ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM THỊ HIẾU
THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI,
NGUYỄN DU TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Thừa Thiên Huế, Năm 2018
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
i
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM THỊ HIẾU
THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI,
NGUYỄN DU TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số :
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
THEO ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. NGÔ THỜI ĐÔN
Thừa Thiên Huế, Năm 2018
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận
văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kì một
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Hiếu
iii
Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân còn nhờ có sự
hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của các quý thầy cô giáo, của gia đình và bạn bè.
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến
Thầy giáo TS. Ngô Thời Đôn người đã tận tâm hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô giáo khoa
Ngữ văn, phòng Đào tạo Sau Đại học, Đại học Huế đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu cùng các đồng nghiệp nơi công
tác Trường THPT Vinh Xuân đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
Phạm Thị Hiếu
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
1
MỤC LỤC
PHỤ BÌA .................................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... ii
LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................... iii
MỤC LỤC..................................................................................................................1
DANH MỤC BẢNG..................................................................................................3
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................4
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................5
2.1. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi ........................................................................5
2.2. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Du..........................................................................7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................10
3.1. Đối tượng nghiên cứu: .......................................................................................10
3.2. Phạm vi nghiên cứu............................................................................................10
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................10
5. Đóng góp của đề tài...............................................................................................11
6. Bố cục của luận văn ..............................................................................................11
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................12
Chƣơng 1. THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU TRONG
MẠCH THƠ CỔ PHONG TRUNG ĐẠI VIỆT NAM ........................................12
1.1. Một số vấn đề về thơ cổ phong ..........................................................................12
1.1.1. Nguồn gốc của thơ cổ phong ..........................................................................12
1.1.2. Khái niệm thơ cổ phong..................................................................................13
1.1.3. Thơ cổ phong và sự xuất hiện thơ cổ phong chữ Hán trong văn học trung đại .....17
1.2. Thi pháp và thi pháp học....................................................................................20
1.3. Nguyễn Trãi và thơ chữ Hán..............................................................................23
1.3.1. Cuộc đời ..........................................................................................................23
1.3.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi........................................................................25
1.4. Nguyễn Du và thơ chữ Hán................................................................................28
1.4.1. Cuộc đời ..........................................................................................................28
1.4.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du .........................................................................30
2
Chƣơng 2. THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI,
NGUYỄN DU.......................................................................................................... 33
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du ............................................................................................................................. 33
2.1.1. Quan niệm về con người đời tư trong thơ cổ phong Nguyễn Du................... 33
2.1.2. Quan niệm về con người - nhân vật lịch sử Trung Hoa trong thơ cổ phong
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du......................................................................................... 57
2.2. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du ............................................................................................................... 65
2.2.1. Không gian nghệ thuật .................................................................................. 65
2.2.2. Thời gian nghệ thuật....................................................................................... 77
Chƣơng 3. THỂ THƠ, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU THƠ CỔ PHONG
NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU ........................................................................... 82
3.1. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ở phương diện thể thơ ...................... 82
3.2. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ở phương diện ngôn ngữ.................. 86
3.2.1. Từ vựng .......................................................................................................... 87
3.2.2. Biện pháp tu từ cú pháp.................................................................................. 96
3.3. Giọng điệu nghệ thuât ..................................................................................... 103
3.3.1. Giọng điệu khái quát, triết lí......................................................................... 103
3.3.2. Giọng điệu đối thoại - tranh biện ................................................................. 109
3.3.3. Giọng điệu u buồn........................................................................................ 115
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................... 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 123
3
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Các nhân vật lịch sử được nhắc đến trong thơ cổ phong Nguyễn Du......57
Bảng 3.1. Những bài thơ và câu thơ có sử dụng từ láy trong thơ cổ phong của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du..........................................................................................87
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Khi nhắc đến những tác giả của nền văn học trung đại Việt Nam, ta sẽ
không thể nào quên hình ảnh của một con người chịu nhiều oan khiên trong cuộc
sống, với nỗi đau mà sau 20 năm mới được hóa giải. Người mà tôi muốn nói đến
chính là đại thi hào Nguyễn Trãi, một con người với tâm hồn trong sáng, một trái tim
luôn tràn đầy lòng nhiệt huyết và tình yêu thương, suốt cả cuộc đời luôn cống hiến
hết mình cho dân tộc. Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến một con người tài năng hiếm
có: nhà tư tưởng, nhà chính trị - nhà quân sự, nhà ngoại giao. Nguyễn Trãi còn được
người đời biết đến với tư cách nhà một nhà văn nhà thơ kiệt xuất. Ông để lại một sự
nghiệp thơ văn khá lớn được sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm, những áng thơ văn
có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử văn học nước nhà. Chính vì vậy, Nguyễn Trãi
được ca ngợi: “là ngôi sao sáng trên văn đàn Việt Nam thế kỉ XV, cũng là ngôi sao
sáng trên văn đàn thế giới”. Nổi bật trong dòng chảy ấy là sự xuất hiện của nhiều tác
giả văn học có tên tuổi như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương,
Huyện Thanh Quan… nhưng tôi còn rất ấn tượng với tác giả Nguyễn Du với kiệt tác
Truyện Kiều bất hủ luôn trường tồn mãi với thời gian. Chỉ với Truyện Kiều cũng đủ
để Nguyễn Du trở thành một danh nhân văn hóa thế giới, đại thi hào của dân tộc.
Nguyễn Du còn để lại ba tập thơ chữ Hán càng khẳng định thêm tài năng cũng như sự
nghiệp thơ văn trong nền văn học nước nhà.
1.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du được sáng tác với nhiều thể
loại khác nhau và được các nhà nghiên cứu đánh giá cao. Khi đánh giá về thơ chữ
Hán của Nguyễn Trãi, Phạm Thị Ngọc Hoa đã nhận xét: “Thơ chữ Hán của Nguyễn
Trãi có khả năng sống mãi với thời gian, bởi chất xúc cảm chân thành trong thơ ông
là vô hạn. Thơ ông là một sáng tạo, không phải của từ ngữ, mà của nội dung tâm
hồn” [19]. Còn Mai Quốc Liên đã khẳng định: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những
áng văn chương nghệ thuật tuyệt tác, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó
mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà
cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung quốc nữa” [31, tr. 7]. Từ những ý nghĩa
và giá trị to lớn của thơ văn chữ Hán của hai tác giả. Chúng tôi vận dụng thi pháp
vào nghiên cứu thơ cổ phong trong thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Thơ cổ
phong tuy chiếm số lượng ít nhưng lại có ưu thế trong việc phản ánh hiện thực cuộc
5
sống một cách đầy đủ, chi tiết, có khả năng giãi bày tâm trạng, bộc lộ thế giới nội
tâm ở nhiều cung bậc cảm xúc vô cùng phong phú. Việc thực hiện đề tài “Thơ cổ
phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp” nhằm mục đích đi sâu tìm
hiểu một số phạm trù của thi pháp như thể loại (vận, luật, ngôn ngữ), một số
phương diện như: hình tượng về con người; không gian, thời gian nghệ thuật; ngôn
ngữ nghệ thuật. Đề tài tập trung vào các phương diện trên vì đây là những phạm trù
cơ bản, quan trọng nhất của thi pháp đồng thời còn làm nổi bật đặc điểm về mặt
hình thức cũng như nội dung của tác phẩm văn học.
1.3. Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thơ văn
chữ Hán Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Mỗi công trình nghiên cứu đều được tiếp cận ở
những góc độ khác nhau góp phần phân tích, đánh giá một cách toàn diện thơ chữ
Hán Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và khẳng định vị trí của hai thi hào trong nền văn học
dân tộc. Nhưng chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào
nghiên cứu thể thơ cổ phong trong thơ chữ Hán. Ở góc độ tiếp nhận mới, chúng tôi
chọn đề tài “Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp” để
nghiên cứu văn phong của hai tác giả. Tiến hành tìm hiểu nhóm thơ cổ phong trong
tập thơ chữ Hán: “Ức Trai thi tập” của Nguyễn Trãi và ba tập thơ Thanh Hiên thi
tập; Nam trung tạp ngâm; Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du. Qua việc tìm hiểu
nhóm bài thơ cổ phong, chúng tôi bày tỏ lòng kính trọng dành cho hai tác giả, đồng
thời thấy được những đóng góp của hai nhà thơ về thể loại này. Nghiên cứu thơ cổ
phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du góp phần giúp bản thân hiểu rõ hơn về sự hình
thành và phát triển của thơ cổ phong trong nền văn học trung đại Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi
Trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Trãi đã để lại một số lượng tác phẩm văn
học có giá trị. Thơ văn ông cũng rất đa dạng nên được giới nghiên cứu quan tâm.
Chính vì vậy, số lượng công trình nghiên cứu về thơ văn và cuộc đời Nguyễn Trãi
khá nhiều. Sau đây chúng tôi xin điểm qua một số công trình, bài báo nghiên cứu
tiêu biểu về cuộc đời cũng như thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi.
Theo Võ Nguyên Giáp, khi viết về Nguyễn Trãi trong chuyên luận: Nguyễn
Trãi người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất đã nhận định rằng:
Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà tư tưởng lớn,
nhà chiến lược thiên tài. Phần nói về nhà tư tưởng lớn, Võ Nguyên Giáp nhấn
6
mạnh: “Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là kết tinh những tư tưởng tiến bộ,
những giá trị tinh thần và văn hóa của dân tộc ta từ buổi đầu dựng nước cho đến thế
kỉ XV. Tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi vận dụng thành công và phát triển
rực rỡ trong sự nghiệp giải phóng đất nước tạo nên một bước tiến mới trong lịch sử
tư tưởng của dân tộc” [11, tr. 28].
Phạm Thị Ngọc Hoa trong bài viết “Nghệ thuật sử dụng điển trong Ức Trai thi
tập của Nguyễn Trãi” đăng trên (Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (81) 2007 trong bài viết tác
giả khẳng định: “Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi chủ yếu thuộc thể Đường luật.
Ngoài hai bài Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên làm theo thể trường thiên cổ thể
và Côn Sơn ca theo thể trường thiên đoản cú, còn lại là thơ ngũ ngôn, thất ngôn tứ
tuyệt và thất ngôn bát cú… thơ Nguyễn Trãi vẫn đầy sự sáng tạo và có sức lay động
mạnh mẽ lòng người bằng sự chân thật tự thân của nó! “Nguyễn Trãi đã gieo vần theo
một lối thi luật riêng, tự nhiên hơn, phù hợp hơn với cộng đồng người Việt” [20].
Viện sử học, Nguyễn Trãi toàn tập (1976). NXB Khoa học xã hội nhận định
“Duy có Nguyễn Trãi là vị anh hùng cứu quốc không những để lại sự nghiệp còn
ghi trong chính sử, mà còn để lại khá nhiều tác phẩm nói lên tư tưởng của ông về
các mặt triết học, quân sự, chính trị và thơ văn hết sức quý báu” [69, tr.7].
Tác giả Nguyễn Huệ Chi với bài viết “Niềm thao thức lớn trong thơ Nguyễn
Trãi” đã đem đến cách nhìn nhận mới trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi “Đọc
Tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi ta lại bị cuốn hút vào cái màu sắc của một thiên
nhiên vô vàn hùng tráng; ta say mê trước khí tượng của sông núi được nhắc đến
trong thơ và trên từng câu thơ trữ tình thắm thiết, ta bỗng lặng người đi trước bề sâu
của một tâm hồn vĩ đại ” [47, tr. 453,454].
Đây cũng là quan điểm của tác giả Đinh Thị Khang với bài viết “Thơ
Nguyễn Trãi viết về giai nhân” in trên tạp chí VHNT số 333 tháng 3-2012 có
nhận định “Tập thơ đã bao quát một không gian thiên nhiên rộng lớn, từ di tích
lịch sử đến danh lam thắng cảnh, từ vẻ kỳ vĩ hùng tráng đến vẻ mỹ lệ nên thơ.
Thơ Ức Trai đem đến sức cuốn hút của một thiên nhiên hùng tráng: nơi cửa
biển Thần Phù, núi rừng Lam Sơn, cửa biển Bạch Đằng - những địa điểm liên
quan đến cuộc kháng chiến chống xâm lược thời Trần, thời Lê. Khí tượng sông
núi, vẻ hùng vĩ của thiên nhiên kỳ tích được mô tả với bút pháp và phép liên
tưởng truyền thống của thơ ca trung đại” [26].
7
Tác giả Trần Thị Băng Thanh trong bài viết “Ức Trai thi tập và thơ chữ Hán
đời Trần” đã đưa ra nhận xét “Ở phần thơ chữ Hán này Nguyễn Trãi “giữ lại” nét
hào hùng, kiên nghị, khí phách của nhà thơ thời chống quân Nguyên thế kỷ XIII,
Nguyễn Trãi cũng “giữ lại” tính triết lí sâu sắc mà phóng khoáng, táo bạo của tinh
thần thiền đời thịnh Trần, đồng thời với sự tiếp thu nét ưu tư, thương dân, băn
khoăn về trách nhiệm kẻ sĩ của các nhà thơ cuối Trần mà nổi bật hơn cả là Trần
Nguyên Đán và Nguyễn Phi Khanh…” [47, tr. 521].
Tác giả Bùi Duy Tân lại đem đến đề tài“Anh hùng và cảm quan anh hùng qua
thơ văn Nguyễn Trãi” trong bài viết tác giả đưa ra nhận định “Cảm quan anh hùng
của Nguyễn Trãi vừa có tính hàm súc vừa có tính nhạy bén, tinh tế. Với tâm hồn
của một người nghệ sĩ, với trí tuệ của một nhà tư tưởng lớn của thời đại, Nguyễn
Trãi đều cảm nhận được, tổng kết được. Những tư tưởng nhân nghĩa, khử bạo, an
dân, thương dân… Từ quan niệm anh hùng đến cảm quan anh hùng, có thể thấy
Nguyễn Trãi đã có những đóng góp không nhỏ vào truyền thống viết về người anh
hùng của văn học dân tộc” [47, tr. 542].
Những công trình bài viết trên chính là cơ sở là tiền đề cho chúng tôi tiếp tục
đi sâu nghiên cứu, khám phá thêm những cái hay, cái đẹp trong thơ văn chữ Hán
của Nguyễn Trãi. Nhưng do tính chất, phạm vi, mục đích của các công trình, các bài
viết, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu nào đi vào nghiên cứu thơ
cổ phong trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi. Mặc dù, nhóm thơ cổ phong của
Nguyễn Trãi chỉ chiếm một con số rất nhỏ, nhưng không phải vì thế mà nó không
có giá trị, tìm hiểu thơ cổ phong Nguyễn Trãi để hiểu rõ hơn về con người cũng như
giá trị thơ văn Nguyễn Trãi để lại cho nền văn học dân tộc.
2.2. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Du
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du trong những năm gần đây rất được các nhà
nghiên cứu quan tâm, vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu về sáng tác
thơ chữ Hán của ông. Tuy nhiên, theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì do mục đích của
các công trình chi phối nên vẫn chưa có một nghiên cứu nào đi sâu vào tìm hiểu về
thể thơ cổ phong trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
Đào Duy Anh trong bài viết Thi tập của Nguyễn Du trong công trình Khảo
luận về Kim Vân Kiều, (Nhà xuất bản Quan Hải tùng thư, 1943) lần đầu tiên vị trí
của thơ chữ Hán Nguyễn Du được khẳng định “về hình thức cũng như về nội dung,
8
thơ chữ Hán Nguyễn Du có thể để vào hàng với thơ Cao Bá Quát và có thể đem so
sánh với thơ Đường” [1, tr. 207].
Tác giả Xuân Diệu trong bài viết “Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán”
đã có nhận xét: “Thơ chữ Hán chứa đựng bóng hình, đời sống, nét mặt, mái tóc, dấu
chân, tâm tình, suy nghĩ của Nguyễn Du” không những thế Xuân Diệu còn khẳng
định “Những bài thơ chữ Hán mở cho ta thấy “cái khía cạnh Tố Như”. Có thể nói là
lần đầu tiên, nhiều người trong chúng ta mới được nhìn một số nét về con người của
tác giả Truyện Kiều và Văn chiêu hồn”. [10, tr. 56]
Trong cuốn Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (nhóm Lê Quý Đôn, Nxb.
Xây dựng, H. 1957), Trương Chính khẳng định thơ chữ Hán chẳng những “là
nguồn tư liệu rất quý để tìm hiểu tác giả Truyện Kiều”, mà còn “phải được kể là
những tác phẩm bậc nhất trong văn thơ chữ Hán của cha ông ta ngày trước”.
Theo ông, những sáng tác đó không phải làm để tiêu khiển thù ứng “mà là thứ
thơ chân thành, xuất phát tự tâm can”…Ông còn nhấn mạnh rằng giá trị độc đáo
nhất trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là “đã có một ngòi bút hiện thực, điều hiếm
gặp trong các thi tập thời xưa”. [43]
Nhà phê bình Hoài Thanh trong bài viết Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài
thơ chữ Hán (Tạp chí Văn nghệ tháng 3/1960) đã nêu lên những mâu thuẫn phức
tạp, trong đó “có một điểm khá rắc rối là thái độ của Nguyễn Du đối với các triều
đại lần lượt thay thế nhau từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX”. Song Hoài
Thanh cũng khẳng định rằng: “ Nhưng giữa một bên là những thế lực bạo tàn nó
ngự trị trên cuộc đời cũ; một bên là hàng vạn vạn con người cơ khổ, thái độ Nguyễn
Du rõ ràng, tình cảm Nguyễn Du chân thành, sâu sắc. Thơ Nguyễn Du do đó có giá
trị hiện thực rất cao, có sức rung cảm mãnh liệt” [58].
Tác giả Lê Trí Viễn trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam (Tập II. Nxb.
Giáo dục, H. 1962). Ông đi sâu vào thế giới nhân vật mà Nguyễn Du mô tả
trong Bắc hành tạp lục. Đó là những con người trung can nghĩa khí bị hãm hại;
những kiếp tài hoa lỗi lạc phải lầm than; những kẻ hèn yếu đáng thương. Đặc biệt,
những lời thương cảm trìu mến nhất Nguyễn Du đã dành cho người phụ nữ (người
ca nữ đất Long Thành, Tiểu Thanh, Dương Phi, nàng Vọng Phu). Từ đó, ông khẳng
định rằng “cảm xúc của Nguyễn Du không còn giới hạn trong phạm vi “trông người
mà ngẫm đến ta”, để đau xót cho bản thân mình; Nguyễn Du đau xót và căm giận
9
cho cả cuộc đời; căm giận bọn thống trị tàn nhẫn, đau xót cho tất cả những người
nhân nghĩa gặp phải tai ương [67, tr.153]
Tháng 11 năm 1965, Tạp chí Văn học đăng bài viết Tìm hiểu thơ chữ Hán
Nguyễn Du của Nguyễn Huệ Chi đã mở ra một hướng đi trên hành trình nghiên cứu
thơ chữ Hán Nguyễn Du: kiếm tìm chân dung của chính tác giả - như một hình
tượng được biểu hiện trực tiếp qua những bài thơ viết về mình và biểu hiện gián tiếp
qua các đối tượng trữ tình.
Từ những vấn đề trên chúng ta có thể thấy được rằng các tập thơ chữ Hán của
Nguyễn Du đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học có
tên tuổi.
Năm 1965, cuốn “Thơ chữ Hán Nguyễn Du”, một công trình nghiên cứu ra
mắt đúng vào dịp kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du. Trong phần giới thiệu
của cuốn sách tái bản (1978), Trương Chính nhận xét: thơ chữ Hán Nguyễn Du “bài
nào cũng chứa đựng một lời tâm sự” và “bộc lộ thái độ sống của ông một cách rõ
nét”. Trương Chính cũng cho biết trong sáng tác của Nguyễn Du, từ Truyện Kiều,
Văn tế chiêu hồn cho đến thơ chữ Hán, “điều nổi bật là nhà thơ rất gần gũi với
những người nghèo khổ, bị ô nhục trong xã hội cũ, và có một cái nhìn hiện thực đối
với xã hội, đối với giai cấp thống trị thời đại ông” [6, tr.17-18].
Đây cũng là quan điểm đánh giá của Lê Thu Yến trong cuốn Đặc điểm nghệ
thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nxb. Thanh Niên. Tp. Hồ Chí Minh 1999) tác giả đi
vào khảo sát cụ thể, đồng thời phân tích các phạm trù: hình tượng con người nghệ
thuật, không gian và thời gian nghệ thuật. Từ đó tác giả Lê Thu Yến nêu lên nhận
định: “có rất nhiều Nguyễn Du trong một Nguyễn Du”. Thấp thoáng trong lời thơ
là: “Nguyễn Du với nỗi đau nhân thế”, “những lo âu vụn vặt đời thường và mập mờ
giữa các làn ranh của tâm trạng là những dự định nhập cuộc không thành, những
bước đi tự tìm mình khắc khoải” [73, tr. 57].
Tiếp thu ý kiến của những người đi trước, kế thừa những thành tựu nghiên
cứu, phê bình về Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Thông qua đề tài này, chúng tôi sẽ cố
gắng đi sâu tìm hiểu toàn diện hơn về “Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ
góc nhìn thi pháp” đây là mảnh đất chứa đựng nhiều hứa hẹn, thú vị mà chúng tôi
cần nghiên cứu.
10
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
- Thơ cổ phong chữ Hán của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du.
+ Nguyễn Trãi có “Ức trai thi tập” gồm 105 bài thơ chữ Hán, trong đó có hai
bài làm theo thể thơ cổ phong : Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên và Côn Sơn ca:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán:
Thanh Hiên thi tập: gồm78 bài chủ yếu viết trong những năm tháng trước
khi ra làm quan nhà Nguyễn, trong đó có bốn bài làm theo thể thơ ngũ ngôn cổ
phong: Hành lạc từ 1; Hành lạc từ 2; Lam Giang; Ký mộng:
Nam trung tạp ngâm: có 40 bài viết thời gian làm quan ở Huế và Quảng
Bình, những địa phương phía nam Hà Tĩnh, quê hương ông. Trong đó có hai bài
được làm theo thể thơ cổ phong: Điệu khuyển; Ngẫu thư công quán bích.
Bắc hành tạp lục: gồm 131 bài thơ sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc,
trong đó có 20 bài được làm theo thể thơ cổ phong: Long Thành cầm giả ca; Ninh
Minh giang chu hành; Thái Bình thành hạ văn xuy địch; Thái Bình mại ca giả; Bất
tiến hành; Phản chiêu hồn; Biện Giả; Cựu Hứa Đô; Trở binh hành; Đồng Tước đài;
Liêm Pha bi; Tô Tần đình 2; Dự Nhượng kiều chủy thủ hành; Kinh Kha cố lý; Kỳ lân
mộ; Mạnh Tử từ cổ liễu; Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích; Lương Chiêu Minh
Thái tử phân kinh thạch đài; Sở kiến hành; Hoàng Mai sơn thượng thôn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Dựa vào Nguyễn Trãi toàn tập, [69] Nguyễn Du toàn tập, [33], vận dụng lý
thuyết thi pháp, các phương pháp khoa học, chúng tôi tiến hành nghiên cứu toàn bộ
thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du trên các phương diện nội dung và hình
thức sau: quan niệm nghệ thuật về con người; không gian và thời gian nghệ thuật;
thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Thi pháp học: Ở đây, chúng tôi vận dụng các lý thuyết thi pháp học để
nghiên cứu các phạm vi đề tài. Đây là phương pháp quan trọng bậc nhất của đề tài.
4.2. Phƣơng pháp thống kê, phân loại: trên cơ sở các tài liệu, tác phẩm,
chúng tôi tiến hành khảo sát, thông kê, phân loại đối tượng. Việc khảo sát, thông kê,
phân loại các đối tượng nghiên cứu giúp sự phân tích, đánh giá có căn cứ xác thực.
11
4.3. Phƣơng pháp lịch sử - cụ thể: Là phương pháp đặt đối tượng nghiên cứu
vào thời đại, bối cảnh cụ thể khi nó ra đời để tìm hiểu sâu hơn về tác giả, tác phẩm,
và đối tượng nghiên cứu.
4.4. Phƣơng pháp so sánh: Đây là con đường để chúng tôi tìm hiểu về đặc
điểm sự vận động và phát triển của thể thơ cổ phong chữ Hán ở mỗi giai đoạn. So
sánh với các thể thơ khác, giữa các tác giả làm theo thể thơ cổ phong để làm nổi bật
đặc trưng thể loại vừa thấy được sự vận động của thể thơ ở mỗi giai đoạn khác nhau.
4.5. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Là phương pháp được chúng tôi sử
dụng nhằm phân tích một cách kĩ lưỡng các tác phẩm thơ cổ phong chữ Hán của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Sau đó tổng hợp khái quát chỉ ra những đặc điểm riêng
biệt về nội dung cũng như hình thức, quan niệm nghệ thuật, không gian, thời gian
nghệ thuật, ngôn ngữ, âm vận của hai nhà thơ.
5. Đóng góp của đề tài
Luận văn góp phần vào thành tựu nghiên cứu tác phẩm thơ cổ phong Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, tiếp tục khẳng định vị trí, tài năng của hai nhà thơ trong tiến trình
văn học trung đại Việt Nam và những đóng góp của hai ông đối với sự phát triển
ngôn ngữ văn học dân tộc.
Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng
dạy về thể loại thơ cổ phong chữ Hán nói chung và các tác phẩm thơ cổ phong của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du nói riêng.
Cuối cùng, kết quả nghiên cứu của luận văn mang đến một cái nhìn khái
quát về giá trị nội dung, nghệ thuật và tư tưởng về thơ cổ phong chữ Hán của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được triển
khai trong 3 chương như sau:
Chƣơng 1. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du trong mạch thơ cổ phong
trung đại Việt Nam
Chƣơng 2. Thế giới nghệ thuật thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
Chƣơng 3. Thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
12
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU
TRONG MẠCH THƠ CỔ PHONG TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề về thơ cổ phong
1.1.1. Nguồn gốc của thơ cổ phong
Như tên gọi của nó, thể cổ phong xuất hiện và định hình từ “xưa”. Việc xác
định thời điểm ra đời của thể loại cổ phong cũng tồn tại nhiều ý kiến khác nhau.
Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại
cho rằng: “Thể cổ phong tức thể thơ phổ biến ngũ ngôn (5 từ) hay thất ngôn (7 từ)
có trước thơ Đường luật” [39, tr. 270].
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, trong Từ điển thuật ngữ văn
học lại cho rằng: “Thơ cổ phong một thuật ngữ chỉ tất cả những bài thơ cổ được
sáng tác từ đời Đường trở về sau mà không theo luật thơ Đường (không kể từ và
khúc)” [16, tr. 263].
Tác giả Nguyễn Thị Bích Hải trong Thi pháp thơ Đường ở mục Các thể thơ
đời Đường có khẳng định rằng: “Các nhà thơ đời Đường sử dụng hai thể thơ chính
là Cổ thể (gồm cổ phong và nhạc phủ) và Kim thể. Cách gọi này một phần thông
báo cho ta biết sự ra đời của chúng so với đời Đường. Thơ cổ thể ra đời sớm hơn từ
đời Hán” [13, tr.192].
Tác giả Nguyễn Thái Hòa trong cuốn Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học
ở mục thơ cổ phong có chỉ ra rằng: “Cổ phong trường thiên (hành) … thể hành rất
phổ biến ở Trung Quốc, xuất hiện trước đời Đường, và các bậc thi bá đời Đường đã
dùng thể này để tạo nên những kiệt tác” [21, tr. 44, 45].
Tác giả Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá trong
Từ điển văn học (bộ mới). “Cổ phong còn gọi là cổ thi hoặc cổ thể thi là thuật ngữ
dùng để chỉ các thể thơ cổ điển ở Trung Quốc trong sự khu biệt với thơ cận thể thời
Đường. Cổ phong bao gồm toàn bộ thơ ca ra đời trước đời Đường” [19, tr. 320].
Trong cuốn Lí luận văn học do Phương Lựu (chủ biên) đã có nhận xét như
sau: “Cổ phong vốn là tên gọi của người đời sau đối với các thể thơ có trước đời
13
Đường. Nhưng tên ấy cũng được dùng để chỉ những bài thơ trong và sau đời Đường
mà không dùng niêm luật chặt chẽ như luật thơ Đường quy định” [36, tr. 453].
Từ các công trình nghiên cứu của các tác giả, chúng tôi nhận thấy hầu hết các
nhà nghiên cứu đều chỉ ra rằng thơ cổ phong xuất hiện từ trước đời nhà Đường
không theo niêm luật nhất định.
Như vậy, có thể khẳng định rằng thơ cổ phong đã có nguồn gốc lâu đời từ đời
Hán đã được khai sinh và trên cơ sở đó nó đã có điều kiện và một môi trường tiếp xúc
thuận lợi để phát triển ở đời Đường. Chính vì vậy, nhiều thi sĩ nhà Đường đã viết những
bài thơ cổ phong rất nổi tiếng như: Nguyệt hạ độc chước của Lí Bạch, Vọng nhạc, Binh
xa hành của Đỗ Phủ. Thơ cổ phong Việt Nam không chỉ xuất hiện trong văn học chữ
Hán mà nó còn xuất hiện trong văn học chữ Nôm. Từ việc tìm hiểu về nguồn gốc của thơ
cổ phong giúp chúng tôi có thể hiểu hơn về sự ra đời cũng như quá trình hình thành và
phát triển của thơ cổ phong trong nền văn học trung đại Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm thơ cổ phong
Trong quá trình nghiên cứu về thơ cổ phong chúng tôi nhận thấy rằng thơ cổ
phong còn có nhiều khái niệm khác nhau, cũng như tên gọi của nó vẫn chưa có sự
thống nhất cao giữa các nhà nghiên cứu. Để phần nào hiểu hơn về thể thơ cổ phong,
chúng tôi đưa ra một số quan niệm của các nhà nghiên cứu, giúp có cái nhìn bao
quát, toàn diện hơn về thể loại này.
Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại
miêu tả cổ phong: Người ta gọi thể thơ cổ phong hay gọi tắt là thể cổ phong tức thể
thơ phổ biến ngũ ngôn (5 từ) hay thất ngôn (7 từ ) có trước thơ Đường luật, thể thơ
này chỉ cần có vần hoặc bằng hoặc trắc mà không cần đối nhau, không cần theo một
niêm luật bằng trắc nhất định; lối câu phổ biến là bốn câu (tuyệt cú), tám câu (bát
cú) và trường thiên (hành); thơ cổ phong còn có thể lục ngôn nhưng ít dùng...[ 39,
tr.213, 214].
Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu định nghĩa cổ phong: “lối
này chỉ có số chữ trong câu là nhất định (hoặc ngũ ngôn hoặc thất ngôn); ngoài ra,
không phải theo thể lệ chặt chẽ như lối Đường luật…không hạn số câu, cứ tự bốn
câu trở lên, muốn làm dài ngắn bao nhiêu cũng được”, những bài dài quá 8 câu thất
ngôn hoặc quá 16 câu ngũ ngôn gọi là tràng thiên [15, tr.117].
Bùi Kỷ trong Quốc văn cụ thể phân biệt hai thể thơ Hán văn gồm cổ phong và
Đường luật bên cạnh các lối thơ: tứ tuyệt, tràng thiên, thủ vĩ ngâm, liên hoàn, yết
14
hậu, lục ngôn thể; các biến thể của thơ gồm minh, trâm. Trong đó, cổ phong “là lối
văn có vần mà không đối nhau. Nếu có đối nhau là tùy ý của nhà làm văn, không
phải là một luật nhất định. Cổ phong không có niêm luật, không hạn câu, tự bốn câu
cho đến bao nhiêu câu cũng được”; có lối ngũ ngôn/thất ngôn độc vận hoặc ngũ
ngôn/thất ngôn liên vận [30, tr.36, 37].
Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong cuốn Từ điển văn học trong mục Thơ Đường: “Các
nhà thơ Đường sáng tác theo ba thể chính: luật thi, cổ phong, nhạc phủ (có người
cho nhạc phủ cũng là một dạng của cổ phong)” [19, tr.1690].
Nguyễn Thái Hòa trong cuốn Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học đã phân biệt
về thơ cổ phong như sau: “Cổ phong còn có tên gọi là cổ thể do các nhà thơ đời Đường
gọi để phân biệt với các thể Đường luật, lúc bấy giờ được gọi là cận thể” [21, tr. 43].
Trần Đình Sử trong Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam kể tên
các thể thơ trữ tình đời Lý - Trần và nhà Lê mạt - Nguyễn thế kỷ XVIII – XIX như
sau: “Theo Thơ văn Lý - Trần (ba tập đã công bố), thì có hơn 200 bài tuyệt cú, hơn
300 bài thất luật, phần còn lại chia cho các thể thơ ngũ tuyệt, ngũ luật, trường đoản
cú, nhạc phủ, cổ phong, lục ngôn, tứ ngôn...”. “...Các thể thơ chữ Hán được sử dụng
rất đa dạng: ngoài thất luật, tuyệt cú ra, các thể ngũ ngôn, cổ phong, ca hành đều
được sử dụng...” [54, tr.168, 169].
Trong cuốn Từ điển văn học (Bộ mới) trong mục Thơ cổ phong đã đưa ra
nhận định như sau: “Thơ cổ phong không có quy định về cách luật như các thể thơ
đời Đường nghĩa là không có niêm, luật, đối…thơ cổ phong không giới hạn về độ
dài, bài thơ từ bốn câu trở lên, muốn dài ngắn bao nhiêu tùy tác giả, cũng có bài làm
sáu câu, hoặc 12 câu; những bài thất ngôn dài quá 8 câu, bài ngũ ngôn dài quá 16
câu gọi là trường thiên, những bài làm theo thể hành có độ dài khá lớn…số chữ
trong câu cũng được sử dụng khá linh hoạt có thể toàn bài theo thể tứ ngôn, ngũ
ngôn, lục ngôn, hoặc thất ngôn, cũng có thể sử dụng những câu dài, ngắn khác nhau
trong cùng một bài” và cuối cùng tác giả đi đến kết luận “ Thơ cổ phong là chỉ các
thể thơ không bị cấu thúc vào vần, niêm, thanh điệu và đối ngẫu”. [19, tr. 320]
Tác giả Nguyễn Thị Bích Hải trong Thi pháp thơ đường cũng khẳng định thơ cổ
thể có hai dạng: cổ phong và nhạc phủ. Trong bài viết nhà nghiên cứu chỉ rõ: Thơ cổ
phong không có luật lệ nhất định không hạn định về số câu trong bài và số chữ trong
câu cũng tương đối tự do - Tuy rằng năm chữ và bảy chữ nhưng cũng có co giản, dao
động quanh cái định số năm hoặc bảy đó. Cách gieo vần cũng rất linh hoạt. Có thể
15
dùng độc vận cả bài (cả bài chỉ có một vần), liên vận (nhiều vần nối nhau), có thể
không hiệp vần ở từng bộ phận; có thể dùng vận chính, vận thông hay vận chuyển.
Thể này không quy định niêm luật và cũng không cần đối ngẫu. [13, tr.192, 193].
Tác giả Đào Duy Anh trong cuốn Từ điển Hán Việt xét về mặt chữ nghĩa:
Trong cổ phong; chữ cổ có nghĩa là đời xưa – xưa cũ [2, tr.112], chữ phong có
nghĩa là phong cách, thể cách. Vậy cổ phong là phong cách cổ, một thể cách trong
phép làm thơ, không hạn định ngũ ngôn hay thất ngôn, và cũng không hạn định âm,
luật, bằng, trắc [2, tr.114]. Còn trong cổ thể chữ thể có nghĩa là thể loại. Như vậy,
cổ thể là thể xưa.
Trong các công trình nghiên cứu về thơ cổ phong hầu hết các nhà nghiên cứu
đều quan niệm “cổ phong” và “cổ thể” tuy khác nhau về tên gọi nhưng thực chất chỉ
là một: Trong cuốn Lí luận văn học do Phương lựu (chủ biên) đã nêu Thơ cổ phong
còn gọi là thơ cổ thể (thể xưa) để so sánh với thơ cận thể [36, tr. 453].
Tác giả Bùi Văn Nguyên trong cuốn Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam đã đi
đến kết luận: “Thơ cổ phong cũng như dân ca không hạn định số câu, có thể ít nhất là
hai hoặc bốn câu, hoặc sáu câu, tám, mười câu hoặc nữa là rất nhiều câu …Tuy
nhiên, thể cổ phong phổ biến nhất là thể bốn câu, tám câu và thể hành” [38, tr.299]
Theo quan niệm đó, tác giả Trần Thị Hoa Lê trong bài viết Thơ cổ phong chữ
Hán của Nguyễn Du và cuộc đối thoại trường thiên về nhân thế: đã cho rằng “có thể
hình dung cổ phong tương tự “thơ tự do” hoặc giả như “thơ văn xuôi”/“trường ca”
thời hiện đại, có vị trí độc lập bên cạnh lục bát, luật thi hay tuyệt cú... Tuy nhiên,
ranh giới giữa cổ phong và một số thể (thơ) liên quan như nhạc phủ, tuyệt cú,
trường thiên, ca, hành, ngâm... không phải luôn được phân định thật rõ ràng tự giác
và thống nhất trong quá trình sáng tác của người xưa cũng như trong sự thưởng
thức/phê bình của người nay. Thực tế là, quan niệm về cổ phong ngày càng được
mở rộng hơn, bao chứa nhiều hơn các tiểu loại thơ “tự do” khác (đặc biệt là thơ có
nguồn gốc dân gian) thay vì chỉ gồm hai thể ngũ ngôn và thất ngôn” [76]
Thông qua quá trình tìm hiểu về những quan niệm cũng như các định nghĩa
mà các nhà nghiên cứu đưa ra. Chúng tôi thấy rằng các định nghĩa về thơ cổ phong
chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu, nhưng bên cạnh đó những đặc điểm
của thơ cổ phong lại được nêu lên khá rõ.
- Về vần: Thơ cổ phong có thể có một vần (độc vận) hay nhiều vần theo kiểu
vần liền, vần cách không nhất định, nhưng phải có vần mới thành thơ.
16
- Về luật bằng trắc: thơ cổ phong tuy không có niêm luật nhất định và chặt
chẽ như thơ Đường luật, nhưng tất nhiên phải thích ứng với quy luật âm thanh của
tiếng nói do đó phải có tiếng bằng, tiếng trắc xen nhau để đọc cho dễ nghe, hoặc dễ
ngâm. Cách gieo vần trong thơ cổ phong có thể độc vận hay liên vận. Có thể cứ 4
câu lại đổi vần hay cứ 8 câu đổi vần, hoặc mỗi 2 câu đổi vần một lần cũng được.
- Cách đối thì tùy, muốn đối thì đối, muốn không thì không. Nếu đã đối thì
phải đối cho chỉnh. Ý đối ý và chữ đối chữ cho đúng cách.
- Về câu: Thơ cổ phong không bị giới hạn về độ dài, bài thơ từ bốn câu trở lên,
muốn dài ngắn tùy thuộc tác giả; thường phổ biến là những bài 4 câu và 8 câu, cũng
có bài làm 6 câu hoặc 12 câu; những bài thất ngôn dài quá 8 câu, bài ngũ ngôn dài
quá 16 câu gọi là trường thiên, những bài làm theo thể hành thường có độ dài khá lớn.
- Số chữ trong câu, số câu trong một bài cổ phong cũng được sử dụng linh
hoạt, có thể toàn bài theo thể tứ ngôn, ngũ ngôn, lục ngôn, hoặc thất ngôn; cũng có
thể sử dụng những câu dài, ngắn khác nhau trong một bài.
Như vậy, từ việc tìm hiểu những thuật ngữ, khái niệm về thơ cổ phong của các
nhà nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy thơ “cổ phong còn được gọi là “cổ thi” hay “cổ
thể” “đây là một trong những thuật ngữ dùng để chỉ các thể thơ cổ điển ở Trung
Quốc trong sự khu biệt với thơ cận thể thời Đường” [19, tr. 320].
Như đã nêu ở trên, thời gian qua, nhiều vấn đề về thuật ngữ, cũng như nội
dung khái niệm của thơ cổ phong vẫn chưa có sự thống nhất một cách triệt để.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nghiên cứu, chúng tôi xin đưa ra cách
hiểu về nội dung khái niệm thơ cổ phong như sau.
Thơ cổ phong (hay còn gọi là cổ thi hoặc cổ thể) là lối thơ tự do không chịu sự
quy định nghiêm ngặt về niêm luật, số câu, số chữ/từ, có thể dùng câu tứ ngôn, ngũ
ngôn, lục ngôn, thất ngôn hoặc đan xen câu dài ngắn khác nhau (tạp ngôn), hay
những bài thơ trường thiên. Vần trong thơ cổ phong cũng tự do hơn, có thể dùng
một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận) nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy
luật âm thanh, có nhịp bằng trắc xen nhau cho dễ đọc, dễ nhớ.
Cũng trên cơ sở cách hiểu này, để thuận tiện cho việc nghiên cứu “Thơ cổ
phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du”, chúng tôi quan niệm thơ cổ phong bao gồm trước
hết là những bài thơ sáng tác bằng chữ Hán và làm theo thể tự do như: ca, hành,
ngâm, ngũ ngôn, thất ngôn, trường thiên. Những bài thơ bát cú, tuyệt cú không đưa
17
vào đối tượng khảo sát của đề tài, bởi vì chúng tôi nghĩ dạng thức này không có
ranh giới rõ ràng giữa luật thi và bất luật thi.
1.1.3. Thơ cổ phong và sự xuất hiện thơ cổ phong chữ Hán trong văn học trung đại
Trong dòng chảy của nền văn học trung đại Việt Nam, văn học chữ Hán xuất
hiện rất sớm, tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của văn học trung
đại, bao gồm cả thơ và văn xuôi. Về thể loại văn học chữ Hán chủ yếu tiếp thu các
thể loại văn học từ Trung Quốc như chiếu, biểu, hịch, cáo, truyện truyền kì, tiểu
thuyết chương hồi, thơ cổ phong, thơ Đường luật … dù ở thể loại nào văn học chữ
Hán cũng có những thành tựu nghệ thuật đáng kể.
Người mở đầu cho thể thơ cổ phong trung đại đó chính là tác giả Trần Tung.
Sáng tác của Trần Tung được tập hợp trong bộ Thượng sĩ ngữ lục. Bộ sách gồm bốn
phần: Phần thứ nhất: Đối cơ, gồm những mẩu đối thoại giữa Tuệ Trung với các môn
đệ và các học giả. Phần thứ hai: Cử Công án, gồm 13 công án, mỗi công án có lời
niêm (nhận xét) và một bài kệ của Tuệ Trung. Phần thứ ba: Thi tụng, gồm 49 bài
vừa thơ vừa kệ của Tuệ Trung. Phần thứ tư: Thượng sĩ hành trạng, do Trần Nhân
Tông viết. Sau bài của Trần Nhân Tông là một số bài kệ tụng của các vị đệ tử nổi
danh của ông viết.
Qua việc tìm hiểu và khảo sát có thể thấy, Trần Tung đã để lại hơn 50 bài thơ
chữ Hán được làm theo các thể khác nhau trong đó có các bài thơ cổ phong khá đa
dạng về thể như (ca, ngâm, tạp ngôn; thất ngôn, ngũ ngôn trường thiên) gồm các bài
sau: Phật tâm ca; Mê ngộ bất dị; Phóng cuồng ngâm; Sinh tử nhàn nhi dĩ; Thị đồ;
Trì giới kiêm nhẫn nhục; Trữ từ tự cảnh văn; Trừu thần ngâm. Nhóm thơ cổ phong
của Trần Tung đã phản ánh nội dung tư tưởng gần với đời sống hiện thực mang
nhiều màu sắc. Ông đã để lại trong các tác phẩm văn chương dấu ấn tâm linh thiền
đạo khá lớn, đóng góp không nhỏ cho văn học Thiền và văn học trung đại Việt
Nam. Mặc dù, số lượng các bài thơ cổ phong của Trần Tung để lại không nhiều,
nhưng nó cũng góp phần tạo tiền đề cho quá trình hình thành và phát triển thể thơ
cổ phong trong những giai đoạn sau của nền văn học dân tộc.
Bước sang giai đoạn văn học từ thế kỉ XIV đến hết thế kỉ XVII, một số tác giả
như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có sáng tác theo thể thơ cổ phong,
nhưng xét về số lượng tác phẩm thơ cổ phong không giống nhau.
Đầu tiên chúng tôi khảo sát trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi: Tập“Ức
Trai thi tập” gồm 105 bài thơ chữ Hán được sáng tác theo các thể loại khác nhau
18
như: thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú và trong đó chỉ có hai bài
thơ được sáng tác theo thể cổ phong đó là bài: Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên và
Côn Sơn ca.
Đến với thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi nhận thấy thơ cổ phong được ông
sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm. Trong Bạch Vân am thi tập (tập thơ chữ Hán)
có hai bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn và ngũ ngôn cổ phong gồm các bài
như: : Trách tử, Trung tân ngụ hứng. Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập (Tập thơ
chữ Nôm) có 7 bài được làm theo thể cổ phong gồm các bài: Đạo thường; Mặc ai
tài trí; Thú ẩn dật; Thú dưỡng thân; Tăng thử, Thương loạn, Cảm hứng. Nhóm bài
thơ cổ phong của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói lên chức năng phản ánh hiện thực xã hội,
trong đó có những bài thơ cổ phong lên án chiến tranh phi nghĩa, phê phán thói
tham lam đục khoét của những kẻ đương quyền, khiến xã hội suy vi.
Sang thế kỉ XVIII đây là giai đoạn văn học có những phát triển rực rỡ nhất
trong văn học dân tộc dưới chế độ phong kiến. Văn học thời kì này đã kế thừa
những di sản văn học quý báu của những thế kỉ trước. Văn học lúc này có chức
năng phản ánh hiện thực xã hội và giải bày tâm trạng của con người. Chính vì vậy,
các tác giả văn học trung đại thời kì này ít nhiều đều có sử dụng thơ cổ phong để
sáng tác. Nhờ đó số lượng các tác phẩm được viết bằng thể cổ phong có xu hướng
tăng dần, nội dung cũng phong phú đa dạng hơn.
Sáng tác thơ cổ phong trong giai đoạn này, chúng ta phải kể đến là tác giả
Đặng Trần Côn với tác phẩm Chinh phụ ngâm rất nổi tiếng. Tác phẩm Chinh phụ
ngâm có 13 tiểu mục khác nhau như: Loạn thời; xuất chinh; sầu tủi; hoài tưởng; cô
lánh; vọng tưởng; sầu muộn; thất vọng; vọng tầm; hoài nghi; ưu lão; nguyện ước;
khẩn cầu. Tác phẩm viết về đề tài chiền tranh, chiến tranh luôn gắn liền với những
vấn đề: tình yêu, lòng thủy chung, sự chờ đợi, hạnh phúc, hi sinh…Chinh phụ ngâm
là tác phẩm nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa đồng thời thể hiện
tâm trạng khát khao tình yêu, hạnh phúc đôi lứa. Thể thơ phóng túng tự do có ưu
điểm tạo nên sự linh hoạt trong mạch thơ, nhịp thơ dồi dào nhạc tính làm cho khúc
ngâm luôn đổi mới, phù hợp với tâm trạng và tình cảm của người chinh phụ.
Hay khi tìm về với 250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng tôi nhận thấy
thơ chữ Hán được ông sáng tác theo những thể khác nhau. Trong tập thơ có 26 bài
thơ làm theo thể cổ phong. Những bài thơ cổ phong của Nguyễn Du có cái nhìn bao
quát hơn về hiện thực xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là nhóm thơ cổ phong được ông
19
viết trong tập Bắc hành tạp lục. Hiện hữu trong mỗi bài thơ cổ phong của Nguyễn
Du, ẩn chứa một câu chuyện, một cảnh ngộ, một cuộc đời của một nhân vật cụ thể
nào đó: ví như bài “Long thành cầm giả ca” kể về cuộc đời của một ca nữ vô danh,
từ số phận cuộc đời của ca nữ trong tác phẩm thấy được số phận bất hạnh của
những người phụ nữ trong xã hội.
Sau tác giả Nguyễn Du, ta bắt gặp những tác phẩm thơ cổ phong trong sáng
tác của Hồ Xuân Hương trong tập“Lưu hương kí” gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28
bài thơ chữ Nôm. Trong tập Lưu hương kí có sáu bài được sáng tác theo thể cổ
phong gồm các bài sau: Thu ca phong; Nguyệt dạ ca kỳ 1; Nguyệt dạ ca kỳ 2; Ngư
ông khúc hành; Tặng Tốn Phong Tử. Những bài thơ cổ phong của Hồ Xuân Hương
đã góp phần đem đến một đề tài mới cho thơ cổ phong đó là đề tài tình yêu, là sự
bộc bạch nỗi lòng, tâm sự thầm kín của nhà thơ nói riêng, cũng như những người
phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.
Bước sang giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, chúng tôi nhận thấy, Cao Bá Quát là
một trong những tác giả sáng tác theo thể thơ cổ phong nhiều nhất. Khảo sát, trên
251 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát, chúng tôi nhận thấy ông để lại số lượng tác
phẩm thơ cổ phong tương đối nhiều trên 53 bài thơ cổ phong, chiếm tới 21,1%
trong tổng số 251 bài thơ chữ Hán của ông. So với các nhà thơ khác, Cao Bá Quát
là người sử dụng khá nhiều loại thơ cổ thể trường thiên. Đối với ông, thể tài này
tương đối tự do và dung lượng lớn, thích hợp với những tứ thơ hào mại, sảng khoái.
Những bài thơ cổ phong của Cao Bá Quát được viết theo thể ngũ ngôn, thất ngôn cổ
phong có thể dẫn ra một số tác phẩm như: Ban Siêu đầu bút; Bảo Xuyên ông nhục
kiến thứ họa, tẩu bút thù chi; Bân phong đồ…Từ đây có thể thấy rằng Cao Bá Quát
được xem là một trong những tác giả sáng tác thơ cổ phong nhiều nhất trong nền
văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVIII đến nữa đầu thế kỉ XIX. Chính nhờ những
tác phẩm thơ cổ phong của Cao Bá Quát, thơ cổ phong Việt Nam thực sự đạt tới
phẩm chất “Tập đại thành” của dòng thơ cổ phong.
Như vậy, tìm hiểu sự hình thành và phát triển của thể thơ cổ phong, ở một số
tác giả lớn trong văn học trung đại Việt Nam. Chúng tôi nhận thấy, ở mỗi giai đoạn
phát triển của văn học trung đại đều có các tác giả sáng tác thơ cổ phong. Tuy số
lượng tác phẩm thơ cổ phong ở mỗi giai đoạn không giống nhau, nhưng ít nhiều
cũng góp phần hình thành và phát triển thể thơ cổ phong về sau.
20
Xét về số lượng tác phẩm các tác giả lớn đều có sáng tác theo thể cổ phong ở
những mức độ chưa đồng đều: Trần Tung có 8 bài; Nguyễn Trãi có 2 bài; Nguyễn
Bỉnh Khiêm có 2 bài cổ phong chữ Hán và 7 bài cổ phong chữ Nôm; Nguyễn Du có
26 bài; Hồ Xuân Hương có 5 bài; Cao Bá Quát có số lượng tác phẩm sáng tác theo
thể cổ phong nhiều nhất trên 53 bài.
Xét về đề tài thơ cổ phong cũng khá đa dạng như: đề tài về Phật giáo trong thơ
Trần Tung, đề tài về thiên nhiên trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, đề tài về phê
phán quan lại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, đề tài về tình yêu trong thơ Hồ Xuân
Hương. Đề tài oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, tâm trạng khát khao hạnh
phúc của người chinh phụ trong tác phẩm của Đặng Trần Côn. Hay những vấn đề về
hiện thực cuộc sống của con người được phản ánh trong thơ cổ phong của Nguyễn
Du, Cao Bá Quát.
Tóm lại, chúng tôi nhận thấy từ giai đoạn thế kỉ XVIII trở về sau thơ cổ phong
càng phát triển mạnh. Từ khi xuất hiện khuynh hướng phản ánh hiện thực cuộc sống
của con người trong không gian và thời gian sinh hoạt đời thường. Thơ cận thể do
chỉ có bốn câu hoặc tám câu, lối thơ quá ngắn gọn, quá hàm súc, không đủ dung
lượng để phản ánh hiện thực cuộc sống, với những biến động của cuộc đời con
người nên hầu hết các tác giả lại tìm đến với lối thơ cổ thể.
1.2. Thi pháp và thi pháp học
Nếu như trước đây khi nghiên cứu một tác phẩm văn học chúng ta thường ít
quan tâm đến mặt hình thức, mà chỉ chú trọng vào nội dung của tác phẩm, nhưng
trong một tác phẩm văn học chúng ta không thể tách biệt nội dung khỏi hình thức,
hay hình thức khỏi nội dung. Nội dung chỉ có thể thể hiện trong hình thức. Và hình
thức phải là một hình thức của một nội dung nào đó. Như vậy nghiên cứu thi pháp là
chúng ta đang nghiên cứu văn học trong sự thống nhất giữa nội dung và hình thức.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học ở mục Thi pháp học và thi pháp (Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) định nghĩa. “Thi pháp học là khoa học
nghiên cứu thi pháp, tức hệ thống phương thức, phương tiện biểu hiện đời sống bằng
hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách
và hệ thống hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới
nghệ thuật, ấn tượng thẩm mỹ chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật.
21
Xét các chỉnh thể văn học mang thi pháp, có thể nói tới thi pháp tác phẩm cụ
thể, thi pháp sáng tác của một nhà văn, thi pháp một trào lưu, thi pháp văn học dân
tộc, thi pháp văn học một thời đại, thời kì lịch sử.
Xét các phương tiện, phương thức nghệ thuật đã được chia tách, có thể nói tới
thi pháp của thể loại, thi pháp của phương pháp, thi pháp của phong cách, thi pháp
kết cấu, thi pháp không gian, thời gian, thi pháp ngôn ngữ…
Xét về cách tiếp cận, thi pháp học còn có ba phạm vi nghiên cứu:
- Thi pháp học đại cương (còn gọi là thi pháp học lý thuyết, thi pháp học hệ
thống hóa hay thi pháp học vĩ mô).
- Thi pháp học chuyên biệt (hay còn gọi là thi pháp học miêu tả vi mô).
- Thi pháp học lịch sử.
Thi pháp học chuyên biệt, tiến hành việc miêu tả tất cả các phương diện nói
trên (tức thi pháp thể loại, không gian, thời gian, kết cấu, ngôn ngữ, mô típ…) của
sáng tác văn học nhằm xây dựng “mô hình” hệ thống cá biệt của các thuộc tính tác
động thẩm mỹ. Vấn đề ở đây chính là các tương quan của tất cả các yếu tố nói trên
trong chỉnh thể nghệ thuật.
Thi pháp học chuyên biệt có thể miêu tả tác phẩm văn học cá biệt, cũng như
cụm tác phẩm trong sáng tác của một nhà văn học, của một thể loại, một trào lưu
văn học hoặc một thời đại văn học.
Thi pháp học giúp ta công cụ để thâm nhập vào cấu trúc tác phẩm, cốt cách tư
duy của tác giả cũng như nắm bắt “mã” văn học nghệ thuật của các tác gia và các
thời kì văn học nghệ thuật, từ đó nâng cao năng lực thụ cảm tác phẩm.
Thi pháp học cổ xưa nặng về tính quy phạm, cẩm nang. Thi pháp học hiện đại
nặng về phát hiện, miêu tả các ngôn ngữ nghệ thuật đang hình thành và song hành
với sự vân động của văn học”. [16, tr. 206,207].
Mục “Thi pháp học” trong Từ điển văn học (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi,
Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá) đã nêu:
“Thi pháp học thuật ngữ chỉ lĩnh vực khoa học nghiên cứu văn học với tư cách
là một nghệ thuật. Thi pháp học (còn gọi là thi học) nghiên cứu cấu tạo của tác
phẩm văn học với các nguyên tắc, phương thức, phương tiện của nó.
Nhìn một cách tổng quát thi pháp học bao gồm ba bộ phận.
- Thi pháp học đại cương: (còn gọi là thi pháp học lý thuyết) nghiên cứu các
yếu tố, phương tiện, nguyên tắc chung của tác phẩm văn học.
22
- Thi pháp học miêu tả: nghiên cứu cấu trúc của tác phẩm văn học cụ thể của
các tác giả hay thời kỳ riêng biệt…
- Thi pháp học lịch sử: nghiên cứu tiến trình phát triển, đổi thay của các hình
thức thủ pháp văn học.
Trong thực tế sử dụng, thuật ngữ thi pháp học có thể chỉ những phạm vi khác
nhau. Khi rộng nhất nó chỉ toàn bộ lý luận văn học, khi hẹp nhất nó chỉ luật thơ,
phép làm thơ. Nó có thể chỉ các phương thức, phương tiện sáng tạo của nghệ thuật
khác, như thi pháp điện ảnh, thi pháp sân khấu [19 tr. 1666, 1667].
Từ hai khái niệm trên, ta thấy giữa hai khái niệm có cách diễn đạt tuy khác
nhau nhưng quan niệm về thi pháp và thi pháp học căn bản cũng có những nét thống
nhất về một số mặt. Đều có mục đích chung, khám phá các nguyên tắc phổ quát
hoặc cụ thể, lịch sử làm thành nghệ thuật.
Thi pháp học là bộ môn chuyên nghiên cứu các hệ thống nghệ thuật cụ thể,
một khoa học ứng dụng gần gũi với phân tích, phê bình văn học, lịch sử văn học.
Thi pháp là hệ thống các phương thức, phương tiện biểu hiện đời sống bằng
những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Hệ thống đó bao gồm: thể
loại, kết cấu, phương pháp, không gian, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ.
Thi pháp học là khoa học nghiên cứu hệ thống thi pháp đó.
Thi pháp học được chia ra làm ba bộ phận chính: Thi pháp học đại cương; thi
pháp học chuyên biệt, thi pháp học lịch sử. Để miêu tả các phương diện của thi pháp
tác phẩm, trào lưu, thời đại, dân tộc thì đó chính là nhiệm vụ của thi pháp học
chuyên biệt.
Tóm lại, thông qua cách hiểu trên chúng tôi vận dụng thi pháp học vào nghiên
cứu thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du về các phương diện của nội dung và
hình thức của tác phẩm văn học về các mặt: thời gian, không gian nghệ thuật; quan
niệm nghệ thuật về con người; thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật. Người
nghiên cứu và giảng dạy là người đi sau sự ra đời của một tác phẩm nghệ thuật. Lại
không phải là tác giả nên càng không thể hiểu hết được các phương thức, phương
tiện biểu hiện về mặt đời sống của một sáng tác, tác phẩm, vì thế người nghiên cứu
cần tìm hiểu và sử dụng thi pháp.
Văn học trung đại Việt Nam gồm những tác phẩm ra đời trong lịch sử văn học
dân tộc. Để hiểu rõ hơn các tác giả văn học trung đại nói chung và hiểu rõ hơn về
tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du cũng như những sáng tác văn học của hai nhà thơ
23
về những phạm trù văn hóa, văn học, thẩm mỹ. Vì vậy, chúng tôi dùng thi pháp học
để nghiên cứu để hiểu đúng, hiểu hết về các sáng tác của hai tác gia lớn trong nền
văn học trung đại Việt Nam
1.3. Nguyễn Trãi và thơ chữ Hán
1.3.1. Cuộc đời
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), hiệu Ức Trai, quê ở xã Chi Ngại, lộ Lạng Giang
(nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Cha là Nguyễn Ứng Long một nho
sinh nghèo, học giỏi. Mẹ là Trần Thị Thái – con gái của Trần Nguyên Đán.
Nguyễn Trãi sinh ở Thăng Long, trong dinh của ông ngoại, và sống qua thời
niên thiếu trong gia đình ông ngoại. Tuy vây, tuổi thơ của Nguyễn Trãi cũng chịu
nhiều mất mát và đau thương: lên năm tuổi mồ côi mẹ, một thời gian không lâu ông
ngoại qua đời. Nguyễn Trãi phải trở về làng Nhị Khê sống với bố, tại đây ông được
bố rèn cặp, dạy dỗ, trong những năm tháng sống ở Nhị Khê, ông trải qua cuộc sống
“cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”, sớm hòa nhập với cuộc sống nơi thôn quê.
Nguyễn Trãi thấu hiểu được nỗi vất vả, khó khăn của những người dân lao động
nghèo khổ, hiểu được tâm tư nguyện vọng của người dân, lòng yêu nước thương
dân của ông từ đó cũng dần dần trở thành động cơ chi phối toàn bộ tư tưởng và
hành động của ông sau này.
Trải qua cuộc sống vất vả, nhưng ông vẫn quyết trau dồi kinh sử. Năm 1400,
Nguyễn Trãi đi thi, đỗ Thái học sinh (tiến sĩ), được trao chức Ngự sử đài chánh
chưởng khi mới tròn hai mươi tuổi. Năm 1406, Nhà Minh đem quân xâm lược nước
Nam. Cha con Hồ Quý Ly tổ chức kháng chiến nhưng thất bại và bị bắt. Nhiều bề
tôi nhà Hồ cũng bị bắt ra hàng trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Nghe tin cha bị bắt,
Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng đến chỗ quân Minh giam giữ tù binh để
tìm cha. Hai anh em theo đoàn xe tù lên ải Nam quan với ý định sang bên kia biên
giới đề phụng dưỡng cha, nhưng ông khuyên Nguyễn Trãi trở về phục thù và báo
hiếu cho cha bằng con đường cứu nước. Nghe lời, ông để Nguyễn Phi Hùng đi tiếp
với cha, còn mình thì tìm đường trở về Nguyễn Trãi luôn khắc sâu lời cha dặn:
“Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha như
thế mới là đại hiếu”. Khi về đến Đông Quan, ông bị tướng giặc Trương Phụ bắt.
Phụ dụ dỗ ra làm quan, ông từ chối. Phụ định giết ông, nhưng một tướng giặc khác
là Hoàng Phúc xin tha cho và buộc ông phải sống ở thành Đông Quan để chúng dễ
bề kiểm soát.
24
Sau khi thoát khỏi sự giam lỏng của giặc Minh, Nguyễn Trãi từ Đông Quan tìm
vào Lam Sơn, đại bản doanh của nghĩa quân Lê Lợi. Năm 1420 Nguyễn Trãi đã hiến
dâng Lê Lợi tập Bình Ngô sách (Sách lược dẹp giặc Ngô). Từ khi có Bình Ngô sách
của Nguyễn Trãi hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn không ngừng được mở rộng, từng
bước đưa nghĩa quân tiến bước vững chắc đi đến thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Cuối năm 1427, đầu năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Nguyễn
Trãi vâng lệnh Lê Lợi viết tác phẩm Bình Ngô đại cáo, một “áng thiên cổ hùng
tráng suốt thiên cổ”, nhằm trịnh trọng tuyên bố nền độc lập mới mẻ của xã tắc.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua và sáng lập ra niên hiệu Lê Thái Tổ và tiến
hành luận công khen thưởng, ban thưởng cho 227 công thần, Nguyễn Trãi được ban
quốc tính và phong ban tước Quan Phục hầu. Dù được giữ nhiều chức vụ chủ chốt
trong triều đình nhưng Nguyễn Trãi vẫn hết lòng trung thành, phụng sự triều đình
nhà Lê trong buổi đầu đất nước thống nhất, bước vào sự nghiệp kiến quốc. Năm
1429, nhà vua sai bắt Trần Nguyên Hãn đệ nhất công thần cũng là người có họ hàng
với Nguyễn Trãi bị giết, đến cuối năm vua hạ lệnh giết Thái úy Phạm Văn Xão, một
đệ nhất công thần khác. Nguyễn Trãi cũng nghi oan và bị bắt giam một thời gian
(1430). Sau đó tuy được tha nhưng cho đến khi Lê Lợi mất (1433), ông vẫn không
được giao một công việc gì quan trọng.
Năm 1438, Nguyễn Trãi xin vể ở ẩn tại Côn Sơn. Côn Sơn là nơi quê tổ, lại là
nơi thuở nhỏ Nguyễn Trãi đã từng sống với ông ngoại. Ở đây, Nguyễn Trãi đã sáng
tác bài Côn Sơn ca nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông sáng tác phần lớn thơ
Nôm của mình được tập hợp trong tập “Quốc âm thi tập”. Năm 1439, Lê Thái Tông
xuống chiếu mời Nguyễn Trãi ra nhận lại mọi chức quan cũ, lại phong thêm chức
Môn hạ sảnh tả ty Gián nghị đại phu kiêm Tri tam quán sự, Đề cử chùa Tư Phúc ở
Côn Sơn, đặc trách trông coi hai đạo Đông và Bắc.
Năm 1422, Lê Thái Tông đi duyệt võ ở Phả Lại - Chí Linh có ghé thăm Nguyễn
Trãi ở Côn Sơn và trên đường trở về lại kinh thành, đã đi cùng Nguyễn Thị Lộ, vợ lẽ
Nguyễn Trãi, bấy giờ đang sung chức Lễ nghi nữ học sĩ trong triều. Ngày 4 tháng tám
âm lịch (7- 9- 1442) vua về đến Lệ Chi Viên tục gọi là Trại Vải ở làng (Đại Lại –
Lương Tài – Bắc Ninh). Nửa đêm hôm ấy, nhà vua bị cảm, và đến sáng thì mất. Ngay
sau đó triều đình liền bắt giam Nguyễn Thị Lộ. Nguyễn Trãi đang đi kiểm tra hai đạo
Đông và Bắc, được tin lập tức trở về triều, cũng bị bắt. Ngày 16 tháng tám năm Nhâm
Tuất (19 - 9 - 1942) Nguyễn Trãi cùng với vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ và toàn thể gia tộc
25
phải nhận bản án tru di tam tộc. Năm ấy Nguyễn Trãi vừa mới 63 tuổi, đáng tiếc rằng
vụ án Lệ Chi Viên oan khiên với hình thức tru di tam tộc mà Nguyễn Trãi phải gánh
chịu, chính là hệ quả tất yếu của những cuộc tranh giành ngôi thứ, bè phái nảy sinh
vào thời hậu chiến trong hoàn cảnh cụ thể lúc bấy giờ.
Nỗi oan của Nguyễn Trãi phải hai mươi năm sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi
mới minh oan, cho sưu tầm lại thơ văn của ông. Cho một người con duy nhất thoát
nạn tru di là Nguyễn Anh Vũ làm Tri huyện và cấp 100 mẫu ruộng dùng vào việc
thờ cúng.
Năm 1980, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổ chức Văn
hóa – Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) tổ chức kỷ niệm lần thứ
600 năm sinh danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi.
Cuộc đời của Nguyễn Trãi là cuộc đời của một con người chịu nhiều oan khiên
nhất trong lịch sử dân tộc, cũng là cuộc đời của một con người suốt đời hết lòng vì
nước vì dân và vẫn giữ được nét thanh cao của một tấm lòng son sắt cương trực.
1.3.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi
Thơ văn của Nguyễn Trãi, được viết bằng cả chữ Hán và Chữ Nôm. Những tác
phẩm tiêu biểu như: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Quốc âm thi tập, Ức
Trai thi tập, Băng hồ di sự lục, Lam Sơn Vĩnh Lăng thần đao bi kí, Dư địa chí…
Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi còn lại được tập hợp trong tập “Ức Trai thi
tâp” tập thơ gồm 105 bài. Để hiểu rõ hơn về thơ chữ Hán cũng như con người
Nguyễn Trãi qua thơ chữ Hán, căn cứ vào toàn bộ nội dung của tập thơ Ức Trai thi
tập có thể sắp xếp tập thơ làm năm phần như sau:
Thơ làm trong khi chƣa thành công (17 bài) gồm các bài sau: Thính vũ;
Tặng hữu nhân; Thôn xá thu châm; Loạn hậu cảm tác; Ký cữu Dịch Trai Trần
Công; Thanh minh; Ký hữu; Thu dạ khách cảm; Hạ nhật mạn thành; Họa Tân Trai
vận; Quy Côn Sơn chu trung tác; Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác; Quan hải; Lâm
cảng dạ bạc; Thần Phù hải khẩu; Hải khẩu dạ bạc hữu cảm; Long Đại nham.
Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều đình (31 bài) gồm các bài:
Thượng nguyên hộ giá chu trung tác; Quan duyệt thủy trận; Hạ quy Lam Sơn kỳ 1;
Hạ quy Lam Sơn kỳ 2; Đề kiếm; Hạ tiệp kỳ 1; Hạ tiệp kỳ 2; Hạ tiệp kỳ 3; Hạ tiệp kỳ
4; Chu Công phụ Thành Vương đồ; Đề Bá Nha cổ cầm đồ; Thứ vận Trần thượng
thư đề Nguyễn bố chánh thảo đường; Thú dạ dữ Hoàng Giang Nguyễn Nhược Thủy
đồng phú; Đoan ngọ nhật; Ngẫu thành (I); Thu dạ khách cảm (II); Tức sự; Thứ Cúc
26
Pha tặng thi; Đề Thạch Trúc oa; Dục Thúy sơn; Quá Thần Phù hải khẩu; Chu
trung ngẫu thành kỳ 1; Chu trung ngẫu thành kỳ 2; Đề Ngọc Thanh quán; Đề Yên
Tử sơn Hoa Yên tự; Vân Đồn; Bạch Đằng hải khẩu; Tĩnh Yên vãn lập; Oan thán;
Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên.
Thơ tỏ ý chán nản và muốn về nghỉ (23 bài ) gồm các bài như: Ngẫu thành
(II); Vãn lập; Đề sơn điểu hô nhân đồ; Đề Động Sơn tự; Họa Hương tiên sinh vận
giản chư đồng chí; Mạn hứng (I) kỳ I; Mạn hứng (I) kỳ II; Khất nhân họa Côn Sơn
đồ; Đề trình xử sĩ vân oa đồ; Đề Từ Trọng Phủ Canh Ẩn đường; Đề Hà hiệu úy
“Bạch vân tư thân”; Thu nhật ngẫu thành; Mạn hứng(II) kỳ 1; Mạn hứng (II) kỳ 2;
Mạn hứng (II)kỳ 3; Mạn thành (I) kỳ 1; Mạn thành (I) kỳ 2; Thù hữu nhân kiến ký;
Họa hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ 1; Họa hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ 2; Họa
hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ 3; Tống tăng Đạo Khiêm quy sơn; Hải khẩu dạ bạc
hữu cảm (II).
Thơ làm trong thời ở ẩn ở Côn Sơn ( 17 bài) gồm các bài như: Giang hành;
Đề vân oa; Mộng sơn trung; Mộ xuân tức sự; Trại đầu xuân độ; Hí đề; Tức hứng;
Vãn hứng; Mạn thành (II); Thứ vận Hoàng môn thị lang Nguyễn Cúc Pha hạ tân cư
thành; Đồ trung ký Thao giang thứ sử Trình Thiêm Hiến; Thu nguyệt ngẫu thành;
Hạ nhật mạn thành; Tiên Du tự; Đề Bão Phúc nham; Côn Sơn ca.
Thơ làm trong thời đoán là sang Trung Quốc (12 bài) gồm các bài như:
Quá hải; Tầm Châu; Bình Nam dạ bạc; Ngô Châu; Du Nam Hoa tự;; Thiều Châu
Văn Hiến miếu; Quá lĩnh; Giang Tây; Thái Thạch hoài cổ; Đồ trung ký hữu; Ký
hữu (II); Chu trung ngẫu thành (III).
Về nội dung: Tập thơ Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi phong phú nội dung.
Đầu tiên bao trùm lên toàn bộ tập thơ là những tình cảm của nhà thơ với đối với
vua, với dân, với nước, với gia đình, với bạn bè. Trong tập thơ chữ Hán còn có
nhiều bài thơ viết về đề tài thiên nhiên, đất nước, gắn liền với hình ảnh quê hương
nơi mà Nguyễn Trãi đã một thời gắn bó. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi là
những bức tranh phong cảnh tươi đẹp, là không gian khoáng đạt, rộng lớn, bao la,
nơi Nguyễn Trãi trút bầu tâm sự thầm kín, nơi đem đến niềm vui cho tâm hồn. Tập
thơ Ức Trai thi tập còn bộc lộ tư tưởng phóng khoáng, thể hiện tài năng và trí tuệ
của Nguyễn Trãi đồng thời đánh dấu bước chuyển từ chặng đường thơ chữ Hán
Việt Nam từ thời Trần sang thời Lê Sơ. Ngoài ra, thơ văn của Nguyễn Trãi còn là
tiếng nói của con người cá nhân trước cuộc đời, trước thời đại. Một con người luôn
27
tự ý thức về mình, luôn đề cao trách nhiệm với đời, con người luôn nguyện cống
hiến mình cho dân tộc. Không chỉ vậy, trong thơ Nguyễn Trãi người đọc còn bắt
gặp hình ảnh của một con người luôn có tinh thần lạc quan, luôn tin yêu vào cuộc
sống, một con người tràn đầy ý chí, lòng quyết tâm đấu tranh chống lại những bất
công, ngang trái, để tự mình khẳng định bản thân trước cuộc đời.
Về nghệ thuật: Ở phương diện thể thơ trong 105 bài thơ chữ Hán được
Nguyễn Trãi sáng tác theo các thể khác nhau. Trong đó có 86 bài làm theo thể thất
ngôn bát cú, như các bài: Đề Lư thị gia phả, Loạn hậu cảm tác, Ký hữu, Mạn hứng,
Oan thán…ngoài ra có 12 bài sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt như các bài:
Thôn xá thu châm, Lam Quan hoài cổ, Đề Bá Nha cổ cầm đồ…bên cạnh đó có 5 bài
làm theo thể ngũ ngôn bát cú như: Tiên Du tự, Giang hành, Dục Thúy sơn, Thính
vũ, Tặng hữu nhân và có 2 bài được sáng tác theo thể cổ phong Đề Hoàng ngự sử
Mai tuyết hiên và Côn Sơn ca. Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi phần lớn mỗi đề
mục là một bài, nhưng cũng có một số đề mục từ hai đến năm bài như: Mạn hứng kỳ
1; Mạn hứng kỳ 2; Mạn hứng kỳ 3; Mạn thành kỳ 1; Mạn thành kỳ 2; Hạ tiệp kỳ 1;
Hạ tiệp kỳ 2; Hạ tiệp kỳ 3; Hạ tiệp kỳ 4.
Về hình thức thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi dùng chữ, dùng câu, gieo vần khá
điêu luyện tạo cảm giác hứng thú cho người đọc. Nét đặc sắc trong thơ chữ Hán của
Nguyễn Trãi chính là ở “ý tại ngôn ngoại” có những bài thơ Nguyễn Trãi dùng chữ
cô động, ít chữ nhưng lại nhiều nghĩa ví dụ như các câu: “Niên lai biến cố xâm nhân
lão – Thu việt tha hương cảm khách đa” hai câu này có nghĩa đầy đủ là “Mấy năm
nay xảy ra nhiều biến cố làm cho người ta mau già – Thu về nơi quê người khiến
lòng khách nhiều thương cảm”. Như vậy, ta có thể thấy tập thơ chữ Hán của
Nguyễn Trãi đều theo Đường luật, niêm, luật, vần nghiêm chỉnh, câu, chữ đối nhau
rất cân xứng, trừ hai bài thơ Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên và Côn Sơn ca được
làm theo thể thơ cổ phong tương đối tự do.
Khái quát tập thơ chữ Hán, Trần Thị Băng Thanh nhận xét rằng: “Đọc Ức Trai
thi tập có thể hình dung khá rõ Nguyễn Trãi là một con người đằm thắm trong tình
cảm gia đình, bạn bè, sâu nặng trong nghĩa nước tình dân; hào hoa phóng khoáng
giữa thiên nhiên; thanh đạm, nhàn dật mà nhập cuộc,… Không những thế, còn có
thể hình dung ra Nguyễn Trãi trong những khung cảnh, tư thế rất cụ thể. Khi thì
khoác tấm chăn mỏng ngồi suốt đêm hay trăn trở bên song thuyền đến sáng, suy
nghĩ trầm ngâm; khi thì tựa ghế dạo đàn hay ủ tay trong tay áo ngồi ngâm thơ khe
28
khẽ hứng thú hoặc sầu muộn; khi ung dung, nhanh nhẹn và say mê dạo giữa thiên
nhiên” [47, tr.530].
1.4. Nguyễn Du và thơ chữ Hán
1.4.1. Cuộc đời
Nguyễn Du sinh năm 1765, tại phường Bích Câu, quê ở Tiên Điền, huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con trai tể tướng Nguyễn Nghiễm và bà Trần Thị Tần.
Nguyễn Du được sinh ra trong gia đình quyền quý có truyền thống văn
chương nhiều người đỗ đạt cao và làm quan ở trong triều đình. Ông nội Nguyễn Du
là Nguyễn Quỳnh là một nhà triết học chuyên thuyên phú kinh dịch. Cha Nguyễn
Du là Nguyễn Nghiễm thường viết sử và làm thơ. Anh cả của Nguyễn Du là
Nguyễn Khản là một vị quan nhưng cũng giỏi làm thơ, cháu ruột Nguyễn Du là
Nguyễn Thiện và Nguyễn Thành đều giỏi thơ văn cả dòng họ có nhiều người đỗ
tiến sĩ vì vậy trong dân gian còn lưu truyền câu ca về dòng họ Tiên Điền.
Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước, họ này hết quan
Được sinh trưởng trong một gia đình như thế nên Nguyễn Du có điều kiện học
tập năng khiếu văn học nảy nở và sớm phát triển, đồng thời tiếp nhận truyền thống
văn hóa quý báu của quê hương, gia đình và nhiều vùng văn hóa khác nhau thuận
lợi cho sự tổng hợp nghệ thuật. Tất cả góp phần hun đúc nên con người và thiên tài
văn học Nguyễn Du.
Những năm tuổi nhỏ nhà thơ sống trong nhung lụa giàu sang. Nhưng cuộc
sống này kéo dài không quá mười năm, sau đó những biến cố dữ dội của thời đại
của gia đình đã nhanh chóng đẩy ông ra giữa bão táp cuộc đời. Mười tuổi Nguyễn
Du mồ côi cha, mười hai tuổi mồ côi mẹ. Trong thời gian này Nguyễn Du đến sống
với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Nguyễn Khản từng làm quan tới
chức Tham tụng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm và là người
rất mê hát xướng. Trong thời gian sống ở nhà của Nguyễn Khản, Nguyễn Du có
nhiều điều kiện thuân lợi để dùi mài kinh sử, có dịp hiểu biết về cuộc sống phong
lưu, xa hoa của giới quý tộc phong kiến.
Năm 1783, 18 tuổi, Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam
trường (tú tài) và được tập ấm chức Chánh thủ hiệu hiệu quân Hùng hậu của cha
nuôi họ Hà ở Thái Nguyên, cũng trong năm này Nguyễn Du lấy vợ là con gái của
Đoàn Nguyễn Thục.
29
Năm 1786, quân Tây Sơn ra Bắc Hà. Các danh tướng Bắc Hà theo nhau bỏ
chạy. Nghe quân Tây Sơn tiến quân ra Bắc, Nguyễn Khản ở Hà Tĩnh vượt mành
ra Bắc, giúp vua, nhưng không làm được gì, cuối cùng thì cảm bệnh mất ở Thăng
Long (1786).
Đến năm 1789, Tây Sơn kéo quân ra Bắc đánh tan 29 vạn quân Thanh sang
xâm lược nước ta, Lê Chiêu Thống chạy theo tàn quân xâm lược sang Trung quốc.
Ba anh em cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du chạy theo Lê Chiêu Thống nhưng
không kịp. Lúc này Nguyễn Du cùng với hai anh em còn lại chia tay nhau mỗi
người một nơi, Nguyễn Nễ trở về quê mẹ ở xã Hoa Thiều, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh.
Nguyễn Ức trở về quê vợ ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh. Bản thân
Nguyễn Du trở về quê vợ ở Thái Bình.
Sau một thời gian sống nhờ ở nhà người anh vợ là Đoàn Nguyễn Thuấn,
Nguyễn Du trở lại Nghệ An đến năm 1796 nghe tin ở Gia Định Nguyễn Ánh hoạt
động mạnh, Nguyễn Du có ý định trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh nhưng chưa
ra khỏi địa phận Nghệ An Nguyễn Du bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba
tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha Nguyễn Du về sống ở Tiên Điền. Nguyễn Du
phải sống một cuộc sống chật vật và khó khăn ở quê nhà, đồng thời trong lòng luôn
chứa đầy những nỗi niềm và tâm sự nặng nề không biết chia sẻ cùng ai.
Sau 13 năm sống hết sức khó khăn chật vật ở các vùng nông thôn khác nhau,
đến thánh tám năm 1802, Nguyễn Du ra làm quan Tri Huyện Phù Dung, phủ Khoái
Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Tháng mười một đổi sang Tri phủ
Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc tỉnh Hà Tây).
Từ năm 1805 đến năm 1809, ông được thăng chức Đông Các điện học sĩ. Năm
1809, được bổ làm Cai bạ dinh Quảng Bình. Đến năm Quý Dậu (1813) Nguyễn Du
được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Sang
Trung Quốc Nguyễn Du có điều kiện tiếp xúc với nền văn hóa nước bạn, chuyến đi
sứ đã để lại nhiều dấu ấn trong cách nhìn nhận về xã hội và con người Trung Quốc,
và phần nào được Nguyễn Du thể hiện rõ trong trong tập thơ chữ Hán “Bắc hành
tạp lục”. Năm 1820, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc lần hai để
báo tang và cầu phong nhưng lần này chưa kịp đi thì ông bị bệnh dịch mất ngày 10
tháng 8 năm Canh Thìn (18 – 9 - 1820), thọ 54 tuổi. Có thể thấy Nguyễn Du làm
quan cho nhà Nguyễn gần 19 năm và trên bước đường thăng tiến khá thuận lợi
không có gì gập ghềnh, trắc trở.
30
Năm 1965, Hội đồng Hòa bình thế giới đã công nhận Nguyễn Du là danh nhân
văn hóa thế giới và tổ chức kỉ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của ông
(1765 - 1965).
Như vậy, thông qua cuộc đời của Nguyễn Du có thể nhận thấy quê hương, gia
đình, xã hội và những biến cố trong cuộc đời ông đã góp phần hình thành nhân cách
và phát huy năng lực nghệ thuật dồi dào ở Nguyễn Du. Điều vĩ đại ở Nguyễn Du là
từ một quý tộc phá sản, ông đã vươn lên trở thành một nghệ sĩ thiên tài. Mặc dù
xuất thân từ giai cấp phong kiến nhưng Nguyễn Du sớm nhận thấy những hạn chế
của giai cấp mình, sớm thấu hiểu và cảm thông với nhân dân lao động. Nguyễn Du
xứng đáng là nhà nhân đạo lỗi lạc của nền văn học nước nhà.
1.4.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du
Trong sự nghiệp văn học Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế những tác phẩm
văn chương có giá trị, mãi trường tồn với thời gian. Ông sáng tác cả chữ Hán và chữ
Nôm. Sáng tác bằng chữ Nôm Nguyễn Du có tác phẩm Truyện Kiều. Về sáng tác
bằng chữ Hán hiện nay giới nghiên cứu đã sưu tầm được 250 bài thơ chữ Hán do
Nguyễn Du viết vào các thời kì khác nhau gồm ba tập: Thanh Hiên thi tập, Nam
Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục.
Tập đầu tiên trong thơ chữ Hán đó là tập thơ: “Thanh Hiên thi tập” được
sáng tác trong khoảng thời gian từ năm 1785 đến năm 1802, chủ yếu được nhà thơ
viết khi ông lánh ẩn ở quê vợ, Thái Bình, rồi trở về Hồng Lĩnh và ra lại Bắc Hà làm
quan triều Gia Long. Tập thơ gồm 78 bài và chia làm các giai đoạn khác nhau như:
Mười năm gió bụi (1786- 1795) gồm 30 bài, “Dưới chân núi Hồng” (1796 - 1802)
gồm 30 bài, Làm quan ở Bắc Hà (1802 - 1804) gồm 18 bài. Tập thơ là tâm sự của
nhà thơ trong những năm tháng sống long đong vất vả ở Thái Bình, cũng như ở
Tiên Điền. Qua những bài thơ thấy được nỗi buồn tủi cô đơn, và đồng thời là những
lời than thở của tác giả về cuộc sống nay ở đầu sông, mai ở cuối bể, ăn nhờ ở đậu,
bệnh tật, đói rét ốm đau. Có những khoảng thời gian nhà thơ muốn được trở về quê
nhà ở Hà Tĩnh, nhưng Hà Tĩnh nhà cũng không còn, giờ đây anh em lại mỗi người
một phương. Mang trong mình tâm trạng u buồn nhiều lúc Nguyễn Du muốn tìm
đến những nơi bình yên, muốn đi ở ẩn, muốn hành lạc, để vơi đi những buồn đau
trong lòng, nhưng với cuộc sống hiện tại không cho phép nhà thơ đi ở ẩn, cũng
không có điều kiện để đi hành lạc. Chính vì vậy, Nguyễn Du lại trở về với chính nỗi
buồn của mình và nỗi nhớ quê hương in lằn trong tâm hồn nhà thơ, mỗi bài thơ
31
trong Thanh Hiên thi tập là một câu chuyện kể về những khoảnh khắc thời gian và
cuộc đời của tác giả ở những năm tháng khác nhau.
Tập thơ thứ hai: Nam trung tạp ngâm sáng tác trong khoảng thời gian từ năm
(1805 - 1812) gồm 40 bài khi Nguyễn Du làm quan ở Huế và Quảng Bình, những
địa phương ở phía nam Hà Tĩnh, quê hương ông. Những bài thơ trong Nam trung
tạp ngâm vẫn là tiếng than thở của nhà thơ trước một thực trạng mà ông không thấy
có gì gắn bó, rải rác trong những vần thơ vẫn thấy Nguyễn Du nói về sự nghèo khổ
và ốm đau, ở một số bài thơ ông có nói đến bọn quan lại hay chèn ép, bên cạnh đó
cũng có những bài ông tâm sự về việc ra làm quan bị gò bó, và không tìm thấy
những ngày tự do, phóng khoáng. Khi ra làm quan ông phải cố giữ mình tránh va
chạm với những quần thần trong triều, đồng thời tránh những hiềm khích đố kị lẫn
nhau ở chốn quan trường. Như vậy, các bài thơ trong Thanh Hiên thi tập và Nam
trung tạp ngâm tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau, day dứt nhưng đã cho thấy rõ
khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về xã hội của tác giả.
Tập cuối cùng là Bắc hành tạp lục (1813 - 1814) gồm 132 bài được sáng tác
trong chuyến đi sứ ở Trung Quốc. Trong tập thơ Nguyễn Du viết về nhiều đề tài và
có nhiều nội dung khác nhau, có những bài ông viết về đề tài lấy từ đất nước mình
như bài Long thành cầm giả ca (Bài ca người gảy đàn ở thành Thăng Long). Ngoài
ra Bắc hành tạp lục là tập thơ Nguyễn Du viết về đề tài ở đất nước Trung Quốc, bao
gồm những đề tài lịch sử và những điều ông tận mắt thấy, tai nghe trong chuyến đi
sứ. Có thể thấy, đây là một trong những tập thơ Nguyễn Du viết nhiều nhất và hay
nhất trong các tập thơ chữ Hán của mình. Bắc hành tạp lục có ba nhóm đề tài đáng
chú ý: Thứ nhất là đề tài vịnh sử, thứ hai phê phán xã hội phong kiến chà đạp lên
quyền sống của con người, thứ ba cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy
xã hội bị đày đọa hắt hủi.
Về phương diện thể thơ trong 250 bài thơ chữ Hán được Nguyễn Du viết theo
nhiều thể khác nhau. Phần lớn thơ chữ Hán của Nguyễn Du được làm theo thể thất
ngôn bát cú gồm các bài như: My trung mạn hứng (Cảm hứng lan man trong tù),
Mạn hứng (Cảm hứng lan man), Điếu La Thành ca giả (Viếng người đào nương ở
La Thành)… ngoài ra còn có những bài làm theo thể ngũ ngôn bát cú gồm các bài
như: Bất mị (Không ngủ), Khổng tước vũ (Chim công múa), Tái du Tam Điệp sơn
(Lại vượt đèo Ba Dội)… có những bài được sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt
như: Thương Ngô trúc chi ca (Ca điệu Trúc Chi làm khi đi qua đất Thương Ngô),
32
Sơ thu cảm hứng (cảm hứng đầu thu)… Bên cạnh đó Nguyễn Du còn sáng tác theo
thể cổ phong như các bài: Ký mộng (Ghi lại giấc chiêm bao), Long Thành cầm giả
ca (Bài ca người gảy đàn ở thành Thăng Long), Thái Bình thành hạ văn xuy địch
(Nghe thổi sáo ở dưới thành Thái Bình).
Về đề mục trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng tôi nhận thấy rằng phần
nhiều mỗi đề mục là một bài. Nhưng cũng có một số đề mục từ hai đến ba bài
nhưng cũng có đề mục lên đến tận mười lăm bài. Trong tập Thanh Hiên thi tập
gồm 67 đề mục, 78 bài trong đó có 8 đề mục có hai bài như: U cư ( Ở nơi u tịch),
Tự thán (Than thân), Mạn hứng (Cảm hứng lan man), Thu dạ (Đêm thu), Hành lạc
từ (Bài từ hành lạc), Tạp thi (Tạp thi), Ngọa bệnh (Nằm bệnh), Ngẫu hứng ( Ngẫu
hứng). Một đề mục có ba bài như: Tạp ngâm(I, II, III). Nam trung tạp ngâm gồm
có 27 đề mục, 40 bài. Trong đó có ba đề mục có hai bài như: Giang đầu tản bộ
(Dạo bước bên sông), Giản Công bộ Thiêm sự Trần (Gởi ông Thiêm sự bộ Công họ
Trần), Đại tác cửu thú tư qui (Làm thay người đi thú lâu năm, nhớ nhà). Có một đề
mục có ba bài Ngẫu thư công quán bích (Tình cờ đề thơ trên vách công quán), và
hai đề mục có năm bài như: Mộng đắc thái liên (Nằm mơ thấy hái sen), Ngẫu hứng.
Bắc hành tạp lục gồm 110 đề mục, 131 bài, trong đó có 6 đề mục mỗi đề mục có 2
bài như: Thăng Long, Sơ thu cảm hứng (Cảm hứng đầu thu), Tô Tần đình (Đình Tô
Tần), Sở Bá Vương mộ (Mộ sở Bá Vương), Tần Cối tượng (Tượng Tần Cối),
Vượng thị tượng (Tượng Vương Thị), ngoài ra còn có một đề mục có 15 bài đánh
dấu thứ tự từ 1 đến 15 như: Thương Ngô trúc chi ca (Ca điệu Trúc Chi làm khi qua
đất Thương Ngô).
Tóm lại, “Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”
được sáng tác ở nhiều thời điểm khác nhau và khá đa dạng về đề tài. Khi nói về ba
tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Quách Tấn đã có nhận xét như sau: “tập Thanh
Hiên và tập Nam Trung phản ánh nhiều cảnh ngộ và tâm sự của Nguyễn Du. Còn
tập Bắc Hành thì biểu lộ một cách rõ ràng ý chí và tư tưởng của tác giả. Mỗi bài
thơ mỗi câu thơ là một mảnh gương phản chiếu tâm hồn” [9, tr. 41, 42].
33
Chƣơng 2
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ CỔ PHONG
NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du
2.1.1. Quan niệm về con người đời tư trong thơ cổ phong Nguyễn Du
Nguyễn Du là một trong những tác giả lớn trong nền văn học trung đại Việt
Nam, ông đã để lại cho hậu thế những kiệt tác văn chương trường tồn mãi với thời
gian. Ở những tác phẩm chữ Nôm như Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh,
Nguyễn Du đã phản ánh một cách chân thực và sinh động về đời sống xã hội cũng
như những quan niệm nghệ thuật về con người. Cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du
về con người cho thấy ông đã đổi mới quan niệm về con người và cách miêu tả con
người tạo thành chất lượng mới trong tác phẩm. Quan niệm nghệ thuật về con người
không chỉ được biểu hiện trong thơ chữ Nôm, trong thơ chữ Hán cũng được thể
hiện sinh động, sâu sắc những kiểu con người khác nhau. Nguyễn Du sống trong
một xã hội có nhiều nhiễu động, ông đã trải qua những giai đoạn thăng trầm của
cuộc đời, đã chứng kiến biết bao cảnh đời khó nhọc, vất vả, long đong, chìm nổi
trong xã hội. Nguyễn Du luôn xót xa cho mọi kiếp người và luôn day dứt trăn trở về
nhân sinh thế cuộc. Ông luôn luôn hiểu và thấu cảm với những con người có những
mảnh đời khác nhau trong cuộc sống, tất cả những con người này được ông phản
ánh vào trong thơ văn của một cách chân thực.
Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật trong thơ cổ phong của Nguyễn Du chính là
tìm hiểu quan niệm của tác giả thông qua hình tượng con người, nhân vật có mặt
trong tác phẩm. Hình tượng nghệ thuật về con người trong thơ cổ phong Nguyễn Du
phong phú và khá phức tạp khó có thể tìm hiểu một cách toàn diện. Chất chứa trong
từng lời thơ là những khát vọng, những suy tư, trăn trở, dằn vặt, những tình cảm của
nhà thơ dành cho những nhân vật của mình trong tác phẩm. Nguyễn Du là một con
người luôn sống có trách nhiệm với cuộc sống, với tất cả mọi người xung quanh
mình, là con người có trách nhiệm bởi vậy ông luôn “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ” đau buồn trước những nỗi đau của con người, những số phận không may trong
cuộc sống. Có lẽ bao trùm lên tất cả là một cái tôi tự ý thức của cá nhân, sự nhạy
cảm với cuộc đời, thời cuộc. Sự tự ý thức mẫn cảm ấy đã chi phối hình tượng nghệ
34
thuật con người trong tác phẩm. Để lí giải quan niệm nghệ thuật phức tạp này chúng
ta cần xâm nhập vào những tác phẩm nghệ thuật và thế giới trữ tình của tác giả.
Những bài thơ cổ phong của Nguyễn Du giúp ta chiêm nghiệm, suy ngẫm về những
hình tượng con người được tác giả khắc họa với những hoàn cảnh và số phận khác
nhau như: những con người nghèo khổ, cơ cực; con người tài hoa nhưng lại gặp số
phận không may mắn trong cuộc sống; con người độc ác, xấu xa với bản chất mưu
mô gian xảo, tàn bạo. Những hình tượng con người này được Nguyễn Du phản ánh
một cách cụ thể giống như những bức tranh đời sống chân thực, từ đó giúp người
đọc có cái nhìn và những suy tư trăn trở ẩn chứa trong bức tranh đó.
2.1.1.1. Con người nghèo khổ, cơ cực
Nguyễn Du là nhân chứng của một thời kì lịch sử, với những sự kiện trọng đại
những biến cố dữ dội nhất của dân tộc Việt Nam đương thời tình hình chính trị rối
ren. Đất nước chia hai, đàng trong và đàng ngoài tranh chấp phong kiến nổ ra liên
miên kéo dài hơn hai thế kỉ làm đất nước phải chịu cảnh “nồi da nấu thịt cốt nhục
tương tàn”. Nguyễn Du đã chứng kiến đã sống cùng với những biến cố kinh hoàng
ấy và tất nhiên có ảnh hưởng sâu nặng đến sáng tác. Đây chính là điều kiện để nhà
thơ gần gũi với người dân hiểu và cảm thông sâu sắc với cuộc sống cực khổ của
nhân dân lao động.
Sống trong một thời đại loạn lạc, nên chính bản thân Nguyễn Du cũng có thời
gian sống cuộc đời trôi nổi. Từ chỗ xuất thân trong một gia đình quý tộc nhưng do
những biến cố của lịch sử nên có một khoảng thời gian dài, Nguyễn Du có cuộc
sống rất khó khăn sống chìm nổi long đong, chịu nhiều thiếu thốn, cơ cực. Nếm trải
đủ mùi gian khổ, chính những điều này cũng được phản ánh rất rõ qua các câu thơ
trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, với những vần thơ chất chứa nỗi niềm tâm
sự: Mới chớm rét đã cảm thấy nỗi khổ không áo (Đêm thu). Hay trong bài Tạp
ngâm ông lại nói “Bếp núc suốt ngày không có khói lửa”; “Tóc bạc còn loay hoay
vì cơm áo” (Ngồi đêm). Cũng có những khoảng thời gian Nguyễn Du sống trong
cảnh ăn nhờ ở đậu, và những năm tháng bôn ba hết miền sông rồi tới miền biển.
Sống gần gũi với những người dân lao động, nên phần nào Nguyễn Du hiểu được
cuốc sống cơ cực, nghèo khổ, lam lũ của người dân.
Trong những vần thơ cổ phong của Nguyễn Du, tấm lòng nhà thơ luôn trải
rộng cho mọi kiếp người. Nguyễn Du không chỉ xót thương, chia sẻ mà phần nào
thấu cảm, lý giải, cắt nghĩa của chính nhà thơ đối với những mảnh đời nghèo khổ,
35
cơ cực. Trong cuộc hành trình đi sứ sang phương Bắc, Nguyễn Du đã gặp nhiều
cảnh tượng đau lòng khiến ông phải ngạc nhiên, cứ nghĩ rằng cảnh tượng của những
con người khốn khổ, nghèo đói ấy chỉ có ở người dân đất Việt. Hiện thực trước mắt
hiện ra khiến ông phải thốt lên rằng.
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bảo
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân!
(Thái Bình mại ca giả)
(Thường chỉ nghe ở Trung Nguyên ai cũng no ấm.
Ngờ đâu Trung Nguyên cũng có người như thế này)
Nguyễn Du là người đọc nhiều sách vở thánh hiền, luôn tự mình học hỏi tìm
hiểu lịch sử, văn hóa của các quốc gia dân tộc khác nhau, và điều hiển nhiên Trung
Quốc là đất nước mà Nguyễn Du đã từng quen thuộc qua nhiều sử sách và thơ văn.
Nguyễn Du luôn nghĩ rằng Trung Hoa là nước phát triển, thiên nhiên cảnh vật thơ
mộng, con dân sẽ được sống trong cảnh thái bình, cuộc sống âm no, hạnh phúc.
Nhưng khi tận mắt chứng kiến cuộc sống của những người dân, Nguyễn Du nhận ra
rằng đất nước Trung Hoa cũng chẳng khác gì đất Việt. Cuộc sống của người dân
cũng không kém phần cực khổ.
Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn
Chỉ hữu xuân tác vô thu thành
Hồ Nam, Hà Nam cửu vô vũ
Tự xuân tồ thu điền bất canh
(Trở binh hành)
(Ta nghe người vùng này nhiều năm khổ vì lúa mất trắng và nắng cháy/ Chỉ
có cấy xuân mà không thu hoạch được/ Hồ Nam, Hà Nam từ lâu không có mưa/Từ
mùa xuân đến mùa thu ruộng bỏ không cày)
Chuyến đi sứ đã đem đến cho Nguyễn Du cách nhìn nhận xã hội sâu sắc và
toàn diện hơn. Trên đường đi ông đã nhìn thấy biết bao cảnh đời nghèo khó, vật lộn
với cuộc sống để kiếm ăn từng bữa, sống leo lắt qua ngày. Những bài thơ cổ phong
của Nguyễn Du đã vẽ nên trước mắt người đọc một bức tranh hiện thực sống động
về cái đói, cái rét làm cho con người tàn tạ mất hết sức sống, cũng có lúc chính cái
đói nó cướp đi cuộc sống của con người. Có thể thấy rõ điều này trong bài thơ Sở
36
kiến hành, bài thơ ngũ ngôn cổ phong theo thể hành rất thuận tiện cho nhà thơ kể
chuyện về cuộc đời số phận của bốn mẹ con người đàn bà hành khất tiều tụy, vật vờ
bên vệ đường, quần áo lam lũ tả tơi.
Mở đầu bài thơ tác giả khắc họa hình ảnh bốn mẹ con người ăn xin với những
dáng đi xiêu vẹo trên đường.
Hữu phụ huề tam nhi,
Tương tương tọa đạo bàng.
Tiểu giả tại hoài trung
Đại giả trì trúc khuông
Khuông trung hà sở thịnh?
Lê hoắc tạp tì khang.
Nhật án bất đắc thực,
Y quần hà khuông nhương!
(Sở kiến hành)
(Có người đàn bà dắt ba đứa con/ Cùng nhau ngồi ở bên đường/ Đứa nhỏ ẵm
trong lòng/ Đứa lớn cầm chiếc giỏ tre/ Trong giỏ đựng những gì?/Rau lê, rau hoắc
lẫn với cám/ Quá trưa rồi vẫn chưa được ăn/ Áo quần sao mà rách rưới quá!)
Trong cách miêu tả của Nguyễn Du hình ảnh bốn mẹ con hiện lên đầy xót xa
tội nghiệp. Nhìn cảnh bốn mẹ con rách rưới bồng bế dắt díu nhau đi và cùng ngồi bên
vệ đường nhà thơ động lòng trắc ẩn, thương cho số phận của những đứa trẻ nhỏ
không biết sẽ trôi dạt về đâu. Hình ảnh của những đứa trẻ được nhà thơ khắc họa rõ
nét, đứa nhỏ chưa biết đi người mẹ phải ẵm trong lòng, đứa lớn đi được cũng phải
mang trên mình một cái gì đó làm cho thân hình nhỏ bé bước đi từng bước mệt mỏi rã
rời (Đứa lớn tay mang giỏ). Chiếc giỏ trong tay đứa trẻ cầm cũng không biết đựng
những gì, nó chỉ biết rằng những thứ đó chính là thức ăn của mấy mẹ con Rau lê, rau
hoắc lẫn với cám. Trong những năm hạn hán mất mùa xảy ra liên tiếp, còn có rau và
cám để ăn con người cũng cảm thấy còn có một chút gì may mắn. Chính những thức ăn
ấy sẽ giúp con người chống chọi với những ngày đói trước mắt. Chỉ với hình ảnh một
chiếc giỏ trên tay của đứa trẻ Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được cuộc sống của
con người nghèo khổ, oái oăm đến nhường nào. Con người phải vật lộn với cuộc sống
mưu sinh, tìm kiếm từng cái ăn, cái mặc một cách gian nan, khó nhọc.
37
Trước cảnh sống của người dân, Nguyễn Du còn thấy một tương lai mù mịt
thê thảm của con người. Nguyễn Du đau lòng trước cảnh những người dân mất mùa
đói kém phải từ bỏ nhà, bỏ làng quê đi xin ăn từng bữa để sống qua ngày. Sớm
muộn gì những con người này cũng bỏ thây nơi ngòi rãnh.
Mẫu tử bất túc tuất,
Phủ nhi tăng đoạn trường.
Kỳ thống tại tâm đầu
Thiên nhật giai vị hoàng.
(Sở kiến hành)
(Mẹ chết không đáng tiếc/ Vỗ về con mà thêm đứt ruột/ Trong lòng đau xót lạ
lùng/ Mặt trời cũng vì người mà vàng úa!)
Đau đớn đến nghẹt thở, bi phẫn đến tột cùng, trên con đường giữa sự sống và cái
chết, những đứa trẻ kia là tình yêu của người mẹ. Chắc hẳn đối với tất cả người mẹ trên
đời này những người con luôn là tài sản quý nhất, vì chúng người mẹ có thể làm tất cả,
sẵn sàng hi sinh bản thân để đem đến cuộc sống bình yên cho những đứa con. Hình ảnh
những đứa trẻ với đôi mắt ngây thơ hồn nhiên, dường như chúng chưa hiểu về hoàn
cảnh hiện tại của mình, chưa hiểu được nỗi đau đang dày vò trong lòng người mẹ. Nhìn
cảnh những đứa con thơ dại cứ vẫn cười nói như thường, càng làm cho nỗi buồn đau
nặng trĩu trên đôi vai gầy gò của người mẹ. Trước tình cảnh khốn cùng của người dân,
không chỉ Nguyễn Du ngậm ngùi thương xót. Trời đất cũng như đang tối sầm lại, mặt
trời không còn vẻ ấm áp tươi vui, nó cũng xót xa úa vàng, cũng đau khổ, xót thương
cho những kiếp người nghèo. Thật đau lòng thay những kẻ có trách nhiệm với dân vẫn
thản nhiên đứng nhìn, dường như trong mắt chúng, những người đói khổ, những xác
người bên đường kia chẳng liên quan gì đến mình nên cứ ăn uống no say, chơi đùa thỏa
thích. Trước hiện thực nghiệt ngã như vậy, Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh “no nê thừa
mứa” cảnh tiệc tùng linh đình của bọn quan lại ở trạm Tây Hà.
Tạc tiêu Tây hà dich,
Cung cụ hà trương hoàng!
Lộc cân tạp ngư xí,
Mãn trác trần trư dương.
Trưởng quan bất hạ trợ,
Tiểu môn chỉ lược thường.
Bát khí vô cố tích,
(Sở kiến hành)
38
(Đêm qua ở trạm Tây Hà/ Tiệc tùng cung đốn sao mà linh đình thế/ Gân hươu
cùng vây cá/ Đầy bàn thịt lợn, thịt dê/ Quan lớn chẳng đụng đũa/ Tùy tùng chỉ nếm
qua loa/ Bỏ mứa không đoái tiếc)
Những câu thơ thấy được sự bất công vô lí trong cuộc đời, người giàu hay
người nghèo, đều là những con người bằng da, bằng thịt nhưng sao lại bất công đến
thế. Ở đây, chúng ta nhận ra rằng, cũng là người nhưng họ là những quan lớn, cuộc
sống của họ là những gam màu tươi sáng, những bữa tiệc được dọn ra sẵn và rồi lại
được đổ đi đến nỗi Chó hàng xóm cũng chán cao lương. Vậy mà họ có biết rằng
những cái họ đổ đi chín là niềm mơ ước của bao con người ngoài xã hội. Họ có biết
rằng, ngay chính bên đường quan cạnh đó có bốn mẹ con nhà nọ sắp chết vì đói.
Bất tri quan đạo thượng
Hữu thử cùng nhi nương
( Sở kiến hành)
(Không biết trên đường cái quan/ Có mẹ con nhà này khốn cùng như thế)
Cái chết không còn là những lời nói viễn vong nữa mà nó đã bày ra trước mắt
con người, dọc đường phố đâu đâu cũng đầy những xác người chết đói.
Nhãn hạ ủy câu hác,
Huyết nhục tự sài lang
(Sở kiến hành )
(Nhìn thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh/ Máu thịt nuôi sài lang)
Và cái chết luôn rình rập, xuất hiện ở bất cứ nơi đâu
Nhãn kiến cơ biếu tử đương đạo,
Hoài trung táo tử thân biên khuynh.
(Trở binh hành)
(Ta nhìn thấy tận mắt người đói chết giữa đường,
Hột táo trong bọc túi lăn bên mình)
Nhìn từ bọc túi lăn ra hạt táo, nhà thơ thoảng thốt kêu lên, thức ăn của con
người không chỉ rau và cám mà còn có lẽ là những hạt táo. Cuộc sống con người
đói khổ đến mức, phải ăn những hạt táo người ta vứt bỏ để cầm hơi và sống sót qua
những ngày đói.
39
Mỗi một bài thơ cổ phong là một câu chuyện về cuộc đời của con người. Dù
được miêu tả ở những khía cạnh khác nhau, nhưng hình ảnh nghèo khổ của người
dân được Nguyễn Du miêu tả đúng như bản chất vốn có của nó. Đó là nỗi thống
khổ của những người dân đen thường gặp phải trong cuộc sống như: thiên tai, mất
mùa, đói rét, ốm đau, bệnh tật dẫn đến chết chóc, cuộc sống nay đây mai đó không
nhà không cửa.
Nguyễn Du vẫn thường nói về sự nghèo khổ của những người dân đen, nhưng
với hai bài thơ Sở kiến hành và Thái Bình mại ca giả Nguyễn Du đã nhìn thấu, cảm
thấu nỗi khổ của con người.
Thái Bình cổ sư thô bố y,
Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi.
Vân thị thành ngoại lão khất tử,
Mại ca khất tiền cung thần xuy.
(Thái Bình mại ca giả)
(Ở phủ Thái Bình có người mù mặc áo vải thô/ Có em bé dắt ra bến sông/ Bảo
rằng đó là ông già xin ăn ở ngoài thành/ Hát rong xin tiền để kiếm cơm.)
Ở bài “Thái Bình mại giả ca” Nguyễn Du kể về cảnh sống của ông già mù hát
rong ở châu Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây. Cuộc sống của ông già mù cũng không
khác gì mấy so với bốn mẹ con trong Sở kiến hành. Chỉ vì cuộc sống quá nghèo khổ,
ông già phải tự mình đi hát rong để kiếm cái ăn. Dù tuổi đã cao sức đã yếu, mắt
không nhìn thấy nhưng tiếng hát, tiếng đàn của ông già vẫn lay động lòng người,
khiến cho người xem, người nghe đều im lặng, đắm chìm trong tiếng nhạc quên hẳn
cả thực tại.
Quan giả thập số tịnh vô ngữ
(Thái Bình mại ca giả)
(Hơn chục người xem đều im lặng lắng nghe)
Nguyễn Du nhìn thấy những người ngồi trên thuyền đều là quan lớn, với vẻ
bề ngoài sang trọng. Ông hi vọng họ sẽ mở rộng tấm lòng giúp đỡ cho hoàn cảnh
khốn khó của con người nghèo khổ kia, nhưng viễn cảnh trước mắt thật đau lòng.
40
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc,
Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc.
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh,
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục.
(Thái Bình mại ca giả)
(Miệng sùi bọt, tay rã rời/ Ngồi yên, cất đàn, ngỏ lời đã đàn xong/ Dốc hết
tâm lực gần một trống canh/ Mà chỉ được năm sáu đồng tiền.)
Cũng chính vì cái đói, cái nghèo cứ bủa vây lấy con người, nên ông già mù ở
châu Thái Bình phải mò lần từng bước đi, kiếm cái ăn để nuôi sống bản thân qua
ngày. Ông đã cố gắng hết tâm lực, ngồi đàn cả một trống canh nhưng chỉ để đổi lấy
được năm sáu đồng bạc. Những đồng tiền kiếm được không thỏa với công sức ông
đã bỏ ra nhưng ông vẫn giữ được cách cư xử của một con người biết lễ nghĩa.
Mô sách dẫn thân hướng tọa ngung
Tái tam cử thủ xưng đa tạ
(Thái Bình mại ca giả)
(Ông già sờ soạng đến ngồi vào một góc/ Hai ba lần giơ tay lên thi lễ tạ ơn)
Hát xong, ông đi tiếp cuộc hành trình đau khổ. Trong cảnh khốn khó như vậy
khi lên thuyền, ông vẫn không quên ngoảnh đầu quay lại luôn mồm tạ ơn, chúc
phúc người chủ thuyền hai ba lần. Tội nghiệp đến thế là cùng.
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai
Do thả hồi cố đảo đa phúc
(Thái Bình mại ca giả)
(Đứa bé dẫn được ra khỏi thuyền/ Còn quay đầu lại chúc “đa phúc”)
Nhìn thấy cảnh tượng của ông già Nguyễn Du lòng đau quặn thắt.
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần
(Thái Bình mại ca giả)
(Ta chợt thấy vậy vừa buồn đau vừa chua xót
Phàm người ta thà muốn chết, không ai muốn nghèo)
Ông già mù tiếp tục hành trình của mình, khi bóng hai ông cháu khuất dần.
Nguyễn Du ngồi lại trên thuyền với nỗi buồn da diết, bổng nhiên nhà thơ thốt lên
41
rằng “Người ta thà chết còn hơn nghèo” hỏi trong cuộc đời này có mấy ai hiểu được
cảnh nghèo như nhà thơ. Nỗi buồn, nỗi đau đến đây vì thế nó trở thành một nỗi giận
lớn. Khi Nguyễn Du chứng kiến cảnh tượng những con người ngồi trên thuyền đều
là những người giàu sang, sống trong nhung lụa, với cuộc sống xa hoa, những bữa
tiệc linh đình, đến nỗi thức ăn dư thừa đều hắt xuống sông.
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ
Hành nhân bão thực tiện khí dư
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để
(Thái Bình mại ca giả)
(Thuyền này thuyền nọ đều đầy gạo thịt/ Người trong đoàn sứ ăn no còn thừa
thì vứt/ Cơm nguội, thức ăn thừa đổ xuống đáy sông)
Trong cảnh thiên tai, đói rét mất mùa hàng trăm người dân phải chết đói, hàng
nghìn người khác phải lay lắt kiếm từng bữa ăn. Những thức ăn kiếm được phải đổi
bằng mồ hôi và những giọt nước mắt cay đắng, những tủi hổ của bản thân. Người
nghèo phải ăn rau, ăn cám, ăn tấm và những hột táo người ta bỏ lại … còn quan lại
thì thịt lợn, thịt dê cơm gạo thừa mứa đổ cả xuống sông.
Từ đây thấy được hiện thực cuộc sống đầy nghiệt ngã với những mâu thuẫn
giai cấp sâu sắc, dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Du phần nào vạch rõ bản chất của
giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Giai cấp thống trị luôn sống trong giàu sang còn
những người dân thấp cổ bé họng lại chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống. Khi nhìn
thấy cảnh của những người dân chết đói trên đường và những con người đang vật
lộn với cái đói, quan lớn đưa ra những lời hứa phát chẩn nghe rất êm tai, hòng xoa
dịu nỗi đau, muốn che mắt thiên hạ, lừa gặt triều đình. Việc phát lúa gạo để cứu
sống những người dân trong cơn hoạn nạn, đói khát cũng để nhằm mục đích vơ cái
chung của triều đình làm đầy túi tham của riêng họ.
Tạc kiến Tân Trịnh thành môn niêm bảng thị
Án hộ cấp túc tô tàn manh
( Trở bình hành)
(Hôm trước thấy trong thành Tân Trịnh yết bảng cáo thị
Xét theo hộ mà cấp lúa cứu sống lũ dân sống sót.)
Việc làm của nhà quan đều có mục đích rõ ràng, bởi vì phải xét theo hộ
những ai còn sống mới cứu tế phát lương thực. Thực chất chúng hiểu rằng còn được
mấy người sống sót, và lương thực chúng cứu tế cũng chỉ đủ người dân sống dăm
42
bữa nửa tháng là cùng. Ngay trong một không gian tăm tối ảm đạm, hiu hắt bao
quanh cuộc sống của người dân, quan trên thổi vào đó một luồng sinh khí, viễn cảnh
tươi sáng.
Hoàng Hà dĩ bắc mạch hựu thục,
Bách nhật nhi bối thê tử giai đắc sinh
( Trở binh hành)
(Phía bắc sông Hoàng Hà lúa mạch lại chín
Trăm ngày nữa thì vợ con các ngươi sẽ đều được sống)
Một lời an ủi, vỗ về thật cảm động, của quan tuần phủ nhưng qua đây chúng
ta cũng phải suy nghĩ và tự đặt ra câu hỏi, liệu những người sống sót trong hiện tại
của nạn đói, họ có thể sống được trăm ngày nữa để chờ đến ngày lúa chín hay
không? Thực buồn cười trước những lời hứa hẹn giúp đỡ đầy tình yêu thương của
quan tuần phủ ở chính trên mảnh đất mà người nông dân đang chết dần chết mòn vì
đói. Nguyễn Du đã bóc trần đúng bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị, phơi bày
hiện thực xã hội thối nát của đất nước Trung Hoa. Nhân dân điêu linh, lầm than
sống trong cái đói, cái rét, thiên tai hạn hán mất mùa, còn quan lại chỉ là những con
bù nhìn, vui vẻ tiệc tùng linh đình không quan tâm đến đời sống của nhân dân. Có
thể nói chính từ cuộc đời khốn khó của mình mà Nguyễn Du càng cảm thông nhiều
hơn với những mảnh đời bất hạnh trong cuộc sống, đồng thời thể hiện sự căm giận
với hiện thực bất công trong cuộc đời. Đó chính là tình cảm nhân đạo cao quý nhất
của nhà thơ dành cho những kiếp con người trong xã hội. Những vần thơ cổ phong
không chỉ là những ngôn từ sáo rỗng, mà ẩn chứa bao nước mắt, bao tâm tư, thậm
chí cả máu đã hòa lệ để xót thương cho những kiếp người khác nhau mà Nguyễn Du
đã chứng kiến trên đường đi sứ.
Trong mỗi bài thơ cổ phong là cảnh ngộ, là những câu chuyện về cuộc đời
của mỗi con người: như trong bài Sở kiến hành là câu chuyện về cuộc đời của bốn
mẹ con người ăn xin bên vệ đường năm đói, với những thức ăn rau cỏ tấm cám cầm
hơi, sắp chết lăn nơi ngòi rãnh, hay Thái bình mại ca giả Nguyễn Du kể lại câu
chuyện một ông lão mù theo đứa cháu dắt xuống thuyền hát suốt một trống canh,
hát đến nỗi “miệng sùi bọt, tay mỏi rời” mà chỉ xin được năm sáu đồng tiền. Hình
như ngòi bút của Nguyễn Du luôn tự tìm đến với những kiếp người nghèo khổ, cơ
cực, có những lúc ông đã miêu tả một cách trần trụi, để con người hiện ra một cách
thê thảm trong tình cảnh dưới đáy của sự khốn cùng. Nhưng có khi Nguyễn Du phát
hiện ra rằng ở những con người nghèo khổ kia vẫn có những phẩm chất đáng quý
43
đáng trân trọng, trong hoàn cảnh của cái đói đang dần lấy đi tất cả sự sống của con
người. Nguyễn Du đã nhìn thấy ở trong con người của ông gia mù hát rong vẫn có
một nhân cách của một con người biết lễ nghĩa, chính hành động cúi người thi lễ tạ
ơn đã làm toát lên vẻ đẹp, phẩm chất ẩn chứa bên trong của người nông dân. Nhờ có
những trải nghiệm trong cuộc đời nên Nguyễn Du đã viết về người dân nghèo khổ,
cơ cực sâu sắc đến như vậy. Khi viết về cuộc sống của người dân nghèo, Nguyễn
Du không chỉ tỏ lòng thương xót người dân mà còn hàm ý mỉa mai, phê phán bọn
vua quan triều đình phong kiến. Thông qua hình tượng những con người nghèo khổ,
cơ cực Nguyễn Du đã phần nào thể hiện cách nhìn, cách hiểu, sự thấu cảm, lí giải và
cắt nghĩa của nhà thơ về hiện thực đời sống. Cái nhìn nghệ thuật về con người cho
thấy ông đã có cái nhìn đa chiều về con người chứ không phải miêu tả một cách
phiến diện. Đồng thời còn thể hiện sự gần gũi của nhà thơ với cuộc sống của những
người nông dân.
2.1.1.2. Con người tài hoa, bất hạnh
Nguyễn Du luôn gắn bó gần gũi với người dân nên phần nào ông hiểu và cảm
thông cho từng số phận, những mảnh đời không may trong cuộc sống. Nguyễn Du
luôn dành một tình cảm sâu sắc cho những người phụ nữ và hơn tất cả ông luôn quan
tâm đến những người phụ nữ tài hoa nhưng lại gặp nhiều bất hạnh trong cuộc đời.
Trong cuộc sống của con người sắc đẹp và tài năng chính là cái đáng quý
đáng trân trọng nhất. Nhưng sống trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ thường đầy
rẫy những oan trái. Những người có tài có sắc luôn chịu những số phận không may
mắn, cuộc đời long đong, bảy nổi ba chìm, bị vùi dập một cách không thương tiếc.
Đặc biệt là tài năng và sắc đẹp của người phụ nữ. Trong thơ chữ Nôm và thơ chữ
Hán của Nguyễn Du, ta vẫn bắt gặp nhiều bài thơ viết về số phận của người phụ nữ.
Hình ảnh người phụ nữ đi vào thơ văn Nguyễn Du thường là hình ảnh những ca nhi,
kĩ nữ, vợ lẽ, nàng hầu, hay là vợ của vua, thiếp vua… dù là ai đi nữa Nguyễn Du
không nhìn họ bằng cái nhìn định kiến như quan niệm của xã hội phong kiến.
Ngược lại, ông nhìn họ với tấm lòng yêu thương, trân trọng, bênh vực bảo vệ.
Người phụ nữ xuất hiện trong thơ Nguyễn Du không chỉ có tài năng mà còn có sắc
đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Thế mà tài năng và sắc đẹp thường không mang
lại hạnh phúc, luôn mang đến nhiều nỗi bất hạnh trong cuộc đời. Chẳng hạn như
trong Truyện Kiều, ta bắt gặp hình ảnh của một nàng Kiều xinh đẹp và tài sắc,
nhưng chính cái đẹp, cái tài lại đem đến cho nàng số phận không may, nàng trở
44
thành kĩ nữ, cuộc sống thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần, phải lưu lạc ở chốn lầu
xanh, xa gia đình người thân.
Trong thời gian đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã đến thăm cảnh Tây
Hồ, viếng mộ Tiểu Thanh, đọc bài kí và di cảo Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã có sự
đồng cảm và xúc động nên đã viết nên bài “Độc Tiểu Thanh kí”. Nàng Tiểu Thanh
nhan sắc và tài năng nổi tiếng một thời mà giờ đây chỉ một mình Nguyễn Du
thương xót cho nàng. Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư/ Độc điếu song tiền nhất chỉ
thư/ Chi phấn hữu thần liên tử hậu/ Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Nguyễn Du thương người con gái ấy sống cách nhà thơ hơn ba trăm năm tài sắc
hơn đời, phải đem thân làm vợ lẽ cho một gia đình quyền quý trong vùng. Những
tưởng cuộc đời cô sẽ được sung sướng và hạnh phúc, nhưng ngờ đâu đó chính là sự mở
đầu cho những sống gió và bất hạnh sau này. Cũng chính vì vẻ đẹp và tài năng của
nàng làm cho vợ cả ghen ghét, đố kị nên lập mưu hãm hại đến nỗi phải ôm hận mà
chết. Nỗi uất ức, đau khổ được cô gửi gắm vào thơ nhưng nhiều bài thơ đều bị vợ cả
đốt, may sao còn có một số bài sót lại. Từ số phận của nàng Kiều, nàng Tiểu Thanh
thấy được những oan nghiệt ngang trái của cuộc đời. Những con người ấy bị vùi dập
không thương tiếc, giờ đây thân xác họ bị vùi lấp, sau cái chết của họ, chắc chẳng ai
còn nhớ đến sự tồn tại của những con người này, họ bị lẵng quên, và dần chìm vào quá
khứ. Hình ảnh người phụ nữ tài sắc không chỉ xuất hiện trong thơ Nôm, và trong thể
thất ngôn bát cú Đường luật, còn xuất hiện trong những vần thơ cổ phong.
Trong thơ cổ phong của Nguyễn Du, ta cũng bắt gặp hình ảnh người phụ nữ tài
sắc. Đầu tiên chúng tôi muốn nói đến nhóm thơ kể chuyện “những điều trông thấy”
với số phận của những con người thực, hiện ra một cách cụ thể và rõ nét. Nguyễn Du
tận mắt chứng kiến một phần về cuộc đời của họ, với những thay đổi của con người
làm cho nhà thơ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Long Thành cầm giả ca là
một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho những bài viết về số phận bi kịch của
người phụ nữ. Đây là bài thơ tự sự được làm theo ca hành với độ dài lên đến năm
mươi câu. Trong hai mươi sáu bài thơ cổ phong của Nguyễn Du, đây là bài thơ duy
nhất trong nhóm thơ cổ phong, có kèm theo phần tiểu dẫn kể về cuộc đời và số phận
của một ca nữ vô danh mà Nguyễn Du đã chứng kiến trên đường đi. Đều viết về đề
tài người phụ nữ nhưng mỗi bài lại có sự thể hiện hoàn toàn khác nhau. Đấy chính là
dấu hiệu của một tài năng không hề lặp lại trong những sáng tác, giúp người đọc có
những cách nhìn, cách đánh giá chính xác về tài năng văn chương của Nguyễn Du.
45
Bài thơ Long Thành cầm giả ca khác với Truyện Kiều, khác với Độc Tiểu
Thanh kí, nhân vật trung tâm của tác phẩm không được Nguyễn Du giới thiệu danh
tính cụ thể. Tính không xác định này phải chăng là một dụng ý nghệ thuật, nhằm
khẳng định một tài năng của một con người vô danh, tài năng ấy được thể hiện
thông qua tiếng đàn mà người phụ nữ này đánh lên. Mở đầu bài thơ Nguyễn Du đã
giới thiệu đến người đọc về tài năng của người gảy đàn.
Long thành giai nhân,
Tính thị bất ký thanh.
Độc thiện Nguyễn cầm.
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh.
Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc,
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh.
(Long Thành cầm giả ca)
(Người đẹp thành Thăng Long/ Họ tên không được rõ/ Riêng thạo ngón đàn
Nguyễn cầm/ Người trong thành lấy chữ “Cầm” gọi tên nàng/ Nàng học được khúc/
“Cung phụng” trong cung vua triều trước/ Đó là khúc nhạc hay nhất tưởng chừng như
từ trên trời đưa xuống trần gian.)
Có tài gảy đàn nhưng qua lời giới thiệu của tác giả, chúng ta không hề biết gì
về lai lịch của người gảy đàn. Chỉ biết rằng người ta thường gọi người gảy đàn là cô
Cầm, nhưng thực chất Cầm không phải là một cái tên, cái tên này do chính những
người nghe đàn tự đặt lấy cho nàng, gọi quen nên nó trở thành tên. Cầm là tên của
cây đàn nhưng về sau cái tên này gắn bó với cô hết cuộc đời.
Có thể thấy “Long Thành cầm giả ca là bài thơ được viết trên một câu chuyện
có thực theo truyền thống Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Nhưng nó khác với Tỳ bà
hành. “Người phụ nữ trong Tỳ bà hành già đi theo năm tháng, rồi bị chồng ruồng rẫy,
cuộc đời lận đận. Bạch Cư Dị gặp nàng trong lúc mình bị giáng trích, khóc rất nhiều.
Những giọt nước mắt của Bạch Cư Dị nghìn năm sau còn làm người ta thương cảm,
và chủ đề “kỹ nữ” đã trở thành chủ đề của mọi thời đại. Nguyễn Du chắc chắn đã tiếp
nhận tiếng vang của những rung cảm lớn đó trong Tỳ bà hành, nhưng Nguyễn Du
đem lại cho Long Thành cầm giả ca một âm điệu khác. Số phận của người gảy đàn
được Nguyễn Du đặt vào trong những biến động mãnh liệt của thời đại” [10, tr. 127].
Nguyễn Du không theo sát từng diễn biến những mốc thời gian cụ thể trong
cuộc đời cô Cầm, mà chỉ khắc họa hình ảnh chân dung của nàng thông qua hai bữa
46
tiệc quan, hai lần gặp gỡ một người ca nữ tên Cầm ở Thăng Long. Hình ảnh cô Cầm
hiện lên trước mắt Nguyễn Du với tuổi trẻ, sự duyên dáng khiến người ta không thể
không nhớ đến.
Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến
Giám hồ hồ biên dạ khai yến
Kỳ thời tam thất chính phương niên
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tối nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
(Long Thành cầm giả ca)
(Tôi nhớ lúc trẻ đã từng gặp một lần/ Bên hồ Giám trong một cuộc dạ yến/
Lúc ấy nàng còn trẻ, tuổi chừng hai mốt/ Áo hồng cũng bị mờ nhạt đi trước vẻ mặt
hoa đào/ Má hồng men rượu, dáng ngây thơ, rất đáng yêu/ Năm cung réo rắt theo
ngón tay đàn mà đổi điệu)
Hình ảnh cô Cầm không chỉ tươi tắn ở vẻ bề ngoài làm cho con người mê
mẫn, mà qua tiếng đàn còn thể hiện tài năng của nàng, tiếng đàn làm lay động lòng
người, khiến người nghe như chìm vào giấc mộng. Tác giả sử dụng nghệ thuật so
sánh để diễn tả cái hay và tài nghệ của cô Cầm, tiếng đàn đã thấm vào từng tâm hồn
con người. Tài năng đánh đàn của cô Cầm chính là tinh hoa của trời đất, cái đẹp, cái
tài được chắt lọc, mài giũa qua thời gian. Trước tiếng đàn của người thiếu nữ Long
Thành khiến mọi người đều im lặng lắng nghe quên cả đêm khuya thanh vắng, rồi
tranh nhau bày tỏ mối thiện cảm của mình với một thái độ trân trọng tài năng và yêu
mến đối với cô Cầm.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
(Long Thành cầm giả ca)
(Phía tả phía hữu đua nhau ném thưởng/ Tiền bạc coi rẻ như đất bùn)
Nhưng chắc có lẽ không có gì trường tồn mãi mãi, chính sự vận động biến
chuyển của đất trời và sự lạnh lùng trôi qua của thời gian làm thay đổi mọi thứ. Lần
gặp thứ hai Nguyễn Du gặp cô Cầm chính là khoảng thời gian sau hai mươi năm. Lần
này Nguyễn Du trở lại Thăng Long trong tư cách là một ông chánh sứ. Ở lần gặp này
mọi thứ đã hoàn toàn đổi thay. Trên đường qua Thăng Long các quan có đặt tiệc tiễn
ông ở dinh Tuyên phủ. Trong bữa tiệc có rất nhiều ca nhi, kĩ nữ xinh đẹp nhưng tất cả
47
Nguyễn Du đều không để ý đến họ, mà sự chú ý của ông lại tập trung vào hình ảnh
của một người phụ nữ ngồi lặng lẽ ở cuối chiếu gảy bản đàn ngày nào.
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu
(Long Thành cầm giả ca)
(Riêng ở cuối chiếu có một người tóc đã hoa râm/ Nét mặt võ vàng thần sắc
khô khan, thân hình hơi nhỏ/ Đôi mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm/ Ai biết
rằng đó chính là người tài danh bậc nhất của kinh thành ngày xưa)
Nguyễn Du đâu ngờ rằng cô Cầm ngày xưa đầy kiêu hãnh, giờ đây thân hình
tàn tạ héo hon, xơ xác, bị người đời lãng quên, có lẽ ông đã nhận ra hình ảnh của cô
Cầm qua tiếng đàn, tiếng đàn vang lên vẫn trong trẻo, nghe vẫn du dương như xưa.
Nhưng cô Cầm hoàn toàn thay đổi “người gầy võ, thần sắc khô khan, mặt đen, quần
áo toàn bằng vải thô, bạc phếch, vá nhiều mảnh trắng” Nguyễn Du nhìn thấy không
thể không chận lòng. Nếu trước đây cô Cầm được mọi người tán thưởng, yêu thích,
coi như vật báu ở kinh đô Trường An thì giờ đây không một ai để ý tới nàng. Từ đây
có thể thấy rằng quy luật tự nhiên của tạo hóa mới khắc nghiệt làm sao, thời gian đã
cướp đi, nhan sắc, tuổi trẻ sự nhanh nhẹn của người phụ nữ và nó thay đổi cả thời
cuộc. Nhà thơ đau buồn, day dứt về lẽ bể dâu hưng phế của cuộc đời, về thân phận
của con người. Những dòng thác thời gian đã gây ra biết bao nỗi đau thương. Xưa
nàng trẻ trung, tài hoa bao nhiêu thì bây giờ nàng tàn tạ tiêu điều bấy nhiêu. Những
thay đổi của cô Cầm chính là dấu ấn của những vất vả và bất hạnh mà cô ca nữ gặp
phải trong cuộc đời. Tài năng cũng không đem lại điều gì tốt đẹp cho cuộc sống của
con người, mà có thể đem đến những bất hạnh đau đớn trong cuộc đời.
Qua bài Long Thành cầm giả ca thấy được nỗi buồn, nỗi đau của Nguyễn Du
khi tận mắt chứng kiến bao sự đổi thay của con người và xã hội. Ông không chỉ
ngợi ca trân trọng, cảm thông, sẻ chia đối với những người phụ nữ, mà còn luôn
bênh vực và bảo vệ họ. Bởi lẽ, ông nhận ra rằng mình là người cùng hội cùng
thuyền với những kiếp con người kia. Nguyễn Du nhận ra một điều sắc đẹp và tài
hoa không phải tội, không phải là nguyên nhân của mọi bất hạnh và đau khổ của
con người. Sâu thẳm trong tâm hồn Nguyễn Du chỉ ra nguyên nhân sâu xa là do xã
hội không biết quý trọng cái đẹp và cái tài, đã chà đạp vùi dập nó một cách không
48
thương tiếc, từ đó mới dẫn đến những bi kịch và đau khổ cho người phụ nữ. Chính
vì vậy, tấm lòng nhân đạo của nhà thơ luôn hướng về người phụ nữ để rồi ông đau
cùng nỗi đau với họ, trong những bài thơ cổ phong của Nguyễn Du luôn thấm đượm
tinh thần nhân đạo và nhân văn cao cả.
Thơ cổ phong của Nguyễn Du không chỉ nói đến số phận tài hoa bất hạnh của
người phụ nữ. Nguyễn Du còn nhắc đến những bậc nam nhân đó là những người tài
không được xã hội trọng dụng. Khi đi sứ sang phương Bắc Nguyễn Du có điều kiện
tiếp xúc với nền văn hóa nước bạn, tìm hiểu thêm về những nhân vật trong lịch sử
văn hóa, văn học Trung Quốc. Qua những nhân vật nổi tiếng của đất nước Trung
Hoa, Nguyễn Du đặc biệt chú ý đến những con người tài năng, đức hạnh nhưng lại có
số phận bất hạnh. Trong Truyện Kiều ông từng viết “Trăm năm trong cõi người ta;
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Hai câu thơ ta thấy được rằng tài mệnh tương
đố, và điều này ta cũng đã thấy rõ qua những nhân vật trong thơ của Nguyễn Du, hầu
hết những người tài hoa ít nhiều đều gặp những sống gió và bất hạnh trong cuộc đời.
Sống trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ ta nhận ra rằng những bậc kì tài
thường là những người luôn chịu sự ghen ghét, gièm pha. Chỉ vì những lợi ích cá
nhân của bản thân mà những người tham vinh hoa phú quý, tìm mọi cách để triệt
tiêu người khác cố giữ vững địa vị của mình. Những việc làm ấy đã gây nên bao
cảnh bi thương cho những bậc anh hùng tiết nghĩa, một lòng phụng sự nhân dân và
tận trung báo quốc. Thông qua sử sách Nguyễn Du biết nhiều nhân vật anh hùng
trung nghĩa nhưng lại có số phận bi đát. Trên đường đi sứ Nguyễn Du có dịp đi qua
Hàm Đan, đứng trước bia Liêm Pha. Nguyễn Du đã khóc thương cho một vị tướng
tài giỏi với những vần thơ ca ngợi về phẩm chất tài năng của Liêm Pha.
Ký khổn trọng nhậm tu lão thành
Nội thẩm quốc thế ngoại địch tình
Sở dĩ lâm địch năng chế thắng
Đoan tại quyên cừu tri phụ kinh
(Liêm Pha bi)
(Trọng trách ngoài bờ cõi nên giao lại cho bậc lão thành/ Trong hiểu thế nước,
ngoài nắm vững tình hình địch/ Sở dĩ (người ấy) gặp địch có thể giành được thắng
lợi/ Ấy là vì quên thù riêng, mang roi gai (đến tạ tội))
Liêm Pha chính là lương tướng nước Triệu thời Chiến quốc là một nhà quân
sự, nhà chính trị và có thể nói là trụ cột chính của nước Triệu lúc bấy giờ. Chỉ bốn
49
câu thơ Nguyễn Du đã khái quát được tài năng đánh giặc, cũng như cách nhìn nhận
sự việc của Liêm Pha để có thể bảo vệ đất nước. Liêm Pha nói rằng điều cốt yếu của
một vị tướng khi ra trận là phải nắm vững binh pháp, hiểu mình, hiểu giặc để có thể
nắm chắc phần thắng. Không những thế trong những lần xong trận Liêm Pha luôn
coi lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên hết, không vì những ích kỷ, thù hằn cá nhân
mà ảnh hưởng đến trận chiến. Chính vì vậy, những lần xong trận Liêm Pha luôn
giành được thắng lợi, bảo toàn tính mạng bản thân cũng như những chiến binh của
mình. Nguyễn Du còn khẳng định vai trò to lớn của Liêm Pha trong việc diệt vong
của đất nước.
Nhị thập dư niên thùy dữ tranh
Tướng quân tại thời, Triệu dĩ trọng
Tướng quân khứ thời, linh Triệu khinh
(Liêm Pha bi)
(Trên hai mươi năm ai tranh nổi (với Liêm Pha)/ Thời còn tướng quân, nước
Triệu được coi trọng/ Thời tướng quân đi mất, nước triệu bị coi khinh)
Liêm Pha quả là con người có tài, nhưng cũng chính vì sự tài giỏi của mình
nên trong cuộc sống ông luôn có những kẻ ghen ghét và muốn hãm hại. Chính cái
tài đem lại những bất hạnh trong cuộc đời ông sau này.
Sở hận sàm nhân chức thê phỉ
Hà tu nhất thực tam di thỉ
(Liêm Pha bi)
(Đáng giận kẻ gièm pha kiếm điều thêu dệt
Sao lại bịa chuyện một bữa ăn ba lần són phân)
Kẻ thù của Liêm Pha là Quách Khai, Quách Khai đút nhiều vàng cho sứ giả
để sứ giả nói xấu Liêm Pha. Sứ giả nước Triệu về nói với vua rằng: “Liêm tướng
quân tuy già ăn còn khỏe nhưng khi cùng thần ngồi trong khoảnh khắc mà ba lấn
són phân” vua Triệu cho rằng Liêm Pha đã già và không triệu về, nên từ đó Liêm
Pha không còn được trọng dụng.
Bạch đầu khứ hậu bất trùng lai
Hàm Đan chi sự khả tri hĩ
Triệu vong Tần kế tam thiên niên
Tướng quân danh tự chí kim truyền
( Liêm Pha bi)
50
(Sau khi người bạc đầu ra đi không trở lại nữa/ Việc Hàm Đan như thế nào có
thể biết được rồi/ Triệu mất, Tần rối đã ba nghìn năm/ Tên tuổi của tướng quân vẫn
còn truyền để lại)
Sau khi Liêm Pha ra đi, chính vì nhà vua nghe lời xúi giục của những kẻ hạ
thần dẫn đến sự bại vong của đất nước, đấy chính là hệ quả của việc nhà vua không
biết trọng dụng người tài. Nguyễn Du đau đớn, ngậm ngùi, xót xa, than thở cho số
phận của Liêm Pha “Ma sa cổ kiệt tam thái tức” (Ta lau chùi bia xưa để đọc, than
thở mãi). Những vần thơ cổ phong của Nguyễn Du đã nói rõ số phận của một con
người tài hoa là như vậy đó. Nguyễn Du không thể không căm tức khi nhìn vào hiện
thực xã hội.
Kim nhân bất thiểu thực đa nhục
Cơ linh gia dưỡng vô di súc
Thanh bình thời tiết vô chiến tranh
Nhất khẩu hùng đàm bất sổ Liêm Pha dữ Lý Mục
(Liêm Pha bi)
(Người thời nay không ít kẻ ăn nhiều thịt (như tướng quân)/ Cơ hồ khiến cho
không còn con gia súc nào trong nhà/ Gặp thời thanh bình không có chiến tranh/
Đều nhất loạt nói hăng, chẳng kể Liêm Pha, Lý Mục)
Hay trong bài Phản chiêu hồn Nguyễn Du nói đến Khuất Nguyên là một con
người tài năng nhưng cũng do những sự bất công của xã hội nên ông uất ức, u sầu
mà chết. Nguyễn Du viết bài Phản chiêu hồn để bày tỏ tấm lòng thương xót của
mình đối với một tài năng.
Hồn hề! hồn hề! hồ bất qui
Đông tây nam bắc vô sở y.
Thướng thiên há địa giai bất khả
Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi
( Phản chiêu hồn)
(Hồn ơi! hồn ơi! sao không về/ Đông, tây, nam, bắc không có nơi nào nương
tựa/ Lên trời xuống đất đều không được/ Còn trở về thành Yên thành Sính làm gì)
Nguyễn Du có nhắc đền hồn, vậy hồn ở đây là ai mà nghe chua xót, buồn
thương như vây? Vì sao ông lại khuyên hồn đừng trở về mà tìm con đường khác để
siêu thoát. Hồn được nói đến ở đây chính là Khuất Nguyên, quan đại thần nước Sở,
một người học rộng tài cao giỏi về chính trị, cũng là một con người đầy tài năng văn
51
chương. Trong một thời gian đầu Khuất Nguyên rất được nhà vua yêu quý, nhưng
về sau chính sự tài giỏi của Khuất Nguyên nên có nhiều ghen ghét, dèm pha và tìm
cách hãm hại, cuối cùng những lời dèm pha đến tai vua nên ông bị ghét bỏ. Ông âu
sầu, tự cho mình là người trong, sống trong thời đục, uất hận ông gieo mình xuống
sông Mịch La tự tử. Chính sự tài hoa, tấm lòng thanh cao, tình cảnh éo le của Khuất
Nguyên đã được Nguyễn Du cảm nhận, chia sẻ với tất cả niềm kính phục với sự
đồng điệu sâu sắc. Nguyễn Du ca ngợi tấm lòng của Khuất Nguyên.
Bất độc Hoài sa phú
An thức Khuất Nguyên tâm
Khuất Nguyên tâm, Tương Giang thủy
Thiên thu vạn thu thanh kiến để
(Biện Giả)
(Không đọc bài phú Hoài sa/ Sao biết được lòng Khuất Nguyên/ Lòng Khuất
Nguyên và nước sông Tương/Nghìn năm vạn năm vẫn trong suốt thấy đáy)
Từ số phận của Liêm Pha, Khuất Nguyên để thấy được rằng “Chữ tài liền với
chữ tai một vần”. Quả thật cuộc sống của những con người tài hoa luôn luôn có
những mối họa theo bên, và chính tài năng đều đem đến một kết cục thương tâm
khiến Nguyễn Du nhìn thấy mà phải thốt lên rằng “Trải qua một cuộc bể dâu;
Những điều trong thấy mà đau đớn lòng” (Truyện Kiều). Nguyễn Du đã nhìn ra
được sự thật ẩn đằng sau cái tài của mỗi con người, là một số phận xiết bao cay
đắng, là những tâm sự buồn thương, với những tủi hận mà cuộc đời mang lại cho
họ. Để từ đó Nguyễn Du ca ngợi, bênh vực và cùng họ đấu tranh chống lại những
bất công ngang trái của cuộc đời. Nguyễn Du khóc thương cho số phận những nhân
vật, nhưng có lẽ ông đang khóc thương cho chính số phận của mình. Tìm đến những
nhân vật như Khuất Nguyên, Liêm Pha, Nguyễn Du như tìm được người tâm sự và
giãi bày những uẩn khúc trong lòng. Tài hoa sẽ đem lại cho con người những ánh
hào quang, nhưng ẩn chứa trong mỗi hào quang là bất hạnh cả một đời.
Xin mượn lời của Nguyễn Huệ Chi để kết lại vấn đề “gắn bó với con người,
với cuộc sống, và nhìn sâu vào lịch sử, Nguyễn Du còn đặc biệt xót thương cho một
loại người có tài và có tình. Ấy là những nhà văn nhà thơ nổi tiếng trác tuyệt mà
cuộc đời trải muôn vàn bất hạnh, là những anh hùng hào kiệt thất thế, là những
người phụ nữ có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành phải chịu số phận buồn thảm.
Những con người ấy, dù thân phận của họ là danh nhân, là đào hát, là “tướng
52
giặc”, là gì đi nữa, nhưng đã sống khác với mọi người và chết trong bần cùng hoặc
bất đắc kỳ tử, thì đều là đối tượng của tấm lòng ưu ái của Nguyễn Du” [10, tr. 71].
2.1.1.3. Con người độc ác, xấu xa
Thơ cổ phong có chức năng phản ánh đời sống một cách chân thực, nói lên
nỗi niềm tâm sự của con người. Từ những bài thơ cổ phong, Nguyễn Du không chỉ
cho người đọc thấy được số phận con người ở đất Việt, mà ngay cả số phận của
những con người ở đất nước Trung Hoa cũng hiện lên sinh động, chân thực dưới
ngòi bút tài tình của Nguyễn Du. Ông không chỉ hiểu, cảm thông, chia sẻ với số
phận của người nghèo, số phận của những con người tài hoa, những bậc hiền tài
luôn xả thân vì nghĩa lớn nhưng lại có cuộc đời nghiệt ngã. Thơ cổ phong Nguyễn
Du còn là tiếng nói phê phán, đấu tranh đối với những con người độc ác, xấu xa, bất
nghĩa, bất nhân, những con người mưu mô xảo quyệt chỉ vì lợi ích của bản thân,
dám làm những việc trái với lương tâm, trái với đạo trời, để đổi lấy vinh hoa phú
quý, nhưng rồi vinh hoa phú quý chỉ là hư danh không tồn tại với thời gian. Từ
những con người này Nguyễn Du chỉ thấy còn lại những phế tích, tàn tích và tiếng
xấu lưu truyền muôn đời.
Những con người độc ác, bất nghĩa bất nhân trong thơ cổ phong Nguyễn Du
là những con người lúc sống đều giữ những chức vị cao và có khi lại được người
đời Trung Hoa hết mực ca ngợi và tôn sùng. Nhưng đối với Nguyễn Du ông lại có
cách nhìn nhận và đánh giá hoàn toàn ngược lại với đánh giá của người Trung Hoa.
Đối với những con người có tài, nhưng lại dùng cái tài của mình để đạt được những
cái mình muốn, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân. Xây dựng địa vị trên những
đau khổ của người khác thì cũng chỉ là những kẻ hại dân hại nước, không đáng
được trân trọng, không đáng để tôn thờ. Chính vì lẽ đó, Nguyễn Du một mực lên án
phê phán gay gắt. Nguyễn Du yêu thương những người tài đức bao nhiêu thì lại
khinh bỉ bọn gian ác, ti tiện bấy nhiêu. Đối với những người này, ngòi bút của
Nguyễn Du không hề nhân nhượng, có thể nói là nghiệt ngã nữa.
Trong chuyến đi sứ Nguyễn Du có dịp dừng chân đứng lại trước Đình Tô
Tần, người mà Nguyễn Du đã từng nghe nhiều qua sử sách “Thư trung bão văn Tô
Tần danh” (Trong sách, nghe danh Tô Tần đã lắm – Tô Tần đình II). Nguyễn Du
không hề khen ngợi, coi trọng tài năng hay những việc làm của Tô Tần. Ngược lại,
Nguyễn Du đã mỉa mai chua chát, chê trách Tô Tần bởi những hành động nhở nhen,
ích kỷ đối với người thân của mình.
53
Tụng xa thiên thặng lai hương lý
Phụ mẫu giao nghênh, tẩu tất hành
Thê kiến hỳ phu trắc mục thị
Bình sinh chí nguyện tất ư tư
“Tiền cứ hậu cung” ngôn chính bỉ
Hợp tung bất tại khước cường Tần
Đãn hướng sở thân kiêu phú quí
(Tô Tần đình II)
(Ngàn cỗ xe đi theo trở về làng/ Cha mẹ ra tận ngoài đồng đón, chị dâu qùi gối
lết ra chào/ Vợ thấy chồng lấm lét nhìn/ Chí nguyện một đời tất cả ở lúc đó/ “Trước sao
khinh rẻ, sau sao cung kính” lời nói ấy thật hèn hạ/ Kế hợp tung chẳng nhằm chống
nước Tần hùng mạnh/ Mà nhằm để kiêu căng khoe giàu sang với người thân)
Tô Tần tìm mọi cách để có danh vọng, địa vị và phú quý nhưng cốt yếu để lên
mặt vênh váo với người thân. Nguyễn Du có ác cảm và chê bai Tô Tần không tiếc
lời, kế hợp tung chỉ để lừa phỉnh được bọn vua chúa tầm thường, những lời nói của
Tô Tần với chị dâu thật hèn hạ, thô bỉ không đáng bậc nam nhi. Tô Tần khổ công
mài dùi kinh sử chủ yếu để mưu cầu quyền lợi riêng cho bản thân. Có tài nhưng
không biết đem tài năng phục vụ cho đất nước thì cũng chỉ là kẻ tầm thường không
đáng để ca ngợi. Giờ đây Nguyễn Du chỉ nhìn thấy trước đình Tô Tần cỏ cây mọc
um tùm. Những dấu tích của một thời vàng son đã đắm chìm vào quá khứ.
Đạo trung khước quá Tô Tần đình
Xa mã kim ngọc dĩ vô tích
Đình tiền chi thảo không thanh thanh
(Tô Tần đình II)
(Nay trên đường đi, lại qua đình Tô Tần/ Ngựa xe vàng ngọc không còn dấu
vết/ Trước đình chỉ thấy cỏ mọc xanh tươi)
Trong bài Kỳ lân mộ mượn cái chết của con kỳ lân Nguyễn Du đã phê phán,
và phẫn uất trước những hành động độc ác của Minh Thành Tổ. Ông là vị vua tàn ác
nhất trong lịch sử của đất nước Trung Quốc. Khi đi ngang qua mộ kỳ lân Nguyễn
Du đã tỏ thái độ đồn thời vạch rõ những việc làm xấu xa của nhà vua.
54
Hà huống Yên Đệ hà như nhân
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
Bạo nộ nhất sính di thập tộc
Đại bổng cự hoạch phanh trung thần
Ngũ niên sở sát bách dư vạn
Bạch cốt thành sơn địa huyết ân
(Kỳ Lân mộ)
(Huống nữa Yên Đệ là người như thế nào /Cướp ngôi của cháu để tự lập làm
vua, y không phải là bậc nhân quân/ Để hả một cơn giận y giết cả mười họ (người ta)/
Giết trung thần bằng cách đánh bằng gậy lớn và nấu trong vạc dầu lớn/ Trong năm năm
giết trên trăm vạn mạng người/ Xương trắng chất thành núi, đất ngập máu)
Sáu câu thơ thấy được thái độ, Nguyễn Du đối với Minh Thành Tổ. Nguyễn
Du không coi hắn là một tên chính nhân quân tử, hắn chỉ là một tên sát nhân điên
cuồng, để hả cơn giận giết chết cả mười họ nhà người khác. Có thể nói hành động
tàn bạo của hắn trời không dung đất không nương, thần và người đều căm giận.
Khi đi qua đất Hứa Đô cũ Nguyễn Du đã nhìn thấy những việc làm bất nghĩa bất
nhân của Tào Tháo, thi nhân đã luận tội của tên giặc thoán vị Tào Tháo. Thể hiện thái
độ khinh bỉ, cái nhìn phủ định của nhà thơ với hành động phi nghĩa của hắn.
Hứa Châu thành, Hán đế đô
Tào thị vu thử di Hán đồ
Thụ thiện đài cơ dĩ bất kiến
Phong vũ dạ dạ do hào hô
Tự cổ đắc quốc đương dĩ chính
Nại hà vụ quả nhi khi cô!
(Cựu Hứa Đô)
(Thành Hứa Châu, nơi nhà vua Hán đóng đô/ Họ Tào cướp cơ đồ nhà Hán ở
chốn này đây/ Nền đài nhận ngôi vua không thấy đâu nữa/ Chỉ thấy đêm đêm mưa
gió réo gào/ Từ cổ được nước đều lấy chính nghĩa/ Sao lại lừa vợ góa dối con côi
của người ta?)
Tào Tháo là một con người độc ác, đa mưu, tham quyền tước vị, coi thường
trẻ mồ côi, lừa gạt vợ góa, cốt để đạt được mục đích của bản thân, giữ vững địa của
mình. Khi sống làm bao điều tàn ác, gây nhiều thù oán, và những kẻ cướp ngôi của
người khác thì không thể tồn tại mãi mãi. Cái còn lại chỉ là bia miệng, sự coi khinh,
55
phỉ báng của người đời.
Duy hữu Kiến An nhị thập ngũ niên sự
Nhân khẩu thành bi chung bất hoại
(Cựu Hứa Đô)
(Duy có cái việc năm thứ hai mươi lăm đời Kiến An
Thành bia miệng để đời không bao giờ mất)
Tào Tháo là một con người mưu mô, gian xảo khiến mọi người khiếp sợ
không ai dám chống lại.
Tu nhân thịnh thời, thùy cảm đương
Diểu thị hoàng đế, lăng hầu vương
(Đồng Tƣớc đài)
(Người ấy lúc thịnh, nào ai dám chống lại?
Xem thường nhà vua, lấn lướt các vương hầu)
Tào Tháo có triết lí sống vô cùng ích kỉ và cá nhân Ta thà phụ người chứ
không để người phụ ta, cũng là một con người tung hoành khắp đất trời vậy mà khi
sắp mất ông lại có những hành động không đáng bậc trượng phu.
Nhất triêu đại hạn hữu thì chí
Thượng thực tấu ca đồ duyệt quỉ
Phân hương mại lý khổ đinh ninh
(Đồng Tƣớc đài)
(Một buổi mai hạn lớn xảy đến/ Dâng thức ăn, tấu ca nhạc chỉ mong làm vui
cho hồn ma/ Chia hương, bán giày, khổ tâm dặn dò cặn kẽ)
Tào Tháo dặn các tỳ thiếp, hằng ngày phải cúng Tháo bằng các món ăn mà
Tháo thích lúc còn sống, có nhạc múa hát để hầu trong bữa ăn nhằm để làm vui cho
hồn ma. Việc làm của Tháo chỉ để lại sự chê cười cho người đời, qua những lời dặn
với tỳ thiếp càng thấy Tháo sợ sự cô độc khi chết. Chắc có lẽ hắn nhận ra sự tàn bạo
của mình, khi sống đã gây ra bao tang thương. Giờ đây Tháo nghĩ rằng khi Tháo
chết chắc chẳng ai nhớ đến, họ sẽ vui và dần quên hẳn hắn đã từng tồn tại. Tháo còn
có hành động chia các thứ phấn sáp, giày thiêu, khăn lụa cho các tỳ thiếp, từ việc
làm của Tháo, Nguyễn Du đã mỉa mai, chê bai hết lời.
56
Lạc lạc trượng phu hà nhĩ nhĩ?
Gian hùng biệt tự hữu cơ tâm
Bất thị minh ai, nhi nữ khí.
(Đồng Tƣớc đài)
(Bậc trượng phu lỗi lạc sao như thế/ Kẻ gian hùng riêng tự có mưu thâm khác
trong lòng/ Chẳng phải là kêu thương ủy mị như tính khí đàn bà)
Trong cuộc hành trình một năm trời ở xứ người, trên những quãng đường dài
vô tận, Nguyễn Du đã đi qua nhiều di tích lịch sử. Mỗi khi đứng trước những di tích
lịch sử đó là dịp để Nguyễn Du bày tỏ nỗi lòng của mình về những việc tốt, việc
xấu, về những hành động đúng sai của con người. Khi đánh giá nhìn nhận về những
nhân vật lịch sử cái nhìn Nguyễn Du được thể hiện một cách đa chiều. Những lời
đánh giá, nhận xét của Nguyễn Du lúc nào cũng rõ ràng, khen che dứt khoát. Đối
với những con người giàu lòng nghĩa khí một lòng tận trung với đất nước như
Khuất Nguyên, Liêm Pha. Nguyễn Du luôn thể hiện cái nhìn ngưỡng mộ, kính
trọng, ca ngợi bởi những nghĩa cử cao đẹp họ đã dành cho đất nước. Ngược lại đối
với những con người chỉ vì lòng tham mưu cầu danh lợi như Tô Tần, Minh Thành
Tổ, Tào Tháo, nhà thơ không hề thấy được sự tốt đẹp ở họ, chỉ nhìn thấy những việc
làm đáng trách, đáng lên án. Dù họ là ông vua, những bậc vương hầu hay là người
tài giỏi nhưng lại không nghĩ đến đời sống của người dân, cố giữ vững địa vị, công
danh phú quý phục vụ cho bản thân Nguyễn Du đều khinh bỉ xem thường. Mỗi
người có một cách sống, cách nghĩ khác nhau, nhưng những con người này đều
giống nhau ở chỗ chỉ vì lợi ích của mình sẵn sàng giẫm đạp lên người khác, gây bao
đau khổ cho những kiếp con người. Giờ đây họ đã khuất dần vào quá khứ, nhưng
tiếng xấu của họ vẫn mãi được lưu truyền Trăm năm bia đá thì mòn, Nghìn năm bia
miệng vẫn còn trơ trơ (ca dao). Nguyễn Du luôn đứng trên lập trường chính nghĩa,
đặt quyền lợi của nhân dân lao động lên trên hết, nhờ thế trên nhiều hiện tượng, vấn
đề Nguyễn Du đã có cái nhìn đem đến những đánh giá, nhận xét, thấu đến bản chất
của hiện thực nêu lên được sự thật có giá trị bền vững, lâu dài.
57
2.1.2. Quan niệm về con người - nhân vật lịch sử Trung Hoa trong thơ cổ phong
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
Thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đều có nhắc đến những nhân vật
lịch sử Trung Hoa. Mỗi nhà thơ có cách nhìn nhận đánh giá khác nhau về những
nhân vật lịch sử mà mình nói đến.
Trong tập thơ “Ức Trai thi tập” gồm 105 bài, Nguyễn Trãi có hai bài thơ
được làm theo thể cổ phong Côn Sơn ca và Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên.
Nguyễn Trãi nhắc đến các nhân vật lịch sử Trung Hoa như: Đổng Trác, Nguyên
Tải, Bá Di, Thúc Tề, Sào Phủ, Hứa Do, Đông Pha, Liêm Khê.
Trong tập ba tập thơ chữ Hán Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc
hành tạp lục, Nguyễn Du có 26 bài được viết theo thể cổ phong. Trong đó có 12 bài
Nguyễn Du có nhắc đến các nhân vật lịch sử.
Bảng 2.1. Các nhân vật lịch sử đƣợc nhắc đến trong thơ cổ phong Nguyễn Du
STT Tên bài thơ Các nhân vật lịch sử
1 Hành lạc từ Đạo Chích, Trang Cược, Bá Bi, Thúc Tề
2 Thái Bình mại ca giả Thế Dân, Kiến Thành
3 Phản chiêu hồn Khuất Nguyên, Cao Dao, Quỳ, Thượng
Quan Ngận Thượng, Ngu Thuấn
4 Biện Giả Giả Nghị
5 Cựu Hứa Đô Tào Tháo
6 Đồng Tước đài Ngụy Vũ Đế (Tào Tháo)
6 Liêm Pha bi Liêm Pha, Võ An, Vũ An Quân, Lý Mục
7 Tô Tần Đình II Tô Tần
8 Dự Nhượng kiều chủy thủ hành Dự Nhượng, Kinh Kha, Nhiếp Chính,
9 Kinh Kha cố lý Kinh Kha, Tần Vũ Dương, Điền Quang,
Yên Đan, Phàn Ô Kỳ
10 Kỳ Lân mộ Minh Thành Tổ, Yên Đệ (Chu Nguyên
Chương)
11 Mạnh Tử từ cổ liễu Mạnh Tử (Mạnh Kha)
12 Lương Chiêu Minh Thái tử
phân kinh thạch đài
Lương Chiêu Minh Thái Tử,
Hầu Cảnh
58
Từ việc khảo sát các bài thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du chúng tôi
nhận thấy cả hai tác giả đều nhắc đến nhiều nhân vật lịch sử Trung Hoa. Nhưng hầu
hết các nhân vật được nhắc đến trong thơ cổ phong đều là nam không có sự xuất
hiện của những nhân vật nữ. Vậy các nhân vật lịch sử Trung Hoa được Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du nhìn nhận đánh giá như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu qua những
bài thơ cổ phong của hai tác giả.
Bài thơ Côn Sơn ca Nguyễn Trãi nói đến nhiều nhân vật lịch sử Trung Hoa.
Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kinh doanh nhất ổ
Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc
(Côn Sơn ca)
(Ngươi chẳng thấy Đổng Trác ngọc vàng chất đầy nhà
Nguyên Tải hồ tiêu tám trăm hộc)
Nguyễn Trãi nhắc đến hai nhân vật lịch sử Trung Quốc, Đổng Trác và
Nguyên Tải, không phải để khen ngợi về sự giàu có cũng như tài năng của hai con
người, mà thấy được giàu sang phú quý cũng chỉ là những cái phù phiếm. Đổng
Trác, Nguyên Tải lúc sống dù có quyền cao chức trọng nhưng lại làm nhiều điều
độc ác, bản chất tham lam, cuối cùng cả hai đều phải chết trong ô nhục, để lại tiếng
xấu muôn đời.
Hựu bất kiến: Bá Di dữ Thúc Tề
Thú Dương ngạ tự bất thực túc?
(Côn Sơn ca)
(Lại chẳng thấy Bá Di với Thúc Tề/ Thú dương chết đói không ăn thóc)
Bá Di và Thúc Tề tương truyền là hai anh em con của vua nước Cô Trúc thời
nhà Thương. Sau khi nhà Thương bị tiêu diệt hai anh em bỏ lên núi ở ẩn tại núi Thú
Dương không chịu ăn thóc của nhà Chu rồi nhịn đói mà chết. Nguyễn Trãi muốn
nói đến cách ứng xử và cái chết của Bá Di, Thúc Tề, từ đó suy ngẫm về “hiền ngu”
trên đời chung quy chỉ là “Cũng đều muốn thỏa lòng sở dục”. Nguyễn Trãi nhận ra
rằng cuộc sống con người chẳng khác nào cây cỏ với những buồn, vui, âu lo, tươi
tốt rồi héo khô, khắc khoải sầu mong cứ thế tuần hoàn trong một trăm năm hữu hạn.
Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc
(Côn Sơn ca)
(Nhân gian nếu có bọn Sào Do/ Khuyên hãy nghe ta ca một khúc)
59
Sào Phủ và Hứa Do, hai cao sĩ đời thượng cổ Trung Quốc và đều không màng
đến danh lợi, chỉ thích sống cuộc đời ẩn sĩ, coi trọng thanh cao, chan hòa với núi
rừng xanh thẳm. Khi nói đến hai nhân vật Hứa Do và Sào Phủ, Nguyễn Trãi một
mặt cảm thông, kính trọng tấm gương sáng của hai bậc ẩn sĩ, nhưng mặt khác lại thể
hiện niềm tự hào về tâm thế của bản thân. Về với Côn Sơn Nguyễn Trãi hoàn toàn
thoát khỏi những tranh đua danh lợi sống những ngày vui vẻ, nhàn hạ hòa mình vào
cảnh sắc thiên nhiên núi rừng, tâm hồn luôn thảnh thơi không vướng bận.
Nguyễn Trãi ca ngợi, khâm phục đề cao những tài năng văn chương lớn trong
lịch sử Trung Hoa. Trong các tác giả của nền văn học cổ Trung Quốc, Nguyễn Trãi
có nhắc đến Tô Đông Pha.
Đông- pha vị trúc bất khả vô
Liêm- khê ái liên diệc hữu thuyết
(Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
(Đông- pha bảo trúc không thể thiếu/ Liêm- khê yêu sen có thuyết hay)
Đông- pha: tức Tô Đông Pha là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc
đời Tống có câu thơ “Khả sử thực vô nhục, bất khả cư vô trúc” (Ăn có thể không
có thịt, ở không thể thiếu trúc).
Hay Nguyễn Trãi nhắc đến Liêm Khê: là một triết gia của đời Tống, ông viết
quyển sách nổi tiếng như Thái cực đồ thuyết, Thông thư, và bài Ái liên thuyết, tức là
thuyết yêu hoa sen.
Nguyễn Trãi là người yêu thơ văn, nên việc ông quan tâm hay tìm hiểu về các
nhà văn nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung Hoa là một điều dễ hiểu. Từ
những nhân vật lịch sử, nhà thơ thể hiện lòng kính trọng, mong muốn học hỏi cái
hay cái đep, cái độc đáo của các bậc tiền bối, bên cạnh đó còn gửi ước nguyện hay
một triết lí nào đó qua thơ văn. Nguyễn Trãi viết về các nhân vật lịch sử Trung Hoa
chủ yếu với cảm hứng hoài cổ, tiếc nhớ đến những người xa xưa, thể hiện tình cảm,
thái độ yêu mến với các nhà Nho. Từ những nhân vật lịch sử Trung Hoa Nguyễn
Trãi như nhìn về quá khứ nhưng thông qua đó soi chiếu đến tương lai.
Khi viết về những nhân vật lịch sử là những nhà văn nhà thơ nổi tiếng của đất
nước Trung Hoa, Nguyễn Trãi viết về nhân vật Tô Đông Pha. Ngược lại trong thơ
cổ phong, Nguyễn Du lại viết về nhân vật Khuất Nguyên.
60
Bất độc Hoài sa phú
An thức Khuất Nguyên tâm
Khuất Nguyên tâm, Tương Giang Thủy
Thiên thu vạn thu thanh kiến để
(Biện Giả)
(Không đọc bài phú Hoài sa/ Sao biết được lòng Khuất Nguyên/ Lòng Khuất
Nguyên và nước sông Tương/ Nghìn năm vạn năm vẫn trong suốt thấy đáy)
Trong bài Biện Giả Nguyễn Du nhắc đến Khuất Nguyên con người tài năng
đức độ nhưng cuộc đời cũng gặp nhiều bất trắc. Khuất Nguyên là một nhà thơ lớn
thời Chiến Quốc, mang tâm sự của một người yêu nước vĩ đại, có một hoài bão lớn
lao, có một lý tưởng chính trị tiến bộ. Nguyễn Du hết mực ca ngợi tấm lòng cao đẹp
“trung thành không thờ hai vua” của Khuất Nguyên. Càng cảm phục, yêu thương
Khuất Nguyên bao nhiêu ông càng đau xót cho số phận bất hạnh của một con người
tài hoa bấy nhiêu. Bài Phản chiều hồn Nguyễn Du đã phản đối gọi hồn Khuất
Nguyên về. Nguyễn Du chỉ muốn hồn Khuất Nguyên mau mau về cõi vĩnh hằng.
Nguyễn Du cho rằng khắp mặt đất đâu đâu cũng là Mịch La, ai ai cũng là Thượng
quan thì làm gì có chỗ trong sáng đủ để cái tâm thanh khiết của Khuất Nguyên
nương tựa.
Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La
Ngư long bất thực, sài hổ thực
Hồn hề! hồn hề! nại hồn hà
(Phản chiêu hồn)
(Đời sau người đều là Thượng quan/ Mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La/
Cá rồng chẳng nuốt, hùm sói cũng ăn/ Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn làm thế nào)
Khi viết Phản chiêu hồn, Nguyễn Du muốn trải rộng tấm lòng mình với con
người tài hoa. Ông chỉ có một ước nguyện là giúp linh hồn Khuất Nguyên siêu
thoát, đến nơi không có những tranh đua, không có những ghen ghét đố kỵ và gièm
pha, không làm tâm hồn con người đau khổ, thoát khỏi cuộc sống phàm tục, để tận
hưởng những ngày tháng yên vui, tươi đẹp.
61
Trong bài “Dự Nhượng kiều chủy thủ hành” Nguyễn Du đã nhắc đến nhân vật
Dự Nhượng một bề tôi hết mực trung thành.
Tấn Dương thành ngoại thao thao thủy
Trí Bá tất đầu vi niệu khí
Vô nhân báo cừu thành khả bi
Kỳ thần Dự Nhượng thân đương chí
Tất thân vi lại dịch tu mi
Đương đạo khất thực thê bất tri
(Dự Nhƣợng kiều chủy thủ hành)
(Ngoài thành Tấn Dương nước chảy cuồn cuộn/ Đầu Trí Bá bị trát sơn làm
chậu đựng nước tiểu/ Không có người trả thù cho, thật đáng thương/ Bề tôi của ông
là Dự Nhượng tự gánh lấy việc ấy/ Sơn thân mình làm người hủi, cạo râu mày/ Giữa
đường ăn xin, vợ gặp không nhận ra)
Dự Nhượng là người nước Tần sống vào cuối thời Xuân Thu tại Trung Quốc.
Khi nói đến Dự Nhượng, Nguyễn Du hết mực ca ngợi con người với tấm lòng “cô
trung son sắt”. Để trả thù cho chủ Dự Nhượng đã phải hi sinh bản thân, từ bỏ vợ
con, biến hình hài mình thành một người khác, cải trang thành người ăn xin dọc
đường. Nhiều lần bị bắt, bị tha nhưng vẫn không hề sợ, vẫn quyết tâm nuôi ý chí
báo thù.
Sát khí lẫm lẫm bất khả cận
Bạch nhật vô quang sương tuyết phi
Tái hoạch tái xả tâm bất di
Lâm tử do năng tam kích y
(Dự Nhƣợng kiều chủy thủ hành)
(Sát khí đằng đằng không ai có thể đến gần được/ Giữa ban ngày mà trời tối,
sương tuyết bay/ Bị bắt, được tha, lại bị bắt, lại được tha mấy lần liền, lòng vẫn không
dời/ Đến lúc chết còn đánh được ba lần vào áo Tương Tử)
Ngay cả khi cận kề bên lưỡi đao tử thần Dự Nhượng vẫn xin Tương Tử đưa áo
đang mặc để được đâm vài nhát cho thỏa lòng báo thù, sau khi chết khỏi ân hận. Khi bị
bắt Tương Tử hỏi Dự Nhượng tại sao đã thờ ba đời chủ mà vẫn hết lòng trả thù cho Trí
Bá như vậy, Dự Nhượng đáp: “Tôi đã làm tôi cho họ Phạm và họ Trung Hàng, họ
62
Phạm và họ Trung Hàng đãi tôi như người thường nên tôi báo đáp theo lối người
thường. Đến như Trí Bá thì lại đãi tôi như quốc sĩ cho nên tôi báo đáp theo lối quốc sĩ”
[33, tr. 481]. Qua câu trả lời của Dự Nhượng, ta thấy Dự Nhượng quả là một con
người trước sau như một không thay lòng đổi dạ luôn trung thành tận tâm với chủ.
Sau cái chết của Dự Nhượng ai cũng ngậm ngùi thương xót Thiên cổ văn chi sắc trù
trướng (Nghìn xưa nghe chuyện ai cũng ngậm ngùi). Dự Nhượng xứng đáng là một
bậc trượng phu với ý chí sắt thép, là một bề tôi trung Quân độc tranh tranh thiết
trượng phu (Chỉ mình ông là đấng trượng phu có chí cứng rắn như sắt thép).
Viết về các tấm gương trung nghĩa, Nguyễn Du thường ca ngợi họ là những
con người tận trung, tận nghĩa, hết lòng phụng sự đất nước, là hình ảnh của những
con người đầy nghĩa khí cao đẹp.
Kinh Kha tòng thử nhập Tần quan
Nhập Tần quan hề, trì chủy thủ
Lục quốc thâm cừu nhất dẫn thủ
Điện thượng thốt nhiên nhất chấn kinh
(Kinh Kha cố lý)
(Vào ải Tần cầm dao nhọn/ Thù sâu của sáu nước gửi cả vào một tay/ Khắp
trên cung điện đột nhiên kinh động/ Quan tả hữu dùng tay không bắt lại, vua chạy
vòng quanh cột)
Chỉ với những câu thơ Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh của một con người
hiên ngang, hùng dũng dám xã thân vì đại nghĩa. Sẵn sàng hi sinh bản thân vì sự
nghiệp cứu quốc, ấy chính là hình ảnh của Kinh Kha người đã gây tiếng vang một
thời trong lịch sử Trung Quốc. “Kinh Kha là một kiếm khách người nước Vệ, tổ
tiên xưa là người nước Tề họ Khanh. Kinh kha trở về quê tổ (Tề), sau lại dời sang
nước Yên. Làng cũ của Kinh Kha ở đất Yên, gần với Yên Kinh. Thái tử đan, con
của Yên vương Hỉ, bị đưa sang nước Tần làm con tin, giận Tần vương Doanh Chính
là bạn chơi hồi nhỏ, nay lên ngôi vua lại đối xử không tốt với mình, bèn bỏ trốn về
nước. Đến khi Tần thực hiện chính sách bành trướng đem quân đánh Tề, Sở, Triệu,
Ngụy, Hàn, sắp sửa đánh đến Yên, Thái tử đan lo sợ bèn tìm người dũng cảm sang
Tần, uy hiếp Tần vương Chính bắt phải bỏ ý đồ đánh Yên hoặc đâm chết tại chỗ.
Điền Quang giới thiệu Kinh Kha giúp thái tử Đan làm việc đó” [33, tr. 488].
63
Kinh Kha mang theo một thanh chủy thủ tẩm thuốc độc giấu trong tờ bản đồ,
vào quan ải của vua Tần để hành thích Tần Thủy Hoàng. Mặc dù, việc làm của Kinh
Kha không thành, nhưng vẫn thấy được lòng dũng cảm, sự gan dạ, tấm lòng phụng
sự đất nước của con người ấy. Ngoài Kinh Kha chả ai dám làm việc như vậy
Nguyễn Du vẫn có những lời khen ngợi với Kinh Kha.
Túng nhiên bất sát Tần hoàng đế
Dã toán cổ kim vô tỉ luân
(Kinh Kha cố lý)
(Dẫu chẳng giết được Hoàng đế nhà Tần
Tính lại xưa nay cũng không có người sánh kịp)
Không phải việc làm của Kinh Kha không có ý nghĩa mà nó được coi là
người đi tiên phong, khích lệ tinh thần đứng lên đấu tranh, chống lại cái ác bảo vệ
đất nước của nhân dân sau này.
Mạc đạo chủy thủ cánh vô tế
Yết can trảm mộc vị tiên thanh
(Kinh Kha cố lý)
(Chớ bảo rằng mũi dao nhọn kia chẳng có ích gì
Nó mở đầu cho việc chặt cây làm giáo, làm cán cờ (khởi nghĩa))
Khi viết về những con người trung thần nghĩa sĩ như Dự Nhượng, Kinh Kha,
Nguyễn Du hết lòng ca ngợi tấm lòng “cô trung son sắt” của những con người biết
trọng nghĩa khí. Tuy việc làm của họ không thành có thể đổi lấy cái chết cho bản
thân, nhưng cái chết của họ không hề vô nghĩa, họ chết đi nhưng tiếng tăm vẫn mãi
được lưu truyền. Người đời vẫn nhớ đến họ và ngàn đời ca ngợi những nghĩa cử cao
đẹp mà họ đã làm.
Trong thơ cổ phong Nguyễn Du còn nói đến các nhân vật lịch sử là những
tên loạn thần tặc tử, những tên tướng giặc tàn bạo và những hôn quân bạo chúa,
những người ham bả vinh hoa phú quý sẵn sàng giẫm đạp lên tất cả để hòng thỏa ý
nguyện của mình. Phải kể đến đầu tiên là nhân vật Tô Tần, con người đầy tham
vọng với vinh hoa phú quý đến coi thường cả người thân của mình.
Thích cổ nguyên vị quyền lợi mưu
Ta hồ, thủ nhân tiểu tai khí!
(Tô Tần đình)
64
(“Dùi đâm vế” vốn là để mưu quyền lợi
Than ôi! người ấy khí độ nhỏ mọn thay)
Tô Tần là nhà thuyết khách thời Chiến Quốc, điển hình cho con người hành
động để mưu cầu danh lợi, chủ trương thuyết hợp tung vận động liên hiệp sáu nước:
Tề, Sở, Triệu, Hán, Ngụy để chống nước Tần. Khi đi du thuyết lần đầu bị thất bại
trở về nhà, vợ không dời khung dệt ra đón, chị dâu không nấu cơm cho ăn, cha mẹ
không đoái nhìn. Tô Tần giận đem sách “Âm phù kinh ra đọc”, lúc mệt mỏi, buồn
ngủ, tự lấy dùi đâm vào vế thật đau để thức. Đến khi Tần đưa thuyết hợp tung,
thuyết phục sáu nước, được sáu nước phong làm tướng quốc. Khi Tô Tần đeo ấn
sáu nước về nhà được đón tiếp trân trọng chàng nói “Sao trước kia khinh rẻ, nay lại
cung kính quá thế”. Tô Tần cố làm tất cả để được công danh phú quý, cốt yếu để
lên mặt vênh váo, đắc chí với người thân. Nguyên Du đã chê bai Tô Tần hết lời vì
có những hành động thất lễ, không tôn trọng gia đình. Những lời nói của Tô Tần nói
với người chị dâu thật thô lỗ, ngoài ra Tô Tần còn là người ích kỉ với những thù hằn
nhỏ mọn, ngay chính với người thân của mình.
Nói đến Minh Thành Tổ, Nguyễn Du lại có cái nhìn không mấy thiện cảm bởi
chính những hành động tàn bạo và độc ác.
Hà huống Yên Đệ hà như nhân
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
Bạo nộ nhất sính di thập tộc
(Kỳ Lân mộ)
(Huống nữa Yên Đệ là người như thế nào/ Cướp ngôi của cháu để tự lập làm
vua, y không phải là bậc nhân quân/ Để hả một cơn giận y giết cả mười họ (người ta))
Chỉ ba câu thơ nhưng Nguyễn Du đã khắc họa đúng bản chất tàn bạo của
Minh Thành Tổ. Khi nói đến những con người này Nguyễn Du căm giận, phẫn uất
đến tột cùng, đối với những tội ác mà chúng gây ra, không những thế ông còn mỉa
mai, phê phán những hành động bất nhân bất nghĩa của chúng. Viết về nhân vật
trong sử sách Trung Hoa, những nhân vật dù được miêu tả trực tiếp, hay gián tiếp,
Nguyễn Du bao giờ cũng lòng vào đó những cảm xúc, những suy tư, trăn trở, những
chiêm nghiệm của mình về cuộc đời và con người. Đúng như lời nhận xét của Trần
Nho Thìn:“Dưới cái nhìn rực lửa của Nguyễn Du, các nhân vật phản diện tưởng
65
chừng như bị thiêu đốt ra tro. Trái lại, các nhân vật chính diện được ca ngợi, trân
trọng, cảm thông hết mực. Nguyễn Du khác với các nhà nho ở cái phần tâm huyết,
gan ruột thể hiện trong thơ vịnh sử của mình. Nói như Nguyễn Lộc, Nguyễn Du
không vịnh sử mà viết về đề tài lịch sử” [59, tr. 122].
Đọc những bài thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du viết về những
nhân vật lịch sử giúp chúng ta phần nào hiểu hơn về lịch sử cũng như con người của
đất nước Trung Hoa. Những nhân vật lịch sử hiện lên chân thực, như sự tồn tại vốn
có của nó. Ở đó những con người hiện diện với những chức trách khác nhau, cũng
có những con người hiền lành tài giỏi, có những con người độc ác chuyên quyền,
hay những người dân lương thiện. Từ những nhân vật lịch sử, ta có cái nhìn toàn
diện và bao quát hơn, để từ đó có những chiêm nghiệm về cuộc đời và xã hội.
2.2. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong thơ cổ phong Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du
2.2.1. Không gian nghệ thuật
Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của thế giới vật chất của con người,
không có một vật chất nào có thể tồn tại ngoài thời gian, cũng như không có hình
tượng nghệ thuật không có không gian. Bản thân con người cũng đang tồn tại trong
một không gian và thời gian, nhất định, không gian của cuộc sống, không gian với
môi trường xung quanh, mỗi thời khắc trôi qua chính là sự trôi đi những khoảnh
khắc trong cuộc sống con người. Trong suy nghĩ của con người thì không gian
thường có các chiều: cao thấp, rộng hẹp, sâu cạn, xa gần. Không gian nghệ thuật
bao giờ cũng gắn liền với cảm xúc và mang ý nghĩa nhân sinh.
Không gian nghệ thuật không đơn giản là không gian vật chất mà chủ yếu tái
hiện lại không gian tinh thần, cấu trúc không gian tinh thần bao giờ cũng được xác
định bởi chỗ đứng của tác giả với điểm nhìn trong đó.
Không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, là phương thức
tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới nghệ thuật là thế giới của
cái nhìn và mang ý nghĩa thì không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một
điểm nhìn, cách nhìn. Do gắn với điểm nhìn, trường nhìn, môi trường hoạt động,
không gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống, đồng thời do gắn
với ý nghĩa, giá trị, không gian trở thành ngôn ngữ, biểu tượng nghệ thuật.
66
Khảo sát toàn bộ thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, chúng tôi nhận
thấy nét nổi bật trong thơ cổ phong của hai tác giả là kiểu không gian rộng lớn,
ngoài ra trong thơ cổ phong Nguyễn Du còn nói đến kiểu không gian nhỏ hẹp.
2.2.1.1. Không gian rộng lớn trong thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
Không gian rộng lớn giúp con người cảm nhận được mọi chiều sâu của cuộc
sống. Trong không gian rộng lớn con người luôn khao khát chiếm lĩnh không gian,
phóng tầm mắt về mọi hướng trong cái nhìn tương thông giao cảm với đất trời.
Không gian trong thơ cổ phong của Nguyễn Trãi là không gian của núi rừng
xanh thẳm. Trong không gian đó con người có sự giao cảm với thiên nhiên, vạn vật.
Về với Côn Sơn tác giả như được chìm đắm trong bầu không khí trong lành, hưởng
thụ những ngày tháng an nhàn không vướng bận. Nhà thơ làm bạn với chim muông,
cây cỏ, có tiếng suối là đàn, rêu là chiếu, bóng thông làm giường, bóng trúc là nơi
tác giả ngâm vịnh thơ ca. Trong con mắt thi nhân không gian của thiên nhiên không
chỉ là cảnh mà đó chính là nhà.
Côn Sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thuý đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yển tức kì trung.
Lâm trung hữu trúc,
(Côn Sơn ca)
(Côn Sơn có khe/ Tiếng nước chảy rì rầm/ Ta lấy làm đàn cầm/ Côn Sơn có
đá/ Mưa xối rêu xanh đậm/ Ta lấy làm chiếu thảm/ Trong núi có thông/ Muôn dặm
rờn rờn biếc một vùng/ Ta tha hồ ngơi nghỉ ở trong/ Trong rừng có trúc/ Nghìn mẫu
in biếc lục/ Ta tha hồ ngâm nga bên gốc)
Nguyễn Trãi đã vẽ ra bức tranh thiên nhiên sống động, rạng ngời, tươi mát.
Không gian của thiên nhiên làm con người quên những cảm giác mệt mỏi, quên hẳn
67
những buồn đau, vất vả của cuộc sống. Khi về ở ẩn tại Côn Sơn nhưng tâm trạng
nhà thơ luôn lo lắng cho sự an nguy của đất nước, chính vì lẽ đó nên Nguyễn Trãi
muốn tìm đến một không gian yên tĩnh, để cho tâm hồn được thảnh thơi, thoát khỏi
những vướng bận, chỉ có không gian của núi rừng mới đem lại cảm giác bình yên
cho con người. Những hình ảnh, âm thanh, màu sắc của núi rừng đem đến cho con
người những rung cảm khác nhau, làm tâm hồn con người thoải mái và được thăng
hoa, ở đó con người được sống đúng với chính bản thân mình. Làm bạn với núi
rừng với cảnh sắc tươi đẹp của thiên nhiên, khiến tâm hồn thư thái, tác giả ngân nga
những vần thơ làm lay động núi rừng cũng như lòng người trong không gian rộng
lớn ấy.
Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu thiên nhiên nồng nhiệt say đắm.
Trãi quan nga nga diện tự thiết
Bất độc ái mai kiêm ái tuyết
Ái mai ái tuyết ái duyên hà
Ái duyên tuyết bạch mai thanh khiết
Thiên nhiên mai tuyết tự lưỡng kỳ
(Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
(Hiên ngang mũ trãi mặt tựa sắt/ Không những yêu mai lại yêu tuyết/ Yêu mai
yêu tuyết bởi vì đâu/ Vì tuyết trắng mà mai thanh khiết/ Thiên nhiên mai tuyết hai
giống kỳ)
Những câu thơ thấy được tình yêu mãnh liệt của tác giả đối với thiên nhiên và
vạn vật, Nguyễn Trãi dành một tình yêu đặc biệt đối với hoa mai. Nói đến hoa mai
là nói đến sự thanh cao, trong sạch đây là phẩm chất đáng quý đáng tự hào và nó
chính là biểu tượng cho người quân tử. Nguyễn Trãi yêu tuyết bởi vì tuyết trắng,
yêu mai bởi vì mai thanh khiết. Từ hình ảnh của mai nói lên tâm hồn trong sạch, tính
cách cương trực, thẳng thắn và trung hiếu của Nguyễn Trãi. Không gian trong thơ
Nguyễn Trãi là không gian của núi rừng, với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp. Ở đấy con
người được chìm đắm trong bầu không khí trong lành mát mẻ, con người tràn đầy
niềm tin yêu vào cuộc sống. Ngược lại, không gian trong thơ Nguyễn Du có phần
khác biệt, chính vì vậy khi nói đến không gian trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Trần Đình Sử đã nhận xét như sau : “Không gian trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
68
khác nhau, chủ yếu là do tính chất riêng chứ không phải do không gian riêng. Họ chỉ
phân bố, tổ chức lại cái không gian chung mang ý nghĩa tượng trưng của thế giới
quan đương thời thành không gian mang dấu ấn riêng” [47, tr. 785].
Không gian thiên nhiên núi rừng trong thơ Nguyễn Du trở nên dữ dội, hiểm
trở hơn. Có những lúc ông tưởng chừng sự dữ dội của những ngọn núi làm chùn
bước chân người đi. Những ngọn núi hiện lên giống như một ma trận, làm lòng
người phải đắn đo nghĩ ngợi, dừng lại hồi tưởng hằng giờ, ngọn núi cao vời vợi,
được miêu tả với những hình ảnh hết sức sống động.
Cao sơn giáp ngạn như tường viên
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên
Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã la kỳ tiền
(Ninh Minh giang chu hành)
(Núi cao giáp bờ như bức tường/ Giữa có những hòn đá kỳ lạ chen chúc nhau/
Có những hòn hình rồng, rắn, cọp, beo, trâu, ngựa bay la liệt trước mặt)
Hay
Điệp Sơn đa hổ trĩ
(Ký mộng)
(Núi Tam Điệp nhiều hổ báo)
Trên đường đi Nguyễn Du phải trải qua muôn vàn khó khăn, phải băng qua
những ngọn núi cao với những nguy hiểm luôn chờ sẵn phía trước. Ngọn núi như
đang thử thách lòng người, chính sự thử thách này sẽ đem đến lòng quyết tâm, ý
chí, bản lĩnh giúp Nguyễn Du vượt qua những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh mà
mình được giao phó.
Ngũ chỉ sơn tiền thủy bạo chú
Bạch ba chung nhật tẩu xà long
Thanh sơn lưỡng ngạn giai sài hổ
(Bất tiến hành)
(Trước núi Ngủ Chỉ, nước như trút xuống/ Sóng bạc suốt ngày như rắn rồng
đua chạy/ Hai bên bờ núi xanh như sói, cọp)
Khi đi qua những ngọn núi những khe thác làm lòng người lo sợ, nó có thể
cướp đi cuộc sống của con người trong gang tấc. Những người xuống được ngọn
69
thác đều reo mừng, người lên thác phải hoảng sợ.
Không chỉ có không gian núi non hiểm trở mà không gian của những dòng
sông, sóng nước cũng không kém phần dữ dội, hiểm nguy.
Lam thủy đa giao ly
Đạo lộ hiểm thả ác
(Ký mộng)
(Sông Lam nhiều thuồng luồng/ Đường đi hiểm và dữ)
Và
Giao ly xuất một thành trùng uyên
Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyên
Hạ lạo sơ trướng phí như tiên
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền
Tâm huyền huyền đa sở úy
Nguy hồ đãi tai cốt một vô để
(Ninh Minh giang chu hành)
(Thuồng luồng, ly long ra vào thành vực sâu/ Sóng vỗ bọt phun ngày đêm ầm
ầm/ Nước lụt mùa hè vừa dâng, nước sôi sục/ Một mạch ba ngày đi, lòng chơi vơi/
Lòng chơi vơi vì sợ nhiều/ Nguy thay hiểm thay chìm sâu không đáy)
Nhìn những ngọn sóng ầm ầm phun bọt, đi trên dòng sông con người luôn có
cảm giác bất an, cảm thấy lòng luôn chơi vơi, sợ gặp điều không may xảy ra có thể
chìm đắm vực sâu. Sự hung dữ của sông nước khiến cho con người dù có mạnh mẽ
bao nhiêu cũng không thể không run sợ, hãi hùng. Bao trùm lên không gian sông
nước là sự sợ hãi của con người, dòng sông như đang muốn nhấn chìm tất cả vào
vực sâu không đáy.
Khi miêu tả không gian của dòng sông trên đất nước mình Nguyễn Du vẫn
thấy sự lạnh lùng và nguy hiểm một cách lạ thường.
Dĩ ngạn băng bạo lôi
Hồng đào kiến kỳ quỉ
(Lam Giang)
(Bờ sông lở sụt ầm ầm như sấm dữ/ Sóng lớn thấy như có quỉ lạ)
70
Dòng sông Lam hiền hòa ngày nào giờ đây khi mùa nước về cũng thay đổi,
hoàn toàn khác lạ. Ngay chính bản thân con người cũng không thể nhận ra, nó trở
nên nguy hiểm, từng dòng nước cuồn cuộn chảy nó có thể nhấn chìm cả những
động vật và cả con người, dòng nước sẵn sàng cuốn trôi tất cả. Trong không gian
của dòng nước lũ con người chỉ biết đứng nhìn và phó mặc cho đất trời. Dường như
núi non, sông nước đang nổi cơn thịnh nộ muốn đe dọa sự sống của con người.
Bao trùm lên không gian của con người là không gian của cái đói, cái rét, làm
con người tàn tạ, héo hon nhợt nhạt. Con người không chỉ lạnh vì đói mà lạnh vì cái
giá rét khắc nghiệt.
Tiểu dân bất nhẫn hàn thả cơ
(Trở binh hành)
(Dân mọn không kham nổi cái cảnh đã rét lại thêm đói.)
Âm phong phiêu nhiên chí
Hành nhân diệc thê hoàng
(Sở kiến hành)
(Gió rét bỗng ào tới
Người đi đường lòng quặn đau)
Không chỉ con người, gia súc, cỏ cây cũng không chịu nổi cảnh lạnh giá.
Tây phong thê thê hàn bức nhân
Chinh mã tần tần kinh thất lộ
(Dự Nhƣợng kiều chủy thủ hành)
(Gió tây lạnh lẽo rét tê người
Ngựa đi nhiều lần hí lên sợ lạc lối)
Và
Bách thảo kinh hàn tận khô tử
(Lƣơng Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài)
(Trăm loài cỏ sợ rét đều chết khô hết cả)
Âm phong nộ hào thu thảo mĩ
(Đồng Tƣớc đài)
(Gió lạnh réo gào giận dữ, cỏ thu tàn úa)
71
Sống trong cái đói, cái rét khiến con người, cũng như cây cỏ xơ xác, tiêu điều,
hiu hắt, con người cảm thấy cô đơn giữa vũ trụ bao la.
Một không gian khác cũng xuất hiện bao quanh con người là không gian của
cát bụi, gió bụi làm con người khó xác định được phương hướng trên đường đi.
Không gian cát bụi làm cho con đường đi của con người trở nên dài và gian nan hơn.
Yên giao nhất vọng giai trần thổ
Thu nhật thu phong mãm quan lộ
(Kinh Kha cố lý)
(Dất Yên nhìn khắp toàn đất bụi
Nắng thu, gió thu đầy trên đường quan)
Có khi không gian của gió bụi làm che lấp ánh nắng của mặt trời.
Cổn cổn trần ai tế thiên nhật
(Trở binh hành)
(Bụi cuốn che lấp cả mặt trời)
Nhiều lúc gió bụi làm con người nhếch nhác.
Trần ai cổn cổn ô nhân y
(Phản chiêu hồn)
(Bụi cuốn mù mịt bẩn cả quần áo)
Trên những bước đi, con người nhiều khi nhận ra sự nhơ đục và hỗn tạp cứ
bao quanh lấy mình, nhưng không thể nào thoát ra được, mà vẫn quẩn quanh lấy nó.
Thế lộ trần ai tín hỗn trọc
(Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích)
(Đường đời bụi bặm thật quả là nhơ đục và hỗn tạp)
Không gian nghệ thuật trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du có sự đối
lập nhau. Không gian rộng lớn trong thơ Nguyễn Trãi đem lại cho con người sự thư
thái, sống phóng túng tự do, tự tại sống chan hòa với núi rừng thiên nhiên. Ở đó con
người được sống đúng với chính bản thân mình, không nghĩ ngợi, không băn khoăn,
không mưu tính, không vật lộn với cuộc sống mưu sinh. Con người sống một cách
nhàn hạ, sống và làm những điều mình thích. Không gian trong thơ cổ phong
Nguyễn Du có phần khắc nghiệt với cuộc sống con người. Con người phải đối mặt
với bao nguy hiểm, thử thách khắc nghiệt với sự sống. Trải qua cái đói, cái rét, con
72
người cảm thấy bế tắc, trong không gian đó mỗi cá nhân phải tự đấu tranh để tự bảo
vệ chính bản thân mình, khỏi những nguy hiểm luôn luôn rình rập bao quanh.
Tóm lại, Nguyễn Trãi hòa mình vào không gian rộng lớn để quên đi thực tại.
Nguyễn Du không thể hòa mình vào không gian đó, mà chỉ thông qua không gian
của núi rừng, sóng (?) sông (?) nước, không gian của cái rét và cát bụi để nhìn lại
con đường đi của mình, đã phải trải qua những chông gai, những khó khăn gian
khổ. Từ những trải nghiệm của không gian, thấy ý chí bản lĩnh kiên cường của con
người, muốn chinh phục thiên nhiên khắc nghiệt, vượt qua sự dữ dội hiểm trở của
không gian con người càng yêu quý chính bản thân mình hơn, trân trọng những
thành quả mà mình phải bỏ bao công sức mới xây dựng được.
2.2.1.2. Không gian nhỏ hẹp trong thơ cổ phong Nguyễn Du
Không gian nhỏ hẹp là không gian cuộc sống đời thường của con người, trong
không gian đó con người thường biểu hiện những cảm xúc khác nhau như: vui,
buồn, yêu thương, lo lắng, sợ hãi… những cung bậc tình cảm, cảm xúc của con
người được biểu lộ ra bên ngoài một cách rõ nét. Trong không gian nhỏ hẹp bức
tranh sinh hoạt, cư trú của con người được miêu tả một cách cụ thể thông qua điểm
nhìn của tác giả. Con người đều quay cuồng vật lộn với cuộc sống mưu sinh, không
gian đời thường có xu hướng bị thu hẹp, dồn nén con người vào những địa dư chật
hẹp của cuộc sống sinh hoạt.
Nguyễn Du miêu tả cuộc sống sinh hoạt của người dân, với những công việc
hằng ngày rất đỗi bình thường và giản dị.
Môn nội sở cư nhân
Cùng niên hà sở vi
Nữ sự duy tích ma
Kỳ nam nghiệp vân ti
(Hoàng Mai sơn thôn thƣợng)
(Những người ở phía trong cổng ấy/ Quanh năm làm việc gì/ Việc của đàn bà
chỉ là xe sợi gai/ Việc của đàn ông là cây cuốc)
Trong không gian của phía núi ấy, con người với những công việc bình dị,
phụ nữ thì xe sợi gai, đàn ông thì cuốc cày, đời sống diễn ra một cách bình yên vui
vẻ. Những tưởng cuộc sống ấy sẽ kéo dài mãi mãi, ngờ đâu bỗng chốc rơi vào cảnh
chiến tranh loạn lạc, hạn hán mất mùa, đói rét, bệnh tật, làng quê trở nên tiêu điều,
ảm đạm.
73
Cuộc sống người dân hoàn toàn thay đổi khi nghe tin làng có chiến tranh, họ
tụm nhau lại nói chuyện nhỏ, chuyện to. Khách phương xa không biết chuyện gì
đang xảy ra xung quanh mình, chỉ nghe thấy toàn tiếng pháo lệnh, làm chấn động cả
một vùng Hà Nam.
Châu nhân văn tặc chí
Tam tam ngũ ngũ giao đầu tế ngữ thanh y anh
Hành nhân viễn lai bất giải sự
Đản văn thành ngoại tiến thoái giai pháo thanh
Hà Nam nhất lộ giai chấn động
(Trở binh hành)
(Dân trong châu nghe tin giặc đến/ Túm năm, tụm ba, châu đầu nói nhỏ, nói
to/ Khách từ xa đến không biết chuyện gì đang xảy ra/ Chỉ nghe ngoài thành tiến
thoái đều có thiếng pháo lệnh/ Cả một miền Hà Nam chấn động)
Cảnh chiến tranh loạn lạc làm đảo lộn cuộc sống của con người. Những
người thân trong gia đình phải lên đường tòng quân, không xác định được ngày
sống sót trở về. Họ ra đi trong những tiếng than ngắn, thở dài, bao trùm lên cả
không gian là sự lưu luyến, khắc khoải chờ mong cuộc sống sẽ trở lại bình yên
như xưa.
Trường tống trường than, đoản tống mặc
Tiến thoái duy cốc nan vi tình
(Trở binh hành)
(Người đưa tiễn xa thì than dài, người đưa tiễn gần thì im lặng
Tiến, lui đều trong tình trạng khó khăn )
Không chỉ cảnh chiến tranh loạn lạc gây ra đau khổ cho con người. Cảnh sưu
thuế cũng làm cho cuộc sống của người dân trở nên điêu đứng không kém.
Há sơn phạt tùng chi
Liêu dĩ túc quan thuế
Bất sự thư dữ thi
Thôi tô nhất bất đáo
Kê khuyển giai hi hi
(Hoàng Mai sơn thƣợng thôn)
(Xuống núi chặt cành tùng/ Kiếm cho đủ tiền thuế nộp cho quan/ Không thiết
học thi, thơ/ Kẻ giục thuế mà không đến/ Gà, chó vui phởn phơ)
74
Trong không gian nhỏ hẹp của cuộc sống đời thường, con người phải chạy
vạy ngược xuôi, sống trong sự lo lắng, cố gắng tìm mọi cách để có được sự bình
yên, nhưng nào ngờ nỗi lo này chưa qua, nỗi lo khác lại đến khiến con người phải
gồng mình lên chịu đựng. Người dân đã phải chịu cảnh chiến tranh loạn lạc, giờ đây
hạn hán, mất mùa lại kéo đến, khiến cuộc sống con người đã khó khăn giờ đây càng
khó khăn hơn.
Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn
Chỉ hữu xuân tác vô thu thành
Hồ Nam, Hà Nam cửu vô vũ
Tự xuân tồ thu điền bất canh
(Trở binh hành)
(Ta nghe người vùng này nhiều năm khổ vì lúa mất trắng và nắng cháy/ Chỉ
có cấy xuân mà không thu hoạch được/ Hồ Nam, Hà Nam từ lâu không có mưa/ Từ
mùa xuân đến mùa thu ruộng bỏ không cày)
Hạn hán mất mùa xảy ra liên tiếp khiến con người phải bỏ làng, bỏ quê đi xin ăn.
Tuế cơ lưu dị hương
Dị hương sảo phong thục
Mễ giá bất thậm ngang
Bất tích khí hương thổ
Cẩu đồ cứu sinh phương
(Sở kiến hành)
(Năm đói, lưu lạc đến làng khác/ Làng khác mùa màng khá hơn/ Giá gạo
không cao lắm/ Bỏ làng đi cũng chẳng tiếc/ Miễn sao có được phương cứu sống)
Trong cuộc sống đời thường của con người ngôi nhà có ý nghĩa quan trọng,
bởi chính ngôi nhà đem đến niềm vui, sự che chở, đem đến sự bình yên cho con
người. Trong các ngôi nhà của người Việt, bất cứ ngôi nhà nào cũng có cánh cửa,
nhiều lúc có cửa lớn và cửa nhỏ, cánh cửa tạo ra không gian thoáng mát và sự tương
thông với thế giới bên ngoài. Trần Đình Sử có nhận xét: “Sự tương thông, hô ứng
giữa không gian nhỏ của con người và không gian lớn của vũ trụ. Không gian nhỏ
không bao giờ ngăn cách với không gian lớn. Ngôi nhà trong thơ cổ không bao giờ
là không gian khép kín, tạo thành thế giới riêng biệt của con người. Đó là không
75
gian mở. Nó được thể hiện hoán dụ thành chiếc cửa sài, cửa song, tấm rèm, bình
phong hoặc cửa bồng (thuyền)” [50, tr. 784].
Nhưng trong thơ cổ phong Nguyễn Du lại khác, như Lê Thu Yến đã từng
nói: “Nguyễn Du viết về cánh cửa nhưng cánh cửa của ông thường ở trạng thái
đóng, ít khi ở trạng thái mở” [73, tr. 145]. Trong bài Ngẫu thư công quán bích
Nguyễn Du miêu tả cảnh cửa nhưng cũng chỉ mở cánh cửa sổ nhỏ bé sau khi đã
đóng cánh cửa lớn.
Bế môn tạ tri giao
Khai song kiến kinh kỷ
Song ngoại kinh kỷ mạn thả trường
(Ngẫu thƣ công quán bích)
(Đóng cửa tạ từ không tiếp bạn thân/ Mở cửa thấy cây kinh cây kỷ/ Ngoài
cửa sổ, cây kinh cây kỷ mọc tràn lan và dài)
Trong những ô cửa sổ nhỏ Nguyễn Du nhìn thế giới bên ngoài và cảm nhận
được sự vận động của trời đất.
Tây song nhật lạc thiên tương mộ
(Hành lạc từ II)
Mặt trời đang lặn ở cửa sổ phía tây, trời sắp tối
Thi nhân ngắm trăng qua khe cửa sổ nhỏ.
Không ốc lậu tà nguyệt
Chiếu ngã đan thường y
(Ký mộng)
(Nhà trống lọt trăng tà/ Chiếu vào chiếc áo đơn của ta.)
Không chỉ quan sát sự thay đổi của trời đất, Nguyễn Du nhìn thấy được hiện
thực của cuộc sống con người.
Xa mã trì sậu, kê khuyển minh
Tiểu hộ bất bế, đại hộ bế
(Trở binh hành)
(Xe ngựa chạy rầm rập, gà chó kêu
Nhà nghèo không đóng cửa, nhà giàu đóng cửa)
76
Những vần thơ ít nhiều cũng nói lên tâm trạng Nguyễn Du, có lẽ thi nhân
cũng muốn bước ra khỏi cánh cửa, ra với thế giới bên ngoài, để thỏa thích ngắm mặt
trời lặn, nhìn những ánh trăng tỏa sáng trên bầu trời cao rộng kia. Dẫu biết rằng
không gian của thế giới bên ngoài có rộng lớn, nhưng trong không gian ấy Nguyễn
Du vẫn thấy sự tù túng, khắc nghiệt, làm con người cảm thấy mệt mỏi và bế tắc, bởi
những cảnh đời bất hạnh, những bất công ngang trái, con đường đời đầy những
chông gai, thử thách luôn chờ ở phía trước. Chính vì lẽ đó, Nguyễn Du muốn đóng
cửa lại để có những phút giây yên tĩnh để nhìn lại cuộc đời, nhìn lại những gì đã
qua. Nguyễn Du muốn tìm cho mình một không gian không vướng bận, để có
những giây phút tự do, tự tại. Nhưng thực tế ông đâu có được giấy phút thảnh thơi.
Nguyễn Du nhìn thấy biết bao cảnh đời đói khổ lầm than, đi đâu cũng nhìn thấy
những xác người chết Nhãn kiến cơ biểu tử đương đạo - Trở binh hành (Ta nhìn
thấy tận mắt người đói chết giữa đường) và Nhãn hạ ủy câu hác/ Huyết nhục tự sài
lang - Sở kiến hành (Nhìn thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh, Máu thịt
nuôi sài lang) hay Bạch cốt thành sơn địa huyết ân – Kỳ lân mộ (Xương trắng chất
thành núi, đất ngập máu) khiến lòng ông quặn thắt, chính hiện thực nghiệt ngã ấy đã
đem đến những buồn đau, những day dứt trong lòng nhà thơ.
Nguyễn Du không chỉ miêu tả không gian của người sống. Trong thơ cổ
phong Nguyễn Du còn nói đến không gian của cõi hư vô, cõi huyền bí với những
điều bí ẩn tâm linh, mà con người không thể giải thích, ấy chính là không gian của
mồ mả, đình, đài. Hình ảnh của những nấm mồ nói về thế giới bên kia của con
người. Mỗi con người chúng ta khi sống trên cõi đời này dù là người tốt hay kẻ xấu,
có tài hay bất tài, hiền lành hay độc ác, ai cũng phải trải qua cái chết, đằng sau cuộc
đời của mỗi con người chỉ còn lại nắm tro tàn, và nấm mồ nhỏ bé. Những nấm mồ
tượng trưng cho cái giới hạn của đời người Cổ kim hiền ngu nhất khâu thổ- Hành
lạc từ II (Xưa nay hiền ngu đều chỉ còn nắm đất). Đọc những vần thơ của Nguyễn
Du, chúng ta càng hiểu và quý trọng một tài năng luôn biết nhìn về những đau khổ
của con người, từ đó thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà thơ.
Như vậy, không gian nhỏ hẹp trong thơ Nguyễn Du đưa ta đến một không
gian sinh hoạt hằng ngày của con người. Ở đó con người trải qua những lo toan của
cuộc sống, bận rộn với những vấn đề mưu sinh, sống lại với thời kỳ chiến tranh loạn
77
lạc lầm than. Con người đối mặt với cái sống và cái chết để từ đó rút ra những bài
học nhân sinh. Chúng ta nhận ra rằng đời người không có gì tồn tại mãi mãi, con
người sinh ra sống trên cõi đời, ai cũng phải trở về với cát bụi, ai rồi cũng chỉ còn
lại một nắm mồ mà thôi.
2.2.2. Thời gian nghệ thuật
Thời gian, không gian là hình thức tồn tại của thế giới, của cuộc sống con
người. Không có gì tồn tại ngoài không gian và thời gian. Sự tồn tại của con người
đều gắn liền với sự tồn tại của không gian và thời gian, con người nhận biết sự thay
đổi của thời gian từ sự thay đổi của chính bản thân mình và của thế giới xung quanh.
Như Nguyễn Thị Bích Hải đã từng nói: “Thời gian là một đại lượng để xác định quá
trình tồn tại, vận động, phát triển của mọi vật, mọi sự trong thế giới. Hình tượng
nghệ thuật cũng chỉ có thể được xác định trong không gian – thời gian” [13, tr.132].
Trong cuộc sống con người thời gian được nhìn nhận ở ba gốc độ: thời gian
quá khứ - hiện tai- tương lai. Thời gian tự nhiên có một tính chất rất đặc biệt không
thể đảo ngược được nó chỉ vận động theo một chiều. Trong tác phẩm nghệ thuật
thời gian có thể tái tạo lại. Người nghệ sĩ có thể chọn điểm bắt đầu và kết thúc, có
thể nhanh hay chậm, có thể kể xuôi hay đảo ngược, có thể chỉ một vài ngày, một
ngày, thậm chí một khoảnh khắc. Đặc điểm của thời gian nghệ thuật là thời gian đó
luôn luôn mang cảm xúc và ý nghĩa nhân sinh và tính quan niệm, bởi vậy nó mang
tính chất chủ quan, tính chất chủ quan này giúp ta phát hiện được thực tại đối với
con người. Trong Giáo trình Thi pháp học Trần Đình Sử có nói: “Thời gian nghệ
thuật là một hình tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác phẩm nghệ thuật”.
Thời gian được dùng làm phương tiện nghệ thuật để phản ánh đời sống.
Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, thời gian cũng được thể hiện theo
mạch suy nghĩ và những cảm xúc chủ quan của nhà thơ. Thời gian nghệ thuật còn
thể hiện quan niệm, chiêm nghiệm cũng như nhận thức và tư duy của tác giả. Ta
thấy ở hai tác giả rất nhạy cảm với những gì xảy ra trong cuộc sống. Chính vì vậy,
thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, là thời gian tràn đầy cảm
xúc, nói lên tâm trạng của con người. Phảng phất trong thời gian nghệ thuật của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du là nỗi buồn, sự tiếc nuối về một thời đã qua.
Con người càng nhạy cảm với cuộc đời, nhạy cảm với bước đi của thời gian,
con người càng khổ đau. Thời gian có thể đem lại cho con người những điều tốt đẹp
78
nhất, nhưng đôi lúc chính thời gian lại lấy đi của con người tất cả. Nguyễn Du luôn
dõi theo và cảm nhận bước đi của thời gian, nên ông có những rung cảm sâu sắc về
sự thay đổi của con người cũng như vạn vật trong thế giới tự nhiên. Trải qua những
biến thiên của cuộc đời, từ những trải nghiệm của cuộc sống, Nguyễn Du hiểu được
rằng thời gian tồn tại của con người thật ngắn ngủi. Con người không thể tồn tại mãi
với thời gian, mỗi con người chúng ta ai cũng phải đối mặt với sinh - lão - bệnh -
tử. Nguyễn Du nhận ra rằng con người chẳng ai sống đến trăm tuổi, nên không cần
phải tính chuyện của ngàn năm, nên cứ vui chơi, hành lạc.
Trung thọ chỉ bát thập
Hà sự thiên niên kế
(Hành lạc từ I)
(Trung thọ chỉ được tám mươi tuổi/ Việc gì tính chuyện ngàn năm)
Nhân sinh vô bách tải
Hành lạc dương cập kỳ
(Hành lạc từ I)
(Đời người không ai sống trăm tuổi/ Nên vui chơi cho kịp thì)
Và
Nhân thọ vô bách tuế
Thế sự đa suy di
Phù sinh hành lạc sự
(Hành lạc từ II)
(Người thọ chẳng trăm tuổi/ Việc đời lắm đổi dời/ Kiếp phù sinh nên hành lạc)
Cuộc đời của con người thật ngắn, ở mỗi con người quý nhất là thời gian.
Con người sống trên cõi đời đừng quá bon chen, toan tính, mà nên vui chơi cho thỏa
ước nguyện. Nguyễn Trãi cũng từng nhận thấy con người hay thảo mộc đều giống
nhau đời người trong trăm năm không còn gì hết.
Nhân sinh bách tuế nội
Tất cánh đồng thảo mộc
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai
Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục
(Côn Sơn ca)
(Người đời trong trăm năm/ Rốt cuộc như thảo mộc/ Vui buồn lo sướng thay
đổi nhau/ Một tươi một héo vẫn tương tục)
79
Theo Phật giáo thì thời gian là vô thủy vô chung không có điểm khởi đầu và
không có kết thúc, thời gian cứ vận động liên tục và không ngừng nghỉ, con người
chúng ta cứ ngụp lặn trong vòng luân hồi đó. Nguyễn Du cảm nhận được thời gian
trôi đi nhanh chóng, thời gian của cuộc đời con người, cũng như thời gian của đời
cây cỏ chỉ là những khoảnh khắc. Trong những bước đi của thời gian, Nguyễn Du
cũng nhận ra sự thay đổi của chính bản thân mình.
Thuấn tức bách niên năng kỷ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y
Nam Hà qui lai đầu tận bạch
Quái để giai nhân nhan sắc suy
(Long Thành cầm giả ca)
(Trăm năm như chớp mắt có là bao/ Đau lòng việc cũ lệ thấm áo/ Tôi từ Hà
Nam trở về đầu bạc trắng hết/ Chẳng trách nhan sắc người đẹp tàn phai)
Thời gian trôi qua mọi thứ đều trở thành kí ức. Nguyễn Du nhìn thấy rõ sự
thay đổi của người con gái tài hoa nhất thành Trường An khi xưa. Bây giờ một
người tóc đã hoa râm, nét mặt võ vàng thần sắc khô khan, thân hình hơi nhỏ, đôi
mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm. Thời gian đã làm tàn phai và thay đổi tất cả,
Nguyễn Du sực nhớ lại thời gian của hai mươi năm trước khi gặp cô gái trong bữa
tiệc bên Hồ Giám, lúc ấy nàng chỉ chừng hai mốt, vẻ mặt hoa đào, má hồng, dáng
ngây thơ, rất đáng yêu. Nhưng giờ đây khi gặp lại mọi thứ đều đổi thay khiến ông
không thể không bàng hoàng, giật mình, chính thời gian đã làm con người ta tàn tạ
và héo hon nhợt nhạt. Nguyễn Du không chỉ nhớ lại thời gian của quá khứ, còn thấy
bước đi của thời gian.
Nhiều lúc thời gian trôi qua nhanh khiến thi nhân cảm nhận giống như một
giấc chiêm bao, để lại trong lòng người những tiếc nuối, xót xa cho cơ nghiệp đã mất.
Thành quách suy di nhân sự cải
Kỷ xứ tang điền biến thương hải
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân tại
(Long Thành cầm giả ca)
(Thành quách đổi dời, việc người đã khác/ Biết bao nơi ruộng dâu đã biến thành
80
biển xanh/ Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan hết cả rồi/ Chỉ còn sót lại một người ca múa)
Thời gian có khi nào dừng lại. Nó cứ trôi chảy mãi và tuần hoàn theo chu kì.
Nguyễn Trãi cũng như Nguyễn Du đều nhìn thấy sự trôi đi nhanh chóng của thời
gian. Chính sự trôi đi nhanh chóng của thời gian nó đã làm biến đổi tất cả.
Khoảnh khắc năng linh quỳnh tác tiết
Dạ thâm kỳ thụ toái linh lung
Nguyệt hộ phong song hàn lẫm liệt
Nhược phi phong đệ ám hương lai
Phân phân nhất sắc hà do biệt
(Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
(Khoảnh khắc ngọc quỳnh ra nát bét/ Đêm khuya cây ngọc tan long lanh/
Trăng ngõ gió song lạnh ráo riết/ Nếu không hương ngầm gió thoảng đưa/ Một sắc
lan man sao phân biệt)
Và
Thanh thần lộng xuân nghiên
Nhật mộ trước nê trỉ
(Hành lạc từ II)
(Sớm mai cợt đùa sắc xuân đẹp/ Chiều tối dính bùn nhơ)
Hình ảnh những cánh hoa đào tươi đẹp đỏ thắm, sớm mai vẫn đang còn rung
rinh trong gió xuân khoe những hương sắc với đất trời, có ai ngờ rằng chiều tối nó
đã nằm yên ở chốn bùn nhơ. Có thể thấy hoa có đẹp có quý đến nhường nào thì
cũng không thể tồn tại mãi với thời gian, hoa nở hoa rụng phải theo quy luật tự
nhiên. Quy luật tự nhiên và quy luật thời gian thật đáng sợ. Nhà thơ tự thấy thương
mình cũng như thương người. Nguyễn Du thấy được sự nhỏ nhoi của con người
trước thời gian. Cuộc đời con người chẳng khác nào kiếp phù sinh.
Ngã tư cổ nhân thương ngã tình
Bồi hồi phủ ngưỡng bi phù sinh
(Đồng Tƣớc đài)
(Ta nghĩ đến người xưa, xót nỗi mình
Bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, thương kiếp phù sinh)
Thời gian trong thơ cổ phong của Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là thời gian
81
đầy tâm trạng cá nhân. Những tâm trạng ấy được nâng lên thành những suy tưởng,
cả hai nhà thơ đều lấy thời gian làm thước đo cho những cảm xúc và hoài vọng của
mình về một thời xa xăm. Tìm hiểu thời gian nghệ thuật trong thơ cổ phong Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, ta càng nhận ra sự hữu hạn của đời người, thời gian cứ trôi đi và
cuốn vào nó hết thảy mọi thứ, con người chỉ là vật thể mong manh trước dòng thời
gian vô tận. Con người cứ chạy đua với thời gian, chạy theo những vinh hoa phú
quý, mà không nhận ra rằng chúng ta đang đánh mất đi những quãng thời gian đẹp
nhất trong cuộc đời. Khi nhìn lại con người mới cảm thấy nuối tiếc vì thời gian đã
qua, và dần nhận ra rằng tất cả đều chỉ là hư vô. Nguyễn Du đã từng nói Đời người
không ai sống trăm tuổi/ Nên vui chơi cho kịp thì –Hành lạc I. Đúng vậy câu thơ
của Nguyễn Du như nhắc nhở chúng ta rằng, mỗi con người sống trên cõi đời nên
sống và làm những điều có ý nghĩa, tránh để thời gian trôi qua một cách vô nghĩa,
hãy sống và làm những điều có ích cho đời.
82
Chƣơng 3
THỂ THƠ, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU THƠ CỔ PHONG
NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU

3.1. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ở phƣơng diện thể thơ
Tìm về với thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, người đọc thấy được tài
năng bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ cũng như việc thể hiện tư tưởng tình
cảm của hai tác giả. Số lượng những bài thơ chữ Hán làm theo thể thơ cổ phong của
Nguyễn Trãi chỉ chiếm 1,9%, và thơ cổ phong của Nguyễn Du chiếm 10,4% so với
thể thơ Đường luật. Tuy chỉ chiếm một số lượng ít nhưng nhóm thơ cổ phong lại
chứa đựng nhiều vấn đề lớn, phản ánh một cách chân thực, sinh động đời sống xã
hội con người.
Trong tổng số 28 bài thơ cổ phong của hai tác giả, có bốn bài sáng tác theo
thể ngũ ngôn cổ phong, có bảy bài làm theo thể thất ngôn cổ phong, những bài còn
lại gọi là tạp ngôn (do có sự đan xen những câu dài ngắn khác nhau).
Số chữ trong câu và số câu trong bài thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
được sử dụng khá linh hoạt. Nhưng phổ biến hơn vẫn là ngũ ngôn và thất ngôn. Ví
như những bài cổ phong ngũ ngôn:
Thệ thủy nhật dạ lưu
Du tử hành vị qui
(Ký mộng)
Tuấn khuyển hoàng bạch mao
Kim linh hệ tú cảnh
(Hành lạc từ I)
Hữu phụ huề tam nhi
Tương tương tọa đạo bàng
(Sở kiến hành)
Và những bài cổ phong thất ngôn.
Trãi quan nga nga diện tự thiết
Bất độc ái mai kiêm ái tuyết
(Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
83
Nhất thế chi hùng an tại tai
Cổ nhân khứ hề kim nhân lai
(Đồng Tƣớc đài)
Bạch hồng quán nhật thiên man man
Phong tiêu tiêu hề Dịch Thủy hàn
(Kinh Kha cố lý)
Hay có những bài cổ phong đan xen những câu dài ngắn khác nhau
Hà bắc đạo trung, ngũ xích phong bi đương đại lộ
Trung hữu khải tự đại thư “KỲ LÂN MỘ”
Đạo bàng cố lão vị dư ngôn
“Vĩnh lạc tứ niên cống lân đạo tử, táng thử thổ”
(Kỳ lân mộ)
Độc thiện Nguyễn cầm
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
(Long Thành cầm giả ca)
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy chỉ với 28 bài thơ cổ phong của hai tác
giả, nhưng có đến 709 câu thơ. Thơ cổ phong Nguyễn Du bài ngắn nhất có sáu câu
như bài “Thái Bình thành hạ văn xuy địch” và bài dài nhất lên đến 63 câu như bài
“Trở binh hành. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi bài ngắn nhất 26 câu như bài Đề
Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên, và bài dài nhất 30 câu như bài Côn Sơn ca. Như vậy,
thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du không hạn định về số câu trong bài.
Cách gieo vần trong thơ cổ phong hai tác giả khá đa dạng. Có khi là độc vận,
có khi liên vận, có thể cứ hai câu, bốn câu, hoặc tám câu là đổi vần. Chẳng hạn như
những câu thơ sau.
Việt tây sơn trung đa giản tuyền
Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên
Tự cao nhi hạ như bát thiên
Than thượng hà sở văn
Ứng long kích nộ lôi điền điền
Than hạ hà sở kiến
Nỗ cơ kịch phát thỉ ly huyền
84
Nhất tả vạn lý vô đình yên
Cao sơn giáp ngạn như tường viên
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên
Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã, la kỳ tiền
Đại giả như ốc, tiểu như quyền
Cao giả như lập, đê như miên
Trực giả như tẩu, khúc như tuyền
Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn
Giao ly xuất một thành trùng uyên
(Ninh Minh giang chu hành)
Thơ cổ phong không có niêm luật và đối chặt chẽ như thơ Đường (có thể
dùng vần bằng hoặc vần trắc; có thể dùng vần bằng trắc xen kẻ). Có thể dẫn ra hai
bài thơ cổ phong Nguyễn Trãi và Nguyễn Du làm ví dụ:
Bạch hồng quán nhật thiên man man
T B T T B B B
Phong tiêu tiêu hề Dịch Thủy hàn
B B B B T T T
Ca thanh khẳng khái, kim thanh liệt
B B T T B B T
Kinh Kha tòng thử nhập Tần quan
B B B T T B B
Nhập Tần quan hề, trì chủy thủ
T B B B T T T
(Kinh Kha cố lý)
Nguyệt hộ phong song hàn lẫm liệt
T T B B B T T
Nhược phi phong đệ ám hương lai
T B B T T B B
Phân phân nhất sắc hà do biệt
B B T T B B T
Tuần thiềm bất phạ ngọc lâu hàn
B B T T T B B
Ngân hải dao quang cánh thanh triệt
B T B B T B T
(Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
85
Từ những câu thơ dẫn trên, ta thấy thanh bằng và thanh trắc được tác giả sử
dụng không theo quy định về phối thanh bằng và thanh trắc như trong thơ Đường luật.
Có những câu thơ Nguyễn Du dùng toàn thanh bằng.
Nam Sơn đa hương mi (Hành lạc từ I)
Y quần hà khuông nhương (Sở kiến hành)
Nhân nhân giai kỳ di (Hoàng Mai sơn thượng thôn)
Hay có những câu sử dụng toàn thanh trắc.
Tiểu hộ bất bế, đại hộ bế (Trở binh hành)
Bản địa lục nguyệt chí cửu nguyệt (Trở binh hành)
Nhất quốc lưỡng hổ bất khả phạm (Liêm Pha bi)
Phụ mẫu bất phục cố (Tô Tần đình II)
Sát khí lẫm lẫm bất khả cận (Dự Nhượng kiều chủy thủ hành)
Mẫu tử bất túc tuất (Sở kiến hành)
Việc sử dụng những câu thơ toàn thanh bằng hoặc toàn thanh trắc chỉ có
trong thơ cổ phong, trong thơ Đường luật ít gặp. Sự phong phú của âm thanh, nhất
là những thanh trắc làm cho những vần thơ cổ phong thích hợp cho việc phản ánh
hiện thực cuộc sống, sinh động, phức tạp, phong phú. Cách thể hiện tình cảm của
tác giả trong những bài thơ đó cũng trở nên mạnh mẽ hơn, vừa xót thương, vừa căm
giận, nhưng cũng có lúc thể hiện sự bất bình, phẫn nộ.
Trong những bài thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, người đọc bắt gặp
nhiều câu thơ có sự sắp xếp đẹp đẽ về thanh âm như thơ luật.
Cánh thiêm đài bạch chân tam tuyệt
B T B
(Lại thêm bách đài đủ tam tuyệt)
(Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
Và
Nhất thế chi hùng an tại tai
T B T
(Anh hùng một thưở, giờ nơi đâu)
(Đài Đồng Tƣớc)
86
Ngoài ra thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du không quy định chặt chẽ về
mặt ngữ âm, nhạc điệu, bằng trắc, gần với ngôn ngữ đời thường hơn vì vậy tính chất
cách điệu của nó không cao như luật thi. Ngữ âm, trong thơ cổ phong của hai tác giả
sử dụng nhiều thanh trắc hơn thanh bằng.
Chích Cược vô đại lợi
Trung thọ chỉ bát thập
Hà sự thiên niên kế
Hữu khuyển thả tu sát
Hữu tửu thả tu khuynh
Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận
(Hành lạc từ I)
Ở ví dụ dẫn trên ta thấy sáu câu thơ trong bài Hành lạc từ I có 32 từ nhưng
chứa đựng trong đó đến 23 thanh trắc.
Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc
Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ
Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc
Hựu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề
Thú Dương ngạ tự bất thực túc
(Côn Sơn ca)
Hoặc như năm câu trong bài Côn Sơn ca có 39 từ nhưng lại có đến 28 từ
được sử dụng thanh trắc.
Từ những đặc điểm trong thơ cổ phong nói chung và thơ cổ phong Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du nói riêng, ta thấy thơ cổ phong là lối thơ tự do không chịu sự quy
định nghiêm ngặt về niêm luật, số câu, số chữ/từ, có thể dùng câu ngũ ngôn, lục
ngôn, thất ngôn hoặc đan xen câu dài ngắn khác nhau (tạp ngôn). Vần trong thơ cổ
phong cũng tự do hơn, có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận).
3.2. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ở phƣơng diện ngôn ngữ
“Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học” (M.Gooki). Đối với thi pháp học
ngôn ngữ đã trở thành yếu tố chính của nghiên cứu, phê bình văn học. Ngôn ngữ
chính là chìa khóa giúp người đọc giải mã các tác phẩm văn chương, biết được
những tư tưởng quan điểm nhà văn gửi gắm vào trong tác phẩm. Do đó nghiên cứu
văn học nói chung, thơ văn nói riêng không thể không nghiên cứu ở phương diện
ngôn ngữ.
87
3.2.1. Từ vựng
Từ là đơn vị cơ bản của từ vựng. Từ vựng là tập hợp từ và các đơn vị tương
đương với từ của một ngôn ngữ. Các đơn vị tương đương với từ là các ngữ cố định
nên có thể nói từ vựng là tập hợp các từ và ngữ cố định của ngôn ngữ [7, tr. 172].
3.2.1.1. Từ láy
“Từ láy là những từ được cấu tạo bằng cách lặp lại âm tiết gốc theo quy tắc
trùng điệp (toàn phần hay bộ phận), theo sự luân phiên âm tố chính, hài hòa về âm
và nghĩa” [21, tr. 246].
Có nhiều kiểu láy: láy đôi, láy ba, láy tư, trong đó có những dạng láy
nguyên vẹn, láy bộ phận, láy hài thanh, láy luân phiên, láy xen kẽ tạo ra sự đa
dạng của từ láy.
Để thấy được các từ láy xuất hiện trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du, chúng tôi thực hiện khảo sát trong số 2 bài thơ cổ phong của Nguyễn Trãi và 26
bài thơ của Nguyễn Du, nhận thấy hai tác giả có sử dụng từ láy trông một số trường
hợp cụ thể như sau.
Bảng 3.1. Những bài thơ và câu thơ có sử dụng từ láy trong thơ cổ phong của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
STT TÊN BÀI THƠ NHỮNG CÂU THƠ
CÓ SỬ DỤNG TỪ LÁY
1 Côn Sơn ca Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên
Vạn lí thúy đồng đồng
2 Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên Trãi quan nga nga diện tự thiết
Phân phân nhất sắc hà do biệt
3 Ký mộng Y sức đa sâm si
Phảng phất như cách duy
4 Hành lạc từ 1 Hà sự mang mang thân hậu danh
5 Hành lạc từ 2 Cổ nhân phần doanh dĩ luy luy
Kim nhân bôn tẩu hà phân phân
5 Lam Giang Khứ giả hà thao thao
6 Ngẫu thư công quán bích Mỹ nhân du du cách cao tường
7 Ninh Minh giang chu hành Ứng long kích nộ lôi điền điền
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền
88
Tâm huyền huyền đa sở úy
Thí vọng thao thao thử giang thủy
8 Thái Bình mại ca giả Đãn kiến giang phong tiêu tiêu giang
nguyệt minh
9 Bất tiến hành Chu tiếp phân phân đồng nhất lưu
10 Phản chiêu hồn Trần ai cổn cổn ô nhân y
Đại địa xứ xứ giai mịch la
11 Biện Giả Hà đắc thê thê “tướng cửu châu”
Nhãn trung Tương Thủy không du du
12 Cựu Hứa Đô Phong vũ dạ dạ do hào hô
13 Trở binh hành Kim tương tương, thiết tranh tranh
14 Liêm Pha bi Bột bột tráng khí tưởng kiến kỳ sinh tiền
15 Dự Nhượng kiều chủy thủ hành Tấn Dương thành ngoại thao thao thủy
Sát khí lẫm lẫm bất khả cận
Lăng lăng kỳ khí thiên tiêu thượng
Quân độc tranh tranh thiết trượng phu
Tây phong thê thê hàn bức nhân
16 Kinh Kha cố lý Bạch hồng quán nhật thiên mam mam
Phong tiêu tiêu hề Dịch Thủy hàn
Hàm Dương thiên tử chung nguy nguy
17 Kỳ lân mộ Đãn kiến quan đạo đãng đãng vô khâu
lăng
18 Mạnh Tử từ cổ liễu Chi kha lạc lạc lão ích tráng
Tuế nguyệt du du thâm bất tri
Thông thông uất uất bão nguyên khí
19 Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu
tích
Bất tại du du nhất đàm thủy
20 Sở kiến hành Tương tương tọa đạo bàng
Lệ lưu khâm lang lang
21 Hoàng Mai sơn thượng thôn Kê khuyển giai hi hi
Qua khảo sát, chúng tôi thấy ở trong hai bài thơ của Nguyễn Trãi chỉ có ba
câu thơ sử dụng từ láy trên tổng số 56 câu chiếm 5,4%. Thơ cổ phong Nguyễn Du
có 38 câu sử dụng từ láy trên tổng số 653 câu chiếm 5,8% trong tổng số các bài thơ
89
cổ phong. Như vậy, từ láy được Nguyễn Trãi và Nguyễn Du sử dụng trong thơ cổ
phong với số lượng khá khiêm tốn.
Ngôn ngữ trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du chỉ có tiếng láy đôi
chưa thấy có láy ba, láy tư.
Trong các trường hợp láy có 39 câu thơ có sử dụng từ láy âm hoàn toàn, và
chỉ có hai câu thơ sử dụng từ láy phần phụ âm đầu như:
Y sức đa sâm si - (Ký mộng)
Phảng phất như cách duy – (Ký mộng)
Các từ láy được nhà thơ sử dụng trong trường hợp để mô tả tính chất hoặc
mức độ các sự việc, sự vật, tình cảnh và bộc lộ cảm xúc một cách mãnh liệt. Như
các trường hợp của các câu sau.
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền
Tâm huyền huyền đa sở úy (Ninh Minh giang chu hành)
Thí vọng thao thao thử giang thủy (Minh Minh giang chu hành)
Tấn Dương thành ngoại thao thao thủy (Dự Nhượng kiều chủy thủ hành)
Sát khí lẫm lẫm bất khả cận (Dự Nhượng kiều chủy thủ hành)
Trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi và Nguyễn Du, vị trí các từ láy không ổn
định. Có bốn trường hợp láy được để ở đầu câu, còn lại các trường hợp khác từ láy
được để ở vị trí giữa hoặc cuối câu thơ. Từ láy được đặt ở đầu câu thơ hoặc trước
danh từ thường mang nghĩa bao quát, nhấn mạnh ý của cả câu. Ví như những câu
thơ sau:
Phân phân nhất sắc hà do biệt (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
Lăng lăng kỳ khí thiên tiêu thượng (Dự Nhượng kiều chủy thủ hành)
Bột bột tráng khí tưởng kiến kỳ sinh tiền (Liêm Pha bi)
Phảng phất tư cách duy (Ký mộng)
Trong bài Ký mộng khi diễn tả nỗi nhớ của mình đối với người vợ đã khuất
Nguyễn Du đã sử dụng từ láy “phảng phất”. Phảng phất là nói đến những dấu hiệu
hình như mơ hồ thoảng qua không thật rõ nét nhưng vẫn cảm nhận được. Và trong
nỗi nhớ thương Nguyễn Du đã nằm mộng thấy người vợ trở về dù chỉ phảng phất
qua bức màn nhưng nhà thơ vẫn cảm nhận được hình hài và dung nhan của vợ.
Ở bài Ninh Minh giang chu hành với độ dài 31 câu trong đó có năm câu sử
dụng từ láy. Đây cũng được coi là bài thơ được sử dụng nhiều từ láy nhất trong
những bài thơ cổ phong của Nguyễn Du.
90
Ứng long kích nộ lôi điền điền
(Nghe như tiếng con rồng có cánh nổi giận, sấm động ầm ầm)
Từ láy “Điền điền”: tác giả miêu tả dòng nước như đỗ trên trời cao xuống
nghe như tiếng con rồng đang nổi giận làm vang lên một tiếng động lớn.
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền
Tâm huyền huyền đa sở úy
(Một mạch ba ngày đi, lòng chơi vơi
Lòng chơi vơi vì sợ nhiều)
Từ láy “huyền huyền”: ở hai câu trên dùng để nói lên sự trơ trọi của con
người giữa dòng nước rộng lớn, con người cảm thấy sợ hãi, có cảm giác cô độc khi
đi trên dòng sông.
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền
(Côn Sơn ca)
(Tiếng nước chảy rì rầm
Ta lấy làm đàn cầm)
Hay như trong bài Côn Sơn ca Nguyễn Trãi sử dụng từ láy “Lãnh lãnh” để
nói đến âm thanh rì rầm của tiếng suối được thi nhân cảm nhận như tiếng đàn, một
hình ảnh so sánh thật độc đáo và gợi cảm, âm thanh của tiếng suối làm rung động
tâm hồn nhà thơ. Nghe tiếng suối chảy, thi nhân cảm nhận được âm thanh của cuộc
sống bình yên nơi quê nhà.
Như vậy, trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đều sử dụng các từ láy
hoàn toàn nhằm làm tăng nghĩa biểu đạt, tạo cảm giác mạnh về âm thanh, gây ấn tượng
về tính chất của sự vật. Tuy số lượng từ láy trong thơ cổ phong hai tác giả không nhiều,
nhưng nó cũng góp phần tạo nên những nét đặc trưng riêng trong ngôn ngữ thơ văn và
làm phong phú hơn về vốn từ láy trong thơ chữ Hán trung đại Việt Nam.
3.2.1.2. Nghệ thuật sử dụng điển
“Điển cố là một biện pháp tu từ trong văn chương cổ nhằm đạt tới cách diễn
đạt mà lời ít ý nhiều bằng việc dùng những câu chuyện xưa (trong thần thoại, truyền
thuyết, kinh sử, sự tích, sự kiện lịch sử…) thu gọn vào một từ, một nhóm từ nhằm
gợi liên tưởng mà tác giả muốn đạt tới. Ban đầu, điển cố chỉ là từ ngữ biểu thị một
91
sự vật, sự việc, nhân vật, sự kiện nhất định, cụ thể và chỉ có ý nghĩa thực, sau vì
được sử dụng nhiều lần, được chuyển cho một cấp độ mới là nghĩa biểu trưng,
nghĩa bóng, từ đó có thể tạo ra sự liên tưởng đến chuyện cũ, người xưa, tuy không
có ý về chuyện cũ, người xưa mà nói về chuyện trước mắt” [41, tr. 793].
Trong văn học trung đại, các nhà văn nhà thơ hay có xu hướng sử dụng điển.
Dùng điển cố vốn là một kiểu tu từ khá hấp dẫn tạo cho câu thơ, câu văn được cô
động, hàm súc, không cần nhiều lời mà vẫn thể hiện đầy đủ ý nghĩa mà người viết
muốn nói đến. Ẩn đằng sau những điển cố là những câu chuyện, sự tích trong sử
sách có ý nghĩa sâu sắc, được đúc kết từ thực tiễn, lưu truyền rộng rãi.
Khảo sát thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, chúng tôi nhận thấy một số
lượng nhỏ điển tích, điển cố được hai tác giả đưa vào trong thơ. Nguyễn Trãi có hai
bài thơ cổ phong ở cả hai bài đều có sử dụng những điển cố. Bài Côn Sơn ca có 5
điển cố, điển tích được nhắc đến, bài Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên có 6 điển tích.
Ở bài Côn Sơn ca, Nguyễn Trãi sử dụng điển tích về các nhân vật lịch sử
Trung Hoa.
Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ
Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc
(Côn Sơn ca)
Đổng Trác: “người thời Đông Hán, nổi tiếng giàu có. Sau nhận Lã Bố làm
con nuôi. Lã Bố có sức khỏe hơn người, giỏi nghề cung kiếm nhưng bị coi là người
“hữu dũng vô mưu”, hay thay thầy đổi chủ, sau lại tư thông với người thiếp của
Đổng Trác là Điêu Thuyền rồi giết cả Đổng Trác. Gia tài họ Đổng hóa thành suy
nát” [25, tr. 108].
Nguyên Tải: người đời Đường (Trung Quốc) thời vua Đại Tông giữ chức
Trung Thư thị lang cũng rất giàu có, chứa hồ tiêu để buôn, là con người chuyên
quyền tham nhũng vua khuyên nhiều lần không được bắt phải tự vẫn.
Nguyễn Trãi dùng điển tích Đổng Trác, Nguyên Tải để nói lên tính cách
tham lam của con người. Nhưng qua hai nhân vật lịch sử, Nguyễn Trãi tự hào nói
lên tính cách trong sạch của bản thân, sống cuộc đời ngay thẳng không hổ thẹn với
lương tâm.
92
Hựu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề
(Côn Sơn ca)
Điển Bá Di, Thúc Tề: “hai anh em con vua nước Cô Trúc, chư hầu nhà
thương. Chu Vũ Vương hưng binh diệt Trụ, vị vua cuối cùng nhà Thương. Bá Di,
Thúc Tề can ngăn, cho rằng làm như vậy là bất trung bất nghĩa. Chu diệt Thương,
Bá Di, Thúc Tề vào núi Thú Dương ở ẩn không ăn thóc nhà Chu, chỉ hái rau vi ăn
qua ngày. Sau có người nói “Rau vi cũng mọc trên đất nhà Chu”. Hai ông bèn nhịn
đói mà chết” [46, tr.71]. Điển cố này dùng chỉ các bậc ẩn sĩ trong sạch theo quan
điểm Nho gia.
Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc
(Côn Sơn ca)
Sào Do: tức Sào Phủ và Hứa Do hai ẩn sĩ đời Đường Nghiêu. “Vua Nghiêu
thấy Hứa Do là người hiền đức, bèn sai sứ giả đến mời về triều để nhường ngôi.
Hứa Do từ chối, không những thế lại còn cho rằng lời “mời ra làm vua” đã làm bẩn
tai mình bèn xuống sông Dĩnh ở gần nơi ở ẩn để rửa tai. Vừa lúc đó có bạn là Sào
Phủ, cũng là một ẩn sĩ, cày ruộng xong dắt trâu về, đang định cho trâu xuống bến
uống nước. Nghe Hứa Do nói, Sào Phủ vội dắt trâu lên uống nước ở trên chỗ Hứa
Do rửa tai để khỏi làm bẩn miệng trâu” [46, tr. 123]. Nguyễn Trãi sử dụng điển cố
Sào Do muốn nói đến việc ông không màng đến danh lợi, chỉ muốn trở về với núi
rừng thiên nhiên, sống những ngày bình yên giống như những bậc ẩn sĩ.
Mượn những điển tích, điển cố về nhân vật trong lịch sử của đất nước Trung
Hoa trong bài Côn Sơn ca nhằm để nói lên tấm lòng trong sạch, thanh cao của
Nguyễn Trãi. Đối với Nguyễn Trãi vinh hoa phú quý chỉ là hư danh, không thể tồn
tại mãi. Chính vì vậy, Nguyễn Trãi chỉ muốn về với núi rừng xanh thẳm, sống
những ngày tháng thanh nhàn, tự do tự tại như các bậc ẩn sĩ Bá Di, Thúc Tề, Sào
Phủ, Hứa Do.
Hay trong bài Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên cũng có một số điển tích,
điển cố được Nguyễn Trãi vận dụng.
La phù tiên tử băng vi hồn
(Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
Thân tại Viêm bang tâm Ngụy khuyết
(Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
93
Đông -pha vị trúc bất khả vô
Liêm -khê ái liên diệc hữu thuyết
Càn khôn vạn cổ nhất thanh trí
Bá kiều thi tứ Tây Hồ nguyệt
(Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
Điển càn khôn: “hai quẻ của Kinh Dịch. Càn tượng trưng cho đức tính kiên
cường; trời, vua, cha, chồng, con trai là tượng trưng của quẻ càn. Khôn tượng trưng
cho đức tính nhu thuận; đất, bầy tôi, mẹ, vợ, con gái là tượng trưng của quẻ khôn.
Văn học cổ thường dùng càn khôn để chỉ trời đất, vũ trụ” [46, tr. 42]. Nguyễn Trãi
sử dụng điển cố càn khôn vừa chỉ trời đất vũ trụ nói chung, nhưng cũng để chỉ vẻ
đẹp của thiên nhiên tươi thắm của đất trời.
Điển Bá kiều: “Cầu trên sông Bá (ở huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây,
Trung Quốc). Người đời Đường ở Trường An lấy chỗ ấy làm nơi tống biệt nhau. Có
người hỏi Trịnh Khải đời Đường: “Gần đây có thơ gì mới không?” Ông đáp: “Tứ
thơ của tôi ở cảnh cỡi lừa đi trong tuyết trên Bá Kiều, nay không có cảnh ấy thì làm
thơ sao được” [69, tr. 683]. Ở đây tác giả dùng điển Bá Kiều để chỉ tuyết.
Điển Tây Hồ: Tên một hồ đẹp ở Hàng Châu (tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc). Tô
Đông Pha từng ví vẻ đẹp của Hồ Tây với Tây Tử, nên hồ này lại có tên là Tây Tử hồ.
“Tô Đông Pha có câu thơ: “Tây Hồ nguyệt sắc thị mai hoa” (Sắc trăng ở Tây Hồ là hoa
mai)” [69, tr. 683]. Nguyễn Trãi dùng điển “Tây Hồ nguyệt” để chỉ hoa mai.
Các điển tích được sử dụng trong bài Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên chủ
yếu nói về vẻ đẹp thiên nhiên. Đặc biệt là nói đến vẻ đẹp của mai và tuyết, hình ảnh
của hoa mai và những bông hoa tuyết hòa quyện vào nhau tạo nên vẻ đẹp lung linh
như những tiên nữ ở núi La Phù. Nguyễn Trãi dẫn năm sáu điển tích về mai, tuyết
để ca ngợi cái hiên mai tuyết của ông Ngự sử họ Hoàng, bên cạnh đó ông còn dẫn
thơ của Đông Pha, Liêm Khê về nhiều giai thoại có liên quan mai, tuyết. Những
điển cố được Nguyễn Trãi dẫn ra ở trong bài, nói lên sự thanh cao của mai và tuyết,
ẩn đằng sau vẻ đẹp của mai tuyết là nói lên vẻ đẹp của người quân tử. Như vậy,
những điển cố được Nguyễn Trãi dẫn ra trong hai bài thơ cổ phong chủ yếu để nói
về vẻ đẹp thiên nhiên. Từ những điển cố, điển tích Nguyễn Trãi lồng vào đó những
triết lí về cuộc đời và con người. Như Phạm Thị Ngọc Hoa đã nhận xét: “Điển
trong thơ Nguyễn Trãi thật sự là một phương tiện ngôn ngữ hữu hiệu hỗ trợ nhà thơ
trong việc bộc lộ chí hướng và những tâm sự một cách kín đáo, tế nhị. Nhờ vào việc
94
sử dụng điển, một mặt Nguyễn Trãi thể hiện được thái độ, tư tưởng, tình cảm của
mình, mặt khác, qua ý nghĩa biểu trưng của điển, người đọc cũng hiểu được chí
hướng, tâm sự, tình cảnh và vị thế của ông trước thời cuộc” [20].
Trong một số bài thơ cổ phong của Nguyễn Du các điển cố, điển tích được,
nhà thơ vận dụng rất linh hoạt. Chúng tôi xin dẫn ra một số câu thơ có sử dụng điển
cố, điển tích.
Thùy nhân tả thử đồ
Trì dĩ phụng quân vương
(Sở kiến hành)
(Ai vẽ bức tranh này
Đem dâng lên nhà vua)
Đái khấp bất chung ngữ
Phảng phất như cách duy
(Ký mộng)
(Nghẹn ngào khóc không nói hết câu
Phảng phất như cách nhau bức màn)
Di Tề vô đại danh
Chích Cược vô đại lợi
(Hành lạc từ I)
(Bá Di Thúc Tề chẳng danh lớn
Đạo Chích Trang Kiểu chẳng lợi to)
Trong thơ cổ phong Nguyễn Du có sử dụng một số điển tích chỉ địa danh.
Đại địa xứ xứ giai Mịch La (Phản chiêu hồn)
Đãn kiến giang biên Đồng Tước đài (Đồng Tước đài)
Ngũ lăng thiếu niên bất túc đạo (Long Thành cầm giả ca)
Ở bài Long Thành cầm giả ca có bốn điển cố, điển tích được Nguyễn Du đưa
vào trong bài.
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
(Áo hồng cũng bị mờ nhạt đi trước vẻ mặt hoa đào)
Điển tích “đào hoa diện” chỉ gương mặt xinh đẹp của người phụ nữ nói
chung. Trong câu thơ trên Nguyễn Du sử dụng điển tích “đào hoa diện” để miêu tả
rõ nét vẻ đẹp của cô Cầm chốn kinh thành Trường An.
95
Liệt như Tiến phúc bi đầu toái tích lịch
Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm
(Long Thành cầm giả ca)
(Tiếng mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc
Tiếng buồn như Trang Tích ngâm tiếng Việt lúc ốm đau)
Bia Tiến Phúc: Tức bia chùa Tiến Phúc ở Nhiên Châu, tỉnh Giang Tây.
Tương truyền ông Phạm Trọng Yêm đời Tống, lúc làm quan ở Bá Dương, có người
học trò nghèo dâng bài thơ hay, ông muốn giúp đỡ, cho dập một nghìn bản để bán
lấy tiền. Chưa kịp dập thì một đêm, bia bị sét đánh vỡ tan.
Trang Tích, theo Sử Ký: “Trang Tích người nước Việt, làm quan cho nước
Sở, bị ốm nặng. Sở Vương bảo: “Tích gốc người nước Việt, chẳng biết có còn nhớ
nước cũ chăng?”. Có kẻ bề tôi thưa “Con người lúc ốm đau thường nhớ tới quê cũ.
Nếu Tích còn nhớ tất kêu rên theo giọng nước Việt”. Vua sai người dò xét, quả thấy
Tích kêu rên theo giọng nước Việt” [46, tr. 254].
Hai điển tích trên được Nguyễn Du sử dụng trong bài Long Thành cầm giả ca
để miêu tả về tài năng cũng như tiếng đàn tuyệt diệu của cô Cầm. Điển tích sét đánh
bia Tiến Phúc nhà thơ dùng để ví với tiếng đàn mạnh mẽ, dứt khoát, còn tiếng ngâm
sầu thảm của Trang Tích được dùng để ví với tiếng đàn đánh lên nghe buồn thương.
Ngoài việc dùng những điển tích miêu tả tiếng đàn tuyệt diệu của cô Cầm,
Nguyễn Du còn dùng điển tích để miêu tả vị thế của cô Cầm khi đạt đến đỉnh cao
của danh vọng trong cuộc đời của một ca nữ. Tài năng ấy đã hoàn toàn được xác
nhận khi thấy được phản ứng hoan hỉ của người nghe.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
Hào hoa ý khí lăng vương hầu
Ngũ lăng thiếu niên bất túc đạo
(Long Thành cầm giả ca)
(Phía tả phía hữu đua nhau ném thưởng/ Tiền bạc coi rẻ như đất bùn/ Ý khí
hào hoa của họ lấn lướt cả bậc vương hầu/ Bọn thiếu niên đất Ngũ Lăng chi sá kể)
Triền đầu: tích này có từ đời Đường, vua đãi yến, ai đứng dậy múa được ban
gấm để quấn đầu làm vật tặng thưởng. Về sau, các món tiền thưởng cho người ca
múa gọi là triền đầu [12, tr. 906].
96
Ngũ Lăng: nơi có năm lăng tẫm của các vua đời Hán, bọn hào hoa phú quý
thường làm nhà ở đây. Bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị có câu: Ngũ Lăng niên thiếu
tranh triền đầu. Dùng những điển cố, điển tích trên Nguyễn Du cho người đọc thấy
được tài năng cũng như sự ngưỡng mộ của mọi người dành cho cô Cầm.
Ngoài ra những điển cố văn học được Nguyễn Du vận dụng phần lớn nói về
các nhân vật lịch sử Trung Hoa. Khi nói đến những con người có tấm lòng “cô
trung son sắt” Nguyễn Du thường nói đến những nhân vật như: Khuất Nguyên, Dự
Nhượng, Kinh Kha. Hay khi nói đến những con người độc ác, xấu xa thì nhắc đến
những điển cố như: Tô Tần, Tào Tháo, Minh Thành Tổ. Thông thường những điển
cố được nhắc đến thường liên quan đến quá khứ và hiện tại tạo nên những liên
tưởng sâu sắc.
Qua tìm hiểu các bài thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, ta thấy cả hai
tác giả đều sử dụng điển cố, điển tích làm chất liệu sáng tác. Điển cố, điển tích luôn
hàm chứa những nội dung và ý nghĩa sâu sắc, đây là một trong những hình thức tiết
kiệm lời một cách hiệu quả. Từ việc tìm hiểu những điển cố, điển tích được Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du vận dụng vào trong thơ văn, phần nào giúp bản thân hiểu thêm về
những câu chuyện, những sự tích được lưu truyền qua sử sách.
3.2.2. Biện pháp tu từ cú pháp
3.2.2.1. Biện pháp lặp từ, lặp ngữ trong câu
Lặp từ, lặp ngữ là việc nhắc đi nhắc lại nhiều lần một từ, một ngữ có tác
dụng ý, làm tăng hiệu quả diễn đạt, gây sự chú ý cho người đọc, người nghe. Lặp
từ, lặp ngữ còn nhấn mạnh, tạo ấn tượng, gợi liên tưởng, cảm xúc, tạo nhịp điệu cho
câu văn đoạn văn.
Với 709 câu thơ trong 28 bài thơ cổ phong của hai tác giả thì số lượng lặp từ,
lặp ngữ chỉ chiếm một số lượng nhỏ trong nhóm thơ cổ phong. Trong thơ Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du chúng tôi thấy có các hiện tượng lặp như sau.
Lặp vòng tròn (lặp cuối đầu): là dạng lặp có giá trị tu từ. Lặp vòng tròn được thể
hiện ở chỗ những chữ cuối của câu trước được lặp lại ở những chữ đầu của câu sau.
Thanh thần vọng Lam Giang
Lam Giang trướng thu thủy
(Lam Giang)
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền
Tâm huyền huyền đa sở úy
(Ninh Minh giang chu hành)
97
An thức Khuất Nguyên tâm
Khuất Nguyên tâm, Tương Giang thủy
(Biện Giả)
Bất tri mẫu tâm thương
Mẫu tâm thương như hà
(Sở kiến hành)
Xúy trứu Ninh Minh nhất giang thủy
Giang thủy trứu hề giang nguyệt hàn
(Thái Bình thành hạ xuy địch)
Bất tại du du nhất đàm thủy
Đàm thủy chí kim thanh thả liên
(Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích)
Ở những ví dụ dẫn trên, các cụm từ “Lam Giang”, “tâm huyền huyền”,
“Khuất Nguyên tâm”, “mẫu tâm thương”, “giang thủy”, “đàm thủy” ở cuối của
câu trên được lặp lại ở đầu câu dưới nhằm nhấn mạnh và làm rõ ý điều tác giả muốn
nói đến. Lặp vòng tròn làm cho những câu văn gắn liền với nhau tạo nhịp điệu cho
câu thơ.
Hay có những câu thơ có hiện tượng lặp nối tiếp trong câu, lặp nối tiếp là
dạng lặp trong đó có những từ ngữ được lặp lại trực tiếp và đứng bên cạnh nhau.
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ
(Thái Bình mại ca giả)
Qui lai qui lai vật tác tử
(Trở binh hành)
Lân hề, lân hề, nhĩ hà khổ
(Kỳ lân mộ)
Hồn hề! hồn hề! hồ bất qui
…Hồn hề! hồn hề! suất thử đạo
…Hồn hề! hồn hề! nại hồn hà
(Phản chiêu hồn)
Có những câu thơ lại có sự lặp lại ở đầu câu. Lặp đầu câu chính là sự lặp lại
một vài yếu tố ở đầu câu trong một vài câu tiếp theo trong bài.
98
Sơn hạ hữu trường tùng
Sơn thượng hữu dao thôn
Sơn hạ trường tùng sao
(Hoàng Mai sơn thƣợng thôn)
Hu ta lân hề, hà do đổ
Hu ta lân hề, thiên thượng tường
(Kỳ lân mộ)
Mộng lai cô đăng thanh
Mộng khứ hàn phong xuy
(Ký mộng)
Ái mai ái tuyết ái duyên hà
Ái duyên tuyết bạch mai thanh khiết
(Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
Những ví dụ dẫn trên các từ và cụm từ như “Sơn”, “Hu ta lân hề”, “Mộng”,
“Ái”, được lặp lại ở những câu tiếp theo để giúp nhà thơ nói tiếp ý mà mình nói đến.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy lặp danh từ là hiện tượng lặp khá phổ biến
trong thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, đó là những danh từ chỉ người,
chỉ vật, địa danh. Có thể dẫn ra một số câu sau.
An thức Khuất Nguyên tâm
Khuất Nguyên tâm, Tương Giang thủy
(Biện giả)
Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình
Trung Hoa đạo trung phù như thị
(Ninh Minh giang chu hành)
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bảo
Trung Hoa diệc hữu nhử thử nhân
(Thái Bình mại ca giả)
Ngoài ra việc sử dụng các từ láy âm, đặc biệt là các từ láy hoàn toàn trong
thơ cổ phong của hai tác giả, cũng được xem là một dạng thức đặc biệt của phép lặp
từ như các từ: thao thao, du du, mang mang, luy luy, phân phân, lẫm lẫm, lăng lăng,
thê thê, tiêu tiêu…
Như vậy, phép lặp từ lặp ngữ trong thơ góp phần tạo nên nhạc điệu cho thơ,
qua phép lặp từ, lặp ngữ khắc sâu vào tâm trí người đọc, người nghe những cung
bậc khác nhau của tình cảm, đồng thời diễn đạt những tư tưởng cảm xúc của tác giả.
99
3.2.2.2. Câu hỏi tu từ
“Câu hỏi tu từ là câu, về hình thức là câu hỏi, mà thực chất là câu khẳng định
hoặc phủ định có cảm xúc… Trong thơ ca câu hỏi tu từ có nhiều tác dụng tu từ: Diễn tả
tâm trạng, tình cảm, cảm xúc, miêu tả một cách có hình ảnh và cảm xúc” [31, tr.
262,264].
Câu hỏi tu từ trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du cũng chỉ chiếm
một con số rất nhỏ. Nguyễn Trãi có hai bài thơ làm theo thể cổ phong trong đó có 8
câu có sử dụng hình thức câu hỏi tu từ chiếm 14,3%. Thơ cổ phong Nguyễn Du có
26 bài với tổng số câu 653 câu trong đó chỉ có 36 câu có sử dụng hình thức câu hỏi
tu từ chiếm 5.51%. Dấu hiệu để nhận biết câu hỏi tu từ là căn cứ vào dấu chấm hỏi
ở cuối câu hay sự xuất hiện của các từ thùy, thùy cảm; kỷ, kỷ nhân, kỷ độ; hà, hà y,
hà sự, hà nhĩ, hà do, hà khổ, hà như, hà bất, hà sở; an, an tại, an dụng…. Những
câu hỏi trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du xuất hiện ở mọi vị trí trong bài thơ, đầu
bài, giữa bài, cuối bài. Trong thơ Nguyễn Du có 2 câu hỏi xuất hiện ở vị trí mở đầu
bài thơ, 3 câu hỏi ở cuối bài thơ, 4 câu hỏi ở vị trí câu thứ tư của bài, những câu hỏi
còn lại nằm các vị trí khác nhau trong bài.
Trong bài thơ Côn Sơn ca có năm câu hỏi tu từ được Nguyễn Trãi vận dụng,
những câu hỏi chất chứa những nỗi niềm tâm sự của tác giả. Trở về với Côn Sơn
nhưng trong lòng nhà thơ vẫn lo cho dân cho nước, vẫn thấy lòng thấp thỏm lo âu nên
tự đặt ra cho mình những câu hỏi. Nguyễn Trãi đặt ra hai câu hỏi liên tiếp thể hiện
tâm trạng day dứt trong lòng. Vấn quân hà bất quy khứ lai? Bán sinh trần thổ trường
giao cốc? (Người sao chưa về đi/Nửa đời bụi bặm hoài lăn lóc), ông tự hỏi mình chất
vấn chính bản thân mình về những vấn đề của cuộc sống, về vấn đề của bản thân. Có
những lúc Nguyễn Trãi lại đặt ra câu hỏi phủ định đầy ngao ngán Chết rồi ai vinh với
ai nhục?. Ẩn đằng sau những câu hỏi là những chiêm nghiệm về những thăng trầm,
những ngọt bùi cay đắng, vinh nhục, của cuộc đời Nguyễn Trãi, nên ông mới có
những suy ngẫm và tự đặt ra những câu hỏi cho chính bản thân mình. Nguyễn Trãi
không hỏi để tìm câu trả lời mà trong thơ ông, người đọc sẽ tìm cho mình những câu
trả lời thỏa đáng hơn bao giờ hết. Nguyễn Trãi hỏi để nhìn lại những gì đã qua, để từ
đó hướng đến những điều tốt đẹp, tích cực hơn trong cuộc sống.
Trong những năm tháng sống xa gia đình người thân Nguyễn Du luôn khắc
khoải nhớ thương, có những lúc ông nghĩ về người vợ của mình đã khuất. Trong
mộng Nguyễn Du đã nhìn thấy vợ trở về, nhìn thấy dung nhan hình hài cũng như
100
những nỗi niềm tâm sự của vợ. Thấy hình ảnh người vợ trong giấc mộng Nguyễn
Du đã hỏi vợ nhưng cũng chính để tự hỏi lòng mình. Hỏi để thể hiện tình cảm, sự
quan tâm, chia sẻ đồng thời hỏi để vơi đi những nỗi nhớ thương xa cách bấy lâu bây
giờ mới được gặp Bình sinh không biết đường/ Trong hồn mộng là thực hay hư?
(Ký mộng). Người vợ khi sống chưa một lần được về quê chồng, giờ nhìn thấy vợ
biết đường tìm về nên ông không khỏi không ngạc nhiên, Đường đi hiểm và dữ/
Thân yếu đuối dựa vào đâu? (Ký mộng). Những câu hỏi thể hiện nỗi niềm hoài
vọng của nhà thơ, dù lúc tỉnh hay trong những giấc mơ Nguyễn Du luôn hướng về
gia đình nơi có hình bóng của người vợ hiền và những đứa con ngoan.
Nguyễn Du là người giàu tình yêu thương, tấm lòng luôn trải rộng cho những
kiếp người, nhạy cảm với nỗi đau của những con người nghèo khổ. Khi nhìn thấy
cảnh đói khổ của bốn mẹ con người ăn xin và cảnh tiệc tùng linh đình của quan lại.
Trong bài Sở kiến hành kết thúc bài thơ Nguyễn Du đã đặt ra một câu hỏi, mở ra
những nỗi niềm trăn trở trong tâm hồn nhà thơ cũng như gợi lên bao suy nghĩ, sâu
sắc trong lòng người đọc “Ai vẽ bức tranh này? Đem dâng lên nhà vua”. Nguyễn
Du chỉ hỏi thế thôi nhưng chính ông đã vẽ ra bức tranh nhằm phê phán bọn quan lại
vô trách nhiệm trước nỗi thống khổ của nhân dân. Từ đó nhà thơ nói lên hiện thực
đau lòng của những người dân nghèo, thông qua câu hỏi tu từ ở kết bài Nguyễn Du
còn muốn đòi lại quyền sống và hạnh phúc cho những con người thấp cổ bé họng
trong xã hội lúc bấy giờ.
Đối với những bậc hiền tài Nguyễn Du cũng luôn ca ngợi, không chỉ vì sự tài
năng của họ mà chính ở đức độ và phẩm chất đáng quý đáng trân trọng. Trong bài
Biện Giả, thi nhân đã có những câu hỏi nhằm khẳng định tấm lòng trong sáng của
Khuất Nguyên.
Không đi qua Hồ Nam
Sao biết nước sông Tương sâu?
Không đọc bài phú Hoài sa
Sao biết được lòng Khuất Nguyên?
(Biện Giả)
Hay ta bắt gặp những câu hỏi thể hiện thái độ khinh bỉ, cái nhìn phủ định của
nhà thơ đối với những nhân vật bất nghĩa bất nhân. Đặc biệt đối với nhân vật Tào
Tháo và Minh Thành Tổ các câu hỏi nhằm xoáy sâu vào những hành động tàn nhẫn,
những tội ác mà chúng gây ra cho bao con người lương thiện.
101
Huống nữa Yên Đệ là người như thế nào?
Cướp ngôi của cháu để tự lập vua, y không phải bậc nhân quân
(Kỳ lân mộ)
Từ cổ được đều lấy chính nghĩa
Sao lại lừa vợ góa dối con côi của người ta?
(Cựu Hứa đô)
Có khi hỏi để nhằm mục đích định tội và lời cảnh tỉnh đối với quân bất nghĩa.
Gian hùng soán thiết nhân hà tại?
(Cựu Hứa đô)
(Lũ gian hùng cướp ngôi có kẻ nào còn đâu?)
Có khi hỏi để phê phán, mỉa mai.
Lạc lạc trượng phu hà nhĩ nhĩ?
Gian hùng biệt tự hữu cơ tâm
Bất thị minh ai, nhi nữ khí
(Đồng Tƣớc đài)
(Bậc trượng phu lỗi lạc sao như thế)
Kẻ gian hùng riêng tự có mưu thâm khác trong lòng
Chẳng phải là kêu thương ủy mị như tính khí đàn bà?)
Trong nhiều bài thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, không chỉ xuất hiện một
câu hỏi mà có đến hai, ba, bốn thậm chí có bài lên đến năm, sáu câu hỏi. Chẳng hạn
như bài: bài Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên; Lam Giang; Ninh Minh giang chu
hành; Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài có hai câu hỏi; bài Cựu Hứa
Đô; Đồng Tước Đài có ba câu hỏi; bài Sở kiến hành; Phản chiêu hồn có 4 câu hỏi;
bài Kỳ lân mộ có 5 câu hỏi; bài Côn Sơn ca có sáu câu hỏi.
Hay ta bắt gặp trong thơ Nguyễn Du trong một bài có nhiều câu hỏi và điều
đáng chú ý là câu hỏi vừa xuất hiện ở mở đầu bài thơ và ở cuối bài thơ.
Hồn ơi! hồn ơi! sao không về?
Đông, tây, nam, bắc không có nơi nào nương tựa
Lên trời xuống đất đều không được
Còn trở về thành Yên thành Sính làm gì?
Thành quách vẫn như cũ, song nhân dân đã khác rồi
Bụi cuốn mù mịt bẩn cả quần áo
Khi đi ra đường thì giong ruổi xe, khi ở nhà thì ngồi vênh váo
102
Họ đứng ngồi bàn tán như ông Cao, ông Quì
Họ che giấu nanh vuốt và nọc độc
Nhưng cắn xé thịt người ngọt xớt như đường
Hồn không thấy mấy trăm châu ở Hồ Nam đó sao?
Chỉ có những người gày gò, không ai béo tốt
Hồn ơi! hồn ơi! nếu cứ theo đường đó
Thì sau Tam Hoàng không còn hợp thời nữa
Hãy sớm thu tinh thần trở lại cõi thái cực
Đừng trở về đây nữa, mà người ta mai mỉa
Đời sau người đều là Thượng quan
Mặt đất này đâu đâu cũng là sông Mịch La
Cá rồng chẳng nuốt, hùm sói cũng ăn
Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn làm thế nào?
(Phản chiêu hồn)
Bài thơ có tất cả hai mươi câu, nhưng chứa đựng trong đó bốn câu hỏi tu từ,
bài thơ mở ra bằng một tiếng gọi Hồn ơi! hồn ơi! sao không về? là một câu hỏi có
tính chất phủ định và kết thúc vẫn là tiếng gọi hồn có kèm theo dấu chấm hỏi ấy:
Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn làm thế nào?. Sống trông xã hội với cái xấu, cái ác luôn rình
rập đe dọa nhiều lúc người sống phải giật mình, hoảng hốt, nói gì đến người chêt.
Bao nhiêu uất ức bao nhiêu căm phẫn Nguyễn Du đã dồn hết vào hai câu hỏi tu từ ở
mở đầu bài và kết bài. Những câu hỏi tu từ trong bài thơ chính là sự phủ nhận hoàn
toàn của Nguyễn Du đối với cái trật tự của xã hội phong kiến đương thời. Câu cảm
thán, câu hỏi tu từ đan cài vào nhau, cùng xuất hiện nhiều lần trong bài thơ thể hiện
niềm thương xót, sự tức giận của một trái tim chan chứa tình yêu thương dành cho
người đã khuất.
Như vậy, trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đều có những câu hỏi
tu từ, những câu hỏi xuất hiện trong bài thơ thường là những câu hỏi khẳng định
hoặc phủ định. Những câu hỏi nhà thơ đặt ra không yêu cầu trả lời mà nhằm nhấn
mạnh hơn về nội dung cũng như một cảm xúc nào đó, người viết muốn nói đến. Đi
sâu vào những câu hỏi tu từ trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du giúp chúng ta hiểu
sâu hơn những nỗi niềm, những cung bậc tình cảm được tác giả giử gắm trong thơ.
103
3.3. Giọng điệu nghệ thuât
Giọng điệu là một phạm trù của thi pháp học có nhiệm vụ tìm hiểu một trong
những hình thức bộc lộ cái chủ quan trong văn học. Giọng điệu là yếu tố quan trọng
giúp người đọc dể dàng thâm nhập vào tác phẩm, tìm hiểu những tư tưởng, tình cảm
cảm xúc được tác giả gửi gắm vào trong thơ văn, thông qua giọng điệu ta có thể xác
định được phong cách của mỗi nhà văn, nhà thơ. Nhà văn muốn có phong cách
riêng tất nhiên phải có một giọng điệu riêng.
Giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn,
mà còn là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học, đồng thời là yếu
tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể.
Giọng điệu là biểu hiện của thái độ, cảm xúc của chủ thể đối với đời sống. Tìm hiểu
giọng điệu nghệ thuật trong thơ cổ phong giúp người đọc hiểu hơn về những chiêm
nghiệm, những suy tư, trăn trở, những tình cảm, cảm xúc được Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du thể hiện trước cuộc đời và con người. Trong khuôn khổ của đề tài,
chúng tôi khảo sát ba giọng điệu chính: giọng điệu khái quát, triết lí; giọng điệu đối
thoại – tranh biện; giọng điệu u buồn.
3.3.1. Giọng điệu khái quát, triết lí
Sống trong thời đại có nhiều biến động Nguyễn Trãi cũng như Nguyễn Du
đều nhìn thấy những mặt tích cực và hạn chế của xã hội. Từ những suy nghĩ về con
người, về thời đại hai nhà thơ đang sống và đặc biệt là những suy nghĩ, chiêm
nghiệm từ chính cuộc đời hai nhà thơ. Trong suốt cuộc đời, với cuộc sống nay ở đầu
sông mai ở cuối bể, hai nhà thơ đi nhiều, biết rộng, gặp nhiều sự việc xảy ra trùng
hợp nhau trong cuộc sống có tính hệ thống. Buộc nhà thơ phải suy ngẫm, xem xét
rút ra những triết lí cho riêng mình. Từ đó, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đúc kết những
kinh nghiệm triết lí về cuộc đời, cũng như mọi biến đổi của đất trời. Để rồi khi sáng
tác những tác phẩm thơ văn ít nhiều cả hai tác giả đều lòng vào đó những suy nghĩ
những triết lí, thể hiện tư tưởng tình cảm, thái độ của nhà thơ. Giọng điệu triết lí của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du là giọng triết lí của những con người từng trải, đoạn
trường, chịu nhiều đau khổ, vì vậy những triết lí mà hai tác giả gửi gắm vào trong
thơ văn thường mang tính nhân văn sâu sắc.
Giọng điệu khái quát, triết lí trong thơ cổ phong Nguyễn Du mang đến cho
người đọc những cảm nhận sâu sắc. Nguyễn Du luôn nhận thấy cuộc sống của con
người có nhiều bất công và ngang trái. Ông không thể hiểu được vì đâu những con
104
người tài hoa đều gặp nhiều tai ương trong cuộc đời. Để lí giải cho những băn
khoăn, suy nghĩ đó Nguyễn Du tìm đến một khái niệm hết sức trừu tượng là “số
mệnh” và có lẽ chính số mệnh đem đến cho con người những đau khổ. Để rồi từ đó
Nguyễn Du khái quát lên.
Tuấn mã bất lão tử
Liệt nữ vô thiện chung
Phàm sinh phụ kỳ khí
Thiên địa phi sở dung
(Điệu khuyển)
(Ngựa hay không chết già/ Gái trinh liệt không chết được yên lành/ Phàm
sinh ra mang khí phách khác thường/ Thì trời đất không có chỗ dung)
Sống trong xã hội đâu đâu cũng thấy những tranh đua ghen ghét. Những con
người tài hoa đều bạc mệnh ấy chính là quy luật nghiệt ngã mà cuộc đời ban tặng
cho họ.
Cao tài mỗi bị văn chương đố
Nhân nhục tối vi ly mị hỷ
(Ninh Minh giang chu hành)
(Tài cao thường bị văn chương ghen ghét
Thịt người là thứ ma quỉ thích nhất)
Hay trong bài Phản chiêu hồn, nhà thơ đã nói lên nỗi đau của con người bạc
mệnh. Cuộc đời không đem đến hạnh phúc cho những con người tài hoa ấy. Nghiệp
chướng số mệnh quả vô cùng khắc nghiệt cho những con người tài hoa ở đời và ai
cũng tự đặt ra câu hỏi tại sao trời lại giáng cho họ những tài lạ để rồi bắt họ phải
chịu nhiều thiệt thòi, chịu những bất công ngang trái đến như vậy. Nguyễn Du đã
nói với hồn Khuất Nguyên và khuyên hồn không nên trở về cõi trần, mà sớm thu
hồn về thái cực ở đó không có những tranh đua ghen ghét đố kỵ, người ăn thịt người
như trên cõi trần.
Trong quan niệm của Nguyễn Du trời là tất cả, nó chi phối mọi hoạt động
trong quan hệ của cuộc đời con người. Con người không thể làm gì được để chống
lại số mệnh, chống lại ý trời. Chính vì vậy, Nguyễn Du đã đưa ra những triết lý
mang tính khái quát cao.
105
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm
Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý
(Ninh Minh giang chu hành)
(Sâu hiểm quanh co giống lòng người
Nguy vong nghiêng đổ đều là do ý trời)
Nguy hiểm thắng nhân tâm
Khuynh phúc diệc thiên ý
(Lam Giang)
(Hiểm nguy thắng lòng người
Nghiêng đổ cũng là ý trời)
Trong cuộc sống không ai thoát khỏi ý trời và không thể thoát khỏi số mệnh.
Số mệnh đã vùi dập cuộc đời của các phụ nữ tài hoa. Với Long Thành cầm giả ca
Nguyễn Du kể lại hai lần gặp gỡ một người đào hát tên là Cầm ở Thăng Long. Như
ý thức được tài năng và sắc đẹp của mình cô Cầm hiện ra như một sức mạnh, một
vầng hào quang tỏa sáng cả một vùng trời. Làm cho mọi người đều choáng ngợp,
khiến cho các tướng Tây Sơn “Mải vui quên cả tiếng gà tàn canh, Đua nhau gieo
thưởng tranh giành”. Nhưng một thời gian xa cách, hai mươi năm sau Nguyễn Du
gặp lại, cô Cầm đầy kiêu hãnh trước kia đã trở thành một thân hình tàn tạ ngồi “ở
cuối tiệc”. Từ đây cho thấy những người phụ nữ có tài thường phải chịu số phận
buồn thảm, đúng như Phan Ngọc từng nói: Thử xem từ xưa đến nay những bậc giai
nhân tài tử đệ nhất trên đời, phỏng mấy ai thoát khỏi vòng tài hoa? Đó chẳng qua
là tạo vật ghen ghét sự hoàn toàn, hơn điều nọ ắt kém điều kia, cho nên có được
một chút tài tình thì phải gánh chịu mười phần nghiệp chướng [35, tr. 43].
Viết về số phận con người nhất là số phận của những người tài hoa, thơ văn
Nguyễn Du thường mang giọng điệu khái quát, triết lý sâu sắc. Nguyễn Du nhận
thấy những người tài hoa thường gặp nhiều bất trắc trong cuộc sống, điển hình số
phận của nàng Kiều, nàng Tiểu Thanh, hay như cô Cầm nổi danh một thời nhưng
cuối cùng bị người đời lãng quên, tàn tạ theo năm tháng. Một con người với tấm
lòng cô trung như Khuất Nguyên, không chịu được những bất công ngang trái phải
gieo mình xuống dòng sông Mịch La. Từ số phận của những con người ấy, ta hiểu
rằng những người tài hoa đều không được xã hội trọng dụng, tài hoa chỉ đem đến
những đau khổ và bất hạnh. Chính những điều nghịch lý xấu xa trong cuộc sống đã
làm nhà thơ nhiều lần day dứt, suy nghĩ. Với giọng điệu khái quát, triết lý, Nguyễn
106
Du giúp người đọc phần nào hiểu rõ và hiểu sâu triết lý “tài mệnh tương đố”,
“hồng nhan bạc mệnh”. Vì đâu những người tài hoa lại hay gặp bất hạnh, thực chất
tất cả những bất hạnh của con người đều do xã hội phong kiến gây ra.
Ngoài những triết lí về số mệnh thơ Nguyễn Du còn nói đến triết lý thời gian
đời người. Nguyễn Du luôn cảm thấy thời gian trôi nhanh, còn cuộc đời con người
thường ngắn ngủi, không thể nào theo kịp bước chân của thời gian.
Trung thọ chỉ bát thập
Hà sự thiên niên kế
(Hàng lạc từ I)
(Trung thọ chỉ được tám mươi tuổi
Việc gì tính chuyện ngàn năm)
Nguyễn Du không chỉ cảm nhận được sự thay đổi của con người, còn cảm
nhận được sự thay đổi của vạn vật xung quanh cuộc sống của con người.
Hảo hoa vô bách nhật
Nhân thọ vô bách tuế
Thế sự đa suy di
(Hành lạc từ II)
(Hoa đẹp chẳng trăm ngày
Người thọ chẳng trăm tuổi
Việc đời lắm đổi dời)
Chỉ một cái chớp mắt của cuộc đời cũng chứa đựng những thay đổi khôn
lường, đời người có thấm gì đâu với cuộc đời.
Thuấn tức bách niên năng kỷ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y
(Long Thành cầm giả ca)
(Trăm năm như chớp mắt có là bao
Đau lòng việc cũ lệ thấm áo)
Sống trong một xã hội với bao biến động, con người không thể biết chuyện
gì sẽ xảy ra trong tương lai nên cũng chẳng cần tính chuyện xa xôi.
Nhãn tiền đắc tang dĩ nan nhận
Hà sự mang mang thân hậu danh
(Hành lạc từ I)
(Được mất trước mắt còn khó biết
Việc gì bận tâm đến cái danh xa xôi sau khi chết)
107
Nhìn thấy những thay đổi của cuộc đời, Nguyễn Du đã đem đến những triết
lí về lời khuyên giúp con người có thể thoát ra những lo nghĩ.
Nhân sinh vô bách tải
Hành lạc dương cập kỳ
Vô vi thủ bần tiện
Cùng niên bất khai mi
(Hành lạc từ I)
(Đời người không ai sống trăm tuổi
Nên vui chơi cho kịp thì
Chớ nên giữ nếp nghèo hèn
Cả năm chẳng được mở mày mở mặt)
Và một lần nữa Nguyễn Du khẳng định.
Phù sinh hành lạc sự
(Hành lạc từ II)
(Kiếp phù sinh nên hành lạc)
Khép lại cho những lời khuyên, Nguyễn Du đưa đến những nhận định có tính
khái quát. Khi con người thoát khỏi mọi lo nghĩ về cuộc đời, cuộc sống con người
trở nên nhẹ nhàng, và có thể kéo dài cuộc sống.
Toán lai nhất niên trung
Sở ưu vô vô nhất thì
Sở dĩ sơn trung nhân
Nhân nhân giai kỳ di
(Hoàng Mai sơn thôn thƣợng)
(Điểm lại trong suốt cả một năm
Không một lúc nào phải lo âu
Cho nên người trong núi
Người người đều sống lâu trăm tuổi)
Giọng điệu khái quát, triết lí của Nguyễn Du đưa đến những cách nhìn nhận
đa chiều về cuộc đời và số phận con người. Những khái quát, triết lí đem đến những
cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau, có khi là những suy nghĩ trăn trở về vấn đề
nhân sinh “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc mệnh”, có lúc là những chiêm
nghiệm về cuộc đời, và đôi khi là những lời khuyên giúp con người vượt qua những
khổ đau thêm tin yêu vào cuộc sống.
108
Bài thơ Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi không chỉ là bài ca giao cảm với thiên
nhiên, mà còn là bài ca triết lí về cuộc đời. Với mười hai câu đầu của bài thơ tác giả
nói về vẻ đẹp ở chốn lâm tuyền của Côn Sơn của núi rừng thiên nhiên, những câu
còn lại chính là tâm trạng thời thế và những triết lí về cuộc đời của tác giả.
Vấn quân hà bất quy khứ lai
Bán sinh trần thổ trường giao cốc
(Người sao còn chửa về đi
Nửa đời bụi bặm hoài lăn lóc)
Câu thơ như là lời tự trách của tác giả đối với bản thân, sao không sớm về
với Côn Sơn mà phải mất hết nữa cuộc đời lăn lóc ở chốn quan trường, để phải chịu
nhiều thiệt thòi, có những khoảng thời gian Nguyễn Trãi sống trong những ngày
tháng đầy bi kịch. Khi ra làm quan tuy Nguyễn Trãi từng giữ những chức vụ cao
trong triều đình, nhưng những chức vụ đó không đủ quan trọng để cho phép ông thi
thố tài năng kinh bang tế thế. Sau khi kháng chiến thắng lợi, Lê Thái Tổ tỏ ra nghi
ngờ những nhân vật lỗi lạc đã cùng nhà vua lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân
Minh. Nhà vua tìm mọi cách tiêu diệt các đại thần được cho là người có tài, và uy
thế trong triều đình lúc bấy giờ. Sống trong chốn quan trường nhiều lúc Nguyễn
Trãi bị ghen ghét, dèm pha bởi những tên quyền thần, nịnh thần chén ép. Có những
lúc Nguyễn Trãi cũng bị nghi oan và bị bắt giam và trong thời gian ấy Nguyễn Trãi
sống trong tâm trạng buồn đau. Hai câu thơ phần nào cũng thể hiện rõ tâm trạng
thời thế của tác giả. Đồng thời Nguyễn Trãi cho người đọc thấy được những triết lý
về sự giàu sang vinh nhục. Có những lúc sự giàu sang không mang lại hạnh phúc
cho con người, mà mang lại khổ đau điển hình như Đổng Trác và Nguyên Tải.
Con người cũng như cỏ cây, không thể tồn tại mãi với thời gian, cuộc sống
đời người là hữu hạn nhưng dòng chảy thời gian là vô hạn. Giàu sang phú quý cũng
chỉ là hư danh một thời. Con người ai cũng phải trở về với cát bụi, cái còn lại trên
đời chỉ là vinh hay nhục.
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai
Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên
Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục
(Côn Sơn ca)
109
(Vui buồn lo sướng đổi thay nhau
Một tươi một héo vẫn tương tục
Cồn hoang lầu đẹp cũng ngẫu nhiên
Chết rồi ai vinh với ai nhục)
Giọng điệu khái quát, triết lí trong thơ Nguyễn Trãi và Nguyễn Du được đúc kết
từ những chiêm nghiệm về một quá trình sáng tạo tìm tòi, nghiền ngẫm và được
kiểm chứng bằng thực tế trải nghiệm của con người trong cuộc sống. Từ những khái
quát, triết lí được Nguyễn Trãi, Nguyễn Du vận dụng vào trong thơ, ta thấy được cả
hai tác giả đều là những con người thâm thúy trong suy nghĩ, sâu sắc trong nhìn
nhận đánh giá.
3.3.2. Giọng điệu đối thoại - tranh biện
Để tạo nên những tác phẩm văn học người nghệ sĩ phải có một quá trình
tìm tòi khám phá, gắn với hành trình sáng tạo là hành trình đối thoại giữa tác giả với
chính tác phẩm của mình. Nhà văn, nhà thơ sáng tạo những tác phẩm văn học không
chỉ để thể hiện tài năng, phong cách cá tính của mình. Qua những tác phẩm văn học,
người nghệ sĩ có thể đối thoại với chính mình, đối thoại với những nhân vật trong
tác phẩm, đối thoại với cuộc đời. Sự đối thoại sẽ đem đến những cách nhìn, cách
cảm, thể hiện những cung bậc tình cảm khác nhau của tác giả đối với những vấn đề
được thể hiện trong tác phẩm.
Giọng điệu đối thoại tranh biện của Nguyễn Du hướng đến nhiều đối
tượng. Đầu tiên chúng ta có thể thấy tác giả đối thoại với những nhân vật của mình
trong tác phẩm, đặc biệt giọng đối thoại hướng đến những cảnh bất công trong xã
hội. Nguyễn Du phản ánh hiện thực xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ, con người sống
trong xã hội được phân chia vị thứ rất rõ ràng, đó là giàu và nghèo, giai cấp thống
trị và giai cấp bị trị. Nhà thơ chứng kiến nhiều cảnh sống của con người, và nhận ra
rằng phàm những người nghèo đều chịu nhiều đau thương, mất mát, phải sống một
cuộc đời đầy tủi hổ. Giọng đối thoại tranh biện trong nhóm thơ cổ phong Nguyễn
Du luôn song hành với cảm hứng hiện thực. Mỗi bài thơ cổ phong đều phản ánh
đúng thực trạng xã hội, đồng thời khái quát chân thực về những cảnh đời bất công
ngang trái. Cảm hứng hiện thực về xã hội đặc biệt là xã hội Trung Hoa được ông
phản ánh rất rõ trong những tác phẩm Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả, Trở binh
hành, cả ba tác phẩm đều được viết bằng thể cổ phong trường thiên. Ẩn chứa trong
từng tác phẩm là những vấn đề của cuộc sống, những sự kiện chi tiết liên quan đến
110
xã hội. Trên hành trình đi sứ ông đã tận mắt chứng kiến cảnh sống của người dân,
ánh mắt, nhà thơ luôn hướng đến những con người thấp cổ bé họng trong xã hội.
Nguyễn Du chỉ lẵng lặng đứng nhìn, quan sát một cách kĩ lưỡng, rồi nhâp thân vào
ông già mù hát rong và người phụ nữ ăn xin để rồi nhà thơ tái hiện chân thực về
cuộc đời cũng như số phận của họ.
Ở ba bài thơ tác giả chỉ đối thoại gián tiếp với nhân vật của mình, nhưng
thông qua diễn ngôn đối thoại, nhà thơ đã cho người đọc thấy được cảnh sống thực
của ông già mù trong Thái Bình mại ca giả. Và hình ảnh đầy thương cảm của bốn
mẹ con người ăn xin trong Sở kiến hành. Từng mảnh đời, từng số phận của con
người hiện lên chân thực dưới ngòi bút Nguyễn Du. Với giọng điệu đối thoại lạnh
lùng nhà thơ đã vẽ nên những bức tranh tương phản nhau trong cuộc sống. Đối lập
với cuộc sống vất vả của người dân là cuộc sống xa hoa phung phí của giai cấp
quan lại.
Thuyền này thuyền nọ đều đầy gạo thịt
Người trong đoàn sứ ăn no còn thừa thì vứt
Cơm nguội, thức ăn thừa đổ xuống sông
(Thái Bình mại ca giả)
Không những thế thông qua đối thoại với những con người nghèo khổ
Nguyễn Du đã tố cáo giai cấp quan lại chỉ biết sống cuộc sống xa hoa hưởng thụ.
Gân hươu cùng vây cá
Đầy bàn thịt lợn, thịt dê
Quan lớn chẳng đụng đũa
Tùy tùng chỉ nếm qua loa
Bỏ mứa không đoái tiếc
Chó hàng xóm cũng chán cao lương
(Sở kiến hành)
Đối thoại với người dân, Nguyễn Du chỉ đứng ngoài quan sát rồi từ đó
hiểu và cảm thông cho số phận của họ, nhưng khi nhìn thấy cảnh sống phung phí
suốt ngày tiệc tùng của giới quan lại, Nguyễn Du đối thoại trực tiếp với giới cầm
quyền Trung Hoa, nhằm phanh phui những mặt trái trong cuộc sống. Giai cấp quan
lại chỉ biết che giấu, bưng bít lẫn nhau đây chính là một trong những vấn nạn cần
lên án. Chính sự thờ ơ lạnh lùng của giới cầm quyền càng làm cho đời sống của
người dân rơi vào tình cảnh bi đát. Xã hội Nguyễn Du nhìn thấy là một xã hội bất
111
công, ngang trái, sống trong xã hội đó con người sẽ dần rơi vào hố sâu của cảnh
chết chóc. Bài thơ “Trở binh hành” mang giọng đối thoại tranh biện nhưng có phần
kín đáo hơn hai bài trên, kết hợp với giọng điệu nhiễu nhại mỉa mai châm biếm sâu
cay. Nhà thơ đã miêu tả một cách tỉ mỉ cuộc sống của người dân, với cảnh chiến
tranh loạn lạc.
Đất này từ tháng sáu đến tháng chín
Hai huyện Hoạt, Tuấn cùng nổi binh
Giặc giết quan lại mười người đến tám chín người
Đầy thành gió tây thổi mùi máu tanh
(Trở binh hành)
Chiến tranh xảy ra làm chấn động cả một vùng, quan lại trong thành đều bị
giặc giết, đâu đâu cũng ngửi thấy mùi máu tanh, không khí trở nên ngột ngạt, người
dân sống trong tâm trạng phập phòng lo sợ. Sợ vì cảnh chiến trường binh đao, sợ
cảnh ly tán chết chóc. Cả một miền Hà Nam nhìn đâu cũng thấy binh lính với những
vũ khí mài giũa sắc bén.
Quân bộ, quân ky đạo chạy dọc đạo chạy ngang
Quân ky giương cung sừng
Tên dài có gắn, lông chim trắng để đầy bầu
Quân bộ vai vác giáo ngắn
Mũi thép mới mài, tua đỏ treo lủng lẳng
Lại có binh khí của các đội tráng binh mới gọi theo
(Trở binh hành)
Ngoài đường không có một bóng người đi, chỉ nhìn thấy xe lớn, xe nhỏ
suốt ngày rông ruổi làm đường sá tắc nghẽn.
Suốt ngày qua lại không chút nào tạm ngừng
Mấy trăm dặm chỗ nào cũng có quân binh
Đường sá tắc nghẽn, không có người đi
(Trở binh hành)
Giọng đối thoại tranh biện của Nguyễn Du thương cho những con người
không chỉ sống cảnh loạn lạc của chiến trường binh đao, mà còn phải sống trong
cảnh hạn hán mất mùa Hồ Nam, Hà Nam từ lâu không có mưa bao nhiêu đau khổ
đều đổ lên những tấm thân gầy gò, họ phải gồng mình lên cam chịu. Người dân phải
sống trong đau khổ, còn những người được gọi là quan phụ mẫu của dân thì cứ
112
nhơn nhơ, không quan tâm đến tình cảnh khốn cùng mà người dân đang gặp phải.
Nhìn thấy cảnh chết chóc trên đường họ thản nhiên kêu lên “Dân chết vì gặp năm
hạn, đâu phải tại ta?” một câu nói vô tình làm khoét sâu vào nỗi đau khổ của con
người, nhưng cũng thấy rõ bộ mặt của giai cấp quan lại. Từ chỗ đối thoại tranh biện
Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được tình cảnh éo le ngang trái của cuộc đời.
Trong từng lời đối thoại là lời vạch tội của tác giả đối với giai cấp quan lại, giới
cầm quyền Trung Hoa, chính những lời nói và hành động vô trách nhiệm của họ, đã
khiến đời sống của những người dân vô tội càng trở nên bi đát. Chính nhờ đối thoại
tranh biện Nguyễn Du nhìn thấu bản chất của giới cầm quyền Trung Hoa. Nguyễn
Du mỉa mai kín đáo mà chua cay giới cầm quyền từ trên xuống dưới.
Giọng điệu đối thoại trong thơ cổ phong của Nguyễn Du còn hướng đến
những nhân vật lịch sử Trung Hoa. Trong Phản chiêu hồn Nguyễn Du vừa đối thoại
với Khuất Nguyên nhưng thông qua đó chính là sự đối thoại với xã hội. Nguyễn Du
đối thoại tranh biện với hồn Khuất Nguyên và phản bác lại tinh thần của Tống
Ngọc, Tống Ngọc thương hồn Khuất Nguyên sắp tiêu tan, nên chiêu hồn để gọi hồn
về, Nguyễn Du lại khuyên hồn Khuất Nguyên không nên trở về cõi trần đầy rẫy bọn
gian ác. Đối thoại với linh hồn của Khuất Nguyên, thực chất Nguyễn Du muốn tố
cáo xã hội phong kiến đã cướp đi quyền sống của con người, chính xã hội đã đẩy
con người rơi vào những bi kịch thương tâm. Đối thoại với Khuất Nguyên, Nguyễn
Du đang kiếm tìm sự đồng vọng, để tri âm, để rồi Nguyễn Du khóc thương cho một
con người tài đức nhưng gặp nhiều bất hạnh trong cuộc đời.
Xưa nay mấy ai có được bạn đồng tâm
Bài phú của thư sinh họ Giả chẳng có nghĩa lý gì
Xưa nay liệt nữ không lấy hai chồng
Lẽ nào tất tả đi khắp chín châu tìm vua khác
(Biện Giả)
Trong bài Biện Giả Nguyễn Du đối thoại để phản đối việc Giả Nghị chê
Khuất Nguyên không biết “đi khắp chín châu mà tìm vua khác”, nhà thơ cho rằng
mình là người hiểu rõ tấm lòng của Khuất Nguyên hơn Giả Nghị.
Giọng đối thoại tranh biện Nguyễn Du còn hướng vào những nhân vật là
những bậc đế vương, những tên gian thần. Giọng điệu đối thoại tranh biện gay gắt
nhằm vạch rõ những hành động xấu xa gian ác. Bài “Ky lân mộ” viết về Minh
113
Thành Tổ nhưng Nguyễn Du không đối thoại với Minh Thành Tổ mà lại hướng
cuộc đối thoại của mình với kỳ lân, nhưng thông qua đối thoại Nguyễn Du đã dần
dần làm rõ bản chất của một vị đế vương.
Trên đường đi Hà Bắc có tấm bia cao năm thước dựng bên đường cái
Trong có mấy chữ viết to theo lối chữ “chân”: “MỘ KỲ LÂN”
Ông lão bên đường bảo ta rằng:
“Năm Vĩnh Lạc thứ tư, con kỳ lân đem cống vua, chết giữa đường chôn tại đây
Quan trên cho dựng bia để ghi lại việc cũ”
Việc ấy đến nay đã lâu rồi
(Kỳ Lân mộ)
Những câu đầu của bài thơ là cuộc trò chuyện của Nguyễn Du với một
ông lão bên đường về sự tích của con kỳ lân được đem cống vua, bị chết dọc đường,
được chôn và lập bia ở Hà Bắc, nhưng nay chỉ còn lại tấm bia, không được đắp mộ
cũng chẳng trồng cây, lâu dần tấm bia xiêu vẹo rêu phủ mờ. Ở những dòng đầu tiên
giọng đối thoại tranh biện của Nguyễn Du trực tiếp hướng vào kỳ lân.
“Theo sách cổ kỳ lân là một giống linh thú, không giẫm lên vật sống,
không bẻ cành cây tươi, nên gọi là thú có nhân. Chỉ khi nào nước có thánh nhân thì
kỳ lân mới xuất hiện, do đó kỳ lân được tượng trưng cho điềm lành, báo hiệu thời
thịnh trị” [33, tr. 499].
Nguyễn Du thương cho thân phận con kỳ lân, một vật báo điềm lành
nhưng Nay xương thịt bỏ cho sâu kiến đục, xen giữa những lời đối thoại với kỳ lân
là lời vạch tội của Nguyễn Du về Minh Thành Tổ. Nguyễn Du nhận thấy Minh
Thành Tổ là một con người tàn ác, không đáng là một bậc nhân quân, qua từng lời
đối thoại những việc làm, hành động tàn bạo của Minh Thành Tổ được hiện ra cụ
thể, rõ nét. Nguyễn Du cho rằng nếu kỳ lân vì Minh Thành Tổ mà hiện ra “Thì mày
chỉ là đồ yêu quái, có gì đáng quý”. Chắc có lẽ kỳ lân đã nhận ra rằng Minh Thành
Tổ không phải thánh nhân, nên kỳ lân đã không hiện ra, và chết giữa đường như
vậy. Đối thoại với kỳ lân Nguyễn Du trực tiếp vạch trần bản chất tàn bạo của tên
vua từng đem quân xâm lược nước ta nhưng qua đó ông lại gián tiếp ca ngợi Lê Lợi
là vị vua thánh “Nếu bảo kỳ lân vì thánh nhân mà hiện ra/ Thì thời ấy sao không
lượn chơi sang phương Nam?”.
Nếu như Minh Thành Tổ là một ông vua tàn bạo bất nhân được Nguyễn
Du vạch trần qua lời đối thoại với kỳ lân. Thì kẻ gian hùng Tào Tháo được nhà thơ
114
khắc họa qua hai bài thơ gắn liền với hai địa danh nổi tiếng “Cựu Hứa Đô và Đồng
Tước đài”. Cả hai bài thơ giọng điệu đối thoại đều hướng vào nhân vật Tào Tháo
“Anh hùng một thuở, giờ nơi đâu”. Dưới cái nhìn của Nguyễn Du, Tào Tháo là kẻ
gian hùng với những mưu mô thâm độc. Con người dọc ngang một thưở giờ đã lùi
xa vào quá khứ, chỉ còn lại với thời gian là những dấu tích, tàng tích và những tham
vọng bất thành Chỉ thấy đài Đồng Tước ở bên sông/ Nền đài tuy còn nhưng đã
nghiêng lở”. Dừng chân đứng lại trên nền đài Nguyễn Du chỉ nghe thấy Gió lạnh
réo gào giận dữ, cỏ thu tàn úa/ Hai lầu Ngọc Long, Kim Phụng đều đã mịt mờ dấu
vết. Tào Tháo với những mưu mô toan tính mong chiếm lấy cả giang sơn, chiếm
đoạt người đẹp, nhưng trời không chiều lòng người, tất cả việc làm của Tào Tháo
đều thất bại. Đồng Tước đài có lộng lẫy đến nhường nào “Mà nàng Tiểu Kiều đến
già vẫn là vợ của Chu Lang”. Đối thoại với Tào Tháo, Nguyễn Du cho người đọc
thấy những nét tính cách nổi bật của Tào Tháo. Một con người đầy tham vọng, mưu
mô, thâm độc, gian ác, xảo quyệt coi thường vua lấn lướt các chu hầu. Vang lên
trong từng lời đối thoại là những lời mỉa mai châm biếm sâu cay của Nguyễn Du
đối với Thào Tháo.
Giọng đối thoại tranh biện của Nguyễn Du mang nhiều màu sắc, khi nhắc
đến những con người nghèo khổ, ông ngậm ngùi xót xa cho những cảnh đời bất
hạnh, nói đến giới cầm quyền Trung Hoa dường như giọng đối thoại có phần chua
cay hơn. Nguyễn Du không ngần ngại nói thẳng, nói thật nhằm vạch trần bản chất
giả tạo được che phủ bởi lớp vỏ hào nhoáng bên ngoài. Đối thoại với từng nhân vật
chính là lúc tác giả giãi bày những suy nghĩ trong lòng. Nguyễn Du luôn đứng trên
lập trường chính nghĩa để bênh vực, bảo vệ những truyền thống những giá trị tốt
đẹp, đồng thời phê phán, lên án những cái ác, cái xấu làm ảnh hưởng đến cuộc sống
của con người. Nguyễn Du dần nhận ra rằng xã hội mà con người đang sống là một
xã hội đa chiều, cái đẹp/ cái xấu, cái ác/ cái tốt luôn tồn tại song song, con người
đang sống giữa làn ranh mong manh đó. Giọng điệu đối thoại tranh biện hướng đến
những con người trong quá khứ, thông qua đối thoại nhà thơ muốn gửi gắm thông
điệp với những con người tương lai. Sống là phải biết yêu thương, sống với hiện tại
nhưng phải soi rọi đến tương lai và hãy một lần nhìn về quá khư. Quá khứ - hiện
tại- tương lai là những nhịp cầu gặp gỡ, là tấm gương phản chiêu hành trình của một
cuộc đời con người.
115
3.3.3. Giọng điệu u buồn
Đọc những vần thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, ta bắt gặp giọng điệu u
buồn, phảng phất đâu đó là nỗi buồn của thời cuộc. Những bài thơ cổ phong là
những dòng tâm sự của hai nhà thơ, về cuộc sống, về con người, về thời đại, về xã
hội mà hai nhà thơ đang sống. Đối với Nguyễn Trãi có những lúc ông muốn quên đi
thực tại, để tìm về với núi rừng, tìm về với thiên nhiên, nhưng ông vẫn không ngừng
nghĩ đến cuộc sống của những con người ngoài kia, luôn lo cho sự an nguy của đất
nước, nên trong lòng nhà thơ luôn có những trăn trở những dự cảm nhói buốt. Nhà
thơ đau buồn khi nghĩ đến cảnh sống của người dân nơi phương xa.
Cửu trùng chẩn niệm cập hà manh
Vạn lý cẩm y dao trú tiết
Sương phong quyển địa khí hoành thu
(Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
(Chín trùng thương xót dân phương xa
Muôn dặm áo gấm sai trú tiết
Gió sương cuốn đất khí thu hăng)
Nhìn thấy cảnh sống của những người dân đen ngoài kia nhà thơ đã ngậm
ngùi thương xót, buồn thương cho những số phận của con người, đối mặt với bao
khó khăn của cuộc sống.
Trong thơ cổ phong Nguyễn Du thấy rõ giọng điệu buồn thương, nhất là khi
ông viết về những con người đói khổ lầm than. Nhìn thấy cảnh sống của người dân, thi
nhân không khỏi ngậm ngùi, chua xót đắng cay. Nhà thơ đau lòng khi tận mắt chứng
kiến cảnh sống cơ cực của người dân, thơ ông không thiếu những giọt nước mắt, ngập
tràn trong những bài thơ là tình thương yêu của tác giả dành cho những kiếp người.
Nhìn thấy cảnh mấy mẹ con người ăn xin, cảnh ông lão mù hát rong, những
hình ảnh ấy luôn ám ánh tâm hồn Nguyễn Du để lại trong lòng thi nhân nỗi buồn
thương vô hạn.
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần
(Thái Bình mại giả ca)
(Ta chợt thấy vậy vừa buồn đau vừa chua xót
Phàm người ta thà muốn chết, không ai muốn nghèo)
116
Giọng thơ như bỗng chùng xuống, phảng phất đâu đó là sự buồn thương,
thấy cảnh đau lòng Nguyễn Du không đành lòng bước đi, trong lòng dâng lên một
niềm thương cảm mạnh mẽ.
Viễn lai sử ngã tâm mang nhiên
(Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích)
(Khiến ta từ xa đến lòng thấy bùi ngùi)
Buồn đau đến quặn lòng khi ông tận mắt chứng kiến cảnh bốn mẹ con người
ăn xin ngồi lân la cả ngày mà trong giỏ chỉ có rau lê, rau hoắc lẫn với cám. Trong
khi đó Nguyễn Du lại thấy một cảnh tượng khác.
Hành nhân diệc thê hoàng
Tạc tiêu Tây hà dịch
Cung cụ hà trương hoàng
(Sở kiến hành)
(Người đi đường lòng quặn đau
Đêm qua ở trạm Tây Hà
Tiệc tùng cung đốn sao mà linh đình thế)
Khi viết về những con người nghèo khổ, Nguyễn Du không đứng trên lập
trường của giai cấp quan lại để nhìn nhận hay đánh giá sự việc. Mặc dù lúc này
trong cương vị là một chánh sứ nhưng Nguyễn Du lại đứng ở vị thế của một người
dân bình thường như bao người dân khác, nên ông mới hiểu được những cảnh sống
cơ cực mà người dân gặp phải. Để rồi ngoài sự đau xót, nhà thơ còn đồng cảm, chia
sẻ sâu sắc với những mảnh đời nghèo khổ. Giọng thơ luôn có sự u buồn, buồn cho
những con người, buồn cho những cảnh đời, có lúc nhà thơ ao ước Ai vẽ giùm bức
tranh/ Dâng thánh hoàng xem thử .
Nói đến số phận của những con người tài hoa, giọng thơ Nguyễn Du cũng
phảng phất nét u buồn. Thời gian trôi qua làm mọi thứ thay đổi, làm nhà thơ giật
mình hoảng hốt, khi nhìn thấy sự thay đổi của cô Cầm, xưa nổi tiếng tài hoa một
thời mà nay “thần sắc khô khan”,“đôi mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm”.
Nguyễn Du nhìn thấy đau lòng “lệ thầm rơi”.
Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
(Long Thành cầm giả ca)
117
(Ai biết rằng đó chính là người tài danh bậc nhất của kinh thành ngày xưa
Khúc xưa giọng mới lệ thầm rơi
Tôi lắng nghe, lòng đau xót)
Và một lần nữa Nguyễn Du đã khóc, những giọt nước mắt của ông thể hiện
nỗi buồn thương vô hạn, khóc người và khóc mình.
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân tại
Thuấn tức bách niên năng kỷ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y
(Long Thành cầm giả ca)
(Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan hết cả rồi
Chỉ còn sót lại một người ca múa
Trăm năm như chớp mắt có là bao
Đau lòng việc cũ lệ thấm áo)
Thời gian trôi đi thật nghiệt ngã lạnh lùng, ông nhìn thấy bước đi của thời
gian làm thay đổi mọi thứ: Tây Sơn tiêu vong, chính ông giờ đây đầu cũng bạc
trắng và người kĩ nữ thì nhan sắc tàn tạ. Với giọng điệu ngậm ngùi, Nguyễn Du
đang tiếc thương cho một cuộc đời bất hạnh của cô Cầm, hay chính là sự thương
cảm cho chính thân phận nhà thơ. Cái nhìn hôm nay đã được nhìn từ cái hôm qua sự
lụi tàn được phản chiếu từ sự vàng son của quá khứ. Nguyễn Du không chỉ khóc
thương cho số phận của người con gái tài hoa trong Long Thành cầm giả ca, mà còn
dành một tình cảm đặc biệt đối với Khuất Nguyên.
Hồn hề! hồn hề! hồ bất qui?
Đông tây nam bắc vô sở y
Thướng thiên há địa giai bất khả
Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi?
(Phản chiêu hồn)
Hồn ơi! hồn ơi! sao không về?
Đông, tây, nam, bắc không có nơi nào nương tựa
Lên trời xuống đất đều không được
Còn trở về thành Yên, thành Sính làm gì?)
Mở đầu bài thơ là câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ cất lên như một
tiếng khóc. Giọng điệu bốn câu đầu gần với sự ngơ ngác, bàng hoàng. Câu mở đầu
118
mang giọng giục giã, ân cần, Hồn ơi! hồn ơi! sao không về? ba câu còn lại giọng
điệu trở nên rời rạc, hụt hẫng. Bốn câu thơ là một tiếng gọi hồn nghe thảm thiết ai
oán, một tiếng gọi ai oán nhưng ẩn sau tiếng gọi hồn là lời khuyên chân thành của
thi nhân đối với linh hồn Khuất Nguyên đừng về nữa. Nguyễn Du nhận ra dù có trở
về thì hồn cũng không có nơi nương tựa. Để chứng minh cho lời nói của mình, nhà
thơ đã mở ra các chiều không gian khác nhau. Đầu tiên là chiều rộng “Đông tây
nam bắc” bốn hướng đều không có chỗ cho Khuất Nguyên đặt chân, tiếp đến là
chiều cao “Thướng thiên há địa” cũng không phải nơi thích hợp cho hồn nương
tựa, và cuối cùng là chiều hẹp “Yên, Dĩnh thành trung” ngay cả cố quốc, cố đô của
Khuất Nguyên cũng chẳng còn đất cho hồn ẩn náu. Cuộc sống hiện thực đương thời
mọi thứ đều đã thay đổi, nó dần phủ lên những kiếp người nhỏ bé những màn đêm
mù mịt. Xã hội đương thời là cái xã hội “cắn xé thịt người ngọt xớt như đường”.
Con người tồn tại giữa làn ranh mong manh của sự sống và cái chết, một xã hội như
vậy đâu còn chỗ cho hồn trở về. Kết thúc bài thơ là lời tố cáo hiện thực đau thương,
cả màn trời dường như đang tối sầm lại, Hồn Khuất Nguyên mà về sẽ chẳng biết
nương tựa vào đâu. Một câu hỏi nhức nhối như càng xoáy sâu vào lòng người Hồn
hề! hồn hề! nại hồn hà ? Câu hỏi vang lên buộc chúng ta cúi đầu suy nghĩ mà buồn,
mà thương, mà căm giận cho cái xã hội phong kiến mục nát không chỉ ở thời của
Khuất Nguyên mà ngay trong thời đại Nguyễn Du cũng vậy.
Không chỉ buồn cho người, Nguyễn Du còn buồn cho chính mình. Trong
những tháng ngày ở đất khất quê người Nguyễn Du lúc nào cũng nhớ về quê hương
gia đình, phảng phất trong những lời thơ là niềm mong ngóng sớm ngày trở về, là
nỗi buồn không biết chia sẻ cùng ai.
Thùy gia hoành địch bằng lan can
Nhị thập thất nhân cộng hồi thư
Cố hương dĩ cách vạn trùng san
(Thái Bình thành hạ văn xuy địch)
(Nhà ai (có người) tựa lan can thổi sáo
Cả hai mươi bảy người (trên thuyền) đều quay đầu nhìn lại
Quê nhà đã cách muôn trùng khơi)
119
Giọng thơ Nguyễn Du trầm xuống khi nghe tiếng sáo vang vọng nơi xa khiến
nhà thơ quay đầu nhìn lại, Nguyễn Du càng thêm thương nhớ núi Hồng, sông Lam.
Thanh thần vọng Lam Giang
(Lam Giang)
(Sớm mai trong sông Lam)
Hình ảnh quê nhà luôn hằn sâu trong tâm trí Nguyễn Du, nhớ đến quê nhà
khiến Nguyễn Du buồn đau khi nhớ về hình ảnh của người vợ.
Thệ thủy nhật dạ lưu
Du tử hành vị qui
Kinh niên bất tương kiến
Hà dĩ úy tương ti (tư)
Mộng trung phân minh kiến
(Ký mộng)
(Dòng nước ngày đêm chảy
Du tử đi chưa về
Bao năm không gặp nhau
Lấy gì an ủi nỗi nhớ nhau
Trong mộng thấy rõ ràng)
Nguyễn Du đau buồn trước những nỗi khổ mà vợ phải trải qua.
Thỉ ngôn khổ bệnh hoạn
Kế ngôn cửu biệt ly
Đái khấp bất chung ngữ
(Ký mộng)
(Thoạt đầu nói khổ vì bệnh
Kế đó nói xa cách nhau lâu
Nghẹn ngào khóc không nói hết câu)
Bài thơ nói lên nỗi buồn, nỗi đau giấu kín bấy lâu trong lòng nhà thơ. Bằng
mộng Nguyễn Du đã rút ngắn được khoảng cách nhớ thương, thể hiện niềm cảm
thông và tình yêu sâu sắc của mình dành cho người vợ đã khuất. Trong những ngày
tháng sống ở xứ người không có những giây phút nào Nguyễn Du không nhớ đến
gia đình, quê hương. Dù có xa cách về mặt không gian địa lí nhưng tình cảm
Nguyễn Du dành cho quê hương, gia đình vẫn không hề thay đổi. Để rồi khi vui hay
khi buồn ông luôn hướng về núi Hồng, sông Lam, nơi gắn bó bao kỉ niệm, nơi có vợ
120
con ông đang sống những ngày tháng đói khổ vật lộn với chốn cồn khô, cát bạc
nhưng cũng là nơi đem đến sự bình yên và thanh thản trong tâm hồn.
Những bài thơ cổ phong của Nguyễn Trãi cũng như Nguyễn Du giúp người
đọc có những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời cũng như thời đại mà hai nhà thơ
đang sống. Giọng thơ u buồn của Nguyễn Du có lúc không kém phần chua cay, khi
viết về số phận của những con người, với ngòi bút hiện thực sắc sảo, ông lên tiếng đả
kích tận gốc xã hội phong kiến. Nguyễn Du đau buồn, cho số phận của những con
người phải sống một cuộc đời vất vả, thương cảm cho những người già thân hình yếu
ớt nhưng phải vật lộn với cuộc sống để kiếm tìm những bữa ăn qua ngày, và những
giọt nước mắt rơi khi ông nhắc đến những người tài phải chịu một đời oan khuất.
Tìm hiểu thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật trong thơ cổ phong
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du giúp ta có cái nhìn toàn diện và hiểu rõ những nội dung tư
tưởng được thể hiện trong những bài thơ. Thấy được tâm hồn Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du vô cùng tinh tế sâu sắc, cùng với một trái tim tràn đầy tình yêu thương, một trí
tuệ uyên bác. Hai nhà thơ đã để lại cho đời một giá trị văn hóa tinh thần rất lớn,
những giá trị ấy mãi mãi trường tồn với thời gian.
121
PHẦN KẾT LUẬN
1. Thơ chữ Hán là một trong những thành tựu tiêu biểu trong sự nghiệp sáng
tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Đặc biệt khi tìm về với những vần thơ cổ phong
trong thơ chữ Hán, giúp người đọc thấy được những đóng góp của hai tác giả đối
với thể thơ cổ phong. Nhóm thơ cổ phong tuy chỉ chiếm số lượng khá khiêm tốn so
với các thể thơ khác nhưng cũng góp phần thể hiện được phong cách, cá tính
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du.
Luận văn đã đi sâu tìm hiểu lí giải về nguồn gốc, đưa ra cách hiểu riêng của
mình về khái niệm thơ cổ phong, nêu lên những đặc điểm cơ bản mà thơ cổ phong
thường dùng. Khái quát những nét chính về cuộc đời con người Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du.
2. Đến với thế giới nghệ thuật thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du chúng
tôi muốn tìm đến những nét thi pháp chung và riêng được thể hiện trong nhóm thơ cổ
phong của hai tác giả. Thấy được quan niệm nghệ thuật về con người, phát hiện
những điểm nhìn tích cực tiến bộ về cuộc đời, thế giới và bản thân. Con người nghèo
khổ với những vất vả trong cuộc sống mưu sinh, luôn bị ám ảnh bởi đói rét, ôm đau,
bệnh tật, cái chết luôn rình rập đe dọa cuộc sống. Con người tài hoa bất hạnh hiện lên
với những vẻ đẹp của tài năng, những phẩm chất đáng quý đáng trân trọng. Nguyễn
Du cảm thông với số phận của người phụ nữ tài hoa, kính trọng và yêu quý các bậc
hiền tài. Con người độc ác, xấu xa với bản tính gian ác, mưu mô xảo quyệt, những
hành động việc làm luôn bị người đời khinh bỉ xem thường. Khi nhắc đến những con
người này Nguyễn Du có phần căm tức, oán ghét đồng thời bóc trần bản chất xấu xa
của họ. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ cổ phong Nguyễn Du đã phản
ánh một cách chân thực sinh động các mặt của đời sống, góp phần giúp người đọc có
cái nhìn bao quát về xã hội phong kiến ở đất nước Trung Hoa.
Nguyễn Trãi viết về những nhân vật lịch sử Trung Hoa với cảm hứng hoài
cổ tiếc nhớ những người xưa, thể hiện sự kính trọng đối với các bậc tiền nhân tiền
bối. Nhân vật lịch sử xuất hiện trong thơ cổ phong Nguyễn Du khá đa dạng tầng
lớp: Khuất Nguyên với tấm lòng trung nghĩa, Liêm Pha con người tài năng, Minh
Thành Tổ một đế vương tàn bạo, Tào Tháo một kẻ gian hùng, Tô Tần kẻ thuyết
khách tham vọng vinh hoa phú quý, Dự Nhượng, Kinh Kha là những bề tôi trung
…mỗi nhân vật là đại diện cho những giai tầng khác nhau trong xã hội. Từ những
122
nhân vật lịch sử Trung Hoa, Nguyễn Du trân trọng những bậc hiền tài, ca ngợi
những con người dám xả thân vì sự nghiệp báo quốc, lên án, mỉa mai vạch tội
những ông vua gian ác, những tên lọng thần, kẻ tiểu nhân.
3. Thời gian, không gian cũng là một nét thể hiện tư duy trong sáng tạo nghệ
thuật của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Thời gian, không gian trong thơ cổ phong có
tính chất bức phá mạnh mẽ thể hiện theo mạch suy nghĩ cảm xúc chủ quan của nhà
thơ. Thời gian nghệ thuật thể hiện những suy tư trăn trở, những chiêm nghiệm và
nhận thức của con người về cuộc đời. Không gian nghệ thuật khắc sâu tâm trạng
của con người. Không gian rộng lớn trong thơ Nguyễn Trãi là không gian của núi
rừng với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, con người được trải lòng trong bầu không
khí mát lành, tận hưởng những vẻ đẹp của thiên nhiên. Không gian rộng lớn trong
thơ Nguyễn Du được bộc lộ hết tất cả bản chất của nó, dữ dội, nguy hiểm, lạnh lẽo,
hiu hắt. Không gian nhỏ hẹp đưa con người trở về với cuộc sống đời thường với
những bộn bề lo toan.
4. Thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du còn được thể hiện qua thể
thơ, ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật. Thể thơ phóng túng tự do, không bị gò bó
bởi câu chữ, không bị trói buộc bởi các quy định về âm thanh nên thơ cổ phong có
ưu thế trong việc phản ánh chân thực đời sống, bộc lộ tâm trạng con người. Dùng
nhiều thanh trắc, vần trắc tạo nên nhịp điệu khỏe khoắn, mạnh mẽ trong từng câu
thơ, bài thơ. Sử dụng từ láy vừa có giá trị tạo nghĩa, vừa có giá trị tạo hình, tạo cảm
giác mạnh về âm thanh. Dụng điển đem đến hình thức tiết kiệm lời, nhưng lại có ý
nghĩa khái quát cao. Lặp từ lặp ngữ góp phần gợi liên tưởng cảm xúc, tạo nhạc điệu
cho những vần thơ. Câu hỏi tu từ xuất hiện trong thơ chính là chìa khóa để giải mã
nội dung bài thơ, nói lên những suy tư, trăn trở, tình cảm, cảm xúc của tác giả.
Giọng điệu nghệ thuật thể hiện phong cách riêng, cá tính riêng của chủ thể trữ tình.
Như vậy, tìm hiểu thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du giúp bản thân khám
phá những nét mới lạ, thấy được cái hay cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật. Từ đấy càng
hiểu, yêu mến, kính trọng tài năng của hai đại thi hào. Vận dụng lý thuyết thi pháp và
thi pháp học, để khảo sát thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, chúng tôi cố gắng
mở ra hướng nghiên cứu mới trong thơ của hai tác giả. Từ góc nhìn thi pháp chúng tôi
tìm hiểu các phương diện: quan niệm nghệ thuật về con người; thời gian không gian
nghệ thuật; thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu… góp phần nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá
thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du nói chung và thơ cổ phong nói riêng.
123
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1943) Khảo luận về Kim Vân Kiều, Nhà xuất bản Quan Hải
tùng thư.
2. Đào Duy Anh (2001), Từ điển Hán Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Diệp Quang Ban (2008), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Huệ Chi (1983), Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ
chữ Hán, trích Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam, NXB Tác phẩm mới.
5. Nguyễn Huệ Chi (1965), “Tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du”, Tạp chí văn
học, (11), tr. 48.
6. Trương Chính (Chủ biên) (1978), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Giáo dục,
Hà Nội
7. Mai Ngọc Chừ (chủ biên) (2007), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
8. Xuân Diệu (2006), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Kim Đồng.
9. Ngô Viết Dinh (Tuyển chọn và biên tập) (2000), Đến với thơ chữ Hán Nguyễn
Du, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
10. Trịnh Bá Đĩnh (1998), Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
11. Phạm Văn Đồng – Võ Nguyên Giáp (1982), Nguyễn Trãi người anh hùng dân
tộc vĩ đại nhà văn hóa kiệt xuất ,NXB sự thật, Hà Nội.
12. Nguyễn Thạch Giang – Trương Chính (2001), Nguyễn Du niên phổ và tác
phẩm, Nxb Văn hóa thông tin.
13. Nguyễn Thị Bích Hải (2006) Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa, Huế.
14. Nguyễn Thanh Hải (2007), Thơ chữ Hán Nguyễn Du và Đỗ Phủ qua cái nhìn
so sánh, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn Đại học Vinh.
15. Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam văn học sử yếu, Nha học chính Đông
Pháp, Hà Nội, 1943; tái bản Nxb Hội Nhà văn.
16. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, (chủ biên) (1992), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Cao Xuân Hạo (2006), Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb Giáo dục
Hồ Chí Minh.
18. Phạm Ngọc Hiền (2016), Thi pháp học (chuyên luận văn học), Nxb Văn học.
19. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới.
20. Phạm Thị Ngọc Hoa (2007), “Nghệ thuật sử dụng điển trong Ức Trai thi tập
của Nguyễn Trãi”, Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (81).
21. Nguyễn Thái Hòa (2006) Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học, Nxb Giáo
124
dục, Hà Nội.
22. Trịnh Hoành (2009), Sổ tay điển văn học, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
23. Bùi Thị Hồng (2014), Thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Vương Duy dưới góc
nhìn so sánh, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
24. Diên Hương (2003), Từ điển thành ngữ điển tích, Nxb Văn hóa thông tin.
25. Đinh Thái Hương, Chu Huy, Nguyễn Hữu Sơn (2008), Điển tích văn học
trong nhà trường, Nxb giáo dục.
26. Đinh Thị Khang (2012), “Thơ Nguyễn Trãi viết về giai nhân”, tạp chí
VHNT số 333 tháng 3.
27. Đinh Gia Khánh (Chủ biên) (2001), Điển cố văn học, Nxb văn học.
28. Vũ Khiêu (1984), Thơ văn Cao Bá Quát, Nxb Văn học, Hà Nội.
29. Hoàng Khôi (Biên dịch) (2001), Nguyễn Trãi toàn tâp, Nxb Văn hóa thông tin.
30. Bùi Kỷ (1932), Quốc văn cụ thể, Tân Việt Nam thư xã, Hà Nội.
31. Đinh Trọng Lạc (1997), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
32. Nguyễn Thị Lành (2013), Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du,
Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
33. Mai Quốc Liên (1996), Nguyễn Du toàn tập, (tập 1) NXB văn học trung tâm
nghiên cứu quốc học, Hà Nội.
34. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ
XIX, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
35. Nguyễn Lộc (1990), Nguyễn Du con người và cuộc đời, Nxb Đà Nẵng.
36. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
37. Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb
Thanh Niên.
38. Bùi Văn Nguyên (1976), Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam, tập 2, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại
, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
40. Trần Văn Nhĩ (2007), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn nghệ, Hà Nội
41. Nhiều tác giả (1997), Từ điển Bách Khoa Việt Nam (Tập 1), trung tâm biên
soạn từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
42. Nhiều tác giả (2000), Đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh Niên.
43. Nhóm Lê Quý Đôn (1957) Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nxb. Xây
dựng, H.
125
44. Nhóm Văn Sử Địa (biên soạn) (1959), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nxb
Văn Sử Địa, Hà Nội.
45. Bùi Thức Phước (2015), Nguyễn Du (Thơ Hán Nôm), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
46. Nguyễn Ngọc San (Chủ biên) (2010), Từ điển giải thích điển cố văn học dùng
trong nhà trường, Nxb Giáo dục Việt Nam.
47. Nguyễn Hữu Sơn (2007), Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
48. Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo (2006), Cao Bá Quát về tác gia và tác phẩm,
Nxb Giáo dục.
49. Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (2003), Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm,
Nxb Giáo dục.
50. Trần Đình Sử, Tuyển tập, tập 1 (2005), Những công trình thi pháp học, Nxb
Giáo dục.
51. Trần Đình Sử, Tuyển tập, tập 2 (2005), Những công trình Lý luận và phê bình
văn học, Nxb Giáo dục.
52. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
53. Trần Đính Sử (2002), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Huế.
54. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
55. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
56. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại tác giả tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam (Tập 2), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
57. Lý Toàn Thắng (2015), Thi luật thơ lục bát trong Truyện Kiều, Nxb Giáo dục
Việt Nam.
58. Hoài Thanh, “Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán”, Tạp chí văn
nghệ thánh 3/ 1960.
59. Trần Nho Thìn (2009), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,
Nxb Giáo dục Việt Nam.
60. Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1970), Nhóm tuyển dịch gồm Vũ Khiêu và nhiều
người khác, in lần thứ nhất, Nxb Văn học, Hà nội.
61. Lương Duy Thứ (2005), Thi pháp thơ Đường, Nxb Đại học Sư phạm TP. Hồ
Chí Minh.
62. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thế giới thi ca Nguyễn Du, Nxb Kinh Thi, Sài Gòn.
63. Hoàng Thị Thu Thủy (2002). Thi pháp thơ Nôm Nguyễn Trãi, Luận án tiến sĩ
Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM.
126
64. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học , Nxb Trẻ.
65. Phan Thị Bích Vân (2003), Hình tượng nghệ thuật về con người trong Bắc
hành tạp lục, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
66. Đoàn Thị Thu Vân, Lê Trí Viễn, Lê Thu Yến, Lê Văn Lực (2009), Văn học
Việt Nam trung đại Việt Nam – Thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX, Nxb Giáo dục,
TP. Hồ Chí Minh.
67. Lê Trí Viễn (1962), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, (Tập II). Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
68. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội.
69. Viện sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Viện văn học (1965), Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
71. Phạm Tuấn Vũ (2005), Tìm hiểu văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
72. Lê Thu Yến (2002), Nhà văn trong nhà trường Nguyễn Du, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
73. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb
Thanh Niên.
74. Lê Thu Yến (2000), Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, Nxb.
Giáo dục.
Tài liệu Website:
75. Phạm Trọng Chánh, “Nguyễn Du qua Hàm Đan đọc bia Liêm Pha”, Website
http://chimviet.free.fr.
76. Trần Thị Hoa Lê, “Thơ cổ phong chữ Hán của Nguyễn Du và cuộc đối thoại
trường thiên về nhân thế”, Website http://nguvan.hnue.edu.vn.
77. Trần Thị Hoa Lê, “Cảm hứng đối thoại – phản biện trong Bắc hành tạp lục”
Website http://www.vanhoanghean.com.vn
78. Nghiên cứu văn học, “Tiếp cận tác phẩm Long Thành cầm giả ca của Nguyễn
Du từ góc độ liên văn bản”, Website https://thuyduongtrinh1210.wordpress.com.

More Related Content

PDF
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
PDF
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
PDF
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
PDF
Luận văn: Bi cảm trong tiểu thuyết Kawabata Yasunari, HAY
PDF
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
PDF
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
PDF
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
PDF
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn trần thùy mai và quế hương
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Bi cảm trong tiểu thuyết Kawabata Yasunari, HAY
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn trần thùy mai và quế hương

What's hot (20)

PDF
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
PDF
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
PDF
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
PDF
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
PDF
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
PDF
Cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975.pdf
PDF
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
DOCX
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
PDF
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
PDF
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
PDF
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
PDF
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
PDF
Phong cách nghệ thuật truyện ngắn thạch lam luận văn th s. văn học 6793262
PDF
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
PDF
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
PDF
Luận án: Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam (1986-2010)
PDF
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
PDF
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
PDF
Thế giới nghệ thuật trong trong tiểu thuyết Bùi Anh Tấn và Vũ Đình Giang
PDF
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975.pdf
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Phong cách nghệ thuật truyện ngắn thạch lam luận văn th s. văn học 6793262
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam (1986-2010)
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Thế giới nghệ thuật trong trong tiểu thuyết Bùi Anh Tấn và Vũ Đình Giang
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Ad

Similar to Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY (20)

PDF
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
PDF
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
PDF
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
PDF
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
PDF
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
PDF
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
PDF
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
PDF
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
PDF
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản
PDF
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
PDF
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
DOC
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
PDF
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
PDF
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
PDF
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
PDF
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
PDF
Luận án: Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2012
DOC
Luận văn thạc sĩ ngữ văn- Thơ Cổ Phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du Từ Góc Nhìn Thi...
PDF
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
PDF
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận án: Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2012
Luận văn thạc sĩ ngữ văn- Thơ Cổ Phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du Từ Góc Nhìn Thi...
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Ad

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

DOC
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
DOC
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
DOC
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
DOC
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
DOC
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
DOC
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
DOC
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
DOC
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
DOC
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
DOC
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
DOC
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
DOC
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
DOC
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
DOC
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
DOC
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
DOC
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
DOC
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
DOC
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
DOC
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
DOC
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc

Recently uploaded (20)

PDF
NGÂN HÀNG CÂU HỎI TÁCH CHỌN LỌC THEO CHUYÊN ĐỀ TỪ ĐỀ THI THỬ TN THPT 2025 TIẾ...
PDF
Slide bài giảng môn Tâm lý Học Giao tiếp - Chủ đề Phong Cách Giao Tiếp
PDF
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 4 năm 2025 - 2026 có đáp án
PDF
8. Đỏ da toàn thân do tổn thương cơ bản.pdf
PPTX
bai thuyet trinh Presentation-PPNCKH.pptx
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
PPTX
Chương 4: Vận dụng tư tưởng HCM Vào công tác xây dựng Đảng và Nhà nước
PDF
BÀI GIẢNG POWERPOINT CHÍNH KHÓA THEO LESSON TIẾNG ANH 11 - HK1 - NĂM 2026 - G...
PDF
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 THEO FORM THI MỚI BGD - TẬP 2 - NĂM HỌC 2025-202...
PDF
FULL TN LSĐ 2024 HUIT. LICH SU DANGGGGGG
PDF
Thong bao 128-DHPY (25.Ke hoach nhap hoc trinh do dai hoc (dot 1.2025)8.2025)...
PPTX
Cách viết mô tả chi tiết và thêm nhiều thẻ để tăng điểm số nội dung trên hệ t...
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 10 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
DOCX
bao cao thuc tap nhan thuc_marketing_pary2
PDF
DANH SACH TRUNG TUYEN DHCQ_DOT 1_2025_TUNG NGANH.pdf
PDF
10 phương pháp rèn luyên tâm trí vững vàng • Sống Vững Vàng #1
PPTX
THUÊ 2025 - CHƯƠNG 1 TỔNG QUANưqeqweqw.pptx
PPTX
Báo cáo Brucella sữa - trọng nghĩa..pptx
DOCX
2021_CTDT_CNTT_150TC HCMUTE ngành Công Nghệ Thông Tin
DOCX
123 ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ I TOÁN 6 (1).docx
NGÂN HÀNG CÂU HỎI TÁCH CHỌN LỌC THEO CHUYÊN ĐỀ TỪ ĐỀ THI THỬ TN THPT 2025 TIẾ...
Slide bài giảng môn Tâm lý Học Giao tiếp - Chủ đề Phong Cách Giao Tiếp
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 4 năm 2025 - 2026 có đáp án
8. Đỏ da toàn thân do tổn thương cơ bản.pdf
bai thuyet trinh Presentation-PPNCKH.pptx
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
Chương 4: Vận dụng tư tưởng HCM Vào công tác xây dựng Đảng và Nhà nước
BÀI GIẢNG POWERPOINT CHÍNH KHÓA THEO LESSON TIẾNG ANH 11 - HK1 - NĂM 2026 - G...
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 THEO FORM THI MỚI BGD - TẬP 2 - NĂM HỌC 2025-202...
FULL TN LSĐ 2024 HUIT. LICH SU DANGGGGGG
Thong bao 128-DHPY (25.Ke hoach nhap hoc trinh do dai hoc (dot 1.2025)8.2025)...
Cách viết mô tả chi tiết và thêm nhiều thẻ để tăng điểm số nội dung trên hệ t...
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 10 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
bao cao thuc tap nhan thuc_marketing_pary2
DANH SACH TRUNG TUYEN DHCQ_DOT 1_2025_TUNG NGANH.pdf
10 phương pháp rèn luyên tâm trí vững vàng • Sống Vững Vàng #1
THUÊ 2025 - CHƯƠNG 1 TỔNG QUANưqeqweqw.pptx
Báo cáo Brucella sữa - trọng nghĩa..pptx
2021_CTDT_CNTT_150TC HCMUTE ngành Công Nghệ Thông Tin
123 ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ I TOÁN 6 (1).docx

Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM PHẠM THỊ HIẾU THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thừa Thiên Huế, Năm 2018
  • 3. i ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM PHẠM THỊ HIẾU THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số : LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGÔ THỜI ĐÔN Thừa Thiên Huế, Năm 2018
  • 4. ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kì một công trình nào khác. Tác giả luận văn Phạm Thị Hiếu
  • 5. iii Lời Cảm Ơn Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân còn nhờ có sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của các quý thầy cô giáo, của gia đình và bạn bè. Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến Thầy giáo TS. Ngô Thời Đôn người đã tận tâm hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Tôi cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô giáo khoa Ngữ văn, phòng Đào tạo Sau Đại học, Đại học Huế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Cuối cùng tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu cùng các đồng nghiệp nơi công tác Trường THPT Vinh Xuân đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn! Huế, tháng 9 năm 2018 Tác giả luận văn Phạm Thị Hiếu
  • 7. 1 MỤC LỤC PHỤ BÌA .................................................................................................................... i LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... ii LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................... iii MỤC LỤC..................................................................................................................1 DANH MỤC BẢNG..................................................................................................3 PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................4 1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................4 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................5 2.1. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi ........................................................................5 2.2. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Du..........................................................................7 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................10 3.1. Đối tượng nghiên cứu: .......................................................................................10 3.2. Phạm vi nghiên cứu............................................................................................10 4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................10 5. Đóng góp của đề tài...............................................................................................11 6. Bố cục của luận văn ..............................................................................................11 PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................12 Chƣơng 1. THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU TRONG MẠCH THƠ CỔ PHONG TRUNG ĐẠI VIỆT NAM ........................................12 1.1. Một số vấn đề về thơ cổ phong ..........................................................................12 1.1.1. Nguồn gốc của thơ cổ phong ..........................................................................12 1.1.2. Khái niệm thơ cổ phong..................................................................................13 1.1.3. Thơ cổ phong và sự xuất hiện thơ cổ phong chữ Hán trong văn học trung đại .....17 1.2. Thi pháp và thi pháp học....................................................................................20 1.3. Nguyễn Trãi và thơ chữ Hán..............................................................................23 1.3.1. Cuộc đời ..........................................................................................................23 1.3.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi........................................................................25 1.4. Nguyễn Du và thơ chữ Hán................................................................................28 1.4.1. Cuộc đời ..........................................................................................................28 1.4.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du .........................................................................30
  • 8. 2 Chƣơng 2. THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU.......................................................................................................... 33 2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ............................................................................................................................. 33 2.1.1. Quan niệm về con người đời tư trong thơ cổ phong Nguyễn Du................... 33 2.1.2. Quan niệm về con người - nhân vật lịch sử Trung Hoa trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du......................................................................................... 57 2.2. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ............................................................................................................... 65 2.2.1. Không gian nghệ thuật .................................................................................. 65 2.2.2. Thời gian nghệ thuật....................................................................................... 77 Chƣơng 3. THỂ THƠ, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU ........................................................................... 82 3.1. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ở phương diện thể thơ ...................... 82 3.2. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ở phương diện ngôn ngữ.................. 86 3.2.1. Từ vựng .......................................................................................................... 87 3.2.2. Biện pháp tu từ cú pháp.................................................................................. 96 3.3. Giọng điệu nghệ thuât ..................................................................................... 103 3.3.1. Giọng điệu khái quát, triết lí......................................................................... 103 3.3.2. Giọng điệu đối thoại - tranh biện ................................................................. 109 3.3.3. Giọng điệu u buồn........................................................................................ 115 PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................... 121 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 123
  • 9. 3 DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Các nhân vật lịch sử được nhắc đến trong thơ cổ phong Nguyễn Du......57 Bảng 3.1. Những bài thơ và câu thơ có sử dụng từ láy trong thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du..........................................................................................87
  • 10. 4 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Khi nhắc đến những tác giả của nền văn học trung đại Việt Nam, ta sẽ không thể nào quên hình ảnh của một con người chịu nhiều oan khiên trong cuộc sống, với nỗi đau mà sau 20 năm mới được hóa giải. Người mà tôi muốn nói đến chính là đại thi hào Nguyễn Trãi, một con người với tâm hồn trong sáng, một trái tim luôn tràn đầy lòng nhiệt huyết và tình yêu thương, suốt cả cuộc đời luôn cống hiến hết mình cho dân tộc. Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến một con người tài năng hiếm có: nhà tư tưởng, nhà chính trị - nhà quân sự, nhà ngoại giao. Nguyễn Trãi còn được người đời biết đến với tư cách nhà một nhà văn nhà thơ kiệt xuất. Ông để lại một sự nghiệp thơ văn khá lớn được sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm, những áng thơ văn có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử văn học nước nhà. Chính vì vậy, Nguyễn Trãi được ca ngợi: “là ngôi sao sáng trên văn đàn Việt Nam thế kỉ XV, cũng là ngôi sao sáng trên văn đàn thế giới”. Nổi bật trong dòng chảy ấy là sự xuất hiện của nhiều tác giả văn học có tên tuổi như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương, Huyện Thanh Quan… nhưng tôi còn rất ấn tượng với tác giả Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều bất hủ luôn trường tồn mãi với thời gian. Chỉ với Truyện Kiều cũng đủ để Nguyễn Du trở thành một danh nhân văn hóa thế giới, đại thi hào của dân tộc. Nguyễn Du còn để lại ba tập thơ chữ Hán càng khẳng định thêm tài năng cũng như sự nghiệp thơ văn trong nền văn học nước nhà. 1.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du được sáng tác với nhiều thể loại khác nhau và được các nhà nghiên cứu đánh giá cao. Khi đánh giá về thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, Phạm Thị Ngọc Hoa đã nhận xét: “Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi có khả năng sống mãi với thời gian, bởi chất xúc cảm chân thành trong thơ ông là vô hạn. Thơ ông là một sáng tạo, không phải của từ ngữ, mà của nội dung tâm hồn” [19]. Còn Mai Quốc Liên đã khẳng định: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật tuyệt tác, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung quốc nữa” [31, tr. 7]. Từ những ý nghĩa và giá trị to lớn của thơ văn chữ Hán của hai tác giả. Chúng tôi vận dụng thi pháp vào nghiên cứu thơ cổ phong trong thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Thơ cổ phong tuy chiếm số lượng ít nhưng lại có ưu thế trong việc phản ánh hiện thực cuộc
  • 11. 5 sống một cách đầy đủ, chi tiết, có khả năng giãi bày tâm trạng, bộc lộ thế giới nội tâm ở nhiều cung bậc cảm xúc vô cùng phong phú. Việc thực hiện đề tài “Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp” nhằm mục đích đi sâu tìm hiểu một số phạm trù của thi pháp như thể loại (vận, luật, ngôn ngữ), một số phương diện như: hình tượng về con người; không gian, thời gian nghệ thuật; ngôn ngữ nghệ thuật. Đề tài tập trung vào các phương diện trên vì đây là những phạm trù cơ bản, quan trọng nhất của thi pháp đồng thời còn làm nổi bật đặc điểm về mặt hình thức cũng như nội dung của tác phẩm văn học. 1.3. Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Mỗi công trình nghiên cứu đều được tiếp cận ở những góc độ khác nhau góp phần phân tích, đánh giá một cách toàn diện thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và khẳng định vị trí của hai thi hào trong nền văn học dân tộc. Nhưng chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào nghiên cứu thể thơ cổ phong trong thơ chữ Hán. Ở góc độ tiếp nhận mới, chúng tôi chọn đề tài “Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp” để nghiên cứu văn phong của hai tác giả. Tiến hành tìm hiểu nhóm thơ cổ phong trong tập thơ chữ Hán: “Ức Trai thi tập” của Nguyễn Trãi và ba tập thơ Thanh Hiên thi tập; Nam trung tạp ngâm; Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du. Qua việc tìm hiểu nhóm bài thơ cổ phong, chúng tôi bày tỏ lòng kính trọng dành cho hai tác giả, đồng thời thấy được những đóng góp của hai nhà thơ về thể loại này. Nghiên cứu thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du góp phần giúp bản thân hiểu rõ hơn về sự hình thành và phát triển của thơ cổ phong trong nền văn học trung đại Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi Trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Trãi đã để lại một số lượng tác phẩm văn học có giá trị. Thơ văn ông cũng rất đa dạng nên được giới nghiên cứu quan tâm. Chính vì vậy, số lượng công trình nghiên cứu về thơ văn và cuộc đời Nguyễn Trãi khá nhiều. Sau đây chúng tôi xin điểm qua một số công trình, bài báo nghiên cứu tiêu biểu về cuộc đời cũng như thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi. Theo Võ Nguyên Giáp, khi viết về Nguyễn Trãi trong chuyên luận: Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất đã nhận định rằng: Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên tài. Phần nói về nhà tư tưởng lớn, Võ Nguyên Giáp nhấn
  • 12. 6 mạnh: “Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là kết tinh những tư tưởng tiến bộ, những giá trị tinh thần và văn hóa của dân tộc ta từ buổi đầu dựng nước cho đến thế kỉ XV. Tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi vận dụng thành công và phát triển rực rỡ trong sự nghiệp giải phóng đất nước tạo nên một bước tiến mới trong lịch sử tư tưởng của dân tộc” [11, tr. 28]. Phạm Thị Ngọc Hoa trong bài viết “Nghệ thuật sử dụng điển trong Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi” đăng trên (Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (81) 2007 trong bài viết tác giả khẳng định: “Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi chủ yếu thuộc thể Đường luật. Ngoài hai bài Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên làm theo thể trường thiên cổ thể và Côn Sơn ca theo thể trường thiên đoản cú, còn lại là thơ ngũ ngôn, thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú… thơ Nguyễn Trãi vẫn đầy sự sáng tạo và có sức lay động mạnh mẽ lòng người bằng sự chân thật tự thân của nó! “Nguyễn Trãi đã gieo vần theo một lối thi luật riêng, tự nhiên hơn, phù hợp hơn với cộng đồng người Việt” [20]. Viện sử học, Nguyễn Trãi toàn tập (1976). NXB Khoa học xã hội nhận định “Duy có Nguyễn Trãi là vị anh hùng cứu quốc không những để lại sự nghiệp còn ghi trong chính sử, mà còn để lại khá nhiều tác phẩm nói lên tư tưởng của ông về các mặt triết học, quân sự, chính trị và thơ văn hết sức quý báu” [69, tr.7]. Tác giả Nguyễn Huệ Chi với bài viết “Niềm thao thức lớn trong thơ Nguyễn Trãi” đã đem đến cách nhìn nhận mới trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi “Đọc Tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi ta lại bị cuốn hút vào cái màu sắc của một thiên nhiên vô vàn hùng tráng; ta say mê trước khí tượng của sông núi được nhắc đến trong thơ và trên từng câu thơ trữ tình thắm thiết, ta bỗng lặng người đi trước bề sâu của một tâm hồn vĩ đại ” [47, tr. 453,454]. Đây cũng là quan điểm của tác giả Đinh Thị Khang với bài viết “Thơ Nguyễn Trãi viết về giai nhân” in trên tạp chí VHNT số 333 tháng 3-2012 có nhận định “Tập thơ đã bao quát một không gian thiên nhiên rộng lớn, từ di tích lịch sử đến danh lam thắng cảnh, từ vẻ kỳ vĩ hùng tráng đến vẻ mỹ lệ nên thơ. Thơ Ức Trai đem đến sức cuốn hút của một thiên nhiên hùng tráng: nơi cửa biển Thần Phù, núi rừng Lam Sơn, cửa biển Bạch Đằng - những địa điểm liên quan đến cuộc kháng chiến chống xâm lược thời Trần, thời Lê. Khí tượng sông núi, vẻ hùng vĩ của thiên nhiên kỳ tích được mô tả với bút pháp và phép liên tưởng truyền thống của thơ ca trung đại” [26].
  • 13. 7 Tác giả Trần Thị Băng Thanh trong bài viết “Ức Trai thi tập và thơ chữ Hán đời Trần” đã đưa ra nhận xét “Ở phần thơ chữ Hán này Nguyễn Trãi “giữ lại” nét hào hùng, kiên nghị, khí phách của nhà thơ thời chống quân Nguyên thế kỷ XIII, Nguyễn Trãi cũng “giữ lại” tính triết lí sâu sắc mà phóng khoáng, táo bạo của tinh thần thiền đời thịnh Trần, đồng thời với sự tiếp thu nét ưu tư, thương dân, băn khoăn về trách nhiệm kẻ sĩ của các nhà thơ cuối Trần mà nổi bật hơn cả là Trần Nguyên Đán và Nguyễn Phi Khanh…” [47, tr. 521]. Tác giả Bùi Duy Tân lại đem đến đề tài“Anh hùng và cảm quan anh hùng qua thơ văn Nguyễn Trãi” trong bài viết tác giả đưa ra nhận định “Cảm quan anh hùng của Nguyễn Trãi vừa có tính hàm súc vừa có tính nhạy bén, tinh tế. Với tâm hồn của một người nghệ sĩ, với trí tuệ của một nhà tư tưởng lớn của thời đại, Nguyễn Trãi đều cảm nhận được, tổng kết được. Những tư tưởng nhân nghĩa, khử bạo, an dân, thương dân… Từ quan niệm anh hùng đến cảm quan anh hùng, có thể thấy Nguyễn Trãi đã có những đóng góp không nhỏ vào truyền thống viết về người anh hùng của văn học dân tộc” [47, tr. 542]. Những công trình bài viết trên chính là cơ sở là tiền đề cho chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu, khám phá thêm những cái hay, cái đẹp trong thơ văn chữ Hán của Nguyễn Trãi. Nhưng do tính chất, phạm vi, mục đích của các công trình, các bài viết, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu nào đi vào nghiên cứu thơ cổ phong trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi. Mặc dù, nhóm thơ cổ phong của Nguyễn Trãi chỉ chiếm một con số rất nhỏ, nhưng không phải vì thế mà nó không có giá trị, tìm hiểu thơ cổ phong Nguyễn Trãi để hiểu rõ hơn về con người cũng như giá trị thơ văn Nguyễn Trãi để lại cho nền văn học dân tộc. 2.2. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Du Thơ chữ Hán của Nguyễn Du trong những năm gần đây rất được các nhà nghiên cứu quan tâm, vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu về sáng tác thơ chữ Hán của ông. Tuy nhiên, theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì do mục đích của các công trình chi phối nên vẫn chưa có một nghiên cứu nào đi sâu vào tìm hiểu về thể thơ cổ phong trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Đào Duy Anh trong bài viết Thi tập của Nguyễn Du trong công trình Khảo luận về Kim Vân Kiều, (Nhà xuất bản Quan Hải tùng thư, 1943) lần đầu tiên vị trí của thơ chữ Hán Nguyễn Du được khẳng định “về hình thức cũng như về nội dung,
  • 14. 8 thơ chữ Hán Nguyễn Du có thể để vào hàng với thơ Cao Bá Quát và có thể đem so sánh với thơ Đường” [1, tr. 207]. Tác giả Xuân Diệu trong bài viết “Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán” đã có nhận xét: “Thơ chữ Hán chứa đựng bóng hình, đời sống, nét mặt, mái tóc, dấu chân, tâm tình, suy nghĩ của Nguyễn Du” không những thế Xuân Diệu còn khẳng định “Những bài thơ chữ Hán mở cho ta thấy “cái khía cạnh Tố Như”. Có thể nói là lần đầu tiên, nhiều người trong chúng ta mới được nhìn một số nét về con người của tác giả Truyện Kiều và Văn chiêu hồn”. [10, tr. 56] Trong cuốn Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (nhóm Lê Quý Đôn, Nxb. Xây dựng, H. 1957), Trương Chính khẳng định thơ chữ Hán chẳng những “là nguồn tư liệu rất quý để tìm hiểu tác giả Truyện Kiều”, mà còn “phải được kể là những tác phẩm bậc nhất trong văn thơ chữ Hán của cha ông ta ngày trước”. Theo ông, những sáng tác đó không phải làm để tiêu khiển thù ứng “mà là thứ thơ chân thành, xuất phát tự tâm can”…Ông còn nhấn mạnh rằng giá trị độc đáo nhất trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là “đã có một ngòi bút hiện thực, điều hiếm gặp trong các thi tập thời xưa”. [43] Nhà phê bình Hoài Thanh trong bài viết Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán (Tạp chí Văn nghệ tháng 3/1960) đã nêu lên những mâu thuẫn phức tạp, trong đó “có một điểm khá rắc rối là thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại lần lượt thay thế nhau từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX”. Song Hoài Thanh cũng khẳng định rằng: “ Nhưng giữa một bên là những thế lực bạo tàn nó ngự trị trên cuộc đời cũ; một bên là hàng vạn vạn con người cơ khổ, thái độ Nguyễn Du rõ ràng, tình cảm Nguyễn Du chân thành, sâu sắc. Thơ Nguyễn Du do đó có giá trị hiện thực rất cao, có sức rung cảm mãnh liệt” [58]. Tác giả Lê Trí Viễn trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam (Tập II. Nxb. Giáo dục, H. 1962). Ông đi sâu vào thế giới nhân vật mà Nguyễn Du mô tả trong Bắc hành tạp lục. Đó là những con người trung can nghĩa khí bị hãm hại; những kiếp tài hoa lỗi lạc phải lầm than; những kẻ hèn yếu đáng thương. Đặc biệt, những lời thương cảm trìu mến nhất Nguyễn Du đã dành cho người phụ nữ (người ca nữ đất Long Thành, Tiểu Thanh, Dương Phi, nàng Vọng Phu). Từ đó, ông khẳng định rằng “cảm xúc của Nguyễn Du không còn giới hạn trong phạm vi “trông người mà ngẫm đến ta”, để đau xót cho bản thân mình; Nguyễn Du đau xót và căm giận
  • 15. 9 cho cả cuộc đời; căm giận bọn thống trị tàn nhẫn, đau xót cho tất cả những người nhân nghĩa gặp phải tai ương [67, tr.153] Tháng 11 năm 1965, Tạp chí Văn học đăng bài viết Tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du của Nguyễn Huệ Chi đã mở ra một hướng đi trên hành trình nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du: kiếm tìm chân dung của chính tác giả - như một hình tượng được biểu hiện trực tiếp qua những bài thơ viết về mình và biểu hiện gián tiếp qua các đối tượng trữ tình. Từ những vấn đề trên chúng ta có thể thấy được rằng các tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học có tên tuổi. Năm 1965, cuốn “Thơ chữ Hán Nguyễn Du”, một công trình nghiên cứu ra mắt đúng vào dịp kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du. Trong phần giới thiệu của cuốn sách tái bản (1978), Trương Chính nhận xét: thơ chữ Hán Nguyễn Du “bài nào cũng chứa đựng một lời tâm sự” và “bộc lộ thái độ sống của ông một cách rõ nét”. Trương Chính cũng cho biết trong sáng tác của Nguyễn Du, từ Truyện Kiều, Văn tế chiêu hồn cho đến thơ chữ Hán, “điều nổi bật là nhà thơ rất gần gũi với những người nghèo khổ, bị ô nhục trong xã hội cũ, và có một cái nhìn hiện thực đối với xã hội, đối với giai cấp thống trị thời đại ông” [6, tr.17-18]. Đây cũng là quan điểm đánh giá của Lê Thu Yến trong cuốn Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nxb. Thanh Niên. Tp. Hồ Chí Minh 1999) tác giả đi vào khảo sát cụ thể, đồng thời phân tích các phạm trù: hình tượng con người nghệ thuật, không gian và thời gian nghệ thuật. Từ đó tác giả Lê Thu Yến nêu lên nhận định: “có rất nhiều Nguyễn Du trong một Nguyễn Du”. Thấp thoáng trong lời thơ là: “Nguyễn Du với nỗi đau nhân thế”, “những lo âu vụn vặt đời thường và mập mờ giữa các làn ranh của tâm trạng là những dự định nhập cuộc không thành, những bước đi tự tìm mình khắc khoải” [73, tr. 57]. Tiếp thu ý kiến của những người đi trước, kế thừa những thành tựu nghiên cứu, phê bình về Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Thông qua đề tài này, chúng tôi sẽ cố gắng đi sâu tìm hiểu toàn diện hơn về “Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp” đây là mảnh đất chứa đựng nhiều hứa hẹn, thú vị mà chúng tôi cần nghiên cứu.
  • 16. 10 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu: - Thơ cổ phong chữ Hán của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. + Nguyễn Trãi có “Ức trai thi tập” gồm 105 bài thơ chữ Hán, trong đó có hai bài làm theo thể thơ cổ phong : Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên và Côn Sơn ca: + Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập: gồm78 bài chủ yếu viết trong những năm tháng trước khi ra làm quan nhà Nguyễn, trong đó có bốn bài làm theo thể thơ ngũ ngôn cổ phong: Hành lạc từ 1; Hành lạc từ 2; Lam Giang; Ký mộng: Nam trung tạp ngâm: có 40 bài viết thời gian làm quan ở Huế và Quảng Bình, những địa phương phía nam Hà Tĩnh, quê hương ông. Trong đó có hai bài được làm theo thể thơ cổ phong: Điệu khuyển; Ngẫu thư công quán bích. Bắc hành tạp lục: gồm 131 bài thơ sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc, trong đó có 20 bài được làm theo thể thơ cổ phong: Long Thành cầm giả ca; Ninh Minh giang chu hành; Thái Bình thành hạ văn xuy địch; Thái Bình mại ca giả; Bất tiến hành; Phản chiêu hồn; Biện Giả; Cựu Hứa Đô; Trở binh hành; Đồng Tước đài; Liêm Pha bi; Tô Tần đình 2; Dự Nhượng kiều chủy thủ hành; Kinh Kha cố lý; Kỳ lân mộ; Mạnh Tử từ cổ liễu; Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích; Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài; Sở kiến hành; Hoàng Mai sơn thượng thôn. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Dựa vào Nguyễn Trãi toàn tập, [69] Nguyễn Du toàn tập, [33], vận dụng lý thuyết thi pháp, các phương pháp khoa học, chúng tôi tiến hành nghiên cứu toàn bộ thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du trên các phương diện nội dung và hình thức sau: quan niệm nghệ thuật về con người; không gian và thời gian nghệ thuật; thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Thi pháp học: Ở đây, chúng tôi vận dụng các lý thuyết thi pháp học để nghiên cứu các phạm vi đề tài. Đây là phương pháp quan trọng bậc nhất của đề tài. 4.2. Phƣơng pháp thống kê, phân loại: trên cơ sở các tài liệu, tác phẩm, chúng tôi tiến hành khảo sát, thông kê, phân loại đối tượng. Việc khảo sát, thông kê, phân loại các đối tượng nghiên cứu giúp sự phân tích, đánh giá có căn cứ xác thực.
  • 17. 11 4.3. Phƣơng pháp lịch sử - cụ thể: Là phương pháp đặt đối tượng nghiên cứu vào thời đại, bối cảnh cụ thể khi nó ra đời để tìm hiểu sâu hơn về tác giả, tác phẩm, và đối tượng nghiên cứu. 4.4. Phƣơng pháp so sánh: Đây là con đường để chúng tôi tìm hiểu về đặc điểm sự vận động và phát triển của thể thơ cổ phong chữ Hán ở mỗi giai đoạn. So sánh với các thể thơ khác, giữa các tác giả làm theo thể thơ cổ phong để làm nổi bật đặc trưng thể loại vừa thấy được sự vận động của thể thơ ở mỗi giai đoạn khác nhau. 4.5. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Là phương pháp được chúng tôi sử dụng nhằm phân tích một cách kĩ lưỡng các tác phẩm thơ cổ phong chữ Hán của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Sau đó tổng hợp khái quát chỉ ra những đặc điểm riêng biệt về nội dung cũng như hình thức, quan niệm nghệ thuật, không gian, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, âm vận của hai nhà thơ. 5. Đóng góp của đề tài Luận văn góp phần vào thành tựu nghiên cứu tác phẩm thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, tiếp tục khẳng định vị trí, tài năng của hai nhà thơ trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam và những đóng góp của hai ông đối với sự phát triển ngôn ngữ văn học dân tộc. Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy về thể loại thơ cổ phong chữ Hán nói chung và các tác phẩm thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du nói riêng. Cuối cùng, kết quả nghiên cứu của luận văn mang đến một cái nhìn khái quát về giá trị nội dung, nghệ thuật và tư tưởng về thơ cổ phong chữ Hán của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được triển khai trong 3 chương như sau: Chƣơng 1. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du trong mạch thơ cổ phong trung đại Việt Nam Chƣơng 2. Thế giới nghệ thuật thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du Chƣơng 3. Thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
  • 18. 12 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU TRONG MẠCH THƠ CỔ PHONG TRUNG ĐẠI VIỆT NAM 1.1. Một số vấn đề về thơ cổ phong 1.1.1. Nguồn gốc của thơ cổ phong Như tên gọi của nó, thể cổ phong xuất hiện và định hình từ “xưa”. Việc xác định thời điểm ra đời của thể loại cổ phong cũng tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại cho rằng: “Thể cổ phong tức thể thơ phổ biến ngũ ngôn (5 từ) hay thất ngôn (7 từ) có trước thơ Đường luật” [39, tr. 270]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, trong Từ điển thuật ngữ văn học lại cho rằng: “Thơ cổ phong một thuật ngữ chỉ tất cả những bài thơ cổ được sáng tác từ đời Đường trở về sau mà không theo luật thơ Đường (không kể từ và khúc)” [16, tr. 263]. Tác giả Nguyễn Thị Bích Hải trong Thi pháp thơ Đường ở mục Các thể thơ đời Đường có khẳng định rằng: “Các nhà thơ đời Đường sử dụng hai thể thơ chính là Cổ thể (gồm cổ phong và nhạc phủ) và Kim thể. Cách gọi này một phần thông báo cho ta biết sự ra đời của chúng so với đời Đường. Thơ cổ thể ra đời sớm hơn từ đời Hán” [13, tr.192]. Tác giả Nguyễn Thái Hòa trong cuốn Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học ở mục thơ cổ phong có chỉ ra rằng: “Cổ phong trường thiên (hành) … thể hành rất phổ biến ở Trung Quốc, xuất hiện trước đời Đường, và các bậc thi bá đời Đường đã dùng thể này để tạo nên những kiệt tác” [21, tr. 44, 45]. Tác giả Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá trong Từ điển văn học (bộ mới). “Cổ phong còn gọi là cổ thi hoặc cổ thể thi là thuật ngữ dùng để chỉ các thể thơ cổ điển ở Trung Quốc trong sự khu biệt với thơ cận thể thời Đường. Cổ phong bao gồm toàn bộ thơ ca ra đời trước đời Đường” [19, tr. 320]. Trong cuốn Lí luận văn học do Phương Lựu (chủ biên) đã có nhận xét như sau: “Cổ phong vốn là tên gọi của người đời sau đối với các thể thơ có trước đời
  • 19. 13 Đường. Nhưng tên ấy cũng được dùng để chỉ những bài thơ trong và sau đời Đường mà không dùng niêm luật chặt chẽ như luật thơ Đường quy định” [36, tr. 453]. Từ các công trình nghiên cứu của các tác giả, chúng tôi nhận thấy hầu hết các nhà nghiên cứu đều chỉ ra rằng thơ cổ phong xuất hiện từ trước đời nhà Đường không theo niêm luật nhất định. Như vậy, có thể khẳng định rằng thơ cổ phong đã có nguồn gốc lâu đời từ đời Hán đã được khai sinh và trên cơ sở đó nó đã có điều kiện và một môi trường tiếp xúc thuận lợi để phát triển ở đời Đường. Chính vì vậy, nhiều thi sĩ nhà Đường đã viết những bài thơ cổ phong rất nổi tiếng như: Nguyệt hạ độc chước của Lí Bạch, Vọng nhạc, Binh xa hành của Đỗ Phủ. Thơ cổ phong Việt Nam không chỉ xuất hiện trong văn học chữ Hán mà nó còn xuất hiện trong văn học chữ Nôm. Từ việc tìm hiểu về nguồn gốc của thơ cổ phong giúp chúng tôi có thể hiểu hơn về sự ra đời cũng như quá trình hình thành và phát triển của thơ cổ phong trong nền văn học trung đại Việt Nam. 1.1.2. Khái niệm thơ cổ phong Trong quá trình nghiên cứu về thơ cổ phong chúng tôi nhận thấy rằng thơ cổ phong còn có nhiều khái niệm khác nhau, cũng như tên gọi của nó vẫn chưa có sự thống nhất cao giữa các nhà nghiên cứu. Để phần nào hiểu hơn về thể thơ cổ phong, chúng tôi đưa ra một số quan niệm của các nhà nghiên cứu, giúp có cái nhìn bao quát, toàn diện hơn về thể loại này. Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại miêu tả cổ phong: Người ta gọi thể thơ cổ phong hay gọi tắt là thể cổ phong tức thể thơ phổ biến ngũ ngôn (5 từ) hay thất ngôn (7 từ ) có trước thơ Đường luật, thể thơ này chỉ cần có vần hoặc bằng hoặc trắc mà không cần đối nhau, không cần theo một niêm luật bằng trắc nhất định; lối câu phổ biến là bốn câu (tuyệt cú), tám câu (bát cú) và trường thiên (hành); thơ cổ phong còn có thể lục ngôn nhưng ít dùng...[ 39, tr.213, 214]. Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu định nghĩa cổ phong: “lối này chỉ có số chữ trong câu là nhất định (hoặc ngũ ngôn hoặc thất ngôn); ngoài ra, không phải theo thể lệ chặt chẽ như lối Đường luật…không hạn số câu, cứ tự bốn câu trở lên, muốn làm dài ngắn bao nhiêu cũng được”, những bài dài quá 8 câu thất ngôn hoặc quá 16 câu ngũ ngôn gọi là tràng thiên [15, tr.117]. Bùi Kỷ trong Quốc văn cụ thể phân biệt hai thể thơ Hán văn gồm cổ phong và Đường luật bên cạnh các lối thơ: tứ tuyệt, tràng thiên, thủ vĩ ngâm, liên hoàn, yết
  • 20. 14 hậu, lục ngôn thể; các biến thể của thơ gồm minh, trâm. Trong đó, cổ phong “là lối văn có vần mà không đối nhau. Nếu có đối nhau là tùy ý của nhà làm văn, không phải là một luật nhất định. Cổ phong không có niêm luật, không hạn câu, tự bốn câu cho đến bao nhiêu câu cũng được”; có lối ngũ ngôn/thất ngôn độc vận hoặc ngũ ngôn/thất ngôn liên vận [30, tr.36, 37]. Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong cuốn Từ điển văn học trong mục Thơ Đường: “Các nhà thơ Đường sáng tác theo ba thể chính: luật thi, cổ phong, nhạc phủ (có người cho nhạc phủ cũng là một dạng của cổ phong)” [19, tr.1690]. Nguyễn Thái Hòa trong cuốn Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học đã phân biệt về thơ cổ phong như sau: “Cổ phong còn có tên gọi là cổ thể do các nhà thơ đời Đường gọi để phân biệt với các thể Đường luật, lúc bấy giờ được gọi là cận thể” [21, tr. 43]. Trần Đình Sử trong Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam kể tên các thể thơ trữ tình đời Lý - Trần và nhà Lê mạt - Nguyễn thế kỷ XVIII – XIX như sau: “Theo Thơ văn Lý - Trần (ba tập đã công bố), thì có hơn 200 bài tuyệt cú, hơn 300 bài thất luật, phần còn lại chia cho các thể thơ ngũ tuyệt, ngũ luật, trường đoản cú, nhạc phủ, cổ phong, lục ngôn, tứ ngôn...”. “...Các thể thơ chữ Hán được sử dụng rất đa dạng: ngoài thất luật, tuyệt cú ra, các thể ngũ ngôn, cổ phong, ca hành đều được sử dụng...” [54, tr.168, 169]. Trong cuốn Từ điển văn học (Bộ mới) trong mục Thơ cổ phong đã đưa ra nhận định như sau: “Thơ cổ phong không có quy định về cách luật như các thể thơ đời Đường nghĩa là không có niêm, luật, đối…thơ cổ phong không giới hạn về độ dài, bài thơ từ bốn câu trở lên, muốn dài ngắn bao nhiêu tùy tác giả, cũng có bài làm sáu câu, hoặc 12 câu; những bài thất ngôn dài quá 8 câu, bài ngũ ngôn dài quá 16 câu gọi là trường thiên, những bài làm theo thể hành có độ dài khá lớn…số chữ trong câu cũng được sử dụng khá linh hoạt có thể toàn bài theo thể tứ ngôn, ngũ ngôn, lục ngôn, hoặc thất ngôn, cũng có thể sử dụng những câu dài, ngắn khác nhau trong cùng một bài” và cuối cùng tác giả đi đến kết luận “ Thơ cổ phong là chỉ các thể thơ không bị cấu thúc vào vần, niêm, thanh điệu và đối ngẫu”. [19, tr. 320] Tác giả Nguyễn Thị Bích Hải trong Thi pháp thơ đường cũng khẳng định thơ cổ thể có hai dạng: cổ phong và nhạc phủ. Trong bài viết nhà nghiên cứu chỉ rõ: Thơ cổ phong không có luật lệ nhất định không hạn định về số câu trong bài và số chữ trong câu cũng tương đối tự do - Tuy rằng năm chữ và bảy chữ nhưng cũng có co giản, dao động quanh cái định số năm hoặc bảy đó. Cách gieo vần cũng rất linh hoạt. Có thể
  • 21. 15 dùng độc vận cả bài (cả bài chỉ có một vần), liên vận (nhiều vần nối nhau), có thể không hiệp vần ở từng bộ phận; có thể dùng vận chính, vận thông hay vận chuyển. Thể này không quy định niêm luật và cũng không cần đối ngẫu. [13, tr.192, 193]. Tác giả Đào Duy Anh trong cuốn Từ điển Hán Việt xét về mặt chữ nghĩa: Trong cổ phong; chữ cổ có nghĩa là đời xưa – xưa cũ [2, tr.112], chữ phong có nghĩa là phong cách, thể cách. Vậy cổ phong là phong cách cổ, một thể cách trong phép làm thơ, không hạn định ngũ ngôn hay thất ngôn, và cũng không hạn định âm, luật, bằng, trắc [2, tr.114]. Còn trong cổ thể chữ thể có nghĩa là thể loại. Như vậy, cổ thể là thể xưa. Trong các công trình nghiên cứu về thơ cổ phong hầu hết các nhà nghiên cứu đều quan niệm “cổ phong” và “cổ thể” tuy khác nhau về tên gọi nhưng thực chất chỉ là một: Trong cuốn Lí luận văn học do Phương lựu (chủ biên) đã nêu Thơ cổ phong còn gọi là thơ cổ thể (thể xưa) để so sánh với thơ cận thể [36, tr. 453]. Tác giả Bùi Văn Nguyên trong cuốn Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam đã đi đến kết luận: “Thơ cổ phong cũng như dân ca không hạn định số câu, có thể ít nhất là hai hoặc bốn câu, hoặc sáu câu, tám, mười câu hoặc nữa là rất nhiều câu …Tuy nhiên, thể cổ phong phổ biến nhất là thể bốn câu, tám câu và thể hành” [38, tr.299] Theo quan niệm đó, tác giả Trần Thị Hoa Lê trong bài viết Thơ cổ phong chữ Hán của Nguyễn Du và cuộc đối thoại trường thiên về nhân thế: đã cho rằng “có thể hình dung cổ phong tương tự “thơ tự do” hoặc giả như “thơ văn xuôi”/“trường ca” thời hiện đại, có vị trí độc lập bên cạnh lục bát, luật thi hay tuyệt cú... Tuy nhiên, ranh giới giữa cổ phong và một số thể (thơ) liên quan như nhạc phủ, tuyệt cú, trường thiên, ca, hành, ngâm... không phải luôn được phân định thật rõ ràng tự giác và thống nhất trong quá trình sáng tác của người xưa cũng như trong sự thưởng thức/phê bình của người nay. Thực tế là, quan niệm về cổ phong ngày càng được mở rộng hơn, bao chứa nhiều hơn các tiểu loại thơ “tự do” khác (đặc biệt là thơ có nguồn gốc dân gian) thay vì chỉ gồm hai thể ngũ ngôn và thất ngôn” [76] Thông qua quá trình tìm hiểu về những quan niệm cũng như các định nghĩa mà các nhà nghiên cứu đưa ra. Chúng tôi thấy rằng các định nghĩa về thơ cổ phong chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu, nhưng bên cạnh đó những đặc điểm của thơ cổ phong lại được nêu lên khá rõ. - Về vần: Thơ cổ phong có thể có một vần (độc vận) hay nhiều vần theo kiểu vần liền, vần cách không nhất định, nhưng phải có vần mới thành thơ.
  • 22. 16 - Về luật bằng trắc: thơ cổ phong tuy không có niêm luật nhất định và chặt chẽ như thơ Đường luật, nhưng tất nhiên phải thích ứng với quy luật âm thanh của tiếng nói do đó phải có tiếng bằng, tiếng trắc xen nhau để đọc cho dễ nghe, hoặc dễ ngâm. Cách gieo vần trong thơ cổ phong có thể độc vận hay liên vận. Có thể cứ 4 câu lại đổi vần hay cứ 8 câu đổi vần, hoặc mỗi 2 câu đổi vần một lần cũng được. - Cách đối thì tùy, muốn đối thì đối, muốn không thì không. Nếu đã đối thì phải đối cho chỉnh. Ý đối ý và chữ đối chữ cho đúng cách. - Về câu: Thơ cổ phong không bị giới hạn về độ dài, bài thơ từ bốn câu trở lên, muốn dài ngắn tùy thuộc tác giả; thường phổ biến là những bài 4 câu và 8 câu, cũng có bài làm 6 câu hoặc 12 câu; những bài thất ngôn dài quá 8 câu, bài ngũ ngôn dài quá 16 câu gọi là trường thiên, những bài làm theo thể hành thường có độ dài khá lớn. - Số chữ trong câu, số câu trong một bài cổ phong cũng được sử dụng linh hoạt, có thể toàn bài theo thể tứ ngôn, ngũ ngôn, lục ngôn, hoặc thất ngôn; cũng có thể sử dụng những câu dài, ngắn khác nhau trong một bài. Như vậy, từ việc tìm hiểu những thuật ngữ, khái niệm về thơ cổ phong của các nhà nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy thơ “cổ phong còn được gọi là “cổ thi” hay “cổ thể” “đây là một trong những thuật ngữ dùng để chỉ các thể thơ cổ điển ở Trung Quốc trong sự khu biệt với thơ cận thể thời Đường” [19, tr. 320]. Như đã nêu ở trên, thời gian qua, nhiều vấn đề về thuật ngữ, cũng như nội dung khái niệm của thơ cổ phong vẫn chưa có sự thống nhất một cách triệt để. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nghiên cứu, chúng tôi xin đưa ra cách hiểu về nội dung khái niệm thơ cổ phong như sau. Thơ cổ phong (hay còn gọi là cổ thi hoặc cổ thể) là lối thơ tự do không chịu sự quy định nghiêm ngặt về niêm luật, số câu, số chữ/từ, có thể dùng câu tứ ngôn, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn hoặc đan xen câu dài ngắn khác nhau (tạp ngôn), hay những bài thơ trường thiên. Vần trong thơ cổ phong cũng tự do hơn, có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận) nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, có nhịp bằng trắc xen nhau cho dễ đọc, dễ nhớ. Cũng trên cơ sở cách hiểu này, để thuận tiện cho việc nghiên cứu “Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du”, chúng tôi quan niệm thơ cổ phong bao gồm trước hết là những bài thơ sáng tác bằng chữ Hán và làm theo thể tự do như: ca, hành, ngâm, ngũ ngôn, thất ngôn, trường thiên. Những bài thơ bát cú, tuyệt cú không đưa
  • 23. 17 vào đối tượng khảo sát của đề tài, bởi vì chúng tôi nghĩ dạng thức này không có ranh giới rõ ràng giữa luật thi và bất luật thi. 1.1.3. Thơ cổ phong và sự xuất hiện thơ cổ phong chữ Hán trong văn học trung đại Trong dòng chảy của nền văn học trung đại Việt Nam, văn học chữ Hán xuất hiện rất sớm, tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của văn học trung đại, bao gồm cả thơ và văn xuôi. Về thể loại văn học chữ Hán chủ yếu tiếp thu các thể loại văn học từ Trung Quốc như chiếu, biểu, hịch, cáo, truyện truyền kì, tiểu thuyết chương hồi, thơ cổ phong, thơ Đường luật … dù ở thể loại nào văn học chữ Hán cũng có những thành tựu nghệ thuật đáng kể. Người mở đầu cho thể thơ cổ phong trung đại đó chính là tác giả Trần Tung. Sáng tác của Trần Tung được tập hợp trong bộ Thượng sĩ ngữ lục. Bộ sách gồm bốn phần: Phần thứ nhất: Đối cơ, gồm những mẩu đối thoại giữa Tuệ Trung với các môn đệ và các học giả. Phần thứ hai: Cử Công án, gồm 13 công án, mỗi công án có lời niêm (nhận xét) và một bài kệ của Tuệ Trung. Phần thứ ba: Thi tụng, gồm 49 bài vừa thơ vừa kệ của Tuệ Trung. Phần thứ tư: Thượng sĩ hành trạng, do Trần Nhân Tông viết. Sau bài của Trần Nhân Tông là một số bài kệ tụng của các vị đệ tử nổi danh của ông viết. Qua việc tìm hiểu và khảo sát có thể thấy, Trần Tung đã để lại hơn 50 bài thơ chữ Hán được làm theo các thể khác nhau trong đó có các bài thơ cổ phong khá đa dạng về thể như (ca, ngâm, tạp ngôn; thất ngôn, ngũ ngôn trường thiên) gồm các bài sau: Phật tâm ca; Mê ngộ bất dị; Phóng cuồng ngâm; Sinh tử nhàn nhi dĩ; Thị đồ; Trì giới kiêm nhẫn nhục; Trữ từ tự cảnh văn; Trừu thần ngâm. Nhóm thơ cổ phong của Trần Tung đã phản ánh nội dung tư tưởng gần với đời sống hiện thực mang nhiều màu sắc. Ông đã để lại trong các tác phẩm văn chương dấu ấn tâm linh thiền đạo khá lớn, đóng góp không nhỏ cho văn học Thiền và văn học trung đại Việt Nam. Mặc dù, số lượng các bài thơ cổ phong của Trần Tung để lại không nhiều, nhưng nó cũng góp phần tạo tiền đề cho quá trình hình thành và phát triển thể thơ cổ phong trong những giai đoạn sau của nền văn học dân tộc. Bước sang giai đoạn văn học từ thế kỉ XIV đến hết thế kỉ XVII, một số tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có sáng tác theo thể thơ cổ phong, nhưng xét về số lượng tác phẩm thơ cổ phong không giống nhau. Đầu tiên chúng tôi khảo sát trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi: Tập“Ức Trai thi tập” gồm 105 bài thơ chữ Hán được sáng tác theo các thể loại khác nhau
  • 24. 18 như: thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú và trong đó chỉ có hai bài thơ được sáng tác theo thể cổ phong đó là bài: Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên và Côn Sơn ca. Đến với thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi nhận thấy thơ cổ phong được ông sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm. Trong Bạch Vân am thi tập (tập thơ chữ Hán) có hai bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn và ngũ ngôn cổ phong gồm các bài như: : Trách tử, Trung tân ngụ hứng. Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập (Tập thơ chữ Nôm) có 7 bài được làm theo thể cổ phong gồm các bài: Đạo thường; Mặc ai tài trí; Thú ẩn dật; Thú dưỡng thân; Tăng thử, Thương loạn, Cảm hứng. Nhóm bài thơ cổ phong của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói lên chức năng phản ánh hiện thực xã hội, trong đó có những bài thơ cổ phong lên án chiến tranh phi nghĩa, phê phán thói tham lam đục khoét của những kẻ đương quyền, khiến xã hội suy vi. Sang thế kỉ XVIII đây là giai đoạn văn học có những phát triển rực rỡ nhất trong văn học dân tộc dưới chế độ phong kiến. Văn học thời kì này đã kế thừa những di sản văn học quý báu của những thế kỉ trước. Văn học lúc này có chức năng phản ánh hiện thực xã hội và giải bày tâm trạng của con người. Chính vì vậy, các tác giả văn học trung đại thời kì này ít nhiều đều có sử dụng thơ cổ phong để sáng tác. Nhờ đó số lượng các tác phẩm được viết bằng thể cổ phong có xu hướng tăng dần, nội dung cũng phong phú đa dạng hơn. Sáng tác thơ cổ phong trong giai đoạn này, chúng ta phải kể đến là tác giả Đặng Trần Côn với tác phẩm Chinh phụ ngâm rất nổi tiếng. Tác phẩm Chinh phụ ngâm có 13 tiểu mục khác nhau như: Loạn thời; xuất chinh; sầu tủi; hoài tưởng; cô lánh; vọng tưởng; sầu muộn; thất vọng; vọng tầm; hoài nghi; ưu lão; nguyện ước; khẩn cầu. Tác phẩm viết về đề tài chiền tranh, chiến tranh luôn gắn liền với những vấn đề: tình yêu, lòng thủy chung, sự chờ đợi, hạnh phúc, hi sinh…Chinh phụ ngâm là tác phẩm nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa đồng thời thể hiện tâm trạng khát khao tình yêu, hạnh phúc đôi lứa. Thể thơ phóng túng tự do có ưu điểm tạo nên sự linh hoạt trong mạch thơ, nhịp thơ dồi dào nhạc tính làm cho khúc ngâm luôn đổi mới, phù hợp với tâm trạng và tình cảm của người chinh phụ. Hay khi tìm về với 250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng tôi nhận thấy thơ chữ Hán được ông sáng tác theo những thể khác nhau. Trong tập thơ có 26 bài thơ làm theo thể cổ phong. Những bài thơ cổ phong của Nguyễn Du có cái nhìn bao quát hơn về hiện thực xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là nhóm thơ cổ phong được ông
  • 25. 19 viết trong tập Bắc hành tạp lục. Hiện hữu trong mỗi bài thơ cổ phong của Nguyễn Du, ẩn chứa một câu chuyện, một cảnh ngộ, một cuộc đời của một nhân vật cụ thể nào đó: ví như bài “Long thành cầm giả ca” kể về cuộc đời của một ca nữ vô danh, từ số phận cuộc đời của ca nữ trong tác phẩm thấy được số phận bất hạnh của những người phụ nữ trong xã hội. Sau tác giả Nguyễn Du, ta bắt gặp những tác phẩm thơ cổ phong trong sáng tác của Hồ Xuân Hương trong tập“Lưu hương kí” gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ chữ Nôm. Trong tập Lưu hương kí có sáu bài được sáng tác theo thể cổ phong gồm các bài sau: Thu ca phong; Nguyệt dạ ca kỳ 1; Nguyệt dạ ca kỳ 2; Ngư ông khúc hành; Tặng Tốn Phong Tử. Những bài thơ cổ phong của Hồ Xuân Hương đã góp phần đem đến một đề tài mới cho thơ cổ phong đó là đề tài tình yêu, là sự bộc bạch nỗi lòng, tâm sự thầm kín của nhà thơ nói riêng, cũng như những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Bước sang giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, chúng tôi nhận thấy, Cao Bá Quát là một trong những tác giả sáng tác theo thể thơ cổ phong nhiều nhất. Khảo sát, trên 251 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát, chúng tôi nhận thấy ông để lại số lượng tác phẩm thơ cổ phong tương đối nhiều trên 53 bài thơ cổ phong, chiếm tới 21,1% trong tổng số 251 bài thơ chữ Hán của ông. So với các nhà thơ khác, Cao Bá Quát là người sử dụng khá nhiều loại thơ cổ thể trường thiên. Đối với ông, thể tài này tương đối tự do và dung lượng lớn, thích hợp với những tứ thơ hào mại, sảng khoái. Những bài thơ cổ phong của Cao Bá Quát được viết theo thể ngũ ngôn, thất ngôn cổ phong có thể dẫn ra một số tác phẩm như: Ban Siêu đầu bút; Bảo Xuyên ông nhục kiến thứ họa, tẩu bút thù chi; Bân phong đồ…Từ đây có thể thấy rằng Cao Bá Quát được xem là một trong những tác giả sáng tác thơ cổ phong nhiều nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVIII đến nữa đầu thế kỉ XIX. Chính nhờ những tác phẩm thơ cổ phong của Cao Bá Quát, thơ cổ phong Việt Nam thực sự đạt tới phẩm chất “Tập đại thành” của dòng thơ cổ phong. Như vậy, tìm hiểu sự hình thành và phát triển của thể thơ cổ phong, ở một số tác giả lớn trong văn học trung đại Việt Nam. Chúng tôi nhận thấy, ở mỗi giai đoạn phát triển của văn học trung đại đều có các tác giả sáng tác thơ cổ phong. Tuy số lượng tác phẩm thơ cổ phong ở mỗi giai đoạn không giống nhau, nhưng ít nhiều cũng góp phần hình thành và phát triển thể thơ cổ phong về sau.
  • 26. 20 Xét về số lượng tác phẩm các tác giả lớn đều có sáng tác theo thể cổ phong ở những mức độ chưa đồng đều: Trần Tung có 8 bài; Nguyễn Trãi có 2 bài; Nguyễn Bỉnh Khiêm có 2 bài cổ phong chữ Hán và 7 bài cổ phong chữ Nôm; Nguyễn Du có 26 bài; Hồ Xuân Hương có 5 bài; Cao Bá Quát có số lượng tác phẩm sáng tác theo thể cổ phong nhiều nhất trên 53 bài. Xét về đề tài thơ cổ phong cũng khá đa dạng như: đề tài về Phật giáo trong thơ Trần Tung, đề tài về thiên nhiên trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, đề tài về phê phán quan lại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, đề tài về tình yêu trong thơ Hồ Xuân Hương. Đề tài oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, tâm trạng khát khao hạnh phúc của người chinh phụ trong tác phẩm của Đặng Trần Côn. Hay những vấn đề về hiện thực cuộc sống của con người được phản ánh trong thơ cổ phong của Nguyễn Du, Cao Bá Quát. Tóm lại, chúng tôi nhận thấy từ giai đoạn thế kỉ XVIII trở về sau thơ cổ phong càng phát triển mạnh. Từ khi xuất hiện khuynh hướng phản ánh hiện thực cuộc sống của con người trong không gian và thời gian sinh hoạt đời thường. Thơ cận thể do chỉ có bốn câu hoặc tám câu, lối thơ quá ngắn gọn, quá hàm súc, không đủ dung lượng để phản ánh hiện thực cuộc sống, với những biến động của cuộc đời con người nên hầu hết các tác giả lại tìm đến với lối thơ cổ thể. 1.2. Thi pháp và thi pháp học Nếu như trước đây khi nghiên cứu một tác phẩm văn học chúng ta thường ít quan tâm đến mặt hình thức, mà chỉ chú trọng vào nội dung của tác phẩm, nhưng trong một tác phẩm văn học chúng ta không thể tách biệt nội dung khỏi hình thức, hay hình thức khỏi nội dung. Nội dung chỉ có thể thể hiện trong hình thức. Và hình thức phải là một hình thức của một nội dung nào đó. Như vậy nghiên cứu thi pháp là chúng ta đang nghiên cứu văn học trong sự thống nhất giữa nội dung và hình thức. Trong Từ điển thuật ngữ văn học ở mục Thi pháp học và thi pháp (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) định nghĩa. “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức hệ thống phương thức, phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mỹ chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật.
  • 27. 21 Xét các chỉnh thể văn học mang thi pháp, có thể nói tới thi pháp tác phẩm cụ thể, thi pháp sáng tác của một nhà văn, thi pháp một trào lưu, thi pháp văn học dân tộc, thi pháp văn học một thời đại, thời kì lịch sử. Xét các phương tiện, phương thức nghệ thuật đã được chia tách, có thể nói tới thi pháp của thể loại, thi pháp của phương pháp, thi pháp của phong cách, thi pháp kết cấu, thi pháp không gian, thời gian, thi pháp ngôn ngữ… Xét về cách tiếp cận, thi pháp học còn có ba phạm vi nghiên cứu: - Thi pháp học đại cương (còn gọi là thi pháp học lý thuyết, thi pháp học hệ thống hóa hay thi pháp học vĩ mô). - Thi pháp học chuyên biệt (hay còn gọi là thi pháp học miêu tả vi mô). - Thi pháp học lịch sử. Thi pháp học chuyên biệt, tiến hành việc miêu tả tất cả các phương diện nói trên (tức thi pháp thể loại, không gian, thời gian, kết cấu, ngôn ngữ, mô típ…) của sáng tác văn học nhằm xây dựng “mô hình” hệ thống cá biệt của các thuộc tính tác động thẩm mỹ. Vấn đề ở đây chính là các tương quan của tất cả các yếu tố nói trên trong chỉnh thể nghệ thuật. Thi pháp học chuyên biệt có thể miêu tả tác phẩm văn học cá biệt, cũng như cụm tác phẩm trong sáng tác của một nhà văn học, của một thể loại, một trào lưu văn học hoặc một thời đại văn học. Thi pháp học giúp ta công cụ để thâm nhập vào cấu trúc tác phẩm, cốt cách tư duy của tác giả cũng như nắm bắt “mã” văn học nghệ thuật của các tác gia và các thời kì văn học nghệ thuật, từ đó nâng cao năng lực thụ cảm tác phẩm. Thi pháp học cổ xưa nặng về tính quy phạm, cẩm nang. Thi pháp học hiện đại nặng về phát hiện, miêu tả các ngôn ngữ nghệ thuật đang hình thành và song hành với sự vân động của văn học”. [16, tr. 206,207]. Mục “Thi pháp học” trong Từ điển văn học (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá) đã nêu: “Thi pháp học thuật ngữ chỉ lĩnh vực khoa học nghiên cứu văn học với tư cách là một nghệ thuật. Thi pháp học (còn gọi là thi học) nghiên cứu cấu tạo của tác phẩm văn học với các nguyên tắc, phương thức, phương tiện của nó. Nhìn một cách tổng quát thi pháp học bao gồm ba bộ phận. - Thi pháp học đại cương: (còn gọi là thi pháp học lý thuyết) nghiên cứu các yếu tố, phương tiện, nguyên tắc chung của tác phẩm văn học.
  • 28. 22 - Thi pháp học miêu tả: nghiên cứu cấu trúc của tác phẩm văn học cụ thể của các tác giả hay thời kỳ riêng biệt… - Thi pháp học lịch sử: nghiên cứu tiến trình phát triển, đổi thay của các hình thức thủ pháp văn học. Trong thực tế sử dụng, thuật ngữ thi pháp học có thể chỉ những phạm vi khác nhau. Khi rộng nhất nó chỉ toàn bộ lý luận văn học, khi hẹp nhất nó chỉ luật thơ, phép làm thơ. Nó có thể chỉ các phương thức, phương tiện sáng tạo của nghệ thuật khác, như thi pháp điện ảnh, thi pháp sân khấu [19 tr. 1666, 1667]. Từ hai khái niệm trên, ta thấy giữa hai khái niệm có cách diễn đạt tuy khác nhau nhưng quan niệm về thi pháp và thi pháp học căn bản cũng có những nét thống nhất về một số mặt. Đều có mục đích chung, khám phá các nguyên tắc phổ quát hoặc cụ thể, lịch sử làm thành nghệ thuật. Thi pháp học là bộ môn chuyên nghiên cứu các hệ thống nghệ thuật cụ thể, một khoa học ứng dụng gần gũi với phân tích, phê bình văn học, lịch sử văn học. Thi pháp là hệ thống các phương thức, phương tiện biểu hiện đời sống bằng những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Hệ thống đó bao gồm: thể loại, kết cấu, phương pháp, không gian, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ. Thi pháp học là khoa học nghiên cứu hệ thống thi pháp đó. Thi pháp học được chia ra làm ba bộ phận chính: Thi pháp học đại cương; thi pháp học chuyên biệt, thi pháp học lịch sử. Để miêu tả các phương diện của thi pháp tác phẩm, trào lưu, thời đại, dân tộc thì đó chính là nhiệm vụ của thi pháp học chuyên biệt. Tóm lại, thông qua cách hiểu trên chúng tôi vận dụng thi pháp học vào nghiên cứu thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du về các phương diện của nội dung và hình thức của tác phẩm văn học về các mặt: thời gian, không gian nghệ thuật; quan niệm nghệ thuật về con người; thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật. Người nghiên cứu và giảng dạy là người đi sau sự ra đời của một tác phẩm nghệ thuật. Lại không phải là tác giả nên càng không thể hiểu hết được các phương thức, phương tiện biểu hiện về mặt đời sống của một sáng tác, tác phẩm, vì thế người nghiên cứu cần tìm hiểu và sử dụng thi pháp. Văn học trung đại Việt Nam gồm những tác phẩm ra đời trong lịch sử văn học dân tộc. Để hiểu rõ hơn các tác giả văn học trung đại nói chung và hiểu rõ hơn về tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du cũng như những sáng tác văn học của hai nhà thơ
  • 29. 23 về những phạm trù văn hóa, văn học, thẩm mỹ. Vì vậy, chúng tôi dùng thi pháp học để nghiên cứu để hiểu đúng, hiểu hết về các sáng tác của hai tác gia lớn trong nền văn học trung đại Việt Nam 1.3. Nguyễn Trãi và thơ chữ Hán 1.3.1. Cuộc đời Nguyễn Trãi (1380 - 1442), hiệu Ức Trai, quê ở xã Chi Ngại, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Cha là Nguyễn Ứng Long một nho sinh nghèo, học giỏi. Mẹ là Trần Thị Thái – con gái của Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi sinh ở Thăng Long, trong dinh của ông ngoại, và sống qua thời niên thiếu trong gia đình ông ngoại. Tuy vây, tuổi thơ của Nguyễn Trãi cũng chịu nhiều mất mát và đau thương: lên năm tuổi mồ côi mẹ, một thời gian không lâu ông ngoại qua đời. Nguyễn Trãi phải trở về làng Nhị Khê sống với bố, tại đây ông được bố rèn cặp, dạy dỗ, trong những năm tháng sống ở Nhị Khê, ông trải qua cuộc sống “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”, sớm hòa nhập với cuộc sống nơi thôn quê. Nguyễn Trãi thấu hiểu được nỗi vất vả, khó khăn của những người dân lao động nghèo khổ, hiểu được tâm tư nguyện vọng của người dân, lòng yêu nước thương dân của ông từ đó cũng dần dần trở thành động cơ chi phối toàn bộ tư tưởng và hành động của ông sau này. Trải qua cuộc sống vất vả, nhưng ông vẫn quyết trau dồi kinh sử. Năm 1400, Nguyễn Trãi đi thi, đỗ Thái học sinh (tiến sĩ), được trao chức Ngự sử đài chánh chưởng khi mới tròn hai mươi tuổi. Năm 1406, Nhà Minh đem quân xâm lược nước Nam. Cha con Hồ Quý Ly tổ chức kháng chiến nhưng thất bại và bị bắt. Nhiều bề tôi nhà Hồ cũng bị bắt ra hàng trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng đến chỗ quân Minh giam giữ tù binh để tìm cha. Hai anh em theo đoàn xe tù lên ải Nam quan với ý định sang bên kia biên giới đề phụng dưỡng cha, nhưng ông khuyên Nguyễn Trãi trở về phục thù và báo hiếu cho cha bằng con đường cứu nước. Nghe lời, ông để Nguyễn Phi Hùng đi tiếp với cha, còn mình thì tìm đường trở về Nguyễn Trãi luôn khắc sâu lời cha dặn: “Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha như thế mới là đại hiếu”. Khi về đến Đông Quan, ông bị tướng giặc Trương Phụ bắt. Phụ dụ dỗ ra làm quan, ông từ chối. Phụ định giết ông, nhưng một tướng giặc khác là Hoàng Phúc xin tha cho và buộc ông phải sống ở thành Đông Quan để chúng dễ bề kiểm soát.
  • 30. 24 Sau khi thoát khỏi sự giam lỏng của giặc Minh, Nguyễn Trãi từ Đông Quan tìm vào Lam Sơn, đại bản doanh của nghĩa quân Lê Lợi. Năm 1420 Nguyễn Trãi đã hiến dâng Lê Lợi tập Bình Ngô sách (Sách lược dẹp giặc Ngô). Từ khi có Bình Ngô sách của Nguyễn Trãi hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn không ngừng được mở rộng, từng bước đưa nghĩa quân tiến bước vững chắc đi đến thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuối năm 1427, đầu năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Nguyễn Trãi vâng lệnh Lê Lợi viết tác phẩm Bình Ngô đại cáo, một “áng thiên cổ hùng tráng suốt thiên cổ”, nhằm trịnh trọng tuyên bố nền độc lập mới mẻ của xã tắc. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua và sáng lập ra niên hiệu Lê Thái Tổ và tiến hành luận công khen thưởng, ban thưởng cho 227 công thần, Nguyễn Trãi được ban quốc tính và phong ban tước Quan Phục hầu. Dù được giữ nhiều chức vụ chủ chốt trong triều đình nhưng Nguyễn Trãi vẫn hết lòng trung thành, phụng sự triều đình nhà Lê trong buổi đầu đất nước thống nhất, bước vào sự nghiệp kiến quốc. Năm 1429, nhà vua sai bắt Trần Nguyên Hãn đệ nhất công thần cũng là người có họ hàng với Nguyễn Trãi bị giết, đến cuối năm vua hạ lệnh giết Thái úy Phạm Văn Xão, một đệ nhất công thần khác. Nguyễn Trãi cũng nghi oan và bị bắt giam một thời gian (1430). Sau đó tuy được tha nhưng cho đến khi Lê Lợi mất (1433), ông vẫn không được giao một công việc gì quan trọng. Năm 1438, Nguyễn Trãi xin vể ở ẩn tại Côn Sơn. Côn Sơn là nơi quê tổ, lại là nơi thuở nhỏ Nguyễn Trãi đã từng sống với ông ngoại. Ở đây, Nguyễn Trãi đã sáng tác bài Côn Sơn ca nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông sáng tác phần lớn thơ Nôm của mình được tập hợp trong tập “Quốc âm thi tập”. Năm 1439, Lê Thái Tông xuống chiếu mời Nguyễn Trãi ra nhận lại mọi chức quan cũ, lại phong thêm chức Môn hạ sảnh tả ty Gián nghị đại phu kiêm Tri tam quán sự, Đề cử chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, đặc trách trông coi hai đạo Đông và Bắc. Năm 1422, Lê Thái Tông đi duyệt võ ở Phả Lại - Chí Linh có ghé thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn và trên đường trở về lại kinh thành, đã đi cùng Nguyễn Thị Lộ, vợ lẽ Nguyễn Trãi, bấy giờ đang sung chức Lễ nghi nữ học sĩ trong triều. Ngày 4 tháng tám âm lịch (7- 9- 1442) vua về đến Lệ Chi Viên tục gọi là Trại Vải ở làng (Đại Lại – Lương Tài – Bắc Ninh). Nửa đêm hôm ấy, nhà vua bị cảm, và đến sáng thì mất. Ngay sau đó triều đình liền bắt giam Nguyễn Thị Lộ. Nguyễn Trãi đang đi kiểm tra hai đạo Đông và Bắc, được tin lập tức trở về triều, cũng bị bắt. Ngày 16 tháng tám năm Nhâm Tuất (19 - 9 - 1942) Nguyễn Trãi cùng với vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ và toàn thể gia tộc
  • 31. 25 phải nhận bản án tru di tam tộc. Năm ấy Nguyễn Trãi vừa mới 63 tuổi, đáng tiếc rằng vụ án Lệ Chi Viên oan khiên với hình thức tru di tam tộc mà Nguyễn Trãi phải gánh chịu, chính là hệ quả tất yếu của những cuộc tranh giành ngôi thứ, bè phái nảy sinh vào thời hậu chiến trong hoàn cảnh cụ thể lúc bấy giờ. Nỗi oan của Nguyễn Trãi phải hai mươi năm sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi mới minh oan, cho sưu tầm lại thơ văn của ông. Cho một người con duy nhất thoát nạn tru di là Nguyễn Anh Vũ làm Tri huyện và cấp 100 mẫu ruộng dùng vào việc thờ cúng. Năm 1980, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổ chức Văn hóa – Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) tổ chức kỷ niệm lần thứ 600 năm sinh danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi. Cuộc đời của Nguyễn Trãi là cuộc đời của một con người chịu nhiều oan khiên nhất trong lịch sử dân tộc, cũng là cuộc đời của một con người suốt đời hết lòng vì nước vì dân và vẫn giữ được nét thanh cao của một tấm lòng son sắt cương trực. 1.3.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi Thơ văn của Nguyễn Trãi, được viết bằng cả chữ Hán và Chữ Nôm. Những tác phẩm tiêu biểu như: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập, Băng hồ di sự lục, Lam Sơn Vĩnh Lăng thần đao bi kí, Dư địa chí… Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi còn lại được tập hợp trong tập “Ức Trai thi tâp” tập thơ gồm 105 bài. Để hiểu rõ hơn về thơ chữ Hán cũng như con người Nguyễn Trãi qua thơ chữ Hán, căn cứ vào toàn bộ nội dung của tập thơ Ức Trai thi tập có thể sắp xếp tập thơ làm năm phần như sau: Thơ làm trong khi chƣa thành công (17 bài) gồm các bài sau: Thính vũ; Tặng hữu nhân; Thôn xá thu châm; Loạn hậu cảm tác; Ký cữu Dịch Trai Trần Công; Thanh minh; Ký hữu; Thu dạ khách cảm; Hạ nhật mạn thành; Họa Tân Trai vận; Quy Côn Sơn chu trung tác; Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác; Quan hải; Lâm cảng dạ bạc; Thần Phù hải khẩu; Hải khẩu dạ bạc hữu cảm; Long Đại nham. Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều đình (31 bài) gồm các bài: Thượng nguyên hộ giá chu trung tác; Quan duyệt thủy trận; Hạ quy Lam Sơn kỳ 1; Hạ quy Lam Sơn kỳ 2; Đề kiếm; Hạ tiệp kỳ 1; Hạ tiệp kỳ 2; Hạ tiệp kỳ 3; Hạ tiệp kỳ 4; Chu Công phụ Thành Vương đồ; Đề Bá Nha cổ cầm đồ; Thứ vận Trần thượng thư đề Nguyễn bố chánh thảo đường; Thú dạ dữ Hoàng Giang Nguyễn Nhược Thủy đồng phú; Đoan ngọ nhật; Ngẫu thành (I); Thu dạ khách cảm (II); Tức sự; Thứ Cúc
  • 32. 26 Pha tặng thi; Đề Thạch Trúc oa; Dục Thúy sơn; Quá Thần Phù hải khẩu; Chu trung ngẫu thành kỳ 1; Chu trung ngẫu thành kỳ 2; Đề Ngọc Thanh quán; Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự; Vân Đồn; Bạch Đằng hải khẩu; Tĩnh Yên vãn lập; Oan thán; Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên. Thơ tỏ ý chán nản và muốn về nghỉ (23 bài ) gồm các bài như: Ngẫu thành (II); Vãn lập; Đề sơn điểu hô nhân đồ; Đề Động Sơn tự; Họa Hương tiên sinh vận giản chư đồng chí; Mạn hứng (I) kỳ I; Mạn hứng (I) kỳ II; Khất nhân họa Côn Sơn đồ; Đề trình xử sĩ vân oa đồ; Đề Từ Trọng Phủ Canh Ẩn đường; Đề Hà hiệu úy “Bạch vân tư thân”; Thu nhật ngẫu thành; Mạn hứng(II) kỳ 1; Mạn hứng (II) kỳ 2; Mạn hứng (II)kỳ 3; Mạn thành (I) kỳ 1; Mạn thành (I) kỳ 2; Thù hữu nhân kiến ký; Họa hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ 1; Họa hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ 2; Họa hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ 3; Tống tăng Đạo Khiêm quy sơn; Hải khẩu dạ bạc hữu cảm (II). Thơ làm trong thời ở ẩn ở Côn Sơn ( 17 bài) gồm các bài như: Giang hành; Đề vân oa; Mộng sơn trung; Mộ xuân tức sự; Trại đầu xuân độ; Hí đề; Tức hứng; Vãn hứng; Mạn thành (II); Thứ vận Hoàng môn thị lang Nguyễn Cúc Pha hạ tân cư thành; Đồ trung ký Thao giang thứ sử Trình Thiêm Hiến; Thu nguyệt ngẫu thành; Hạ nhật mạn thành; Tiên Du tự; Đề Bão Phúc nham; Côn Sơn ca. Thơ làm trong thời đoán là sang Trung Quốc (12 bài) gồm các bài như: Quá hải; Tầm Châu; Bình Nam dạ bạc; Ngô Châu; Du Nam Hoa tự;; Thiều Châu Văn Hiến miếu; Quá lĩnh; Giang Tây; Thái Thạch hoài cổ; Đồ trung ký hữu; Ký hữu (II); Chu trung ngẫu thành (III). Về nội dung: Tập thơ Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi phong phú nội dung. Đầu tiên bao trùm lên toàn bộ tập thơ là những tình cảm của nhà thơ với đối với vua, với dân, với nước, với gia đình, với bạn bè. Trong tập thơ chữ Hán còn có nhiều bài thơ viết về đề tài thiên nhiên, đất nước, gắn liền với hình ảnh quê hương nơi mà Nguyễn Trãi đã một thời gắn bó. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi là những bức tranh phong cảnh tươi đẹp, là không gian khoáng đạt, rộng lớn, bao la, nơi Nguyễn Trãi trút bầu tâm sự thầm kín, nơi đem đến niềm vui cho tâm hồn. Tập thơ Ức Trai thi tập còn bộc lộ tư tưởng phóng khoáng, thể hiện tài năng và trí tuệ của Nguyễn Trãi đồng thời đánh dấu bước chuyển từ chặng đường thơ chữ Hán Việt Nam từ thời Trần sang thời Lê Sơ. Ngoài ra, thơ văn của Nguyễn Trãi còn là tiếng nói của con người cá nhân trước cuộc đời, trước thời đại. Một con người luôn
  • 33. 27 tự ý thức về mình, luôn đề cao trách nhiệm với đời, con người luôn nguyện cống hiến mình cho dân tộc. Không chỉ vậy, trong thơ Nguyễn Trãi người đọc còn bắt gặp hình ảnh của một con người luôn có tinh thần lạc quan, luôn tin yêu vào cuộc sống, một con người tràn đầy ý chí, lòng quyết tâm đấu tranh chống lại những bất công, ngang trái, để tự mình khẳng định bản thân trước cuộc đời. Về nghệ thuật: Ở phương diện thể thơ trong 105 bài thơ chữ Hán được Nguyễn Trãi sáng tác theo các thể khác nhau. Trong đó có 86 bài làm theo thể thất ngôn bát cú, như các bài: Đề Lư thị gia phả, Loạn hậu cảm tác, Ký hữu, Mạn hứng, Oan thán…ngoài ra có 12 bài sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt như các bài: Thôn xá thu châm, Lam Quan hoài cổ, Đề Bá Nha cổ cầm đồ…bên cạnh đó có 5 bài làm theo thể ngũ ngôn bát cú như: Tiên Du tự, Giang hành, Dục Thúy sơn, Thính vũ, Tặng hữu nhân và có 2 bài được sáng tác theo thể cổ phong Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên và Côn Sơn ca. Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi phần lớn mỗi đề mục là một bài, nhưng cũng có một số đề mục từ hai đến năm bài như: Mạn hứng kỳ 1; Mạn hứng kỳ 2; Mạn hứng kỳ 3; Mạn thành kỳ 1; Mạn thành kỳ 2; Hạ tiệp kỳ 1; Hạ tiệp kỳ 2; Hạ tiệp kỳ 3; Hạ tiệp kỳ 4. Về hình thức thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi dùng chữ, dùng câu, gieo vần khá điêu luyện tạo cảm giác hứng thú cho người đọc. Nét đặc sắc trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi chính là ở “ý tại ngôn ngoại” có những bài thơ Nguyễn Trãi dùng chữ cô động, ít chữ nhưng lại nhiều nghĩa ví dụ như các câu: “Niên lai biến cố xâm nhân lão – Thu việt tha hương cảm khách đa” hai câu này có nghĩa đầy đủ là “Mấy năm nay xảy ra nhiều biến cố làm cho người ta mau già – Thu về nơi quê người khiến lòng khách nhiều thương cảm”. Như vậy, ta có thể thấy tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi đều theo Đường luật, niêm, luật, vần nghiêm chỉnh, câu, chữ đối nhau rất cân xứng, trừ hai bài thơ Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên và Côn Sơn ca được làm theo thể thơ cổ phong tương đối tự do. Khái quát tập thơ chữ Hán, Trần Thị Băng Thanh nhận xét rằng: “Đọc Ức Trai thi tập có thể hình dung khá rõ Nguyễn Trãi là một con người đằm thắm trong tình cảm gia đình, bạn bè, sâu nặng trong nghĩa nước tình dân; hào hoa phóng khoáng giữa thiên nhiên; thanh đạm, nhàn dật mà nhập cuộc,… Không những thế, còn có thể hình dung ra Nguyễn Trãi trong những khung cảnh, tư thế rất cụ thể. Khi thì khoác tấm chăn mỏng ngồi suốt đêm hay trăn trở bên song thuyền đến sáng, suy nghĩ trầm ngâm; khi thì tựa ghế dạo đàn hay ủ tay trong tay áo ngồi ngâm thơ khe
  • 34. 28 khẽ hứng thú hoặc sầu muộn; khi ung dung, nhanh nhẹn và say mê dạo giữa thiên nhiên” [47, tr.530]. 1.4. Nguyễn Du và thơ chữ Hán 1.4.1. Cuộc đời Nguyễn Du sinh năm 1765, tại phường Bích Câu, quê ở Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con trai tể tướng Nguyễn Nghiễm và bà Trần Thị Tần. Nguyễn Du được sinh ra trong gia đình quyền quý có truyền thống văn chương nhiều người đỗ đạt cao và làm quan ở trong triều đình. Ông nội Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh là một nhà triết học chuyên thuyên phú kinh dịch. Cha Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm thường viết sử và làm thơ. Anh cả của Nguyễn Du là Nguyễn Khản là một vị quan nhưng cũng giỏi làm thơ, cháu ruột Nguyễn Du là Nguyễn Thiện và Nguyễn Thành đều giỏi thơ văn cả dòng họ có nhiều người đỗ tiến sĩ vì vậy trong dân gian còn lưu truyền câu ca về dòng họ Tiên Điền. Bao giờ ngàn Hống hết cây Sông Rum hết nước, họ này hết quan Được sinh trưởng trong một gia đình như thế nên Nguyễn Du có điều kiện học tập năng khiếu văn học nảy nở và sớm phát triển, đồng thời tiếp nhận truyền thống văn hóa quý báu của quê hương, gia đình và nhiều vùng văn hóa khác nhau thuận lợi cho sự tổng hợp nghệ thuật. Tất cả góp phần hun đúc nên con người và thiên tài văn học Nguyễn Du. Những năm tuổi nhỏ nhà thơ sống trong nhung lụa giàu sang. Nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm, sau đó những biến cố dữ dội của thời đại của gia đình đã nhanh chóng đẩy ông ra giữa bão táp cuộc đời. Mười tuổi Nguyễn Du mồ côi cha, mười hai tuổi mồ côi mẹ. Trong thời gian này Nguyễn Du đến sống với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Nguyễn Khản từng làm quan tới chức Tham tụng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm và là người rất mê hát xướng. Trong thời gian sống ở nhà của Nguyễn Khản, Nguyễn Du có nhiều điều kiện thuân lợi để dùi mài kinh sử, có dịp hiểu biết về cuộc sống phong lưu, xa hoa của giới quý tộc phong kiến. Năm 1783, 18 tuổi, Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (tú tài) và được tập ấm chức Chánh thủ hiệu hiệu quân Hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên, cũng trong năm này Nguyễn Du lấy vợ là con gái của Đoàn Nguyễn Thục.
  • 35. 29 Năm 1786, quân Tây Sơn ra Bắc Hà. Các danh tướng Bắc Hà theo nhau bỏ chạy. Nghe quân Tây Sơn tiến quân ra Bắc, Nguyễn Khản ở Hà Tĩnh vượt mành ra Bắc, giúp vua, nhưng không làm được gì, cuối cùng thì cảm bệnh mất ở Thăng Long (1786). Đến năm 1789, Tây Sơn kéo quân ra Bắc đánh tan 29 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta, Lê Chiêu Thống chạy theo tàn quân xâm lược sang Trung quốc. Ba anh em cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du chạy theo Lê Chiêu Thống nhưng không kịp. Lúc này Nguyễn Du cùng với hai anh em còn lại chia tay nhau mỗi người một nơi, Nguyễn Nễ trở về quê mẹ ở xã Hoa Thiều, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Nguyễn Ức trở về quê vợ ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh. Bản thân Nguyễn Du trở về quê vợ ở Thái Bình. Sau một thời gian sống nhờ ở nhà người anh vợ là Đoàn Nguyễn Thuấn, Nguyễn Du trở lại Nghệ An đến năm 1796 nghe tin ở Gia Định Nguyễn Ánh hoạt động mạnh, Nguyễn Du có ý định trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh nhưng chưa ra khỏi địa phận Nghệ An Nguyễn Du bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha Nguyễn Du về sống ở Tiên Điền. Nguyễn Du phải sống một cuộc sống chật vật và khó khăn ở quê nhà, đồng thời trong lòng luôn chứa đầy những nỗi niềm và tâm sự nặng nề không biết chia sẻ cùng ai. Sau 13 năm sống hết sức khó khăn chật vật ở các vùng nông thôn khác nhau, đến thánh tám năm 1802, Nguyễn Du ra làm quan Tri Huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Tháng mười một đổi sang Tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Từ năm 1805 đến năm 1809, ông được thăng chức Đông Các điện học sĩ. Năm 1809, được bổ làm Cai bạ dinh Quảng Bình. Đến năm Quý Dậu (1813) Nguyễn Du được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Sang Trung Quốc Nguyễn Du có điều kiện tiếp xúc với nền văn hóa nước bạn, chuyến đi sứ đã để lại nhiều dấu ấn trong cách nhìn nhận về xã hội và con người Trung Quốc, và phần nào được Nguyễn Du thể hiện rõ trong trong tập thơ chữ Hán “Bắc hành tạp lục”. Năm 1820, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc lần hai để báo tang và cầu phong nhưng lần này chưa kịp đi thì ông bị bệnh dịch mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18 – 9 - 1820), thọ 54 tuổi. Có thể thấy Nguyễn Du làm quan cho nhà Nguyễn gần 19 năm và trên bước đường thăng tiến khá thuận lợi không có gì gập ghềnh, trắc trở.
  • 36. 30 Năm 1965, Hội đồng Hòa bình thế giới đã công nhận Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới và tổ chức kỉ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của ông (1765 - 1965). Như vậy, thông qua cuộc đời của Nguyễn Du có thể nhận thấy quê hương, gia đình, xã hội và những biến cố trong cuộc đời ông đã góp phần hình thành nhân cách và phát huy năng lực nghệ thuật dồi dào ở Nguyễn Du. Điều vĩ đại ở Nguyễn Du là từ một quý tộc phá sản, ông đã vươn lên trở thành một nghệ sĩ thiên tài. Mặc dù xuất thân từ giai cấp phong kiến nhưng Nguyễn Du sớm nhận thấy những hạn chế của giai cấp mình, sớm thấu hiểu và cảm thông với nhân dân lao động. Nguyễn Du xứng đáng là nhà nhân đạo lỗi lạc của nền văn học nước nhà. 1.4.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du Trong sự nghiệp văn học Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn chương có giá trị, mãi trường tồn với thời gian. Ông sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm. Sáng tác bằng chữ Nôm Nguyễn Du có tác phẩm Truyện Kiều. Về sáng tác bằng chữ Hán hiện nay giới nghiên cứu đã sưu tầm được 250 bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du viết vào các thời kì khác nhau gồm ba tập: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Tập đầu tiên trong thơ chữ Hán đó là tập thơ: “Thanh Hiên thi tập” được sáng tác trong khoảng thời gian từ năm 1785 đến năm 1802, chủ yếu được nhà thơ viết khi ông lánh ẩn ở quê vợ, Thái Bình, rồi trở về Hồng Lĩnh và ra lại Bắc Hà làm quan triều Gia Long. Tập thơ gồm 78 bài và chia làm các giai đoạn khác nhau như: Mười năm gió bụi (1786- 1795) gồm 30 bài, “Dưới chân núi Hồng” (1796 - 1802) gồm 30 bài, Làm quan ở Bắc Hà (1802 - 1804) gồm 18 bài. Tập thơ là tâm sự của nhà thơ trong những năm tháng sống long đong vất vả ở Thái Bình, cũng như ở Tiên Điền. Qua những bài thơ thấy được nỗi buồn tủi cô đơn, và đồng thời là những lời than thở của tác giả về cuộc sống nay ở đầu sông, mai ở cuối bể, ăn nhờ ở đậu, bệnh tật, đói rét ốm đau. Có những khoảng thời gian nhà thơ muốn được trở về quê nhà ở Hà Tĩnh, nhưng Hà Tĩnh nhà cũng không còn, giờ đây anh em lại mỗi người một phương. Mang trong mình tâm trạng u buồn nhiều lúc Nguyễn Du muốn tìm đến những nơi bình yên, muốn đi ở ẩn, muốn hành lạc, để vơi đi những buồn đau trong lòng, nhưng với cuộc sống hiện tại không cho phép nhà thơ đi ở ẩn, cũng không có điều kiện để đi hành lạc. Chính vì vậy, Nguyễn Du lại trở về với chính nỗi buồn của mình và nỗi nhớ quê hương in lằn trong tâm hồn nhà thơ, mỗi bài thơ
  • 37. 31 trong Thanh Hiên thi tập là một câu chuyện kể về những khoảnh khắc thời gian và cuộc đời của tác giả ở những năm tháng khác nhau. Tập thơ thứ hai: Nam trung tạp ngâm sáng tác trong khoảng thời gian từ năm (1805 - 1812) gồm 40 bài khi Nguyễn Du làm quan ở Huế và Quảng Bình, những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh, quê hương ông. Những bài thơ trong Nam trung tạp ngâm vẫn là tiếng than thở của nhà thơ trước một thực trạng mà ông không thấy có gì gắn bó, rải rác trong những vần thơ vẫn thấy Nguyễn Du nói về sự nghèo khổ và ốm đau, ở một số bài thơ ông có nói đến bọn quan lại hay chèn ép, bên cạnh đó cũng có những bài ông tâm sự về việc ra làm quan bị gò bó, và không tìm thấy những ngày tự do, phóng khoáng. Khi ra làm quan ông phải cố giữ mình tránh va chạm với những quần thần trong triều, đồng thời tránh những hiềm khích đố kị lẫn nhau ở chốn quan trường. Như vậy, các bài thơ trong Thanh Hiên thi tập và Nam trung tạp ngâm tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau, day dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về xã hội của tác giả. Tập cuối cùng là Bắc hành tạp lục (1813 - 1814) gồm 132 bài được sáng tác trong chuyến đi sứ ở Trung Quốc. Trong tập thơ Nguyễn Du viết về nhiều đề tài và có nhiều nội dung khác nhau, có những bài ông viết về đề tài lấy từ đất nước mình như bài Long thành cầm giả ca (Bài ca người gảy đàn ở thành Thăng Long). Ngoài ra Bắc hành tạp lục là tập thơ Nguyễn Du viết về đề tài ở đất nước Trung Quốc, bao gồm những đề tài lịch sử và những điều ông tận mắt thấy, tai nghe trong chuyến đi sứ. Có thể thấy, đây là một trong những tập thơ Nguyễn Du viết nhiều nhất và hay nhất trong các tập thơ chữ Hán của mình. Bắc hành tạp lục có ba nhóm đề tài đáng chú ý: Thứ nhất là đề tài vịnh sử, thứ hai phê phán xã hội phong kiến chà đạp lên quyền sống của con người, thứ ba cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội bị đày đọa hắt hủi. Về phương diện thể thơ trong 250 bài thơ chữ Hán được Nguyễn Du viết theo nhiều thể khác nhau. Phần lớn thơ chữ Hán của Nguyễn Du được làm theo thể thất ngôn bát cú gồm các bài như: My trung mạn hứng (Cảm hứng lan man trong tù), Mạn hứng (Cảm hứng lan man), Điếu La Thành ca giả (Viếng người đào nương ở La Thành)… ngoài ra còn có những bài làm theo thể ngũ ngôn bát cú gồm các bài như: Bất mị (Không ngủ), Khổng tước vũ (Chim công múa), Tái du Tam Điệp sơn (Lại vượt đèo Ba Dội)… có những bài được sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt như: Thương Ngô trúc chi ca (Ca điệu Trúc Chi làm khi đi qua đất Thương Ngô),
  • 38. 32 Sơ thu cảm hứng (cảm hứng đầu thu)… Bên cạnh đó Nguyễn Du còn sáng tác theo thể cổ phong như các bài: Ký mộng (Ghi lại giấc chiêm bao), Long Thành cầm giả ca (Bài ca người gảy đàn ở thành Thăng Long), Thái Bình thành hạ văn xuy địch (Nghe thổi sáo ở dưới thành Thái Bình). Về đề mục trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng tôi nhận thấy rằng phần nhiều mỗi đề mục là một bài. Nhưng cũng có một số đề mục từ hai đến ba bài nhưng cũng có đề mục lên đến tận mười lăm bài. Trong tập Thanh Hiên thi tập gồm 67 đề mục, 78 bài trong đó có 8 đề mục có hai bài như: U cư ( Ở nơi u tịch), Tự thán (Than thân), Mạn hứng (Cảm hứng lan man), Thu dạ (Đêm thu), Hành lạc từ (Bài từ hành lạc), Tạp thi (Tạp thi), Ngọa bệnh (Nằm bệnh), Ngẫu hứng ( Ngẫu hứng). Một đề mục có ba bài như: Tạp ngâm(I, II, III). Nam trung tạp ngâm gồm có 27 đề mục, 40 bài. Trong đó có ba đề mục có hai bài như: Giang đầu tản bộ (Dạo bước bên sông), Giản Công bộ Thiêm sự Trần (Gởi ông Thiêm sự bộ Công họ Trần), Đại tác cửu thú tư qui (Làm thay người đi thú lâu năm, nhớ nhà). Có một đề mục có ba bài Ngẫu thư công quán bích (Tình cờ đề thơ trên vách công quán), và hai đề mục có năm bài như: Mộng đắc thái liên (Nằm mơ thấy hái sen), Ngẫu hứng. Bắc hành tạp lục gồm 110 đề mục, 131 bài, trong đó có 6 đề mục mỗi đề mục có 2 bài như: Thăng Long, Sơ thu cảm hứng (Cảm hứng đầu thu), Tô Tần đình (Đình Tô Tần), Sở Bá Vương mộ (Mộ sở Bá Vương), Tần Cối tượng (Tượng Tần Cối), Vượng thị tượng (Tượng Vương Thị), ngoài ra còn có một đề mục có 15 bài đánh dấu thứ tự từ 1 đến 15 như: Thương Ngô trúc chi ca (Ca điệu Trúc Chi làm khi qua đất Thương Ngô). Tóm lại, “Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục” được sáng tác ở nhiều thời điểm khác nhau và khá đa dạng về đề tài. Khi nói về ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Quách Tấn đã có nhận xét như sau: “tập Thanh Hiên và tập Nam Trung phản ánh nhiều cảnh ngộ và tâm sự của Nguyễn Du. Còn tập Bắc Hành thì biểu lộ một cách rõ ràng ý chí và tư tưởng của tác giả. Mỗi bài thơ mỗi câu thơ là một mảnh gương phản chiếu tâm hồn” [9, tr. 41, 42].
  • 39. 33 Chƣơng 2 THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU 2.1. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du 2.1.1. Quan niệm về con người đời tư trong thơ cổ phong Nguyễn Du Nguyễn Du là một trong những tác giả lớn trong nền văn học trung đại Việt Nam, ông đã để lại cho hậu thế những kiệt tác văn chương trường tồn mãi với thời gian. Ở những tác phẩm chữ Nôm như Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh, Nguyễn Du đã phản ánh một cách chân thực và sinh động về đời sống xã hội cũng như những quan niệm nghệ thuật về con người. Cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du về con người cho thấy ông đã đổi mới quan niệm về con người và cách miêu tả con người tạo thành chất lượng mới trong tác phẩm. Quan niệm nghệ thuật về con người không chỉ được biểu hiện trong thơ chữ Nôm, trong thơ chữ Hán cũng được thể hiện sinh động, sâu sắc những kiểu con người khác nhau. Nguyễn Du sống trong một xã hội có nhiều nhiễu động, ông đã trải qua những giai đoạn thăng trầm của cuộc đời, đã chứng kiến biết bao cảnh đời khó nhọc, vất vả, long đong, chìm nổi trong xã hội. Nguyễn Du luôn xót xa cho mọi kiếp người và luôn day dứt trăn trở về nhân sinh thế cuộc. Ông luôn luôn hiểu và thấu cảm với những con người có những mảnh đời khác nhau trong cuộc sống, tất cả những con người này được ông phản ánh vào trong thơ văn của một cách chân thực. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật trong thơ cổ phong của Nguyễn Du chính là tìm hiểu quan niệm của tác giả thông qua hình tượng con người, nhân vật có mặt trong tác phẩm. Hình tượng nghệ thuật về con người trong thơ cổ phong Nguyễn Du phong phú và khá phức tạp khó có thể tìm hiểu một cách toàn diện. Chất chứa trong từng lời thơ là những khát vọng, những suy tư, trăn trở, dằn vặt, những tình cảm của nhà thơ dành cho những nhân vật của mình trong tác phẩm. Nguyễn Du là một con người luôn sống có trách nhiệm với cuộc sống, với tất cả mọi người xung quanh mình, là con người có trách nhiệm bởi vậy ông luôn “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” đau buồn trước những nỗi đau của con người, những số phận không may trong cuộc sống. Có lẽ bao trùm lên tất cả là một cái tôi tự ý thức của cá nhân, sự nhạy cảm với cuộc đời, thời cuộc. Sự tự ý thức mẫn cảm ấy đã chi phối hình tượng nghệ
  • 40. 34 thuật con người trong tác phẩm. Để lí giải quan niệm nghệ thuật phức tạp này chúng ta cần xâm nhập vào những tác phẩm nghệ thuật và thế giới trữ tình của tác giả. Những bài thơ cổ phong của Nguyễn Du giúp ta chiêm nghiệm, suy ngẫm về những hình tượng con người được tác giả khắc họa với những hoàn cảnh và số phận khác nhau như: những con người nghèo khổ, cơ cực; con người tài hoa nhưng lại gặp số phận không may mắn trong cuộc sống; con người độc ác, xấu xa với bản chất mưu mô gian xảo, tàn bạo. Những hình tượng con người này được Nguyễn Du phản ánh một cách cụ thể giống như những bức tranh đời sống chân thực, từ đó giúp người đọc có cái nhìn và những suy tư trăn trở ẩn chứa trong bức tranh đó. 2.1.1.1. Con người nghèo khổ, cơ cực Nguyễn Du là nhân chứng của một thời kì lịch sử, với những sự kiện trọng đại những biến cố dữ dội nhất của dân tộc Việt Nam đương thời tình hình chính trị rối ren. Đất nước chia hai, đàng trong và đàng ngoài tranh chấp phong kiến nổ ra liên miên kéo dài hơn hai thế kỉ làm đất nước phải chịu cảnh “nồi da nấu thịt cốt nhục tương tàn”. Nguyễn Du đã chứng kiến đã sống cùng với những biến cố kinh hoàng ấy và tất nhiên có ảnh hưởng sâu nặng đến sáng tác. Đây chính là điều kiện để nhà thơ gần gũi với người dân hiểu và cảm thông sâu sắc với cuộc sống cực khổ của nhân dân lao động. Sống trong một thời đại loạn lạc, nên chính bản thân Nguyễn Du cũng có thời gian sống cuộc đời trôi nổi. Từ chỗ xuất thân trong một gia đình quý tộc nhưng do những biến cố của lịch sử nên có một khoảng thời gian dài, Nguyễn Du có cuộc sống rất khó khăn sống chìm nổi long đong, chịu nhiều thiếu thốn, cơ cực. Nếm trải đủ mùi gian khổ, chính những điều này cũng được phản ánh rất rõ qua các câu thơ trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, với những vần thơ chất chứa nỗi niềm tâm sự: Mới chớm rét đã cảm thấy nỗi khổ không áo (Đêm thu). Hay trong bài Tạp ngâm ông lại nói “Bếp núc suốt ngày không có khói lửa”; “Tóc bạc còn loay hoay vì cơm áo” (Ngồi đêm). Cũng có những khoảng thời gian Nguyễn Du sống trong cảnh ăn nhờ ở đậu, và những năm tháng bôn ba hết miền sông rồi tới miền biển. Sống gần gũi với những người dân lao động, nên phần nào Nguyễn Du hiểu được cuốc sống cơ cực, nghèo khổ, lam lũ của người dân. Trong những vần thơ cổ phong của Nguyễn Du, tấm lòng nhà thơ luôn trải rộng cho mọi kiếp người. Nguyễn Du không chỉ xót thương, chia sẻ mà phần nào thấu cảm, lý giải, cắt nghĩa của chính nhà thơ đối với những mảnh đời nghèo khổ,
  • 41. 35 cơ cực. Trong cuộc hành trình đi sứ sang phương Bắc, Nguyễn Du đã gặp nhiều cảnh tượng đau lòng khiến ông phải ngạc nhiên, cứ nghĩ rằng cảnh tượng của những con người khốn khổ, nghèo đói ấy chỉ có ở người dân đất Việt. Hiện thực trước mắt hiện ra khiến ông phải thốt lên rằng. Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bảo Trung Hoa diệc hữu như thử nhân! (Thái Bình mại ca giả) (Thường chỉ nghe ở Trung Nguyên ai cũng no ấm. Ngờ đâu Trung Nguyên cũng có người như thế này) Nguyễn Du là người đọc nhiều sách vở thánh hiền, luôn tự mình học hỏi tìm hiểu lịch sử, văn hóa của các quốc gia dân tộc khác nhau, và điều hiển nhiên Trung Quốc là đất nước mà Nguyễn Du đã từng quen thuộc qua nhiều sử sách và thơ văn. Nguyễn Du luôn nghĩ rằng Trung Hoa là nước phát triển, thiên nhiên cảnh vật thơ mộng, con dân sẽ được sống trong cảnh thái bình, cuộc sống âm no, hạnh phúc. Nhưng khi tận mắt chứng kiến cuộc sống của những người dân, Nguyễn Du nhận ra rằng đất nước Trung Hoa cũng chẳng khác gì đất Việt. Cuộc sống của người dân cũng không kém phần cực khổ. Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn Chỉ hữu xuân tác vô thu thành Hồ Nam, Hà Nam cửu vô vũ Tự xuân tồ thu điền bất canh (Trở binh hành) (Ta nghe người vùng này nhiều năm khổ vì lúa mất trắng và nắng cháy/ Chỉ có cấy xuân mà không thu hoạch được/ Hồ Nam, Hà Nam từ lâu không có mưa/Từ mùa xuân đến mùa thu ruộng bỏ không cày) Chuyến đi sứ đã đem đến cho Nguyễn Du cách nhìn nhận xã hội sâu sắc và toàn diện hơn. Trên đường đi ông đã nhìn thấy biết bao cảnh đời nghèo khó, vật lộn với cuộc sống để kiếm ăn từng bữa, sống leo lắt qua ngày. Những bài thơ cổ phong của Nguyễn Du đã vẽ nên trước mắt người đọc một bức tranh hiện thực sống động về cái đói, cái rét làm cho con người tàn tạ mất hết sức sống, cũng có lúc chính cái đói nó cướp đi cuộc sống của con người. Có thể thấy rõ điều này trong bài thơ Sở
  • 42. 36 kiến hành, bài thơ ngũ ngôn cổ phong theo thể hành rất thuận tiện cho nhà thơ kể chuyện về cuộc đời số phận của bốn mẹ con người đàn bà hành khất tiều tụy, vật vờ bên vệ đường, quần áo lam lũ tả tơi. Mở đầu bài thơ tác giả khắc họa hình ảnh bốn mẹ con người ăn xin với những dáng đi xiêu vẹo trên đường. Hữu phụ huề tam nhi, Tương tương tọa đạo bàng. Tiểu giả tại hoài trung Đại giả trì trúc khuông Khuông trung hà sở thịnh? Lê hoắc tạp tì khang. Nhật án bất đắc thực, Y quần hà khuông nhương! (Sở kiến hành) (Có người đàn bà dắt ba đứa con/ Cùng nhau ngồi ở bên đường/ Đứa nhỏ ẵm trong lòng/ Đứa lớn cầm chiếc giỏ tre/ Trong giỏ đựng những gì?/Rau lê, rau hoắc lẫn với cám/ Quá trưa rồi vẫn chưa được ăn/ Áo quần sao mà rách rưới quá!) Trong cách miêu tả của Nguyễn Du hình ảnh bốn mẹ con hiện lên đầy xót xa tội nghiệp. Nhìn cảnh bốn mẹ con rách rưới bồng bế dắt díu nhau đi và cùng ngồi bên vệ đường nhà thơ động lòng trắc ẩn, thương cho số phận của những đứa trẻ nhỏ không biết sẽ trôi dạt về đâu. Hình ảnh của những đứa trẻ được nhà thơ khắc họa rõ nét, đứa nhỏ chưa biết đi người mẹ phải ẵm trong lòng, đứa lớn đi được cũng phải mang trên mình một cái gì đó làm cho thân hình nhỏ bé bước đi từng bước mệt mỏi rã rời (Đứa lớn tay mang giỏ). Chiếc giỏ trong tay đứa trẻ cầm cũng không biết đựng những gì, nó chỉ biết rằng những thứ đó chính là thức ăn của mấy mẹ con Rau lê, rau hoắc lẫn với cám. Trong những năm hạn hán mất mùa xảy ra liên tiếp, còn có rau và cám để ăn con người cũng cảm thấy còn có một chút gì may mắn. Chính những thức ăn ấy sẽ giúp con người chống chọi với những ngày đói trước mắt. Chỉ với hình ảnh một chiếc giỏ trên tay của đứa trẻ Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được cuộc sống của con người nghèo khổ, oái oăm đến nhường nào. Con người phải vật lộn với cuộc sống mưu sinh, tìm kiếm từng cái ăn, cái mặc một cách gian nan, khó nhọc.
  • 43. 37 Trước cảnh sống của người dân, Nguyễn Du còn thấy một tương lai mù mịt thê thảm của con người. Nguyễn Du đau lòng trước cảnh những người dân mất mùa đói kém phải từ bỏ nhà, bỏ làng quê đi xin ăn từng bữa để sống qua ngày. Sớm muộn gì những con người này cũng bỏ thây nơi ngòi rãnh. Mẫu tử bất túc tuất, Phủ nhi tăng đoạn trường. Kỳ thống tại tâm đầu Thiên nhật giai vị hoàng. (Sở kiến hành) (Mẹ chết không đáng tiếc/ Vỗ về con mà thêm đứt ruột/ Trong lòng đau xót lạ lùng/ Mặt trời cũng vì người mà vàng úa!) Đau đớn đến nghẹt thở, bi phẫn đến tột cùng, trên con đường giữa sự sống và cái chết, những đứa trẻ kia là tình yêu của người mẹ. Chắc hẳn đối với tất cả người mẹ trên đời này những người con luôn là tài sản quý nhất, vì chúng người mẹ có thể làm tất cả, sẵn sàng hi sinh bản thân để đem đến cuộc sống bình yên cho những đứa con. Hình ảnh những đứa trẻ với đôi mắt ngây thơ hồn nhiên, dường như chúng chưa hiểu về hoàn cảnh hiện tại của mình, chưa hiểu được nỗi đau đang dày vò trong lòng người mẹ. Nhìn cảnh những đứa con thơ dại cứ vẫn cười nói như thường, càng làm cho nỗi buồn đau nặng trĩu trên đôi vai gầy gò của người mẹ. Trước tình cảnh khốn cùng của người dân, không chỉ Nguyễn Du ngậm ngùi thương xót. Trời đất cũng như đang tối sầm lại, mặt trời không còn vẻ ấm áp tươi vui, nó cũng xót xa úa vàng, cũng đau khổ, xót thương cho những kiếp người nghèo. Thật đau lòng thay những kẻ có trách nhiệm với dân vẫn thản nhiên đứng nhìn, dường như trong mắt chúng, những người đói khổ, những xác người bên đường kia chẳng liên quan gì đến mình nên cứ ăn uống no say, chơi đùa thỏa thích. Trước hiện thực nghiệt ngã như vậy, Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh “no nê thừa mứa” cảnh tiệc tùng linh đình của bọn quan lại ở trạm Tây Hà. Tạc tiêu Tây hà dich, Cung cụ hà trương hoàng! Lộc cân tạp ngư xí, Mãn trác trần trư dương. Trưởng quan bất hạ trợ, Tiểu môn chỉ lược thường. Bát khí vô cố tích, (Sở kiến hành)
  • 44. 38 (Đêm qua ở trạm Tây Hà/ Tiệc tùng cung đốn sao mà linh đình thế/ Gân hươu cùng vây cá/ Đầy bàn thịt lợn, thịt dê/ Quan lớn chẳng đụng đũa/ Tùy tùng chỉ nếm qua loa/ Bỏ mứa không đoái tiếc) Những câu thơ thấy được sự bất công vô lí trong cuộc đời, người giàu hay người nghèo, đều là những con người bằng da, bằng thịt nhưng sao lại bất công đến thế. Ở đây, chúng ta nhận ra rằng, cũng là người nhưng họ là những quan lớn, cuộc sống của họ là những gam màu tươi sáng, những bữa tiệc được dọn ra sẵn và rồi lại được đổ đi đến nỗi Chó hàng xóm cũng chán cao lương. Vậy mà họ có biết rằng những cái họ đổ đi chín là niềm mơ ước của bao con người ngoài xã hội. Họ có biết rằng, ngay chính bên đường quan cạnh đó có bốn mẹ con nhà nọ sắp chết vì đói. Bất tri quan đạo thượng Hữu thử cùng nhi nương ( Sở kiến hành) (Không biết trên đường cái quan/ Có mẹ con nhà này khốn cùng như thế) Cái chết không còn là những lời nói viễn vong nữa mà nó đã bày ra trước mắt con người, dọc đường phố đâu đâu cũng đầy những xác người chết đói. Nhãn hạ ủy câu hác, Huyết nhục tự sài lang (Sở kiến hành ) (Nhìn thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh/ Máu thịt nuôi sài lang) Và cái chết luôn rình rập, xuất hiện ở bất cứ nơi đâu Nhãn kiến cơ biếu tử đương đạo, Hoài trung táo tử thân biên khuynh. (Trở binh hành) (Ta nhìn thấy tận mắt người đói chết giữa đường, Hột táo trong bọc túi lăn bên mình) Nhìn từ bọc túi lăn ra hạt táo, nhà thơ thoảng thốt kêu lên, thức ăn của con người không chỉ rau và cám mà còn có lẽ là những hạt táo. Cuộc sống con người đói khổ đến mức, phải ăn những hạt táo người ta vứt bỏ để cầm hơi và sống sót qua những ngày đói.
  • 45. 39 Mỗi một bài thơ cổ phong là một câu chuyện về cuộc đời của con người. Dù được miêu tả ở những khía cạnh khác nhau, nhưng hình ảnh nghèo khổ của người dân được Nguyễn Du miêu tả đúng như bản chất vốn có của nó. Đó là nỗi thống khổ của những người dân đen thường gặp phải trong cuộc sống như: thiên tai, mất mùa, đói rét, ốm đau, bệnh tật dẫn đến chết chóc, cuộc sống nay đây mai đó không nhà không cửa. Nguyễn Du vẫn thường nói về sự nghèo khổ của những người dân đen, nhưng với hai bài thơ Sở kiến hành và Thái Bình mại ca giả Nguyễn Du đã nhìn thấu, cảm thấu nỗi khổ của con người. Thái Bình cổ sư thô bố y, Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi. Vân thị thành ngoại lão khất tử, Mại ca khất tiền cung thần xuy. (Thái Bình mại ca giả) (Ở phủ Thái Bình có người mù mặc áo vải thô/ Có em bé dắt ra bến sông/ Bảo rằng đó là ông già xin ăn ở ngoài thành/ Hát rong xin tiền để kiếm cơm.) Ở bài “Thái Bình mại giả ca” Nguyễn Du kể về cảnh sống của ông già mù hát rong ở châu Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây. Cuộc sống của ông già mù cũng không khác gì mấy so với bốn mẹ con trong Sở kiến hành. Chỉ vì cuộc sống quá nghèo khổ, ông già phải tự mình đi hát rong để kiếm cái ăn. Dù tuổi đã cao sức đã yếu, mắt không nhìn thấy nhưng tiếng hát, tiếng đàn của ông già vẫn lay động lòng người, khiến cho người xem, người nghe đều im lặng, đắm chìm trong tiếng nhạc quên hẳn cả thực tại. Quan giả thập số tịnh vô ngữ (Thái Bình mại ca giả) (Hơn chục người xem đều im lặng lắng nghe) Nguyễn Du nhìn thấy những người ngồi trên thuyền đều là quan lớn, với vẻ bề ngoài sang trọng. Ông hi vọng họ sẽ mở rộng tấm lòng giúp đỡ cho hoàn cảnh khốn khó của con người nghèo khổ kia, nhưng viễn cảnh trước mắt thật đau lòng.
  • 46. 40 Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc, Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc. Đàn tận tâm lực cơ nhất canh, Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục. (Thái Bình mại ca giả) (Miệng sùi bọt, tay rã rời/ Ngồi yên, cất đàn, ngỏ lời đã đàn xong/ Dốc hết tâm lực gần một trống canh/ Mà chỉ được năm sáu đồng tiền.) Cũng chính vì cái đói, cái nghèo cứ bủa vây lấy con người, nên ông già mù ở châu Thái Bình phải mò lần từng bước đi, kiếm cái ăn để nuôi sống bản thân qua ngày. Ông đã cố gắng hết tâm lực, ngồi đàn cả một trống canh nhưng chỉ để đổi lấy được năm sáu đồng bạc. Những đồng tiền kiếm được không thỏa với công sức ông đã bỏ ra nhưng ông vẫn giữ được cách cư xử của một con người biết lễ nghĩa. Mô sách dẫn thân hướng tọa ngung Tái tam cử thủ xưng đa tạ (Thái Bình mại ca giả) (Ông già sờ soạng đến ngồi vào một góc/ Hai ba lần giơ tay lên thi lễ tạ ơn) Hát xong, ông đi tiếp cuộc hành trình đau khổ. Trong cảnh khốn khó như vậy khi lên thuyền, ông vẫn không quên ngoảnh đầu quay lại luôn mồm tạ ơn, chúc phúc người chủ thuyền hai ba lần. Tội nghiệp đến thế là cùng. Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai Do thả hồi cố đảo đa phúc (Thái Bình mại ca giả) (Đứa bé dẫn được ra khỏi thuyền/ Còn quay đầu lại chúc “đa phúc”) Nhìn thấy cảnh tượng của ông già Nguyễn Du lòng đau quặn thắt. Ngã sạ kiến chi, bi thả tân Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần (Thái Bình mại ca giả) (Ta chợt thấy vậy vừa buồn đau vừa chua xót Phàm người ta thà muốn chết, không ai muốn nghèo) Ông già mù tiếp tục hành trình của mình, khi bóng hai ông cháu khuất dần. Nguyễn Du ngồi lại trên thuyền với nỗi buồn da diết, bổng nhiên nhà thơ thốt lên
  • 47. 41 rằng “Người ta thà chết còn hơn nghèo” hỏi trong cuộc đời này có mấy ai hiểu được cảnh nghèo như nhà thơ. Nỗi buồn, nỗi đau đến đây vì thế nó trở thành một nỗi giận lớn. Khi Nguyễn Du chứng kiến cảnh tượng những con người ngồi trên thuyền đều là những người giàu sang, sống trong nhung lụa, với cuộc sống xa hoa, những bữa tiệc linh đình, đến nỗi thức ăn dư thừa đều hắt xuống sông. Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ Hành nhân bão thực tiện khí dư Tàn hào lãnh phạn trầm giang để (Thái Bình mại ca giả) (Thuyền này thuyền nọ đều đầy gạo thịt/ Người trong đoàn sứ ăn no còn thừa thì vứt/ Cơm nguội, thức ăn thừa đổ xuống đáy sông) Trong cảnh thiên tai, đói rét mất mùa hàng trăm người dân phải chết đói, hàng nghìn người khác phải lay lắt kiếm từng bữa ăn. Những thức ăn kiếm được phải đổi bằng mồ hôi và những giọt nước mắt cay đắng, những tủi hổ của bản thân. Người nghèo phải ăn rau, ăn cám, ăn tấm và những hột táo người ta bỏ lại … còn quan lại thì thịt lợn, thịt dê cơm gạo thừa mứa đổ cả xuống sông. Từ đây thấy được hiện thực cuộc sống đầy nghiệt ngã với những mâu thuẫn giai cấp sâu sắc, dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Du phần nào vạch rõ bản chất của giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Giai cấp thống trị luôn sống trong giàu sang còn những người dân thấp cổ bé họng lại chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống. Khi nhìn thấy cảnh của những người dân chết đói trên đường và những con người đang vật lộn với cái đói, quan lớn đưa ra những lời hứa phát chẩn nghe rất êm tai, hòng xoa dịu nỗi đau, muốn che mắt thiên hạ, lừa gặt triều đình. Việc phát lúa gạo để cứu sống những người dân trong cơn hoạn nạn, đói khát cũng để nhằm mục đích vơ cái chung của triều đình làm đầy túi tham của riêng họ. Tạc kiến Tân Trịnh thành môn niêm bảng thị Án hộ cấp túc tô tàn manh ( Trở bình hành) (Hôm trước thấy trong thành Tân Trịnh yết bảng cáo thị Xét theo hộ mà cấp lúa cứu sống lũ dân sống sót.) Việc làm của nhà quan đều có mục đích rõ ràng, bởi vì phải xét theo hộ những ai còn sống mới cứu tế phát lương thực. Thực chất chúng hiểu rằng còn được mấy người sống sót, và lương thực chúng cứu tế cũng chỉ đủ người dân sống dăm
  • 48. 42 bữa nửa tháng là cùng. Ngay trong một không gian tăm tối ảm đạm, hiu hắt bao quanh cuộc sống của người dân, quan trên thổi vào đó một luồng sinh khí, viễn cảnh tươi sáng. Hoàng Hà dĩ bắc mạch hựu thục, Bách nhật nhi bối thê tử giai đắc sinh ( Trở binh hành) (Phía bắc sông Hoàng Hà lúa mạch lại chín Trăm ngày nữa thì vợ con các ngươi sẽ đều được sống) Một lời an ủi, vỗ về thật cảm động, của quan tuần phủ nhưng qua đây chúng ta cũng phải suy nghĩ và tự đặt ra câu hỏi, liệu những người sống sót trong hiện tại của nạn đói, họ có thể sống được trăm ngày nữa để chờ đến ngày lúa chín hay không? Thực buồn cười trước những lời hứa hẹn giúp đỡ đầy tình yêu thương của quan tuần phủ ở chính trên mảnh đất mà người nông dân đang chết dần chết mòn vì đói. Nguyễn Du đã bóc trần đúng bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị, phơi bày hiện thực xã hội thối nát của đất nước Trung Hoa. Nhân dân điêu linh, lầm than sống trong cái đói, cái rét, thiên tai hạn hán mất mùa, còn quan lại chỉ là những con bù nhìn, vui vẻ tiệc tùng linh đình không quan tâm đến đời sống của nhân dân. Có thể nói chính từ cuộc đời khốn khó của mình mà Nguyễn Du càng cảm thông nhiều hơn với những mảnh đời bất hạnh trong cuộc sống, đồng thời thể hiện sự căm giận với hiện thực bất công trong cuộc đời. Đó chính là tình cảm nhân đạo cao quý nhất của nhà thơ dành cho những kiếp con người trong xã hội. Những vần thơ cổ phong không chỉ là những ngôn từ sáo rỗng, mà ẩn chứa bao nước mắt, bao tâm tư, thậm chí cả máu đã hòa lệ để xót thương cho những kiếp người khác nhau mà Nguyễn Du đã chứng kiến trên đường đi sứ. Trong mỗi bài thơ cổ phong là cảnh ngộ, là những câu chuyện về cuộc đời của mỗi con người: như trong bài Sở kiến hành là câu chuyện về cuộc đời của bốn mẹ con người ăn xin bên vệ đường năm đói, với những thức ăn rau cỏ tấm cám cầm hơi, sắp chết lăn nơi ngòi rãnh, hay Thái bình mại ca giả Nguyễn Du kể lại câu chuyện một ông lão mù theo đứa cháu dắt xuống thuyền hát suốt một trống canh, hát đến nỗi “miệng sùi bọt, tay mỏi rời” mà chỉ xin được năm sáu đồng tiền. Hình như ngòi bút của Nguyễn Du luôn tự tìm đến với những kiếp người nghèo khổ, cơ cực, có những lúc ông đã miêu tả một cách trần trụi, để con người hiện ra một cách thê thảm trong tình cảnh dưới đáy của sự khốn cùng. Nhưng có khi Nguyễn Du phát hiện ra rằng ở những con người nghèo khổ kia vẫn có những phẩm chất đáng quý
  • 49. 43 đáng trân trọng, trong hoàn cảnh của cái đói đang dần lấy đi tất cả sự sống của con người. Nguyễn Du đã nhìn thấy ở trong con người của ông gia mù hát rong vẫn có một nhân cách của một con người biết lễ nghĩa, chính hành động cúi người thi lễ tạ ơn đã làm toát lên vẻ đẹp, phẩm chất ẩn chứa bên trong của người nông dân. Nhờ có những trải nghiệm trong cuộc đời nên Nguyễn Du đã viết về người dân nghèo khổ, cơ cực sâu sắc đến như vậy. Khi viết về cuộc sống của người dân nghèo, Nguyễn Du không chỉ tỏ lòng thương xót người dân mà còn hàm ý mỉa mai, phê phán bọn vua quan triều đình phong kiến. Thông qua hình tượng những con người nghèo khổ, cơ cực Nguyễn Du đã phần nào thể hiện cách nhìn, cách hiểu, sự thấu cảm, lí giải và cắt nghĩa của nhà thơ về hiện thực đời sống. Cái nhìn nghệ thuật về con người cho thấy ông đã có cái nhìn đa chiều về con người chứ không phải miêu tả một cách phiến diện. Đồng thời còn thể hiện sự gần gũi của nhà thơ với cuộc sống của những người nông dân. 2.1.1.2. Con người tài hoa, bất hạnh Nguyễn Du luôn gắn bó gần gũi với người dân nên phần nào ông hiểu và cảm thông cho từng số phận, những mảnh đời không may trong cuộc sống. Nguyễn Du luôn dành một tình cảm sâu sắc cho những người phụ nữ và hơn tất cả ông luôn quan tâm đến những người phụ nữ tài hoa nhưng lại gặp nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Trong cuộc sống của con người sắc đẹp và tài năng chính là cái đáng quý đáng trân trọng nhất. Nhưng sống trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ thường đầy rẫy những oan trái. Những người có tài có sắc luôn chịu những số phận không may mắn, cuộc đời long đong, bảy nổi ba chìm, bị vùi dập một cách không thương tiếc. Đặc biệt là tài năng và sắc đẹp của người phụ nữ. Trong thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán của Nguyễn Du, ta vẫn bắt gặp nhiều bài thơ viết về số phận của người phụ nữ. Hình ảnh người phụ nữ đi vào thơ văn Nguyễn Du thường là hình ảnh những ca nhi, kĩ nữ, vợ lẽ, nàng hầu, hay là vợ của vua, thiếp vua… dù là ai đi nữa Nguyễn Du không nhìn họ bằng cái nhìn định kiến như quan niệm của xã hội phong kiến. Ngược lại, ông nhìn họ với tấm lòng yêu thương, trân trọng, bênh vực bảo vệ. Người phụ nữ xuất hiện trong thơ Nguyễn Du không chỉ có tài năng mà còn có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Thế mà tài năng và sắc đẹp thường không mang lại hạnh phúc, luôn mang đến nhiều nỗi bất hạnh trong cuộc đời. Chẳng hạn như trong Truyện Kiều, ta bắt gặp hình ảnh của một nàng Kiều xinh đẹp và tài sắc, nhưng chính cái đẹp, cái tài lại đem đến cho nàng số phận không may, nàng trở
  • 50. 44 thành kĩ nữ, cuộc sống thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần, phải lưu lạc ở chốn lầu xanh, xa gia đình người thân. Trong thời gian đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã đến thăm cảnh Tây Hồ, viếng mộ Tiểu Thanh, đọc bài kí và di cảo Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã có sự đồng cảm và xúc động nên đã viết nên bài “Độc Tiểu Thanh kí”. Nàng Tiểu Thanh nhan sắc và tài năng nổi tiếng một thời mà giờ đây chỉ một mình Nguyễn Du thương xót cho nàng. Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư/ Độc điếu song tiền nhất chỉ thư/ Chi phấn hữu thần liên tử hậu/ Văn chương vô mệnh lụy phần dư. Nguyễn Du thương người con gái ấy sống cách nhà thơ hơn ba trăm năm tài sắc hơn đời, phải đem thân làm vợ lẽ cho một gia đình quyền quý trong vùng. Những tưởng cuộc đời cô sẽ được sung sướng và hạnh phúc, nhưng ngờ đâu đó chính là sự mở đầu cho những sống gió và bất hạnh sau này. Cũng chính vì vẻ đẹp và tài năng của nàng làm cho vợ cả ghen ghét, đố kị nên lập mưu hãm hại đến nỗi phải ôm hận mà chết. Nỗi uất ức, đau khổ được cô gửi gắm vào thơ nhưng nhiều bài thơ đều bị vợ cả đốt, may sao còn có một số bài sót lại. Từ số phận của nàng Kiều, nàng Tiểu Thanh thấy được những oan nghiệt ngang trái của cuộc đời. Những con người ấy bị vùi dập không thương tiếc, giờ đây thân xác họ bị vùi lấp, sau cái chết của họ, chắc chẳng ai còn nhớ đến sự tồn tại của những con người này, họ bị lẵng quên, và dần chìm vào quá khứ. Hình ảnh người phụ nữ tài sắc không chỉ xuất hiện trong thơ Nôm, và trong thể thất ngôn bát cú Đường luật, còn xuất hiện trong những vần thơ cổ phong. Trong thơ cổ phong của Nguyễn Du, ta cũng bắt gặp hình ảnh người phụ nữ tài sắc. Đầu tiên chúng tôi muốn nói đến nhóm thơ kể chuyện “những điều trông thấy” với số phận của những con người thực, hiện ra một cách cụ thể và rõ nét. Nguyễn Du tận mắt chứng kiến một phần về cuộc đời của họ, với những thay đổi của con người làm cho nhà thơ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Long Thành cầm giả ca là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho những bài viết về số phận bi kịch của người phụ nữ. Đây là bài thơ tự sự được làm theo ca hành với độ dài lên đến năm mươi câu. Trong hai mươi sáu bài thơ cổ phong của Nguyễn Du, đây là bài thơ duy nhất trong nhóm thơ cổ phong, có kèm theo phần tiểu dẫn kể về cuộc đời và số phận của một ca nữ vô danh mà Nguyễn Du đã chứng kiến trên đường đi. Đều viết về đề tài người phụ nữ nhưng mỗi bài lại có sự thể hiện hoàn toàn khác nhau. Đấy chính là dấu hiệu của một tài năng không hề lặp lại trong những sáng tác, giúp người đọc có những cách nhìn, cách đánh giá chính xác về tài năng văn chương của Nguyễn Du.
  • 51. 45 Bài thơ Long Thành cầm giả ca khác với Truyện Kiều, khác với Độc Tiểu Thanh kí, nhân vật trung tâm của tác phẩm không được Nguyễn Du giới thiệu danh tính cụ thể. Tính không xác định này phải chăng là một dụng ý nghệ thuật, nhằm khẳng định một tài năng của một con người vô danh, tài năng ấy được thể hiện thông qua tiếng đàn mà người phụ nữ này đánh lên. Mở đầu bài thơ Nguyễn Du đã giới thiệu đến người đọc về tài năng của người gảy đàn. Long thành giai nhân, Tính thị bất ký thanh. Độc thiện Nguyễn cầm. Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh. Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc, Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh. (Long Thành cầm giả ca) (Người đẹp thành Thăng Long/ Họ tên không được rõ/ Riêng thạo ngón đàn Nguyễn cầm/ Người trong thành lấy chữ “Cầm” gọi tên nàng/ Nàng học được khúc/ “Cung phụng” trong cung vua triều trước/ Đó là khúc nhạc hay nhất tưởng chừng như từ trên trời đưa xuống trần gian.) Có tài gảy đàn nhưng qua lời giới thiệu của tác giả, chúng ta không hề biết gì về lai lịch của người gảy đàn. Chỉ biết rằng người ta thường gọi người gảy đàn là cô Cầm, nhưng thực chất Cầm không phải là một cái tên, cái tên này do chính những người nghe đàn tự đặt lấy cho nàng, gọi quen nên nó trở thành tên. Cầm là tên của cây đàn nhưng về sau cái tên này gắn bó với cô hết cuộc đời. Có thể thấy “Long Thành cầm giả ca là bài thơ được viết trên một câu chuyện có thực theo truyền thống Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Nhưng nó khác với Tỳ bà hành. “Người phụ nữ trong Tỳ bà hành già đi theo năm tháng, rồi bị chồng ruồng rẫy, cuộc đời lận đận. Bạch Cư Dị gặp nàng trong lúc mình bị giáng trích, khóc rất nhiều. Những giọt nước mắt của Bạch Cư Dị nghìn năm sau còn làm người ta thương cảm, và chủ đề “kỹ nữ” đã trở thành chủ đề của mọi thời đại. Nguyễn Du chắc chắn đã tiếp nhận tiếng vang của những rung cảm lớn đó trong Tỳ bà hành, nhưng Nguyễn Du đem lại cho Long Thành cầm giả ca một âm điệu khác. Số phận của người gảy đàn được Nguyễn Du đặt vào trong những biến động mãnh liệt của thời đại” [10, tr. 127]. Nguyễn Du không theo sát từng diễn biến những mốc thời gian cụ thể trong cuộc đời cô Cầm, mà chỉ khắc họa hình ảnh chân dung của nàng thông qua hai bữa
  • 52. 46 tiệc quan, hai lần gặp gỡ một người ca nữ tên Cầm ở Thăng Long. Hình ảnh cô Cầm hiện lên trước mắt Nguyễn Du với tuổi trẻ, sự duyên dáng khiến người ta không thể không nhớ đến. Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến Giám hồ hồ biên dạ khai yến Kỳ thời tam thất chính phương niên Hồng trang yểm ái đào hoa diện Đà nhan hám thái tối nghi nhân Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến (Long Thành cầm giả ca) (Tôi nhớ lúc trẻ đã từng gặp một lần/ Bên hồ Giám trong một cuộc dạ yến/ Lúc ấy nàng còn trẻ, tuổi chừng hai mốt/ Áo hồng cũng bị mờ nhạt đi trước vẻ mặt hoa đào/ Má hồng men rượu, dáng ngây thơ, rất đáng yêu/ Năm cung réo rắt theo ngón tay đàn mà đổi điệu) Hình ảnh cô Cầm không chỉ tươi tắn ở vẻ bề ngoài làm cho con người mê mẫn, mà qua tiếng đàn còn thể hiện tài năng của nàng, tiếng đàn làm lay động lòng người, khiến người nghe như chìm vào giấc mộng. Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh để diễn tả cái hay và tài nghệ của cô Cầm, tiếng đàn đã thấm vào từng tâm hồn con người. Tài năng đánh đàn của cô Cầm chính là tinh hoa của trời đất, cái đẹp, cái tài được chắt lọc, mài giũa qua thời gian. Trước tiếng đàn của người thiếu nữ Long Thành khiến mọi người đều im lặng lắng nghe quên cả đêm khuya thanh vắng, rồi tranh nhau bày tỏ mối thiện cảm của mình với một thái độ trân trọng tài năng và yêu mến đối với cô Cầm. Tả phao hữu trịch tranh triền đầu Nê thổ kim tiền thù thảo thảo (Long Thành cầm giả ca) (Phía tả phía hữu đua nhau ném thưởng/ Tiền bạc coi rẻ như đất bùn) Nhưng chắc có lẽ không có gì trường tồn mãi mãi, chính sự vận động biến chuyển của đất trời và sự lạnh lùng trôi qua của thời gian làm thay đổi mọi thứ. Lần gặp thứ hai Nguyễn Du gặp cô Cầm chính là khoảng thời gian sau hai mươi năm. Lần này Nguyễn Du trở lại Thăng Long trong tư cách là một ông chánh sứ. Ở lần gặp này mọi thứ đã hoàn toàn đổi thay. Trên đường qua Thăng Long các quan có đặt tiệc tiễn ông ở dinh Tuyên phủ. Trong bữa tiệc có rất nhiều ca nhi, kĩ nữ xinh đẹp nhưng tất cả
  • 53. 47 Nguyễn Du đều không để ý đến họ, mà sự chú ý của ông lại tập trung vào hình ảnh của một người phụ nữ ngồi lặng lẽ ở cuối chiếu gảy bản đàn ngày nào. Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa Nhan sấu thần khô hình lược tiểu Lang tạ tàn mi bất sức trang Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu (Long Thành cầm giả ca) (Riêng ở cuối chiếu có một người tóc đã hoa râm/ Nét mặt võ vàng thần sắc khô khan, thân hình hơi nhỏ/ Đôi mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm/ Ai biết rằng đó chính là người tài danh bậc nhất của kinh thành ngày xưa) Nguyễn Du đâu ngờ rằng cô Cầm ngày xưa đầy kiêu hãnh, giờ đây thân hình tàn tạ héo hon, xơ xác, bị người đời lãng quên, có lẽ ông đã nhận ra hình ảnh của cô Cầm qua tiếng đàn, tiếng đàn vang lên vẫn trong trẻo, nghe vẫn du dương như xưa. Nhưng cô Cầm hoàn toàn thay đổi “người gầy võ, thần sắc khô khan, mặt đen, quần áo toàn bằng vải thô, bạc phếch, vá nhiều mảnh trắng” Nguyễn Du nhìn thấy không thể không chận lòng. Nếu trước đây cô Cầm được mọi người tán thưởng, yêu thích, coi như vật báu ở kinh đô Trường An thì giờ đây không một ai để ý tới nàng. Từ đây có thể thấy rằng quy luật tự nhiên của tạo hóa mới khắc nghiệt làm sao, thời gian đã cướp đi, nhan sắc, tuổi trẻ sự nhanh nhẹn của người phụ nữ và nó thay đổi cả thời cuộc. Nhà thơ đau buồn, day dứt về lẽ bể dâu hưng phế của cuộc đời, về thân phận của con người. Những dòng thác thời gian đã gây ra biết bao nỗi đau thương. Xưa nàng trẻ trung, tài hoa bao nhiêu thì bây giờ nàng tàn tạ tiêu điều bấy nhiêu. Những thay đổi của cô Cầm chính là dấu ấn của những vất vả và bất hạnh mà cô ca nữ gặp phải trong cuộc đời. Tài năng cũng không đem lại điều gì tốt đẹp cho cuộc sống của con người, mà có thể đem đến những bất hạnh đau đớn trong cuộc đời. Qua bài Long Thành cầm giả ca thấy được nỗi buồn, nỗi đau của Nguyễn Du khi tận mắt chứng kiến bao sự đổi thay của con người và xã hội. Ông không chỉ ngợi ca trân trọng, cảm thông, sẻ chia đối với những người phụ nữ, mà còn luôn bênh vực và bảo vệ họ. Bởi lẽ, ông nhận ra rằng mình là người cùng hội cùng thuyền với những kiếp con người kia. Nguyễn Du nhận ra một điều sắc đẹp và tài hoa không phải tội, không phải là nguyên nhân của mọi bất hạnh và đau khổ của con người. Sâu thẳm trong tâm hồn Nguyễn Du chỉ ra nguyên nhân sâu xa là do xã hội không biết quý trọng cái đẹp và cái tài, đã chà đạp vùi dập nó một cách không
  • 54. 48 thương tiếc, từ đó mới dẫn đến những bi kịch và đau khổ cho người phụ nữ. Chính vì vậy, tấm lòng nhân đạo của nhà thơ luôn hướng về người phụ nữ để rồi ông đau cùng nỗi đau với họ, trong những bài thơ cổ phong của Nguyễn Du luôn thấm đượm tinh thần nhân đạo và nhân văn cao cả. Thơ cổ phong của Nguyễn Du không chỉ nói đến số phận tài hoa bất hạnh của người phụ nữ. Nguyễn Du còn nhắc đến những bậc nam nhân đó là những người tài không được xã hội trọng dụng. Khi đi sứ sang phương Bắc Nguyễn Du có điều kiện tiếp xúc với nền văn hóa nước bạn, tìm hiểu thêm về những nhân vật trong lịch sử văn hóa, văn học Trung Quốc. Qua những nhân vật nổi tiếng của đất nước Trung Hoa, Nguyễn Du đặc biệt chú ý đến những con người tài năng, đức hạnh nhưng lại có số phận bất hạnh. Trong Truyện Kiều ông từng viết “Trăm năm trong cõi người ta; Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Hai câu thơ ta thấy được rằng tài mệnh tương đố, và điều này ta cũng đã thấy rõ qua những nhân vật trong thơ của Nguyễn Du, hầu hết những người tài hoa ít nhiều đều gặp những sống gió và bất hạnh trong cuộc đời. Sống trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ ta nhận ra rằng những bậc kì tài thường là những người luôn chịu sự ghen ghét, gièm pha. Chỉ vì những lợi ích cá nhân của bản thân mà những người tham vinh hoa phú quý, tìm mọi cách để triệt tiêu người khác cố giữ vững địa vị của mình. Những việc làm ấy đã gây nên bao cảnh bi thương cho những bậc anh hùng tiết nghĩa, một lòng phụng sự nhân dân và tận trung báo quốc. Thông qua sử sách Nguyễn Du biết nhiều nhân vật anh hùng trung nghĩa nhưng lại có số phận bi đát. Trên đường đi sứ Nguyễn Du có dịp đi qua Hàm Đan, đứng trước bia Liêm Pha. Nguyễn Du đã khóc thương cho một vị tướng tài giỏi với những vần thơ ca ngợi về phẩm chất tài năng của Liêm Pha. Ký khổn trọng nhậm tu lão thành Nội thẩm quốc thế ngoại địch tình Sở dĩ lâm địch năng chế thắng Đoan tại quyên cừu tri phụ kinh (Liêm Pha bi) (Trọng trách ngoài bờ cõi nên giao lại cho bậc lão thành/ Trong hiểu thế nước, ngoài nắm vững tình hình địch/ Sở dĩ (người ấy) gặp địch có thể giành được thắng lợi/ Ấy là vì quên thù riêng, mang roi gai (đến tạ tội)) Liêm Pha chính là lương tướng nước Triệu thời Chiến quốc là một nhà quân sự, nhà chính trị và có thể nói là trụ cột chính của nước Triệu lúc bấy giờ. Chỉ bốn
  • 55. 49 câu thơ Nguyễn Du đã khái quát được tài năng đánh giặc, cũng như cách nhìn nhận sự việc của Liêm Pha để có thể bảo vệ đất nước. Liêm Pha nói rằng điều cốt yếu của một vị tướng khi ra trận là phải nắm vững binh pháp, hiểu mình, hiểu giặc để có thể nắm chắc phần thắng. Không những thế trong những lần xong trận Liêm Pha luôn coi lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên hết, không vì những ích kỷ, thù hằn cá nhân mà ảnh hưởng đến trận chiến. Chính vì vậy, những lần xong trận Liêm Pha luôn giành được thắng lợi, bảo toàn tính mạng bản thân cũng như những chiến binh của mình. Nguyễn Du còn khẳng định vai trò to lớn của Liêm Pha trong việc diệt vong của đất nước. Nhị thập dư niên thùy dữ tranh Tướng quân tại thời, Triệu dĩ trọng Tướng quân khứ thời, linh Triệu khinh (Liêm Pha bi) (Trên hai mươi năm ai tranh nổi (với Liêm Pha)/ Thời còn tướng quân, nước Triệu được coi trọng/ Thời tướng quân đi mất, nước triệu bị coi khinh) Liêm Pha quả là con người có tài, nhưng cũng chính vì sự tài giỏi của mình nên trong cuộc sống ông luôn có những kẻ ghen ghét và muốn hãm hại. Chính cái tài đem lại những bất hạnh trong cuộc đời ông sau này. Sở hận sàm nhân chức thê phỉ Hà tu nhất thực tam di thỉ (Liêm Pha bi) (Đáng giận kẻ gièm pha kiếm điều thêu dệt Sao lại bịa chuyện một bữa ăn ba lần són phân) Kẻ thù của Liêm Pha là Quách Khai, Quách Khai đút nhiều vàng cho sứ giả để sứ giả nói xấu Liêm Pha. Sứ giả nước Triệu về nói với vua rằng: “Liêm tướng quân tuy già ăn còn khỏe nhưng khi cùng thần ngồi trong khoảnh khắc mà ba lấn són phân” vua Triệu cho rằng Liêm Pha đã già và không triệu về, nên từ đó Liêm Pha không còn được trọng dụng. Bạch đầu khứ hậu bất trùng lai Hàm Đan chi sự khả tri hĩ Triệu vong Tần kế tam thiên niên Tướng quân danh tự chí kim truyền ( Liêm Pha bi)
  • 56. 50 (Sau khi người bạc đầu ra đi không trở lại nữa/ Việc Hàm Đan như thế nào có thể biết được rồi/ Triệu mất, Tần rối đã ba nghìn năm/ Tên tuổi của tướng quân vẫn còn truyền để lại) Sau khi Liêm Pha ra đi, chính vì nhà vua nghe lời xúi giục của những kẻ hạ thần dẫn đến sự bại vong của đất nước, đấy chính là hệ quả của việc nhà vua không biết trọng dụng người tài. Nguyễn Du đau đớn, ngậm ngùi, xót xa, than thở cho số phận của Liêm Pha “Ma sa cổ kiệt tam thái tức” (Ta lau chùi bia xưa để đọc, than thở mãi). Những vần thơ cổ phong của Nguyễn Du đã nói rõ số phận của một con người tài hoa là như vậy đó. Nguyễn Du không thể không căm tức khi nhìn vào hiện thực xã hội. Kim nhân bất thiểu thực đa nhục Cơ linh gia dưỡng vô di súc Thanh bình thời tiết vô chiến tranh Nhất khẩu hùng đàm bất sổ Liêm Pha dữ Lý Mục (Liêm Pha bi) (Người thời nay không ít kẻ ăn nhiều thịt (như tướng quân)/ Cơ hồ khiến cho không còn con gia súc nào trong nhà/ Gặp thời thanh bình không có chiến tranh/ Đều nhất loạt nói hăng, chẳng kể Liêm Pha, Lý Mục) Hay trong bài Phản chiêu hồn Nguyễn Du nói đến Khuất Nguyên là một con người tài năng nhưng cũng do những sự bất công của xã hội nên ông uất ức, u sầu mà chết. Nguyễn Du viết bài Phản chiêu hồn để bày tỏ tấm lòng thương xót của mình đối với một tài năng. Hồn hề! hồn hề! hồ bất qui Đông tây nam bắc vô sở y. Thướng thiên há địa giai bất khả Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi ( Phản chiêu hồn) (Hồn ơi! hồn ơi! sao không về/ Đông, tây, nam, bắc không có nơi nào nương tựa/ Lên trời xuống đất đều không được/ Còn trở về thành Yên thành Sính làm gì) Nguyễn Du có nhắc đền hồn, vậy hồn ở đây là ai mà nghe chua xót, buồn thương như vây? Vì sao ông lại khuyên hồn đừng trở về mà tìm con đường khác để siêu thoát. Hồn được nói đến ở đây chính là Khuất Nguyên, quan đại thần nước Sở, một người học rộng tài cao giỏi về chính trị, cũng là một con người đầy tài năng văn
  • 57. 51 chương. Trong một thời gian đầu Khuất Nguyên rất được nhà vua yêu quý, nhưng về sau chính sự tài giỏi của Khuất Nguyên nên có nhiều ghen ghét, dèm pha và tìm cách hãm hại, cuối cùng những lời dèm pha đến tai vua nên ông bị ghét bỏ. Ông âu sầu, tự cho mình là người trong, sống trong thời đục, uất hận ông gieo mình xuống sông Mịch La tự tử. Chính sự tài hoa, tấm lòng thanh cao, tình cảnh éo le của Khuất Nguyên đã được Nguyễn Du cảm nhận, chia sẻ với tất cả niềm kính phục với sự đồng điệu sâu sắc. Nguyễn Du ca ngợi tấm lòng của Khuất Nguyên. Bất độc Hoài sa phú An thức Khuất Nguyên tâm Khuất Nguyên tâm, Tương Giang thủy Thiên thu vạn thu thanh kiến để (Biện Giả) (Không đọc bài phú Hoài sa/ Sao biết được lòng Khuất Nguyên/ Lòng Khuất Nguyên và nước sông Tương/Nghìn năm vạn năm vẫn trong suốt thấy đáy) Từ số phận của Liêm Pha, Khuất Nguyên để thấy được rằng “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Quả thật cuộc sống của những con người tài hoa luôn luôn có những mối họa theo bên, và chính tài năng đều đem đến một kết cục thương tâm khiến Nguyễn Du nhìn thấy mà phải thốt lên rằng “Trải qua một cuộc bể dâu; Những điều trong thấy mà đau đớn lòng” (Truyện Kiều). Nguyễn Du đã nhìn ra được sự thật ẩn đằng sau cái tài của mỗi con người, là một số phận xiết bao cay đắng, là những tâm sự buồn thương, với những tủi hận mà cuộc đời mang lại cho họ. Để từ đó Nguyễn Du ca ngợi, bênh vực và cùng họ đấu tranh chống lại những bất công ngang trái của cuộc đời. Nguyễn Du khóc thương cho số phận những nhân vật, nhưng có lẽ ông đang khóc thương cho chính số phận của mình. Tìm đến những nhân vật như Khuất Nguyên, Liêm Pha, Nguyễn Du như tìm được người tâm sự và giãi bày những uẩn khúc trong lòng. Tài hoa sẽ đem lại cho con người những ánh hào quang, nhưng ẩn chứa trong mỗi hào quang là bất hạnh cả một đời. Xin mượn lời của Nguyễn Huệ Chi để kết lại vấn đề “gắn bó với con người, với cuộc sống, và nhìn sâu vào lịch sử, Nguyễn Du còn đặc biệt xót thương cho một loại người có tài và có tình. Ấy là những nhà văn nhà thơ nổi tiếng trác tuyệt mà cuộc đời trải muôn vàn bất hạnh, là những anh hùng hào kiệt thất thế, là những người phụ nữ có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành phải chịu số phận buồn thảm. Những con người ấy, dù thân phận của họ là danh nhân, là đào hát, là “tướng
  • 58. 52 giặc”, là gì đi nữa, nhưng đã sống khác với mọi người và chết trong bần cùng hoặc bất đắc kỳ tử, thì đều là đối tượng của tấm lòng ưu ái của Nguyễn Du” [10, tr. 71]. 2.1.1.3. Con người độc ác, xấu xa Thơ cổ phong có chức năng phản ánh đời sống một cách chân thực, nói lên nỗi niềm tâm sự của con người. Từ những bài thơ cổ phong, Nguyễn Du không chỉ cho người đọc thấy được số phận con người ở đất Việt, mà ngay cả số phận của những con người ở đất nước Trung Hoa cũng hiện lên sinh động, chân thực dưới ngòi bút tài tình của Nguyễn Du. Ông không chỉ hiểu, cảm thông, chia sẻ với số phận của người nghèo, số phận của những con người tài hoa, những bậc hiền tài luôn xả thân vì nghĩa lớn nhưng lại có cuộc đời nghiệt ngã. Thơ cổ phong Nguyễn Du còn là tiếng nói phê phán, đấu tranh đối với những con người độc ác, xấu xa, bất nghĩa, bất nhân, những con người mưu mô xảo quyệt chỉ vì lợi ích của bản thân, dám làm những việc trái với lương tâm, trái với đạo trời, để đổi lấy vinh hoa phú quý, nhưng rồi vinh hoa phú quý chỉ là hư danh không tồn tại với thời gian. Từ những con người này Nguyễn Du chỉ thấy còn lại những phế tích, tàn tích và tiếng xấu lưu truyền muôn đời. Những con người độc ác, bất nghĩa bất nhân trong thơ cổ phong Nguyễn Du là những con người lúc sống đều giữ những chức vị cao và có khi lại được người đời Trung Hoa hết mực ca ngợi và tôn sùng. Nhưng đối với Nguyễn Du ông lại có cách nhìn nhận và đánh giá hoàn toàn ngược lại với đánh giá của người Trung Hoa. Đối với những con người có tài, nhưng lại dùng cái tài của mình để đạt được những cái mình muốn, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân. Xây dựng địa vị trên những đau khổ của người khác thì cũng chỉ là những kẻ hại dân hại nước, không đáng được trân trọng, không đáng để tôn thờ. Chính vì lẽ đó, Nguyễn Du một mực lên án phê phán gay gắt. Nguyễn Du yêu thương những người tài đức bao nhiêu thì lại khinh bỉ bọn gian ác, ti tiện bấy nhiêu. Đối với những người này, ngòi bút của Nguyễn Du không hề nhân nhượng, có thể nói là nghiệt ngã nữa. Trong chuyến đi sứ Nguyễn Du có dịp dừng chân đứng lại trước Đình Tô Tần, người mà Nguyễn Du đã từng nghe nhiều qua sử sách “Thư trung bão văn Tô Tần danh” (Trong sách, nghe danh Tô Tần đã lắm – Tô Tần đình II). Nguyễn Du không hề khen ngợi, coi trọng tài năng hay những việc làm của Tô Tần. Ngược lại, Nguyễn Du đã mỉa mai chua chát, chê trách Tô Tần bởi những hành động nhở nhen, ích kỷ đối với người thân của mình.
  • 59. 53 Tụng xa thiên thặng lai hương lý Phụ mẫu giao nghênh, tẩu tất hành Thê kiến hỳ phu trắc mục thị Bình sinh chí nguyện tất ư tư “Tiền cứ hậu cung” ngôn chính bỉ Hợp tung bất tại khước cường Tần Đãn hướng sở thân kiêu phú quí (Tô Tần đình II) (Ngàn cỗ xe đi theo trở về làng/ Cha mẹ ra tận ngoài đồng đón, chị dâu qùi gối lết ra chào/ Vợ thấy chồng lấm lét nhìn/ Chí nguyện một đời tất cả ở lúc đó/ “Trước sao khinh rẻ, sau sao cung kính” lời nói ấy thật hèn hạ/ Kế hợp tung chẳng nhằm chống nước Tần hùng mạnh/ Mà nhằm để kiêu căng khoe giàu sang với người thân) Tô Tần tìm mọi cách để có danh vọng, địa vị và phú quý nhưng cốt yếu để lên mặt vênh váo với người thân. Nguyễn Du có ác cảm và chê bai Tô Tần không tiếc lời, kế hợp tung chỉ để lừa phỉnh được bọn vua chúa tầm thường, những lời nói của Tô Tần với chị dâu thật hèn hạ, thô bỉ không đáng bậc nam nhi. Tô Tần khổ công mài dùi kinh sử chủ yếu để mưu cầu quyền lợi riêng cho bản thân. Có tài nhưng không biết đem tài năng phục vụ cho đất nước thì cũng chỉ là kẻ tầm thường không đáng để ca ngợi. Giờ đây Nguyễn Du chỉ nhìn thấy trước đình Tô Tần cỏ cây mọc um tùm. Những dấu tích của một thời vàng son đã đắm chìm vào quá khứ. Đạo trung khước quá Tô Tần đình Xa mã kim ngọc dĩ vô tích Đình tiền chi thảo không thanh thanh (Tô Tần đình II) (Nay trên đường đi, lại qua đình Tô Tần/ Ngựa xe vàng ngọc không còn dấu vết/ Trước đình chỉ thấy cỏ mọc xanh tươi) Trong bài Kỳ lân mộ mượn cái chết của con kỳ lân Nguyễn Du đã phê phán, và phẫn uất trước những hành động độc ác của Minh Thành Tổ. Ông là vị vua tàn ác nhất trong lịch sử của đất nước Trung Quốc. Khi đi ngang qua mộ kỳ lân Nguyễn Du đã tỏ thái độ đồn thời vạch rõ những việc làm xấu xa của nhà vua.
  • 60. 54 Hà huống Yên Đệ hà như nhân Đoạt điệt tự lập phi nhân quân Bạo nộ nhất sính di thập tộc Đại bổng cự hoạch phanh trung thần Ngũ niên sở sát bách dư vạn Bạch cốt thành sơn địa huyết ân (Kỳ Lân mộ) (Huống nữa Yên Đệ là người như thế nào /Cướp ngôi của cháu để tự lập làm vua, y không phải là bậc nhân quân/ Để hả một cơn giận y giết cả mười họ (người ta)/ Giết trung thần bằng cách đánh bằng gậy lớn và nấu trong vạc dầu lớn/ Trong năm năm giết trên trăm vạn mạng người/ Xương trắng chất thành núi, đất ngập máu) Sáu câu thơ thấy được thái độ, Nguyễn Du đối với Minh Thành Tổ. Nguyễn Du không coi hắn là một tên chính nhân quân tử, hắn chỉ là một tên sát nhân điên cuồng, để hả cơn giận giết chết cả mười họ nhà người khác. Có thể nói hành động tàn bạo của hắn trời không dung đất không nương, thần và người đều căm giận. Khi đi qua đất Hứa Đô cũ Nguyễn Du đã nhìn thấy những việc làm bất nghĩa bất nhân của Tào Tháo, thi nhân đã luận tội của tên giặc thoán vị Tào Tháo. Thể hiện thái độ khinh bỉ, cái nhìn phủ định của nhà thơ với hành động phi nghĩa của hắn. Hứa Châu thành, Hán đế đô Tào thị vu thử di Hán đồ Thụ thiện đài cơ dĩ bất kiến Phong vũ dạ dạ do hào hô Tự cổ đắc quốc đương dĩ chính Nại hà vụ quả nhi khi cô! (Cựu Hứa Đô) (Thành Hứa Châu, nơi nhà vua Hán đóng đô/ Họ Tào cướp cơ đồ nhà Hán ở chốn này đây/ Nền đài nhận ngôi vua không thấy đâu nữa/ Chỉ thấy đêm đêm mưa gió réo gào/ Từ cổ được nước đều lấy chính nghĩa/ Sao lại lừa vợ góa dối con côi của người ta?) Tào Tháo là một con người độc ác, đa mưu, tham quyền tước vị, coi thường trẻ mồ côi, lừa gạt vợ góa, cốt để đạt được mục đích của bản thân, giữ vững địa của mình. Khi sống làm bao điều tàn ác, gây nhiều thù oán, và những kẻ cướp ngôi của người khác thì không thể tồn tại mãi mãi. Cái còn lại chỉ là bia miệng, sự coi khinh,
  • 61. 55 phỉ báng của người đời. Duy hữu Kiến An nhị thập ngũ niên sự Nhân khẩu thành bi chung bất hoại (Cựu Hứa Đô) (Duy có cái việc năm thứ hai mươi lăm đời Kiến An Thành bia miệng để đời không bao giờ mất) Tào Tháo là một con người mưu mô, gian xảo khiến mọi người khiếp sợ không ai dám chống lại. Tu nhân thịnh thời, thùy cảm đương Diểu thị hoàng đế, lăng hầu vương (Đồng Tƣớc đài) (Người ấy lúc thịnh, nào ai dám chống lại? Xem thường nhà vua, lấn lướt các vương hầu) Tào Tháo có triết lí sống vô cùng ích kỉ và cá nhân Ta thà phụ người chứ không để người phụ ta, cũng là một con người tung hoành khắp đất trời vậy mà khi sắp mất ông lại có những hành động không đáng bậc trượng phu. Nhất triêu đại hạn hữu thì chí Thượng thực tấu ca đồ duyệt quỉ Phân hương mại lý khổ đinh ninh (Đồng Tƣớc đài) (Một buổi mai hạn lớn xảy đến/ Dâng thức ăn, tấu ca nhạc chỉ mong làm vui cho hồn ma/ Chia hương, bán giày, khổ tâm dặn dò cặn kẽ) Tào Tháo dặn các tỳ thiếp, hằng ngày phải cúng Tháo bằng các món ăn mà Tháo thích lúc còn sống, có nhạc múa hát để hầu trong bữa ăn nhằm để làm vui cho hồn ma. Việc làm của Tháo chỉ để lại sự chê cười cho người đời, qua những lời dặn với tỳ thiếp càng thấy Tháo sợ sự cô độc khi chết. Chắc có lẽ hắn nhận ra sự tàn bạo của mình, khi sống đã gây ra bao tang thương. Giờ đây Tháo nghĩ rằng khi Tháo chết chắc chẳng ai nhớ đến, họ sẽ vui và dần quên hẳn hắn đã từng tồn tại. Tháo còn có hành động chia các thứ phấn sáp, giày thiêu, khăn lụa cho các tỳ thiếp, từ việc làm của Tháo, Nguyễn Du đã mỉa mai, chê bai hết lời.
  • 62. 56 Lạc lạc trượng phu hà nhĩ nhĩ? Gian hùng biệt tự hữu cơ tâm Bất thị minh ai, nhi nữ khí. (Đồng Tƣớc đài) (Bậc trượng phu lỗi lạc sao như thế/ Kẻ gian hùng riêng tự có mưu thâm khác trong lòng/ Chẳng phải là kêu thương ủy mị như tính khí đàn bà) Trong cuộc hành trình một năm trời ở xứ người, trên những quãng đường dài vô tận, Nguyễn Du đã đi qua nhiều di tích lịch sử. Mỗi khi đứng trước những di tích lịch sử đó là dịp để Nguyễn Du bày tỏ nỗi lòng của mình về những việc tốt, việc xấu, về những hành động đúng sai của con người. Khi đánh giá nhìn nhận về những nhân vật lịch sử cái nhìn Nguyễn Du được thể hiện một cách đa chiều. Những lời đánh giá, nhận xét của Nguyễn Du lúc nào cũng rõ ràng, khen che dứt khoát. Đối với những con người giàu lòng nghĩa khí một lòng tận trung với đất nước như Khuất Nguyên, Liêm Pha. Nguyễn Du luôn thể hiện cái nhìn ngưỡng mộ, kính trọng, ca ngợi bởi những nghĩa cử cao đẹp họ đã dành cho đất nước. Ngược lại đối với những con người chỉ vì lòng tham mưu cầu danh lợi như Tô Tần, Minh Thành Tổ, Tào Tháo, nhà thơ không hề thấy được sự tốt đẹp ở họ, chỉ nhìn thấy những việc làm đáng trách, đáng lên án. Dù họ là ông vua, những bậc vương hầu hay là người tài giỏi nhưng lại không nghĩ đến đời sống của người dân, cố giữ vững địa vị, công danh phú quý phục vụ cho bản thân Nguyễn Du đều khinh bỉ xem thường. Mỗi người có một cách sống, cách nghĩ khác nhau, nhưng những con người này đều giống nhau ở chỗ chỉ vì lợi ích của mình sẵn sàng giẫm đạp lên người khác, gây bao đau khổ cho những kiếp con người. Giờ đây họ đã khuất dần vào quá khứ, nhưng tiếng xấu của họ vẫn mãi được lưu truyền Trăm năm bia đá thì mòn, Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ (ca dao). Nguyễn Du luôn đứng trên lập trường chính nghĩa, đặt quyền lợi của nhân dân lao động lên trên hết, nhờ thế trên nhiều hiện tượng, vấn đề Nguyễn Du đã có cái nhìn đem đến những đánh giá, nhận xét, thấu đến bản chất của hiện thực nêu lên được sự thật có giá trị bền vững, lâu dài.
  • 63. 57 2.1.2. Quan niệm về con người - nhân vật lịch sử Trung Hoa trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du Thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đều có nhắc đến những nhân vật lịch sử Trung Hoa. Mỗi nhà thơ có cách nhìn nhận đánh giá khác nhau về những nhân vật lịch sử mà mình nói đến. Trong tập thơ “Ức Trai thi tập” gồm 105 bài, Nguyễn Trãi có hai bài thơ được làm theo thể cổ phong Côn Sơn ca và Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên. Nguyễn Trãi nhắc đến các nhân vật lịch sử Trung Hoa như: Đổng Trác, Nguyên Tải, Bá Di, Thúc Tề, Sào Phủ, Hứa Do, Đông Pha, Liêm Khê. Trong tập ba tập thơ chữ Hán Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, Nguyễn Du có 26 bài được viết theo thể cổ phong. Trong đó có 12 bài Nguyễn Du có nhắc đến các nhân vật lịch sử. Bảng 2.1. Các nhân vật lịch sử đƣợc nhắc đến trong thơ cổ phong Nguyễn Du STT Tên bài thơ Các nhân vật lịch sử 1 Hành lạc từ Đạo Chích, Trang Cược, Bá Bi, Thúc Tề 2 Thái Bình mại ca giả Thế Dân, Kiến Thành 3 Phản chiêu hồn Khuất Nguyên, Cao Dao, Quỳ, Thượng Quan Ngận Thượng, Ngu Thuấn 4 Biện Giả Giả Nghị 5 Cựu Hứa Đô Tào Tháo 6 Đồng Tước đài Ngụy Vũ Đế (Tào Tháo) 6 Liêm Pha bi Liêm Pha, Võ An, Vũ An Quân, Lý Mục 7 Tô Tần Đình II Tô Tần 8 Dự Nhượng kiều chủy thủ hành Dự Nhượng, Kinh Kha, Nhiếp Chính, 9 Kinh Kha cố lý Kinh Kha, Tần Vũ Dương, Điền Quang, Yên Đan, Phàn Ô Kỳ 10 Kỳ Lân mộ Minh Thành Tổ, Yên Đệ (Chu Nguyên Chương) 11 Mạnh Tử từ cổ liễu Mạnh Tử (Mạnh Kha) 12 Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài Lương Chiêu Minh Thái Tử, Hầu Cảnh
  • 64. 58 Từ việc khảo sát các bài thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du chúng tôi nhận thấy cả hai tác giả đều nhắc đến nhiều nhân vật lịch sử Trung Hoa. Nhưng hầu hết các nhân vật được nhắc đến trong thơ cổ phong đều là nam không có sự xuất hiện của những nhân vật nữ. Vậy các nhân vật lịch sử Trung Hoa được Nguyễn Trãi, Nguyễn Du nhìn nhận đánh giá như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu qua những bài thơ cổ phong của hai tác giả. Bài thơ Côn Sơn ca Nguyễn Trãi nói đến nhiều nhân vật lịch sử Trung Hoa. Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kinh doanh nhất ổ Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc (Côn Sơn ca) (Ngươi chẳng thấy Đổng Trác ngọc vàng chất đầy nhà Nguyên Tải hồ tiêu tám trăm hộc) Nguyễn Trãi nhắc đến hai nhân vật lịch sử Trung Quốc, Đổng Trác và Nguyên Tải, không phải để khen ngợi về sự giàu có cũng như tài năng của hai con người, mà thấy được giàu sang phú quý cũng chỉ là những cái phù phiếm. Đổng Trác, Nguyên Tải lúc sống dù có quyền cao chức trọng nhưng lại làm nhiều điều độc ác, bản chất tham lam, cuối cùng cả hai đều phải chết trong ô nhục, để lại tiếng xấu muôn đời. Hựu bất kiến: Bá Di dữ Thúc Tề Thú Dương ngạ tự bất thực túc? (Côn Sơn ca) (Lại chẳng thấy Bá Di với Thúc Tề/ Thú dương chết đói không ăn thóc) Bá Di và Thúc Tề tương truyền là hai anh em con của vua nước Cô Trúc thời nhà Thương. Sau khi nhà Thương bị tiêu diệt hai anh em bỏ lên núi ở ẩn tại núi Thú Dương không chịu ăn thóc của nhà Chu rồi nhịn đói mà chết. Nguyễn Trãi muốn nói đến cách ứng xử và cái chết của Bá Di, Thúc Tề, từ đó suy ngẫm về “hiền ngu” trên đời chung quy chỉ là “Cũng đều muốn thỏa lòng sở dục”. Nguyễn Trãi nhận ra rằng cuộc sống con người chẳng khác nào cây cỏ với những buồn, vui, âu lo, tươi tốt rồi héo khô, khắc khoải sầu mong cứ thế tuần hoàn trong một trăm năm hữu hạn. Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc (Côn Sơn ca) (Nhân gian nếu có bọn Sào Do/ Khuyên hãy nghe ta ca một khúc)
  • 65. 59 Sào Phủ và Hứa Do, hai cao sĩ đời thượng cổ Trung Quốc và đều không màng đến danh lợi, chỉ thích sống cuộc đời ẩn sĩ, coi trọng thanh cao, chan hòa với núi rừng xanh thẳm. Khi nói đến hai nhân vật Hứa Do và Sào Phủ, Nguyễn Trãi một mặt cảm thông, kính trọng tấm gương sáng của hai bậc ẩn sĩ, nhưng mặt khác lại thể hiện niềm tự hào về tâm thế của bản thân. Về với Côn Sơn Nguyễn Trãi hoàn toàn thoát khỏi những tranh đua danh lợi sống những ngày vui vẻ, nhàn hạ hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên núi rừng, tâm hồn luôn thảnh thơi không vướng bận. Nguyễn Trãi ca ngợi, khâm phục đề cao những tài năng văn chương lớn trong lịch sử Trung Hoa. Trong các tác giả của nền văn học cổ Trung Quốc, Nguyễn Trãi có nhắc đến Tô Đông Pha. Đông- pha vị trúc bất khả vô Liêm- khê ái liên diệc hữu thuyết (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên) (Đông- pha bảo trúc không thể thiếu/ Liêm- khê yêu sen có thuyết hay) Đông- pha: tức Tô Đông Pha là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc đời Tống có câu thơ “Khả sử thực vô nhục, bất khả cư vô trúc” (Ăn có thể không có thịt, ở không thể thiếu trúc). Hay Nguyễn Trãi nhắc đến Liêm Khê: là một triết gia của đời Tống, ông viết quyển sách nổi tiếng như Thái cực đồ thuyết, Thông thư, và bài Ái liên thuyết, tức là thuyết yêu hoa sen. Nguyễn Trãi là người yêu thơ văn, nên việc ông quan tâm hay tìm hiểu về các nhà văn nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung Hoa là một điều dễ hiểu. Từ những nhân vật lịch sử, nhà thơ thể hiện lòng kính trọng, mong muốn học hỏi cái hay cái đep, cái độc đáo của các bậc tiền bối, bên cạnh đó còn gửi ước nguyện hay một triết lí nào đó qua thơ văn. Nguyễn Trãi viết về các nhân vật lịch sử Trung Hoa chủ yếu với cảm hứng hoài cổ, tiếc nhớ đến những người xa xưa, thể hiện tình cảm, thái độ yêu mến với các nhà Nho. Từ những nhân vật lịch sử Trung Hoa Nguyễn Trãi như nhìn về quá khứ nhưng thông qua đó soi chiếu đến tương lai. Khi viết về những nhân vật lịch sử là những nhà văn nhà thơ nổi tiếng của đất nước Trung Hoa, Nguyễn Trãi viết về nhân vật Tô Đông Pha. Ngược lại trong thơ cổ phong, Nguyễn Du lại viết về nhân vật Khuất Nguyên.
  • 66. 60 Bất độc Hoài sa phú An thức Khuất Nguyên tâm Khuất Nguyên tâm, Tương Giang Thủy Thiên thu vạn thu thanh kiến để (Biện Giả) (Không đọc bài phú Hoài sa/ Sao biết được lòng Khuất Nguyên/ Lòng Khuất Nguyên và nước sông Tương/ Nghìn năm vạn năm vẫn trong suốt thấy đáy) Trong bài Biện Giả Nguyễn Du nhắc đến Khuất Nguyên con người tài năng đức độ nhưng cuộc đời cũng gặp nhiều bất trắc. Khuất Nguyên là một nhà thơ lớn thời Chiến Quốc, mang tâm sự của một người yêu nước vĩ đại, có một hoài bão lớn lao, có một lý tưởng chính trị tiến bộ. Nguyễn Du hết mực ca ngợi tấm lòng cao đẹp “trung thành không thờ hai vua” của Khuất Nguyên. Càng cảm phục, yêu thương Khuất Nguyên bao nhiêu ông càng đau xót cho số phận bất hạnh của một con người tài hoa bấy nhiêu. Bài Phản chiều hồn Nguyễn Du đã phản đối gọi hồn Khuất Nguyên về. Nguyễn Du chỉ muốn hồn Khuất Nguyên mau mau về cõi vĩnh hằng. Nguyễn Du cho rằng khắp mặt đất đâu đâu cũng là Mịch La, ai ai cũng là Thượng quan thì làm gì có chỗ trong sáng đủ để cái tâm thanh khiết của Khuất Nguyên nương tựa. Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan Đại địa xứ xứ giai Mịch La Ngư long bất thực, sài hổ thực Hồn hề! hồn hề! nại hồn hà (Phản chiêu hồn) (Đời sau người đều là Thượng quan/ Mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La/ Cá rồng chẳng nuốt, hùm sói cũng ăn/ Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn làm thế nào) Khi viết Phản chiêu hồn, Nguyễn Du muốn trải rộng tấm lòng mình với con người tài hoa. Ông chỉ có một ước nguyện là giúp linh hồn Khuất Nguyên siêu thoát, đến nơi không có những tranh đua, không có những ghen ghét đố kỵ và gièm pha, không làm tâm hồn con người đau khổ, thoát khỏi cuộc sống phàm tục, để tận hưởng những ngày tháng yên vui, tươi đẹp.
  • 67. 61 Trong bài “Dự Nhượng kiều chủy thủ hành” Nguyễn Du đã nhắc đến nhân vật Dự Nhượng một bề tôi hết mực trung thành. Tấn Dương thành ngoại thao thao thủy Trí Bá tất đầu vi niệu khí Vô nhân báo cừu thành khả bi Kỳ thần Dự Nhượng thân đương chí Tất thân vi lại dịch tu mi Đương đạo khất thực thê bất tri (Dự Nhƣợng kiều chủy thủ hành) (Ngoài thành Tấn Dương nước chảy cuồn cuộn/ Đầu Trí Bá bị trát sơn làm chậu đựng nước tiểu/ Không có người trả thù cho, thật đáng thương/ Bề tôi của ông là Dự Nhượng tự gánh lấy việc ấy/ Sơn thân mình làm người hủi, cạo râu mày/ Giữa đường ăn xin, vợ gặp không nhận ra) Dự Nhượng là người nước Tần sống vào cuối thời Xuân Thu tại Trung Quốc. Khi nói đến Dự Nhượng, Nguyễn Du hết mực ca ngợi con người với tấm lòng “cô trung son sắt”. Để trả thù cho chủ Dự Nhượng đã phải hi sinh bản thân, từ bỏ vợ con, biến hình hài mình thành một người khác, cải trang thành người ăn xin dọc đường. Nhiều lần bị bắt, bị tha nhưng vẫn không hề sợ, vẫn quyết tâm nuôi ý chí báo thù. Sát khí lẫm lẫm bất khả cận Bạch nhật vô quang sương tuyết phi Tái hoạch tái xả tâm bất di Lâm tử do năng tam kích y (Dự Nhƣợng kiều chủy thủ hành) (Sát khí đằng đằng không ai có thể đến gần được/ Giữa ban ngày mà trời tối, sương tuyết bay/ Bị bắt, được tha, lại bị bắt, lại được tha mấy lần liền, lòng vẫn không dời/ Đến lúc chết còn đánh được ba lần vào áo Tương Tử) Ngay cả khi cận kề bên lưỡi đao tử thần Dự Nhượng vẫn xin Tương Tử đưa áo đang mặc để được đâm vài nhát cho thỏa lòng báo thù, sau khi chết khỏi ân hận. Khi bị bắt Tương Tử hỏi Dự Nhượng tại sao đã thờ ba đời chủ mà vẫn hết lòng trả thù cho Trí Bá như vậy, Dự Nhượng đáp: “Tôi đã làm tôi cho họ Phạm và họ Trung Hàng, họ
  • 68. 62 Phạm và họ Trung Hàng đãi tôi như người thường nên tôi báo đáp theo lối người thường. Đến như Trí Bá thì lại đãi tôi như quốc sĩ cho nên tôi báo đáp theo lối quốc sĩ” [33, tr. 481]. Qua câu trả lời của Dự Nhượng, ta thấy Dự Nhượng quả là một con người trước sau như một không thay lòng đổi dạ luôn trung thành tận tâm với chủ. Sau cái chết của Dự Nhượng ai cũng ngậm ngùi thương xót Thiên cổ văn chi sắc trù trướng (Nghìn xưa nghe chuyện ai cũng ngậm ngùi). Dự Nhượng xứng đáng là một bậc trượng phu với ý chí sắt thép, là một bề tôi trung Quân độc tranh tranh thiết trượng phu (Chỉ mình ông là đấng trượng phu có chí cứng rắn như sắt thép). Viết về các tấm gương trung nghĩa, Nguyễn Du thường ca ngợi họ là những con người tận trung, tận nghĩa, hết lòng phụng sự đất nước, là hình ảnh của những con người đầy nghĩa khí cao đẹp. Kinh Kha tòng thử nhập Tần quan Nhập Tần quan hề, trì chủy thủ Lục quốc thâm cừu nhất dẫn thủ Điện thượng thốt nhiên nhất chấn kinh (Kinh Kha cố lý) (Vào ải Tần cầm dao nhọn/ Thù sâu của sáu nước gửi cả vào một tay/ Khắp trên cung điện đột nhiên kinh động/ Quan tả hữu dùng tay không bắt lại, vua chạy vòng quanh cột) Chỉ với những câu thơ Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh của một con người hiên ngang, hùng dũng dám xã thân vì đại nghĩa. Sẵn sàng hi sinh bản thân vì sự nghiệp cứu quốc, ấy chính là hình ảnh của Kinh Kha người đã gây tiếng vang một thời trong lịch sử Trung Quốc. “Kinh Kha là một kiếm khách người nước Vệ, tổ tiên xưa là người nước Tề họ Khanh. Kinh kha trở về quê tổ (Tề), sau lại dời sang nước Yên. Làng cũ của Kinh Kha ở đất Yên, gần với Yên Kinh. Thái tử đan, con của Yên vương Hỉ, bị đưa sang nước Tần làm con tin, giận Tần vương Doanh Chính là bạn chơi hồi nhỏ, nay lên ngôi vua lại đối xử không tốt với mình, bèn bỏ trốn về nước. Đến khi Tần thực hiện chính sách bành trướng đem quân đánh Tề, Sở, Triệu, Ngụy, Hàn, sắp sửa đánh đến Yên, Thái tử đan lo sợ bèn tìm người dũng cảm sang Tần, uy hiếp Tần vương Chính bắt phải bỏ ý đồ đánh Yên hoặc đâm chết tại chỗ. Điền Quang giới thiệu Kinh Kha giúp thái tử Đan làm việc đó” [33, tr. 488].
  • 69. 63 Kinh Kha mang theo một thanh chủy thủ tẩm thuốc độc giấu trong tờ bản đồ, vào quan ải của vua Tần để hành thích Tần Thủy Hoàng. Mặc dù, việc làm của Kinh Kha không thành, nhưng vẫn thấy được lòng dũng cảm, sự gan dạ, tấm lòng phụng sự đất nước của con người ấy. Ngoài Kinh Kha chả ai dám làm việc như vậy Nguyễn Du vẫn có những lời khen ngợi với Kinh Kha. Túng nhiên bất sát Tần hoàng đế Dã toán cổ kim vô tỉ luân (Kinh Kha cố lý) (Dẫu chẳng giết được Hoàng đế nhà Tần Tính lại xưa nay cũng không có người sánh kịp) Không phải việc làm của Kinh Kha không có ý nghĩa mà nó được coi là người đi tiên phong, khích lệ tinh thần đứng lên đấu tranh, chống lại cái ác bảo vệ đất nước của nhân dân sau này. Mạc đạo chủy thủ cánh vô tế Yết can trảm mộc vị tiên thanh (Kinh Kha cố lý) (Chớ bảo rằng mũi dao nhọn kia chẳng có ích gì Nó mở đầu cho việc chặt cây làm giáo, làm cán cờ (khởi nghĩa)) Khi viết về những con người trung thần nghĩa sĩ như Dự Nhượng, Kinh Kha, Nguyễn Du hết lòng ca ngợi tấm lòng “cô trung son sắt” của những con người biết trọng nghĩa khí. Tuy việc làm của họ không thành có thể đổi lấy cái chết cho bản thân, nhưng cái chết của họ không hề vô nghĩa, họ chết đi nhưng tiếng tăm vẫn mãi được lưu truyền. Người đời vẫn nhớ đến họ và ngàn đời ca ngợi những nghĩa cử cao đẹp mà họ đã làm. Trong thơ cổ phong Nguyễn Du còn nói đến các nhân vật lịch sử là những tên loạn thần tặc tử, những tên tướng giặc tàn bạo và những hôn quân bạo chúa, những người ham bả vinh hoa phú quý sẵn sàng giẫm đạp lên tất cả để hòng thỏa ý nguyện của mình. Phải kể đến đầu tiên là nhân vật Tô Tần, con người đầy tham vọng với vinh hoa phú quý đến coi thường cả người thân của mình. Thích cổ nguyên vị quyền lợi mưu Ta hồ, thủ nhân tiểu tai khí! (Tô Tần đình)
  • 70. 64 (“Dùi đâm vế” vốn là để mưu quyền lợi Than ôi! người ấy khí độ nhỏ mọn thay) Tô Tần là nhà thuyết khách thời Chiến Quốc, điển hình cho con người hành động để mưu cầu danh lợi, chủ trương thuyết hợp tung vận động liên hiệp sáu nước: Tề, Sở, Triệu, Hán, Ngụy để chống nước Tần. Khi đi du thuyết lần đầu bị thất bại trở về nhà, vợ không dời khung dệt ra đón, chị dâu không nấu cơm cho ăn, cha mẹ không đoái nhìn. Tô Tần giận đem sách “Âm phù kinh ra đọc”, lúc mệt mỏi, buồn ngủ, tự lấy dùi đâm vào vế thật đau để thức. Đến khi Tần đưa thuyết hợp tung, thuyết phục sáu nước, được sáu nước phong làm tướng quốc. Khi Tô Tần đeo ấn sáu nước về nhà được đón tiếp trân trọng chàng nói “Sao trước kia khinh rẻ, nay lại cung kính quá thế”. Tô Tần cố làm tất cả để được công danh phú quý, cốt yếu để lên mặt vênh váo, đắc chí với người thân. Nguyên Du đã chê bai Tô Tần hết lời vì có những hành động thất lễ, không tôn trọng gia đình. Những lời nói của Tô Tần nói với người chị dâu thật thô lỗ, ngoài ra Tô Tần còn là người ích kỉ với những thù hằn nhỏ mọn, ngay chính với người thân của mình. Nói đến Minh Thành Tổ, Nguyễn Du lại có cái nhìn không mấy thiện cảm bởi chính những hành động tàn bạo và độc ác. Hà huống Yên Đệ hà như nhân Đoạt điệt tự lập phi nhân quân Bạo nộ nhất sính di thập tộc (Kỳ Lân mộ) (Huống nữa Yên Đệ là người như thế nào/ Cướp ngôi của cháu để tự lập làm vua, y không phải là bậc nhân quân/ Để hả một cơn giận y giết cả mười họ (người ta)) Chỉ ba câu thơ nhưng Nguyễn Du đã khắc họa đúng bản chất tàn bạo của Minh Thành Tổ. Khi nói đến những con người này Nguyễn Du căm giận, phẫn uất đến tột cùng, đối với những tội ác mà chúng gây ra, không những thế ông còn mỉa mai, phê phán những hành động bất nhân bất nghĩa của chúng. Viết về nhân vật trong sử sách Trung Hoa, những nhân vật dù được miêu tả trực tiếp, hay gián tiếp, Nguyễn Du bao giờ cũng lòng vào đó những cảm xúc, những suy tư, trăn trở, những chiêm nghiệm của mình về cuộc đời và con người. Đúng như lời nhận xét của Trần Nho Thìn:“Dưới cái nhìn rực lửa của Nguyễn Du, các nhân vật phản diện tưởng
  • 71. 65 chừng như bị thiêu đốt ra tro. Trái lại, các nhân vật chính diện được ca ngợi, trân trọng, cảm thông hết mực. Nguyễn Du khác với các nhà nho ở cái phần tâm huyết, gan ruột thể hiện trong thơ vịnh sử của mình. Nói như Nguyễn Lộc, Nguyễn Du không vịnh sử mà viết về đề tài lịch sử” [59, tr. 122]. Đọc những bài thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du viết về những nhân vật lịch sử giúp chúng ta phần nào hiểu hơn về lịch sử cũng như con người của đất nước Trung Hoa. Những nhân vật lịch sử hiện lên chân thực, như sự tồn tại vốn có của nó. Ở đó những con người hiện diện với những chức trách khác nhau, cũng có những con người hiền lành tài giỏi, có những con người độc ác chuyên quyền, hay những người dân lương thiện. Từ những nhân vật lịch sử, ta có cái nhìn toàn diện và bao quát hơn, để từ đó có những chiêm nghiệm về cuộc đời và xã hội. 2.2. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du 2.2.1. Không gian nghệ thuật Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của thế giới vật chất của con người, không có một vật chất nào có thể tồn tại ngoài thời gian, cũng như không có hình tượng nghệ thuật không có không gian. Bản thân con người cũng đang tồn tại trong một không gian và thời gian, nhất định, không gian của cuộc sống, không gian với môi trường xung quanh, mỗi thời khắc trôi qua chính là sự trôi đi những khoảnh khắc trong cuộc sống con người. Trong suy nghĩ của con người thì không gian thường có các chiều: cao thấp, rộng hẹp, sâu cạn, xa gần. Không gian nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với cảm xúc và mang ý nghĩa nhân sinh. Không gian nghệ thuật không đơn giản là không gian vật chất mà chủ yếu tái hiện lại không gian tinh thần, cấu trúc không gian tinh thần bao giờ cũng được xác định bởi chỗ đứng của tác giả với điểm nhìn trong đó. Không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới nghệ thuật là thế giới của cái nhìn và mang ý nghĩa thì không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn. Do gắn với điểm nhìn, trường nhìn, môi trường hoạt động, không gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống, đồng thời do gắn với ý nghĩa, giá trị, không gian trở thành ngôn ngữ, biểu tượng nghệ thuật.
  • 72. 66 Khảo sát toàn bộ thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, chúng tôi nhận thấy nét nổi bật trong thơ cổ phong của hai tác giả là kiểu không gian rộng lớn, ngoài ra trong thơ cổ phong Nguyễn Du còn nói đến kiểu không gian nhỏ hẹp. 2.2.1.1. Không gian rộng lớn trong thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du Không gian rộng lớn giúp con người cảm nhận được mọi chiều sâu của cuộc sống. Trong không gian rộng lớn con người luôn khao khát chiếm lĩnh không gian, phóng tầm mắt về mọi hướng trong cái nhìn tương thông giao cảm với đất trời. Không gian trong thơ cổ phong của Nguyễn Trãi là không gian của núi rừng xanh thẳm. Trong không gian đó con người có sự giao cảm với thiên nhiên, vạn vật. Về với Côn Sơn tác giả như được chìm đắm trong bầu không khí trong lành, hưởng thụ những ngày tháng an nhàn không vướng bận. Nhà thơ làm bạn với chim muông, cây cỏ, có tiếng suối là đàn, rêu là chiếu, bóng thông làm giường, bóng trúc là nơi tác giả ngâm vịnh thơ ca. Trong con mắt thi nhân không gian của thiên nhiên không chỉ là cảnh mà đó chính là nhà. Côn Sơn hữu tuyền, Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên, Ngô dĩ vi cầm huyền. Côn Sơn hữu thạch, Vũ tẩy đài phô bích, Ngô dĩ vi đạm tịch. Nham trung hữu tùng, Vạn lí thuý đồng đồng, Ngô ư thị hồ yển tức kì trung. Lâm trung hữu trúc, (Côn Sơn ca) (Côn Sơn có khe/ Tiếng nước chảy rì rầm/ Ta lấy làm đàn cầm/ Côn Sơn có đá/ Mưa xối rêu xanh đậm/ Ta lấy làm chiếu thảm/ Trong núi có thông/ Muôn dặm rờn rờn biếc một vùng/ Ta tha hồ ngơi nghỉ ở trong/ Trong rừng có trúc/ Nghìn mẫu in biếc lục/ Ta tha hồ ngâm nga bên gốc) Nguyễn Trãi đã vẽ ra bức tranh thiên nhiên sống động, rạng ngời, tươi mát. Không gian của thiên nhiên làm con người quên những cảm giác mệt mỏi, quên hẳn
  • 73. 67 những buồn đau, vất vả của cuộc sống. Khi về ở ẩn tại Côn Sơn nhưng tâm trạng nhà thơ luôn lo lắng cho sự an nguy của đất nước, chính vì lẽ đó nên Nguyễn Trãi muốn tìm đến một không gian yên tĩnh, để cho tâm hồn được thảnh thơi, thoát khỏi những vướng bận, chỉ có không gian của núi rừng mới đem lại cảm giác bình yên cho con người. Những hình ảnh, âm thanh, màu sắc của núi rừng đem đến cho con người những rung cảm khác nhau, làm tâm hồn con người thoải mái và được thăng hoa, ở đó con người được sống đúng với chính bản thân mình. Làm bạn với núi rừng với cảnh sắc tươi đẹp của thiên nhiên, khiến tâm hồn thư thái, tác giả ngân nga những vần thơ làm lay động núi rừng cũng như lòng người trong không gian rộng lớn ấy. Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu thiên nhiên nồng nhiệt say đắm. Trãi quan nga nga diện tự thiết Bất độc ái mai kiêm ái tuyết Ái mai ái tuyết ái duyên hà Ái duyên tuyết bạch mai thanh khiết Thiên nhiên mai tuyết tự lưỡng kỳ (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên) (Hiên ngang mũ trãi mặt tựa sắt/ Không những yêu mai lại yêu tuyết/ Yêu mai yêu tuyết bởi vì đâu/ Vì tuyết trắng mà mai thanh khiết/ Thiên nhiên mai tuyết hai giống kỳ) Những câu thơ thấy được tình yêu mãnh liệt của tác giả đối với thiên nhiên và vạn vật, Nguyễn Trãi dành một tình yêu đặc biệt đối với hoa mai. Nói đến hoa mai là nói đến sự thanh cao, trong sạch đây là phẩm chất đáng quý đáng tự hào và nó chính là biểu tượng cho người quân tử. Nguyễn Trãi yêu tuyết bởi vì tuyết trắng, yêu mai bởi vì mai thanh khiết. Từ hình ảnh của mai nói lên tâm hồn trong sạch, tính cách cương trực, thẳng thắn và trung hiếu của Nguyễn Trãi. Không gian trong thơ Nguyễn Trãi là không gian của núi rừng, với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp. Ở đấy con người được chìm đắm trong bầu không khí trong lành mát mẻ, con người tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống. Ngược lại, không gian trong thơ Nguyễn Du có phần khác biệt, chính vì vậy khi nói đến không gian trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Trần Đình Sử đã nhận xét như sau : “Không gian trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
  • 74. 68 khác nhau, chủ yếu là do tính chất riêng chứ không phải do không gian riêng. Họ chỉ phân bố, tổ chức lại cái không gian chung mang ý nghĩa tượng trưng của thế giới quan đương thời thành không gian mang dấu ấn riêng” [47, tr. 785]. Không gian thiên nhiên núi rừng trong thơ Nguyễn Du trở nên dữ dội, hiểm trở hơn. Có những lúc ông tưởng chừng sự dữ dội của những ngọn núi làm chùn bước chân người đi. Những ngọn núi hiện lên giống như một ma trận, làm lòng người phải đắn đo nghĩ ngợi, dừng lại hồi tưởng hằng giờ, ngọn núi cao vời vợi, được miêu tả với những hình ảnh hết sức sống động. Cao sơn giáp ngạn như tường viên Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã la kỳ tiền (Ninh Minh giang chu hành) (Núi cao giáp bờ như bức tường/ Giữa có những hòn đá kỳ lạ chen chúc nhau/ Có những hòn hình rồng, rắn, cọp, beo, trâu, ngựa bay la liệt trước mặt) Hay Điệp Sơn đa hổ trĩ (Ký mộng) (Núi Tam Điệp nhiều hổ báo) Trên đường đi Nguyễn Du phải trải qua muôn vàn khó khăn, phải băng qua những ngọn núi cao với những nguy hiểm luôn chờ sẵn phía trước. Ngọn núi như đang thử thách lòng người, chính sự thử thách này sẽ đem đến lòng quyết tâm, ý chí, bản lĩnh giúp Nguyễn Du vượt qua những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh mà mình được giao phó. Ngũ chỉ sơn tiền thủy bạo chú Bạch ba chung nhật tẩu xà long Thanh sơn lưỡng ngạn giai sài hổ (Bất tiến hành) (Trước núi Ngủ Chỉ, nước như trút xuống/ Sóng bạc suốt ngày như rắn rồng đua chạy/ Hai bên bờ núi xanh như sói, cọp) Khi đi qua những ngọn núi những khe thác làm lòng người lo sợ, nó có thể cướp đi cuộc sống của con người trong gang tấc. Những người xuống được ngọn
  • 75. 69 thác đều reo mừng, người lên thác phải hoảng sợ. Không chỉ có không gian núi non hiểm trở mà không gian của những dòng sông, sóng nước cũng không kém phần dữ dội, hiểm nguy. Lam thủy đa giao ly Đạo lộ hiểm thả ác (Ký mộng) (Sông Lam nhiều thuồng luồng/ Đường đi hiểm và dữ) Và Giao ly xuất một thành trùng uyên Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyên Hạ lạo sơ trướng phí như tiên Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền Tâm huyền huyền đa sở úy Nguy hồ đãi tai cốt một vô để (Ninh Minh giang chu hành) (Thuồng luồng, ly long ra vào thành vực sâu/ Sóng vỗ bọt phun ngày đêm ầm ầm/ Nước lụt mùa hè vừa dâng, nước sôi sục/ Một mạch ba ngày đi, lòng chơi vơi/ Lòng chơi vơi vì sợ nhiều/ Nguy thay hiểm thay chìm sâu không đáy) Nhìn những ngọn sóng ầm ầm phun bọt, đi trên dòng sông con người luôn có cảm giác bất an, cảm thấy lòng luôn chơi vơi, sợ gặp điều không may xảy ra có thể chìm đắm vực sâu. Sự hung dữ của sông nước khiến cho con người dù có mạnh mẽ bao nhiêu cũng không thể không run sợ, hãi hùng. Bao trùm lên không gian sông nước là sự sợ hãi của con người, dòng sông như đang muốn nhấn chìm tất cả vào vực sâu không đáy. Khi miêu tả không gian của dòng sông trên đất nước mình Nguyễn Du vẫn thấy sự lạnh lùng và nguy hiểm một cách lạ thường. Dĩ ngạn băng bạo lôi Hồng đào kiến kỳ quỉ (Lam Giang) (Bờ sông lở sụt ầm ầm như sấm dữ/ Sóng lớn thấy như có quỉ lạ)
  • 76. 70 Dòng sông Lam hiền hòa ngày nào giờ đây khi mùa nước về cũng thay đổi, hoàn toàn khác lạ. Ngay chính bản thân con người cũng không thể nhận ra, nó trở nên nguy hiểm, từng dòng nước cuồn cuộn chảy nó có thể nhấn chìm cả những động vật và cả con người, dòng nước sẵn sàng cuốn trôi tất cả. Trong không gian của dòng nước lũ con người chỉ biết đứng nhìn và phó mặc cho đất trời. Dường như núi non, sông nước đang nổi cơn thịnh nộ muốn đe dọa sự sống của con người. Bao trùm lên không gian của con người là không gian của cái đói, cái rét, làm con người tàn tạ, héo hon nhợt nhạt. Con người không chỉ lạnh vì đói mà lạnh vì cái giá rét khắc nghiệt. Tiểu dân bất nhẫn hàn thả cơ (Trở binh hành) (Dân mọn không kham nổi cái cảnh đã rét lại thêm đói.) Âm phong phiêu nhiên chí Hành nhân diệc thê hoàng (Sở kiến hành) (Gió rét bỗng ào tới Người đi đường lòng quặn đau) Không chỉ con người, gia súc, cỏ cây cũng không chịu nổi cảnh lạnh giá. Tây phong thê thê hàn bức nhân Chinh mã tần tần kinh thất lộ (Dự Nhƣợng kiều chủy thủ hành) (Gió tây lạnh lẽo rét tê người Ngựa đi nhiều lần hí lên sợ lạc lối) Và Bách thảo kinh hàn tận khô tử (Lƣơng Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài) (Trăm loài cỏ sợ rét đều chết khô hết cả) Âm phong nộ hào thu thảo mĩ (Đồng Tƣớc đài) (Gió lạnh réo gào giận dữ, cỏ thu tàn úa)
  • 77. 71 Sống trong cái đói, cái rét khiến con người, cũng như cây cỏ xơ xác, tiêu điều, hiu hắt, con người cảm thấy cô đơn giữa vũ trụ bao la. Một không gian khác cũng xuất hiện bao quanh con người là không gian của cát bụi, gió bụi làm con người khó xác định được phương hướng trên đường đi. Không gian cát bụi làm cho con đường đi của con người trở nên dài và gian nan hơn. Yên giao nhất vọng giai trần thổ Thu nhật thu phong mãm quan lộ (Kinh Kha cố lý) (Dất Yên nhìn khắp toàn đất bụi Nắng thu, gió thu đầy trên đường quan) Có khi không gian của gió bụi làm che lấp ánh nắng của mặt trời. Cổn cổn trần ai tế thiên nhật (Trở binh hành) (Bụi cuốn che lấp cả mặt trời) Nhiều lúc gió bụi làm con người nhếch nhác. Trần ai cổn cổn ô nhân y (Phản chiêu hồn) (Bụi cuốn mù mịt bẩn cả quần áo) Trên những bước đi, con người nhiều khi nhận ra sự nhơ đục và hỗn tạp cứ bao quanh lấy mình, nhưng không thể nào thoát ra được, mà vẫn quẩn quanh lấy nó. Thế lộ trần ai tín hỗn trọc (Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích) (Đường đời bụi bặm thật quả là nhơ đục và hỗn tạp) Không gian nghệ thuật trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du có sự đối lập nhau. Không gian rộng lớn trong thơ Nguyễn Trãi đem lại cho con người sự thư thái, sống phóng túng tự do, tự tại sống chan hòa với núi rừng thiên nhiên. Ở đó con người được sống đúng với chính bản thân mình, không nghĩ ngợi, không băn khoăn, không mưu tính, không vật lộn với cuộc sống mưu sinh. Con người sống một cách nhàn hạ, sống và làm những điều mình thích. Không gian trong thơ cổ phong Nguyễn Du có phần khắc nghiệt với cuộc sống con người. Con người phải đối mặt với bao nguy hiểm, thử thách khắc nghiệt với sự sống. Trải qua cái đói, cái rét, con
  • 78. 72 người cảm thấy bế tắc, trong không gian đó mỗi cá nhân phải tự đấu tranh để tự bảo vệ chính bản thân mình, khỏi những nguy hiểm luôn luôn rình rập bao quanh. Tóm lại, Nguyễn Trãi hòa mình vào không gian rộng lớn để quên đi thực tại. Nguyễn Du không thể hòa mình vào không gian đó, mà chỉ thông qua không gian của núi rừng, sóng (?) sông (?) nước, không gian của cái rét và cát bụi để nhìn lại con đường đi của mình, đã phải trải qua những chông gai, những khó khăn gian khổ. Từ những trải nghiệm của không gian, thấy ý chí bản lĩnh kiên cường của con người, muốn chinh phục thiên nhiên khắc nghiệt, vượt qua sự dữ dội hiểm trở của không gian con người càng yêu quý chính bản thân mình hơn, trân trọng những thành quả mà mình phải bỏ bao công sức mới xây dựng được. 2.2.1.2. Không gian nhỏ hẹp trong thơ cổ phong Nguyễn Du Không gian nhỏ hẹp là không gian cuộc sống đời thường của con người, trong không gian đó con người thường biểu hiện những cảm xúc khác nhau như: vui, buồn, yêu thương, lo lắng, sợ hãi… những cung bậc tình cảm, cảm xúc của con người được biểu lộ ra bên ngoài một cách rõ nét. Trong không gian nhỏ hẹp bức tranh sinh hoạt, cư trú của con người được miêu tả một cách cụ thể thông qua điểm nhìn của tác giả. Con người đều quay cuồng vật lộn với cuộc sống mưu sinh, không gian đời thường có xu hướng bị thu hẹp, dồn nén con người vào những địa dư chật hẹp của cuộc sống sinh hoạt. Nguyễn Du miêu tả cuộc sống sinh hoạt của người dân, với những công việc hằng ngày rất đỗi bình thường và giản dị. Môn nội sở cư nhân Cùng niên hà sở vi Nữ sự duy tích ma Kỳ nam nghiệp vân ti (Hoàng Mai sơn thôn thƣợng) (Những người ở phía trong cổng ấy/ Quanh năm làm việc gì/ Việc của đàn bà chỉ là xe sợi gai/ Việc của đàn ông là cây cuốc) Trong không gian của phía núi ấy, con người với những công việc bình dị, phụ nữ thì xe sợi gai, đàn ông thì cuốc cày, đời sống diễn ra một cách bình yên vui vẻ. Những tưởng cuộc sống ấy sẽ kéo dài mãi mãi, ngờ đâu bỗng chốc rơi vào cảnh chiến tranh loạn lạc, hạn hán mất mùa, đói rét, bệnh tật, làng quê trở nên tiêu điều, ảm đạm.
  • 79. 73 Cuộc sống người dân hoàn toàn thay đổi khi nghe tin làng có chiến tranh, họ tụm nhau lại nói chuyện nhỏ, chuyện to. Khách phương xa không biết chuyện gì đang xảy ra xung quanh mình, chỉ nghe thấy toàn tiếng pháo lệnh, làm chấn động cả một vùng Hà Nam. Châu nhân văn tặc chí Tam tam ngũ ngũ giao đầu tế ngữ thanh y anh Hành nhân viễn lai bất giải sự Đản văn thành ngoại tiến thoái giai pháo thanh Hà Nam nhất lộ giai chấn động (Trở binh hành) (Dân trong châu nghe tin giặc đến/ Túm năm, tụm ba, châu đầu nói nhỏ, nói to/ Khách từ xa đến không biết chuyện gì đang xảy ra/ Chỉ nghe ngoài thành tiến thoái đều có thiếng pháo lệnh/ Cả một miền Hà Nam chấn động) Cảnh chiến tranh loạn lạc làm đảo lộn cuộc sống của con người. Những người thân trong gia đình phải lên đường tòng quân, không xác định được ngày sống sót trở về. Họ ra đi trong những tiếng than ngắn, thở dài, bao trùm lên cả không gian là sự lưu luyến, khắc khoải chờ mong cuộc sống sẽ trở lại bình yên như xưa. Trường tống trường than, đoản tống mặc Tiến thoái duy cốc nan vi tình (Trở binh hành) (Người đưa tiễn xa thì than dài, người đưa tiễn gần thì im lặng Tiến, lui đều trong tình trạng khó khăn ) Không chỉ cảnh chiến tranh loạn lạc gây ra đau khổ cho con người. Cảnh sưu thuế cũng làm cho cuộc sống của người dân trở nên điêu đứng không kém. Há sơn phạt tùng chi Liêu dĩ túc quan thuế Bất sự thư dữ thi Thôi tô nhất bất đáo Kê khuyển giai hi hi (Hoàng Mai sơn thƣợng thôn) (Xuống núi chặt cành tùng/ Kiếm cho đủ tiền thuế nộp cho quan/ Không thiết học thi, thơ/ Kẻ giục thuế mà không đến/ Gà, chó vui phởn phơ)
  • 80. 74 Trong không gian nhỏ hẹp của cuộc sống đời thường, con người phải chạy vạy ngược xuôi, sống trong sự lo lắng, cố gắng tìm mọi cách để có được sự bình yên, nhưng nào ngờ nỗi lo này chưa qua, nỗi lo khác lại đến khiến con người phải gồng mình lên chịu đựng. Người dân đã phải chịu cảnh chiến tranh loạn lạc, giờ đây hạn hán, mất mùa lại kéo đến, khiến cuộc sống con người đã khó khăn giờ đây càng khó khăn hơn. Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn Chỉ hữu xuân tác vô thu thành Hồ Nam, Hà Nam cửu vô vũ Tự xuân tồ thu điền bất canh (Trở binh hành) (Ta nghe người vùng này nhiều năm khổ vì lúa mất trắng và nắng cháy/ Chỉ có cấy xuân mà không thu hoạch được/ Hồ Nam, Hà Nam từ lâu không có mưa/ Từ mùa xuân đến mùa thu ruộng bỏ không cày) Hạn hán mất mùa xảy ra liên tiếp khiến con người phải bỏ làng, bỏ quê đi xin ăn. Tuế cơ lưu dị hương Dị hương sảo phong thục Mễ giá bất thậm ngang Bất tích khí hương thổ Cẩu đồ cứu sinh phương (Sở kiến hành) (Năm đói, lưu lạc đến làng khác/ Làng khác mùa màng khá hơn/ Giá gạo không cao lắm/ Bỏ làng đi cũng chẳng tiếc/ Miễn sao có được phương cứu sống) Trong cuộc sống đời thường của con người ngôi nhà có ý nghĩa quan trọng, bởi chính ngôi nhà đem đến niềm vui, sự che chở, đem đến sự bình yên cho con người. Trong các ngôi nhà của người Việt, bất cứ ngôi nhà nào cũng có cánh cửa, nhiều lúc có cửa lớn và cửa nhỏ, cánh cửa tạo ra không gian thoáng mát và sự tương thông với thế giới bên ngoài. Trần Đình Sử có nhận xét: “Sự tương thông, hô ứng giữa không gian nhỏ của con người và không gian lớn của vũ trụ. Không gian nhỏ không bao giờ ngăn cách với không gian lớn. Ngôi nhà trong thơ cổ không bao giờ là không gian khép kín, tạo thành thế giới riêng biệt của con người. Đó là không
  • 81. 75 gian mở. Nó được thể hiện hoán dụ thành chiếc cửa sài, cửa song, tấm rèm, bình phong hoặc cửa bồng (thuyền)” [50, tr. 784]. Nhưng trong thơ cổ phong Nguyễn Du lại khác, như Lê Thu Yến đã từng nói: “Nguyễn Du viết về cánh cửa nhưng cánh cửa của ông thường ở trạng thái đóng, ít khi ở trạng thái mở” [73, tr. 145]. Trong bài Ngẫu thư công quán bích Nguyễn Du miêu tả cảnh cửa nhưng cũng chỉ mở cánh cửa sổ nhỏ bé sau khi đã đóng cánh cửa lớn. Bế môn tạ tri giao Khai song kiến kinh kỷ Song ngoại kinh kỷ mạn thả trường (Ngẫu thƣ công quán bích) (Đóng cửa tạ từ không tiếp bạn thân/ Mở cửa thấy cây kinh cây kỷ/ Ngoài cửa sổ, cây kinh cây kỷ mọc tràn lan và dài) Trong những ô cửa sổ nhỏ Nguyễn Du nhìn thế giới bên ngoài và cảm nhận được sự vận động của trời đất. Tây song nhật lạc thiên tương mộ (Hành lạc từ II) Mặt trời đang lặn ở cửa sổ phía tây, trời sắp tối Thi nhân ngắm trăng qua khe cửa sổ nhỏ. Không ốc lậu tà nguyệt Chiếu ngã đan thường y (Ký mộng) (Nhà trống lọt trăng tà/ Chiếu vào chiếc áo đơn của ta.) Không chỉ quan sát sự thay đổi của trời đất, Nguyễn Du nhìn thấy được hiện thực của cuộc sống con người. Xa mã trì sậu, kê khuyển minh Tiểu hộ bất bế, đại hộ bế (Trở binh hành) (Xe ngựa chạy rầm rập, gà chó kêu Nhà nghèo không đóng cửa, nhà giàu đóng cửa)
  • 82. 76 Những vần thơ ít nhiều cũng nói lên tâm trạng Nguyễn Du, có lẽ thi nhân cũng muốn bước ra khỏi cánh cửa, ra với thế giới bên ngoài, để thỏa thích ngắm mặt trời lặn, nhìn những ánh trăng tỏa sáng trên bầu trời cao rộng kia. Dẫu biết rằng không gian của thế giới bên ngoài có rộng lớn, nhưng trong không gian ấy Nguyễn Du vẫn thấy sự tù túng, khắc nghiệt, làm con người cảm thấy mệt mỏi và bế tắc, bởi những cảnh đời bất hạnh, những bất công ngang trái, con đường đời đầy những chông gai, thử thách luôn chờ ở phía trước. Chính vì lẽ đó, Nguyễn Du muốn đóng cửa lại để có những phút giây yên tĩnh để nhìn lại cuộc đời, nhìn lại những gì đã qua. Nguyễn Du muốn tìm cho mình một không gian không vướng bận, để có những giây phút tự do, tự tại. Nhưng thực tế ông đâu có được giấy phút thảnh thơi. Nguyễn Du nhìn thấy biết bao cảnh đời đói khổ lầm than, đi đâu cũng nhìn thấy những xác người chết Nhãn kiến cơ biểu tử đương đạo - Trở binh hành (Ta nhìn thấy tận mắt người đói chết giữa đường) và Nhãn hạ ủy câu hác/ Huyết nhục tự sài lang - Sở kiến hành (Nhìn thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh, Máu thịt nuôi sài lang) hay Bạch cốt thành sơn địa huyết ân – Kỳ lân mộ (Xương trắng chất thành núi, đất ngập máu) khiến lòng ông quặn thắt, chính hiện thực nghiệt ngã ấy đã đem đến những buồn đau, những day dứt trong lòng nhà thơ. Nguyễn Du không chỉ miêu tả không gian của người sống. Trong thơ cổ phong Nguyễn Du còn nói đến không gian của cõi hư vô, cõi huyền bí với những điều bí ẩn tâm linh, mà con người không thể giải thích, ấy chính là không gian của mồ mả, đình, đài. Hình ảnh của những nấm mồ nói về thế giới bên kia của con người. Mỗi con người chúng ta khi sống trên cõi đời này dù là người tốt hay kẻ xấu, có tài hay bất tài, hiền lành hay độc ác, ai cũng phải trải qua cái chết, đằng sau cuộc đời của mỗi con người chỉ còn lại nắm tro tàn, và nấm mồ nhỏ bé. Những nấm mồ tượng trưng cho cái giới hạn của đời người Cổ kim hiền ngu nhất khâu thổ- Hành lạc từ II (Xưa nay hiền ngu đều chỉ còn nắm đất). Đọc những vần thơ của Nguyễn Du, chúng ta càng hiểu và quý trọng một tài năng luôn biết nhìn về những đau khổ của con người, từ đó thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà thơ. Như vậy, không gian nhỏ hẹp trong thơ Nguyễn Du đưa ta đến một không gian sinh hoạt hằng ngày của con người. Ở đó con người trải qua những lo toan của cuộc sống, bận rộn với những vấn đề mưu sinh, sống lại với thời kỳ chiến tranh loạn
  • 83. 77 lạc lầm than. Con người đối mặt với cái sống và cái chết để từ đó rút ra những bài học nhân sinh. Chúng ta nhận ra rằng đời người không có gì tồn tại mãi mãi, con người sinh ra sống trên cõi đời, ai cũng phải trở về với cát bụi, ai rồi cũng chỉ còn lại một nắm mồ mà thôi. 2.2.2. Thời gian nghệ thuật Thời gian, không gian là hình thức tồn tại của thế giới, của cuộc sống con người. Không có gì tồn tại ngoài không gian và thời gian. Sự tồn tại của con người đều gắn liền với sự tồn tại của không gian và thời gian, con người nhận biết sự thay đổi của thời gian từ sự thay đổi của chính bản thân mình và của thế giới xung quanh. Như Nguyễn Thị Bích Hải đã từng nói: “Thời gian là một đại lượng để xác định quá trình tồn tại, vận động, phát triển của mọi vật, mọi sự trong thế giới. Hình tượng nghệ thuật cũng chỉ có thể được xác định trong không gian – thời gian” [13, tr.132]. Trong cuộc sống con người thời gian được nhìn nhận ở ba gốc độ: thời gian quá khứ - hiện tai- tương lai. Thời gian tự nhiên có một tính chất rất đặc biệt không thể đảo ngược được nó chỉ vận động theo một chiều. Trong tác phẩm nghệ thuật thời gian có thể tái tạo lại. Người nghệ sĩ có thể chọn điểm bắt đầu và kết thúc, có thể nhanh hay chậm, có thể kể xuôi hay đảo ngược, có thể chỉ một vài ngày, một ngày, thậm chí một khoảnh khắc. Đặc điểm của thời gian nghệ thuật là thời gian đó luôn luôn mang cảm xúc và ý nghĩa nhân sinh và tính quan niệm, bởi vậy nó mang tính chất chủ quan, tính chất chủ quan này giúp ta phát hiện được thực tại đối với con người. Trong Giáo trình Thi pháp học Trần Đình Sử có nói: “Thời gian nghệ thuật là một hình tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác phẩm nghệ thuật”. Thời gian được dùng làm phương tiện nghệ thuật để phản ánh đời sống. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, thời gian cũng được thể hiện theo mạch suy nghĩ và những cảm xúc chủ quan của nhà thơ. Thời gian nghệ thuật còn thể hiện quan niệm, chiêm nghiệm cũng như nhận thức và tư duy của tác giả. Ta thấy ở hai tác giả rất nhạy cảm với những gì xảy ra trong cuộc sống. Chính vì vậy, thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, là thời gian tràn đầy cảm xúc, nói lên tâm trạng của con người. Phảng phất trong thời gian nghệ thuật của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du là nỗi buồn, sự tiếc nuối về một thời đã qua. Con người càng nhạy cảm với cuộc đời, nhạy cảm với bước đi của thời gian, con người càng khổ đau. Thời gian có thể đem lại cho con người những điều tốt đẹp
  • 84. 78 nhất, nhưng đôi lúc chính thời gian lại lấy đi của con người tất cả. Nguyễn Du luôn dõi theo và cảm nhận bước đi của thời gian, nên ông có những rung cảm sâu sắc về sự thay đổi của con người cũng như vạn vật trong thế giới tự nhiên. Trải qua những biến thiên của cuộc đời, từ những trải nghiệm của cuộc sống, Nguyễn Du hiểu được rằng thời gian tồn tại của con người thật ngắn ngủi. Con người không thể tồn tại mãi với thời gian, mỗi con người chúng ta ai cũng phải đối mặt với sinh - lão - bệnh - tử. Nguyễn Du nhận ra rằng con người chẳng ai sống đến trăm tuổi, nên không cần phải tính chuyện của ngàn năm, nên cứ vui chơi, hành lạc. Trung thọ chỉ bát thập Hà sự thiên niên kế (Hành lạc từ I) (Trung thọ chỉ được tám mươi tuổi/ Việc gì tính chuyện ngàn năm) Nhân sinh vô bách tải Hành lạc dương cập kỳ (Hành lạc từ I) (Đời người không ai sống trăm tuổi/ Nên vui chơi cho kịp thì) Và Nhân thọ vô bách tuế Thế sự đa suy di Phù sinh hành lạc sự (Hành lạc từ II) (Người thọ chẳng trăm tuổi/ Việc đời lắm đổi dời/ Kiếp phù sinh nên hành lạc) Cuộc đời của con người thật ngắn, ở mỗi con người quý nhất là thời gian. Con người sống trên cõi đời đừng quá bon chen, toan tính, mà nên vui chơi cho thỏa ước nguyện. Nguyễn Trãi cũng từng nhận thấy con người hay thảo mộc đều giống nhau đời người trong trăm năm không còn gì hết. Nhân sinh bách tuế nội Tất cánh đồng thảo mộc Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục (Côn Sơn ca) (Người đời trong trăm năm/ Rốt cuộc như thảo mộc/ Vui buồn lo sướng thay đổi nhau/ Một tươi một héo vẫn tương tục)
  • 85. 79 Theo Phật giáo thì thời gian là vô thủy vô chung không có điểm khởi đầu và không có kết thúc, thời gian cứ vận động liên tục và không ngừng nghỉ, con người chúng ta cứ ngụp lặn trong vòng luân hồi đó. Nguyễn Du cảm nhận được thời gian trôi đi nhanh chóng, thời gian của cuộc đời con người, cũng như thời gian của đời cây cỏ chỉ là những khoảnh khắc. Trong những bước đi của thời gian, Nguyễn Du cũng nhận ra sự thay đổi của chính bản thân mình. Thuấn tức bách niên năng kỷ thì Thương tâm vãng sự lệ triêm y Nam Hà qui lai đầu tận bạch Quái để giai nhân nhan sắc suy (Long Thành cầm giả ca) (Trăm năm như chớp mắt có là bao/ Đau lòng việc cũ lệ thấm áo/ Tôi từ Hà Nam trở về đầu bạc trắng hết/ Chẳng trách nhan sắc người đẹp tàn phai) Thời gian trôi qua mọi thứ đều trở thành kí ức. Nguyễn Du nhìn thấy rõ sự thay đổi của người con gái tài hoa nhất thành Trường An khi xưa. Bây giờ một người tóc đã hoa râm, nét mặt võ vàng thần sắc khô khan, thân hình hơi nhỏ, đôi mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm. Thời gian đã làm tàn phai và thay đổi tất cả, Nguyễn Du sực nhớ lại thời gian của hai mươi năm trước khi gặp cô gái trong bữa tiệc bên Hồ Giám, lúc ấy nàng chỉ chừng hai mốt, vẻ mặt hoa đào, má hồng, dáng ngây thơ, rất đáng yêu. Nhưng giờ đây khi gặp lại mọi thứ đều đổi thay khiến ông không thể không bàng hoàng, giật mình, chính thời gian đã làm con người ta tàn tạ và héo hon nhợt nhạt. Nguyễn Du không chỉ nhớ lại thời gian của quá khứ, còn thấy bước đi của thời gian. Nhiều lúc thời gian trôi qua nhanh khiến thi nhân cảm nhận giống như một giấc chiêm bao, để lại trong lòng người những tiếc nuối, xót xa cho cơ nghiệp đã mất. Thành quách suy di nhân sự cải Kỷ xứ tang điền biến thương hải Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong Ca vũ không di nhất nhân tại (Long Thành cầm giả ca) (Thành quách đổi dời, việc người đã khác/ Biết bao nơi ruộng dâu đã biến thành
  • 86. 80 biển xanh/ Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan hết cả rồi/ Chỉ còn sót lại một người ca múa) Thời gian có khi nào dừng lại. Nó cứ trôi chảy mãi và tuần hoàn theo chu kì. Nguyễn Trãi cũng như Nguyễn Du đều nhìn thấy sự trôi đi nhanh chóng của thời gian. Chính sự trôi đi nhanh chóng của thời gian nó đã làm biến đổi tất cả. Khoảnh khắc năng linh quỳnh tác tiết Dạ thâm kỳ thụ toái linh lung Nguyệt hộ phong song hàn lẫm liệt Nhược phi phong đệ ám hương lai Phân phân nhất sắc hà do biệt (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên) (Khoảnh khắc ngọc quỳnh ra nát bét/ Đêm khuya cây ngọc tan long lanh/ Trăng ngõ gió song lạnh ráo riết/ Nếu không hương ngầm gió thoảng đưa/ Một sắc lan man sao phân biệt) Và Thanh thần lộng xuân nghiên Nhật mộ trước nê trỉ (Hành lạc từ II) (Sớm mai cợt đùa sắc xuân đẹp/ Chiều tối dính bùn nhơ) Hình ảnh những cánh hoa đào tươi đẹp đỏ thắm, sớm mai vẫn đang còn rung rinh trong gió xuân khoe những hương sắc với đất trời, có ai ngờ rằng chiều tối nó đã nằm yên ở chốn bùn nhơ. Có thể thấy hoa có đẹp có quý đến nhường nào thì cũng không thể tồn tại mãi với thời gian, hoa nở hoa rụng phải theo quy luật tự nhiên. Quy luật tự nhiên và quy luật thời gian thật đáng sợ. Nhà thơ tự thấy thương mình cũng như thương người. Nguyễn Du thấy được sự nhỏ nhoi của con người trước thời gian. Cuộc đời con người chẳng khác nào kiếp phù sinh. Ngã tư cổ nhân thương ngã tình Bồi hồi phủ ngưỡng bi phù sinh (Đồng Tƣớc đài) (Ta nghĩ đến người xưa, xót nỗi mình Bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, thương kiếp phù sinh) Thời gian trong thơ cổ phong của Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là thời gian
  • 87. 81 đầy tâm trạng cá nhân. Những tâm trạng ấy được nâng lên thành những suy tưởng, cả hai nhà thơ đều lấy thời gian làm thước đo cho những cảm xúc và hoài vọng của mình về một thời xa xăm. Tìm hiểu thời gian nghệ thuật trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, ta càng nhận ra sự hữu hạn của đời người, thời gian cứ trôi đi và cuốn vào nó hết thảy mọi thứ, con người chỉ là vật thể mong manh trước dòng thời gian vô tận. Con người cứ chạy đua với thời gian, chạy theo những vinh hoa phú quý, mà không nhận ra rằng chúng ta đang đánh mất đi những quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời. Khi nhìn lại con người mới cảm thấy nuối tiếc vì thời gian đã qua, và dần nhận ra rằng tất cả đều chỉ là hư vô. Nguyễn Du đã từng nói Đời người không ai sống trăm tuổi/ Nên vui chơi cho kịp thì –Hành lạc I. Đúng vậy câu thơ của Nguyễn Du như nhắc nhở chúng ta rằng, mỗi con người sống trên cõi đời nên sống và làm những điều có ý nghĩa, tránh để thời gian trôi qua một cách vô nghĩa, hãy sống và làm những điều có ích cho đời.
  • 88. 82 Chƣơng 3 THỂ THƠ, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU 3.1. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ở phƣơng diện thể thơ Tìm về với thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, người đọc thấy được tài năng bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ cũng như việc thể hiện tư tưởng tình cảm của hai tác giả. Số lượng những bài thơ chữ Hán làm theo thể thơ cổ phong của Nguyễn Trãi chỉ chiếm 1,9%, và thơ cổ phong của Nguyễn Du chiếm 10,4% so với thể thơ Đường luật. Tuy chỉ chiếm một số lượng ít nhưng nhóm thơ cổ phong lại chứa đựng nhiều vấn đề lớn, phản ánh một cách chân thực, sinh động đời sống xã hội con người. Trong tổng số 28 bài thơ cổ phong của hai tác giả, có bốn bài sáng tác theo thể ngũ ngôn cổ phong, có bảy bài làm theo thể thất ngôn cổ phong, những bài còn lại gọi là tạp ngôn (do có sự đan xen những câu dài ngắn khác nhau). Số chữ trong câu và số câu trong bài thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du được sử dụng khá linh hoạt. Nhưng phổ biến hơn vẫn là ngũ ngôn và thất ngôn. Ví như những bài cổ phong ngũ ngôn: Thệ thủy nhật dạ lưu Du tử hành vị qui (Ký mộng) Tuấn khuyển hoàng bạch mao Kim linh hệ tú cảnh (Hành lạc từ I) Hữu phụ huề tam nhi Tương tương tọa đạo bàng (Sở kiến hành) Và những bài cổ phong thất ngôn. Trãi quan nga nga diện tự thiết Bất độc ái mai kiêm ái tuyết (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
  • 89. 83 Nhất thế chi hùng an tại tai Cổ nhân khứ hề kim nhân lai (Đồng Tƣớc đài) Bạch hồng quán nhật thiên man man Phong tiêu tiêu hề Dịch Thủy hàn (Kinh Kha cố lý) Hay có những bài cổ phong đan xen những câu dài ngắn khác nhau Hà bắc đạo trung, ngũ xích phong bi đương đại lộ Trung hữu khải tự đại thư “KỲ LÂN MỘ” Đạo bàng cố lão vị dư ngôn “Vĩnh lạc tứ niên cống lân đạo tử, táng thử thổ” (Kỳ lân mộ) Độc thiện Nguyễn cầm Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh (Long Thành cầm giả ca) Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy chỉ với 28 bài thơ cổ phong của hai tác giả, nhưng có đến 709 câu thơ. Thơ cổ phong Nguyễn Du bài ngắn nhất có sáu câu như bài “Thái Bình thành hạ văn xuy địch” và bài dài nhất lên đến 63 câu như bài “Trở binh hành. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi bài ngắn nhất 26 câu như bài Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên, và bài dài nhất 30 câu như bài Côn Sơn ca. Như vậy, thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du không hạn định về số câu trong bài. Cách gieo vần trong thơ cổ phong hai tác giả khá đa dạng. Có khi là độc vận, có khi liên vận, có thể cứ hai câu, bốn câu, hoặc tám câu là đổi vần. Chẳng hạn như những câu thơ sau. Việt tây sơn trung đa giản tuyền Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên Tự cao nhi hạ như bát thiên Than thượng hà sở văn Ứng long kích nộ lôi điền điền Than hạ hà sở kiến Nỗ cơ kịch phát thỉ ly huyền
  • 90. 84 Nhất tả vạn lý vô đình yên Cao sơn giáp ngạn như tường viên Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã, la kỳ tiền Đại giả như ốc, tiểu như quyền Cao giả như lập, đê như miên Trực giả như tẩu, khúc như tuyền Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn Giao ly xuất một thành trùng uyên (Ninh Minh giang chu hành) Thơ cổ phong không có niêm luật và đối chặt chẽ như thơ Đường (có thể dùng vần bằng hoặc vần trắc; có thể dùng vần bằng trắc xen kẻ). Có thể dẫn ra hai bài thơ cổ phong Nguyễn Trãi và Nguyễn Du làm ví dụ: Bạch hồng quán nhật thiên man man T B T T B B B Phong tiêu tiêu hề Dịch Thủy hàn B B B B T T T Ca thanh khẳng khái, kim thanh liệt B B T T B B T Kinh Kha tòng thử nhập Tần quan B B B T T B B Nhập Tần quan hề, trì chủy thủ T B B B T T T (Kinh Kha cố lý) Nguyệt hộ phong song hàn lẫm liệt T T B B B T T Nhược phi phong đệ ám hương lai T B B T T B B Phân phân nhất sắc hà do biệt B B T T B B T Tuần thiềm bất phạ ngọc lâu hàn B B T T T B B Ngân hải dao quang cánh thanh triệt B T B B T B T (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
  • 91. 85 Từ những câu thơ dẫn trên, ta thấy thanh bằng và thanh trắc được tác giả sử dụng không theo quy định về phối thanh bằng và thanh trắc như trong thơ Đường luật. Có những câu thơ Nguyễn Du dùng toàn thanh bằng. Nam Sơn đa hương mi (Hành lạc từ I) Y quần hà khuông nhương (Sở kiến hành) Nhân nhân giai kỳ di (Hoàng Mai sơn thượng thôn) Hay có những câu sử dụng toàn thanh trắc. Tiểu hộ bất bế, đại hộ bế (Trở binh hành) Bản địa lục nguyệt chí cửu nguyệt (Trở binh hành) Nhất quốc lưỡng hổ bất khả phạm (Liêm Pha bi) Phụ mẫu bất phục cố (Tô Tần đình II) Sát khí lẫm lẫm bất khả cận (Dự Nhượng kiều chủy thủ hành) Mẫu tử bất túc tuất (Sở kiến hành) Việc sử dụng những câu thơ toàn thanh bằng hoặc toàn thanh trắc chỉ có trong thơ cổ phong, trong thơ Đường luật ít gặp. Sự phong phú của âm thanh, nhất là những thanh trắc làm cho những vần thơ cổ phong thích hợp cho việc phản ánh hiện thực cuộc sống, sinh động, phức tạp, phong phú. Cách thể hiện tình cảm của tác giả trong những bài thơ đó cũng trở nên mạnh mẽ hơn, vừa xót thương, vừa căm giận, nhưng cũng có lúc thể hiện sự bất bình, phẫn nộ. Trong những bài thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, người đọc bắt gặp nhiều câu thơ có sự sắp xếp đẹp đẽ về thanh âm như thơ luật. Cánh thiêm đài bạch chân tam tuyệt B T B (Lại thêm bách đài đủ tam tuyệt) (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên) Và Nhất thế chi hùng an tại tai T B T (Anh hùng một thưở, giờ nơi đâu) (Đài Đồng Tƣớc)
  • 92. 86 Ngoài ra thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du không quy định chặt chẽ về mặt ngữ âm, nhạc điệu, bằng trắc, gần với ngôn ngữ đời thường hơn vì vậy tính chất cách điệu của nó không cao như luật thi. Ngữ âm, trong thơ cổ phong của hai tác giả sử dụng nhiều thanh trắc hơn thanh bằng. Chích Cược vô đại lợi Trung thọ chỉ bát thập Hà sự thiên niên kế Hữu khuyển thả tu sát Hữu tửu thả tu khuynh Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận (Hành lạc từ I) Ở ví dụ dẫn trên ta thấy sáu câu thơ trong bài Hành lạc từ I có 32 từ nhưng chứa đựng trong đó đến 23 thanh trắc. Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc Hựu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề Thú Dương ngạ tự bất thực túc (Côn Sơn ca) Hoặc như năm câu trong bài Côn Sơn ca có 39 từ nhưng lại có đến 28 từ được sử dụng thanh trắc. Từ những đặc điểm trong thơ cổ phong nói chung và thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du nói riêng, ta thấy thơ cổ phong là lối thơ tự do không chịu sự quy định nghiêm ngặt về niêm luật, số câu, số chữ/từ, có thể dùng câu ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn hoặc đan xen câu dài ngắn khác nhau (tạp ngôn). Vần trong thơ cổ phong cũng tự do hơn, có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận). 3.2. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ở phƣơng diện ngôn ngữ “Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học” (M.Gooki). Đối với thi pháp học ngôn ngữ đã trở thành yếu tố chính của nghiên cứu, phê bình văn học. Ngôn ngữ chính là chìa khóa giúp người đọc giải mã các tác phẩm văn chương, biết được những tư tưởng quan điểm nhà văn gửi gắm vào trong tác phẩm. Do đó nghiên cứu văn học nói chung, thơ văn nói riêng không thể không nghiên cứu ở phương diện ngôn ngữ.
  • 93. 87 3.2.1. Từ vựng Từ là đơn vị cơ bản của từ vựng. Từ vựng là tập hợp từ và các đơn vị tương đương với từ của một ngôn ngữ. Các đơn vị tương đương với từ là các ngữ cố định nên có thể nói từ vựng là tập hợp các từ và ngữ cố định của ngôn ngữ [7, tr. 172]. 3.2.1.1. Từ láy “Từ láy là những từ được cấu tạo bằng cách lặp lại âm tiết gốc theo quy tắc trùng điệp (toàn phần hay bộ phận), theo sự luân phiên âm tố chính, hài hòa về âm và nghĩa” [21, tr. 246]. Có nhiều kiểu láy: láy đôi, láy ba, láy tư, trong đó có những dạng láy nguyên vẹn, láy bộ phận, láy hài thanh, láy luân phiên, láy xen kẽ tạo ra sự đa dạng của từ láy. Để thấy được các từ láy xuất hiện trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, chúng tôi thực hiện khảo sát trong số 2 bài thơ cổ phong của Nguyễn Trãi và 26 bài thơ của Nguyễn Du, nhận thấy hai tác giả có sử dụng từ láy trông một số trường hợp cụ thể như sau. Bảng 3.1. Những bài thơ và câu thơ có sử dụng từ láy trong thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du STT TÊN BÀI THƠ NHỮNG CÂU THƠ CÓ SỬ DỤNG TỪ LÁY 1 Côn Sơn ca Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên Vạn lí thúy đồng đồng 2 Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên Trãi quan nga nga diện tự thiết Phân phân nhất sắc hà do biệt 3 Ký mộng Y sức đa sâm si Phảng phất như cách duy 4 Hành lạc từ 1 Hà sự mang mang thân hậu danh 5 Hành lạc từ 2 Cổ nhân phần doanh dĩ luy luy Kim nhân bôn tẩu hà phân phân 5 Lam Giang Khứ giả hà thao thao 6 Ngẫu thư công quán bích Mỹ nhân du du cách cao tường 7 Ninh Minh giang chu hành Ứng long kích nộ lôi điền điền Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền
  • 94. 88 Tâm huyền huyền đa sở úy Thí vọng thao thao thử giang thủy 8 Thái Bình mại ca giả Đãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh 9 Bất tiến hành Chu tiếp phân phân đồng nhất lưu 10 Phản chiêu hồn Trần ai cổn cổn ô nhân y Đại địa xứ xứ giai mịch la 11 Biện Giả Hà đắc thê thê “tướng cửu châu” Nhãn trung Tương Thủy không du du 12 Cựu Hứa Đô Phong vũ dạ dạ do hào hô 13 Trở binh hành Kim tương tương, thiết tranh tranh 14 Liêm Pha bi Bột bột tráng khí tưởng kiến kỳ sinh tiền 15 Dự Nhượng kiều chủy thủ hành Tấn Dương thành ngoại thao thao thủy Sát khí lẫm lẫm bất khả cận Lăng lăng kỳ khí thiên tiêu thượng Quân độc tranh tranh thiết trượng phu Tây phong thê thê hàn bức nhân 16 Kinh Kha cố lý Bạch hồng quán nhật thiên mam mam Phong tiêu tiêu hề Dịch Thủy hàn Hàm Dương thiên tử chung nguy nguy 17 Kỳ lân mộ Đãn kiến quan đạo đãng đãng vô khâu lăng 18 Mạnh Tử từ cổ liễu Chi kha lạc lạc lão ích tráng Tuế nguyệt du du thâm bất tri Thông thông uất uất bão nguyên khí 19 Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích Bất tại du du nhất đàm thủy 20 Sở kiến hành Tương tương tọa đạo bàng Lệ lưu khâm lang lang 21 Hoàng Mai sơn thượng thôn Kê khuyển giai hi hi Qua khảo sát, chúng tôi thấy ở trong hai bài thơ của Nguyễn Trãi chỉ có ba câu thơ sử dụng từ láy trên tổng số 56 câu chiếm 5,4%. Thơ cổ phong Nguyễn Du có 38 câu sử dụng từ láy trên tổng số 653 câu chiếm 5,8% trong tổng số các bài thơ
  • 95. 89 cổ phong. Như vậy, từ láy được Nguyễn Trãi và Nguyễn Du sử dụng trong thơ cổ phong với số lượng khá khiêm tốn. Ngôn ngữ trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du chỉ có tiếng láy đôi chưa thấy có láy ba, láy tư. Trong các trường hợp láy có 39 câu thơ có sử dụng từ láy âm hoàn toàn, và chỉ có hai câu thơ sử dụng từ láy phần phụ âm đầu như: Y sức đa sâm si - (Ký mộng) Phảng phất như cách duy – (Ký mộng) Các từ láy được nhà thơ sử dụng trong trường hợp để mô tả tính chất hoặc mức độ các sự việc, sự vật, tình cảnh và bộc lộ cảm xúc một cách mãnh liệt. Như các trường hợp của các câu sau. Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền Tâm huyền huyền đa sở úy (Ninh Minh giang chu hành) Thí vọng thao thao thử giang thủy (Minh Minh giang chu hành) Tấn Dương thành ngoại thao thao thủy (Dự Nhượng kiều chủy thủ hành) Sát khí lẫm lẫm bất khả cận (Dự Nhượng kiều chủy thủ hành) Trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi và Nguyễn Du, vị trí các từ láy không ổn định. Có bốn trường hợp láy được để ở đầu câu, còn lại các trường hợp khác từ láy được để ở vị trí giữa hoặc cuối câu thơ. Từ láy được đặt ở đầu câu thơ hoặc trước danh từ thường mang nghĩa bao quát, nhấn mạnh ý của cả câu. Ví như những câu thơ sau: Phân phân nhất sắc hà do biệt (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên) Lăng lăng kỳ khí thiên tiêu thượng (Dự Nhượng kiều chủy thủ hành) Bột bột tráng khí tưởng kiến kỳ sinh tiền (Liêm Pha bi) Phảng phất tư cách duy (Ký mộng) Trong bài Ký mộng khi diễn tả nỗi nhớ của mình đối với người vợ đã khuất Nguyễn Du đã sử dụng từ láy “phảng phất”. Phảng phất là nói đến những dấu hiệu hình như mơ hồ thoảng qua không thật rõ nét nhưng vẫn cảm nhận được. Và trong nỗi nhớ thương Nguyễn Du đã nằm mộng thấy người vợ trở về dù chỉ phảng phất qua bức màn nhưng nhà thơ vẫn cảm nhận được hình hài và dung nhan của vợ. Ở bài Ninh Minh giang chu hành với độ dài 31 câu trong đó có năm câu sử dụng từ láy. Đây cũng được coi là bài thơ được sử dụng nhiều từ láy nhất trong những bài thơ cổ phong của Nguyễn Du.
  • 96. 90 Ứng long kích nộ lôi điền điền (Nghe như tiếng con rồng có cánh nổi giận, sấm động ầm ầm) Từ láy “Điền điền”: tác giả miêu tả dòng nước như đỗ trên trời cao xuống nghe như tiếng con rồng đang nổi giận làm vang lên một tiếng động lớn. Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền Tâm huyền huyền đa sở úy (Một mạch ba ngày đi, lòng chơi vơi Lòng chơi vơi vì sợ nhiều) Từ láy “huyền huyền”: ở hai câu trên dùng để nói lên sự trơ trọi của con người giữa dòng nước rộng lớn, con người cảm thấy sợ hãi, có cảm giác cô độc khi đi trên dòng sông. Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên Ngô dĩ vi cầm huyền (Côn Sơn ca) (Tiếng nước chảy rì rầm Ta lấy làm đàn cầm) Hay như trong bài Côn Sơn ca Nguyễn Trãi sử dụng từ láy “Lãnh lãnh” để nói đến âm thanh rì rầm của tiếng suối được thi nhân cảm nhận như tiếng đàn, một hình ảnh so sánh thật độc đáo và gợi cảm, âm thanh của tiếng suối làm rung động tâm hồn nhà thơ. Nghe tiếng suối chảy, thi nhân cảm nhận được âm thanh của cuộc sống bình yên nơi quê nhà. Như vậy, trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đều sử dụng các từ láy hoàn toàn nhằm làm tăng nghĩa biểu đạt, tạo cảm giác mạnh về âm thanh, gây ấn tượng về tính chất của sự vật. Tuy số lượng từ láy trong thơ cổ phong hai tác giả không nhiều, nhưng nó cũng góp phần tạo nên những nét đặc trưng riêng trong ngôn ngữ thơ văn và làm phong phú hơn về vốn từ láy trong thơ chữ Hán trung đại Việt Nam. 3.2.1.2. Nghệ thuật sử dụng điển “Điển cố là một biện pháp tu từ trong văn chương cổ nhằm đạt tới cách diễn đạt mà lời ít ý nhiều bằng việc dùng những câu chuyện xưa (trong thần thoại, truyền thuyết, kinh sử, sự tích, sự kiện lịch sử…) thu gọn vào một từ, một nhóm từ nhằm gợi liên tưởng mà tác giả muốn đạt tới. Ban đầu, điển cố chỉ là từ ngữ biểu thị một
  • 97. 91 sự vật, sự việc, nhân vật, sự kiện nhất định, cụ thể và chỉ có ý nghĩa thực, sau vì được sử dụng nhiều lần, được chuyển cho một cấp độ mới là nghĩa biểu trưng, nghĩa bóng, từ đó có thể tạo ra sự liên tưởng đến chuyện cũ, người xưa, tuy không có ý về chuyện cũ, người xưa mà nói về chuyện trước mắt” [41, tr. 793]. Trong văn học trung đại, các nhà văn nhà thơ hay có xu hướng sử dụng điển. Dùng điển cố vốn là một kiểu tu từ khá hấp dẫn tạo cho câu thơ, câu văn được cô động, hàm súc, không cần nhiều lời mà vẫn thể hiện đầy đủ ý nghĩa mà người viết muốn nói đến. Ẩn đằng sau những điển cố là những câu chuyện, sự tích trong sử sách có ý nghĩa sâu sắc, được đúc kết từ thực tiễn, lưu truyền rộng rãi. Khảo sát thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, chúng tôi nhận thấy một số lượng nhỏ điển tích, điển cố được hai tác giả đưa vào trong thơ. Nguyễn Trãi có hai bài thơ cổ phong ở cả hai bài đều có sử dụng những điển cố. Bài Côn Sơn ca có 5 điển cố, điển tích được nhắc đến, bài Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên có 6 điển tích. Ở bài Côn Sơn ca, Nguyễn Trãi sử dụng điển tích về các nhân vật lịch sử Trung Hoa. Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc (Côn Sơn ca) Đổng Trác: “người thời Đông Hán, nổi tiếng giàu có. Sau nhận Lã Bố làm con nuôi. Lã Bố có sức khỏe hơn người, giỏi nghề cung kiếm nhưng bị coi là người “hữu dũng vô mưu”, hay thay thầy đổi chủ, sau lại tư thông với người thiếp của Đổng Trác là Điêu Thuyền rồi giết cả Đổng Trác. Gia tài họ Đổng hóa thành suy nát” [25, tr. 108]. Nguyên Tải: người đời Đường (Trung Quốc) thời vua Đại Tông giữ chức Trung Thư thị lang cũng rất giàu có, chứa hồ tiêu để buôn, là con người chuyên quyền tham nhũng vua khuyên nhiều lần không được bắt phải tự vẫn. Nguyễn Trãi dùng điển tích Đổng Trác, Nguyên Tải để nói lên tính cách tham lam của con người. Nhưng qua hai nhân vật lịch sử, Nguyễn Trãi tự hào nói lên tính cách trong sạch của bản thân, sống cuộc đời ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm.
  • 98. 92 Hựu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề (Côn Sơn ca) Điển Bá Di, Thúc Tề: “hai anh em con vua nước Cô Trúc, chư hầu nhà thương. Chu Vũ Vương hưng binh diệt Trụ, vị vua cuối cùng nhà Thương. Bá Di, Thúc Tề can ngăn, cho rằng làm như vậy là bất trung bất nghĩa. Chu diệt Thương, Bá Di, Thúc Tề vào núi Thú Dương ở ẩn không ăn thóc nhà Chu, chỉ hái rau vi ăn qua ngày. Sau có người nói “Rau vi cũng mọc trên đất nhà Chu”. Hai ông bèn nhịn đói mà chết” [46, tr.71]. Điển cố này dùng chỉ các bậc ẩn sĩ trong sạch theo quan điểm Nho gia. Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc (Côn Sơn ca) Sào Do: tức Sào Phủ và Hứa Do hai ẩn sĩ đời Đường Nghiêu. “Vua Nghiêu thấy Hứa Do là người hiền đức, bèn sai sứ giả đến mời về triều để nhường ngôi. Hứa Do từ chối, không những thế lại còn cho rằng lời “mời ra làm vua” đã làm bẩn tai mình bèn xuống sông Dĩnh ở gần nơi ở ẩn để rửa tai. Vừa lúc đó có bạn là Sào Phủ, cũng là một ẩn sĩ, cày ruộng xong dắt trâu về, đang định cho trâu xuống bến uống nước. Nghe Hứa Do nói, Sào Phủ vội dắt trâu lên uống nước ở trên chỗ Hứa Do rửa tai để khỏi làm bẩn miệng trâu” [46, tr. 123]. Nguyễn Trãi sử dụng điển cố Sào Do muốn nói đến việc ông không màng đến danh lợi, chỉ muốn trở về với núi rừng thiên nhiên, sống những ngày bình yên giống như những bậc ẩn sĩ. Mượn những điển tích, điển cố về nhân vật trong lịch sử của đất nước Trung Hoa trong bài Côn Sơn ca nhằm để nói lên tấm lòng trong sạch, thanh cao của Nguyễn Trãi. Đối với Nguyễn Trãi vinh hoa phú quý chỉ là hư danh, không thể tồn tại mãi. Chính vì vậy, Nguyễn Trãi chỉ muốn về với núi rừng xanh thẳm, sống những ngày tháng thanh nhàn, tự do tự tại như các bậc ẩn sĩ Bá Di, Thúc Tề, Sào Phủ, Hứa Do. Hay trong bài Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên cũng có một số điển tích, điển cố được Nguyễn Trãi vận dụng. La phù tiên tử băng vi hồn (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên) Thân tại Viêm bang tâm Ngụy khuyết (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên)
  • 99. 93 Đông -pha vị trúc bất khả vô Liêm -khê ái liên diệc hữu thuyết Càn khôn vạn cổ nhất thanh trí Bá kiều thi tứ Tây Hồ nguyệt (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên) Điển càn khôn: “hai quẻ của Kinh Dịch. Càn tượng trưng cho đức tính kiên cường; trời, vua, cha, chồng, con trai là tượng trưng của quẻ càn. Khôn tượng trưng cho đức tính nhu thuận; đất, bầy tôi, mẹ, vợ, con gái là tượng trưng của quẻ khôn. Văn học cổ thường dùng càn khôn để chỉ trời đất, vũ trụ” [46, tr. 42]. Nguyễn Trãi sử dụng điển cố càn khôn vừa chỉ trời đất vũ trụ nói chung, nhưng cũng để chỉ vẻ đẹp của thiên nhiên tươi thắm của đất trời. Điển Bá kiều: “Cầu trên sông Bá (ở huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc). Người đời Đường ở Trường An lấy chỗ ấy làm nơi tống biệt nhau. Có người hỏi Trịnh Khải đời Đường: “Gần đây có thơ gì mới không?” Ông đáp: “Tứ thơ của tôi ở cảnh cỡi lừa đi trong tuyết trên Bá Kiều, nay không có cảnh ấy thì làm thơ sao được” [69, tr. 683]. Ở đây tác giả dùng điển Bá Kiều để chỉ tuyết. Điển Tây Hồ: Tên một hồ đẹp ở Hàng Châu (tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc). Tô Đông Pha từng ví vẻ đẹp của Hồ Tây với Tây Tử, nên hồ này lại có tên là Tây Tử hồ. “Tô Đông Pha có câu thơ: “Tây Hồ nguyệt sắc thị mai hoa” (Sắc trăng ở Tây Hồ là hoa mai)” [69, tr. 683]. Nguyễn Trãi dùng điển “Tây Hồ nguyệt” để chỉ hoa mai. Các điển tích được sử dụng trong bài Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên chủ yếu nói về vẻ đẹp thiên nhiên. Đặc biệt là nói đến vẻ đẹp của mai và tuyết, hình ảnh của hoa mai và những bông hoa tuyết hòa quyện vào nhau tạo nên vẻ đẹp lung linh như những tiên nữ ở núi La Phù. Nguyễn Trãi dẫn năm sáu điển tích về mai, tuyết để ca ngợi cái hiên mai tuyết của ông Ngự sử họ Hoàng, bên cạnh đó ông còn dẫn thơ của Đông Pha, Liêm Khê về nhiều giai thoại có liên quan mai, tuyết. Những điển cố được Nguyễn Trãi dẫn ra ở trong bài, nói lên sự thanh cao của mai và tuyết, ẩn đằng sau vẻ đẹp của mai tuyết là nói lên vẻ đẹp của người quân tử. Như vậy, những điển cố được Nguyễn Trãi dẫn ra trong hai bài thơ cổ phong chủ yếu để nói về vẻ đẹp thiên nhiên. Từ những điển cố, điển tích Nguyễn Trãi lồng vào đó những triết lí về cuộc đời và con người. Như Phạm Thị Ngọc Hoa đã nhận xét: “Điển trong thơ Nguyễn Trãi thật sự là một phương tiện ngôn ngữ hữu hiệu hỗ trợ nhà thơ trong việc bộc lộ chí hướng và những tâm sự một cách kín đáo, tế nhị. Nhờ vào việc
  • 100. 94 sử dụng điển, một mặt Nguyễn Trãi thể hiện được thái độ, tư tưởng, tình cảm của mình, mặt khác, qua ý nghĩa biểu trưng của điển, người đọc cũng hiểu được chí hướng, tâm sự, tình cảnh và vị thế của ông trước thời cuộc” [20]. Trong một số bài thơ cổ phong của Nguyễn Du các điển cố, điển tích được, nhà thơ vận dụng rất linh hoạt. Chúng tôi xin dẫn ra một số câu thơ có sử dụng điển cố, điển tích. Thùy nhân tả thử đồ Trì dĩ phụng quân vương (Sở kiến hành) (Ai vẽ bức tranh này Đem dâng lên nhà vua) Đái khấp bất chung ngữ Phảng phất như cách duy (Ký mộng) (Nghẹn ngào khóc không nói hết câu Phảng phất như cách nhau bức màn) Di Tề vô đại danh Chích Cược vô đại lợi (Hành lạc từ I) (Bá Di Thúc Tề chẳng danh lớn Đạo Chích Trang Kiểu chẳng lợi to) Trong thơ cổ phong Nguyễn Du có sử dụng một số điển tích chỉ địa danh. Đại địa xứ xứ giai Mịch La (Phản chiêu hồn) Đãn kiến giang biên Đồng Tước đài (Đồng Tước đài) Ngũ lăng thiếu niên bất túc đạo (Long Thành cầm giả ca) Ở bài Long Thành cầm giả ca có bốn điển cố, điển tích được Nguyễn Du đưa vào trong bài. Hồng trang yểm ái đào hoa diện (Áo hồng cũng bị mờ nhạt đi trước vẻ mặt hoa đào) Điển tích “đào hoa diện” chỉ gương mặt xinh đẹp của người phụ nữ nói chung. Trong câu thơ trên Nguyễn Du sử dụng điển tích “đào hoa diện” để miêu tả rõ nét vẻ đẹp của cô Cầm chốn kinh thành Trường An.
  • 101. 95 Liệt như Tiến phúc bi đầu toái tích lịch Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm (Long Thành cầm giả ca) (Tiếng mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc Tiếng buồn như Trang Tích ngâm tiếng Việt lúc ốm đau) Bia Tiến Phúc: Tức bia chùa Tiến Phúc ở Nhiên Châu, tỉnh Giang Tây. Tương truyền ông Phạm Trọng Yêm đời Tống, lúc làm quan ở Bá Dương, có người học trò nghèo dâng bài thơ hay, ông muốn giúp đỡ, cho dập một nghìn bản để bán lấy tiền. Chưa kịp dập thì một đêm, bia bị sét đánh vỡ tan. Trang Tích, theo Sử Ký: “Trang Tích người nước Việt, làm quan cho nước Sở, bị ốm nặng. Sở Vương bảo: “Tích gốc người nước Việt, chẳng biết có còn nhớ nước cũ chăng?”. Có kẻ bề tôi thưa “Con người lúc ốm đau thường nhớ tới quê cũ. Nếu Tích còn nhớ tất kêu rên theo giọng nước Việt”. Vua sai người dò xét, quả thấy Tích kêu rên theo giọng nước Việt” [46, tr. 254]. Hai điển tích trên được Nguyễn Du sử dụng trong bài Long Thành cầm giả ca để miêu tả về tài năng cũng như tiếng đàn tuyệt diệu của cô Cầm. Điển tích sét đánh bia Tiến Phúc nhà thơ dùng để ví với tiếng đàn mạnh mẽ, dứt khoát, còn tiếng ngâm sầu thảm của Trang Tích được dùng để ví với tiếng đàn đánh lên nghe buồn thương. Ngoài việc dùng những điển tích miêu tả tiếng đàn tuyệt diệu của cô Cầm, Nguyễn Du còn dùng điển tích để miêu tả vị thế của cô Cầm khi đạt đến đỉnh cao của danh vọng trong cuộc đời của một ca nữ. Tài năng ấy đã hoàn toàn được xác nhận khi thấy được phản ứng hoan hỉ của người nghe. Tả phao hữu trịch tranh triền đầu Nê thổ kim tiền thù thảo thảo Hào hoa ý khí lăng vương hầu Ngũ lăng thiếu niên bất túc đạo (Long Thành cầm giả ca) (Phía tả phía hữu đua nhau ném thưởng/ Tiền bạc coi rẻ như đất bùn/ Ý khí hào hoa của họ lấn lướt cả bậc vương hầu/ Bọn thiếu niên đất Ngũ Lăng chi sá kể) Triền đầu: tích này có từ đời Đường, vua đãi yến, ai đứng dậy múa được ban gấm để quấn đầu làm vật tặng thưởng. Về sau, các món tiền thưởng cho người ca múa gọi là triền đầu [12, tr. 906].
  • 102. 96 Ngũ Lăng: nơi có năm lăng tẫm của các vua đời Hán, bọn hào hoa phú quý thường làm nhà ở đây. Bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị có câu: Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu. Dùng những điển cố, điển tích trên Nguyễn Du cho người đọc thấy được tài năng cũng như sự ngưỡng mộ của mọi người dành cho cô Cầm. Ngoài ra những điển cố văn học được Nguyễn Du vận dụng phần lớn nói về các nhân vật lịch sử Trung Hoa. Khi nói đến những con người có tấm lòng “cô trung son sắt” Nguyễn Du thường nói đến những nhân vật như: Khuất Nguyên, Dự Nhượng, Kinh Kha. Hay khi nói đến những con người độc ác, xấu xa thì nhắc đến những điển cố như: Tô Tần, Tào Tháo, Minh Thành Tổ. Thông thường những điển cố được nhắc đến thường liên quan đến quá khứ và hiện tại tạo nên những liên tưởng sâu sắc. Qua tìm hiểu các bài thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, ta thấy cả hai tác giả đều sử dụng điển cố, điển tích làm chất liệu sáng tác. Điển cố, điển tích luôn hàm chứa những nội dung và ý nghĩa sâu sắc, đây là một trong những hình thức tiết kiệm lời một cách hiệu quả. Từ việc tìm hiểu những điển cố, điển tích được Nguyễn Trãi, Nguyễn Du vận dụng vào trong thơ văn, phần nào giúp bản thân hiểu thêm về những câu chuyện, những sự tích được lưu truyền qua sử sách. 3.2.2. Biện pháp tu từ cú pháp 3.2.2.1. Biện pháp lặp từ, lặp ngữ trong câu Lặp từ, lặp ngữ là việc nhắc đi nhắc lại nhiều lần một từ, một ngữ có tác dụng ý, làm tăng hiệu quả diễn đạt, gây sự chú ý cho người đọc, người nghe. Lặp từ, lặp ngữ còn nhấn mạnh, tạo ấn tượng, gợi liên tưởng, cảm xúc, tạo nhịp điệu cho câu văn đoạn văn. Với 709 câu thơ trong 28 bài thơ cổ phong của hai tác giả thì số lượng lặp từ, lặp ngữ chỉ chiếm một số lượng nhỏ trong nhóm thơ cổ phong. Trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du chúng tôi thấy có các hiện tượng lặp như sau. Lặp vòng tròn (lặp cuối đầu): là dạng lặp có giá trị tu từ. Lặp vòng tròn được thể hiện ở chỗ những chữ cuối của câu trước được lặp lại ở những chữ đầu của câu sau. Thanh thần vọng Lam Giang Lam Giang trướng thu thủy (Lam Giang) Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền Tâm huyền huyền đa sở úy (Ninh Minh giang chu hành)
  • 103. 97 An thức Khuất Nguyên tâm Khuất Nguyên tâm, Tương Giang thủy (Biện Giả) Bất tri mẫu tâm thương Mẫu tâm thương như hà (Sở kiến hành) Xúy trứu Ninh Minh nhất giang thủy Giang thủy trứu hề giang nguyệt hàn (Thái Bình thành hạ xuy địch) Bất tại du du nhất đàm thủy Đàm thủy chí kim thanh thả liên (Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích) Ở những ví dụ dẫn trên, các cụm từ “Lam Giang”, “tâm huyền huyền”, “Khuất Nguyên tâm”, “mẫu tâm thương”, “giang thủy”, “đàm thủy” ở cuối của câu trên được lặp lại ở đầu câu dưới nhằm nhấn mạnh và làm rõ ý điều tác giả muốn nói đến. Lặp vòng tròn làm cho những câu văn gắn liền với nhau tạo nhịp điệu cho câu thơ. Hay có những câu thơ có hiện tượng lặp nối tiếp trong câu, lặp nối tiếp là dạng lặp trong đó có những từ ngữ được lặp lại trực tiếp và đứng bên cạnh nhau. Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ (Thái Bình mại ca giả) Qui lai qui lai vật tác tử (Trở binh hành) Lân hề, lân hề, nhĩ hà khổ (Kỳ lân mộ) Hồn hề! hồn hề! hồ bất qui …Hồn hề! hồn hề! suất thử đạo …Hồn hề! hồn hề! nại hồn hà (Phản chiêu hồn) Có những câu thơ lại có sự lặp lại ở đầu câu. Lặp đầu câu chính là sự lặp lại một vài yếu tố ở đầu câu trong một vài câu tiếp theo trong bài.
  • 104. 98 Sơn hạ hữu trường tùng Sơn thượng hữu dao thôn Sơn hạ trường tùng sao (Hoàng Mai sơn thƣợng thôn) Hu ta lân hề, hà do đổ Hu ta lân hề, thiên thượng tường (Kỳ lân mộ) Mộng lai cô đăng thanh Mộng khứ hàn phong xuy (Ký mộng) Ái mai ái tuyết ái duyên hà Ái duyên tuyết bạch mai thanh khiết (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên) Những ví dụ dẫn trên các từ và cụm từ như “Sơn”, “Hu ta lân hề”, “Mộng”, “Ái”, được lặp lại ở những câu tiếp theo để giúp nhà thơ nói tiếp ý mà mình nói đến. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy lặp danh từ là hiện tượng lặp khá phổ biến trong thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, đó là những danh từ chỉ người, chỉ vật, địa danh. Có thể dẫn ra một số câu sau. An thức Khuất Nguyên tâm Khuất Nguyên tâm, Tương Giang thủy (Biện giả) Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình Trung Hoa đạo trung phù như thị (Ninh Minh giang chu hành) Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bảo Trung Hoa diệc hữu nhử thử nhân (Thái Bình mại ca giả) Ngoài ra việc sử dụng các từ láy âm, đặc biệt là các từ láy hoàn toàn trong thơ cổ phong của hai tác giả, cũng được xem là một dạng thức đặc biệt của phép lặp từ như các từ: thao thao, du du, mang mang, luy luy, phân phân, lẫm lẫm, lăng lăng, thê thê, tiêu tiêu… Như vậy, phép lặp từ lặp ngữ trong thơ góp phần tạo nên nhạc điệu cho thơ, qua phép lặp từ, lặp ngữ khắc sâu vào tâm trí người đọc, người nghe những cung bậc khác nhau của tình cảm, đồng thời diễn đạt những tư tưởng cảm xúc của tác giả.
  • 105. 99 3.2.2.2. Câu hỏi tu từ “Câu hỏi tu từ là câu, về hình thức là câu hỏi, mà thực chất là câu khẳng định hoặc phủ định có cảm xúc… Trong thơ ca câu hỏi tu từ có nhiều tác dụng tu từ: Diễn tả tâm trạng, tình cảm, cảm xúc, miêu tả một cách có hình ảnh và cảm xúc” [31, tr. 262,264]. Câu hỏi tu từ trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du cũng chỉ chiếm một con số rất nhỏ. Nguyễn Trãi có hai bài thơ làm theo thể cổ phong trong đó có 8 câu có sử dụng hình thức câu hỏi tu từ chiếm 14,3%. Thơ cổ phong Nguyễn Du có 26 bài với tổng số câu 653 câu trong đó chỉ có 36 câu có sử dụng hình thức câu hỏi tu từ chiếm 5.51%. Dấu hiệu để nhận biết câu hỏi tu từ là căn cứ vào dấu chấm hỏi ở cuối câu hay sự xuất hiện của các từ thùy, thùy cảm; kỷ, kỷ nhân, kỷ độ; hà, hà y, hà sự, hà nhĩ, hà do, hà khổ, hà như, hà bất, hà sở; an, an tại, an dụng…. Những câu hỏi trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du xuất hiện ở mọi vị trí trong bài thơ, đầu bài, giữa bài, cuối bài. Trong thơ Nguyễn Du có 2 câu hỏi xuất hiện ở vị trí mở đầu bài thơ, 3 câu hỏi ở cuối bài thơ, 4 câu hỏi ở vị trí câu thứ tư của bài, những câu hỏi còn lại nằm các vị trí khác nhau trong bài. Trong bài thơ Côn Sơn ca có năm câu hỏi tu từ được Nguyễn Trãi vận dụng, những câu hỏi chất chứa những nỗi niềm tâm sự của tác giả. Trở về với Côn Sơn nhưng trong lòng nhà thơ vẫn lo cho dân cho nước, vẫn thấy lòng thấp thỏm lo âu nên tự đặt ra cho mình những câu hỏi. Nguyễn Trãi đặt ra hai câu hỏi liên tiếp thể hiện tâm trạng day dứt trong lòng. Vấn quân hà bất quy khứ lai? Bán sinh trần thổ trường giao cốc? (Người sao chưa về đi/Nửa đời bụi bặm hoài lăn lóc), ông tự hỏi mình chất vấn chính bản thân mình về những vấn đề của cuộc sống, về vấn đề của bản thân. Có những lúc Nguyễn Trãi lại đặt ra câu hỏi phủ định đầy ngao ngán Chết rồi ai vinh với ai nhục?. Ẩn đằng sau những câu hỏi là những chiêm nghiệm về những thăng trầm, những ngọt bùi cay đắng, vinh nhục, của cuộc đời Nguyễn Trãi, nên ông mới có những suy ngẫm và tự đặt ra những câu hỏi cho chính bản thân mình. Nguyễn Trãi không hỏi để tìm câu trả lời mà trong thơ ông, người đọc sẽ tìm cho mình những câu trả lời thỏa đáng hơn bao giờ hết. Nguyễn Trãi hỏi để nhìn lại những gì đã qua, để từ đó hướng đến những điều tốt đẹp, tích cực hơn trong cuộc sống. Trong những năm tháng sống xa gia đình người thân Nguyễn Du luôn khắc khoải nhớ thương, có những lúc ông nghĩ về người vợ của mình đã khuất. Trong mộng Nguyễn Du đã nhìn thấy vợ trở về, nhìn thấy dung nhan hình hài cũng như
  • 106. 100 những nỗi niềm tâm sự của vợ. Thấy hình ảnh người vợ trong giấc mộng Nguyễn Du đã hỏi vợ nhưng cũng chính để tự hỏi lòng mình. Hỏi để thể hiện tình cảm, sự quan tâm, chia sẻ đồng thời hỏi để vơi đi những nỗi nhớ thương xa cách bấy lâu bây giờ mới được gặp Bình sinh không biết đường/ Trong hồn mộng là thực hay hư? (Ký mộng). Người vợ khi sống chưa một lần được về quê chồng, giờ nhìn thấy vợ biết đường tìm về nên ông không khỏi không ngạc nhiên, Đường đi hiểm và dữ/ Thân yếu đuối dựa vào đâu? (Ký mộng). Những câu hỏi thể hiện nỗi niềm hoài vọng của nhà thơ, dù lúc tỉnh hay trong những giấc mơ Nguyễn Du luôn hướng về gia đình nơi có hình bóng của người vợ hiền và những đứa con ngoan. Nguyễn Du là người giàu tình yêu thương, tấm lòng luôn trải rộng cho những kiếp người, nhạy cảm với nỗi đau của những con người nghèo khổ. Khi nhìn thấy cảnh đói khổ của bốn mẹ con người ăn xin và cảnh tiệc tùng linh đình của quan lại. Trong bài Sở kiến hành kết thúc bài thơ Nguyễn Du đã đặt ra một câu hỏi, mở ra những nỗi niềm trăn trở trong tâm hồn nhà thơ cũng như gợi lên bao suy nghĩ, sâu sắc trong lòng người đọc “Ai vẽ bức tranh này? Đem dâng lên nhà vua”. Nguyễn Du chỉ hỏi thế thôi nhưng chính ông đã vẽ ra bức tranh nhằm phê phán bọn quan lại vô trách nhiệm trước nỗi thống khổ của nhân dân. Từ đó nhà thơ nói lên hiện thực đau lòng của những người dân nghèo, thông qua câu hỏi tu từ ở kết bài Nguyễn Du còn muốn đòi lại quyền sống và hạnh phúc cho những con người thấp cổ bé họng trong xã hội lúc bấy giờ. Đối với những bậc hiền tài Nguyễn Du cũng luôn ca ngợi, không chỉ vì sự tài năng của họ mà chính ở đức độ và phẩm chất đáng quý đáng trân trọng. Trong bài Biện Giả, thi nhân đã có những câu hỏi nhằm khẳng định tấm lòng trong sáng của Khuất Nguyên. Không đi qua Hồ Nam Sao biết nước sông Tương sâu? Không đọc bài phú Hoài sa Sao biết được lòng Khuất Nguyên? (Biện Giả) Hay ta bắt gặp những câu hỏi thể hiện thái độ khinh bỉ, cái nhìn phủ định của nhà thơ đối với những nhân vật bất nghĩa bất nhân. Đặc biệt đối với nhân vật Tào Tháo và Minh Thành Tổ các câu hỏi nhằm xoáy sâu vào những hành động tàn nhẫn, những tội ác mà chúng gây ra cho bao con người lương thiện.
  • 107. 101 Huống nữa Yên Đệ là người như thế nào? Cướp ngôi của cháu để tự lập vua, y không phải bậc nhân quân (Kỳ lân mộ) Từ cổ được đều lấy chính nghĩa Sao lại lừa vợ góa dối con côi của người ta? (Cựu Hứa đô) Có khi hỏi để nhằm mục đích định tội và lời cảnh tỉnh đối với quân bất nghĩa. Gian hùng soán thiết nhân hà tại? (Cựu Hứa đô) (Lũ gian hùng cướp ngôi có kẻ nào còn đâu?) Có khi hỏi để phê phán, mỉa mai. Lạc lạc trượng phu hà nhĩ nhĩ? Gian hùng biệt tự hữu cơ tâm Bất thị minh ai, nhi nữ khí (Đồng Tƣớc đài) (Bậc trượng phu lỗi lạc sao như thế) Kẻ gian hùng riêng tự có mưu thâm khác trong lòng Chẳng phải là kêu thương ủy mị như tính khí đàn bà?) Trong nhiều bài thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, không chỉ xuất hiện một câu hỏi mà có đến hai, ba, bốn thậm chí có bài lên đến năm, sáu câu hỏi. Chẳng hạn như bài: bài Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên; Lam Giang; Ninh Minh giang chu hành; Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài có hai câu hỏi; bài Cựu Hứa Đô; Đồng Tước Đài có ba câu hỏi; bài Sở kiến hành; Phản chiêu hồn có 4 câu hỏi; bài Kỳ lân mộ có 5 câu hỏi; bài Côn Sơn ca có sáu câu hỏi. Hay ta bắt gặp trong thơ Nguyễn Du trong một bài có nhiều câu hỏi và điều đáng chú ý là câu hỏi vừa xuất hiện ở mở đầu bài thơ và ở cuối bài thơ. Hồn ơi! hồn ơi! sao không về? Đông, tây, nam, bắc không có nơi nào nương tựa Lên trời xuống đất đều không được Còn trở về thành Yên thành Sính làm gì? Thành quách vẫn như cũ, song nhân dân đã khác rồi Bụi cuốn mù mịt bẩn cả quần áo Khi đi ra đường thì giong ruổi xe, khi ở nhà thì ngồi vênh váo
  • 108. 102 Họ đứng ngồi bàn tán như ông Cao, ông Quì Họ che giấu nanh vuốt và nọc độc Nhưng cắn xé thịt người ngọt xớt như đường Hồn không thấy mấy trăm châu ở Hồ Nam đó sao? Chỉ có những người gày gò, không ai béo tốt Hồn ơi! hồn ơi! nếu cứ theo đường đó Thì sau Tam Hoàng không còn hợp thời nữa Hãy sớm thu tinh thần trở lại cõi thái cực Đừng trở về đây nữa, mà người ta mai mỉa Đời sau người đều là Thượng quan Mặt đất này đâu đâu cũng là sông Mịch La Cá rồng chẳng nuốt, hùm sói cũng ăn Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn làm thế nào? (Phản chiêu hồn) Bài thơ có tất cả hai mươi câu, nhưng chứa đựng trong đó bốn câu hỏi tu từ, bài thơ mở ra bằng một tiếng gọi Hồn ơi! hồn ơi! sao không về? là một câu hỏi có tính chất phủ định và kết thúc vẫn là tiếng gọi hồn có kèm theo dấu chấm hỏi ấy: Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn làm thế nào?. Sống trông xã hội với cái xấu, cái ác luôn rình rập đe dọa nhiều lúc người sống phải giật mình, hoảng hốt, nói gì đến người chêt. Bao nhiêu uất ức bao nhiêu căm phẫn Nguyễn Du đã dồn hết vào hai câu hỏi tu từ ở mở đầu bài và kết bài. Những câu hỏi tu từ trong bài thơ chính là sự phủ nhận hoàn toàn của Nguyễn Du đối với cái trật tự của xã hội phong kiến đương thời. Câu cảm thán, câu hỏi tu từ đan cài vào nhau, cùng xuất hiện nhiều lần trong bài thơ thể hiện niềm thương xót, sự tức giận của một trái tim chan chứa tình yêu thương dành cho người đã khuất. Như vậy, trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đều có những câu hỏi tu từ, những câu hỏi xuất hiện trong bài thơ thường là những câu hỏi khẳng định hoặc phủ định. Những câu hỏi nhà thơ đặt ra không yêu cầu trả lời mà nhằm nhấn mạnh hơn về nội dung cũng như một cảm xúc nào đó, người viết muốn nói đến. Đi sâu vào những câu hỏi tu từ trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du giúp chúng ta hiểu sâu hơn những nỗi niềm, những cung bậc tình cảm được tác giả giử gắm trong thơ.
  • 109. 103 3.3. Giọng điệu nghệ thuât Giọng điệu là một phạm trù của thi pháp học có nhiệm vụ tìm hiểu một trong những hình thức bộc lộ cái chủ quan trong văn học. Giọng điệu là yếu tố quan trọng giúp người đọc dể dàng thâm nhập vào tác phẩm, tìm hiểu những tư tưởng, tình cảm cảm xúc được tác giả gửi gắm vào trong thơ văn, thông qua giọng điệu ta có thể xác định được phong cách của mỗi nhà văn, nhà thơ. Nhà văn muốn có phong cách riêng tất nhiên phải có một giọng điệu riêng. Giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn, mà còn là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học, đồng thời là yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể. Giọng điệu là biểu hiện của thái độ, cảm xúc của chủ thể đối với đời sống. Tìm hiểu giọng điệu nghệ thuật trong thơ cổ phong giúp người đọc hiểu hơn về những chiêm nghiệm, những suy tư, trăn trở, những tình cảm, cảm xúc được Nguyễn Trãi, Nguyễn Du thể hiện trước cuộc đời và con người. Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi khảo sát ba giọng điệu chính: giọng điệu khái quát, triết lí; giọng điệu đối thoại – tranh biện; giọng điệu u buồn. 3.3.1. Giọng điệu khái quát, triết lí Sống trong thời đại có nhiều biến động Nguyễn Trãi cũng như Nguyễn Du đều nhìn thấy những mặt tích cực và hạn chế của xã hội. Từ những suy nghĩ về con người, về thời đại hai nhà thơ đang sống và đặc biệt là những suy nghĩ, chiêm nghiệm từ chính cuộc đời hai nhà thơ. Trong suốt cuộc đời, với cuộc sống nay ở đầu sông mai ở cuối bể, hai nhà thơ đi nhiều, biết rộng, gặp nhiều sự việc xảy ra trùng hợp nhau trong cuộc sống có tính hệ thống. Buộc nhà thơ phải suy ngẫm, xem xét rút ra những triết lí cho riêng mình. Từ đó, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đúc kết những kinh nghiệm triết lí về cuộc đời, cũng như mọi biến đổi của đất trời. Để rồi khi sáng tác những tác phẩm thơ văn ít nhiều cả hai tác giả đều lòng vào đó những suy nghĩ những triết lí, thể hiện tư tưởng tình cảm, thái độ của nhà thơ. Giọng điệu triết lí của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du là giọng triết lí của những con người từng trải, đoạn trường, chịu nhiều đau khổ, vì vậy những triết lí mà hai tác giả gửi gắm vào trong thơ văn thường mang tính nhân văn sâu sắc. Giọng điệu khái quát, triết lí trong thơ cổ phong Nguyễn Du mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc. Nguyễn Du luôn nhận thấy cuộc sống của con người có nhiều bất công và ngang trái. Ông không thể hiểu được vì đâu những con
  • 110. 104 người tài hoa đều gặp nhiều tai ương trong cuộc đời. Để lí giải cho những băn khoăn, suy nghĩ đó Nguyễn Du tìm đến một khái niệm hết sức trừu tượng là “số mệnh” và có lẽ chính số mệnh đem đến cho con người những đau khổ. Để rồi từ đó Nguyễn Du khái quát lên. Tuấn mã bất lão tử Liệt nữ vô thiện chung Phàm sinh phụ kỳ khí Thiên địa phi sở dung (Điệu khuyển) (Ngựa hay không chết già/ Gái trinh liệt không chết được yên lành/ Phàm sinh ra mang khí phách khác thường/ Thì trời đất không có chỗ dung) Sống trong xã hội đâu đâu cũng thấy những tranh đua ghen ghét. Những con người tài hoa đều bạc mệnh ấy chính là quy luật nghiệt ngã mà cuộc đời ban tặng cho họ. Cao tài mỗi bị văn chương đố Nhân nhục tối vi ly mị hỷ (Ninh Minh giang chu hành) (Tài cao thường bị văn chương ghen ghét Thịt người là thứ ma quỉ thích nhất) Hay trong bài Phản chiêu hồn, nhà thơ đã nói lên nỗi đau của con người bạc mệnh. Cuộc đời không đem đến hạnh phúc cho những con người tài hoa ấy. Nghiệp chướng số mệnh quả vô cùng khắc nghiệt cho những con người tài hoa ở đời và ai cũng tự đặt ra câu hỏi tại sao trời lại giáng cho họ những tài lạ để rồi bắt họ phải chịu nhiều thiệt thòi, chịu những bất công ngang trái đến như vậy. Nguyễn Du đã nói với hồn Khuất Nguyên và khuyên hồn không nên trở về cõi trần, mà sớm thu hồn về thái cực ở đó không có những tranh đua ghen ghét đố kỵ, người ăn thịt người như trên cõi trần. Trong quan niệm của Nguyễn Du trời là tất cả, nó chi phối mọi hoạt động trong quan hệ của cuộc đời con người. Con người không thể làm gì được để chống lại số mệnh, chống lại ý trời. Chính vì vậy, Nguyễn Du đã đưa ra những triết lý mang tính khái quát cao.
  • 111. 105 Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý (Ninh Minh giang chu hành) (Sâu hiểm quanh co giống lòng người Nguy vong nghiêng đổ đều là do ý trời) Nguy hiểm thắng nhân tâm Khuynh phúc diệc thiên ý (Lam Giang) (Hiểm nguy thắng lòng người Nghiêng đổ cũng là ý trời) Trong cuộc sống không ai thoát khỏi ý trời và không thể thoát khỏi số mệnh. Số mệnh đã vùi dập cuộc đời của các phụ nữ tài hoa. Với Long Thành cầm giả ca Nguyễn Du kể lại hai lần gặp gỡ một người đào hát tên là Cầm ở Thăng Long. Như ý thức được tài năng và sắc đẹp của mình cô Cầm hiện ra như một sức mạnh, một vầng hào quang tỏa sáng cả một vùng trời. Làm cho mọi người đều choáng ngợp, khiến cho các tướng Tây Sơn “Mải vui quên cả tiếng gà tàn canh, Đua nhau gieo thưởng tranh giành”. Nhưng một thời gian xa cách, hai mươi năm sau Nguyễn Du gặp lại, cô Cầm đầy kiêu hãnh trước kia đã trở thành một thân hình tàn tạ ngồi “ở cuối tiệc”. Từ đây cho thấy những người phụ nữ có tài thường phải chịu số phận buồn thảm, đúng như Phan Ngọc từng nói: Thử xem từ xưa đến nay những bậc giai nhân tài tử đệ nhất trên đời, phỏng mấy ai thoát khỏi vòng tài hoa? Đó chẳng qua là tạo vật ghen ghét sự hoàn toàn, hơn điều nọ ắt kém điều kia, cho nên có được một chút tài tình thì phải gánh chịu mười phần nghiệp chướng [35, tr. 43]. Viết về số phận con người nhất là số phận của những người tài hoa, thơ văn Nguyễn Du thường mang giọng điệu khái quát, triết lý sâu sắc. Nguyễn Du nhận thấy những người tài hoa thường gặp nhiều bất trắc trong cuộc sống, điển hình số phận của nàng Kiều, nàng Tiểu Thanh, hay như cô Cầm nổi danh một thời nhưng cuối cùng bị người đời lãng quên, tàn tạ theo năm tháng. Một con người với tấm lòng cô trung như Khuất Nguyên, không chịu được những bất công ngang trái phải gieo mình xuống dòng sông Mịch La. Từ số phận của những con người ấy, ta hiểu rằng những người tài hoa đều không được xã hội trọng dụng, tài hoa chỉ đem đến những đau khổ và bất hạnh. Chính những điều nghịch lý xấu xa trong cuộc sống đã làm nhà thơ nhiều lần day dứt, suy nghĩ. Với giọng điệu khái quát, triết lý, Nguyễn
  • 112. 106 Du giúp người đọc phần nào hiểu rõ và hiểu sâu triết lý “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc mệnh”. Vì đâu những người tài hoa lại hay gặp bất hạnh, thực chất tất cả những bất hạnh của con người đều do xã hội phong kiến gây ra. Ngoài những triết lí về số mệnh thơ Nguyễn Du còn nói đến triết lý thời gian đời người. Nguyễn Du luôn cảm thấy thời gian trôi nhanh, còn cuộc đời con người thường ngắn ngủi, không thể nào theo kịp bước chân của thời gian. Trung thọ chỉ bát thập Hà sự thiên niên kế (Hàng lạc từ I) (Trung thọ chỉ được tám mươi tuổi Việc gì tính chuyện ngàn năm) Nguyễn Du không chỉ cảm nhận được sự thay đổi của con người, còn cảm nhận được sự thay đổi của vạn vật xung quanh cuộc sống của con người. Hảo hoa vô bách nhật Nhân thọ vô bách tuế Thế sự đa suy di (Hành lạc từ II) (Hoa đẹp chẳng trăm ngày Người thọ chẳng trăm tuổi Việc đời lắm đổi dời) Chỉ một cái chớp mắt của cuộc đời cũng chứa đựng những thay đổi khôn lường, đời người có thấm gì đâu với cuộc đời. Thuấn tức bách niên năng kỷ thì Thương tâm vãng sự lệ triêm y (Long Thành cầm giả ca) (Trăm năm như chớp mắt có là bao Đau lòng việc cũ lệ thấm áo) Sống trong một xã hội với bao biến động, con người không thể biết chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai nên cũng chẳng cần tính chuyện xa xôi. Nhãn tiền đắc tang dĩ nan nhận Hà sự mang mang thân hậu danh (Hành lạc từ I) (Được mất trước mắt còn khó biết Việc gì bận tâm đến cái danh xa xôi sau khi chết)
  • 113. 107 Nhìn thấy những thay đổi của cuộc đời, Nguyễn Du đã đem đến những triết lí về lời khuyên giúp con người có thể thoát ra những lo nghĩ. Nhân sinh vô bách tải Hành lạc dương cập kỳ Vô vi thủ bần tiện Cùng niên bất khai mi (Hành lạc từ I) (Đời người không ai sống trăm tuổi Nên vui chơi cho kịp thì Chớ nên giữ nếp nghèo hèn Cả năm chẳng được mở mày mở mặt) Và một lần nữa Nguyễn Du khẳng định. Phù sinh hành lạc sự (Hành lạc từ II) (Kiếp phù sinh nên hành lạc) Khép lại cho những lời khuyên, Nguyễn Du đưa đến những nhận định có tính khái quát. Khi con người thoát khỏi mọi lo nghĩ về cuộc đời, cuộc sống con người trở nên nhẹ nhàng, và có thể kéo dài cuộc sống. Toán lai nhất niên trung Sở ưu vô vô nhất thì Sở dĩ sơn trung nhân Nhân nhân giai kỳ di (Hoàng Mai sơn thôn thƣợng) (Điểm lại trong suốt cả một năm Không một lúc nào phải lo âu Cho nên người trong núi Người người đều sống lâu trăm tuổi) Giọng điệu khái quát, triết lí của Nguyễn Du đưa đến những cách nhìn nhận đa chiều về cuộc đời và số phận con người. Những khái quát, triết lí đem đến những cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau, có khi là những suy nghĩ trăn trở về vấn đề nhân sinh “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc mệnh”, có lúc là những chiêm nghiệm về cuộc đời, và đôi khi là những lời khuyên giúp con người vượt qua những khổ đau thêm tin yêu vào cuộc sống.
  • 114. 108 Bài thơ Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi không chỉ là bài ca giao cảm với thiên nhiên, mà còn là bài ca triết lí về cuộc đời. Với mười hai câu đầu của bài thơ tác giả nói về vẻ đẹp ở chốn lâm tuyền của Côn Sơn của núi rừng thiên nhiên, những câu còn lại chính là tâm trạng thời thế và những triết lí về cuộc đời của tác giả. Vấn quân hà bất quy khứ lai Bán sinh trần thổ trường giao cốc (Người sao còn chửa về đi Nửa đời bụi bặm hoài lăn lóc) Câu thơ như là lời tự trách của tác giả đối với bản thân, sao không sớm về với Côn Sơn mà phải mất hết nữa cuộc đời lăn lóc ở chốn quan trường, để phải chịu nhiều thiệt thòi, có những khoảng thời gian Nguyễn Trãi sống trong những ngày tháng đầy bi kịch. Khi ra làm quan tuy Nguyễn Trãi từng giữ những chức vụ cao trong triều đình, nhưng những chức vụ đó không đủ quan trọng để cho phép ông thi thố tài năng kinh bang tế thế. Sau khi kháng chiến thắng lợi, Lê Thái Tổ tỏ ra nghi ngờ những nhân vật lỗi lạc đã cùng nhà vua lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh. Nhà vua tìm mọi cách tiêu diệt các đại thần được cho là người có tài, và uy thế trong triều đình lúc bấy giờ. Sống trong chốn quan trường nhiều lúc Nguyễn Trãi bị ghen ghét, dèm pha bởi những tên quyền thần, nịnh thần chén ép. Có những lúc Nguyễn Trãi cũng bị nghi oan và bị bắt giam và trong thời gian ấy Nguyễn Trãi sống trong tâm trạng buồn đau. Hai câu thơ phần nào cũng thể hiện rõ tâm trạng thời thế của tác giả. Đồng thời Nguyễn Trãi cho người đọc thấy được những triết lý về sự giàu sang vinh nhục. Có những lúc sự giàu sang không mang lại hạnh phúc cho con người, mà mang lại khổ đau điển hình như Đổng Trác và Nguyên Tải. Con người cũng như cỏ cây, không thể tồn tại mãi với thời gian, cuộc sống đời người là hữu hạn nhưng dòng chảy thời gian là vô hạn. Giàu sang phú quý cũng chỉ là hư danh một thời. Con người ai cũng phải trở về với cát bụi, cái còn lại trên đời chỉ là vinh hay nhục. Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục (Côn Sơn ca)
  • 115. 109 (Vui buồn lo sướng đổi thay nhau Một tươi một héo vẫn tương tục Cồn hoang lầu đẹp cũng ngẫu nhiên Chết rồi ai vinh với ai nhục) Giọng điệu khái quát, triết lí trong thơ Nguyễn Trãi và Nguyễn Du được đúc kết từ những chiêm nghiệm về một quá trình sáng tạo tìm tòi, nghiền ngẫm và được kiểm chứng bằng thực tế trải nghiệm của con người trong cuộc sống. Từ những khái quát, triết lí được Nguyễn Trãi, Nguyễn Du vận dụng vào trong thơ, ta thấy được cả hai tác giả đều là những con người thâm thúy trong suy nghĩ, sâu sắc trong nhìn nhận đánh giá. 3.3.2. Giọng điệu đối thoại - tranh biện Để tạo nên những tác phẩm văn học người nghệ sĩ phải có một quá trình tìm tòi khám phá, gắn với hành trình sáng tạo là hành trình đối thoại giữa tác giả với chính tác phẩm của mình. Nhà văn, nhà thơ sáng tạo những tác phẩm văn học không chỉ để thể hiện tài năng, phong cách cá tính của mình. Qua những tác phẩm văn học, người nghệ sĩ có thể đối thoại với chính mình, đối thoại với những nhân vật trong tác phẩm, đối thoại với cuộc đời. Sự đối thoại sẽ đem đến những cách nhìn, cách cảm, thể hiện những cung bậc tình cảm khác nhau của tác giả đối với những vấn đề được thể hiện trong tác phẩm. Giọng điệu đối thoại tranh biện của Nguyễn Du hướng đến nhiều đối tượng. Đầu tiên chúng ta có thể thấy tác giả đối thoại với những nhân vật của mình trong tác phẩm, đặc biệt giọng đối thoại hướng đến những cảnh bất công trong xã hội. Nguyễn Du phản ánh hiện thực xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ, con người sống trong xã hội được phân chia vị thứ rất rõ ràng, đó là giàu và nghèo, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Nhà thơ chứng kiến nhiều cảnh sống của con người, và nhận ra rằng phàm những người nghèo đều chịu nhiều đau thương, mất mát, phải sống một cuộc đời đầy tủi hổ. Giọng đối thoại tranh biện trong nhóm thơ cổ phong Nguyễn Du luôn song hành với cảm hứng hiện thực. Mỗi bài thơ cổ phong đều phản ánh đúng thực trạng xã hội, đồng thời khái quát chân thực về những cảnh đời bất công ngang trái. Cảm hứng hiện thực về xã hội đặc biệt là xã hội Trung Hoa được ông phản ánh rất rõ trong những tác phẩm Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả, Trở binh hành, cả ba tác phẩm đều được viết bằng thể cổ phong trường thiên. Ẩn chứa trong từng tác phẩm là những vấn đề của cuộc sống, những sự kiện chi tiết liên quan đến
  • 116. 110 xã hội. Trên hành trình đi sứ ông đã tận mắt chứng kiến cảnh sống của người dân, ánh mắt, nhà thơ luôn hướng đến những con người thấp cổ bé họng trong xã hội. Nguyễn Du chỉ lẵng lặng đứng nhìn, quan sát một cách kĩ lưỡng, rồi nhâp thân vào ông già mù hát rong và người phụ nữ ăn xin để rồi nhà thơ tái hiện chân thực về cuộc đời cũng như số phận của họ. Ở ba bài thơ tác giả chỉ đối thoại gián tiếp với nhân vật của mình, nhưng thông qua diễn ngôn đối thoại, nhà thơ đã cho người đọc thấy được cảnh sống thực của ông già mù trong Thái Bình mại ca giả. Và hình ảnh đầy thương cảm của bốn mẹ con người ăn xin trong Sở kiến hành. Từng mảnh đời, từng số phận của con người hiện lên chân thực dưới ngòi bút Nguyễn Du. Với giọng điệu đối thoại lạnh lùng nhà thơ đã vẽ nên những bức tranh tương phản nhau trong cuộc sống. Đối lập với cuộc sống vất vả của người dân là cuộc sống xa hoa phung phí của giai cấp quan lại. Thuyền này thuyền nọ đều đầy gạo thịt Người trong đoàn sứ ăn no còn thừa thì vứt Cơm nguội, thức ăn thừa đổ xuống sông (Thái Bình mại ca giả) Không những thế thông qua đối thoại với những con người nghèo khổ Nguyễn Du đã tố cáo giai cấp quan lại chỉ biết sống cuộc sống xa hoa hưởng thụ. Gân hươu cùng vây cá Đầy bàn thịt lợn, thịt dê Quan lớn chẳng đụng đũa Tùy tùng chỉ nếm qua loa Bỏ mứa không đoái tiếc Chó hàng xóm cũng chán cao lương (Sở kiến hành) Đối thoại với người dân, Nguyễn Du chỉ đứng ngoài quan sát rồi từ đó hiểu và cảm thông cho số phận của họ, nhưng khi nhìn thấy cảnh sống phung phí suốt ngày tiệc tùng của giới quan lại, Nguyễn Du đối thoại trực tiếp với giới cầm quyền Trung Hoa, nhằm phanh phui những mặt trái trong cuộc sống. Giai cấp quan lại chỉ biết che giấu, bưng bít lẫn nhau đây chính là một trong những vấn nạn cần lên án. Chính sự thờ ơ lạnh lùng của giới cầm quyền càng làm cho đời sống của người dân rơi vào tình cảnh bi đát. Xã hội Nguyễn Du nhìn thấy là một xã hội bất
  • 117. 111 công, ngang trái, sống trong xã hội đó con người sẽ dần rơi vào hố sâu của cảnh chết chóc. Bài thơ “Trở binh hành” mang giọng đối thoại tranh biện nhưng có phần kín đáo hơn hai bài trên, kết hợp với giọng điệu nhiễu nhại mỉa mai châm biếm sâu cay. Nhà thơ đã miêu tả một cách tỉ mỉ cuộc sống của người dân, với cảnh chiến tranh loạn lạc. Đất này từ tháng sáu đến tháng chín Hai huyện Hoạt, Tuấn cùng nổi binh Giặc giết quan lại mười người đến tám chín người Đầy thành gió tây thổi mùi máu tanh (Trở binh hành) Chiến tranh xảy ra làm chấn động cả một vùng, quan lại trong thành đều bị giặc giết, đâu đâu cũng ngửi thấy mùi máu tanh, không khí trở nên ngột ngạt, người dân sống trong tâm trạng phập phòng lo sợ. Sợ vì cảnh chiến trường binh đao, sợ cảnh ly tán chết chóc. Cả một miền Hà Nam nhìn đâu cũng thấy binh lính với những vũ khí mài giũa sắc bén. Quân bộ, quân ky đạo chạy dọc đạo chạy ngang Quân ky giương cung sừng Tên dài có gắn, lông chim trắng để đầy bầu Quân bộ vai vác giáo ngắn Mũi thép mới mài, tua đỏ treo lủng lẳng Lại có binh khí của các đội tráng binh mới gọi theo (Trở binh hành) Ngoài đường không có một bóng người đi, chỉ nhìn thấy xe lớn, xe nhỏ suốt ngày rông ruổi làm đường sá tắc nghẽn. Suốt ngày qua lại không chút nào tạm ngừng Mấy trăm dặm chỗ nào cũng có quân binh Đường sá tắc nghẽn, không có người đi (Trở binh hành) Giọng đối thoại tranh biện của Nguyễn Du thương cho những con người không chỉ sống cảnh loạn lạc của chiến trường binh đao, mà còn phải sống trong cảnh hạn hán mất mùa Hồ Nam, Hà Nam từ lâu không có mưa bao nhiêu đau khổ đều đổ lên những tấm thân gầy gò, họ phải gồng mình lên cam chịu. Người dân phải sống trong đau khổ, còn những người được gọi là quan phụ mẫu của dân thì cứ
  • 118. 112 nhơn nhơ, không quan tâm đến tình cảnh khốn cùng mà người dân đang gặp phải. Nhìn thấy cảnh chết chóc trên đường họ thản nhiên kêu lên “Dân chết vì gặp năm hạn, đâu phải tại ta?” một câu nói vô tình làm khoét sâu vào nỗi đau khổ của con người, nhưng cũng thấy rõ bộ mặt của giai cấp quan lại. Từ chỗ đối thoại tranh biện Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được tình cảnh éo le ngang trái của cuộc đời. Trong từng lời đối thoại là lời vạch tội của tác giả đối với giai cấp quan lại, giới cầm quyền Trung Hoa, chính những lời nói và hành động vô trách nhiệm của họ, đã khiến đời sống của những người dân vô tội càng trở nên bi đát. Chính nhờ đối thoại tranh biện Nguyễn Du nhìn thấu bản chất của giới cầm quyền Trung Hoa. Nguyễn Du mỉa mai kín đáo mà chua cay giới cầm quyền từ trên xuống dưới. Giọng điệu đối thoại trong thơ cổ phong của Nguyễn Du còn hướng đến những nhân vật lịch sử Trung Hoa. Trong Phản chiêu hồn Nguyễn Du vừa đối thoại với Khuất Nguyên nhưng thông qua đó chính là sự đối thoại với xã hội. Nguyễn Du đối thoại tranh biện với hồn Khuất Nguyên và phản bác lại tinh thần của Tống Ngọc, Tống Ngọc thương hồn Khuất Nguyên sắp tiêu tan, nên chiêu hồn để gọi hồn về, Nguyễn Du lại khuyên hồn Khuất Nguyên không nên trở về cõi trần đầy rẫy bọn gian ác. Đối thoại với linh hồn của Khuất Nguyên, thực chất Nguyễn Du muốn tố cáo xã hội phong kiến đã cướp đi quyền sống của con người, chính xã hội đã đẩy con người rơi vào những bi kịch thương tâm. Đối thoại với Khuất Nguyên, Nguyễn Du đang kiếm tìm sự đồng vọng, để tri âm, để rồi Nguyễn Du khóc thương cho một con người tài đức nhưng gặp nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Xưa nay mấy ai có được bạn đồng tâm Bài phú của thư sinh họ Giả chẳng có nghĩa lý gì Xưa nay liệt nữ không lấy hai chồng Lẽ nào tất tả đi khắp chín châu tìm vua khác (Biện Giả) Trong bài Biện Giả Nguyễn Du đối thoại để phản đối việc Giả Nghị chê Khuất Nguyên không biết “đi khắp chín châu mà tìm vua khác”, nhà thơ cho rằng mình là người hiểu rõ tấm lòng của Khuất Nguyên hơn Giả Nghị. Giọng đối thoại tranh biện Nguyễn Du còn hướng vào những nhân vật là những bậc đế vương, những tên gian thần. Giọng điệu đối thoại tranh biện gay gắt nhằm vạch rõ những hành động xấu xa gian ác. Bài “Ky lân mộ” viết về Minh
  • 119. 113 Thành Tổ nhưng Nguyễn Du không đối thoại với Minh Thành Tổ mà lại hướng cuộc đối thoại của mình với kỳ lân, nhưng thông qua đối thoại Nguyễn Du đã dần dần làm rõ bản chất của một vị đế vương. Trên đường đi Hà Bắc có tấm bia cao năm thước dựng bên đường cái Trong có mấy chữ viết to theo lối chữ “chân”: “MỘ KỲ LÂN” Ông lão bên đường bảo ta rằng: “Năm Vĩnh Lạc thứ tư, con kỳ lân đem cống vua, chết giữa đường chôn tại đây Quan trên cho dựng bia để ghi lại việc cũ” Việc ấy đến nay đã lâu rồi (Kỳ Lân mộ) Những câu đầu của bài thơ là cuộc trò chuyện của Nguyễn Du với một ông lão bên đường về sự tích của con kỳ lân được đem cống vua, bị chết dọc đường, được chôn và lập bia ở Hà Bắc, nhưng nay chỉ còn lại tấm bia, không được đắp mộ cũng chẳng trồng cây, lâu dần tấm bia xiêu vẹo rêu phủ mờ. Ở những dòng đầu tiên giọng đối thoại tranh biện của Nguyễn Du trực tiếp hướng vào kỳ lân. “Theo sách cổ kỳ lân là một giống linh thú, không giẫm lên vật sống, không bẻ cành cây tươi, nên gọi là thú có nhân. Chỉ khi nào nước có thánh nhân thì kỳ lân mới xuất hiện, do đó kỳ lân được tượng trưng cho điềm lành, báo hiệu thời thịnh trị” [33, tr. 499]. Nguyễn Du thương cho thân phận con kỳ lân, một vật báo điềm lành nhưng Nay xương thịt bỏ cho sâu kiến đục, xen giữa những lời đối thoại với kỳ lân là lời vạch tội của Nguyễn Du về Minh Thành Tổ. Nguyễn Du nhận thấy Minh Thành Tổ là một con người tàn ác, không đáng là một bậc nhân quân, qua từng lời đối thoại những việc làm, hành động tàn bạo của Minh Thành Tổ được hiện ra cụ thể, rõ nét. Nguyễn Du cho rằng nếu kỳ lân vì Minh Thành Tổ mà hiện ra “Thì mày chỉ là đồ yêu quái, có gì đáng quý”. Chắc có lẽ kỳ lân đã nhận ra rằng Minh Thành Tổ không phải thánh nhân, nên kỳ lân đã không hiện ra, và chết giữa đường như vậy. Đối thoại với kỳ lân Nguyễn Du trực tiếp vạch trần bản chất tàn bạo của tên vua từng đem quân xâm lược nước ta nhưng qua đó ông lại gián tiếp ca ngợi Lê Lợi là vị vua thánh “Nếu bảo kỳ lân vì thánh nhân mà hiện ra/ Thì thời ấy sao không lượn chơi sang phương Nam?”. Nếu như Minh Thành Tổ là một ông vua tàn bạo bất nhân được Nguyễn Du vạch trần qua lời đối thoại với kỳ lân. Thì kẻ gian hùng Tào Tháo được nhà thơ
  • 120. 114 khắc họa qua hai bài thơ gắn liền với hai địa danh nổi tiếng “Cựu Hứa Đô và Đồng Tước đài”. Cả hai bài thơ giọng điệu đối thoại đều hướng vào nhân vật Tào Tháo “Anh hùng một thuở, giờ nơi đâu”. Dưới cái nhìn của Nguyễn Du, Tào Tháo là kẻ gian hùng với những mưu mô thâm độc. Con người dọc ngang một thưở giờ đã lùi xa vào quá khứ, chỉ còn lại với thời gian là những dấu tích, tàng tích và những tham vọng bất thành Chỉ thấy đài Đồng Tước ở bên sông/ Nền đài tuy còn nhưng đã nghiêng lở”. Dừng chân đứng lại trên nền đài Nguyễn Du chỉ nghe thấy Gió lạnh réo gào giận dữ, cỏ thu tàn úa/ Hai lầu Ngọc Long, Kim Phụng đều đã mịt mờ dấu vết. Tào Tháo với những mưu mô toan tính mong chiếm lấy cả giang sơn, chiếm đoạt người đẹp, nhưng trời không chiều lòng người, tất cả việc làm của Tào Tháo đều thất bại. Đồng Tước đài có lộng lẫy đến nhường nào “Mà nàng Tiểu Kiều đến già vẫn là vợ của Chu Lang”. Đối thoại với Tào Tháo, Nguyễn Du cho người đọc thấy những nét tính cách nổi bật của Tào Tháo. Một con người đầy tham vọng, mưu mô, thâm độc, gian ác, xảo quyệt coi thường vua lấn lướt các chu hầu. Vang lên trong từng lời đối thoại là những lời mỉa mai châm biếm sâu cay của Nguyễn Du đối với Thào Tháo. Giọng đối thoại tranh biện của Nguyễn Du mang nhiều màu sắc, khi nhắc đến những con người nghèo khổ, ông ngậm ngùi xót xa cho những cảnh đời bất hạnh, nói đến giới cầm quyền Trung Hoa dường như giọng đối thoại có phần chua cay hơn. Nguyễn Du không ngần ngại nói thẳng, nói thật nhằm vạch trần bản chất giả tạo được che phủ bởi lớp vỏ hào nhoáng bên ngoài. Đối thoại với từng nhân vật chính là lúc tác giả giãi bày những suy nghĩ trong lòng. Nguyễn Du luôn đứng trên lập trường chính nghĩa để bênh vực, bảo vệ những truyền thống những giá trị tốt đẹp, đồng thời phê phán, lên án những cái ác, cái xấu làm ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Nguyễn Du dần nhận ra rằng xã hội mà con người đang sống là một xã hội đa chiều, cái đẹp/ cái xấu, cái ác/ cái tốt luôn tồn tại song song, con người đang sống giữa làn ranh mong manh đó. Giọng điệu đối thoại tranh biện hướng đến những con người trong quá khứ, thông qua đối thoại nhà thơ muốn gửi gắm thông điệp với những con người tương lai. Sống là phải biết yêu thương, sống với hiện tại nhưng phải soi rọi đến tương lai và hãy một lần nhìn về quá khư. Quá khứ - hiện tại- tương lai là những nhịp cầu gặp gỡ, là tấm gương phản chiêu hành trình của một cuộc đời con người.
  • 121. 115 3.3.3. Giọng điệu u buồn Đọc những vần thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, ta bắt gặp giọng điệu u buồn, phảng phất đâu đó là nỗi buồn của thời cuộc. Những bài thơ cổ phong là những dòng tâm sự của hai nhà thơ, về cuộc sống, về con người, về thời đại, về xã hội mà hai nhà thơ đang sống. Đối với Nguyễn Trãi có những lúc ông muốn quên đi thực tại, để tìm về với núi rừng, tìm về với thiên nhiên, nhưng ông vẫn không ngừng nghĩ đến cuộc sống của những con người ngoài kia, luôn lo cho sự an nguy của đất nước, nên trong lòng nhà thơ luôn có những trăn trở những dự cảm nhói buốt. Nhà thơ đau buồn khi nghĩ đến cảnh sống của người dân nơi phương xa. Cửu trùng chẩn niệm cập hà manh Vạn lý cẩm y dao trú tiết Sương phong quyển địa khí hoành thu (Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên) (Chín trùng thương xót dân phương xa Muôn dặm áo gấm sai trú tiết Gió sương cuốn đất khí thu hăng) Nhìn thấy cảnh sống của những người dân đen ngoài kia nhà thơ đã ngậm ngùi thương xót, buồn thương cho những số phận của con người, đối mặt với bao khó khăn của cuộc sống. Trong thơ cổ phong Nguyễn Du thấy rõ giọng điệu buồn thương, nhất là khi ông viết về những con người đói khổ lầm than. Nhìn thấy cảnh sống của người dân, thi nhân không khỏi ngậm ngùi, chua xót đắng cay. Nhà thơ đau lòng khi tận mắt chứng kiến cảnh sống cơ cực của người dân, thơ ông không thiếu những giọt nước mắt, ngập tràn trong những bài thơ là tình thương yêu của tác giả dành cho những kiếp người. Nhìn thấy cảnh mấy mẹ con người ăn xin, cảnh ông lão mù hát rong, những hình ảnh ấy luôn ám ánh tâm hồn Nguyễn Du để lại trong lòng thi nhân nỗi buồn thương vô hạn. Ngã sạ kiến chi, bi thả tân Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần (Thái Bình mại giả ca) (Ta chợt thấy vậy vừa buồn đau vừa chua xót Phàm người ta thà muốn chết, không ai muốn nghèo)
  • 122. 116 Giọng thơ như bỗng chùng xuống, phảng phất đâu đó là sự buồn thương, thấy cảnh đau lòng Nguyễn Du không đành lòng bước đi, trong lòng dâng lên một niềm thương cảm mạnh mẽ. Viễn lai sử ngã tâm mang nhiên (Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích) (Khiến ta từ xa đến lòng thấy bùi ngùi) Buồn đau đến quặn lòng khi ông tận mắt chứng kiến cảnh bốn mẹ con người ăn xin ngồi lân la cả ngày mà trong giỏ chỉ có rau lê, rau hoắc lẫn với cám. Trong khi đó Nguyễn Du lại thấy một cảnh tượng khác. Hành nhân diệc thê hoàng Tạc tiêu Tây hà dịch Cung cụ hà trương hoàng (Sở kiến hành) (Người đi đường lòng quặn đau Đêm qua ở trạm Tây Hà Tiệc tùng cung đốn sao mà linh đình thế) Khi viết về những con người nghèo khổ, Nguyễn Du không đứng trên lập trường của giai cấp quan lại để nhìn nhận hay đánh giá sự việc. Mặc dù lúc này trong cương vị là một chánh sứ nhưng Nguyễn Du lại đứng ở vị thế của một người dân bình thường như bao người dân khác, nên ông mới hiểu được những cảnh sống cơ cực mà người dân gặp phải. Để rồi ngoài sự đau xót, nhà thơ còn đồng cảm, chia sẻ sâu sắc với những mảnh đời nghèo khổ. Giọng thơ luôn có sự u buồn, buồn cho những con người, buồn cho những cảnh đời, có lúc nhà thơ ao ước Ai vẽ giùm bức tranh/ Dâng thánh hoàng xem thử . Nói đến số phận của những con người tài hoa, giọng thơ Nguyễn Du cũng phảng phất nét u buồn. Thời gian trôi qua làm mọi thứ thay đổi, làm nhà thơ giật mình hoảng hốt, khi nhìn thấy sự thay đổi của cô Cầm, xưa nổi tiếng tài hoa một thời mà nay “thần sắc khô khan”,“đôi mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm”. Nguyễn Du nhìn thấy đau lòng “lệ thầm rơi”. Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi (Long Thành cầm giả ca)
  • 123. 117 (Ai biết rằng đó chính là người tài danh bậc nhất của kinh thành ngày xưa Khúc xưa giọng mới lệ thầm rơi Tôi lắng nghe, lòng đau xót) Và một lần nữa Nguyễn Du đã khóc, những giọt nước mắt của ông thể hiện nỗi buồn thương vô hạn, khóc người và khóc mình. Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong Ca vũ không di nhất nhân tại Thuấn tức bách niên năng kỷ thì Thương tâm vãng sự lệ triêm y (Long Thành cầm giả ca) (Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan hết cả rồi Chỉ còn sót lại một người ca múa Trăm năm như chớp mắt có là bao Đau lòng việc cũ lệ thấm áo) Thời gian trôi đi thật nghiệt ngã lạnh lùng, ông nhìn thấy bước đi của thời gian làm thay đổi mọi thứ: Tây Sơn tiêu vong, chính ông giờ đây đầu cũng bạc trắng và người kĩ nữ thì nhan sắc tàn tạ. Với giọng điệu ngậm ngùi, Nguyễn Du đang tiếc thương cho một cuộc đời bất hạnh của cô Cầm, hay chính là sự thương cảm cho chính thân phận nhà thơ. Cái nhìn hôm nay đã được nhìn từ cái hôm qua sự lụi tàn được phản chiếu từ sự vàng son của quá khứ. Nguyễn Du không chỉ khóc thương cho số phận của người con gái tài hoa trong Long Thành cầm giả ca, mà còn dành một tình cảm đặc biệt đối với Khuất Nguyên. Hồn hề! hồn hề! hồ bất qui? Đông tây nam bắc vô sở y Thướng thiên há địa giai bất khả Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi? (Phản chiêu hồn) Hồn ơi! hồn ơi! sao không về? Đông, tây, nam, bắc không có nơi nào nương tựa Lên trời xuống đất đều không được Còn trở về thành Yên, thành Sính làm gì?) Mở đầu bài thơ là câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ cất lên như một tiếng khóc. Giọng điệu bốn câu đầu gần với sự ngơ ngác, bàng hoàng. Câu mở đầu
  • 124. 118 mang giọng giục giã, ân cần, Hồn ơi! hồn ơi! sao không về? ba câu còn lại giọng điệu trở nên rời rạc, hụt hẫng. Bốn câu thơ là một tiếng gọi hồn nghe thảm thiết ai oán, một tiếng gọi ai oán nhưng ẩn sau tiếng gọi hồn là lời khuyên chân thành của thi nhân đối với linh hồn Khuất Nguyên đừng về nữa. Nguyễn Du nhận ra dù có trở về thì hồn cũng không có nơi nương tựa. Để chứng minh cho lời nói của mình, nhà thơ đã mở ra các chiều không gian khác nhau. Đầu tiên là chiều rộng “Đông tây nam bắc” bốn hướng đều không có chỗ cho Khuất Nguyên đặt chân, tiếp đến là chiều cao “Thướng thiên há địa” cũng không phải nơi thích hợp cho hồn nương tựa, và cuối cùng là chiều hẹp “Yên, Dĩnh thành trung” ngay cả cố quốc, cố đô của Khuất Nguyên cũng chẳng còn đất cho hồn ẩn náu. Cuộc sống hiện thực đương thời mọi thứ đều đã thay đổi, nó dần phủ lên những kiếp người nhỏ bé những màn đêm mù mịt. Xã hội đương thời là cái xã hội “cắn xé thịt người ngọt xớt như đường”. Con người tồn tại giữa làn ranh mong manh của sự sống và cái chết, một xã hội như vậy đâu còn chỗ cho hồn trở về. Kết thúc bài thơ là lời tố cáo hiện thực đau thương, cả màn trời dường như đang tối sầm lại, Hồn Khuất Nguyên mà về sẽ chẳng biết nương tựa vào đâu. Một câu hỏi nhức nhối như càng xoáy sâu vào lòng người Hồn hề! hồn hề! nại hồn hà ? Câu hỏi vang lên buộc chúng ta cúi đầu suy nghĩ mà buồn, mà thương, mà căm giận cho cái xã hội phong kiến mục nát không chỉ ở thời của Khuất Nguyên mà ngay trong thời đại Nguyễn Du cũng vậy. Không chỉ buồn cho người, Nguyễn Du còn buồn cho chính mình. Trong những tháng ngày ở đất khất quê người Nguyễn Du lúc nào cũng nhớ về quê hương gia đình, phảng phất trong những lời thơ là niềm mong ngóng sớm ngày trở về, là nỗi buồn không biết chia sẻ cùng ai. Thùy gia hoành địch bằng lan can Nhị thập thất nhân cộng hồi thư Cố hương dĩ cách vạn trùng san (Thái Bình thành hạ văn xuy địch) (Nhà ai (có người) tựa lan can thổi sáo Cả hai mươi bảy người (trên thuyền) đều quay đầu nhìn lại Quê nhà đã cách muôn trùng khơi)
  • 125. 119 Giọng thơ Nguyễn Du trầm xuống khi nghe tiếng sáo vang vọng nơi xa khiến nhà thơ quay đầu nhìn lại, Nguyễn Du càng thêm thương nhớ núi Hồng, sông Lam. Thanh thần vọng Lam Giang (Lam Giang) (Sớm mai trong sông Lam) Hình ảnh quê nhà luôn hằn sâu trong tâm trí Nguyễn Du, nhớ đến quê nhà khiến Nguyễn Du buồn đau khi nhớ về hình ảnh của người vợ. Thệ thủy nhật dạ lưu Du tử hành vị qui Kinh niên bất tương kiến Hà dĩ úy tương ti (tư) Mộng trung phân minh kiến (Ký mộng) (Dòng nước ngày đêm chảy Du tử đi chưa về Bao năm không gặp nhau Lấy gì an ủi nỗi nhớ nhau Trong mộng thấy rõ ràng) Nguyễn Du đau buồn trước những nỗi khổ mà vợ phải trải qua. Thỉ ngôn khổ bệnh hoạn Kế ngôn cửu biệt ly Đái khấp bất chung ngữ (Ký mộng) (Thoạt đầu nói khổ vì bệnh Kế đó nói xa cách nhau lâu Nghẹn ngào khóc không nói hết câu) Bài thơ nói lên nỗi buồn, nỗi đau giấu kín bấy lâu trong lòng nhà thơ. Bằng mộng Nguyễn Du đã rút ngắn được khoảng cách nhớ thương, thể hiện niềm cảm thông và tình yêu sâu sắc của mình dành cho người vợ đã khuất. Trong những ngày tháng sống ở xứ người không có những giây phút nào Nguyễn Du không nhớ đến gia đình, quê hương. Dù có xa cách về mặt không gian địa lí nhưng tình cảm Nguyễn Du dành cho quê hương, gia đình vẫn không hề thay đổi. Để rồi khi vui hay khi buồn ông luôn hướng về núi Hồng, sông Lam, nơi gắn bó bao kỉ niệm, nơi có vợ
  • 126. 120 con ông đang sống những ngày tháng đói khổ vật lộn với chốn cồn khô, cát bạc nhưng cũng là nơi đem đến sự bình yên và thanh thản trong tâm hồn. Những bài thơ cổ phong của Nguyễn Trãi cũng như Nguyễn Du giúp người đọc có những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời cũng như thời đại mà hai nhà thơ đang sống. Giọng thơ u buồn của Nguyễn Du có lúc không kém phần chua cay, khi viết về số phận của những con người, với ngòi bút hiện thực sắc sảo, ông lên tiếng đả kích tận gốc xã hội phong kiến. Nguyễn Du đau buồn, cho số phận của những con người phải sống một cuộc đời vất vả, thương cảm cho những người già thân hình yếu ớt nhưng phải vật lộn với cuộc sống để kiếm tìm những bữa ăn qua ngày, và những giọt nước mắt rơi khi ông nhắc đến những người tài phải chịu một đời oan khuất. Tìm hiểu thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du giúp ta có cái nhìn toàn diện và hiểu rõ những nội dung tư tưởng được thể hiện trong những bài thơ. Thấy được tâm hồn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du vô cùng tinh tế sâu sắc, cùng với một trái tim tràn đầy tình yêu thương, một trí tuệ uyên bác. Hai nhà thơ đã để lại cho đời một giá trị văn hóa tinh thần rất lớn, những giá trị ấy mãi mãi trường tồn với thời gian.
  • 127. 121 PHẦN KẾT LUẬN 1. Thơ chữ Hán là một trong những thành tựu tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Đặc biệt khi tìm về với những vần thơ cổ phong trong thơ chữ Hán, giúp người đọc thấy được những đóng góp của hai tác giả đối với thể thơ cổ phong. Nhóm thơ cổ phong tuy chỉ chiếm số lượng khá khiêm tốn so với các thể thơ khác nhưng cũng góp phần thể hiện được phong cách, cá tính Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Luận văn đã đi sâu tìm hiểu lí giải về nguồn gốc, đưa ra cách hiểu riêng của mình về khái niệm thơ cổ phong, nêu lên những đặc điểm cơ bản mà thơ cổ phong thường dùng. Khái quát những nét chính về cuộc đời con người Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. 2. Đến với thế giới nghệ thuật thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du chúng tôi muốn tìm đến những nét thi pháp chung và riêng được thể hiện trong nhóm thơ cổ phong của hai tác giả. Thấy được quan niệm nghệ thuật về con người, phát hiện những điểm nhìn tích cực tiến bộ về cuộc đời, thế giới và bản thân. Con người nghèo khổ với những vất vả trong cuộc sống mưu sinh, luôn bị ám ảnh bởi đói rét, ôm đau, bệnh tật, cái chết luôn rình rập đe dọa cuộc sống. Con người tài hoa bất hạnh hiện lên với những vẻ đẹp của tài năng, những phẩm chất đáng quý đáng trân trọng. Nguyễn Du cảm thông với số phận của người phụ nữ tài hoa, kính trọng và yêu quý các bậc hiền tài. Con người độc ác, xấu xa với bản tính gian ác, mưu mô xảo quyệt, những hành động việc làm luôn bị người đời khinh bỉ xem thường. Khi nhắc đến những con người này Nguyễn Du có phần căm tức, oán ghét đồng thời bóc trần bản chất xấu xa của họ. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ cổ phong Nguyễn Du đã phản ánh một cách chân thực sinh động các mặt của đời sống, góp phần giúp người đọc có cái nhìn bao quát về xã hội phong kiến ở đất nước Trung Hoa. Nguyễn Trãi viết về những nhân vật lịch sử Trung Hoa với cảm hứng hoài cổ tiếc nhớ những người xưa, thể hiện sự kính trọng đối với các bậc tiền nhân tiền bối. Nhân vật lịch sử xuất hiện trong thơ cổ phong Nguyễn Du khá đa dạng tầng lớp: Khuất Nguyên với tấm lòng trung nghĩa, Liêm Pha con người tài năng, Minh Thành Tổ một đế vương tàn bạo, Tào Tháo một kẻ gian hùng, Tô Tần kẻ thuyết khách tham vọng vinh hoa phú quý, Dự Nhượng, Kinh Kha là những bề tôi trung …mỗi nhân vật là đại diện cho những giai tầng khác nhau trong xã hội. Từ những
  • 128. 122 nhân vật lịch sử Trung Hoa, Nguyễn Du trân trọng những bậc hiền tài, ca ngợi những con người dám xả thân vì sự nghiệp báo quốc, lên án, mỉa mai vạch tội những ông vua gian ác, những tên lọng thần, kẻ tiểu nhân. 3. Thời gian, không gian cũng là một nét thể hiện tư duy trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Thời gian, không gian trong thơ cổ phong có tính chất bức phá mạnh mẽ thể hiện theo mạch suy nghĩ cảm xúc chủ quan của nhà thơ. Thời gian nghệ thuật thể hiện những suy tư trăn trở, những chiêm nghiệm và nhận thức của con người về cuộc đời. Không gian nghệ thuật khắc sâu tâm trạng của con người. Không gian rộng lớn trong thơ Nguyễn Trãi là không gian của núi rừng với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, con người được trải lòng trong bầu không khí mát lành, tận hưởng những vẻ đẹp của thiên nhiên. Không gian rộng lớn trong thơ Nguyễn Du được bộc lộ hết tất cả bản chất của nó, dữ dội, nguy hiểm, lạnh lẽo, hiu hắt. Không gian nhỏ hẹp đưa con người trở về với cuộc sống đời thường với những bộn bề lo toan. 4. Thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du còn được thể hiện qua thể thơ, ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật. Thể thơ phóng túng tự do, không bị gò bó bởi câu chữ, không bị trói buộc bởi các quy định về âm thanh nên thơ cổ phong có ưu thế trong việc phản ánh chân thực đời sống, bộc lộ tâm trạng con người. Dùng nhiều thanh trắc, vần trắc tạo nên nhịp điệu khỏe khoắn, mạnh mẽ trong từng câu thơ, bài thơ. Sử dụng từ láy vừa có giá trị tạo nghĩa, vừa có giá trị tạo hình, tạo cảm giác mạnh về âm thanh. Dụng điển đem đến hình thức tiết kiệm lời, nhưng lại có ý nghĩa khái quát cao. Lặp từ lặp ngữ góp phần gợi liên tưởng cảm xúc, tạo nhạc điệu cho những vần thơ. Câu hỏi tu từ xuất hiện trong thơ chính là chìa khóa để giải mã nội dung bài thơ, nói lên những suy tư, trăn trở, tình cảm, cảm xúc của tác giả. Giọng điệu nghệ thuật thể hiện phong cách riêng, cá tính riêng của chủ thể trữ tình. Như vậy, tìm hiểu thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du giúp bản thân khám phá những nét mới lạ, thấy được cái hay cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật. Từ đấy càng hiểu, yêu mến, kính trọng tài năng của hai đại thi hào. Vận dụng lý thuyết thi pháp và thi pháp học, để khảo sát thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, chúng tôi cố gắng mở ra hướng nghiên cứu mới trong thơ của hai tác giả. Từ góc nhìn thi pháp chúng tôi tìm hiểu các phương diện: quan niệm nghệ thuật về con người; thời gian không gian nghệ thuật; thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu… góp phần nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du nói chung và thơ cổ phong nói riêng.
  • 129. 123 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (1943) Khảo luận về Kim Vân Kiều, Nhà xuất bản Quan Hải tùng thư. 2. Đào Duy Anh (2001), Từ điển Hán Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Diệp Quang Ban (2008), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Nguyễn Huệ Chi (1983), Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán, trích Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam, NXB Tác phẩm mới. 5. Nguyễn Huệ Chi (1965), “Tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du”, Tạp chí văn học, (11), tr. 48. 6. Trương Chính (Chủ biên) (1978), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Giáo dục, Hà Nội 7. Mai Ngọc Chừ (chủ biên) (2007), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục. 8. Xuân Diệu (2006), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Kim Đồng. 9. Ngô Viết Dinh (Tuyển chọn và biên tập) (2000), Đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. 10. Trịnh Bá Đĩnh (1998), Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 11. Phạm Văn Đồng – Võ Nguyên Giáp (1982), Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc vĩ đại nhà văn hóa kiệt xuất ,NXB sự thật, Hà Nội. 12. Nguyễn Thạch Giang – Trương Chính (2001), Nguyễn Du niên phổ và tác phẩm, Nxb Văn hóa thông tin. 13. Nguyễn Thị Bích Hải (2006) Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa, Huế. 14. Nguyễn Thanh Hải (2007), Thơ chữ Hán Nguyễn Du và Đỗ Phủ qua cái nhìn so sánh, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn Đại học Vinh. 15. Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam văn học sử yếu, Nha học chính Đông Pháp, Hà Nội, 1943; tái bản Nxb Hội Nhà văn. 16. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Cao Xuân Hạo (2006), Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb Giáo dục Hồ Chí Minh. 18. Phạm Ngọc Hiền (2016), Thi pháp học (chuyên luận văn học), Nxb Văn học. 19. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới. 20. Phạm Thị Ngọc Hoa (2007), “Nghệ thuật sử dụng điển trong Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi”, Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (81). 21. Nguyễn Thái Hòa (2006) Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học, Nxb Giáo
  • 130. 124 dục, Hà Nội. 22. Trịnh Hoành (2009), Sổ tay điển văn học, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa. 23. Bùi Thị Hồng (2014), Thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Vương Duy dưới góc nhìn so sánh, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh. 24. Diên Hương (2003), Từ điển thành ngữ điển tích, Nxb Văn hóa thông tin. 25. Đinh Thái Hương, Chu Huy, Nguyễn Hữu Sơn (2008), Điển tích văn học trong nhà trường, Nxb giáo dục. 26. Đinh Thị Khang (2012), “Thơ Nguyễn Trãi viết về giai nhân”, tạp chí VHNT số 333 tháng 3. 27. Đinh Gia Khánh (Chủ biên) (2001), Điển cố văn học, Nxb văn học. 28. Vũ Khiêu (1984), Thơ văn Cao Bá Quát, Nxb Văn học, Hà Nội. 29. Hoàng Khôi (Biên dịch) (2001), Nguyễn Trãi toàn tâp, Nxb Văn hóa thông tin. 30. Bùi Kỷ (1932), Quốc văn cụ thể, Tân Việt Nam thư xã, Hà Nội. 31. Đinh Trọng Lạc (1997), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 32. Nguyễn Thị Lành (2013), Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh. 33. Mai Quốc Liên (1996), Nguyễn Du toàn tập, (tập 1) NXB văn học trung tâm nghiên cứu quốc học, Hà Nội. 34. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 35. Nguyễn Lộc (1990), Nguyễn Du con người và cuộc đời, Nxb Đà Nẵng. 36. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục. 37. Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Thanh Niên. 38. Bùi Văn Nguyên (1976), Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 39. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại , Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 40. Trần Văn Nhĩ (2007), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn nghệ, Hà Nội 41. Nhiều tác giả (1997), Từ điển Bách Khoa Việt Nam (Tập 1), trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội. 42. Nhiều tác giả (2000), Đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh Niên. 43. Nhóm Lê Quý Đôn (1957) Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nxb. Xây dựng, H.
  • 131. 125 44. Nhóm Văn Sử Địa (biên soạn) (1959), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội. 45. Bùi Thức Phước (2015), Nguyễn Du (Thơ Hán Nôm), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 46. Nguyễn Ngọc San (Chủ biên) (2010), Từ điển giải thích điển cố văn học dùng trong nhà trường, Nxb Giáo dục Việt Nam. 47. Nguyễn Hữu Sơn (2007), Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 48. Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo (2006), Cao Bá Quát về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 49. Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (2003), Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 50. Trần Đình Sử, Tuyển tập, tập 1 (2005), Những công trình thi pháp học, Nxb Giáo dục. 51. Trần Đình Sử, Tuyển tập, tập 2 (2005), Những công trình Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục. 52. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 53. Trần Đính Sử (2002), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Huế. 54. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 55. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 56. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại tác giả tác phẩm văn học trung đại Việt Nam (Tập 2), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 57. Lý Toàn Thắng (2015), Thi luật thơ lục bát trong Truyện Kiều, Nxb Giáo dục Việt Nam. 58. Hoài Thanh, “Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán”, Tạp chí văn nghệ thánh 3/ 1960. 59. Trần Nho Thìn (2009), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục Việt Nam. 60. Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1970), Nhóm tuyển dịch gồm Vũ Khiêu và nhiều người khác, in lần thứ nhất, Nxb Văn học, Hà nội. 61. Lương Duy Thứ (2005), Thi pháp thơ Đường, Nxb Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. 62. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thế giới thi ca Nguyễn Du, Nxb Kinh Thi, Sài Gòn. 63. Hoàng Thị Thu Thủy (2002). Thi pháp thơ Nôm Nguyễn Trãi, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM.
  • 132. 126 64. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học , Nxb Trẻ. 65. Phan Thị Bích Vân (2003), Hình tượng nghệ thuật về con người trong Bắc hành tạp lục, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh. 66. Đoàn Thị Thu Vân, Lê Trí Viễn, Lê Thu Yến, Lê Văn Lực (2009), Văn học Việt Nam trung đại Việt Nam – Thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX, Nxb Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh. 67. Lê Trí Viễn (1962), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, (Tập II). Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 68. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội. 69. Viện sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 70. Viện văn học (1965), Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 71. Phạm Tuấn Vũ (2005), Tìm hiểu văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 72. Lê Thu Yến (2002), Nhà văn trong nhà trường Nguyễn Du, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 73. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh Niên. 74. Lê Thu Yến (2000), Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, Nxb. Giáo dục. Tài liệu Website: 75. Phạm Trọng Chánh, “Nguyễn Du qua Hàm Đan đọc bia Liêm Pha”, Website http://chimviet.free.fr. 76. Trần Thị Hoa Lê, “Thơ cổ phong chữ Hán của Nguyễn Du và cuộc đối thoại trường thiên về nhân thế”, Website http://nguvan.hnue.edu.vn. 77. Trần Thị Hoa Lê, “Cảm hứng đối thoại – phản biện trong Bắc hành tạp lục” Website http://www.vanhoanghean.com.vn 78. Nghiên cứu văn học, “Tiếp cận tác phẩm Long Thành cầm giả ca của Nguyễn Du từ góc độ liên văn bản”, Website https://thuyduongtrinh1210.wordpress.com.