệt, thậm chí cay độc, có thể làm suy sụp tinh thần của người tiếp nhận. "Vì thế, trước khi chờ đợi giải pháp cụ thể từ các nhà quản lý, có lẽ người trong cuộc - những nạn nhân của các tin đồn ác ý trên thế giới mạng - cần chuẩn bị cho mình một số giải pháp để tự vệ, bao gồm: "Hãy can đảm nói chuyện với cha mẹ hay người bạn tin tưởng; hay ngừng tham gia những trang mạng có những người công kích bạn. Điều này bao gồm cả việc đóng tài khoản của bạn trên trang mạng xã hội như Facebook hay forum của trường, cộng đồng" [30]. d. Chưa qui định hoạt động kinh doanh mạng xã hội trực tuyến trong danh mục dịch vụ kinh doanh có điều kiện Trong Nghị định 59/2006/NĐ-CP, ở danh mục dịch vụ kinh doanh có điều kiện có các dịch vụ như: đại lý dịch vụ Internet công cộng, dịch vụ truy nhập Internet, dịch vụ kết nối Internet. Trong khi đó, dịch vụ mạng xã hội và
  • 85. 85 trò chơi trực tuyến không có trong danh mục này và danh mục dự thảo sửa đổi năm 2010 mặc dù đây là hai dịch vụ đã, đang và sẽ tiếp tục bộc lộ những tệ nạn và vi phạm pháp luật, để lại hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triển thế hệ trẻ và phát triển xã hội. e. Qui phạm vẫn đi sau so với thực tế phát triển của xã hội Việc vi phạm an ninh mạng thì phải bị xử lý theo pháp luật nhưng khung pháp lý về vấn đề này hiện nay chưa rõ ràng, chưa cụ thể. Các quy chế, quy định được ban hành nhằm tạo những khuôn mẫu chuẩn trong quản lý xã hội nhưng pháp luật ở nước ta vẫn đi sau sự phát triển của xã hội Ví dụ thực tế tại một số đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh là siêu đô thị với tốc độ phát triển rất nhanh về khoa học công nghệ và cởi mở du nhập những cái mới, thì cũng đồng thời là nơi xuất hiện những trục trặc trong khâu quản lý. Chính sách quản lý mạng xã hội của địa phương theo qui luật không thể tách rời chính sách quản lý của trung ương thể hiện qua các văn bản pháp lý như Luật, Nghị định, thông tư hướng dẫn của Bộ. Cụ thể ở đây là các chính sách quản lý của thành phố vẫn phải đặt trong khuôn khổ ràng buộc của một địa phương dù cho những quy định, mô hình tổ chức, khuôn khổ pháp lý của Trung ương không theo kịp với thực tế của thành phố. Có thể dễ dàng nhận thấy đây là một bất cập khi cùng một sự vụ nhưng không được xử lý thống nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Từ đó cho ta thầy việc "thống nhất" là một ý muốn chủ quan khó thực hiện trong điều kiện quyền quản lý thuộc địa phương nhưng căn cứ theo khung pháp lý ban hành từ trung ương như hiện nay. Thế nên, các thành phố phát triển như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh ngoài việc chủ động đề xuất, kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung những quy định hiện hành không còn phù hợp nhằm tạo ra cơ chế thông thoáng, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa Luật và thực tiễn, còn phải tiên phong trong việc xây dựng và thử nghiệm chính sách mới trong quản lý mạng
  • 86. 86 xã hội, trò chơi trực tuyến và các dịch vụ công nghệ cao khác để hoàn thiện chính sách quản lý cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. f. Qui định thiếu tính khả thi trong triển khai Các quy định quản lý của nhà nước ban hành khi triển khai thiếu tính khả thi vì chưa đồng bộ và không thực hiện được triệt để. Thực tế khi triển khai các qui định về điều kiện kinh doanh của Đại lý Internet qui định tại Nghị định 97 và Thông tư 02/2005/TTLT-BBCVT-BVHTT-BCA-BKHĐT về quản lý đại lý Internet thấy bất cập sau: - Đối với qui định đóng cửa vào 23h đêm và mở cửa vào 6h sáng, qui định áp dụng phần mềm quản lý các đại lý Internet khi triển khai còn nhiều bất cập cho cả hai bên quản lý và đại lý Internet. Đối với bên quản lý: các cơ quan QLNN sử dụng lực lượng chính quyền địa phương để kiểm tra, bắt và xử phạt. Việc này được doanh nghiệp đánh giá là hành động "bắt cóc bỏ vào đĩa" bởi với khoảng 30.000 đại lý Internet và game online trên cả nước, không có lực lượng chính quyền địa phương nào có thể kiểm soát chắc chắn việc thực hiện nghiêm túc quy định về giờ giấc này. Thậm chí, ngay cả với những địa phương làm chặt thì vẫn có tình trạng đối phó của các đơn vị này bằng cách đóng cửa, tắt đèn, nhưng bên trong vẫn cung cấp dịch vụ. Đối với các đại lý Internet: các đại lý phản ứng không ủng hộ qui định này vì việc thực hiện chưa triệt để, không công bằng giữa các đại lý và đại lý ở các địa phương khác nhau (có địa phương qui định giờ đóng có địa phương không, có đại lý đóng cửa đúng giờ qui định thì lại thấy thiệt thòi hơn các đại lý không thực hiện qui định). Hơn nữa các đại lý cho rằng họ chỉ cung cấp đường truyền, còn người sử dụng Internet để làm gì thì họ không biết. Việc bắt đại lý chặn địa chỉ cấm thứ nhất những người trông nom đại lý không phải người hiểu biết kỹ thuật, thứ hai họ không biết địa chỉ nào cấm để thực hiện việc chặn địa chỉ xấu. - Đối với quy định nêu đại lý Internet phải cách trường học 200m cũng chưa rõ ràng dẫn đến khó trong quá trình áp dụng, khoảng cách 200m
  • 87. 87 này được tính từ đâu? Từ khuôn viên, từ tường rào hay từ cổng trường?… Tại Thành phố Hồ chí Minh trường học rất nhiều, nếu áp dụng quy định này thì chẳng còn bao nhiêu đại lý đủ điều kiện hoạt động. Bà Lê Lý Lệ Quỳnh - chủ tiệm Internet ở quận 1 Thành phố Hồ chí Minh nói: Tiệm tôi đối diện với trường học, từ ngày có quy định cấm một số game online, tiệm của tôi vắng khách hẳn đi, từ 120 máy đến nay tôi giảm còn 60 máy mà vẫn ế ẩm. Trong khi đó, tôi biết có nhiều tiệm vẫn cho chơi game thoải mái, rất đông khách. Rồi còn quy định tiệm phải cách xa trường học 200m, nếu thực hiện đúng như vậy thì khu vực này chẳng có tiệm nào được phép hoạt động cả, vì ở đây trường học rất nhiều [37]. 3.1.3. Một số giải pháp của Việt Nam Bên cạnh các chính sách khuyến khích, phát triển Internet Nhà nước Việt Nam cũng chú ý tới việc xây dựng hệ thống văn bản tạo hành lang pháp lý cho hoạt động dịch vụ Internet vừa bảo vệ an ninh quốc gia, các giá trị đạo đức - thuần phong mỹ tục, bảo vệ trẻ em khỏi tác động tiêu cực của Internet, ngăn chặn các hành vi phạm pháp... Tuy nhiên vì đặc thù của ngành công nghệ phát triển quá nhanh trong khi công tác xây dựng pháp luật lại qua quá nhiều khâu dẫn đến việc quản lý của nhà nước không theo kịp những phát triển của công nghệ. Do đó các văn bản pháp luật của Việt Nam không đáp ứng, bao quát được hết thực tế. Hiện nay, tại Việt Nam Nghị định 97/2008/NĐ-CP là văn bản luật quản lý bao trùm về lĩnh vực Internet khi ra đời có nhiều điểm tiến bộ hơn nhiều so với Qui định 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet ban hành 23/8/2001 trước đó. Tuy nhiên Nghị định 97/2008/NĐ-CP ngay khi ra đời đã có nhiều điều khoản gây nhiều tranh cãi, phản ứng trái chiều và sau 3 năm triển khai, đến nay những nội dung quy định trong nghị định đã thật sự bộc lộ nhiều sự bất hợp lý. Ví dụ một số các qui định về điều
  • 88. 88 kiện kinh doanh của đại lý Internet tại Nghị định 97 có bất cập như quy định về điều kiện kinh doanh, thời gian đóng mở cửa, cài đặt phần mềm quản lý, chặn game online… Tuy nhiên, cho đến nay, việc triển khai các quy định này trong thực tế gặp khó khăn. Chính vì vậy mà song hành với việc đưa ra các chính sách, văn bản, qui định để quản lý nhà nước Việt Nam vần luôn coi trọng các giải pháp mang tính chất giải quyết tình thế trong lúc chờ các biện pháp có tính chất lâu dài. Rõ ràng, chúng ta không thể ngăn sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, do đó Việt Nam cần những biện pháp quản lý khoa học bên cạnh việc xây dựng một chiến lược đường dài trong lộ trình quản lý. Để ngăn chặn các tiêu cực của Internet, hiện nay Nhà nước Việt Nam thực hiện kết hợp và đồng thời các biện pháp hành chính - giáo dục - kỹ thuật, biện pháp vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài: - Biện pháp Hành chính: Sử dụng cả biện pháp tình thế tạm thời kết hợp với biện pháp lâu dài như đối với dịch vụ chơi game online vấn đề đang "nóng" của xã hội  Tạm dừng cấp phép các trò chơi game online trong thời gian để rà soát lại cơ chế, chính sách, rà soát lại thực tiễn, tổng kết, rút kinh nghiệm để làm tốt hơn, sau đó xây dựng chủ trương mới.  Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử phạt các đại lý Internet về việc tuân thủ các qui định của pháp luật và qui chế hoạt động của đại lý Internet; các doanh nghiệp sản xuất gameonline, các doanh nghiệp cung cấp nội dung bằng các biện pháp thu hồi giấy phép hoạt động, tiêu hủy các sản phẩm không đúng tiêu chuẩn, xử phạt hành chính...  Lập cơ quan chuyên trách để lo an toàn thông tin trên mạng bằng việc thành lập Cục an toàn thông tin để đủ cơ sở pháp lý "lo" vấn đề an ninh trên mạng.
  • 89. 89  Tích cực hợp tác với các tổ chức an ninh mạng thế giới, trong đó nhanh xúc tiến việc tham gia Impact - tổ chức an ninh mạng thế giới (Việt Nam sẽ là thành viên thứ 42. Các nước trong tổ chức này có thiết bị bảo vệ trẻ em). Việt Nam tìm hiểu để có thể áp dụng ngay từ năm 2011.  Triển khai nhóm giải pháp cơ bản để hoàn thiện khung pháp lý đang thiếu: hình thành Luật an toàn thông tin trên mạng trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quản lý của các nước trên thế giới để học hỏi kỹ thuật quản lý vì game online là một vấn đề xã hội mới và chưa có luật  Có các chính sách Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất game cho ra các sản phẩm game mang tính cộng đồng và văn hóa, bản sắc Việt  Tăng cường trách nhiệm phối hợp hành động giữa các các Bộ ngành và giữa các Bộ, ngành với chính quyền địa phương và gia đình. Cụ thể: cần thiết có sự phối hợp chặt chẽ của Bộ Công an thì mới thể ngăn chặn đường truyền từ máy chủ đặt tại nước ngoài không lành mạnh vào Việt Nam; Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch kiểm tra băng đĩa trôi nổi trên thị trường; Bộ GD-ĐT quản lý toàn bộ đường truyền vào trường học và ký túc xá…  Hệ thống hóa qui định pháp luật về lĩnh vực Internet giúp cho các cơ quan thi hành pháp luật có điều kiện nắm bắt dễ dàng, nhanh chóng những quy định của pháp luật hiện hành cũng như đánh giá, nhìn nhận lại hiệu quả thực tế của hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật. - Biện pháp Giáo dục: Sử dụng các hình thức thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo viết, báo nói, báo hình), qua hệ thống trường học (đối với học sinh, sinh viên), qua hệ thống thông tin Quận, phường, xã….hay sử dụng cả hệ thống mạng lưới các Bưu điện trên 64 tỉnh thành nhằm hướng dẫn, nâng cao ý thức sử dụng thông tin trên Internet của người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ  Giáo dục người sử dụng Internet phải tự nâng cao ý thức sử dụng thông tin, tự mình chắt lọc những nội dung để khai thác những thông tin có lợi, loại bỏ những thông tin xấu.
  • 90. 90  Đối với thanh thiếu niên kết hợp các biện pháp giáo dục từ gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội.  Tạo điều kiện cho nhân dân có điều kiện tiếp cận, hiểu biết pháp luật về các vấn đề mà họ quan tâm góp phần vào việc thực hiện được tốt. - Biện pháp kỹ thuật:  Yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ cắt đường truyền của các đại lý Internet (quán café online, game online…) vào các giờ như sau 23h đêm đến 6h sáng.  Đối với những gia đình có trẻ nhỏ nhưng tự nhận thấy không thể quản lý được con em mình chơi game hoặc sử dụng Internet như thế nào thì có thể đăng ký với các nhà cung cấp dịch vụ mạng biện pháp cắt mạng Internet tương tự.  Xây dựng các chương trình phần mềm quản lý hoạt động của các đại lý Internet hay kiểm soát tại gia đình 3.2. VIỆC ÁP DỤNG MỘT SỐ QUI ĐỊNH QUẢN LÝ INTERNET CỦA TRUNG QUỐC, MỸ TẠI VIỆT NAM Nghiên cứu, phân tích, xem xét thực trạng quản lý Internet của Việt Nam không thể không nghiên cứu qui định của một số nước trên thế giới, từ đó có cái nhìn toàn cảnh về văn bản điều chỉnh Internet của Việt Nam so với Thế giới. Internet có nguồn gốc hình thành từ nước Mỹ và đã được các nước trên thế giới ứng dụng và phát triển mạnh mẽ. Do đó việc học hỏi kinh nghiệm quản lý, xây dựng qui định quản lý Internet của các nước đã có bề dày lịch sử đi trước là việc các nhà quản lý và soạn thảo qui phạm pháp luật các nước đã làm để đón bắt, đuổi kịp xu thế, tạo sức sống cho các nguyên tắc, qui phạm trong thực tiễn và Việt Nam cũng không nằm trong ngoại lệ. Đặc biệt Internet cũng như game online ở Việt Nam còn khá mới mẻ. Trong quá trình quản lý, chúng ta cần học tập sự đi trước của các quốc gia.
  • 91. 91 Nguyên tắc soạn thảo, xây dựng văn bản pháp luật của các nhà làm luật Việt Nam là phải tham khảo, đối chiếu với luật pháp và kinh nghiệm triển khai của các nước trên thế giới, đảm bảo qui định đưa ra phải phù hợp với thông lệ quốc tế, với các qui định hiện hành của pháp luật Việt Nam, với đặc thù kinh tế, xã hội và tình hình phát triển của Việt Nam, nhằm đảm bảo việc các qui phạm pháp luật ban hành ra phải phù hợp với thực tế và đi vào cuộc sống. Như vậy các nhà quản lý của nhà nước Việt Nam cũng đã rất chú trọng đến việc tham khảo học tập kinh nghiệm của các nước để xây dựng Qui chế cho việc quản lý Internet cũng như các dịch vụ gia tăng phát triển trên nền Internet. 3.2.1. Trung Quốc Kinh nghiệm quản lý của Trung Quốc, được thế giới cho là quốc gia có số lượng người sử dụng Internet lớn nhất thế giới (khoảng 384 triệu người) về lĩnh vực Internet. - Qui định quản lý về mạng Internet của Trung Quốc: Trung Quốc có khoảng 81.000 quán café Internet với khoảng 4,7 triệu máy tính. Chính vì vậy để quản lý số lượng lớn điểm truy nhập công cộng này (quán cafe Internet), Chính phủ Trung Quốc đã có những quy định nhằm siết chặt việc sử dụng Internet tại các điểm truy nhập công cộng này bằng quy định, bất kỳ khách hàng nào muốn sử dụng Internet tại các quán café Internet đều phải xuất trình thẻ căn cước (Chứng minh thư) và thực thi việc kiểm soát mạng Internet bằng quy định, nếu cơ quan quản lý phát hiện các điểm truy cập Internet công cộng tiếp nhận các khách hàng vị thành niên (dưới 18 tuổi) sẽ ngay lập tức bị tước giấy phép và cắt đường truyền. Các nhà làm luật Trung Quốc lý giải qui định trên là một biện pháp nhằm hạn chế sự gia tăng của những vụ án có tính chất dã man mà nguyên nhân gốc từ Internet xảy ra gần đây, đồng thời để bảo vệ giới trẻ nước này trước những nội dung độc hại của Internet. - Qui định về thời gian và độ tuổi chơi game:
  • 92. 92 Trung Quốc ban hành qui định quản lý giờ chơi game đối với lứa tuổi thanh thiếu niên rất ngặt nghèo. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn quản lý về độ tuổi chơi và độ tuổi được sử dụng mạng Internet bằng hệ thống kiểm soát độ tuổi người chơi game và sử dụng điểm truy nhập Internet công cộng (cafe Internet) bằng chứng minh thư điện tử. Và trên thực tế, sau 2 năm áp dụng hình thức quản lý này, chính phủ Trung Quốc đã hạn chế đáng kể các tiêu cực của game online. Việt Nam đã học hỏi đúc rút kinh nghiệm trên từ qui phạm quản lý về mạng của Trung Quốc tuy nhiên sáng tạo để có những áp dụng phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn và hệ thống quản lý của Việt Nam. Việt Nam đã ban hành các văn bản cụ thể như Nghị định số 28/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet; hay Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BBCVT- BVHTT-BCA-BKHĐT về quản lý đại lý Internet, Thông tư liên tịch số 60/2006/TTLT-BVHTT-BCVT-BCA (Thông tư 60) về quản lý trò chơi trực tuyến. Cụ thể ngày ngày 13/4/2010, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ra dự thảo về Qui chế quản lý trò chơi trực tuyến, quy định các đại lý Internet trên địa bàn Hà Nội chỉ được mở cửa lúc 8 giờ cho đến 22 giờ hàng ngày học tập kinh nghiệm quản lý giờ sử dụng điểm truy cập Internet công cộng của Trung Quốc. Và ngay sau dự thảo trên, ngày 26 tháng 4 năm 2010, UBND thành phố Hà Nội đã cụ thể hóa dự thảo trên bằng việc ban hành "Qui định số 15/2010/QĐ - UBND" qui định về việc quản lý giờ giấc hoạt động của các đại lý Internet và hành vi người sử dụng. Cụ thể trẻ em dưới 14 tuổi không được vào các đại lý Internet một mình; các đại lý internet phải cách xa trường học ít nhất 200m; đại lý Internet phải gắn các phần mềm quản lý của các cơ quan chức năng vào các máy kết nối… 3.2.2. Hoa Kỳ (USA) Ở Mỹ, việc quản lý mạng và các game có yếu tố bạo lực đã được phát triển từ lâu và được xếp cùng với các văn hóa phẩm khác của xã hội như sách
  • 93. 93 báo, phim ảnh. Ở Mỹ "hơn 60% trẻ em dưới 6 tuổi tại đất nước này đã biết xem video trực tuyến, game, search thông tin sử dụng máy tính và với 20% thông qua những thiết bị giải trí di động như điện thoại di động hay iPod" [26]. Mỹ chọn cách phân loại đối tượng và thể loại game để quản lý cho phù hợp thay cho việc có các qui định cấm đoán, hạn chế. Hệ thống phân loại theo chuẩn mực đã được các tổ chức như ESRB, PEGI, ACB đặt ra và các nhà làm luật chỉ việc thi hành luật để áp dụng phân loại đó cho các đối tượng sử dụng. Hệ thống Phân loại Phần mềm Giải trí ESRB, PEGI... là các tổ chức độc lập và phi lợi nhuận chuyên phân loại các sản phẩm phần mềm giải trí và game cho nước Mỹ. Ví dụ Hệ thống Phân loại Phần mềm Giải trí ESRB là một tổ chức chuyên phân loại các sản phẩm phần mềm giải trí và game tại khu vực Bắc Mỹ. ESRB nổi tiếng nhất trong các tổ chức phân loại bởi sự phát triển công nghiệp game. Mặc dù việc phân loại về lý thuyết là tự nguyện và tùy chọn, nhưng gần như mọi game phát hành bởi các nhà phát hành game chuyên nghiệp đều nộp cho ESRB phân loại. Các nhãn phân loại ESRB trở thành tiêu chí quan trọng để các bậc phụ huynh quyết định chọn game cho con cái của mình, bao gồm: EC (trẻ 3 tuổi hoặc nhỏ hơn), E (6 tuổi trở lên), E10+ (10 tuổi trở lên), T (13 tuổi trở lên), M (17 tuổi trở lên) và AO (18 tuổi trở lên). Mỹ cũng qui định người mua phải xuất trình căn cước khi mua game để nhà phân phối có thể cung cấp sản phẩm game đúng độ tuổi theo hệ thống phân loại phần mềm giải trí ESRB nêu trên. Các nhà phân phối có quyền từ chối bán các game bạo lực nếu người mua không xuất trình được chứng minh thư đủ 17 tuổi hoặc có người lớn đi cùng. Còn nếu người mua đã đủ 18 tuổi, có đầy đủ nhận thức về hành vi của bản thân mình, thì có quyền tiếp xúc với các văn hóa phẩm có yếu tố bạo lực. Tức là ở các nước phát triển như nước Mỹ thì góc độ tiếp cận của nhà quản lý luôn là tôn trọng quyền tự quyết và tự
  • 94. 94 quản: nhà trường phải giáo dục học sinh, gia đình phải quản lý con cái, mỗi cá nhân đủ tuổi trưởng thành phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Còn nếu bạn đã đủ 18 tuổi mà vẫn không phân biệt được giữa game và đời thực, lời khuyên chân thành của các nhà quản lý là bạn cần tìm cho mình một bác sĩ chuyên khoa tâm lý. Như vậy Mỹ qui định rõ ràng các trách nhiệm với từng đối tượng: - Trách nhiệm của cơ quan quản lý là phải đặt ra các chế tài ngăn cấm các cửa hàng kinh doanh bán game hoặc cung cấp dịch vụ chơi game dán nhãn bạo lực (theo phân loại quốc tế hoặc nội địa) cho các trẻ em dưới 18 tuổi mà không có người lớn đi cùng; - Trách nhiệm của gia đình và nhà trường là phải thường xuyên giám sát, quản lý, giáo dục con em của mình về các thể loại game phù hợp với độ tuổi của mình, về việc chơi game điều độ và chừng mực; - Trách nhiệm của truyền thông là phải tích cực tuyên truyền các kiến thức chính xác và có cơ sở khoa học về các tiêu chuẩn phân loại game như ESRB, BBFC, PEGI cho đại đa số nhân dân nắm bắt và tuân theo; - Trách nhiệm của mỗi cá nhân đủ 18 tuổi là phải ý thức được tác động của game đối với bản thân mình, phân biệt rạch ròi giữa game và đời thực và phải tự chịu trách nhiệm về những hành vi của mình như một người trưởng thành. Ngoài qui định mang tính chất "mềm" nêu trên, các nhà quản lý của Mỹ, còn đưa ra qui định "cứng" yêu cầu tất cả những người chơi game phải đăng ký số chứng minh nhân dân thật với nhà cung cấp dịch vụ. Số chứng minh thư này có thể kiểm chứng được thông qua một cơ sở dữ liệu chung của toàn quốc gia. Qua nghiên cứu, xem xét cách quản lý của nước Mỹ về vấn đề mạng và trò chơi trực tuyến ở trên thấy rằng hạ tầng vật chất cũng như quan điểm, trình độ quản lý,....giữa Việt Nam và các nước phát triển đại diện nước Mỹ
  • 95. 95 còn quá cách xa nhau. Do đó Việt Nam chỉ học hỏi kinh nghiệm quản lý mạng và game ở một số điểm phù hợp như qui định về đối tượng sử dụng game theo độ tuổi hay đưa ra các qui định khác như về giờ giấc được sử dụng dịch vụ, hành vi người sử dụng dịch vụ như trẻ em dưới 14 tuổi không được vào các đại lý Internet một mình...phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam, tuy nhiên việc thực thi các qui định có đạt kết quả khả quan không là vấn đề ta xem xét trong mục sau. Còn do văn hóa, quan điểm và trình độ còn nhiều khác biệt nên Việt Nam chưa thể học hỏi việc sử dụng hệ thống Phân loại Phần mềm Giải trí ESRB...hay việc sử dụng hệ thống có thể kiểm tra số chứng minh thư thông qua một cơ sở dữ liệu chung của toàn quốc gia. Qua phân tích, nghiên cứu cách quản lý của Mỹ về mạng và game nêu trên có lẽ Việt Nam cũng đã tìm ra bản chất lõi của tác nhân vào giới trẻ của mạng và game để có thể chấm dứt việc đổ lỗi lẫn nhau giữa cá nhân, gia đình và nhà trường của xã hội Việt Nam. 3.3. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN INTERNET VIỆT NAM THEO XU HƯỚNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ - Công nghệ thông tin - truyền thông, mạng Internet đã làm cho khoảng cách trên thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé. Tri thức và thông tin không biên giới đã đưa hoạt động kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu. Sự hội tụ công nghệ viễn thông - tin học - truyền thông quảng bá đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu và dẫn đến sự hình thành những loại hình dịch vụ mới, tạo ra khả năng mới và cách tiếp cận mới đối với phát triển kinh tế xã hội. Hòa với xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã tích cực và nỗ lực xây dựng định hướng chiến lược về Công nghệ Thông tin bắt nhịp với xu thế hội nhập của quốc tế. Định hướng của Việt Nam được cụ thể hóa bằng các văn bản (Quyết định, Thông tư của Chính phủ) trong đó nêu rõ các mục tiêu và giải pháp cụ thể để đạt được các mục tiêu đã đề ra. Trong hơn 10 năm xây dựng và phát triển sự nghiệp Công nghệ Thông
  • 96. 96 tin nước nhà, Chính phủ Việt Nam đã có hệ thống quyết sách chiến lược cho từng giai đoạn phát triển ngành Công nghệ trong chính sách phát triển dài hạn và các văn bản này đã được hệ thống và đề cập đến tại mục b khoản 2.1.3 chương II của luận văn. 3.3.1. Chính sách của nhà nước Chính sách phát triển công nghệ thông tin nói chung và Internet nói riêng của nhà nước Việt Nam được cụ thể hóa bằng các văn bản nêu trên trong đó nhà nước đưa ra các mục tiêu cần đạt trong từng giai đoạn: 3.3.1.1. Mục tiêu Giai đoạn 2001 - 2005 Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai đoạn 2001-2005 đã nêu rõ các mục tiêu tổng quát sau: - Đẩy nhanh việc phổ cập Internet trong mọi hoạt động của nền kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng với chất lượng tốt, giá cả thập hơn hoặc tương đương các nước trong khu vực. - Phát triển hạ tầng Internet trở thành môi trường ứng dụng thuận lợi các loại hình dịch vụ điện tử về thương mại, hành chính, báo chí, bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng, giáo dục đào tạo từ xa, y tế qua mạng...phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Tạo lập môi trường cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối (IXP), truy nhập (ISP) và ứng dụng (OSP) 3.3.1.2. Mục tiêu giai đoạn 2006-2010 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32/2006/QĐ-TTg ngày 07/02/2006 phê duyệt Qui hoạch phát triển viễn thông và Internet Việt Nam đến 2010. Trong đó nêu rõ các chỉ số mục tiêu, chỉ tiêu Internet Việt Nam đạt được các kết quả sau đến năm 2010.
  • 97. 97 a. Mục tiêu - Viễn thông Internet trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tỷ trọng đóng góp cho tăng trưởng GDP ngày càng tăng, tạo nhiều việc làm cho xã hội. Tốc độ tăng trưởng đạt 1,5 - 2 lần so với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, đến năm 2010 tổng doanh thu dịch vụ viễn thông và Internet đạt khoảng 55 ngàn tỷ đồng (3,5 tỷ USD) - Đẩy nhanh việc phổ cập viễn thông và Internet trên phạm vi cả nước, rút ngắn khoảng cách về sử dụng dịch vụ giữa các vùng, miền, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng. - Bảo đảm an toàn, an ninh thông tin cho các hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội - Cung cấp các dịch vụ viễn thông và Internet với chất lượng tốt, giá cước hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người sử dụng dịch vụ b. Chỉ tiêu - Chỉ tiêu phát triển dịch vụ: Cung cấp cho xã hội, người sử dụng các dịch vụ viễn thông và Internet hiện đại, đa dạng, phong phú với giá cước tương đương hoặc thấp hơn mức bình quân của các nước trong khu vực, đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng. Thực hiện phổ cập các dịch vụ viễn thông và Internet đến tất cả các vùng, miền trong cả nước với chất lượng dịch vụ và phục vụ ngày càng cao. Đến năm 2010, mật độ thuê bao Internet đạt từ 8 tới 12 thuê bao/100 dân (trong đó có 30/%) là thuê bao băng rộng), tỷ lệ người sử dụng Internet đạt 25% đến 35% dân số. Đảm bảo đa số cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên, bác sĩ, sinh viên đại học và cao đẳng, họ sinh trung học chuyên nghiệp và học sinh phổ thông trung học có điều kiện sử dụng Internet
  • 98. 98 Đẩy mạnh phổ cập dịch vụ điện thoại cố định và Internet đến tất cả các xã trong cả nước. Đến năm 2010 bảo đảm 100% số xã có điểm truy nhập dịch vụ điện thoại công cộng, 70% số xã có điểm truy nhập Internet công cộng, 100% số huyện hầu hết các xã trong các vùng kinh tế trọng điểm được cung cấp dịch vụ Internet băng rộng Bảo đảm 100% người sử dụng được truy nhập miễn phí đến các dịch vụ bắt buộc, thông tin cứu hỏa, cấp cứu y tế, thông tin khẩn cấp về an ninh, trật tự xã hội. Duy trì và mở rộng, bảo đảm thông tin tìm kiếm, cứu nạn và phòng chống thiên tai. - Chỉ tiêu phát triển mạng lưới: Đảm bảo tất cả các Bộ, ngành, cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền cấp quận, tỉnh được kết nối Internet băng rộng và kết nối với mạng diện rộng của chính phủ, 100% viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trung học phổ thông có kế nối để truy nhập Internet băng rộng, trên 90% các trường trung học cơ sở, bệnh viện được kết nối Internet. 3.3.1.3. Mục tiêu giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến 2020 Để định hướng và thúc đẩy phát triển Internet trong giai đoạn mới và từng bước hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực trong đó có cả lĩnh vực Internet, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số Quyết định số 158/2001/QĐ-TTg ngày 18/10/2001 về phê duyệt "Chiến lược phát triển Bưu chính, Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến 2020" và Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 Phê duyệt "Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020". Trong đó nêu rõ các mục tiêu phát triển như sau: + Mục tiêu 2005 đến 2015: Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia có công nghệ hiện đại ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực, có độ phủ rộng khắp trên
  • 99. 99 cả nước với thông lượng lớn, tốc độ và chất lượng cao, hoạt động hiệu quả, tạo điều kiện để toàn xã hội cùng khai thác, chia sẻ thông tin trên nền xa lộ thông tin quốc gia đã xây dựng; làm nền tảng cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Cung cấp cho xã hội, người tiêu dùng các dịch vụ BCVT hiện đại, phong phú, đa dạng với giá cả thấp hơn hoặc tương đương mức bình quân của các nước trong khu vực; đáp ứng mọi nhu cầu thông tin phục vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. Thực hiện phổ cập các dịch vụ BC,VT, Th tới tất cả các vùng miền trong cả nước với chất lượng phục vụ cao. Đến 2010 số mày điện thoại số người sử dụng Internet trên 100 dân đạt mức trung bình trong khu vực Xây dựng bưu chính - viễn phòng trong xu thế hội tụ công nghệ thành ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn hoạt động hiệu quả, đóng góp ngày càng cao vào tăng trưởng GDP của cả nước, tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội. Công nghệ thông tin và truyền thông có tốc độ tăng trưởng trên 20%/năm, đạt tổng doanh thu khoảng 15 tỷ USD. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông trong mọi lĩnh vực, khai thác có hiệu quả thông tin và tri thức trong tất cả các ngành. Xây dựng và phát triển Việt Nam điện tử vói công dân điện tử, Chính phủ điện tử, doanh nghiêp điện tử, giao dịch và thương mại điện tử để Việt Nam đạt trình độ khá trong khu vực ASEAN. Hình thành xã hội thông tin. + Các mục tiêu định hướng đến năm 2020: Chỉ thị 07/CT-BBCVT ngày 7/7/2007 về Định hướng Chiến lược phát triển Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (gọi tắt là "Chiến lược Cất cánh") đã đưa ra các mục tiêu định hướng cụ thể về việc phát triển công nghệ thông tin - truyền thông của Việt Nam đến năm 2020 như sau: Đến năm 2020 Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam trở thành một ngành quan trọng đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP với tỷ lệ
  • 100. 100 ngày càng tăng. Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong các nước ASEAN góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Hạ tầng Bưu chính Viễn thông và Công nghệ thông tin đạt các chỉ tiêu về mức độ sử dụng dịch vụ tương đương với mức bình quân của các nước công nghiệp phát triển, đa dạng các loại hình dịch vụ, bắt kịp xu thế hội tụ công nghệ và dịch vụ Viễn thông - Công nghệ thông tin - Truyền thông, hình thành hệ thống mạng tích hợp theo công nghệ thế hệ mới, băng thông rộng, dung lượng lớn, mọi nơi, mọi lúc với mọi thiết bị truy cập, đáp ứng nhu cầu ứng dụng Công nghệ thông tin và Truyền thông, rút ngắn khoảng cách số, bảo đảm tốt an ninh, quốc phòng. Ứng dụng Công nghệ thông tin và Truyền thông và Internet sâu rộng trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quản lý tạo nên sức mạnh và động lực để chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu suất lao động, tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ; góp phần xây dựng nhà nước minh bạch, hiệu lực, hiệu quả, dân chủ và phục vụ người dân ngày càng tốt hơn. Khai thác có hiệu quả thông tin và tri thức trong tất cả các ngành. Xây dựng và phát triển Việt Nam điện tử với công dân điện tử, chính phủ điện tử và doanh nghiệp điện tử, giao dịch và thương mại điện tử đạt trình độ nhóm các nước dẫn đầu khu vực ASEAN. Công nghiệp Công nghệ thông tin và Truyền thông trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và khâu quan trọng trong dây chuyền gia công, sản xuất và cung cấp toàn cầu, đảm bảo tăng trưởng tốc độ cao, công nghệ hiện đại, sản xuất nhiều sản phẩm Việt Nam ngày càng có hàm lượng sáng tạo cao. Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng trong lĩnh vực điện tử, phần cứng, phần mềm đạt trình độ nhóm nước phát triển trên thế giới. Phát triển mạnh công
  • 101. 101 nghiệp phần mềm, công nghiệp nội dung, coi trọng sở hữu trí tuệ và bản quyền tác giả. Nguồn nhân lực Công nghệ thông tin và Truyền thông đạt trình độ nhóm các nước dẫn đầu khu vực ASEAN về số lượng, trình độ và chất lượng đáp ứng các yêu cầu quản lý, sản xuất, dịch vụ và ứng dụng trong nước và xuất khẩu quốc tế. Phổ cập, xóa mù tin học, nâng cao trình độ, kỹ năng ứng dụng Công nghệ thông tin và Truyền thông cho người dân, đặc biệt thanh thiếu niên. 3.3.2. Thuận lợi, khó khăn và thách thức Để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu theo kế hoạch đặt ra, ta cần nhìn thấy được những khó khăn, thách thức và những thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch và chỉ tiêu đã đặt ra 3.3.2.1. Thuận lợi Trong thời gian qua nhờ sự quan tâm của Đảng và Chính phủ mà trực tiếp Thủ tướng Chính phủ là trưởng Ban chỉ đạo công nghệ thông tin - truyền thông quốc gia, hành lang pháp lý về phát triển công nghệ thông tin và Internet đã được kiện toàn, một số chính sách và văn bản quan trọng đã được phê chuẩn trong đó có một số đang được triển khai bao gồm: - Luật giao dịch điện tử; Luật công nghệ thông tin và các Nghị định hướng dẫn - Chiến lược, Qui hoạch phát triển tổng thể Thương mại điện tử 2010 - Chiến lược qui hoạch phát triển viễn thông và Internet đến năm 2010 - Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích đến năm 2010 - Thành lập Quĩ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam - Chương trình phát triển công nghệ phần mềm đến năm 2010 - Chương trình phát triển công nghiệp nội dung thông tin số đến năm 2010
  • 102. 102 Từ phía doanh nghiệp, một số doanh nghiệp lớn đã có nguồn lực nhất định và đã có kinh nghiệm trong cạnh tranh thị trường đã chủ động tích cực mạnh dạn áp dụng các biện pháp, chiến lược kinh doanh mang tầm dài hơi để ngày càng phát triển thị trường Internet ngày một toàn diện. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ, liên tục các công nghệ mới như Wifi, điện thoại IP, 3G, Wimax....sẽ thúc đẩy nhanh số lượng và mật độ thuê bao băng rộng cũng như khuyến khích các doanh nghiệp mới đầu tư vào kinh doanh Chất lượng và giá cả Internet sẽ ngày càng tốt hơn khi cạnh tranh càng mạnh, đặc biệt cạnh tranh về viễn thông. Để thu hút khách hàng, các doanh nghiệp đã chú trọng nhiều hơn đến mặt chất lượng dịch vụ, nghiên cứu và cung cấp thêm các loại hình dịch vụ mới trên nền tảng thuê bao có sẵn nhằm hướng tới sự tiện lợi cho khách hàng 3.3.2.2. Thách thức Bên cạnh những thuận lợi rất lớn, sự quan tâm của các cấp từ Chính phủ, các Bộ, ngànhh đến mọi người dân trong xã hội thì sự phát triển Internet trong giai đoạn tới cũng phải đương đầu với một số thách thức đòi hỏi phải có một chính sách phát triển linh hoạt, hợp lý, đó là: - Xu hướng hội tụ công nghệ và dịch vụ Viễn thông, Internet, truyền thông quảng bá dẫn đến ngày càng nhiều dịch vụ mới ra đời như truy nhập Internet qua mạng truyền hình cáp, trò chơi trực tuyến, điện thoại Internet... đòi hỏi cá cơ quan quản lý nhà nước phải có chính sách quản lý nhà nước phải chính sách quản lý các dịch vụ thật hợp lý thật hợp lý để tạo được sự phát triển bền vững và hài hòa được cả lợi ích của 3 chủ thể (nhà nước, doanh nghiệp, người sử dụng) - Ngày càng xuất hiện nhiều thông tin độc hại, không lành mạnh, những dịch vụ giải trí gây ảnh hưởng không tốt đến tầng lớp thanh thiếu niên, nạn virut, hacker, lừa đảo trên mạng xuất hiện phổ biến và mức độ ngày càng tinh vi hơn đòi hỏi phải có những biện pháp, chính sách nhằm định hướng người dân sử dụng Internet một cách hiệu quả nhất.
  • 103. 103 Với vai trò một kho dữ liệu vô tận, vô cùng quí giá, là một công cụ đắc lực trong phát triển nền kinh tế tri thức, nâng cao trình độ người dân nên song song với việc đưa viễn thông, Internet trở thành ngành kinh tế mũi nhọn thì nhà nước, doanh nghiệp cần chú trọng đến việc phổ cập Internet cho các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa để tạo điều kiện cho mọi người dân có cơ hội tiếp xúc với nền công nghệ hiện đại, tạo đà cho sự phát triển kinh tế xã hội. 3.3.2.3. Khó khăn Hạ tầng mạng là điều kiện cơ bản nhất để truy cập Internet. Ở nông thôn, mở rộng mạng lưới mới đang ở giai đoạn tiền đề, chưa thực sự được đầu tư thích đáng bởi vì các nhà cung cấp dịch vụ không có động lực kinh tế đầu tư xây dựng. Trong môi trường phát triển nóng và cạnh tranh mạnh như thị trường Việt Nam hiện nay, các nhà cung cấp dịch vụ không đủ sức quan tâm đến các khu vực chưa có lợi nhuận ngay. Do vậy, trước mắt việc xây dựng các chương trình, dự án tổng thể có sự chung tay, góp sức của đông đảo tất cả các thành phần trong xã hội từ cơ quan chính phủ, các doanh nghiệp đến các đội ngũ sinh viên tình nguyện từ các trường đại học, thu hút đầu tư nước ngoài là rất cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề này hiện nay cũng đang gặp phải nhiều khó khăn: - Khó tìm được nguồn kinh phí để triển khai các kế hoạch, chương trình, dự án. Đến nay chỉ có rất ít chương trình và dự án đã được phê duyệt đã chắc chắn có nguồn kinh phí như: chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích 2010 (Quĩ Viễn thông công ích), Dự án Internet cho cộng đồng (ODA Nhật Bản), Dự án công nghệ thông tin - truyền thông phục vụ phát triển (World Bank) - Một số chương trình, dự án khác không được phê duyệt hoặc không triển khai tiếp được vì thiếu kinh phí - Nguồn nhân lực nói chung còn yếu và thiếu, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý các dự án, xây dựng chính sách và thực thi pháp luật (bưu chính - viễn thông, Công an, Tòa án, kiểm sát...),
  • 104. 104 Bên cạnh đó, mặt trái của Internet xuất hiện ngày càng nhiều, ảnh hưởng đến an toàn mạng, an ninh thông tin và văn hóa xã hội đặc biệt những tác động không tốt đến lớp trẻ, thanh thiếu niên. Do vậy, song song với việc nỗ lực kiện toàn hệ thống mạng, phấn đấu tạo điều kiện cho mọi người dân được tiếp cận với Internet thì việc làm thế nào để hạn chế mặt trái của Internet một cách hiệu quả, phát huy mặt tích cực và giúp người dân sử dụng Internet một cách tốt nhất. 3.3.3. Định hướng và giải pháp để phát triển Internet Việt Nam theo xu hướng hội nhập quốc tế Để Internet Việt Nam từng bước phát triển và hội nhập với quốc tế, chúng ta đã có những định hướng và các giải pháp cho phát triển Internet trong giai đoạn tới như sau: 3.3.3.1. Về công nghệ, dịch vụ Khuyến khích tạo điều kiện để triển khai công nghệ mới, dịch vụ mới đặc biệt là truy nhập băng rộng. Nhanh chóng hoàn thành qui hoạch băng tần và tiêu chí cấp phép để hoàn thiện Wimax, 3G và tiến tới 4G. Chương trình Viễn thông công ích ưu tiên cho các dự án có kế hoạch triển khai băng rộng ở những địa phương khả thi về mặt kỹ thuật Hoàn thiện chính sách quản lý và phát triển điện thoại Internet để tạo điều kiện cho người sử dụng đặc biệt là nông thôn sử dụng dịch vụ điện thoại giá rẻ 3.3.3.2. Về tài nguyên Internet Để giải quyết vấn đề cạn kiệt tài nguyên, đòi hỏi trong thời gian tới cần từng bước triển khai Ipv6 và tiếp tục nghiên cứu chính sách triển khai ENUM. 3.3.3.3. Về ứng dụng và nội dung thông tin Mặc dù Luật giao dịch điện tử, Luật công nghệ thông tin đã được ban hành nhưng chưa thực sự đi vào cuộc sống do chưa có các văn bản hướng dẫn
  • 105. 105 chi tiết, đặc biệt liên quan đến thương mại điện tử. Do vậy thời gian tới các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục ban hành những văn bản điều chỉnh các lĩnh vực cụ thể phù hợp với xu hướng mới của công nghệ, ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 97. 3.3.3.4. Về an toàn, an ninh Thời gian gần đây vấn đề về an toàn thông tin, an ninh mạng đã được nhà nước chú trọng thể hiện trong Luật Công nghệ Thông tin, Luật Giao dịch điện tử, Nghị định 97, Nghị định về chữ ký số...tuy nhiên những văn bản này vẫn chưa đủ đề điều chỉnh hết cá hành vi phạm tội ngày càng tinh vi hơn. Quá trình phối hợp, kết hợp trong việc đối phó, giải quyết nhanh các sự cố cũng là một trong những khó khăn lớn hiện nay. Có một số loại sự cố đòi hỏi các bên có liên quan phải đồng loạt thực hiện một biện pháp thì mới mang lại hiệu quả. Một số sự cố lớn muốn giải quyết cần có thông tin, thiết bị, nguồn lực vượt quá khả năng của một đơn vị. Tuy nhiên, trách nhiệm giải quyết sự cố đôi khi không gắn liền trực tiếp hoặc đi ngược với quyền lợi của đơn vị tham gia giải quyết nên thường không được ủng hộ. Việc phải có một đơn vị theo dõi tình hình chung, cảnh báo sớm, điều phối các đơn vị khác cùng tham gia giải quyết các sự cố lớn vượt quá sự quan tâm của một đơn vị là một tất yếu. Hiện nay trong qui định về Chức năng, nhiệm vụ thì trung tâm VNCERT đang đảm nhiệm vai trò này. Tuy nhiên, việc điều phối là rất khó khăn và chưa đáp ứng được nhu cầu do chưa có qui chế điều phối, chưa có bộ phận chuyên trách cũng như kênh giao tiếp khẩn cấp. Do vậy, trong thời gian tới cần thực hiện ngay các công việc sau: - Khẩn trương triển khai và nâng cao năng lực kỹ thuật, con người của Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính quốc gia (VNCERT) - Nhanh chóng đưa Trung tâm chứng thực chữ ký số Quốc gia đi vào hoạt động để thúc đẩy dịch vụ chứng thực trong nước nhằm tạo ra môi trường an toàn, hiệu quả cho sự phát triển của thương mại điện tử
  • 106. 106 - Khẩn trương xây dựng và ban hành tiêu chuẩn đặc biệt là các tiêu chuẩn liên quan đến chữ ký số, dịch vụ chứng thực chữ ký số và tiêu chuẩn về an toàn thông tin và an ninh mạng - Tập trung đề án phòng chống các tội phạm công nghệ cao và nâng cao năng lực Phòng chống tội phạm công nghệ cao - Bổ sung qui định liên quan đến tội phạm mạng trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự (Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ ngành) 3.3.3.5. Về tổ chức và công tác thực thi Việc quản lý nhà nước về Internet và thúc đẩy phổ cập sử dụng Internet cần được tiến hành đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Trước sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước từ cấp Trung ương đến địa phương cần thường xuyên nâng cao năng lực quản lý nhằm có được những chính sách thúc đẩy hợp lý. Thời gian tới việc nhanh chóng triển khai có hiệu quả dự án công nghệ thông tin và Truyền thông để phát triển WB (word bank) chắc chắn sẽ góp phần thúc đẩy phát triển Internet mạnh hơn nữa. Bên cạnh việc xây dựng các chính sách hợp lý, công tác thanh kiểm tra các hoạt động của doanh nghiệp đặc biệt hoạt động liên quan đến kết nối mạng, giá cước, chất lượng, thanh tra, kiểm tra hoạt động của các đại lý Internet và việc phối hợp liên ngành cần phải thực hiện thường xuyên nhằm tại ra môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục định hướng nhằm nâng cao mặt bằng nhận thức về công nghệ thông tin của người dân bằng các hình thức: - Thực hiện đưa Internet vào chương trình đào tạo, giảng dạy trong các trường trung học cơ sở và các chương trình huấn luyện, hướng dẫn cho cán bộ công viên chức - Xây dựng chương trình phổ biến kiến thức về Internet trên các phương tiện thông tin truyền thông và ngay cả trên Internet
  • 107. 107 - Đẩy mạnh các hoạt động cung cấp trực tuyến các dịch vụ hành chính công, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, người dân qua mạng và đồng thời đa dạng hóa các hình thức trao đổi, giải đá, đối thoại với người dân như thông qua email, đối thoại trực tuyến, hội nghị truyền hình... Bên cạnh việc tiếp tục kiện toàn các văn bản điều chỉnh hoạt động về Internet, các bộ, ngành cần rà soát lại tính khả thi, nguồn kinh phí và có những điều chỉnh, kiến nghị kịp thời với Chính phủ nhằm tiếp tục triển khai các chương trình, dự án trọng điểm như: - Chương trình Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, phát triển Việt Nam điện tử:  Các dự án cấp quốc gia về xây dựng nền tảng cho phát triển công dân điện tử, doanh nghiệp điện tử, Chính phủ điện tử cụ thể như:  Đề án phát triển mạng và dịch vụ giáo dục - đào tạo ứng dụng trên Internet  Các dự án xây dựng triển khai hệ thống thông tin của các Bộ/ngành/CQQLNN  Chương trình phát triển công nghiệp nội dung thông tin số đến năm 2020  Chương trình phát triển công nghiệp phần mềm đến năm 2020  Xây dựng dự án máy tính giá rẻ cho nông thôn và trường học  Xây dựng chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó chú trọng lồng ghép các chương trình, dự án của các Bộ/ngành. - Chương trình phát triển hạ tầng viễn thông và Internet:  Các dự án cấp quốc gia về xây dựng nền tảng cho phát triển năng lực truy cập như xây dựng mạng diện rộng của Chính phủ; Kết nối Internet băng rộng cho tất cả các Bộ/ngành, viện nghiên cứu, trường học, bệnh viện....
  • 108. 108  Phát triển hệ thống các điểm Bưu điện văn hóa xã và các điểm truy cập Internet công cộng. Đưa Internet đến 100% các điểm Bưu điện văn hóa xã và các Trung tâm giáo dục cộng đồng, phục vụ ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông vào nông nghiệp và phát triển nông thôn. - Chương trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông:  Triển khai các chương trình đào tạo công nghệ thông tin - truyền thông cho cán bộ quản lý nhà nước, học sinh, sinh viên (khuyến khích các mô hình liên kết đào tạo nước ngoài)  Kết nối Internet cho các đối tượng trên  Phát triển mạng và các dịch vụ giáo dục, đào tạo ứng dụng trên Internet - Chương trình phát triển Công nghiệp công nghệ thông tin và Truyền thông:  Hình thành các quĩ đầu tư mạo hiểm thu hút vốn đầu tư cho phát triển công nghiệp công nghệ thông tin truyền thông; công nghệ phần mềm, nội dung số  Công nghiệp sản xuất thiết bị, máy tính, thiết bị viễn thông...  Phát triển công nghiệp phần mềm, dịch vụ chú trọng xuất khẩu các sản phẩm phần mềm. - Xây dựng môi trường thể chế, pháp lý, chính sách thúc đẩy ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin - truyền thông:  Các dự án cấp quốc gia về tăng cường năng lực quản lý công nghệ thông tin - truyền thông  Xây dựng thể chế, cơ chế quản lý điều hành ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông; hệ thống chuẩn thông tin và công nghệ thông tin - truyền thông quốc gia
  • 109. 109  Xây dựng, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính sách hỗ trợ thúc đẩy phát triển hạ tầng, thương mại điện tử, nhân lực, ứng dụng, Công nghệ công nghiệp, công nghệ thông tin - truyền thông 3.3.4. Hội nhập quốc tế về Internet Ngày 07/11/2006, tại Giơnevơ (Thụy sĩ) Việt Nam và WTO chính thức ký Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới của nước cộng hòa XHCN Việt Nam. Từ thời điểm đó Việt Nam bắt đầu bước vào một "sân chơi" mới về hoạt động thương mại với tất cả nước là thành viên của WTO. Ngày 29/11/2006, Quốc hội khóa 11 đã thông qua Nghị quyết số 71/2006/QHH11 về việc phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO của Việt Nam. Theo đó, Việt Nam sẽ áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam với WTO được qui định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định WTO. Trong trường hợp qui định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với qui định của Hiệp định thành lập WTO, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng qui định của Hiệp định thành lập WTO, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm. Theo danh mục phân loại ngành dịch vụ của Ban Thư ký WTO, có tất cả 11 ngành, và 155 phân ngành dịch vụ được các thành viên WTO tiến hành đàm phán. Theo phân loại của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GÁT thì dịch vụ thông tin bao gồm: dịch vụ chuyển phát, dịch vụ viễn thông (trong đó có Internet), dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan là 1 trong 11 ngành phải đàm phán GATS qui định 4 phương thức cung cấp dịch vụ gồm: - Phương thức (1): Phương thức cung cấp qua biên giới, theo đó dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một Thành viên này sang lãnh thổ của một Thành viên khác, tức là không có sự di chuyển của người cung cấp dịch vụ và
  • 110. 110 người tiêu thụ dịch vụ sang lãnh thổ của nhau. Ví dụ như các dịch vụ tư vấn có thể cung cấp theo phương thức này. - Phương thức (2): Phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ, theo đó người tiêu dùng của một Thành viên di chuyển sang lãnh thổ của một thành viên khác để tiêu dùng dịch vụ. Ví dụ: khách du lịch nước ngoài sang Việt Nam - Phương thức (3): Phương thức hiện diện thương mại, theo đó nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên thiết lập các hình thức hiện diện như công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, chi nhánh...trên lãnh thổ của một Thành viên khác để cung cấp dịch vụ. Ví dụ Ngân hàng của Mỹ thành lập chi nhánh kinh doanh tại Việt Nam - Phương thức (4): Phương thức hiện diện thể nhân, theo đó thể nhân cung cấp dịch vụ của một Thành viên di chuyển sang lãnh thổ cua một Thành viên khác để cung cấp dịch vụ. Ví dụ các nghệ sĩ nước ngoài sang Việt Nam biểu diễn. Trong biểu cam kết cụ thể về thương mại, dịch vụ gia nhập WTO, Việt Nam cam kết gia nhập WTO đối với dịch vụ Internet như sau: - Hạn chế về đãi ngộ (đối xử) quốc gia: Đối với dịch vụ IXP, ISP, phương thức (1), (2), (3) không hạn chế, phương thức (4) chưa cam kết - Hạn chế về tiếp cận thị trường: Đối với dịch vụ IXP, ISP + Phương thức (1): Dịch vụ hữu tuyến và di động mặt đất Dịch vụ phải được cung cấp thông qua thỏa thuận thương mại với pháp nhân được thành lập tại Việt Nam và được cấp phép cung cấp dịch vụ viễn thông quốc tế)
  • 111. 111 Dịch vụ viễn thông vệ tinh Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải có thỏa thuận thương mại với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông vệ tinh quốc tế Việt Nam được cấp phép, trừ trường hợp dịch vụ viễn thông vệ tinh cung cấp cho: Ngay khi gia nhập: Các dịch vụ cho cá khách hàng kinh doanh ngoài biển, các Cơ quan chính phủ, các nhà cung cấp dịch vụ có hạ tầng mạng, các nhà phát thanh và truyền hình quảng bá, các văn phòng đại diện của các tổ chức quốc tế chính thức, các cơ quan đại diện ngoại giao và lãnh sự, các khu phát triển phần mềm và khu công nghệ cao đã được cấp phép sử dụng trạm vệ tinh mặt đất. Ba năm sau khi gia nhập: các công ty đa quốc gia được cấp phép sử dụng trạm vệ tinh mặt đất + Phương thức (2): không hạn chế + Phương thức (3): Các dịch vụ không có hạ tầng mạng Ngay sau khi gia nhập: cho phép liên doanh với các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông được cấp phép tại Việt Nam. Phần vốn góp của phía nước ngoài liên doanh không được phép vượt quá 51% vốn pháp định của liên doanh Ba năm sau khi gia nhập: cho phép liên doanh và tự do chọn đối tác. Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không được vượt quá 65% vốn pháp định của liên doanh. Các dịch vụ có hạ tầng mạng Đối với IXP: ngày sau khi gia nhập cho phép liên doanh với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông được cấp phép tại Việt Nam. Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không được vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh. 51% cho nắm quyền kiểm soát trong việc quản lý liên doanh. Trong ngành Viễn thông, các nhà đầu tư nước ngoài tham gia các hợp đồng BCC sẽ có thể ký mới thỏa thuận hiện tại hoặc chuyển sang hình thức hiện diện khác với điều kiện không kém thuận lợi hơn điều kiện họ được hưởng.
  • 112. 112 Đối với ISP: Ngay sau khi gia nhập cho phép BCC hoặc liên doanh với nhà cung cấp dịch vụ Viễn thông được cấp phép tại Việt Nam. Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không được vượt quá 50% vốn pháp định của liên doanh. + Phương thức (4): chưa cam kết Như vậy qua việc thực hiện các cam kết với WTO cho thấy chúng ta đã từng bước hội nhập với quốc tế trên mọi lĩnh vực, trong đó có cả Internet. Cho đến hiện nay chúng ta tự hào đã có một cơ sở hạ tầng kỹ thuật về Internet với chất lượng dịch vụ bằng và vượt một số nước trong khu vực và thế giới, trong khi giá cả dịch vụ Internet từng bước được giảm xuống thấp hơn một số nước. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Ý nghĩa và vai trò của Công nghệ thông tin nói chung và Internet nói riêng trong phát triển xã hội ngày nay ở nước ta và trên thế giới đã được thừa nhận và khẳng định. Nhận thức được điều đó nhà nước ta đã xác định Công nghệ là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và được cụ thể hóa bằng các đường lối, chính sách, chiến lược... trong các văn bản pháp qui. Chương 3 đã phân tích chi tiết các văn bản quản lý nhà nước hiện hành điều chỉnh lĩnh vực Internet nói riêng và Công nghệ thông tin nói chung của Việt Nam. Nêu lên hiện trạng, các điểm mạnh, điểm yếu cũng như các giải pháp đã và đang thực hiện cũng như các giải pháp thực hiện trong tương lai. Trước yêu cầu của xu thế hội nhập Quốc tế, cùng với nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội với phát triển công nghệ nước nhà, chúng ta phải nâng cao hiệu quả áp dụng những qui định của pháp luật về lĩnh vực Viễn thông - Công nghệ thông tin nói chung và hoàn thiện các qui định về dịch vụ Internet nói riêng. Đây cũng chính là mục tiêu, nhiệm vụ đã được Đảng, Nhà nước ta đặt lên hàng đầu trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đưa pháp luật Việt Nam cùng hòa nhập với pháp luật khu vực và pháp luật quốc tế.
  • 113. 113 KẾT LUẬN Trong hơn 10 năm qua kể từ khi có mặt tại Việt Nam dịch vụ Internet đã phát triển nhanh, khá ấn tượng và đạt được một số thành tựu nhất định, tạo bước đột phá cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Ngành Viễn thông đã có tốc độ tăng trưởng vào loại nhanh nhất thế giới, chúng ta đã phá đi tình trạng độc quyền một doanh nghiệp và tạo ra một môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông, về cơ bản môi trường pháp lý là phù hợp với yêu cầu của hội nhập. Sau hơn mười năm triển khai Internet tại Việt Nam đã đạt được những kết quả khả quan và khá toàn diện. Có thể đánh giá sơ bộ về kết quả đạt được của Internet sau hơn mười năm gia nhập với Internet toàn cầu như sau: - Cơ chế, chính sách pháp luật: đã tạo ra môi trường cạnh tranh và có những chính sách thúc đẩy phát triển Internet hiệu quả - Mạng lưới và dịch vụ: Có được sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng người sử dụng, phát triển mạnh mẽ về hạ tầng mạng và dịch vụ, đạt và vượt chỉ tiêu đề ra theo kịp trình độ phát triển chung của thế giới - Về ứng dụng: Đã có được một số kết quả tuy nhiên cần chú trọng triển khai các biện pháp để bảo đảm vấn đề an toàn mạng và nội dung thông tin. - Về an toàn, an ninh mạng: Đã có được một số kết quả tuy nhiên cần chú trọng triển khai các biện pháp để đảm bảo vấn đề an toàn mạng và nội dung thông tin - Tổ chức thực thi pháp luật: Nâng cao hơn nữa năng lực xây dựng chính sách và thực thi đặc biệt chú trọng phân cấp và đầu tư nguồn lực cho các sở thông tin truyền thông Đạt được kết quả trên do có sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và việc triển khai ứng dụng Internet của các bộ, ngành đặc biệt trong các lĩnh
  • 114. 114 vực giáo dục, nghiên cứu, thương mại, tài chính, ngân hàng, y tế, kế hoạch đầu tư... Bên cạnh các kết quả đạt được nêu trên, còn có những hạn chế cần khắc phục để thúc đẩy Internet Việt Nam phát triển hơn nữa, tiến kịp với các nước cụ thể như sau: - Chênh lệch sử dụng dịch vụ Internet giữa nông thôn và thành thị còn lớn, cần nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo trong thời gian tới - Việc triển khai ứng dụng Internet trong các CQNN còn chậm; nhìn chung các ứng dụng còn ít và các nội dung trên mạng còn nghèo nàn, đặc biệt là cho nông thôn và y tế giáo dục - Công tác thẩm định, cấp phép còn chậm - Chưa kịp thời và kiên quyết xử lý trong công tác quản lý doanh nghiệp đối với dịch vụ internet như chậm triển khai giấy phép, không báo cáo theo qui định... - Năng lực của một số Sở TTTT chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước tại địa phương Internet Việt Nam phát triển có những nhân tố thuận lợi nhưng cũng có nhiều thách thức, đòi hỏi chúng ta phải có những quyết sách và nỗ lực lớn để đạt được và vượt những mục tiêu đã đề ra nhằm khai thác hết tiềm năng, lợi ích của Internet, theo kịp trình độ phát triển của các nước, đặc biệt sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO tháng 12/2006, cùng với những cơ hội hợp tác phát triển là những thách thức khi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam đòi hỏi các doanh nghiệp viễn thông, trong nước cần phải nỗ lực hơn nữa nhằm nâng cao tiềm lực, khả năng của mình. Trong thời gian tới, các bộ, ngành, tổ chức, doanh nghiệp và mọi công dân phải cùng nhau hợp lực để thúc đẩy việc ứng dụng Internet trong mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề đặc biệt tận dụng ứng dụng Internet trong các cơ quan
  • 115. 115 nhà nước để đưa thông tin và các dịch vụ công đến với người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân và các cơ quan, tổ chức cùng nhau khai thác có hiệu quả những thông tin do Internet mang lại. Như vậy để Internet phát triển mạnh trở thành một công cụ hữu ích cần có sự tham gia của cả chính phủ, doanh nghiệp và xã hội; là trách nhiệm của nhiều bộ, ngành, tổ chức, đoàn thể có liên quan. Do đó, việc phối hợp liên ngành là kết sức cần thiết không chỉ trong các đề án, dự án phát triển viễn thông, công nghệ thông tin nông thôn mà cả trong phối hợp giải quyết các sự cố về an ninh mạng. Song song với biện pháp để thúc đẩy Internet luôn phải có những chính sách và biện pháp nhằm phát huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế tiêu cực của Internet đặc biệt là đối với trẻ em, vị thành niên định hướng cho người dân sử dụng Internet một cách hiệu quả.
  • 116. 116 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Châu An (2010), "Câu chuyện của một người vô gia cư dùng Ipad", vnexpress.net, ngày 13/10. 2. Bộ Bưu chính Viễn thông (2007), Chỉ thị 07/CT/BBCVT ngày 07/7 về định hướng chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội. 3. Bộ Bưu chính Viễn thông (2007), Báo cáo tổng kết tình hình phát triển Internet 1997-2007 và phương hướng thúc đẩy phát triển Internet trong giai đoạn mới, Hà Nội. 4. Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Văn hóa thông tin, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và đầu tư (2005), Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BBCVT- BVHTT-BCA-BKHĐT ngày 14/7 về quản lý đại lý Internet, Hà Nội. 5. Bộ Nội vụ (2010), Thông tư số 05/2010/TT-BNV ngày 01/7 hướng dẫn về cung cấp, quản lý và sử dụng dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng phục vụ các cơ quan thuộc hệ thống chính trị, Hà Nội. 6. Bộ Thông tin truyền thông (2008), Thông tư số 07/2008/TT-BTTTT ngày 18/12 hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cung cấp thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân và thông tin điện tử trên Internet, Hà Nội. 7. Bộ Thông tin Truyền thông (2008), Thông tư 09/2008/TT-BTTTT ngày 24/12 hướng dẫn về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet, Hà Nội. 8. Bộ Thông tin truyền thông (2010), Thông tư số 14/2010/TT-BTTTT ngày 29/6 qui định chi tiết một số điều của Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet, Hà Nội. 9. Bộ Văn hóa thông tin (2002), Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT ngày 10/10 ban hành Quy chế quản lý và cấp giấy phép cung cấp thông tin, thiết lập trang tin điện tử trên Internet, Hà Nội.
  • 117. 117 10. Bộ Văn hóa thông tin, Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Công an (2006), Thông tư liên tịch số 60/2006/TTLT-BVHTT-BCVT-BCA ngày 01/6 về quản lý trò chơi trực tuyến, Hà Nội. 11. Chính phủ (2001), Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet, Hà Nội. 12. Chính phủ (2001), Quyết định 158/2001/QĐ-TTg ngày 18/10 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển Bưu chính - Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 13. Chính phủ (2002), Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg ngày 08/02 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai đoạn 2001-2005, Hà Nội. 14. Chính phủ (2002), Quyết định số 95/2002/QĐ-TTg ngày 17/7 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch tổng thể ứng dụng và phát triển CNTT ở Việt Nam đến 2005, Hà Nội. 15. Chính phủ (2004), Nghị định số 160/2004/NĐ-CP ngày 3/9 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông về viễn thông, Hà Nội 16. Chính phủ (2005), Quyết định 246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển Công nghệ Thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 17. Chính phủ (2006), Quyết định số 32/2006/QĐ-TTg ngày 07/02 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Qui hoạch phát triển viễn thông và Internet Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội. 18. Chính phủ (2006), Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6 quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện, Hà Nội. 19. Chính phủ (2007), Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/2 quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số, Hà Nội.
  • 118. 118 20. Chính phủ (2008), Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28/8 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet, Hà Nội. 21. Chính phủ (2009), Nghị định số 28/2009/NĐ-CP ngày 20/3 về xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý, cung cấp sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet, Hà Nội. 22. Chính phủ (2009), Báo cáo về tình hình nhân quyền của Việt Nam trước Hội đồng Nhân quyền thế giới theo cơ chế kiểm điểm định kỳ (UPR) của Liên hiệp quốc trong khuôn khổ khóa họp thứ 5 ngày 8/5, tại Geneve, Thụy sĩ. 23. Chính phủ (2009), Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 24. Chính phủ (2011), Nghị định số 25/2011/NĐ-CP ngày 6/4 hướng dẫn Luật Viễn thông, Hà Nội 25. Nguyễn Bá Diến (2005), Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 26. T. Hoa (2011), "80% trẻ dưới 5 tuổi ở Mỹ sử dụng Internet", tin 247.com, ngày 24/4. 27. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị, Geneve, Thụy sĩ. 28. Hồng Loan (2012), "Tổng kết Nghị định 97/2008/NĐ-CP và triển khai xây dựng Nghị định mới về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và nội dung thông tin trên mạng", mic.gov.vn, ngày 8/5. 29. Xuân Nguyễn (2011), "Thực chất của sự quản lý Internet tại Việt Nam", cpv.org.vn, ngày 18/2. 30. Nghiên cứu sinh Đại học Northumbria (2012), "Bắt nạt công nghệ cao", tuoitre.vn, ngày 26/2. 31. Quốc hội (1989), Luật Báo chí, Hà Nội.
  • 119. 119 32. Quốc hội (2004), Luật xuất bản, Hà Nội. 33. Quốc hội (2005), Luật Giao dịch điện tử, Hà Nội. 34. Quốc hội (2006), Luật Công nghệ thông tin, Hà Nội. 35. Quốc hội (2006), Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29/11 về việc phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO của nước Việt Nam, Hà Nội. 36. Quốc hội (2009), Luật Viễn thông, Hà Nội. 37. Quang Thuần (2011), "Lạc hậu trong quản lý Internet", thanhnien.com.vn, ngày 24/10. 38. Tổ chức Thương mại Thế giới (2006), Biểu cam kết cụ thể về thương mại dịch vụ gia nhập WTO của Việt Nam, Gieneve, Thụy Sĩ. 39. Bảo Trung (2007), "Internet đã biến đổi sâu sắc nhiều mặt của đời sống", vietbao.vn, ngày 30/11. 40. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2010), Quyết định số 15/2010/QĐ-UBND ngày 26/4 qui định về việc quản lý giờ giấc hoạt động của các đại lý Internet và hành vi người sử dụng, Hà Nội. 41. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông, Hà Nội. 42. Thiện Văn (2012), "Internet, người bạn của Việt Nam", qdnd.vn, ngày 24/4. 43. Thiện Vũ (2007), "Internet Việt Nam - Câu chuyện 10 năm", tbvtsg.com.vn, ngày 10/11.