1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ QUẾ
TỘI MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ QUẾ
TỘI MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
TrÇn ThÞ QuÕ
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI
VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM
9
1.1. Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về tội
phạm buôn bán người, buôn bán trẻ em
10
1.1.1. Khái niệm buôn bán người theo quy định của luật pháp quốc tế 10
1.1.2. Khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam
16
1.2. Lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam quy định
về phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
20
1.2.1. Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 1999
20
1.2.2. Hệ thống pháp luật phi hình sự có liên quan đến phòng, chống
tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
24
1.3. Kinh nghiệm và sự hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
31
Chương 2: TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ HAI TỘI PHẠM NÀY TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2009 - 2013
37
2.1. Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trong Bộ luật hình
sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
37
5
2.1.1. Tội mua bán người (Điều 119 Bộ luật hình sự) 37
2.1.2. Tội mua bán trẻ em (Điều 120 Bộ luật hình sự) 41
2.2. Tình hình tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ
em trên địa bàn tỉnh Hà Giang
47
2.2.1. Đặc điểm chung về tình hình tội phạm mua bán người, mua
bán trẻ em trên phạm vi cả nước
47
2.2.2. Tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa
bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013
51
2.3. Tình hình xét xử tội phạm mua bán người và tội phạm mua
bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
58
2.4. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những tồn
tại, hạn chế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang
72
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG,
CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ MUA BÁN
TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
77
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội mua bán người và tội mua bán trẻ em
77
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối
với tội mua bán người và tội mua bán trẻ em
82
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh
Hà Giang
84
3.3.1. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân tham
gia phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
85
3.3.2. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, gắn xây
dựng nông thôn mới với công tác xóa đói giảm nghèo, dạy
nghề và tạo việc làm cho nam nữ thanh niên
87
6
3.3.3. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong
điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
88
3.3.4. Tăng cường sự phối hợp với các ngành chức năng trong công
tác phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em
90
3.3.5. Tăng cường công tác xác minh và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng
cho nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
93
3.3.6. Tăng cường phối hợp, hợp tác quốc tế trong công tác phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
95
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Số vụ và số bị can đã khởi tố điều tra về tội mua bán
người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang
từ năm 2009 - 2013
53
2.2 Số vụ và số bị can, bị cáo bị khởi tố điều tra, truy tố, xét
xử về tội mua bán người, mua bán trẻ em trên phạm vi cả
nước từ 2009 - 2013
56
2.3 Số vụ và số bị cáo đã xét xử về tội mua bán người và tội
mua bán trẻ em theo Điều 119, 120 Bộ luật hình sự, trên
địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
59
2.4 Tổng hợp mức hình phạt của các bị cáo đã xét xử về tội
mua bán người và tội mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh
Hà Giang từ 2009 - 2013
64
2.5 Thống kê số nạn nhân theo mục đích mua bán của tội
phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em, trên
địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
65
2.6 Thống kê thành phần độ tuổi các nạn nhân của tội phạm
mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà
Giang từ 2009 - 2013
68
2.7 Thống kê thành phần độ tuổi của tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm
2009 - 2013
69
8
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
2.1 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ tổng số vụ án mua bán người, mua
bán trẻ em trên tổng số vụ án về trị an xã hội của tỉnh Hà
Giang từ năm 2009 - 2013
53
2.2 Biểu đồ thể hiện tổng số vụ án thụ lý về tội mua bán
người và tội mua bán trẻ em của tỉnh Hà Giang so với cả
nước từ năm 2009 - 2013
57
2.3 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số vụ án xét xử về tội mua bán người
và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật
hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
62
2.4 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số bị cáo xét xử về tội mua bán người
và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật
hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
63
2.5 Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo mục đích mua bán của tội
phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa
bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
66
2.6 Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo thành phần độ tuổi bị mua
bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang
từ năm 2009 - 2013
69
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hướng đến một thế giới văn minh, công bằng
và bình đẳng nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của con người đặc biệt là phụ
nữ và trẻ em thì thế giới đã xuất hiện một hình thức xâm phạm nghiêm trọng
đến danh dự, nhân phẩm con người với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức
tạp và có tổ chức đó là tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Đây là
một thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Những năm gần đây, tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em ở
Việt Nam diễn biến phức tạp, có xu hướng quốc tế hóa. Trong nước đã xuất
hiện nhiều đường dây mua bán người, mua bán trẻ em xuyên quốc gia, liên
quan đến đối tượng thuộc nhiều địa phương, có sự cấu kết chặt chẽ giữa tội
phạm trong nước và nước ngoài với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, lừa gạt
dưới mọi hình thức để đạt được mục đích. Đối tượng của hoạt động mua bán
người là nam giới, phụ nữ và trẻ em, thuộc mọi lứa tuổi trong đó nhiều nhất là
phụ nữ và trẻ em. Phần lớn phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ các vùng nông thôn,
miền núi ra đô thị, bị ép buộc làm gái mại dâm phục vụ cho các cửa hàng,
dịch vụ trá hình. Nhiều nạn nhân bị buôn bán ra nước ngoài, đến các quốc gia
khác nhau với nhiều hình thức bóc lột nhằm trục lợi như mại dâm và làm vợ
bất hợp pháp, nam giới bị buôn bán để bóc lột sức lao động... Thực trạng phụ
nữ và trẻ em bị bán ra nước ngoài qua các hình thức dịch vụ môi giới hôn
nhân, cho nhận con nuôi đã trở thành vấn đề nóng bỏng, nhức nhối, ảnh
hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt của nhân dân, phong tục tập quán, đạo đức
xã hội. Tệ nạn mua bán người đe dọa đến sự an ninh, an toàn của con người
trên nhiều phương diện, gây những tác hại nặng nề về thể chất và tinh thần
cho nạn nhân, tước đoạt tự do và quyền con người, đe dọa đến an ninh toàn
cầu và làm gia tăng tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Mua bán người, mua
10
bán trẻ em có những tác hại nặng nề đối với bản thân các nạn nhân, những
người thường bị lạm dụng về thể chất và tinh thần, bị cưỡng hiếp, đe dọa đến
tính mạng, sự an toàn của bản thân và gia đình họ. Mua bán người, mua bán
trẻ em còn làm tăng nạn sản xuất và buôn bán giấy tờ giả, ảnh hưởng không
nhỏ đến an ninh, trật tự của quốc gia.
Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng nhiều đề án,
chương trình hành động và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đấu
tranh, phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Trong chương
trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004
đến năm 2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 130/2004/QĐ-TTg ngày
14/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ) thì một trong những nội dung quan
trọng là phải xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan về phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Đặc biệt là Bộ luật hình sự
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã điều chỉnh Điều 119 từ tội danh
mua bán phụ nữ sang tội danh mua bán người để đáp ứng được yêu cầu đấu
tranh chống tội phạm mua bán người và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em chưa thực sự hiệu quả, tỷ lệ khám phá, xử lý tội phạm
còn thấp. Các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có nhiều cố gắng trong việc phát
hiện, điều tra, truy tố, xét xử, bóc gỡ được nhiều đường dây buôn bán người
mang tính tổ chức cao và hoạt động xuyên quốc gia, tuy nhiên, thực tế số tội
phạm ẩn đối với loại hành vi này còn rất lớn.
Hà Giang là tỉnh nằm ở cực Bắc của Tổ quốc, là một trong những tỉnh
miền núi thuộc diện nghèo nhất nước, có đường biên giới dài, tiếp giáp với
nhiều địa phương của Trung Quốc. Đảng bộ và chính quyền tỉnh Hà Giang đã
tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật để đấu tranh, phòng chống với các
loại tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Đồng
thời, các cơ quan an ninh đã phối hợp với các ban ngành liên quan nỗ lực
11
phòng chống và giúp đỡ các nạn nhân bị mua bán tái hòa nhập với cộng đồng.
Với những đặc thù riêng của địa phương, loại hình tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang có nhiều điểm khác biệt so với các
địa phương trong cả nước. Do vậy, tác giả cho rằng cần có một nghiên cứu
đầy đủ về thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống và thực tiễn xét xử để bổ
sung cho lý luận về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nhằm áp dụng
có hiệu quả vào thực tế tại tỉnh Hà Giang. Hơn nữa, là một kiểm sát viên trực
tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án
hình sự, trong đó có các vụ án về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em,
nên tác giả muốn có nghiên cứu tổng quan để phục vụ công tác của mình. Đây
cũng là lý do để tác giả lựa chọn đề tài "Tội mua bán người, mua bán trẻ em
trên địa bàn tỉnh Hà Giang - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề tài
luận văn thạc sĩ luật học, nhằm tìm hiểu đầy đủ những cơ sở lý luận và thực tiễn
về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, áp dụng một cách có hiệu quả vào
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nơi địa phương đang cư trú. Mặt
khác, qua việc nghiên cứu này để đánh giá kết quả tìm hiểu và nghiên cứu
khoa học của bản thân trong quá trình được các thầy cô bồi dưỡng và đào tạo.
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về
tội mua bán người, mua bán trẻ em đã thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu lý luận, hình sự và cán bộ thực tiễn. Tuy nhiên, chưa có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ pháp lý
hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em đặc biệt là gắn với một địa bàn
cụ thể như tỉnh Hà Giang.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội mua bán người và tội
mua bán trẻ em, cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về tội phạm này có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn phục vụ trực
12
tiếp cho địa bàn tỉnh Hà Giang. Về các vấn đề liên quan đến mua bán người,
mua bán trẻ em đến nay đã có một số chương trình hành động, báo cáo của
các tổ chức như: Chương trình hành động về phòng chống nạn buôn bán phụ
nữ, trẻ em ở Việt Nam (1999 - 2002) của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam trên tinh thần các Nghị
định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán người và di cư trái
phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia của Bộ Tư pháp.
Trong các giải pháp phòng, chống tội phạm mua bán người và mua
bán trẻ em thì hoàn thiện hệ thống pháp luật là một vấn đề luôn được đặt lên
hàng đầu. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình tội
phạm và thực trạng xét xử để nâng cao hiệu quả giải quyết án là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Cho đến nay,
Việt Nam đã xây dựng được một khung pháp lý tương đối đầy đủ nhằm bảo
vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm đối với nam giới, phụ nữ, trẻ
em là đối tượng của hành vi mua bán như Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật
tố tụng hình sự, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật hôn nhân và
gia đình, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh phòng chống mại
dâm... Các văn bản pháp luật này tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trong thời gian qua. Tuy
nhiên, trước xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, diễn biến tình hình tội phạm
mua bán người và mua bán trẻ em ngày càng trở lên phức tạp. Hệ thống văn
bản pháp luật hiện hành của Việt Nam trong đó có các quy định của pháp luật
hình sự đã bộc lộ một số bất cập, thiếu sót làm ảnh hưởng đến hiệu quả của
công tác phòng, chống loại tội phạm này. Trên phương diện hoàn thiện pháp
luật và tình hình thực tiễn phòng chống tội phạm đã có một số công trình đề
cập đến mua bán người, mua bán trẻ em của các tác giả Vũ Ngọc Bình, Phòng
chống buôn bán và mại dâm trẻ em; Đỗ Thị Thơm, Hoàn thiện pháp luật về
13
quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay; Nguyễn Quang Dũng, Tình hình tội phạm
mua bán phụ nữ qua biên giới nước ta và hoạt động phòng ngừa của Bộ đội
Biên phòng; Phạm Văn Hùng, Quán triệt chương trình hành động phòng,
chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 - 2010; Đặng Xuân
Khang, Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam - thực trạng
và giải pháp... đã có những đóng góp trong việc hoàn thiện pháp luật và đưa
vấn đề phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em vào khoa học hình sự
nhằm tìm ra giải pháp hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm trên.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các quy định của pháp luật hình sự
hiện hành về tội mua bán người và mua bán trẻ em; đối chiếu với các quy định
của pháp luật quốc tế liên quan đến hành vi mua bán người và mua bán trẻ em.
Luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp lý cơ bản của tội mua bán
người và tội mua bán trẻ em như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, đồng thời
đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử tội mua bán người và tội mua bán trẻ em
từ năm 2009 đến năm 2013 trên địa bàn tỉnh Hà Giang, có so sánh, đối chiếu
với số liệu trên toàn quốc. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em và
thực tiễn tội phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013, tác
giả đề tài sẽ phân tích và chỉ ra thực trạng giải quyết, những tồn tại, khó khăn
của các cơ quan pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Đồng thời, đưa
ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em nói
chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng.
14
Với đối tượng và mục đích nghiên cứu như trên, học viên đề ra phạm
vi nghiên cứu của đề tài là:
Tìm hiểu một số quy định của pháp luật quốc tế về tội mua bán người,
mua bán trẻ em.
Nghiên cứu và hệ thống hóa những quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành đối với các hành vi mua bán người và mua bán trẻ em.
Phân tình hình tội phạm và thực tiễn xét xử các vụ án mua bán người
và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong thời gian 05 năm, từ năm
2009 đến năm 2013, nêu ra những khó khăn, vướng mắc, những tồn tại và hạn
chế trong công tác giải quyết. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị trong
việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán
người và tội phạm mua bán trẻ em.
4. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trường, đường
lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung
cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em
nói riêng. Phương pháp luận cũng dựa trên cơ sở những thành tựu của các
chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử Nhà nước và pháp luật; Lý luận
chung về Nhà nước và Pháp luật; Xã hội học pháp luật; Tâm lý học; Tội phạm
học; Luật tố tụng hình sự… và những luận điểm, luận chứng khoa học trong
các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên báo,
tạp chí của một số nhà khoa học Luật hình sự Việt Nam và nước ngoài.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là kết hợp giữa lý luận và thực
tiễn, dùng lý luận để phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam đối với tội mua bán người và mua bán trẻ em. Sử dụng cơ sở lý
15
luận để làm rõ những vấn đề thực tiễn trong xét xử tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng, minh
chứng bằng những số liệu, dẫn chứng cụ thể. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử
dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn
đề tương ứng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp
và thống kê xã hội học; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh, đối chiếu;
phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu, điều tra án điển
hình... để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học - thực tiễn cần nghiên
cứu trong luận văn này.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội
mua bán người và tội mua bán trẻ em trong khoa học Luật hình sự Việt Nam.
Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về các tội này trong Luật hình sự Việt
Nam, phân tích khái quát các quy định của pháp luật quốc tế; làm sáng tỏ các
quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội
mua bán người và tội mua bán trẻ em; phân tích thông qua nghiên cứu thực
tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 và trên toàn quốc
để so sánh, qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện
hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra
nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em ở khía cạnh
lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn, đặc biệt một số giải pháp gắn liền
với việc phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn còn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo, nghiên cứu và học
tập. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa
học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật
16
hình sự Việt Nam liên quan đến tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, qua
đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội này
hiện nay và sắp tới ở địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng và cả nước nói chung.
Đề tài giúp nhận thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh
Hà Giang.
Đề tài phân tích thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về mua bán người,
mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang, đánh giá đúng thực trạng giải
quyết loại tội phạm này, tìm ra được những khó khăn, vướng mắc, nguyên
nhân của tồn tại và hạn chế trong công tác đấu tranh, phòng ngừa. Từ đó xây
dựng được hệ thống giải pháp hữu hiệu và có tính khả thi cao, phù hợp với
điều kiện, tình hình thực tế tại địa phương.
Với cá nhân người nghiên cứu, đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ
thẩm án hình sự, trong đó có tội mua bán người và tội mua bán trẻ em.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội mua bán người và tội mua bán
trẻ em.
Chương 2: Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và thực
tiễn xét xử hai tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2009 - 2013.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu
quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và tội mua bán
trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
17
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM
Buôn bán người hình thành, phát triển và tồn tại kéo dài trong suốt
lịch sử của nhân loại, từ khi hình thành hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu
nô lệ cho đến nay. Buôn bán người đã bị cả xã hội lên án và để chống lại tình
trạng này, trong những năm đầu thế kỷ XX, một số Công ước quốc tế về
chống buôn bán người đã được ký kết như Công ước bãi bỏ buôn bán nô lệ
da trắng năm 1904, Công ước ngăn chặn tệ buôn bán phụ nữ năm 1910, Công
ước về chống buôn bán nô lệ năm 1926... Sau khi được thành lập, Liên hợp
quốc đã có nhiều văn bản pháp lý đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến phòng
chống tội phạm buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em và bảo
vệ các nạn nhân của tội phạm này để thay thế các văn bản quốc tế trước đó
như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về loại
trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế,
văn hóa và xã hội năm 1966, Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em năm 1989,
Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000... và một
số Nghị định thư bổ sung cho các công ước nêu trên như: Nghị định thư
không bắt buộc năm 2000 bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em về buôn
bán trẻ em, mua dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em; Nghị định
thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là
phụ nữ, trẻ em năm 2000 bổ sung cho Công ước về chống tội phạm có tổ
chức, xuyên quốc gia... Cuộc đấu tranh chống tội phạm buôn bán người ngày
càng được nhiều nước trên thế giới hưởng ứng, tham gia và đã thu được
những kết quả nhất định.
18
1.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ TỘI PHẠM BUÔN BÁN NGƯỜI, BUÔN BÁN TRẺ EM
Khái niệm buôn bán người, buôn bán trẻ em là một trong những vấn
đề nóng bỏng và gây tranh luận trong các cuộc hội thảo trong nước và các hội
nghị quốc tế. Việt Nam cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới đã
và đang có những hoạt động nỗ lực nhằm ngăn chặn và đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm này. Tuy nhiên, vẫn có những khác biệt của pháp luật
quy định về tội mua bán người, mua bán trẻ em (theo pháp luật của Việt Nam)
và tội buôn bán người (theo quy định của pháp luật quốc tế). Để có thể đưa ra
được khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em phù hợp với quy định của
pháp luật quốc tế (vì hiện nay Việt Nam đã ra nhập và ký kết nhiều văn kiện
quốc tế quy định về buôn bán người) và phù hợp với các quy định của pháp
luật Việt Nam cũng như tình hình, hoàn cảnh thực tế của đất nước thì cần phải
nghiên cứu toàn diện và sâu rộng các quy định của pháp luật quốc tế và pháp
luật trong nước, trên cơ sở đó đưa ra khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em.
1.1.1. Khái niệm buôn bán người theo quy định của pháp luật
quốc tế
Mua bán người, mua bán trẻ em là một loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng mà loài người tiến bộ trên khắp thế giới đều lên án rất mạnh mẽ. Tội
phạm mua bán người làm rối loạn tình hình an ninh, trật tự, xâm phạm nhân
quyền. Bên cạnh đó những hậu quả của mua bán người để lại những nỗi mất
mát lớn cho các nạn nhân đặc biệt về mặt tinh thần. Tuy với những đặc điểm
chung của cùng một loại hình tội phạm nhưng quan niệm về tội mua bán
người ở các quốc gia so với quan niệm của các quy định quốc tế có sự khác
biệt đáng kể, tùy mức độ rộng hẹp của cách hiểu
Pháp luật quốc tế không quy định khái niệm mua bán người, mua bán
trẻ em mà quy định chung về khái niệm buôn bán người. Nạn buôn người là
hình thức hiện đại của nạn nô lệ, đang phá hủy gia đình và cộng đồng trên
19
khắp thế giới. Buôn bán người chính là hình thức mua bán, chiếm hữu nô lệ,
coi con người là một loại hàng hóa và tước đoạt của họ những quyền cơ bản
về tự do một cách trái pháp luật và vô đạo đức. Do có những đặc điểm riêng
về truyền thống lịch sử, văn hóa xã hội, điều kiện kinh tế mà pháp luật của
mỗi quốc gia quy định về khái niệm buôn bán người khác nhau.
Pháp luật của một số quốc gia quy định khái niệm "buôn bán người"
theo những chuẩn mực pháp lý quốc tế, thì cũng có một số quốc gia khác,
khái niệm này chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp hoặc có những điểm không tương
đồng với quy định của pháp luật quốc tế.
Khái niệm "buôn bán người" được quy định trong nhiều văn bản pháp
luật quốc tế. Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn bán
người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em (Nghị định thư Palermo). Văn kiện này được
Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2000 và có hiệu
lực ngày 25 tháng 12 năm 2003. Theo quy định của Nghị định thư này, khái
niệm buôn bán người (trong đó có phụ nữ, trẻ em) được quy định như sau:
a) Việc tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và
nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách đe dọa dùng bạo lực
hay cách thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền
lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc cho hoặc nhận tiền
hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối
với người khác vì mục đích bóc lột.
Hành vi bóc lột ở đây ít nhất là bao gồm bóc lột vì mục đích
mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao
động hay dịch vụ cưỡng bức nô lệ hay những hình thức tương tự
như nô lệ, khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể.
b) Việc một nạn nhân của nạn buôn bán người chấp nhận sự
bóc lột có chủ ý được nêu tại điểm (a) trên đây sẽ không được tính đến
nếu bất kỳ một cách thức nào nêu trong điểm (a) đã được sử dụng.
20
c) Việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc
nhận trẻ em với mục đích bóc lột sẽ bị coi là buôn bán người thậm
chí khi không có những hình thức được nêu ở điểm (a) trên đây.
d) "Trẻ em" có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi [36].
Khái niệm buôn bán người theo quy định của Nghị định thư Palermo
tập trung vào các yếu tố như:
Thứ nhất, về hành vi, buôn bán người bao gồm: hành vi tuyển mộ, vận
chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận người.
Thứ hai, về phương thức thực hiện hành vi là đe dọa hoặc sử dụng vũ
lực hoặc các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa đảo, lạm dụng quyền lực hoặc vị
thế dễ bị thương tổn, đưa hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý
của một người có quyền kiểm soát đối với người khác.
Thứ ba, về mục đích là nhằm bóc lột người bị mua bán (bóc lột vì mục
đích mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động
hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, làm khổ sai
hay lấy các bộ phận cơ thể).
Theo quy định của Nghị định thư Palermo, sự đồng ý của trẻ em là vô
hiệu và bất kỳ sự tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận
trẻ em nhằm mục đích bóc lột đều cấu thành tội buôn bán người, cho dù
không có việc sử dụng vũ lực, cưỡng ép, man trá, lừa gạt... trẻ em đó.
Đây là khái niệm có tính chính thống về buôn bán người theo tinh thần
Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ
sung Công ước về chống buôn bán người. Khái niệm này được sử dụng phổ
biến trong hoạt động chống buôn bán người trên thế giới và được nội luật hóa
trong pháp luật của nhiều quốc gia. Khái niệm này cũng đã bao hàm mọi hình
thức buôn người và không chỉ giới hạn trong buôn người nhằm mục đích bóc
lột tình dục mà còn đối với các mục đích khác. Khái niệm này đã tập trung
vào các tình trạng cưỡng bức lao động, làm khổ sai, những hành vi như bắt
21
làm nô lệ và tương tự. Khái niệm không chỉ tập trung vào đối tượng là phụ nữ
mà bao hàm mọi giới nam nữ, đều có thể là nạn nhân. Khái niệm không chỉ
nói đến nạn nhân bị buôn bán qua biên giới được quốc tế công nhận mà xét
đến cả những người bị buôn bán ngay trong lãnh thổ của một quốc gia, từ khu
vực này đến khu vực khác. Trừ trường hợp người bị buôn bán dưới 18 tuổi,
Nghị định thư đòi hỏi phải có yếu tố cản trở nguyện vọng tự do và được thông
tin đầy đủ của nạn nhân.
Ngoài Nghị định thư Palermo, một số văn kiện pháp luật quốc tế cũng
đưa ra khái niệm liên quan đến buôn bán người, trong đó có nhiều điểm tương
đồng với khái niệm của Nghị định thư chống buôn bán người, nhưng do được
tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, nên không một khái niệm nào đầy đủ,
toàn diện như khái niệm được nêu trong Nghị định thư Palermo.
Theo quy định của Nghị định thư không bắt buộc về buôn bán trẻ em,
mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, bổ sung cho Công ước
quyền trẻ em thì mua bán trẻ em là bất kỳ hành động giao dịch nào mà qua đó
trẻ em bị chuyển giao từ bất kỳ một người hay một nhóm người này sang một
người hay một nhóm người khác để lấy tiền hay bất cứ đồ vật gì khác. Khái
niệm này có điểm rộng hơn khái niệm của Nghị định thư Palermo (không quy
định mục đích bóc lột nạn nhân là yếu tố bắt buộc cấu thành tội phạm), nhưng
lại có điểm hẹp hơn khái niệm của Nghị định thư Palermo ở chỗ chỉ giới hạn
hành vi chuyển giao trẻ em vì lợi nhuận, tức là chỉ điều chỉnh hành vi mua
hoặc bán. Trong khi đó, Nghị định thư Palermo đề cập đến nhiều loại hành vi
buôn bán người như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp, nhận
người... vì mục đích bóc lột.
Theo Liên minh toàn cầu chống buôn bán phụ nữ GAATW (Global
Alliance Against Trafficking of Women) phối hợp với các tổ chức Chính phủ,
các tổ chức phi Chính phủ đã đưa ra khái niệm khái quát về buôn bán người
là: Mọi hoạt động cố ý tham gia vào việc tuyển mộ, chuyên chở trong nước
22
hoặc qua biên giới, mua, bán, chuyển, chứa chấp hoặc nhận một người bằng
thủ đoạn lừa gạt và cưỡng bức, kể cả việc dùng hoặc đe dọa dùng bạo lực, lạm
dụng quyền hành hoặc lợi dụng tình hình nợ chồng chất của người đó để đưa
hoặc buộc họ làm việc trong tình trạng nô lệ không tự nguyện (việc nhà, tình
dục hoặc sinh sản) không hoặc có được trả công, lao động cưỡng bức hoặc có
giao kèo, hoặc lao động trong các điều kiện nô lệ trong một cộng đồng mà
không phải nơi mà người đó sống khi bị lừa gạt, cưỡng bức hay nợ chồng chất
ban đầu.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm buôn bán người
như sau: Buôn bán người là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, che
giấu hoặc tiếp cận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực hoặc các hình
thức khác như ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa
vị, tình trạng dễ bị tổn thương hoặc việc đưa hoặc nhận tiền hoặc lợi nhuận để
đạt được sự đồng ý của một người mà người đó đang có quyền kiểm soát một
người khác, nhằm mục đích bóc lột. Việc bóc lột bao gồm, bóc lột làm nghề
mại dâm hoặc những hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc phục vụ
bắt buộc, tình trạng nô lệ hoặc những việc làm tương tự như tình trạng nô lệ,
khổ sai hay cắt đi những bộ phận cơ thể con người.
Tuy đã có những cách hiểu rất rõ ràng về tội buôn bán người nhưng
trên thực tế trong nhiều trường hợp loại tội danh này dễ nhầm lẫn với tội đưa
người trái phép qua biên giới, bởi những điểm tương đồng của hai loại tội danh.
Nếu không phân biệt rõ hai tội danh này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá
trình xét xử và bỏ sót tội danh nguy hiểm. Nghị định thư về phòng, chống đưa
người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung cho
Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
định nghĩa: "Đưa người di cư trái phép nghĩa là việc giao dịch, để đạt được
trực tiếp hoặc gián tiếp lợi ích về tài chính hoặc lợi ích vật chất khác từ việc
một người nhập cảnh trái phép vào một quốc gia thành viên mà người này
23
không phải là công dân của quốc gia đó hoặc thường trú tại quốc gia đó". Về
mặt hình thức, tội buôn bán người và tội đưa người trái phép qua biên giới có
những điểm tương đối trùng khớp với nhau bởi đều tồn tại yếu tố của sự di
chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác bằng cách bất hợp pháp và đều vì
mục đích lợi nhuận cho kẻ gây ra hành vi đó. Chính điều này đã dẫn đến
nhiều quy định nhầm lẫn và bỏ sót nhiều tội danh của các đối tượng buôn bán
người. Do vậy, cần phân biệt rõ giữa buôn bán người và đưa người trái phép
qua biên giới bởi bản chất hai hành vi này hoàn toàn khác nhau. Về mục đích
di chuyển, buôn bán người và đưa người trái phép qua biên giới đều vì mục
đích lợi nhuận. Tuy nhiên, đưa người trái phép qua biên giới nhận lợi nhuận
từ chính người được đưa qua biên giới và kết thúc hành vi khi đưa được người
qua biên giới đến đúng địa điểm đã thỏa thuận, trong khi hành vi buôn bán
người không dừng lại ở đó. Sau khi đưa người qua biên giới, lợi nhuận thu
được của những kẻ thực hiện việc buôn bán người là từ hành vi bóc lột, nô
dịch nạn nhân (phục vụ mại dâm, lao động bất hợp pháp…). Các nạn nhân bị
mua và bán phải chịu đựng các hình thức khống chế, kiểm soát và cưỡng bức
có hậu quả vô cùng nghiêm trọng làm tổn hại đến sức khỏe và tính mạng con
người. Về tính chất và mức độ của hành vi, đưa người trái phép qua biên giới
có sự đồng thuận giữa hai bên vì mục đích riêng của mỗi bên trong khi buôn
bán người đa phần phải thông qua hành vi lừa gạt, dụ dỗ, thậm chí dùng vũ
lực mà không được sự đồng thuận của người bị mua bán. Hành vi buôn bán
người chưa thể kết thúc khi người đã được đưa qua biên giới và trong nhiều
trường hợp hành vi mua bán không nhất thiết phải thực hiện thông qua biên
giới giữa các quốc gia mà có thể ngay trong nội địa từ địa phương này sang
địa phương khác, khu vực này sang khu vực khác. Với tính chất đặc biệt
nghiêm trọng của tội phạm buôn bán người, pháp luật quốc tế đã quy định rất
cụ thể từng hành vi như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và
nhận người, có sự phân biệt rõ ràng giữa buôn bán người và đưa người trái
24
phép qua biên giới, từ đó nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống
tệ nạn buôn bán người (trong đó có buôn bán trẻ em).
1.1.2. Khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em theo quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam
Pháp luật hình sự Việt Nam không quy định về tội buôn bán người mà
quy định cụ thể về tội mua bán người và mua bán trẻ em. Mua bán người là
hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để trao đổi người (từ
đủ 16 tuổi trở lên) như một loại hàng hóa. Các hành vi đó là: bán người cho
người khác, không phụ thuộc vào mục đích của người mua; mua người để bán
lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua
sau này như thế nào; dùng người như là tài sản để trao đổi, thanh toán; mua
người để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật
khác; người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một
trong các hành vi nêu trên, đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán
người. Mua bán trẻ em là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác
để trao đổi trẻ em (người dưới 16 tuổi) như một loại hàng hóa. Các hành vi
mua bán trẻ em cụ thể là: bán trẻ em cho người khác, không phụ thuộc vào
mục đích của người mua; mua trẻ em để bán lại cho người khác, không phân
biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào; dùng trẻ
em làm phương tiện để trao đổi, thanh toán; mua trẻ em để bóc lột, cưỡng bức
lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác; người tổ chức, người xúi giục,
người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi nêu trên bị truy cứu
trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm.
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
mua bán người, mua bán trẻ em, có thể thấy rằng khái niệm mua bán người,
mua bán trẻ em ở Việt Nam đã có một số điểm tương đồng với quy định của
pháp luật quốc tế, đó là: đã quy định là tội phạm hình sự đối với hành vi mua
bán người có tính chất tổ chức, nhiều lần như quy định của Công ước quốc tế;
25
quy định các mục đích mua bán người, mua bán trẻ em để lấy bộ phận cơ thể
của nạn nhân, để đưa ra nước ngoài, để sử dụng vào mục đích mại dâm hoặc
mục đích vô nhân đạo là các tình tiết định khung hình phạt; hoặc tuy không
quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự nhưng các văn bản hướng dẫn áp dụng
đã hướng dẫn về các thủ đoạn phạm tội mua bán người là môi giới hôn nhân
với người nước ngoài trái phép, đưa người đi lao động nước ngoài trái
phép, môi giới nuôi con nuôi trái pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt
Nam vẫn còn có nhiều điểm khác biệt, chưa tương thích với khái niệm buôn
bán người của pháp luật quốc tế. Sự khác biệt này được thể hiện như sau:
Thứ nhất, về hành vi: khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em của
Việt Nam chỉ bao gồm hai loại hành vi là mua và bán, tức là việc chuyển giao
người, trẻ em từ người này (hoặc nhóm người này) sang người khác (hoặc
nhóm người khác) để đổi lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Như vậy,
theo cách hiểu hiện nay về mua bán người, mua bán trẻ em thì không bao gồm
các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp và nhận người là những hành vi
khác bên cạnh hành vi mua bán xảy ra trong toàn bộ quá trình buôn bán người
được bao hàm trong khái niệm của Nghị định thư Palermo.
Tuy các hành vi này không bị coi là mua bán nhưng hành vi tuyển mộ,
vận chuyển, chứa chấp và nhận người, tùy từng trường hợp cụ thể sẽ bị trừng
trị theo các quy định của các điều luật tương ứng hoặc bị coi là hành vi đồng
phạm hoặc phạm tội chưa đạt với tội mua bán người, mua bán trẻ em.
Thứ hai, về phương thức thực hiện: pháp luật hình sự Việt Nam không
quy định cấu thành của tội phạm là phương thức mà tội phạm sử dụng để thực
hiện hành vi phạm tội. Trong khi đó, Nghị định thư Palermo quy định các
hành vi nói trên phải được thực hiện theo các phương thức như đe dọa dùng
vũ lực hay các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền
lực hoặc vị thế dễ bị thương tổn hay bằng việc cho hoặc nhận tiền hay lợi
nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối với những người
26
khác. Trong trường hợp đối tượng bị xâm hại là trẻ em thì không cần tính đến
việc bọn tội phạm có sử dụng hay không sử dụng các phương thức này. Điều
đó có nghĩa là, trong trường hợp trẻ em hoàn toàn đồng tình với hành vi mua
bán người của bọn tội phạm thì vẫn bị coi là mua bán trẻ em nếu có hành vi
tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao... trẻ em nhằm mục đích bóc lột.
Thứ ba, về mục đích (yếu tố để bóc lột): một trong những dấu hiệu
quan trọng để phân biệt tội buôn bán người với các tội phạm khác chính là
yếu tố "bóc lột" nạn nhân. Theo Nghị định thư Palermo thì mục đích "để bóc
lột" là một trong những yếu tố bắt buộc cấu thành tội buôn bán người. Đây
cũng chính là một trong những dấu hiệu chính để phân biệt tội "buôn bán
người" với tội "đưa người trái phép qua biên giới" và phân biệt với các loại tội
phạm khác. Chẳng hạn cùng là một hành vi đưa người sang bên kia biên giới
để thu lợi nhuận nhưng sẽ cấu thành tội buôn bán người khi có dấu hiệu
chứng minh là nhằm mục đích bóc lột nạn nhân và sẽ chỉ là tội đưa người trái
phép qua biên giới nếu không chứng minh được mục đích này.
Trong khi đó pháp luật hình sự Việt Nam không quy định mục đích
"để bóc lột" là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm này, mà chỉ cần có sự
chuyển giao người, trẻ em để đổi lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là
đã cấu thành tội mua bán người, mua bán trẻ em. Điều này có thể dẫn đến sự
khác biệt nhất định khi xác định tội danh mua bán người, mua bán trẻ em theo
pháp luật Việt Nam và buôn bán người, buôn bán trẻ em theo pháp luật quốc
tế trong một số trường hợp cụ thể. Hoặc trong nhiều trường hợp, người bán
không cần biết người mua sử dụng nạn nhân vào mục đích gì, mà chỉ cần lấy
một khoản tiền nhất định. Nếu người bán nạn nhân với mục đích để bóc lột
(như làm mại dâm, lấy bộ phận cơ thể...) thì họ sẽ bị áp dụng các tình tiết định
khung tăng nặng (vì mục đích mại dâm, để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân...)
đối với hành vi phạm tội của họ. Như vậy theo quy định của pháp luật hình sự
27
Việt Nam, chỉ cần có hành vi mua hoặc bán người, trẻ em để lấy tiền, tài sản
hoặc lợi ích vật chất khác là cấu thành tội phạm mà không cần có yếu tố "bằng
thủ đoạn và mục đích bóc lột" như quy định của Nghị định thư Palermo. Động
cơ, mục đích của người phạm tội không có ý nghĩa quyết định đối với việc
định tội danh mà chỉ bị coi là tình tiết định khung tăng nặng.
Thứ tư, về độ tuổi của trẻ em: khái niệm "trẻ em" của pháp luật Việt
Nam cũng chưa tương thích với Nghị định thư Palermo và một số văn kiện
pháp lý quốc tế khác. Pháp luật Việt Nam quy định trẻ em là người dưới 16
tuổi, trong khi đó quy định của Nghị định thư Palermo thì trẻ em là người
dưới 18 tuổi. Như vậy, trường hợp người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi bị mua bán thì pháp luật Việt Nam chưa có chế tài phù hợp để xử
lý, còn đối với nạn nhân là người nước ngoài thì dễ dẫn tới sự xung đột giữa
pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế, điều này sẽ làm giảm đi hiệu quả
của quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống buôn bán người giữa
Việt Nam với một số quốc gia.
Thứ năm, về chủ thể của tội phạm: theo quy định của pháp luật quốc
tế, thì tất cả những người tham gia một trong những công đoạn có liên quan
trong quá trình buôn bán người, buôn bán trẻ em đều được coi là tội phạm
buôn bán người, trẻ em như tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp..., trong khi đó,
theo pháp luật hình sự Việt Nam thì những người này không phải là chủ thể
của tội phạm mua bán người, trẻ em mà có thể là chủ thể của một số tội phạm
có liên quan khác.
Như vậy, cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế,
hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em cho phù hợp với điều kiện đất nước và tương thích với
các quy định của pháp luật quốc tế là việc làm cần thiết và lâu dài, góp phần
vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
28
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN
TRẺ EM
1.2.1. Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành
Bộ luật hình sự năm 1999
Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, mỗi lần một triều đại mới lên
nắm chính quyền là một lần các quy định pháp luật được ban hành nhằm đảm
bảo sự tồn tại cho triều đại đó, đồng thời còn giải quyết các vấn đề về xã hội.
Trong tất cả các văn bản pháp luật được ban hành trong xã hội phong kiến thì
Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều Hình luật) được đánh giá là tiến bộ và hoàn
thiện hơn cả. Quốc triều Hình luật tập hợp các ưu điểm của các văn bản pháp
lý trước đó, xác định các vấn đề mà Nhà nước mà xã hội cùng quan tâm, từ đó
đúc kết và đưa ra những quy định mới, tiến bộ phù hợp với xã hội phong kiến.
Quốc triều hình luật cũng đã quy định về hành vi mua bán người với các chế
tài hình phạt nghiêm khắc từ Giảo (thắt cổ) đến Chém bêu đầu (chỉ thấp hơn
tội Lăng trì), đối với các hành vi như bán người ít tuổi từ hàng cơ thân trở
xuống hoặc có thêm hành vi cướp của hoặc đồ vật... Tuy những quy định về
tội mua bán người còn nhiều thiếu sót và chưa cụ thể, nhưng nếu so với thời
điểm Bộ luật Hồng Đức được ban hành thì vẫn có thể xem quy định về tội
mua bán người là một trong những tiến bộ rất lớn trong pháp luật phong kiến
Việt Nam.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải
phóng và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ tình hình đó nên
diễn biến tội phạm xảy ra phức tạp, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện như là
một kết quả tất yếu, một trong số đó là tội bắt cắp trẻ em bán cho đồng bào
miền núi. Theo báo cáo tổng kết công tác và các chuyên đề xét xử năm 1964
của Tòa án nhân dân tối cao đã xác định đây là một loại tội phạm nghiêm
trọng nên xử phạt thật nặng, khung hình phạt áp dụng cho kẻ có hành vi bắt
29
cắp là từ 3 năm đến 15 năm, người mua trẻ con mà biết rõ đứa bé đó bị đánh
cắp thì bị phạt tù tới 5 năm, đồng thời cũng xác định thêm các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự hơn đối với loại tội phạm bắt cắp trẻ con này.
Năm 1975, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước cùng tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do nước nhà vừa mới thống nhất nên tình hình
tội phạm diễn biến rất phức tạp, nhiều loại tội phạm mới phát sinh nhưng
chưa được pháp luật điều chỉnh. Trước yêu cầu bảo vệ Tổ quốc và đấu tranh
phòng, chống tội phạm, ngày 27 tháng 6 năm 1985, Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 9 khóa VII đã thông qua Bộ luật
hình sự đầu tiên của Việt Nam. Bộ luật hình sự năm 1985 được xem là một
bảo đảm cho đấu tranh chống tội phạm được tiến hành trên cơ sở tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư pháp hình sự nhằm bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, trật tự xã hội và các quyền lợi hợp pháp của công dân. Tuy nhiên,
Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định về tội mua bán người mà quy định
cụ thể về tội mua bán phụ nữ và mua bán trẻ em, lần đầu tiên tội mua bán phụ
nữ và mua bán trẻ em được đưa vào trong luật, và được xếp vào nhóm những
tội phạm nghiêm trọng cần phải đấu tranh và phòng chống. Mức phạt tối đa
của hai tội này là 20 năm tù giam, khá nghiêm khắc để trừng phạt và răn đe
những kẻ đã, đang và sẽ có ý định thực hiện tội phạm này.
Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội mua bán
phụ nữ:
1. Người nào mua bán phụ nữ thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị
phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm:
a) Có tổ chức;
b) Để đưa ra nước ngoài;
c) Mua bán nhiều người;
d) Tái phạm nguy hiểm [40].
30
Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội bắt
trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em:
1. Người nào bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em thì bị
phạt tù từ một năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị
phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm:
a) Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp;
b) Để đưa ra nước ngoài;
c) Bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo nhiều trẻ em hoặc gây
hậu quả nghiêm trọng khác;
d) Tái phạm nguy hiểm [40].
Tội mua bán phụ nữ và tội mua bán trẻ em được quy định tại Điều 115
và Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng cả hai điều luật đều không đưa ra
định nghĩa cụ thể về các hành vi này. Theo Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 19
tháng 11 năm 1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1985
thì mua bán trẻ em được hiểu là: "Việc mua hoặc bán trẻ em vì mục đích tư
lợi, dù là mua của kẻ đã bắt trộm hay mua của chính người có con đem bán.
Hành vi mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ bị bắt trộm cũng bị xử lý về tội mua
bán trẻ em" [53]. Ngoài ra, trước yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
mua bán phụ nữ, trẻ em, tại Điều 4 Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập
cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về, ban hành
kèm theo Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29
tháng 01 năm 2007 đã gián tiếp đưa ra định nghĩa về mua bán phụ nữ, trẻ em
gọi là nạn nhân. Theo đó nạn nhân được hiểu là:
Phụ nữ, trẻ em bị một người hay một nhóm người sử dụng
vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hay những hình thức ép buộc khác,
bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị, tình trạng dễ bị
31
tổn thương để mua bán (giao, nhận tiền hoặc giao, nhận một lợi
ích vật chất khác) đưa ra nước ngoài nhằm mục đích bóc lột
(cưỡng bức bán dâm hoặc các hình thức bóc lột tình dục khác, lao
động hoặc dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hoặc làm việc như tình trạng nô
lệ hoặc lấy đi các bộ phận trên cơ thể) [19].
Bộ luật hình sự năm 1985 trải qua hai lần sửa đổi, bổ sung vào các
năm 1989 và năm 1997, đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm, trong đó có tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em. Tuy nhiên, vẫn có một số
bất hợp lý như việc sắp xếp hai điều luật này trong Bộ luật hình sự năm 1985.
Cả hai tội đều có hành vi khách quan và có cùng khách thể là danh dự và nhân
phẩm con người bị xâm hại, nhưng lại được quy định ở hai chương riêng biệt.
Tội mua bán phụ nữ được quy định tại Điều 115 thuộc Chương II - Các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; còn tội
bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em lại được quy định tại Điều 149 nằm
trong Chương V - Các tội xâm phạm tới chế độ hôn nhân gia đình và các tội
xâm phạm tới người chưa thành niên. Ngoài ra mức phạt tối thiểu của tội mua
bán trẻ em còn quá nhẹ, chỉ có 1 năm trong khi loại tội phạm này gây ra
những ảnh hưởng mạnh mẽ tới tâm sinh lý của trẻ, tới sự phát triển bình
thường về mặt thể chất của trẻ em. Một bất cập nữa là trong quá trình phát
triển của xã hội, tội phạm không chỉ dừng lại ở hành vi mua bán phụ nữ, mua
bán trẻ em mà còn có cả hành vi mua bán nam giới, với nhiều mục đích khác
nhau, cho nên các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự còn thiếu nhiều ở cả
hai điều luật. Điều này thể hiện các nhà làm luật lúc bấy giờ, chưa đánh giá
đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này, cũng như chưa
lường trước được những thủ đoạn xảo quyệt mà bọn tội phạm mua bán
người có thể thực hiện. Phải đến năm 1999 cũng với sự ra đời của Bộ luật
hình sự thứ hai của Việt Nam (đã được sửa đổi bổ sung năm 2009) thì những
thiếu sót, bất cập của Bộ luật hình sự năm 1985 mới được điều chỉnh lại.
32
1.2.2. Hệ thống pháp luật phi hình sự có liên quan đến phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
Nhận thức được mức độ nguy hiểm của tội mua bán người, mua bán
trẻ em và tầm quan trọng của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mua
bán người, mua bán trẻ em, trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã hình thành
và dần hoàn thiện những quy định liên quan đến tội danh này. Trước hết là
những quy định nhằm phòng ngừa một cách có hiệu quả loại tội phạm này,
sau đó là hệ thống các chế tài để xử lý hành vi mua bán người, mua bán trẻ
em. Trải qua quá trình xây dựng và hoàn thiện, đến nay Việt Nam đã cơ bản
có một hệ thống pháp luật đầy đủ liên quan đến công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em.
Về phòng ngừa tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, trong thực
tế hành vi mua bán người, mua bán trẻ em có rất nhiều hình thức khác nhau
nhằm lừa gạt, dụ dỗ và cưỡng ép các nạn nhân. Để phòng ngừa các hành vi
đó, pháp luật Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống các quy định ngăn
chặn những nguy cơ có thể dẫn đến mua bán người, mua bán trẻ em như:
Thứ nhất, quy định khi kết hôn có yếu tố nước ngoài, pháp luật Việt
Nam đã tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật quốc tế. Đồng thời,
trong xu thế hội nhập toàn cầu, Việt nam cũng tạo điều kiện và cho phép công
dân Việt Nam được kết hôn với người nước ngoài trên cơ sở tôn trọng pháp
luật và thuần phong mỹ tục của Việt Nam, kịp thời ngăn chặn và trừng trị
những cá nhân, tổ chức lợi dụng việc kết hôn với người nước ngoài để thực
hiện hành vi mua bán người nhằm kiếm lời bất chính. Với mục tiêu xây dựng
gia đình bền vững, ổn định, giải quyết tốt các mối quan hệ trong hôn nhân có
yếu tố nước ngoài, ngay từ năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
đã ban hành Nghị định số 12/HĐBT ngày 01 tháng 02 năm 1989 quy định về thủ
tục kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và sau khi Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000, Chính phủ đã có Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
33
ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Theo đó, người nước ngoài muốn kết hôn với người Việt Nam phải có đầy đủ
các điều kiện như: "Mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều
kiện kết hôn; người nước ngoài còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và
Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và
các trường hợp cấm kết hôn, nếu việc kết hôn được tiến hành trước cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam" [43, Điều 10]. Điều 21 cũng quy định:
"Hoạt động hỗ trợ kết hôn phải tuân thủ nguyên tắc nhân đạo, phi lợi nhuận.
Nghiêm cấm hoạt động kinh doanh dịch vụ môi giới kết hôn hoặc lợi dụng
việc hỗ trợ kết hôn nhằm mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ
hoặc vì các mục đích trục lợi khác" [43]. Để hoàn thiện các văn bản pháp luật,
góp phần tích cực vào việc quản lý Nhà nước, định hướng cho quan hệ hôn
nhân và gia đình đi theo chiều hướng lành mạnh phù hợp với thuần phong mỹ
tục tốt đẹp của dân tộc, ngày 21 tháng 7 năm 2006, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
68/2002/NĐ-CP, trong đó quy định cụ thể và chi tiết về trình tự, thủ tục kết
hôn có yếu tố nước ngoài. Việc đăng ký kết hôn sẽ bị từ chối, nếu qua kết quả
phỏng vấn, thẩm tra, xác minh cho thấy việc kết hôn thông qua môi giới bất
hợp pháp; kết hôn giả tạo không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; kết hôn không phù hợp với thuần
phong mỹ tục của dân tộc; lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ, xâm
phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác.
Thứ hai, về quy định nuôi con nuôi, đặc biệt là nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài, pháp luật Việt Nam đã quy định rất rõ ràng trong Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2001) và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, nuôi con nuôi là việc xác lập quan
hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con
34
nuôi, nhằm mục đích đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Nhà nước
và xã hội khuyến khích việc nhận trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ tàn tật làm con
nuôi và nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm
phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác. Các quy định pháp
luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã xuất hiện từ giữa những năm 80
của thế kỷ XX, bắt đầu với những quy định có tính nguyên tắc tại Chương IX
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Các quy định về việc cho và nhận
con nuôi đảm bảo việc cho và nhận trẻ em làm con nuôi được thực hiện trên
tinh thần nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, tôn trọng các quyền cơ bản của
trẻ em, phòng chống việc lợi dụng nuôi con nuôi để buôn bán, bóc lột trẻ em.
Đối với vấn đề nuôi con nuôi quốc tế, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10
tháng 7 năm 2002, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006
(sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP) và Thông tư
08/2006/TT-BTP ngày 08 tháng 12 năm 2006 của Bộ Tư pháp là những cơ sở
pháp lý quan trọng nhất để giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi
người nước ngoài.
Thứ ba, về các quy định trong việc đưa người Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài. Việt Nam là một trong những nước có dân số trẻ so với nhiều
nước trên thế giới, với nguồn lao động dồi dào, người lao động Việt Nam có
truyền thống cần cù, chịu khó, thông minh và sáng tạo. Tuy nhiên, do đặc thù
của một nước nông nghiệp, lao động Việt Nam hiện nay vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu về kỹ thuật so với lao động của các quốc gia khác, hình thức lao
động chủ yếu là thủ công bằng chân tay nên hiệu quả lao động và thu nhập rất
thấp. Đưa người lao động ra nước ngoài nhằm tạo thêm thu nhập, rèn luyện
tác phong lao động, tiếp thu kỹ thuật tiên tiến là một chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước. Nước ta đã hợp tác đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài từ
năm 1980. Trong thời kỳ từ 1980 - 1990, hợp tác lao động của nước ta chủ
35
yếu thông qua các hiệp định Chính phủ với các nước thuộc Liên Xô (cũ), các
nước Đông Âu và một số nước ở Trung Đông. Trong giai đoạn này, hợp tác
lao động được thực hiện theo kế hoạch của Nhà nước, do các cơ quan nhà
nước tổ chức thực hiện. Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế thị trường, Nhà nước chủ yếu làm chức
năng quản lý, mở thị trường, các doanh nghiệp ký kết hợp đồng và trực tiếp
đưa, quản lý người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, việc đưa
lao động ra nước ngoài cũng là một cơ hội cho các đối tượng tội phạm mua
bán người lợi dụng để đưa người sang quốc gia khác bóc lột sức lao động
dưới hình thức xuất khẩu lao động. Thực hiện Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 22
tháng 9 năm 1998 của Bộ Chính trị về xuất khẩu lao động và chuyên gia và
chỉ đạo của Chính phủ, từ năm 1999 đến nay, cùng với công tác tìm kiếm thị
trường lao động, công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được đẩy
mạnh. Hệ thống văn bản pháp lý đã được pháp điển hóa (thành luật) và tính
đến thời điểm hiện nay, việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
chịu sự điều chỉnh của các văn bản chủ yếu sau: Luật người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng của Quốc hội khóa XI, kỳ họp
thứ 10 số 72/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006; Quyết định số
18/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 18 tháng 7 năm 2007 của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội ban hành chương trình bồi dưỡng kiến thức cần thiết
cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài; Quyết định số
19/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 18 tháng 7 năm 2007 của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội ban hành "Quy định về tổ chức bộ máy hoạt động đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài và bộ máy chuyên trách để bồi
dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước
ngoài"; Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người lao
36
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Nghị định số
144/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 2007 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về
người lao động đi làm việc ở nước ngoài đã tương đối hoàn chỉnh, tạo được
cơ chế pháp lý rõ ràng để phòng chống việc mua bán người.
Thứ tư, về các quy định trong quản lý các hoạt động kinh doanh, dịch
vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm. Đây là một vấn đề có tính cấp thiết
bởi việc kinh doanh các dịch vụ có thể dẫn đến mua bán phụ nữ và trẻ em
trong nội địa. Mại dâm và mua bán người là hai yếu tố cung và cầu nhằm bóc
lột tình dục, đặc biệt với phụ nữ và trẻ em chưa thành niên nhằm trục lợi. Bên
cạnh đó, việc kinh doanh dịch vụ còn làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác
làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Đã có nhiều văn bản pháp luật quy
định về công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn mại dâm, mua bán phụ nữ,
mua bán trẻ em gắn với hoạt động quản lý các cơ sở kinh doanh dịch vụ như:
Nghị định của Chính phủ số 39/2000/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2000 về cơ
sở lưu trú du lịch; Nghị định số 08/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2001
của Chính Phủ quy định về điều kiện an ninh, trật tự đối với một số ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện; Thông tư số 02/2001/TT-BCA ngày 04 tháng 5
năm 2001 của Bộ Công an hướng dẫn thi hành Nghị định số 08/2001/NĐ-CP;
Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BLĐTBXH-BYT ngày 09 tháng 12 năm
2004 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Bộ Y tế về hướng dẫn, quy
định danh mục chỗ làm việc, công việc không được sử dụng lao động dưới 18
tuổi trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm;
Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội 10/2003/PL-UBTVQH ngày 17 tháng
3 năm 2003 phòng, chống mại dâm; Nghị định của Chính phủ số 178/2004/NĐ-CP
ngày 15 tháng 10 năm 2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh
phòng, chống mại dâm; Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2006
37
của Chính phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh
dịch vụ văn hóa công cộng; Quyết định số 52/2006/QĐ-TTg ngày 08 tháng 3 năm
2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phối hợp liên
ngành phòng, chống tệ nạn mại dâm giai đoạn 2006 - 2010. Với hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về quản lý các hoạt động dịch vụ dễ
bị lợi dụng để hoạt động mại dâm đã từng bước được hoàn thiện, tạo hành
lang pháp lý thuận lợi trong công tác phòng chống tệ nạn mại dâm, ngăn ngừa
tình trạng mua bán phụ nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm.
Thứ năm, về đấu tranh chống mua bán người, mua bán trẻ em và các
hành vi vi phạm khác có liên quan, bên cạnh các chế tài về hình sự quy định
trong Bộ luật hình sự ở các tội danh mua bán người (Điều 119), mua bán trẻ
em (Điều 120) và các điều luật liên quan như tội chứa mại dâm (Điều 254), tội
môi giới mại dâm (Điều 255), tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256),
tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức
(Điều 266), tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 267), tội
chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội (Điều 268), tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở
lại nước ngoài trái phép (Điều 275), tội nhận hối lộ (Điều 279), tội giả mạo trong
công tác (Điều 284), tội đưa hối lộ (Điều 289), tội rửa tiền (Điều 251)..., có
rất nhiều chế tài nghiêm khắc về hành chính cũng như dân sự để xử lý tội
phạm này.
Về chế tài hành chính, quy định việc xử phạt hành chính đối với các
hành vi có liên quan đến mua bán người, mua bán trẻ em như mại dâm, lao
động, cưỡng bức, xuất cảnh, nhập cảnh trái phép, tổ chức, cưỡng ép người
khác trốn đi nước ngoài... mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
trong Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; Nghị
định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ quy
38
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm; Nghị
định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã
hội... Các chế tài hành chính đối với hành vi mua bán người, mua bán trẻ em
còn được thể hiện ở việc xử lý nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm trong
những trường hợp xâm hại đến phụ nữ có thai hoặc trẻ em.
Về chế tài dân sự, hệ thống pháp luật của nước ta không có quy định
riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi mua bán
người, mua bán trẻ em, song nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại được quy định tại Chương V của Bộ luật dân sự và tại Điều 42 Bộ
luật hình sự. Bất cứ người nào có hành vi mua bán người, mua bán trẻ em
hoặc có các hành vi vi phạm khác có liên quan mà gây thiệt hại cho nạn
nhân, thì ngoài việc bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần
cho người bị hại. Chính sách bồi thường thiệt hại cho những nạn nhân nói
chung, trong đó bao gồm cả những nạn nhân bị mua bán được quy định tại
Điều 604 Bộ luật dân sự và theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự
thì việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bị mua bán sẽ được
thực hiện đồng thời khi xét xử hình sự đối với kẻ phạm tội mua bán người,
mua bán trẻ em.
Về các quy định trong tiếp nhận, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho
nạn nhân bị mua bán như: Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg ngày 29 ngày 01
năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ
tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về
và Thông tư liên tịch số 116/2007/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 27 tháng 9
năm 2007 của Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng
dẫn nội dung chi, mức chi cho công tác xác minh, tiếp nhận và hỗ trợ phụ
nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về tái hòa nhập cộng đồng theo
39
Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg ngày 29 ngày 01 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ, đã quy định cụ thể về trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan
trong việc tiếp nhận cũng như các chính sách hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập
cộng đồng.
Về các quy định trong việc nêu cao vai trò của gia đình, cộng đồng, tổ
chức chính trị - xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em. Pháp luật hiện nay đã có các quy định liên quan đến trách
nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc nuôi dạy, giáo dục con cái, giữ gìn
an ninh trật tự, cảm hóa và giáo dục các đối tượng có quá khứ phạm tội mua
bán người, mua bán trẻ em; quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ các đối tượng có nguy
cơ, góp phần phòng ngừa các nguy cơ bị buôn bán, xử lý và tái hòa nhập cộng
đồng cho nạn nhân.
1.3. KINH NGHIỆM VÀ SỰ HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG ĐẤU TRANH
PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM
Buôn bán người, buôn bán trẻ em là tội phạm vi phạm nhân quyền,
chống lại xã hội, xảy ra không chỉ trong phạm vi quốc gia, khu vực mà còn
trên toàn cầu. Mức độ và tính chất của tội phạm này ngày càng trở lên nguy
hiểm và phức tạp hơn. Việt Nam cũng không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng
của loại tội phạm này.
Tuy nhiên, với những đặc thù riêng của Việt Nam trong bối cảnh áp
lực phát triển kinh tế - xã hội, sự mất cân đối trong phát triển, vấn đề di cư,
việc làm và hội nhập quốc tế, đường biên giới dài, hiểm trở... làm cho nạn
buôn bán người trở lên khó kiểm soát. Những hoạt động buôn người được biết
đến chủ yếu là với phụ nữ trẻ và trẻ em gái được đưa sang Campuchia,
Malaisia làm nghề mại dâm, hoặc sang Trung Quốc để làm vợ rồi bị ngược
đãi trong hôn nhân, bị bắt buộc hành nghề mại dâm hoặc bị bóc lột lao động.
Những lĩnh vực có nhiều khả năng liên quan và cần được quan tâm hơn nữa
nhằm phòng, chống nạn buôn bán người là hoạt động hôn nhân sắp đặt giữa
40
phụ nữ Việt Nam và nam giới Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan; lĩnh vực xuất
khẩu lao động đi Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Nhật Bản, Malaisia, ít nhiều
ở Trung Đông và hoạt động đưa người từ Việt Nam sang một số nước Đông
Âu và Tây Âu. Với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ có chung đường biên
giới, tệ nạn mua bán người, mua bán trẻ em cũng là một loại tội phạm nổi cộm
nhiều năm qua.
Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em, Việt Nam đã ký kết và gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về phòng ngừa, trấn
áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung
cho Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia,
và tham gia ký kết nhiều hiệp ước quốc tế với các nước láng giềng như Trung
Quốc, Thái Lan, Campuchia, Lào... và nhất là tham gia chống tội phạm xuyên
quốc gia trong khối ASEAN.
Các quốc gia trong khối ASEAN, trong đó có Việt Nam là thành viên
đã ra Tuyên bố về chống tội phạm xuyên quốc gia vào năm 1997 và Tuyên bố
về chống tội phạm buôn người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2004. Bản
tuyên bố đã ghi nhận những nỗ lực vượt bậc trong công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm buôn bán người trong đó có phụ nữ và trẻ em bằng việc một
lần nữa đề ra được những hành động cụ thể để trấn áp loại tội phạm này, đó
là: thiết lập một mạng lưới tập trung cấp khu vực để ngăn ngừa và đấu tranh
chống tội phạm buôn người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; thực hiện các biện
pháp để ngăn ngừa gian lận trong việc sử dụng hộ chiếu, các giấy tờ, tài liệu
đi lại chính thức, tài liệu nhận dạng và các tài liệu khác; tiến hành trao đổi
quan điểm và thông tin thường xuyên về các xu hướng, luồng, mô hình di trú
liên quan; củng cố kiểm soát biên giới và các cơ chế giám sát; ban hành và
thực hiện các quy định pháp luật cần thiết và khả thi; tăng cường hợp tác giữa
các cơ quan di trú và các cơ quan bảo vệ pháp luật; phân biệt rõ giữa các nạn
41
nhân và thủ phạm buôn người; đảm bảo rằng các nạn nhân được đối xử nhân
đạo và được cung cấp hỗ trợ y tế cần thiết và các hỗ trợ khác bao gồm cả việc
bố trí hồi hương; thực hiện các hoạt động tôn trọng và bảo đảm về các quyền
con người và nhân phẩm của nạn nhân của nạn buôn người; áp dụng các biện
pháp cưỡng chế đối với những đối tượng tham gia buôn người và cung cấp
các trợ giúp rộng rãi nhất có thể để trừng phạt các hành vi này; thực hiện các
giải pháp củng cố hợp tác khu vực và quốc tế nhằm ngăn chặn và đấu tranh
chống buôn người [1].
Không chỉ cam kết và thông qua các tuyên bố chung, trong đấu tranh
phòng chống buôn bán người, buôn bán trẻ em, ASEAN đã có rất nhiều sáng
kiến hay và hiệu quả nhằm thúc đẩy hợp tác, đảm bảo an ninh quốc gia và khu
vực: lãnh đạo Cơ quan cảnh sát của các nước thành viên thường xuyên có
những phiên họp định kỳ (gọi tắt là ASEANPOL) nhằm trao đổi thông tin
thường xuyên về tình hình tội phạm; ASEAN đã tiến hành các nghiên cứu cấp
quốc gia về tội phạm buôn người dưới góc độ tư pháp hình sự, trên cơ sở đó
từng quốc gia đã cụ thể hóa thành các chính sách quốc gia về chống buôn bán
người; một số quốc gia còn có kế hoạch hành động quốc gia về chống buôn
bán người, thành lập cơ quan chuyên trách về phòng chống buôn bán người;
với các nước láng giềng, ASEAN có các thỏa thuận ghi nhớ (MOUS) để
chính thức hợp tác với các nước xung quanh trong lĩnh vực chống buôn bán
người; Hiệp định của các nước ASEAN về tương trợ tư pháp các vấn đề hình
sự năm 2004 cho phép trao đổi chứng cứ của các nghi phạm nhằm nhanh
chóng truy tố tội phạm mua bán người; việc dẫn độ tội phạm cũng được nhiều
nước ASEAN ký thỏa thuận và cam kết thực thi. Đặc biệt, sáng kiến phối hợp
cấp Bộ trưởng của các nước trong tiểu vùng sông Mêkông chống buôn người
(gọi tắt là COMMIT) đã thể hiện một bước tiến trong hợp tác giữa các quốc
gia tiểu vùng sông Mêkông và nâng cao hiệu quả đối phó với nạn buôn bán
người, buôn bán trẻ em.
42
Ngoài ra, sự hợp tác của Cơ quan an ninh với các quốc gia khác trên
thế giới để phòng chống tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người, mua
bán trẻ em ngày càng được hoàn thiện và có sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ.
Hiện nay dòng chảy của nạn mua bán người, mua bán trẻ em ở Việt Nam theo
ba hướng là biên giới Tây nam qua Campuchia, khu vực miền Trung qua Lào
và con đường chủ yếu nhất là qua Trung Quốc (60% tổng số vụ mua bán
người là qua Trung Quốc), do địa hình nước ta có đường biên giới dài tiếp
giáp với Trung Quốc. Tuy vậy, trong Bộ luật hình sự Trung Hoa năm 1997 lại
không có một điều luật riêng biệt nào dành cho tội phạm buôn bán người,
hành vi mua bán người chỉ được đề cập như là tình tiết tăng nặng của một số
tội danh. Đây là một điểm bất cập lớn của pháp luật Trung Hoa trong việc
phòng ngừa và trấn áp loại tội phạm mua bán người này và cũng là một khó
khăn cho việc hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc trong việc đấu tranh
phòng chống tội phạm mua bán người qua biên giới Việt - Trung.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Như vậy, trên phương diện luật pháp quốc tế, sự ra đời của Nghị định
thư Palermo về đấu tranh chống tội phạm buôn bán người đặc biệt là phụ nữ
và trẻ em được Liên hợp quốc thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2000 và có
hiệu lực từ ngày 25 tháng 12 năm 2003 là một bước phát triển về mặt lý luận,
cung cấp khái niệm mang tính chuẩn mực làm cơ sở cho các quốc gia đưa ra
quy định pháp luật riêng phù hợp với điều kiện của nước mình. Theo đó,
khách thể của tội phạm buôn bán người, buôn bán trẻ em là Con người (cả
nam và nữ) bị coi là hàng hóa để mua bán, trao đổi kiếm lời. Tội phạm buôn
bán người, buôn bán trẻ em xâm phạm quyền bất khả xâm phạm thân thể,
nhân phẩm, danh dự, quyền tự do của con người. Mặt khách quan của tội
phạm thể hiện ở hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để trao đổi, buôn
bán người, buôn bán trẻ em như một thứ hàng hóa. Hậu quả của hành vi buôn
bán người, buôn bán trẻ em là con người bị đem ra mua bán, trao đổi như
43
hàng hóa, danh dự nhân phẩm bị chà đạp, bị cưỡng bức lao động, bị bóc lột
tình dục.
Đối với pháp luật Việt Nam, mua bán người, mua bán trẻ em chỉ bao
gồm hai loại hành vi mua và bán, tức là việc dùng tiền hoặc lợi ích vật chất
khác để đổi lấy người, không bao gồm các hành vi tuyển mộ, vận chuyển,
chuyển giao, chứa chấp và nhận người (là những hành vi khác bên cạnh hành
vi mua bán xảy ra trong toàn bộ quá trình mua bán người, mua bán trẻ em).
Pháp luật Việt Nam coi hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa
chấp (che giấu) và nhận người là các hành vi giúp sức và tạo điều kiện cho
việc mua bán người, mua bán trẻ em và trên thực tế, những người thực hiện
các hành vi nêu trên sẽ bị trừng trị theo các quy định pháp luật tương ứng.
Về phương thức, thủ đoạn mua bán người, mua bán trẻ em, pháp luật
Việt Nam không quy định phương thức bọn tội phạm sử dụng để thực hiện
hành vi phạm tội, hay nói cách khác là động cơ, mục đích, thủ đoạn không
phải là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em.
Điều này có nghĩa là chỉ cần có hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác
để đổi lấy người hoặc lấy trẻ em là sẽ cấu thành tội mua bán người, mua bán
trẻ em, kể cả trong trường hợp nạn nhân hoàn toàn đồng ý với việc mua bán
(mặc dù điều này trong thực tiễn hầu như không xảy ra, nạn nhân chỉ có thể
đồng ý ban đầu do nhận thức sai về việc mình bị mua bán chứ nếu biết hoàn
cảnh thật thì họ không bao giờ đồng ý).
Về mục đích mua bán người, mua bán trẻ em theo pháp luật hình sự
Việt Nam, khi xác định đối tượng có hành vi mua bán người, mua bán trẻ em
thì chỉ cần xác định là hành vi chuyển giao người hoặc trẻ em từ một
người/nhóm người này sang một người/nhóm người khác để đổi lấy tiền hoặc
lợi ích vật chất.
Về đối tượng bị buôn bán, đối tượng bị buôn bán/ mua bán theo quy
định của Nghị định thư về chống buôn bán người, buôn bán trẻ em và pháp
44
luật Việt Nam bao gồm cả nam giới, phụ nữ và trẻ em. Theo quy định của
pháp luật quốc tế, trẻ em là người dưới 18 tuổi và theo quy định của pháp luật
Việt Nam trẻ em là người dưới 16 tuổi.
Với những quy định rõ ràng của pháp luật Việt Nam, trải qua quá trình
hình thành và phát triển lâu dài đã xây dựng nên hệ thống pháp luật về phòng
chống mua bán người và mua bán trẻ em. Với những quy định đã được sửa
đổi, bổ sung trên cơ sở cập nhật các quy định của quốc tế, Việt Nam hoàn
toàn có đủ những căn cứ cần thiết để đấu tranh quyết liệt với tội phạm mua
bán người, mua bán trẻ em.
Như vậy, từ những nhận thức về công tác phòng, chống mua bán
người, mua bán trẻ em ở pháp luật quốc tế và các quốc gia trong ASEAN,
chúng ta đã có những kinh nghiệm, bài học nhất định giúp xây dựng pháp luật
Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đảm bảo yêu cầu của công tác đấu tranh
phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em trong tình hình mới.
45
Chương 2
TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ HAI TỘI PHẠM NÀY
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2009 - 2013
Bộ luật hình sự năm 1999 của nước Việt Nam chúng ta không có điều
luật nào quy định tội danh "Buôn bán người" hoặc "Mua bán người". Bộ luật
hình sự năm 1999 chỉ quy định tội "Mua bán phụ nữ" (Điều 119) và tội "Mua
bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em" (Điều 120). Thực tiễn áp dụng các
điều luật nói trên để xử lý các hành vi về mua bán người (phụ nữ, trẻ em)
cũng đã nảy sinh những trường hợp mua bán đàn ông (người trên 18 tuổi) đã
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặc dù việc mua bán đàn ông xảy ra
không nhiều, nhưng rõ ràng đây là một kẽ hở của pháp luật và cũng không
phù hợp (tương thích) với pháp luật quốc tế. Ngoài ra những vấn đề nảy sinh
khác trong thực tiễn của đời sống xã hội cũng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh,
sửa đổi, bổ sung một số điều luật của Bộ luật hình sự cho phù hợp.
Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự đã được
Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ năm thông qua Nghị quyết số 37/2009/QH12
ngày 19 tháng 6 năm 2009. Theo đó, Điều 119 và 120 Bộ luật hình sự đã được
sửa đổi, phù hợp với cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua
bán trẻ em trong thực tiễn của nước ta và phù hợp hơn với luật pháp quốc tế.
2.1. TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2009)
2.1.1. Tội mua bán người (Điều 119 Bộ luật hình sự)
Điều 119 về tội mua bán người quy định:
1. Người nào mua bán người thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm.
46
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm:
a) Vì mục đích mại dâm;
b) Có tổ chức;
c) Có tính chất chuyên nghiệp;
d) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
đ) Để đưa ra nước ngoài;
e) Đối với nhiều người;
g) Phạm tội nhiều lần;
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng
đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một
năm đến năm năm [42].
Trước năm 2009, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội mua bán phụ
nữ, với quan niệm rằng chỉ có người phụ nữ và trẻ em mới là đối tượng bị
mua bán, còn nam giới không phải là đối tượng bị tác động của loại tội phạm
này. Thực tế cho thấy đã xuất hiện nhiều vụ mua bán người sang nước ngoài
để bóc lột sức lao động mà đối tượng bị mua bán là nam giới. Để giải quyết
vấn đề đó cũng như đáp ứng yêu cầu của Nghị định thư về chống buôn bán
người, năm 2009 Quốc hội đã thông qua việc sửa đổi tội danh "mua bán phụ nữ"
thành "mua bán người" trong Bộ luật hình sự. Đồng thời, còn bổ sung thêm
tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là "để lấy bộ phận cơ thể
của nạn nhân".
Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người
* Khách thể của tội phạm:
Người phạm tội đã coi con người như một hàng hóa để mua, bán, trao
đổi nhằm mục đích kiếm lợi. Hành vi phạm tội xâm phạm nghiêm trọng đến
thân thể, nhân phẩm, danh dự, quyền tự do, quyền làm người của nạn nhân.
47
* Mặt khách quan của tội phạm:
Thể hiện ở hành vi mua, bán, trao đổi con người để lấy tiền, hàng hóa
hoặc các lợi ích vật chất khác. Đối tượng của việc mua bán là con người đủ
16 tuổi trở lên, không phân biệt giới tính (nam hay nữ) và người phạm tội phải
nhận thức được hành vi của mình là hành vi mua bán người thì mới là hành vi
phạm tội, nếu họ không nhận thức được hành vi của mình là hành vi mua bán
người thì không phải là tội phạm. Các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa
chấp, giao nhận người trong các vụ án mua bán người có thể do một người
thực hiện nhưng cũng có thể do nhiều người thực hiện. Những người thực
hiện ở các vai trò chủ mưu, tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức cho người thực
hiện hành vi mua bán người đều là đồng phạm của tội mua bán người.
Hậu quả của hành vi mua bán người là con người bị đem ra mua bán,
trao đổi như hàng hóa, danh dự nhân phẩm bị chà đạp, bị cưỡng bức lao
động, bị bóc lột tình dục... ý chí có hay không của nạn nhân trong việc tự
nguyện trở thành hàng hóa không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm
mua bán người. Bên cạnh đó, vì là hành vi mua bán nên dấu hiệu thu lợi
cũng là một dấu hiệu quan trọng, nhưng nó không phải là dấu hiệu bắt buộc,
việc người phạm tội có thu lợi hay không chỉ có ý nghĩa trong việc áp dụng
hình phạt (lượng hình). Trong một số trường hợp, nếu người phạm tội đã
thực hiện một số hành vi như tìm kiếm người, liên hệ nơi bán, mua, thỏa
thuận giá cả, nơi giao nhận… nhưng vì nguyên nhân nào đó ngoài ý muốn,
mà họ không thực hiện được việc mua bán người thì thuộc trường hợp phạm
tội chưa đạt, người thực hiện các hành vi đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội mua bán người.
* Chủ thể của tội phạm:
Người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự đều là
chủ thể của tội mua bán người. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự nếu vi phạm vào khoản 2 Điều 119 của Bộ luật hình sự.
48
* Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. Điều luật không quy định động
cơ, mục đích phạm tội, do vậy, người phạm tội thực hiện với động cơ, mục
đích gì thì đều là phạm tội mua bán người.
Về hình phạt: Điều luật quy định hai khung hình phạt
Khung 1: (Cấu thành cơ bản) quy định mức hình phạt tù từ hai năm
đến bảy năm. Mức hình phạt này áp dụng cho những người phạm tội không
có tình tiết tăng nặng định khung. Tuy nhiên, họ có thể bị áp dụng các tình tiết
tăng nặng khác (nếu có) quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự.
Khung 2: Mức hình phạt quy định tại khung 2 là hình phạt tù từ năm
năm đến hai mươi năm, áp dụng đối với những người phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau:
a. Mua bán người vì mục đích mại dâm: như mua bán phụ nữ cho các
ổ chứa mại dâm và buộc nạn nhân phải bán dâm ngoài ý muốn của họ.
b. Có tổ chức: là trường hợp phạm tội có từ 2 người trở lên và có sự
phân công vai trò, có sự cấu kết chặt chẽ khi thực hiện hành vi phạm tội của
những người phạm tội.
c. Có tính chất chuyên nghiệp: là trường hợp người phạm tội thực hiện
tội phạm mua bán người từ năm lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu
trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người
phạm tội đều lấy các lần phạm tội mua bán người làm nghề sinh sống và lấy
lợi nhuận thu được làm nguồn sống chính.
d. Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân: là trường hợp mua bán người
nhằm lấy bộ phận cơ thể của họ. Bộ phận cơ thể là một phần của cơ thể được
hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý
nhất định (như tim, gan, thận, nhãn cầu, tay, chân…).
đ. Để đưa ra nước ngoài: là trường hợp mua bán người để đưa nạn
nhân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, kể cả trong trường hợp nạn nhân chưa bị đưa
49
ra nước ngoài nhưng có căn cứ xác định người phạm tội có ý định đưa nạn
nhân ra nước ngoài.
e. Đối với nhiều người: là trường hợp mua bán từ hai người trở lên
trong cùng một lần phạm tội.
g. Phạm tội nhiều lần: là trường hợp mua bán từ hai lần trở lên, không
phân biệt các hành vi mua bán đó được thực hiện đối với một người hay đối với
nhiều người và trong các lần mua bán đó người phạm tội chưa có lần nào bị
truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, điều luật còn quy định hình phạt bổ sung như phạt tiền từ năm
triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một
năm đến năm năm đối với người phạm tội.
2.1.2. Tội mua bán trẻ em (Điều 120 Bộ luật hình sự)
Điều 120 về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em quy định:
1. Người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Vì động cơ đê hèn;
d) Đối với nhiều trẻ em;
đ) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
e) Để đưa ra nước ngoài;
g) Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo;
h) Để sử dụng vào mục đích mại dâm;
i) Tái phạm nguy hiểm;
k) Gây hậu quả nghiêm trọng [42].
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng
đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
50
nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc
phạt quản chế từ một năm đến năm năm [42].
Đây là một tội ghép của ba tội khác nhau là mua bán trẻ em, đánh tráo
trẻ em và chiếm đoạt trẻ em. Mua bán trẻ em được hiểu là việc mua hoặc bán
trẻ em vì mục đích tư lợi, dù là mua của kẻ bắt trộm hay của chính người có
con đem bán hoặc mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ bị bắt trộm cũng bị xử lý
về tội mua bán trẻ em; Đánh tráo trẻ em là dùng thủ đoạn hoặc mánh khóe
gian lận để thay thế đứa trẻ này bằng đứa trẻ khác; Chiếm đoạt trẻ em là hành
vi lấy đứa trẻ của người khác cho mình bằng các thủ đoạn như dựa vào vũ
lực, quyền thế. Hậu quả của các hành vi trên là đứa trẻ bị đem ra mua bán, bị
đánh tráo, bị chiếm đoạt thoát ra khỏi sự quản lý của bố mẹ và gia đình.
Do các yếu tố cấu thành tội phạm của tội mua bán người và tội mua
bán trẻ em theo quy định của Bộ luật hình sự là tương tự như nhau, độ tuổi
của nạn nhân chỉ có ý nghĩa trong việc xác định tội danh và xác định mức độ
nghiêm trọng của tội phạm. Nếu nạn nhân là người lớn (từ đủ 16 tuổi trở lên)
thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 119
về tội mua bán người, nếu nạn nhân là trẻ em (người dưới 16 tuổi) thì người
phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 120 về tội
mua bán trẻ em với khung hình phạt nặng hơn. Do vậy, trong khuôn khổ đề
tài của luận văn, tác giả chỉ đề cập phân tích hành vi mua bán trẻ em mà
không đề cập đến hành vi đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.
Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trẻ em
* Khách thể của tội phạm:
Người phạm tội đã coi con người (cả nam và nữ) dưới 16 tuổi như
một hàng hóa để mua, bán, trao đổi nhằm mục đích kiếm lợi. Hành vi phạm
tội đã xâm phạm quyền tự do, thân thể của trẻ em và quyền được quản lý,
chăm sóc và giáo dục của trẻ em. Cao hơn là đã xâm phạm đến quyền con
người của trẻ em.
51
* Mặt khách quan của tội phạm:
Các hành vi khách quan trong tội mua bán trẻ em thường được biểu
hiện như rủ rê, lôi kéo, dụ dỗ, lừa dối trẻ em theo người phạm tội hoặc người
phạm tội có thể mua để nuôi, rồi đem bán với động cơ, mục đích vụ lợi. Trong
thực tiễn đã xảy ra việc tấn công bắt cóc trẻ em để bán qua Trung Quốc. Người
phạm tội cũng coi trẻ em như hàng hóa để mua, bán, trao đổi lấy tiền, hàng
hóa hoặc các lợi ích vật chất khác. Đối tượng của việc mua bán là con người
dưới 16 tuổi, không phân biệt giới tính (nam hay nữ) và người phạm tội cũng
phải nhận thức được hành vi của mình là hành vi mua bán thì mới là hành vi
phạm tội. Những người thực hiện ở các vai trò chủ mưu, tổ chức, xúi giục
hoặc giúp sức cho người thực hiện hành vi mua bán trẻ em đều phải chịu trách
nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm.
Hậu quả của hành vi mua bán trẻ em là trẻ em bị đem ra mua bán, trao
đổi như hàng hóa. Hành vi phạm tội đã xâm phạm đến các quyền của trẻ em,
là đối tượng được pháp luật đặc biệt bảo vệ.
* Chủ thể của tội phạm:
Là người có năng lực trách nhiệm hình sự từ đủ 14 tuổi trở lên.
* Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. Điều luật không quy định động
cơ, mục đích phạm tội, do vậy, người phạm tội thực hiện với bất kỳ động cơ,
mục đích gì thì đều là phạm tội mua bán trẻ em.
Về hình phạt: Điều luật quy định hai khung hình phạt
Khung 1: (Cấu thành cơ bản) quy định hình phạt tù từ ba năm đến mười
năm, áp dụng đối với người phạm tội không có tình tiết định khung tăng nặng.
Khung 2: (Cấu thành tăng nặng) quy định hình phạt tù từ mười năm
đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, áp dụng đối với người phạm tội thuộc
một trong các trường hợp sau:
52
a. Có tổ chức: là trường hợp vụ án có từ hai người trở lên, khi thực
hiện hành vi phạm tội mua bán trẻ em có sự phân công vai trò, trách nhiệm
của từng người và có sự câu kết chặt chẽ giữa những người phạm tội.
b. Có tính chất chuyên nghiệp: là trường hợp người phạm tội thực hiện
tội phạm mua bán trẻ từ năm lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm
tội đều lấy các lần phạm tội mua bán trẻ em làm nghề sinh sống và lấy lợi
nhuận thu được làm nguồn sống chính.
c. Vì động cơ đê hèn: là trường hợp phạm tội mua bán trẻ em để nhằm
mục đích trả thù, phản trắc, bội bạc với những người thân trong gia đình, trong
cơ quan hoặc nơi sinh sống hoặc cũng có thể do mâu thuẫn với một người nào
đó mà thực hiện hành vi mua bán con của họ với mục đích triệt hạ nòi giống…
d. Đối với nhiều trẻ em: là thực hiện hành vi mua bán từ 2 trẻ em trở
lên trong một lần phạm tội.
đ. Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân: là trường hợp mua bán trẻ em
để người mua lấy các bộ phận cơ thể như gan, tủy, thận, nhãn cầu… của trẻ
em đó.
e. Để đưa ra nước ngoài: là trường hợp mua bán trẻ em đưa ra khỏi
lãnh thổ nước Việt Nam, kể cả trong trường hợp nạn nhân là trẻ em chưa bị
đưa ra nước ngoài nhưng có căn cứ xác định người phạm tội có ý định đưa
nạn nhân ra nước ngoài.
g. Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo: là trường hợp như dùng trẻ
em để làm thí nghiệm, nghiên cứu, thử nghiệm thuốc… Nếu nạn nhân bị chết
hoặc tổn hại sức khỏe thì người phạm tội còn có thể bị truy tố thêm về tội giết
người, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
h. Để sử dụng vào mục đích mại dâm: là hành vi mua bán trẻ em rồi
đưa trẻ em vào các ổ chứa mại dâm bắt bán dâm hoặc bán cho người nước
ngoài để họ quan hệ tình dục.
53
i. Tái phạm nguy hiểm: là trường hợp người phạm tội trước đó đã bị
kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được
xóa án tích mà lại phạm tội mua bán trẻ em. Hoặc trường hợp đã tái phạm,
chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mua bán trẻ em.
k. Gây hậu quả nghiêm trọng: có thể xem xét đến hậu quả như làm
cho trẻ em bị ốm đau, bệnh tật, thương tích; suy nhược thần kinh, tâm thần rối
loạn; trẻ em hoảng sợ, uất ức dẫn đến tự vẫn; bị mắc các bệnh AIDS/HIV
hoặc các bệnh truyền nhiễm khác...; Bố mẹ đứa trẻ vì mất con mà đau ốm
triền miên, thậm chí tâm thần, điên loạn, tự sát… Ngoài những hậu quả vật
chất đó, còn có thể có các hậu quả phi vật chất như ảnh hưởng đến đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước, tình hình trật tự, trị an xã hội ở địa phương...
Về hình phạt bổ sung, ngoài các hình phạt chính quy định tại khoản 1,
khoản 2 thì tại khoản 3 Điều 119, Điều 120 Bộ luật hình sự đều quy định về
hình phạt bổ sung đối với các bị cáo phạm tội mua bán người, mua bán trẻ
em. Theo đó, các bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm
mươi triệu đồng. Đối với tội mua bán người, bị cáo có thể bị phạt quản chế
hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm; đối với tội mua bán trẻ em, bị cáo
có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm hoặc phạt quản chế từ một năm đến năm năm.
Theo quy định của Bộ luật hình sự nước ta, thì mua bán người là hành
vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để trao đổi người (từ đủ 16
tuổi trở lên) như một loại hàng hóa, hành vi đó là: bán người cho người khác,
không phụ thuộc vào mục đích của người mua; mua người để bán lại cho
người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau
này như thế nào; dùng người như là tài sản để trao đổi, thanh toán; mua người
để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật khác;
người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong
các hành vi mua bán người nêu trên đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
mua bán người. Mua bán trẻ em là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật
54
chất khác để trao đổi trẻ em (người dưới 16 tuổi) như một loại hàng hóa, cụ
thể là một trong các hành vi sau đây: bán trẻ em cho người khác, không phụ
thuộc vào mục đích của người mua; mua trẻ em để bán lại cho người khác,
không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế
nào; dùng trẻ em làm phương tiện để trao đổi, thanh toán; mua trẻ em để bóc
lột, cưỡng bức lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác; người tổ chức,
người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi nêu
trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm.
Như vậy, quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người
và tội mua bán trẻ em ít nhiều đã có sự tương thích với quy định của Công
ước quốc tế về tội buôn bán người. Sự tương thích thể hiện ở những điểm sau:
pháp luật nước ta không những quy định là tội phạm hình sự đối với hành vi
mua bán người nhỏ lẻ (một lần) mà còn quy định là tội phạm hình sự đối với
hành vi mua bán người có tính chất tổ chức, nhiều lần (buôn bán) như quy
định của Công ước quốc tế; hoặc tuy không quy định cụ thể trong Bộ luật
hình sự nhưng văn bản hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự đã
hướng dẫn về các thủ đoạn phạm tội mua bán người như, môi giới hôn nhân
với người nước ngoài trái phép, đưa người đi lao động nước ngoài trái
phép, môi giới nuôi con nuôi trái pháp luật; quy định mục đích để lấy bộ phận
cơ thể của nạn nhân, để đưa ra nước ngoài, để sử dụng vào mục đích mại dâm
hoặc mục đích vô nhân đạo là các tình tiết định khung hình phạt... Tuy nhiên,
sự không tương thích lớn nhất giữa quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về
tội mua bán người và tội mua bán trẻ em với quy định của Công ước quốc tế
về tội buôn bán người thể hiện ở hai điểm chính, đó là:
Thứ nhất, quy định về người thực hành tội phạm: theo quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam, thì chỉ người thực hiện hành vi mua bán người
(hành vi chuyển giao) được gọi là người thực hành, bao gồm người bán (người
chuyển giao) và người mua người (người tiếp nhận). Còn những người thực
hiện các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp để chuyển giao mà Công
55
ước quốc tế coi là người thực hành thì pháp luật Việt Nam chỉ coi là người giúp
sức. Theo cơ chế đồng phạm quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự Việt Nam
thì ngoài người thực hành, người giúp sức còn có người tổ chức và người xúi
giục cũng bị truy tố về tội mua bán người, mua bán trẻ em nếu là phạm tội có
tổ chức. Hệ quả của sự không tương thích này là theo quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam, thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người tổ chức,
người xúi giục, người giúp sức (người tuyển mộ, người vận chuyển, người chứa
chấp) với vai trò đồng phạm, khi truy cứu trách nhiệm hình sự người thực
hiện hành vi mua hoặc bán người (người chuyển giao hoặc người tiếp nhận).
Thứ hai, quy định về mục đích bóc lột của tội phạm: mục đích phạm
tội mua bán người theo quy định của Bộ luật hình sự nước ta chưa bao hàm
hết mục đích phạm tội buôn bán người theo quy định của Công ước quốc tế.
Pháp luật hình sự Việt Nam mới chỉ quy định mục đích để lấy bộ phận cơ thể
của nạn nhân, để đưa ra nước ngoài, để sử dụng vào mục đích mại dâm hoặc
mục đích vô nhân đạo là các tình tiết định khung hình phạt. Còn các mục đích
khác như: bóc lột tình dục; cưỡng bức lao động hoặc cung cấp dịch vụ, bao
gồm lao động để trả nợ hoặc gán nợ; lao động nô lệ hoặc các hình thức tương
tự; phục dịch như nô lệ, bao gồm nô lệ tình dục; lấy nội tạng; sử dụng cho
hoạt động trái pháp luật hoặc phạm tội; cưỡng bức hôn nhân hoặc biến thành
nô lệ thông qua hôn nhân; cưỡng bức hoặc cưỡng ép đi ăn xin; bắt tham gia
vào xung đột vũ trang v.v… thì chưa được pháp luật Việt Nam quy định trong
cấu thành tội phạm.
2.2. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI PHẠM MUA
BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
2.2.1. Đặc điểm chung về tình hình tội phạm mua bán người, mua
bán trẻ em trên phạm vi cả nước
Trên thế giới, theo ước tính của các tổ chức quốc tế liên quan đến
phòng chống tội phạm buôn bán người, hàng năm có khoảng 600.000 đến
800.000 người chủ yếu là phụ nữ và trẻ em bị buôn bán từ quốc gia này sang
56
quốc gia khác. Nghiêm trọng hơn, nhiều nạn nhân của buôn bán người bị bắt
phải hoạt động trong các tổ chức mại dâm hay bị bóc lột sức lao động ở
những công xưởng, nhà máy không đảm bảo quyền lợi và an toàn lao động.
Tội phạm buôn bán người đe dọa đến an ninh, an toàn của con người, xâm hại
đến đời sống vật chất và đặc biệt là làm tổn hại nghiêm trọng đến đời sống
tinh thần của nạn nhân, tước đoạt quyền con người, hủy hoại sức khỏe nhân loại.
Ở nước ta, theo báo cáo của các địa phương về Kế hoạch 38/BCA,
tổng điều tra, rà soát thực trạng mua bán người, mua bán trẻ em từ năm 1998
đến 2006, cả nước đã xác định được 33 tuyến, 139 địa bàn trọng điểm thường
xuyên diễn ra hoạt động buôn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài. Lên danh
sách và đưa vào diện quản lý 2.048 đối tượng, dựng lại 235 đường dây, với 654
đối tượng có liên quan đến hoạt động buôn bán phụ nữ, trẻ em để có kế hoạch
phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn; lập danh sách 5.746 phụ nữ, trẻ em bị bán
ra nước ngoài, 7.940 phụ nữ, trẻ em vắng mặt lâu ngày tại địa phương nghi đã
bị bán; đề nghị Trung Quốc và Campuchia xác minh 294 phụ nữ và trẻ em
đang có địa chỉ cụ thể ở hai quốc gia nói trên; rà soát được 136.000 phụ nữ
kết hôn với người nước ngoài trong đó 42% ở Trung Quốc, 31% ở Đài Loan,
11% ở Hàn Quốc và 16% ở các nước khác.
Tuy đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đấu tranh phòng, chống tội
phạm mua bán người, mua bán trẻ em nhưng tình trạng mua bán người, mua
bán trẻ em ở nước ta những năm gần đây vẫn có những dấu hiệu phức tạp và
không ngừng gia tăng về phương thức và địa bàn hoạt động. Theo báo cáo của
Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng, đơn vị chủ trì và nòng cốt trong Tiểu dự án 2
thuộc Đề án II, Chương trình 130/CP - Chương trình hành động phòng chống
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em (gọi tắt là chương trình 130/CP) - trong giai
đoạn từ năm 2004 đến năm 2009, tình hình buôn bán phụ nữ, trẻ em đặc biệt
tại các địa bàn biên giới đang diễn biến vô cùng phức tạp. Tại các tuyến biên
giới Việt Nam - Trung Quốc như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Giang, Lào Cai,
57
Lai Châu; tuyến biên giới Việt Nam - Lào như Hà Tĩnh, Quảng Trị; tuyến
biên giới Việt Nam - Campuchia như Tây Ninh, An Giang vẫn ghi nhận
những đường dây, ổ nhóm buôn bán người với quy mô lớn, hoạt động xuyên
quốc gia và có tổ chức, mạng lưới rộng khắp cả nước. Khu vực biên giới trở
thành địa điểm tập kết và trung chuyển "hàng hóa", đồng thời là nơi bọn tội
phạm lẩn trốn. Thủ đoạn và hình thức hoạt động ngày càng tinh vi và có sự
trợ giúp của công nghệ cùng với mạng lưới tội phạm tại các địa phương làm
nhiệm vụ dụ dỗ, lôi kéo đưa người bán qua biên giới. Hình thức mua bán là
lợi dụng sự thiếu hiểu biết, tình hình dân trí thấp của một bộ phận dân cư, bọn
chúng đã dùng thủ đoạn lừa gạt để gán các phụ nữ nông thôn, miền núi cho
các nhà hàng, quán trọ, khách sạn, nơi làm dịch vụ kinh doanh mại dâm trá
hình... Bên cạnh đó còn là các chiêu thức khác như xin việc làm, xuất khẩu
lao động, kết hôn với người ngoại quốc, cho con nuôi... Đặc biệt là tỉ lệ nạn
nhân cư trú ở khu vực biên giới bị mua bán ra nước ngoài có dấu hiệu gia
tăng. Theo kết quả thống kê giai đoạn 2004 - 2009 có 456/ 690 nạn nhân được
giải cứu là người ở khu vực biên giới (chiếm 66.66%). Nghiêm trọng hơn là
tình trạng mua bán thai nhi tại Móng Cái (Quảng Ninh) với 01 vụ, mua bán
trẻ sơ sinh tại Lào Cai, Hà Giang đã phát hiện 03 vụ. Tình trạng phụ nữ và trẻ
em ra khỏi nơi cư trú chưa rõ nguyên nhân với 4.000 trường hợp tại biên giới
Việt Nam - Trung Quốc. Bộ đội Biên phòng các địa phương đã rà soát, điều
tra cơ bản, khảo sát toàn diện tình hình mua bán người, mua bán trẻ em và thu
thập 1.028 hồ sơ điều tra địa bàn nội biên, 370 địa bàn ngoại biên, 53 tuyến
mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới. Xác định 115 xã nội biên (chiếm 11,1%)
có nạn nhân bị mua bán; 6.678 người (bao gồm cả phụ nữ, trẻ em và nam
giới) đi khỏi nơi cư trú không rõ nguyên nhân, trong đó 4.678 người nghi bị
mua bán; 1.446 phụ nữ tự ý ra nước ngoài lấy chồng, 356 người được xác
nhận đã có con nay trở về thăm người thân; phát hiện 176/ 277 đường dây
(trong đó có 155 đối tượng ở ngoại biên) có dấu hiệu nghi vấn hoạt động mua
58
bán người ra nước ngoài; 249 cơ sở kinh doanh nhà hàng, khách sạn, vũ
trường ở ngoại biên có biểu hiện hoạt động mại dâm và chứa chấp người bị
mua bán. Bộ đội Biên phòng đã xác lập và đấu tranh với 61 chuyên án, 137 kế
hoạch nghiệp vụ, đấu tranh 234 vụ án, triệt phá 95 đường dây, bắt 359 vụ/ 569
đối tượng, giải cứu 690 nạn nhân (trong đó có 586 phụ nữ, 104 trẻ em), xử lý
khởi tố 194 vụ/ 317 đối tượng, chuyển giao cơ quan Công an 165 vụ/ 252 đối
tượng. Đồng thời Bộ đội Biên phòng đã tiếp nhận 661 nạn nhân do các nước
trao trả (trong đó, Trung Quốc có 658 nạn nhân chiếm 99,54%).
Theo đánh giá của Ban chỉ đạo 130/CP, trong giai đoạn từ 2009 đến 2013
tình trạng mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn cả nước vẫn có chiều
hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Năm 2009, cả nước xảy ra 395 vụ, liên
quan đến 748 đối tượng, lừa bán 869 nạn nhân. So với năm 2008 tăng 5,3%
(395/ 375) về số vụ, tăng 4,1% 9748/ 718) số đối tượng, giảm 11,4% (869/ 981)
về nạn nhân. Năm 2010, xảy ra 429 vụ, liên quan 683 đối tượng, lừa bán 671
nạn nhân, tăng 34 vụ so với năm 2009 (trong đó: mua bán phụ nữ là 385 vụ
với 564 đối tượng, lừa bán 552 phụ nữ; mua bán trẻ em là 33 vụ với 70 đối
tượng, lừa bán 82 trẻ em; mua bán phụ nữ, trẻ em là 11 vụ với 49 đối tượng,
lừa bán 37 nạn nhân). Đặc biệt là sự gia tăng về phương thức thủ đoạn mua
bán. Năm 2010, công an quận Đống Đa (Hà Nội) đã điều tra, triệt phá đường
dây tội phạm mua bán người với quy mô lớn liên quan đến rất nhiều địa
phương. Bước đầu cơ quan điều tra đã bắt 29 đối tượng, giải cứu 15 nạn nhân.
Bọn chúng khai nhận thông qua mạng Internet đã làm quen và lừa phụ nữ, trẻ
em bán ra nước ngoài (02 vụ) hoặc bán vào các ổ chứa mại dâm tại Hải Phòng
(14 vụ). Hiện tượng cha mẹ bán con đẻ cũng đã xảy ra như trường hợp Pờ Xá To
người Hà Nhì tại Mường Tè, Lai Châu đã bán con là Pờ Lò Xó sang Trung
Quốc. Tình trạng môi giới hôn nhân, mua bán trẻ sơ sinh cũng diễn ra phức tạp,
từ năm 2008 đến năm 2010 có trên 200 trẻ em cho người nước ngoài nhận làm
con nuôi nghi có dấu hiệu bị mua bán. Năm 2011, cả nước phát hiện 454 vụ,
59
liên quan 670 đối tượng, lừa bán 821 nạn nhân. Các địa phương xảy ra nhiều
nhất là Lào Cai 31 vụ, Nam Định 18 vụ, Lai Châu 17 vụ, Lạng Sơn 16 vụ, Hà
Giang 15 vụ. Hoạt động của loại tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
ngày càng tinh vi và có dấu hiệu liên kết xuyên quốc gia. Tháng 01 năm 2011,
Công an thành phố Cần Thơ khám phá đường dây quy mô lớn đưa người ra
nước ngoài để bán thận liên quan đến 09 đối tượng do Võ Đình Văn (Sinh
năm 1986, ngụ tại Thành phố Hồ Chí Minh) cầm đầu, chúng thừa nhận lừa
được 75 người thuộc các địa phương phía Nam sang Trung Quốc, Singapor để
bán thận. Cũng trong năm 2011, Cảnh sát Thái Lan phối hợp với cơ quan chức
năng Việt Nam đã triệt phá đường dây đưa 15 phụ nữ sang Thái Lan đẻ thuê thực
chất là mua bán người, bắt 04 đối tượng người Đài Loan thuộc công ty Baby
101 đăng ký kinh doanh trên đất Thái Lan, giải cứu 15 phụ nữ Việt Nam cùng
các trẻ sơ sinh. Năm 2012 phát hiện 487 vụ, với 809 đối tượng, lừa bán 883
nạn nhân, tăng 7,2% số vụ, 20% số đối tượng và 7,2% số nạn nhân so với
năm 2011, với các địa phương xảy ra nhiều là Lào Cai 43 vụ, Hà Nội 16 vụ,
Lai Châu 13 vụ, Tây Ninh 11 vụ. Nhiều phương thức mua bán mới bị phát
hiện như thông qua hoạt động xuất khẩu lao động, tuyển dụng lao động, cho
vay nặng lãi rồi ép buộc nạn nhân hoạt động tình dục hoặc lao động cưỡng
bức, đột nhập, bắt cóc trẻ em phụ nữ đưa qua biên giới. Năm 2013 xảy ra 507
vụ, với 697 đối tượng và 982 nạn nhân, tăng 4% số vụ, 11% số nạn nhân so với
năm 2012, đặc biệt là tình trạng mua bán sang Trung Quốc chiếm 70% số vụ.
2.2.2. Tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên
địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013
Hà Giang là tỉnh miền núi nằm ở khu vực biên giới phía Bắc, có 274 km
đường biên giới và trong số 11 huyện, thành phố có 07 huyện, 34 xã biên giới
tiếp giáp với các huyện thuộc tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc). Do
đặc điểm địa hình hiểm trở, có đường biên giới kéo dài nên tình hình vi phạm
và tội phạm xảy ra vô cùng phức tạp, đặc biệt là tội phạm về mua bán người và
60
tội phạm mua bán trẻ em. Mặt khác, người dân sống ở khu vực giáp biên chủ
yếu là người dân tộc thiểu số, phân bố nhỏ lẻ ở các sườn núi cao, trình độ dân trí
hạn chế, có nhiều mối quan hệ huyết thống hoặc thân thiết với những người
bên kia biên giới nên công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức và
cảnh giác với các phương thức, thủ đoạn của bọn tội phạm trong việc phòng
chống mua bán người, mua bán trẻ em gặp rất nhiều khó khăn.
Trong giai đoạn từ năm 2004 đến 2006, Công an tỉnh Hà Giang đã
xác lập và đấu tranh 07 chuyên án về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ
em; triệt phá 15 đường dây, ổ nhóm; giải cứu được 19 nạn nhân (14 phụ nữ
và 05 trẻ em) bị lừa bán ra nước ngoài; đã khởi tố điều tra, truy tố được 26
vụ, 40 bị can; Tòa án đã đưa ra xét xử được 14 vụ, 36 bị can với mức án trên
15 năm, 03 bị cáo; 07 - 15 năm, 12 bị cáo; 03 - 07 năm, 10 bị cáo; án treo,
11 bị cáo và đưa 02 vụ xét xử lưu động nhằm tuyên truyền và giáo dục cho
người dân. Trong năm 2008, theo thống kê của Công an tỉnh, trên địa bàn
tỉnh Hà Giang đã triệt phá 09 đường dây mua bán người, mua bán, chiếm
đoạt trẻ em; bắt 18 đối tượng; tổng số nạn nhân bị mua bán, chiếm đoạt là 42
người. So với thống kê của Tổng cục Cảnh sát, tỉnh Hà Giang có 32/ 375 vụ
mua bán phụ nữ, trẻ em chiếm 8,5% và 23/ 718 bị can chiếm 3,2%. Giai
đoạn từ năm 2009 - 2013, Công an tỉnh Hà Giang đã xác lập được 07 chuyên
án đấu tranh với tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em, đã điều tra làm
rõ 27 vụ, bắt 42 đối tượng để điều tra xử lý, xác định được 34 nạn nhân
(trong đó, có 22 phụ nữ và 12 trẻ em) bị lừa bán ra nước ngoài (Trung
Quốc), đã giải cứu được 19 nạn nhân.
Với những số liệu trên, có thể thấy tình hình tội phạm mua bán người
và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang diễn biến phức tạp và cùng với
sự phát triển của kinh tế - xã hội của tỉnh, tình hình tội phạm đang có xu
hướng gia tăng với nhiều phương thức và thủ đoạn tinh vi hơn.
61
Bảng 2.1: Số vụ và số bị can đã khởi tố điều tra về tội mua bán người
và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
Năm
Tổng số vụ án
về trị an xã hội
Số vụ mua bán người,
mua bán trẻ em
Số bị can mua bán
người, mua bán trẻ em
2009 505 19 38
2010 417 21 60
2011 125 15 54
2012 149 10 34
2013 170 19 42
Tổng cộng 1.366 84 228
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Bảng thống kê trên thể hiện cụ thể số vụ và số bị can đã bị khởi tố để
điều tra về tội mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang
trong các năm từ 2009 đến 2013. Trong 05 năm, số lượng vụ án mua bán
người, mua bán trẻ em là 84/ 1336 vụ chiếm 6,3%, với 228 bị can. Theo đó
năm 2009, số vụ mua bán người, mua bán trẻ em trên tổng số vụ án về trị an
xã hội là 19/ 505 vụ chiếm 3,8%; năm 2010 là 21/ 417 vụ chiếm 5,0%; năm 2011
là 15/ 125 vụ chiếm 12,0%; năm 2012 là 10/ 149 vụ chiếm 6,7%; năm 2013 là
19/ 170 vụ chiếm 11,2%.
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ tổng số vụ án mua bán người,
mua bán trẻ em trên tổng số vụ án về trị an xã hội
của tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
3,8%
2009
%
30
12,0%
10
0
6,7% 11,2%
20
Năm
5,0%
2010 2011 2012 2013
62
Sự gia tăng và suy giảm của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
từ năm 2009 đến 2013 được thể hiện bằng biểu đồ trên. Quan sát biểu đồ
chúng ta nhận thấy giai đoạn từ 2009 đến 2011 tội phạm mua bán người, mua
bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang có dấu hiệu gia tăng và đặc biệt chiếm
tỷ lệ cao nhất vào năm 2011. Đối chiếu với số bị can cũng có sự tăng vọt từ
38 bị can năm 2009 lên 60 bị can năm 2010 và vẫn giữ tỷ lệ cao với 54 bị can
năm 2011. Giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2013, tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em có dấu hiệu gia tăng mạnh nhất vào năm 2013.
Sự gia tăng của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn
tỉnh Hà Giang xuất phát từ những đặc thù riêng của địa phương. Các vụ án
mua bán người, mua bán trẻ em chủ yếu xảy ra ở địa bàn vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công tác tuyên truyền, vận động trong quần
chúng còn gặp rất nhiều khó khăn. Các vụ án xảy ra đa phần có yếu tố nước
ngoài, đối tượng phạm tội lẩn trốn bên kia biên giới gây nhiều khó khăn cho
công tác điều tra, phá án, đặc biệt có nhiều vụ việc do chính cha mẹ, người
thân bán con em mình để lấy tiền. Trong khi đó lực lượng Biên phòng và an
ninh còn mỏng lại quản lý một khu vực biên giới tương đối rộng nên công tác
phòng chống gặp không ít khó khăn.
Nhận thức tính chất và mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này, trong
giai đoạn I (2004 - 2007) của Chương trình hành động phòng, chống tội phạm
buôn bán phụ nữ, trẻ em theo quyết định số 130/CP của Thủ tướng Chính
phủ, tỉnh Hà Giang đã thực hiện tương đối tốt các biện pháp tuyên truyền,
phòng ngừa tội phạm. Theo báo cáo của Tiểu ban chỉ đạo 130/CP tỉnh Hà
Giang, các lực lượng Biên phòng và Công an đã phối hợp tuyên truyền được
250 buổi, thu hút 12.720 lượt người dân tham gia. Hội phụ nữ tổ chức được
10 lớp tập huấn về phòng chống mua bán phụ nữ và trẻ em, tạo việc làm cho
nhiều phụ nữ khi trở về gia đình, tái hòa nhập cộng đồng. Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội khảo sát và nắm tình hình các xã biên giới, mở 02 lớp
63
tập huấn phòng chống tệ nạn xã hội, chống xâm hại tình dục trẻ em. Tiếp
nhận 49 nạn nhân do phía Trung Quốc trao trả đúng thủ tục hiện hành. Ủy ban
Dân số - gia đình và trẻ em đã điều tra, phát hiện 1.465 phụ nữ và trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn có nguy cơ bị bọn tội phạm lợi dụng. Sở tư pháp đã dự
thảo các văn bản về phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em, phát hành
10.000 tờ rơi, giấy tờ liên quan, phát hành 500 đặc san chuyên đề phòng
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Quán triệt tinh thần của
chương trình quốc gia về phòng chống mua bán người, mua bán trẻ em, các
ngành thành viên đã chủ động xây dựng kế hoạch, phối hợp với nhau cùng
hoàn thành nhiệm vụ. Hà Giang đã có nhiều lần gặp gỡ, trao đổi và ký kết với
các địa phương của nước láng giềng nhằm hợp tác, tăng cường quản lý khu
vực biên giới, theo dõi và điều tra các đối tượng mua bán người bỏ trốn sang
nước ngoài.
Sau khi tiếp tục triển khai giai đoạn II (2008 - 2010) của Chương trình
hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, tỉnh Hà Giang đã
tích cực chỉ đạo các lực lượng chức năng tổ chức tuyên truyền với trên 400
buổi tuyên truyền bằng nhiều hình thức: truyền thông qua chợ phiên; xây
dựng tiểu phẩm; tổ chức thi tìm hiểu kiến thức phòng chống tội phạm; tuyên
truyền qua sinh hoạt thôn bản... bằng nhiều cách làm sáng tạo đã giảm thiểu
các vụ chiếm đoạt, mua bán phụ nữ, trẻ em ở khu vực biên giới.
Mặc dù vậy, so với cả nước, tình hình mua bán người, mua bán trẻ em
ở Hà Giang vẫn diễn biến phức tạp và số lượng tương đối lớn. Là một tỉnh địa
đầu của Tổ quốc, có địa hình chia cắt phức tạp với nhiều đường tiểu ngạch
liên thông với các địa phương của Trung Quốc nên cùng với Quảng Ninh, Lào
Cai, Lạng Sơn..., Hà Giang là điểm nóng của tệ nạn mua bán người, mua bán
trẻ em. Theo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số lượng vụ án và
bị can bị truy tố và xét xử về tội mua bán người, mua bán trẻ em trong cả
nước từ năm 2009 đến năm 2013, cụ thể như sau:
64
Bảng 2.2: Số vụ và số bị can, bị cáo bị khởi tố điều tra, truy tố, xét xử về tội
mua bán người, mua bán trẻ em trên phạm vi cả nước từ 2009 - 2013
Năm Số liệu
Số cũ Số mới Truy tố Xét xử
Vụ Bị can Vụ Bị can Vụ Bị can Vụ Bị cáo
2009 Mua bán người 55 126 149 279 68 151 90 195
Mua bán trẻ em 29 68 50 103 20 61 38 86
Cộng 84 194 199 382 88 212 128 281
2010 Mua bán người 160 251 425 882 260 482 124 236
Mua bán trẻ em 60 131 146 376 83 229 47 125
Cộng 220 382 571 1258 343 711 171 361
2011 Mua bán người 48 111 154 294 119 251 147 277
Mua bán trẻ em 23 52 42 85 45 102 47 108
Cộng 71 163 196 379 164 352 194 335
2012 Mua bán người 55 105 174 376 161 339 155 319
Mua bán trẻ em 17 24 42 90 45 95 43 90
Cộng 72 129 216 466 206 434 198 409
2013 Mua bán người 61 124 176 332 174 356 169 341
Mua bán trẻ em 21 32 64 111 59 114 53 99
Cộng 82 156 240 443 233 470 222 440
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Căn cứ vào các số liệu trên thấy rằng, số vụ án mua bán người, mua bán
trẻ em đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trên cả nước hàng năm là rất lớn. Số
án khởi tố mới năm 2009, 199 vụ/ 382 bị can; năm 2010, 571 vụ/ 1258 bị can;
năm 2011, 196 vụ/ 379 bị can; năm 2012, 216 vụ/ 466 bị can; năm 2013, 240
vụ/ 443 bị can. Số lượng án mới thụ lý trong năm tăng đột biến vào năm 2010,
sau đó có chiều hướng giảm nhưng không đáng kể, vẫn giữ ở mức cao. Tổng
số vụ án mua bán người, mua bán trẻ em đã xét xử trong 05 năm là 913 vụ/
3652 bị cáo, trong đó, tỷ lệ xét xử theo Điều 119 về tội mua bán người chiếm
đa số 685/ 913 vụ chiếm 75,0%; số bị cáo là 1368/ 1826 chiếm 74,9%. Căn cứ
65
vào số vụ án và số bị cáo đã xét xử của cả nước, có thể thấy tính chất và mức
độ của loại tội phạm này ngày càng tinh vi và phức tạp, các bị cáo phạm tội
có tổ chức, hoạt động theo tính chất băng nhóm, không đơn lẻ, trung bình mỗi
vụ có trên 4 bị cáo.
So sánh, đối chiếu số lượng án mua bán người, mua bán trẻ em của
tỉnh Hà Giang với cả nước, mặc dù Hà Giang được xếp là một trong những
tỉnh có tổng số án phải giải quyết hàng năm không nhiều, nhưng số lượng án
mua bán người, mua bán trẻ em vẫn chiếm tỷ lệ cao: năm 2009, 19/ 199 vụ
chiếm 9,5%; năm 2010, 21/ 571 vụ chiếm 3,7%; năm 2011, 15/ 196 vụ chiếm
7,7%; năm 2012, 10/216 vụ chiếm 4,6%; năm 2013, 19/ 240 vụ chiếm 7,9%.
Về số bị can năm 2009, 38/ 382 bị can chiếm 9,9%; năm 2010, 60/ 1258 bị
can chiếm 4,8%; năm 2011, 54/ 379 bị can chiếm 4,2%; năm 2012, 34/ 466 bị
can chiếm 7,3%; năm 2013, 42/ 433 chiếm 9,5%.
Chúng ta có thể cụ thể hóa tỷ lệ số vụ án về tội mua bán người, mua
bán trẻ em của tỉnh Hà Giang so với cả nước bằng biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ thể hiện tổng số vụ án thụ lý về tội mua bán người và
tội mua bán trẻ em của tỉnh Hà Giang so với cả nước từ năm 2009 - 2013
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Về tỷ lệ vụ án mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà
Giang so với cả nước, có dấu hiệu giảm dần từ năm 2009 đến 2013 tuy nhiên
2009
10
30
20
0
Năm
9,5%
3,7% 4,6%
7,9%
%
7,7%
2010 2011 2012 2013
66
vẫn còn ở mức cao. Mặc dù có dấu hiệu giảm dần so với tình hình chung của cả
nước ở các năm 2010, 2011, 2012 nhưng lại có sự gia tăng đột biến năm 2013.
Điều này cho thấy, công tác trấn áp và phá vỡ các tổ chức tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang chưa thực sự hiệu quả, do
tính chất tội phạm ngày càng tinh vi, manh động. Tỷ lệ số vụ án vẫn còn rất
cao so với cả nước sau hơn mười năm triển khai chương trình hành động
phòng, chống mua bán người và mua bán trẻ em.
2.3. TÌNH HÌNH XÉT XỬ TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI PHẠM
MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG TỪ NĂM 2009 - 2013
Tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em là một trong những loại tội
phạm thuộc lĩnh vực trật tự, trị an xã hội, loại tội phạm này đặc biệt tinh vi về
phương thức, thủ đoạn gây án và hậu quả gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, ảnh
hưởng đến quyền tự do, danh dự, nhân phẩm của con người, đến sức khỏe và
sự phát triển bình thường của trẻ em được pháp luật bảo vệ. Tình trạng mua
bán người, mua bán trẻ em vì mục đích bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động
hoặc các hành vi vô nhân đạo khác là tình trạng khá phổ biến ở các nước có
nhiều vùng tiếp giáp biên giới với các quốc gia khác như nước ta. Trong 05
năm, từ năm 2009 đến năm 2013, tổng số án mua bán người, mua bán trẻ em
của cả nước đã thụ lý là 1506 vụ/ 3122 bị can; truy tố 1034 vụ/ 2179 bị can;
xét xử 913 vụ/ 1826 bị cáo, trong đó, tỷ lệ xét xử theo Điều 119 về tội mua
bán người chiếm đa số 685/ 913 vụ chiếm 75,0%; số bị cáo là 1368/1826
chiếm 74,9%.
Về số vụ và số bị cáo bị đưa ra xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ
năm 2009 - 2013. Theo thống kê số liệu của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà
Giang, từ năm 2009 đến năm 2013, toàn tỉnh Hà Giang đã xét xử về tội mua
bán người và tội mua bán trẻ em là 72/ 84 vụ chiếm 85,7%, số bị cáo bị đưa ra
xét xử là 119/ 228 bị cáo chiếm 52,2%. Trong đó, số vụ xét xử theo Điều 119
Bộ luật hình sự về tội mua bán người là 45/ 72 vụ chiếm 62,5%, số vụ xét xử
67
theo Điều 120 về tội mua bán trẻ em là 27/ 72 vụ chiếm 37,5%, số bị cáo đã
bị xét xử theo Điều 119 là 68/ 119 bị cáo chiếm 57,1% và số bị cáo bị xét xử
theo Điều 120 là 51/ 119 bị cáo chiếm 42,9%.
Bảng 2.3: Số vụ và số bị cáo đã xét xử về tội mua bán người
và tội mua bán trẻ em theo Điều 119, 120 Bộ luật hình sự,
trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
Năm
Số vụ Số bị cáo
Theo Điều 119 Theo Điều 120 Theo Điều 119 Theo Điều 120
2009 04 07 06 09
2010 08 04 17 07
2011 11 05 18 15
2012 04 06 05 14
2013 18 05 22 06
Tổng cộng 45 27 68 51
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em đã được các cơ quan tiến
hành tố tụng tỉnh Hà Giang khởi tố điều tra, truy tố, xét xử đều đảm bảo đúng
người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Trong 05 năm từ năm 2009
đến 2013 không có vụ án nào bị truy tố, xét xử oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm bị
cấp phúc thẩm hủy án hoặc bị Tòa án tuyên không phạm tội. Đặc biệt, tội
phạm mua bán người, mua bán trẻ em xảy ra trên địa bàn tỉnh Hà Giang 100%
số vụ việc xảy ra là có yếu tố nước ngoài. Các vụ án đã khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2013, ngoài các tình tiết định
khung khác thì đều xét xử theo tình tiết định khung "Để đưa ra nước ngoài"
theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 119 hoặc điểm e khoản 2 Điều 120 Bộ
luật hình sự.
Tuy nhiên, thực tế số lượng các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em
đã được đưa ra xét xử còn hạn chế so với số lượng án thực tế xảy ra. Đối
68
chiếu, so sánh số lượng án xét xử, với số lượng báo cáo của các cơ quan chức
năng như Công an, Biên phòng thấy chưa phản ánh đúng thực trạng của loại
tội phạm này, phần bị đưa ra xử lý còn hạn chế nhiều so với phần tội phạm ẩn.
Nguyên nhân một phần là do các vụ mua bán người, mua bán trẻ em đa số
đều xảy ra ở các khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, đặc
biệt là sự hiểu biết về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em còn rất hạn
chế. Công tác xác minh, điều tra, phát hiện tội phạm đòi hỏi cán bộ thực hiện
phải am hiểu địa bàn, hiểu biết tiếng dân tộc thiểu số và phối hợp chặt chẽ với
các lực lượng hữu quan. Đặc biệt, phong tục tập quán về kết hôn, nhận con
nuôi của một số dân tộc còn xem nhẹ pháp luật, hiện tượng tảo hôn, bắt vợ
một cách bừa bãi dẫn đến khó khăn trong công tác kiểm soát tại địa bàn.
Nhiều dân tộc có thói quen du canh, du cư và chưa xóa bỏ tập tục này nên khi
quản lý nhân khẩu, hộ khẩu rất khó xác định địa bàn cư trú chính. Nhiều vụ
việc xảy ra, các nạn nhân vẫn lưu lạc, chưa biết tung tích, địa chỉ, chỉ có gia
đình nạn nhân tố cáo nên chưa đủ căn cứ để khởi tố, điều tra tội phạm hoặc
trong số các đối tượng phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em, nhiều đối
tượng đã bỏ trốn sang nước láng giềng, do vậy, nhiều vụ án quá trình điều
tra bị kéo dài hoặc không phát hiện được thủ phạm. Một số vụ án, chính nạn
nhân của tội mua bán người, sau khi bị lừa bán sang Trung Quốc làm gái
mại dâm lại trở về Việt Nam dụ dỗ, lừa gạt các cô gái trẻ khác đưa sang
Trung Quốc bán, những đối tượng này thường có các mối quan hệ với các
đối tượng nước sở tại, có kinh nghiệm thực hiện tội phạm nên gây rất nhiều
khó khăn cho công tác xác minh, điều tra. Nghiêm trọng hơn, có nhiều đối
tượng không phải là người Việt Nam hoặc là người Việt Nam nhưng sinh
sống ở nước ngoài (chủ yếu là ở Trung Quốc), đã câu kết với các đối tượng
trong nước thực hiện tội phạm, điển hình như năm 2009 có 01 vụ, năm 2010
có 05 vụ, năm 2011 có 03 vụ có sự tham gia của người nước ngoài. Một số bị
cáo có quốc tịch Trung Quốc đã được xét xử năm 2009 như Vàng Mí Tính
69
sinh năm 1972 - 29 tháng tù; năm 2010 như Lưu Chính Khôn sinh năm 1975 -
05 năm tù, Giàng Thị Mỷ sinh năm 1965 - 12 năm tù; năm 2011 như Giàng
Mí Pó sinh năm 1972 - 29 tháng tù, Thào Mí Sính sinh năm 1993 - 29 tháng
tù, Lục Văn Lương sinh năm 1990 - 06 năm tù, Cổ Đức Lan sinh năm 1978 -
05 năm tù, Thào Thị Máy sinh năm 1952 - 05 năm tù. Một số vụ án, tuy đã
phát hiện và xác định được thủ phạm nhưng không đưa ra xét xử được kịp
thời trong năm vì liên quan đến người nước ngoài như vụ mua bán người xảy
ra năm 2010 đối với nạn nhân Nùng Thị Nề sinh năm 1984, xảy ra tại huyện
Xín Mần, do Hán Thiệu Dũng sinh năm 1968 và Vương Phú Quý sinh năm 1980
(đều có quốc tịch Trung Quốc) cầm đầu. Một khó khăn nữa trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em là có nhiều
vụ án có sự tham gia của rất nhiều đối tượng thuộc nhiều thành phần, có các
quốc tịch khác nhau và thực hiện tội phạm với thủ đoạn tinh vi, các bị cáo
quanh co, chối tội... làm kéo dài thời gian điều tra, truy tố, xét xử, hồ sơ phải
trả điều tra bổ sung vì phát sinh tình tiết mới. Điển hình như vụ mua bán trẻ
em xảy ra năm 2009, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Giang đã ra
Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can ngày 15 tháng 10 năm 2009 (có
Quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang) đối với bị
can Giàng Mí Pó sinh năm 1972, quốc tịch Trung Quốc, nạn nhân là cháu
Phùng Mí Lương sinh năm 2006 bị bán sang Trung Quốc. Quá trình điều tra
đã gặp rất nhiều khó khăn trong công tác thu thập chứng cứ và truy tìm nạn
nhân, do đó vụ án đã kéo dài đến năm 2011 mới truy tố và xét xử đối với 09
bị cáo, trong đó có 02 bị cáo có quốc tịch Trung Quốc, với các mức án từ 29
tháng đến 11 năm tù.
Về tỷ lệ giữa số vụ và số bị cáo đưa ra xét xử theo Điều 119 và Điều 120
của Bộ luật hình sự. Tỷ lệ giữa số vụ và số bị cáo bị đưa ra xét xử theo Điều 119
và Điều 120 của Bộ luật hình sự tại tỉnh Hà Giang có sự khác biệt so với tình
hình của các địa phương khác trong cả nước. Các biểu đồ dưới đây sẽ cho
70
thấy tương quan giữa hai loại hình tội phạm mua bán người và mua bán trẻ
em trong thực tế xét xử của tỉnh Hà Giang.
Biểu đồ 2.3: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số vụ án xét xử về tội mua bán người
và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự,
trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Như đã thể hiện trên biểu đồ, số vụ án xét xử theo Điều 119 Bộ luật
hình sự về tội mua bán người chỉ nhiều hơn 25,0% so với số vụ xét xử theo
Điều 120 về tội mua bán trẻ em. Sự chênh lệch này là không lớn bởi số liệu
thống kê trong vòng 05 năm từ 2009 đến 2013 luôn ghi nhận tỷ lệ không nhỏ
nạn nhân bị mua bán là trẻ em, có khi là trẻ sơ sinh. Các đối tượng mua bán
trẻ em có rất nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm thực hiện hành vi trục lợi của mình.
Đa phần những trẻ em này khi đã bị bán sang nước ngoài rất khó xác định vị
trí, bởi các em chưa thể có ý thức chống lại các đối tượng mua bán người.
Việc trả lại các em cho cha mẹ đa phần chỉ được thực hiện sau khi Cơ quan
điều tra phá được các đường dây mua bán, thực tế có nhiều vụ việc hiện vẫn
chưa xác định được các em nhỏ là nạn nhân của mua bán trẻ em hiện ở đâu.
Cũng tương tự như vậy, số bị cáo xét xử theo Điều 119 Bộ luật hình
sự 1999 về tội mua bán người chỉ nhiều hơn 14,28% so với số bị cáo xét xử
theo Điều 120 về tội mua bán trẻ em, thể hiện ở biểu đồ dưới đây.
62,5%
37,5%
Xét xử theo Điều 119
Xét xử theo Điều 120
71
Biểu đồ 2.4: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số bị cáo xét xử về tội mua bán người
và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự,
trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Như vậy, tội phạm mua bán trẻ em ở Hà Giang diễn ra với số lượng
không nhỏ, chiếm tỷ lệ tương đối lớn so với tội phạm mua bán phụ nữ và nam
giới. Sự chênh lệch này diễn ra không nhiều trong vòng 05 năm từ 2009 đến
2013 cho thấy trẻ em là một trong những đối tượng bị mua bán nhiều ở tỉnh
Hà Giang và có thể xếp vào một trong những đối tượng mua bán chủ yếu bên
cạnh mua bán phụ nữ. Điều này là một tình trạng đáng báo động ở một địa
phương có nhiều trẻ em ở vùng sâu, vùng xa như Hà Giang. Nguyên nhân của
tình trạng mua bán trẻ em một cách phổ biến ở Hà Giang là do trẻ em là đối
tượng dễ mua bán và dễ đưa qua biên giới. Đặc thù của các gia đình dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng xa là sinh nhiều con, bên cạnh đó hoàn cảnh kinh tế
khó khăn, các em phải lao động từ sớm, không được học hành, nên các đối
tượng thường lợi dụng các gia đình có hoàn cảnh khó khăn để mua chuộc, dụ
dỗ gia đình đồng ý cho con làm con nuôi hoặc theo các đối tượng đi làm ăn
phụ giúp gia đình nếu đã có thể lao động hoặc nhiều vụ án xảy ra, do người
mẹ tự nguyện mang các em theo, vô tình đã tiếp tay cho hành vi phạm tội của
57,14%
42,86%
Xét xử theo Điều 119
Xét xử theo Điều 120
72
các bị cáo. Mặt khác, một phương thức khá phổ biến của các đối tượng là bắt
cóc, thậm chí kẻ bắt cóc trẻ em lại chính là những người có quan hệ họ hàng
thân thích với nạn nhân bởi đây là những trường hợp dễ tiếp cận gia đình để
thực hiện hành vi bắt cóc. Khi trẻ em đã bị đưa ra nước ngoài (chủ yếu là
Trung Quốc) thì rất khó tìm và xác định để đưa các em trở về, nên gây ra hậu
quả rất đau lòng cho gia đình và xã hội.
Về thực trạng hình phạt đã xét xử đối với các bị cáo phạm tội mua bán
người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Trong vòng 05 năm từ
2009 đến 2013, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang đã xét xử được 119 trên tổng
số 228 bị cáo chiếm 52,19%. Trong đó, có 08/ 119 bị cáo chịu hình phạt tù
nhưng cho hưởng án treo, chiếm 6,72%; 62/ 119 bị cáo chịu mức hình phạt tù
từ 02 năm đến 07 năm, chiếm 52,10%; 27/ 119 bị cáo chịu mức hình phạt tù
từ trên 07 năm đến 10 năm, chiếm 22,68%; 22/ 119 bị cáo chịu mức hình phạt
tù từ trên 10 năm đến chung thân, chiếm 18,50%. Số liệu cụ thể được hệ
thống hóa trong bảng sau:
Bảng 2.4: Tổng hợp mức hình phạt của các bị cáo đã xét xử về tội mua bán
người và tội mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ 2009 - 2013
Năm Án treo
Tù 02 năm
đến 07 năm
Tù trên 07 năm
đến 10 năm
Tù trên 10 năm
đến chung thân
2009 0 11 03 02
2010 0 13 02 06
2011 04 15 10 08
2012 04 06 08 02
2013 0 17 04 04
Tổng 08 62 27 22
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Như vậy, qua thống kê trong bảng biểu về mức hình phạt đã xét xử
với tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ
năm 2009 - 2013, chúng ta nhận thấy hình phạt chủ yếu áp dụng đối với các
73
bị cáo là từ 02 đến 07 năm tù, chiếm tỷ lệ 52,10%; các hình phạt khác từ trên
07 năm đến 10 năm và từ trên 10 năm đến chung thân chiếm tỷ lệ nhỏ hơn
và khá cân xứng với nhau (22,68% và 18,50%). Qua thực tiễn các vụ án xét
xử tại tỉnh Hà Giang từ 2009 đến 2013 đã ghi nhận nhiều vụ việc với tính
chất đặc biệt nghiêm trọng, đã xét xử với mức án cao đối với những kẻ cầm
đầu. Chỉ trong hai năm gần đây nhất là năm 2012 và 2013, đã có 06 trường
hợp bị phạt tù từ trên 10 năm, đó là các bị cáo: Vàng Thị Dính sinh năm
1969 - 15 năm tù; Thèn Lao Thưởng sinh năm 1980 - 11 năm tù; Mua Mí
Gia sinh năm 1991 - 18 năm tù; Nùng A Dìn sinh năm 1987 - 16 năm tù;
Sùng Mí Pó sinh năm 1993 - 11 năm tù; Lý Văn Sinh sinh năm 1979 - 18
năm tù. Sự tăng nặng của hình phạt cho thấy mức độ nguy hiểm, phương
thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm của các đối tượng ngày càng tinh vi, xảo
quyệt. Không chỉ dừng lại ở mức độ lừa bán ra nước ngoài, mà các đối
tượng còn trục lợi từ hành vi bóc lột sức lao động, ép buộc, bóc lột tình dục
với các nạn nhân bị mua bán.
Về mục đích mua bán người, mua bán trẻ em của tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến 2013.
Thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2.5: Thống kê số nạn nhân theo mục đích mua bán của tội phạm
mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em,
trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
Năm Lấy làm vợ
Lấy làm con
nuôi
Mại dâm
Bóc lột
lao động
Các mục
đích khác
2009 12 04 04 0 03
2010 16 0 03 03 18
2011 14 0 07 01 04
2012 08 03 03 10 06
2013 37 0 04 02 01
Tổng 87 07 21 16 32
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
74
Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo mục đích mua bán của tội phạm
mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa bàn
tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Căn cứ số liệu của bảng thống kê và bảng biểu tỷ lệ, thấy rằng tỷ lệ số
nạn nhân bị mua bán (chủ yếu là bán sang Trung Quốc) với mục đích để làm
vợ là rất lớn 87/ 163 chiếm 53,4%. Số còn lại các nạn nhân bị mua bán với các
mục đích khác chiếm tỷ lệ ít hơn, mục đích làm con nuôi 07/ 163 chiếm 4,3%;
mục đích hoạt động mại dâm 21/ 163 chiếm 12,9%; mục đích bóc lột sức lao
động 16/ 163 chiếm 9,8%; các mục đích khác 32/ 163 chiếm 19,6%. Qua
những thông tin trên, câu hỏi đặt ra cho Hà Giang là tại sao tình trạng mua
bán người, mua bán trẻ em ở Hà Giang mục đích chủ yếu lại không phải phục
vụ mại dâm trong khi nhiều địa phương khác, phụ nữ đều bị bán vì mục đích
phục vụ nhu cầu mua dâm của khách nước ngoài. Mặt khác, tỷ lệ nạn nhân bị
mua bán cho mục đích bóc lột sức lao động và làm con nuôi không cao, số
mục đích khác như mục đích để đưa người sang nước thứ ba, vì mục đích vô
%
60
40
20
0
53,4%
Mục đích Lấy làm vợ
4,3%
9,8%
19,6%
12,9%
Lấy làm con Mại dâm Bóc lột lao động Chưa rõ
75
nhân đạo hoặc chưa rõ mục đích vì có những vụ án, sau khi đưa nạn nhân
sang Trung Quốc giao và nhận tiền, chính bản thân các đối tượng cũng không
biết các nạn nhân bị đưa đi đâu, làm gì, số mục đích này cũng chiếm tỷ lệ
không lớn. Đa phần hành vi mua bán hướng về mục đích bắt các phụ nữ Việt
Nam sang Trung Quốc làm vợ (100% các vụ án mua bán người, mua bán trẻ
em ở tỉnh Hà Giang là để bán sang Trung Quốc). Đây chính là một điểm khác
biệt của tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh
Hà Giang so với tình hình của các khu vực khác trên cả nước.
Căn cứ để lý giải tình trạng mua bán người với mục đích lấy làm vợ
người nước ngoài xuất phát từ đặc điểm khu vực biên giới của tỉnh Hà Giang.
Tiếp giáp với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc), hai khu vực có
nhiều người dân tộc thiểu số của Trung Quốc sinh sống, những tập tục của
một số dân tộc ở hai nước có nhiều nét tương đồng, khá giống nhau. Trong
tình hình mất cân bằng dân số tại Trung Quốc, tỷ lệ nam giới cao hơn nữ giới
rất nhiều, điều đó khiến nam giới khu vực giáp biên có xu hướng tìm vợ và
lập gia đình với phụ nữ Việt Nam. Trong một số trường hợp, tâm lý phụ nữ
dân tộc vùng cao Hà Giang thích sang Trung Quốc lấy chồng vì có cuộc sống
sung sướng nên rất nhiều vụ án là do nạn nhân tự nguyện nên bị lừa, vừa làm
vợ, vừa bị bóc lột sức lao động, bóc lột tình dục của cả gia đình nhà chồng...
Mặt khác, địa hình biên giới phía Bắc nước ta rất hiểm trở, bị chia cắt bởi
nhiều sông, suối và núi cao, lực lượng bộ đội Biên phòng còn mỏng không thể
tuần tra, kiểm soát một cách thường xuyên, liên tục đã tạo điều kiện cho các
đối tượng dễ dàng đưa người qua các đường tiểu ngạch hoặc vượt biên trái
phép. Một số thiếu nữ dân tộc thiểu số khi đến tuổi trưởng thành có nhu cầu
lập gia đình nhưng bị ngăn cấm bởi các hủ tục lạc hậu, nạn thách cưới quá
cao... cùng với điều kiện kinh tế khó khăn nên dễ dàng nghe theo kẻ xấu bị lợi
dụng việc kết hôn để bán qua nước láng giềng.
Về thành phần độ tuổi của các nạn nhân bị mua bán, qua tổng hợp số
liệu cho thấy tỉ lệ như sau:
76
Bảng 2.6: Thống kê thành phần độ tuổi các nạn nhân của tội phạm mua
bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ 2009 - 2013
Năm Trẻ em dưới 16 tuổi Từ 16 - 30 tuổi Trên 30 tuổi
2009 08 22 04
2010 15 36 05
2011 02 29 03
2012 05 21 03
2013 08 27 06
Tổng 38 135 21
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Như vậy, dựa trên số liệu về thành phần độ tuổi của nạn nhân mua bán
người, mua bán trẻ em chúng ta thấy rằng tỷ lệ nạn nhân có độ tuổi từ 16 - 30
chiếm tỷ lệ cao nhất 135/ 194 nạn nhân chiếm 69,5%, tiếp đến là nạn nhân là
trẻ em dưới 16 tuổi chiếm 38/ 194 chiếm 19,5%, còn lại là các nạn nhân trên
30 tuổi chiếm 21/ 194 chiếm 11%. Điều này giải thích một cách rõ hơn mục
đích mua bán các nạn nhân trên địa bàn tỉnh Hà Giang chủ yếu để lấy làm vợ.
Các nạn nhân ở độ tuổi 16 - 30 đang ở độ tuổi trưởng thành về thể chất và dễ
bị lạm dụng về tình dục, do vậy mục đích của các đối tượng mua bán người,
mua bán trẻ em là đưa các nạn nhân sang Trung Quốc để làm vợ trong các gia
đình người Trung Quốc. Đây là một trong những kiểu mại dâm trá hình dưới
phương thức lấy chồng người nước ngoài, 100% số nạn nhân là phụ nữ, đa
phần họ bị dụ dỗ và bị bán ra nước ngoài nhằm mục đích lợi nhuận cho những
đối tượng mua bán. Cũng rất đáng lo ngại là các nạn nhân trong độ tuổi dưới
16 cũng là một trong những thành phần chiếm số lượng đông trong các vụ
mua bán người, mua bán trẻ em, với tỷ lệ 19,5% cho thấy ở địa bàn tỉnh Hà
Giang cũng là một "điểm nóng" về tình hình tội phạm mua bán trẻ em. Đặc
biệt, theo thống kê cho thấy có cả các nạn nhân là trẻ em sơ sinh dưới 01 tuổi.
Các đối tượng chủ yếu thực hiện phương thức bắt cóc hoặc lừa nhận con nuôi
để bán sang Trung Quốc. Biểu đồ sau sẽ thể hiện rõ hơn tỷ lệ này:
77
Biểu đồ 2.6: Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo thành phần độ tuổi bị mua bán
người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Về thành phần độ tuổi của các bị cáo phạm mua bán người, mua bán
trẻ em, theo thống kê của chúng tôi cho thấy tỉ lệ như sau:
Bảng 2.7: Thống kê thành phần độ tuổi của tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
Năm Từ 16 - 30 tuổi Trên 30 tuổi
2009 18 20
2010 19 41
2011 20 34
2012 19 15
2013 22 20
Tổng 98 130
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
Dưới 16 tuổi
Độ tuổi
69,5%
19,5%
11%
%
60
40
20
0
Dưới 16 tuổi 16 - 30 tuổi Trên 30 tuổi
78
Đánh giá tỷ lệ giữa những người phạm tội thuộc độ tuổi từ 16 đến 30
và trên 30 tuổi nhận thấy tội phạm chủ yếu ở độ tuổi trên 30 tuổi, 130/ 228 bị
can chiếm 57,0%, còn lại là các bị can có độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi, 98/ 228 bị
can chiếm 43,0%. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy tội phạm ở độ tuổi rất
trẻ (16 - 30 tuổi) của các vụ mua bán người, mua bán trẻ em ở tỉnh Hà Giang
chiếm một số lượng không nhỏ. Cá biệt có nhiều đối tượng đang ở độ tuổi vị
thành niên, từ 16 đến 18 tuổi đã dụ dỗ, lừa đảo những người xung quanh để
bán sang Trung Quốc lấy tiền tiêu xài. Đây là những thanh niên không được
gia đình và nhà trường giáo dục, bỏ học đi lang thang và kiếm tiền bằng
những phương thức, thủ đoạn lừa lọc người khác nhằm chuộc lợi. Điều này
đặt ra cho chính quyền và các cấp quản lý một khó khăn trong công tác giáo
dục các đối tượng là thanh niên để có định hướng đúng đắn cho thanh niên
học tập và lao động, trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Về thành phần dân tộc của các bị can và các nạn nhân bị mua bán
người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang, theo số liệu thống kê của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang, số bị can là người dân tộc thiểu số là
197/ 228 bị can chiếm 86,4%, số nạn nhân là người dân tộc thiểu số là 190/
194 nạn nhân chiếm 97,9%. Điều đó cho thấy đồng bào các dân tộc thiểu số là
đối tượng chủ yếu của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Với đặc thù
vùng miền, trên địa bàn tỉnh Hà Giang hiện nay có 22 dân tộc cùng sinh sống,
trong đó, chiếm đa số là các dân tộc thiểu số như Mông, Dao, Tày, Nùng, Lô Lô,
Pu Péo, Pà Thẻn... Đồng bào còn gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống, trình
độ dân trí còn thấp do vậy các đối tượng dễ lôi kéo và lợi dụng để thực hiện
hành vi mua bán. Mặt khác, các đối tượng thực hiện hành vi mua bán người,
mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang cũng chiếm tới 97,9% là người
dân tộc thiểu số. Điều này cho thấy thực trạng trong nội bộ dân cư, do điều
kiện kinh tế khó khăn nên nảy sinh tội phạm và các đối tượng chủ yếu chính
là những người trong làng, bản, thôn, xã có quan hệ thân thuộc với gia đình
79
nạn nhân. Việc này gây khó khăn cho công tác sàng lọc, xác minh đối tượng
và điều tra tội phạm. Do vậy, nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là đời sống
tại các khu vực có đông đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống chính là một
trong những biện pháp tích cự để giảm thiểu phát sinh loại tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em.
Qua phân tích thực trạng xét xử tội mua bán người và tội mua bán trẻ
em trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2009 - 2013, chúng ta có thể bước
đầu rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, Hà Giang là một khu vực có hoạt động mua bán người và
mua bán trẻ em diễn ra khá "sôi động" với nhiều thành phần tham gia hành vi
mua và bán. Trong số các đối tượng mua bán người trái phép có cả người
nước ngoài và một số còn cầm đầu các đường dây mua bán gây ra những vụ
mua bán người, mua bán trẻ em lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.
Thứ hai, về tỷ lệ giữa số vụ và số bị can bị đưa ra xét xử theo Điều 119
Bộ luật hình sự về tội mua bán người và Điều 120 Bộ luật hình sự về tội mua
bán trẻ em ở Hà Giang gần tương đương nhau. Như vậy, tình trạng mua bán
trẻ em cũng đang xảy ra ở mức đáng báo động
Thứ ba, về thực trạng mức hình phạt đã xét xử đối với các bị cáo
phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang, tỷ lệ
hình phạt từ 02 đến 07 năm là tương đối nhiều. Tuy nhiên, càng về những
năm gần đây, tỷ lệ mức án cao trên 10 năm tù ngày càng tăng cho thấy mức
độ phức tạp của các hành vi mua bán, từ mua bán đơn thuần đã dần có yếu tố
bóc lột nhằm trục lợi. Các hoạt động mua bán người, mua bán trẻ em không
còn nhỏ lẻ mà xuất hiện những đường dây mua bán có tổ chức và thực hiện
nhiều hành vi vô nhân đạo đối với người bị mua bán.
Thứ tư, về mục đích mua bán của các đối tượng mua bán người, mua
bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang chủ yếu phục vụ nhu cầu lập gia đình của
80
người nước ngoài hoặc kết hôn chỉ là hình thức trá hình của nạn mại dâm, bóc
lột tình dục. Tỷ lệ mua bán phụ nữ phục vụ nạn mại dâm có giảm nhưng chưa
rõ rệt. Bên cạnh đó, xuất hiện hành vi mua bán nam giới nhằm bóc lột sức lao
động, đây là một hành vi mới xuất hiện và rất đáng lo ngại ở khu vực biên giới.
2.4. NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG
TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI
PHẠM MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
Với đặc điểm là một tỉnh miền núi thuộc một trong các tỉnh nghèo
nhất của cả nước, với 274 km đường biên giới tiếp giáp với tỉnh Vân Nam -
Trung Quốc, có nhiều dân tộc cùng sinh sống, đời sống kinh tế còn nhiều khó
khăn, thu nhập hàng năm rất thấp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, trình độ dân
trí còn hạn chế, tỷ lệ mù chữ và không biết tiếng phổ thông chiếm khá cao,
phân bố dân cư không đồng đều, một số sống tập trung theo chòm xóm, ngoài
ra phần lớn sống phân tán, nhỏ lẻ ở khe đồi, sườn núi, lực lượng sản xuất
tương đối dồi dào nhưng lại thiếu đất sản xuất canh tác, đời sống nhân dân
gặp nhiều khó khăn. Những năm gần đây, tình hình an ninh trật tự ở Hà Giang
có nhiều diễn biến phức tạp, trong đó tội phạm mua bán người và mua bán trẻ
em này càng gia tăng. Các đối tượng phạm tội với những thủ đoạn mới và có
sự kết hợp với một số đối tượng là người nước ngoài (Trung Quốc), người
Việt Nam cư trú bất hợp pháp ở nước ngoài (Trung Quốc) để tổ chức hoạt
động phạm tội. Hơn nữa, Hà Giang có cửa khẩu quốc tế, quốc gia và có nhiều
đường tiểu ngạch qua lại biên giới, nhân dân hai bên biên giới có quan hệ thân
tộc và dân tộc từ lâu đời. Đặc biệt là từ khi hội nhập quốc tế, quan hệ mở cửa
giữa nước ta và Trung Quốc ngày càng phát triển, hoạt động xuất nhập cảnh,
xuất nhập khẩu hàng hóa qua hai bên biên giới tăng trưởng lớn, các thủ tục
qua lại biên giới thuận tiện, dễ dàng hơn nhiều so với trước đây, nên tội phạm
mua bán người, mua bán trẻ em đã lợi dụng đặc điểm này để hoạt động.
81
Với những đặc điểm đặc thù về địa lý, tình hình kinh tế, xã hội nên
trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm mua
bán người, mua bán trẻ em nói riêng còn gặp rất nhiều khó khăn,vướng mắc
như: lực lượng trực tiếp tham gia phòng ngừa, đấu tranh, điều tra, khám phá
còn mỏng và thiếu, hạn chế nhiều đến kết quả phòng ngừa và đấu tranh. Việc
rà soát số người, trẻ em đi khỏi địa phương rất khó khăn (do cơ chế thị trường,
bỏ đi khỏi địa phương để tìm việc làm rất nhiều), do vậy rất khó xác định số
người và số trẻ em bị mua bán, lừa gạt ra nước ngoài. Với số người, trẻ em bị
mua bán ra nước ngoài, thủ đoạn của bọn tội phạm chủ yếu là dụ dỗ, lừa gạt
đi tìm việc làm, đi làm thuê kiếm tiền, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em, chúng
bán cho chủ chứa mại dâm, bán làm vợ cho người Trung Quốc. Chủ chứa mại
dâm lại bán cho chủ chứa khác, chúng triệt để lợi dụng phụ nữ, trẻ em để kiếm
tiền, trông giữ chặt không cho quan hệ với bên ngoài, không có điều kiện trốn
và thông tin tố giác để được giải cứu; Việc phối hợp với Công an Trung Quốc
để điều tra tội phạm, giải cứu nạn nhân trong thời gian qua được hai bên tăng
cường như hội đàm, khảo sát, cung cấp thông tin, giải cứu thu gom trao trả tội
phạm và nạn nhân, thường xuyên và đột xuất giải cứu kịp thời được nhiều phụ
nữ, trẻ em trở về gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, còn nhiều hạn chế như thông
tin trao đổi không kịp thời, địa chỉ và đặc điểm (ảnh) của nạn nhân, tội phạm
không có, ngôn ngữ không thông thạo... hạn chế trong công tác phòng ngừa,
đấu tranh. Mặt khác, tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em là người Việt
Nam cư trú bên đất Trung Quốc ta không quản lý được. Người Trung Quốc mua
phụ nữ, trẻ em Việt Nam để làm gái mại dâm, làm vợ, mua đi bán lại, số đối
tượng này ta không đưa về để xử lý theo pháp luật Việt Nam được, phía Trung
Quốc lại không đủ chứng cứ để xét xử bọn tội phạm này, đây là vấn đề rất
khó khăn và hạn chế lớn đến công tác răn đe, giáo dục, phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
82
Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, hạn chế trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em tại địa bàn tỉnh
Hà Giang, đó là, do công tác tuyên truyền, vận động trong quần chúng nhân
dân về các phương thức, thủ đoạn của tội phạm chưa được quan tâm đúng
mức, phương pháp tuyên truyền chưa thực sự phù hợp nên hiệu quả chưa cao;
bên cạnh đó, các cấp chính quyền địa phương chưa áp dụng phương thức sản
xuất phù hợp với điều kiện địa lý, tự nhiên của địa phương, chưa tạo được
công ăn việc làm hiệu quả cho nam nữ thanh niên; sự tăng cường, phối hợp
giữa các cơ quan chức năng trong công tác đấu tranh phòng, chống, phát hiện
tội phạm, công tác xác minh nạn nhân, đưa nạn nhân tái hòa nhập cộng
đồng... còn nhiều hạn chế; sự hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm này chưa thực sự thống nhất và có hiệu quả...
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Như vậy, có thể khẳng định rằng Hà Giang là một điểm nóng về mua
bán người và mua bán trẻ em với nhiều phương thức, thủ đoạn hoạt động của
bọn tội phạm. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực và cố gắng nhưng thiết nghĩ công
tác phòng chống tệ nạn mua bán người, mua bán trẻ em ở tỉnh Hà Giang cần
phải được thực hiện quyết liệt hơn nữa nhất là khâu tuyên truyền, vận động
trong quần chúng nhân dân, trang bị hiểu biết, kiến thức pháp luật cho người
dân nhất là các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới để tự bảo
vệ mình và những người thân trong gia đình. Các cơ quan chức năng cần nâng
cao trách nhiệm và năng lực của đội ngũ cán bộ để đẩy nhanh công tác khám
phá, tìm ra manh mối và đưa ra ánh sáng pháp luật những đường dây mua bán
đang hoạt động, giữ gìn trật tự và an toàn xã hội ở địa phương.
Công tác đấu tranh phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em ở
tỉnh Hà Giang thời gian qua đã gặp những khó khăn chính là:
Thứ nhất, do điều kiện kinh tế địa phương là vùng núi cao, có nhiều
đồng bào dân tộc thiểu số, xuất phát từ tập quán du canh, du cư của mỗi dân
83
tộc nên đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, không có đất canh tác, nhu
cầu tìm việc làm của người dân để tăng thêm thu nhập cho gia đình và bản
thân lớn, nên nhiều đối tượng đã lợi dụng điều này để hứa hẹn tìm việc làm,
thay đổi cuộc sống cho các đối tượng bị mua bán. Bên cạnh đó, tình trạng bỏ
học của thanh, thiếu niên diễn ra tương đối nhiều làm cho trình độ văn hóa bị
tụt hậu, kém hiểu biết. Mặt khác, tình trạng thiếu việc làm, kinh tế khó khăn,
phong tục sống đơn giản, dễ dãi, khiến một bộ phận không nhỏ phụ nữ, thanh
niên, dễ bị dụ dỗ, lừa bán qua biên giới làm vợ bất hợp pháp, bị bóc lột tình
dục hoặc trở thành gái mại dâm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ ở nước
ngoài, bị bóc lột sức lao động...
Thứ hai, việc giáo dục trong phạm vi gia đình và tuyên truyền pháp
luật trong cộng đồng, đặc biệt là tuyên truyền về âm mưu, thủ đoạn của tội
phạm mua bán người, mua bán trẻ em chưa được tiến hành thường xuyên,
chưa theo sát các chương trình kinh tế xã hội và nhân rộng các điển hình trong
công tác phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Đồng bào
các dân tộc thiểu số còn hạn chế hiểu biết vì trình độ dân trí thấp, nhiều người
không biết chữ, không biết tiếng phổ thông nên rất dễ bị bọn tội phạm lừa gạt,
lợi dụng.
Thứ ba, người phụ nữ dân tộc thiểu số đa phần phải lao động vất vả,
trở thành lực lượng lao động chính. Trong gia đình tình trạng bạo lực, bóc lột
phụ nữ ở các vẫn còn phổ biến, gây gánh nặng tâm lý khiến nhiều người tìm
cách thoát khỏi gia đình và rơi vào cạm bẫy của tội phạm mua bán người.
Thứ tư, công tác quản lý hộ khẩu, quản lý an ninh biên giới, xuất nhập
cảnh, hôn nhân và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài… còn gặp nhiều khó
khăn do địa hình hiểm trở, chia cắt và tập quán lạc hậu của đồng bào các dân
tộc thiểu số. Công tác điều tra cơ bản nắm tình hình chưa kịp thời, địa bàn
biên giới rộng, tội phạm có nhiều thủ đoạn tinh vi và tâm lý e ngại của các gia
84
đình có nạn nhân bị mua bán nên việc ngăn chặn, bắt giữ, giải cứu các nạn
nhân chưa kịp thời.
Thứ năm, trong hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em, còn chưa kịp thời, công tác trao đổi thông tin, hỗ trợ
điều tra xác minh, truy bắt tội phạm, cũng như giải cứu, tiếp nhận nạn nhân
gặp nhiều khó khăn. Trong các trường hợp mua bán người, mua bán trẻ em,
lực lượng an ninh nước bạn đa phần đều yêu cầu Việt Nam phải có thông tin
chính xác về đối tượng bị mua bán mới phối hợp và giải cứu, trong khi đó,
thực tế nạn nhân là người bị mua, bán không thể xác định được địa chỉ, nên
gây cản trở cho công tác truy bắt tội phạm.
Thứ sáu, hiện nay tỉnh Hà Giang vẫn chưa có lực lượng chuyên trách
trong công tác phòng ngừa, đấu tranh loại tội phạm này. Các cán bộ của
Chương trình hành động 130/CP của Chính phủ đa phần là kiêm nhiệm, nên
chưa thể tập trung toàn bộ thời gian cho nhiệm vụ chống mua bán người, mua
bán trẻ em.
85
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG
TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ MUA BÁN TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và thực tiễn công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em được đề
cập trong chương 1 và chương 2 của luận văn, đòi hỏi phải hoàn thiện hệ
thống pháp luật và có những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đối với các
tội phạm này. Những giải pháp này không chỉ có giá trị trên phương diện lập
pháp, hoàn thiện pháp luật hình sự, mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc
phòng ngừa, đấu tranh đối với tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên
cả nước, cũng như trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
3.1. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến lĩnh
vực đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm mua bán người và
mua bán trẻ em nói riêng. Các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta
trong đấu tranh phòng chống tội phạm được thể hiện qua các văn kiện của
Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24
tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 đã xác định hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa
đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống, cơ chế
xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý, chưa được coi trọng đổi
mới, hoàn thiện; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ
86
Chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết đã đề ra các phương
án hoàn thiện về cơ sở vật chất, cơ cấu tổ chức của các cơ quan tiến hành tố
tụng như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
tình hình mới. Theo đó cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án phải luôn
bám sát các nghị quyết của Đảng, chỉ thị của Nhà nước trong lãnh đạo, chỉ
đạo công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để có những chủ
trương, biện pháp sát thực, phù hợp với địa phương, đơn vị trong đấu tranh
phòng chống tội phạm, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Trong xu thế toàn cầu hóa, cùng với sự phát triển vững mạnh của đất
nước, toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng tiềm ẩn nhiều
yếu tố gây khó khăn cho nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển,
trong đó có Việt Nam. Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
tranh chấp về lãnh thổ, biên giới, biển đảo và tài nguyên thiên nhiên tiếp tục
diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng gay gắt, phức tạp. Nhiều vấn đề
nhức nhối toàn cầu đòi hỏi các quốc gia, các tổ chức quốc tế phải cùng đứng
ra giải quyết như: khoảng cách chênh lệch giữa nhóm các nước giàu và các
nước nghèo ngày càng lớn, sự gia tăng dân số cùng với các luồng di cư từ các
nước nghèo sang nước giàu, tình trạng khan hiếm nguồn tài nguyên thiên
nhiên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại, sự biến đổi khí hậu toàn cầu dẫn đến
thiên tai, dịch bệnh... dẫn đến những khó khăn trong phát triển kinh tế, thay
đổi cơ cấu xã hội khiến cho các loại tội phạm gia tăng, các loại tội phạm
xuyên quốc gia, tội phạm quốc tế trong đó có nạn buôn bán người, buôn bán
trẻ em với tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm và tinh vi, gây ảnh hưởng
không nhỏ đến an ninh quốc gia và sự ổn định của khu vực. Cùng với thế
giới, ở Việt Nam công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đòi hỏi phải
được đặc biệt chú trọng, các chủ trương đường lối của Đảng về đấu tranh
phòng chống tội phạm phải được cụ thể hóa trong từng giai đoạn, phù hợp với
tình hình thực tế của đất nước. Bên cạnh đó, việc tiếp tục thực hiện cải cách tư
87
pháp, đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật hình sự một
cách toàn diện, kịp thời là điều kiện cần thiết và quan trọng, góp phần nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, cũng như tội phạm
mua bán người, mua bán trẻ em nói riêng.
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm mua bán người, mua bán trẻ em còn một số bất cập cần phải được khắc
phục và hoàn thiện để đảm bảo hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử đối
với loại tội phạm này trên cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang
nói riêng. Việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em phải đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm, phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm và phù hợp với điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay cũng như trong thời gian tới.
Quy định về tội mua bán người, mua bán trẻ em đảm bảo rõ ràng, cụ
thể và bổ sung thêm về hành vi khách quan, phù hợp với các quy định của
pháp luật quốc tế về hành vi, độ tuổi...; bổ sung thêm một số tình tiết định
khung đối với các tội phạm khác trong cùng nhóm tội hoặc các tội phạm khác
có liên quan đến hành vi giúp sức cho tội phạm mua bán người, mua bán trẻ
em hoàn thành. Đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải bị xử lý theo pháp
luật, tránh bỏ lọt tội phạm và hành vi phạm tội, hình phạt áp dụng phù hợp với
hành vi, tính chất và mức độ của tội phạm.
Trong bối cảnh hiện nay, từ ngày 29 tháng 12 năm 2011, nước ta đã phê
chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia và Nghị định thư về phòng ngừa, đấu tranh và trừng phạt buôn bán người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung Công ước về chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia. Do vậy, cần thiết phải hoàn thiện pháp luật hình sự, cũng như
các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự về tội mua bán người, mua bán
88
trẻ em cho phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế, để đạt được hiệu
quả cao nhất trong đấu tranh phòng, chống loại tội này. Theo quan điểm của
tác giả, trong giai đoạn hiện nay, quy định của Bộ luật hình sự cần sửa đổi, bổ
sung Điều 119 về tội mua bán người và Điều 120 về tội mua bán trẻ em như sau:
Thứ nhất, quy định tại Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009) không đưa ra một khái niệm hoặc mô tả cụ thể
hành vi của tội mua bán người, mua bán trẻ em mà chỉ quy định "Người nào
mua bán người thì bị phạt..."; "Người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm
đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt...". Như vậy, theo quy định
tội mua bán người và tội mua bán trẻ em chỉ bao gồm hai loại hành vi là mua
(trao đổi tiền để lấy người) và bán (trao đổi người để lấy tiền), trong khi mua
bán người, mua bán trẻ em có một quá trình bao gồm nhiều hành vi khác như
tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp (che giấu), tiếp nhận và trong
nhiều trường hợp còn có cả hành vi bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt nhằm mục
đích mua và bán. Do vậy, trong thực tiễn, công tác phát hiện, điều tra và xử lý
loại tội phạm này gặp những khó khăn nhất định, có nhiều quan điểm chưa
thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến trong một số trường
hợp còn bỏ lọt tội phạm hoặc bỏ lọt hành vi phạm tội. Hơn nữa, việc quy định
các hành vi khách quan như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, che giấu
người, trẻ em còn phù hợp với xu thế chung trong quy định của Bộ luật hình
sự các nước trên thế giới.
Thứ hai, đối với tội mua bán người quy định của Điều 119 Bộ luật
hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) chỉ quy định một số tình tiết
định khung tăng nặng như: vì mục đích mại dâm; có tổ chức; có tính chất
chuyên nghiệp; để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; để đưa ra nước ngoài; đối
với nhiều người; phạm tội nhiều lần. Tuy nhiên, trong thực tiễn có rất nhiều
vụ án người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm hoặc gây ra hậu quả
nghiêm trọng như nạn nhân hoặc người thân tự sát, chị em phụ nữ buộc phải
89
sinh con cho người nước ngoài, bị bóc lột tình dục...; đối với tội mua bán trẻ
em quy định tại Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009),
ngoài các tình tiết định khung tăng nặng đã quy định, thực tiễn đã phát sinh
hành vi mua bán trẻ em do lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Do vậy, cần bổ sung
thêm tình tiết định khung tăng nặng tái phạm nguy hiểm; gây hậu quả nghiêm
trọng trong Điều 119 và tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong Điều 120
Bộ luật hình sự, như vậy, sẽ đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em và góp phần phân hóa trách
nhiệm hình sự một cách chính xác hơn khi xử lý đối với những người thực
hiện tội phạm này.
Từ những phân tích trên, có thể bổ sung Điều 119, Điều 120 Bộ luật
hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) theo hướng như sau:
Về hành vi khách quan cần bổ sung thêm các hành vi tuyển mộ, vận
chuyển, chuyển giao, chứa chấp (che giấu), tiếp nhận hoặc các hành vi khác
nhằm mục đích mua bán người, mua bán trẻ em đều phạm tội mua bán người
hoặc tội mua bán trẻ em.
Về điều luật cần bổ sung thêm một số tình tiết định khung tăng nặng,
đối với Điều 119 quy định về tội mua bán người:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
năm năm đến hai mươi năm:
a).................
h) Tái phạm nguy hiểm;
i) Gây hậu quả nghiêm trọng.
Đối với Điều 120 quy định về tội mua bán trẻ em:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a).................
l) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
90
Ngoài ra, đối với một số tội có liên quan đến tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em như: tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của
cơ quan, tổ chức (Điều 266), tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
(Điều 267) và tội giả mạo trong công tác (Điều 284), cần nghiên cứu để bổ
sung tình tiết định khung tăng nặng như sửa chữa, giả mạo giấy tờ, tài liệu,
con dấu và sử dụng chúng để đưa người đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài
trái phép. Vì trong thực tiễn tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em với
mục đích để đưa ra nước ngoài, nhiều trường hợp tội phạm hoàn thành khi
nạn nhân bị đưa ra nước ngoài một cách hợp pháp với "sự giúp sức" của các
loại giấy tờ giả mạo, do vậy, cần nghiên cứu, bổ sung một cách hợp lý để xử
lý triệt để các hành vi phạm tội.
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM
Để khắc phục những tồn tại và hạn chế những thiếu sót của các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm
mua bán người và mua bán trẻ em, nhằm xử lý triệt để các hành vi mua bán
trái pháp luật, cần chú ý một số giải pháp sau:
Thứ nhất, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải nắm vững chủ trương
đường lối của Đảng, Nhà nước trong từng giai đoạn, từ đó vận dụng linh hoạt
vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội mua bán người,
mua bán trẻ em nói riêng. Nghiêm chỉnh thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5
năm 2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02
tháng 6 năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Khi áp dụng
các quy định của pháp luật để xử lý đối với tội mua bán người, mua bán trẻ
em cần lựa chọn, áp dụng các biện pháp phù hợp, đảm bảo đồng thời các yêu
91
cầu về chính trị, văn hóa, kinh tế và pháp luật, đảm bảo hiệu quả công tác đấu
tranh, phòng ngừa tại địa phương.
Thứ hai, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và
các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong phát hiện,
khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các tội phạm về mua bán người và mua bán
trẻ em. Đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của
pháp luật, không bị oan sai, không bỏ lọt tội phạm và hành vi phạm tội.
Thứ ba, thực hiện nghiêm các quy định của Thông tư liên tịch số
06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNN-VKSNDTC ngày 02 tháng 8
năm 2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đây là một trong những thao tác đầu tiên
trong việc phát hiện và xử lý tội phạm nhất là đối với tội phạm mua bán người
và mua bán trẻ em, việc quản lý, giải quyết tốt tố giác, tin báo sẽ giúp cơ quan
chức năng kiểm soát được tình hình mua bán người xảy ra trên địa bàn, khi có
một phần nguyên nhân tội phạm ẩn của loại tội này là do chính từ phía các
nạn nhân vì những lý do nào đó mà không tố giác tội phạm.
Thứ tư, việc điều tra, truy tố, xét xử tội mua bán người và tội mua bán
trẻ em phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Việc tuân
thủ triệt để các quy định của pháp luật tố tụng hình sự các quy định khác của
pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo việc xử lý những người phạm
tội mua bán người, mua bán trẻ em được chính xác, khách quan, có tác dụng
giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung.
Thứ năm, lựa chọn, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong việc điều tra, truy tố, xét xử các loại tội
phạm, trong đó có tội mua bán người và mua bán trẻ em. Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán phải là những người có năng lực, có trình độ chuyên môn
92
nghiệp vụ, có tâm huyết và uy tín, giải quyết vụ án một cách chính xác, khách
quan, tạo được niềm tin trong nhân dân và có tác dụng giáo dục, thuyết phục
đối với người phạm tội.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội mua bán
người, mua bán trẻ em, yêu cầu đặt ra với các cơ quan tiến hành tố tụng là cần
tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu và các quy định một cách chính xác, linh hoạt,
phù hợp với từng vụ án cụ thể. Bên cạnh đó, phải nắm vững các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, thực hiện nghiêm chỉnh và xây dựng phương
hướng đổi mới để hoạt động có hiệu quả, phù hợp với tiến trình cải cách tư
pháp hiện nay.
3.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH
PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ MUA BÁN TRẺ EM, TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
Trong thời gian qua, cùng với cả nước, các cơ quan chức năng và các
cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang đã góp phần không nhỏ
vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là đối với tội phạm mua bán
người và mua bán trẻ em. Xác định đây là một nhiệm vụ khó khăn và phức
tạp, chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm ẩn làm phát sinh các loại tội phạm và các
tệ nạn xã hội khác như giết người, cướp của, bắt cóc, hiếp dâm, tệ nạn mại
dâm, cưỡng bức lao động, vượt biên trái phép... nên công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em đã được chú trọng, tuy nhiên,
số lượng các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em qua các năm vẫn có chiều
hướng gia tăng, số tội phạm ngày càng trẻ hóa, phần nào thể hiện hiệu quả
công tác đấu tranh, phòng ngừa chưa thật sự hiệu quả. Từ cơ sở lý luận và
thực tiễn xét xử tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh
Hà Giang. Để ngăn chặn, phát hiện và xử lý triệt để loại tội phạm này trên địa
bàn tỉnh, tác giả xin đề xuất một số giải pháp cụ thể sau đây.
93
3.3.1. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân tham
gia phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật luôn được coi là một trong
những biện pháp hữu hiệu nhất trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán
trẻ em nói riêng. Tỉnh Hà Giang, với đặc điểm địa lý phức tạp, kinh tế chưa
phát triển và đặc biệt là cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số sống ở
vùng sâu, vùng xa vô cùng khó khăn, trình độ dân trí thấp, nên mặc dù các
cấp chính quyền và các ngành địa phương đã quan tâm, chú trọng tới công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong người dân bằng các hình thức
như: thông qua các đội ngũ tuyên truyền viên của cơ quan tư pháp, Hội phụ
nữ, Mặt trận Tổ quốc, Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên; thông qua các buổi
phổ biến, giáo dục pháp luật tại thôn, bản; tuyên truyền trong các buổi giao
lưu, biểu diễn văn hóa, văn nghệ; vận động người dân cho con em đi học văn
hóa; tuyên truyền, vận động người dân có ý thức chấp hành pháp luật của đội
ngũ cán bộ Công an, Bộ đội Biên phòng...; thông qua các hình thức tuyên
truyền, giáo dục khác như phiên tòa xét xử lưu động của các cơ quan tiến
hành tố tụng tại các phiên chợ vùng cao... nhưng diễn biến của tình hình tội
phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua,
cho thấy hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
chưa cao, chưa thực sự sâu rộng nâng cao được nhận thức của người dân về
hành vi mua bán người và mua bán trẻ em, để từ đó người dân có nhận thức
và biện pháp tự bảo vệ mình và những người thân trong gia đình.
Để công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng chống tội phạm
trên địa bàn tỉnh Hà Giang đạt hiệu quả cao hơn, nhất là nhận thức của nhân
dân về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, các cấp ủy Đảng và chính
quyền địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh và đổi mới công tác tuyên truyền,
giáo dục theo hướng:
94
Thứ nhất, về đội ngũ cán bộ, tuyên truyền viên: cần lựa chọn và xây
dựng tại cơ sở xã, phường, thôn, bản, đội ngũ tuyên truyền viên có năng lực,
có kinh nghiệm, năng động, trách nhiệm trong công việc và có uy tín trong
nhân dân, am hiểu điều kiện sống và sinh hoạt của người dân. Đội ngũ cán bộ,
tuyên truyền viên này cần hoạt động chuyên trách, các hình thức tuyên truyền
cần có sự đổi mới sao cho dễ truyền đạt, dễ hiểu và thu hút quần chúng vì đây
là những vấn đề có phần khô cứng đòi hỏi phảỉ có phương thức truyền đạt hấp
dẫn giúp người tiếp nhận có thể nắm bắt một cách hứng thú vấn đề pháp luật
đã nêu ra.
Thứ hai, với đặc thù của vùng dân tộc thiểu số, vai trò của trưởng
thôn, trưởng bản là hết sức quan trọng trong việc vận động, tập hợp quần
chúng nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, tuyên truyền viên
là người địa phương, là các cán bộ chủ chốt của thôn, bản sẽ làm cho công tác
tuyên truyền, giáo dục pháp luật đạt hiệu quả cao hơn, người dân tin tưởng, có
ý thức trách nhiệm và nâng cao hơn ý thức chấp hành pháp luật.
Thứ ba, cần đổi mới hình thức và nội dung tuyên truyền pháp luật: bên
cạnh các hình thức tuyên truyền như đã nêu trên, việc sử dụng các phương
tiện thông tin đại chúng vào mục đích nâng cao nhận thức và ý thức chấp
hành pháp luật của người dân cần được áp dụng triệt để. Đa số đồng bào dân
tộc không biết chữ nên hình thức tuyên truyền trên truyền hình, đài phát thanh
đặc biệt hiệu quả. Do đó, cần tăng cường đưa phổ biến, giáo dục pháp luật
vào chương trình truyền hình, đài phát thanh tiếng dân tộc của từng địa
phương, nội dung tuyên truyền ngắn gọn, đầy đủ và dễ hiểu, phù hợp với tập
quán của từng dân tộc. Thông qua đó, có thể mô tả cụ thể những hành vi,
phương thức, thủ đoạn phạm tội của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
xảy ra trên thực tế tại địa phương, nhằm giáo dục và cảnh tỉnh người dân
trước nguy cơ bị dụ dỗ, cưỡng ép bán qua biên giới, đồng thời trang bị cho
95
người dân những kiến thức pháp luật giúp người dân nắm bắt, nhận thức được
hành vi phạm tội để chủ động phòng tránh.
Thứ tư, cần thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ khen thưởng, biểu
dương kịp thời để khuyến khích, động viên tất cả quần chúng nhân dân tham
gia phong trào toàn dân đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3.3.2. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, gắn xây
dựng nông thôn mới với công tác xóa đói giảm nghèo, dạy nghề và tạo
việc làm cho nam nữ thanh niên
Đây là một trong những giải pháp mang tính quyết định trong công tác
phòng ngừa, đấu tranh đối với tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em
trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Nguyên nhân chủ yếu của các vụ, việc phạm tội
mua bán người, mua bán trẻ em là do đời sống kinh tế: người phạm tội do khó
khăn về kinh tế nên kiếm lợi nhuận một cách bất hợp pháp bằng cách lừa, dụ
dỗ nạn nhân đưa qua biên giới bán lấy tiền hoặc bán chính con đẻ của mình để
trang trải cuộc sống hàng ngày; nạn nhân vì cuộc sống kinh tế khó khăn khi bị
rủ rê, đã đồng ý sang Trung Quốc để làm thuê hoặc có nhu cầu lấy chồng
người Trung Quốc để cuộc sống sung sướng hơn... nên đã bị các đối tượng
phạm tội dễ dàng lợi dụng. Bên cạnh đó, xuất phát từ nguyên nhân đói nghèo,
mà các nam nữ thanh niên tìm cách thoát ly sang bên kia biên giới tìm việc
làm, nhiều gia đình phải cho con nuôi...
Để phần nào hạn chế những nguyên nhân dẫn đến tội phạm, hạn chế
tình trạng đưa người trái phép qua biên giới và tội phạm mua bán người, mua
bán trẻ em, cần triển khai các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo trên phạm vi toàn tỉnh. Trước hết là chương trình xây dựng nông
thôn mới, huy động toàn lực từ các nguồn vốn ngân sách và vốn xã hội hóa để
xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao đời sống và dân trí cho nhân dân. Với đặc
điểm địa hình chủ yếu là vùng núi đá, cần nghiên cứu đưa cây trồng, vật nuôi
phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng của từng vùng, khuyến khích, tăng cường
96
dạy nghề, tạo việc làm ổn định cho nam nữ thanh niên, chuyển giao khoa học
công nghệ cho người dân, tiếp thu cây, con giống mới đem lại thu nhập và
hiệu quả kinh tế, từng bước giúp người dân có thu nhập, ổn định và nâng cao
chất lượng cuộc sống sẽ giúp giảm thiểu tình trạng phạm tội, từng bước nâng
cao hiệu quả phòng, chống tội phạm.
3.3.3. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của loại tội phạm
mua bán người, mua bán trẻ em, đó là do công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm mua bán người, mua bán trẻ em chưa được triển khai một cách toàn
diện, đồng bộ, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, đặc biệt là giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự chặt chẽ, cơ chế tổ chức bộ máy thực
hiện chưa đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tội phạm trong tình hình mới,
còn nhiều hạn chế trong việc phối hợp phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội
phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Nhiều vụ án mua bán người, mua bán
trẻ em không được phát hiện kịp thời dẫn đến nhiều đối tượng ở ngoài xã hội
tiếp tục phạm tội.
Trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, các cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện các hành vi tố tụng theo chức năng, nhiệm vụ của mình
được quy định trong luật tố tụng một cách độc lập, không phụ thuộc vào nhau.
Từng cá nhân (người tiến hành tố tụng), cơ quan tiến hành tố tụng một cách
độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về mọi hành vi tiến hành tố tụng. Tất cả các cá nhân, cơ quan tiến hành tố
tụng đều có nghĩa vụ, trách nhiệm chung là bảo vệ pháp chế và buộc họ phải
có sự phối hợp, gắn kết với nhau. Chính vì vậy, quan hệ phối hợp giữa Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong mọi hoạt động của công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm nói chung và loại tội phạm mua bán người, mua
bán trẻ em nói riêng là tất yếu, sự phối hợp này tạo thành sự thống nhất, định
97
hướng, đồng thời còn là sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi cơ quan
tiến hành tố tụng hoàn thành nhiệm vụ, tránh được nhiều sai sót trong cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Các cơ quan tiến hành tố tụng cần tăng cường sự phối hợp để tiếp tục
có biện pháp đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung
cũng như công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua
bán trẻ em nói riêng, gắn công tác đấu tranh với công tác tuyên truyền, vận
động. Xuất phát từ yêu cầu thực tế trong điều tra phòng, chống tội phạm mua
bán người, mua bán trẻ em, đối chiếu với các quy định của pháp luật hiện
hành, phải thường xuyên phối hợp, tổ chức các cuộc họp, giao ban liên ngành
giữa các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án để cùng nhau xác định
những vấn đề, những quy định pháp luật cần phải giải thích và hướng dẫn thi
hành khi xử lý loại tội phạm này, cùng rút kinh nghiệm, tìm ra những khó
khăn, vướng mắc trong công tác đấu tranh phòng ngừa và trong quá trình giải
quyết từng vụ án cụ thể, tìm ra nguyên nhân, điều kiện và các biện pháp giải
quyết tốt nhất đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội,
đúng quy định của pháp luật, không oan sai và không bỏ lọt tội phạm. Xây
dựng các vụ án điểm về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, đưa ra xét
xử lưu động nhằm răn đe, giáo dục phòng ngừa và phục vụ tốt nhiệm vụ chính
trị tại địa phương về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tăng cường sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, nhất
là sự phối hợp chặt chẽ ngay từ giai đoạn quản lý, tiếp nhận tin báo, tố giác về
tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, có sự phân loại, đánh giá tính chất,
mức độ vụ án để xây dựng kế hoạch giải quyết ngay từ đầu. Viện kiểm sát
kiểm sát chặt chẽ quá trình khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra đảm bảo
đúng thủ tục tố tụng, không để xảy ra tình trạng áp dụng các biện pháp ngăn
chặn một cách bừa bãi. Có sự phối, kết hợp chặt chẽ giữa Điều tra viên và
Kiểm sát viên được phân công trong toàn bộ quá trình điều tra vụ án, đảm bảo
98
kết quả điều tra khách quan, toàn diện, không để lọt tội phạm và hành vi phạm
tội, không khởi tố oan sai hoặc đình chỉ vụ án do không đủ căn cứ chứng
minh tội phạm.
Tăng cường hơn nữa công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án
trong việc truy tố, xét xử tội phạm, đảm bảo đúng người, đúng tội. Không để
xảy ra tình trạng xét xử oan sai bị cấp phúc thẩm hủy án hoặc tòa án tuyên
không phạm tội. Phối hợp đưa ra xét xử lưu động các vụ án mua bán người,
mua bán trẻ em có tính chất điển hình, tại các địa bàn phức tạp tiềm ẩn phát
sinh nhiều loại tội phạm và nhiều đối tượng phạm tội, nhằm răn đe, giáo dục
người phạm tội, tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân về công tác
phòng ngừa, đấu tranh đối với loại tội phạm này.
Bên cạnh đó, cần thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập
huấn chuyên sâu về công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán người
và mua bán trẻ em cho các cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán
làm công tác giải quyết án. Lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần
có phương pháp, lựa chọn các cán bộ có năng lực nghiệp vụ và kinh nghiệm
để tiếp nhận điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về mua bán người và mua bán
trẻ em, đặc biệt là các vụ án phức tạp, có yếu tố nước ngoài.
3.3.4. Tăng cường sự phối hợp với các ngành chức năng trong
công tác phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em
Xuất phát từ nhiệm vụ của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung, phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nói riêng, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chủ động phối hợp với nhau, phối
hợp với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức khác trong từng công việc
cụ thể. Sự phối hợp này càng chặt chẽ bao nhiêu, càng phát huy được hiệu
quả công việc bấy nhiêu và nó càng thể hiện sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị, của toàn xã hội.
Việc khai thác, thu thập thông tin, tài liệu phản ánh tình hình hoạt
động của tội phạm và rà soát nhân khẩu một cách thường xuyên tại các địa
99
bàn có nguy cơ xảy ra tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em cần sự phối
hợp của các đơn vị như Công an, Bộ đội Biên phòng, Hải quan và các tổ chức
liên quan khác. Do đó, lực lượng Công an cần tăng cường nghiệp vụ, thường
xuyên rà soát các đối tượng có dấu hiệu nghi vấn, qua đó đánh giá chính xác
tình hình mua bán người, mua bán trẻ em xảy ra tại địa phương. Có sự phối
hợp chặt chẽ với lực lượng Bộ đội Biên phòng, Hải quan, tiến hành điều tra
cơ bản trên các khu vực dọc tuyến biên giới, tập trung vào các địa bàn trọng
điểm như các cửa khẩu, chợ đường biên, đường tiểu ngạch, địa bàn thường
xuyên có xuất nhập cảnh trái phép... duy trì hoạt động tuần tra một cách
thường xuyên, chủ động phát hiện và ngăn chặn tội phạm.
Tăng cường sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra và các cơ quan khác
được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc tiếp nhận, quản lý
các tố giác, tin báo tội phạm từ quần chúng nhân dân, kịp thời xác minh và xử
lý với những thông tin nhận được. Các tin phản ánh được tập trung về cơ quan
Công an (theo quy định của Thông tư liên tịch số 06/2013 ngày 12 tháng 8
năm 2013 của Liên ngành Trung ương) để nghiên cứu, phân tích, đánh giá,
nhận định tình hình tội phạm, phương thức, thủ đoạn hoạt động, ổ nhóm,
đường dây, phạm vi và quy mô hoạt động, xây dựng kế hoạch, phát hiện, xác
lập hiềm nghi và chuyên án đấu tranh.
Đối với Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp, cần lồng ghép công tác tuyên
truyền pháp luật với dạy nghề, hướng dẫn chị em phụ nữ lao động sản xuất,
xóa đói giảm nghèo, những trường hợp khó khăn phải kịp thời hỗ trợ để gia
đình phát triển kinh tế. Trong công tác tuyên truyền, cần hướng dẫn, bồi
dưỡng kiến thức pháp luật cho chị em phụ nữ nhận diện tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em để tự bảo vệ bản thân và gia đình. Thực trạng hiện nay
tại tỉnh Hà Giang, nơi vùng sâu, vùng xa có các dân tộc thiểu số sinh sống,
một phần là do phong tục tập quán, nên việc tảo hôn và sinh nhiều con đã trở
thành vấn nạn, hơn nữa người phụ nữ là lao động chính trong gia đình, do sự
vất vả cùng với hoàn cảnh kinh tế khó khăn là một trong những nguyên nhân
100
làm chị em nảy sinh tư tưởng thích sang Trung Quốc lấy chồng hoặc sang làm
thuê, nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm mua bán người, mua bán trẻ
em ngày một gia tăng. Do đó, việc tuyên truyền pháp luật, vận động chị em và
nhân dân phát giác, tố giác tội phạm, giúp đỡ các chị em là nạn nhân trở về hòa
nhập với cộng đồng, chia sẻ, cảm hóa và giáo dục những chị em lầm lỗi cùng
sinh hoạt trong Hội để giúp họ có cơ hội sửa chữa, cũng là một trong những
giải pháp hiệu quả phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và mua bán trẻ em.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cần tăng cường phối hợp với cơ
quan Công an, Bộ đội Biên phòng quản lý, kiểm soát được số lượng phụ nữ,
nam giới, trẻ em là nạn nhân của tội phạm mua bán phụ nữ, mua bán trẻ em
để tiếp nhận và có chính sách hỗ trợ tái hòa nhập nhằm giảm bớt những tổn
hại về tinh thần đối với họ. Vì thực trạng hiện nay ở tỉnh Hà Giang, rất nhiều
chị em phụ nữ dân tộc thiểu số là nạn nhân của tội mua bán người, bị ép bán
dâm hoặc làm vợ người nước ngoài, khi được giải cứu trở về thường bị gia
đình nhà chồng và xã hội ruồng bỏ dẫn đến nhiều tiêu cực hoặc họ lại bỏ sang
Trung Quốc sinh sống, đây cũng là một nguy cơ tiềm ẩn làm phát sinh nhiều
tội phạm sau này.
Ủy ban Dân số - Gia đình và Trẻ em cần làm tốt công tác tuyên truyền
kế hoạch hóa gia đình, phòng chống nạn xâm hại tình dục ở phụ nữ và trẻ vị
thành niên, tư vấn bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cho người dân để
phòng ngừa tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em.
Sở Tư pháp tham mưu cho lãnh đạo tỉnh xây dựng các văn bản pháp
luật, các chính sách hỗ trợ, phát triển kinh tế, đảm bảo an toàn khi xuất khẩu
lao động, kịp thời phòng ngừa tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em.
Mặt trận Tổ quốc cần tăng cường đại đoàn kết tại địa phương, giúp
cộng đồng cùng quan tâm đến thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục và ngăn chặn
kịp thời các biểu hiện của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, tạo môi trường lành mạnh, an toàn, đẩy
lùi tội phạm và các dấu hiệu phạm tội.
101
Ngoài ra, cần huy động mọi nguồn lực và sự tham gia của các tổ chức
chính trị, xã hội khác để tuyên truyền, vận động người dân hiểu rõ thủ đoạn
của tội phạm, phòng ngừa có hiệu quả tội phạm mua bán người và mua bán
trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
3.3.5. Tăng cường công tác xác minh và hỗ trợ tái hòa nhập cộng
đồng cho nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
Trong đấu tranh với tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em công tác
xác minh nạn nhân bị mua bán luôn đòi hỏi phải khẩn trương, kịp thời hồi
hương cho những nạn nhân bị mua bán. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công việc
này gặp rất nhiều khó khăn do thông tin nhân thân của nạn nhân do phía nước
ngoài cung cấp thường không đầy đủ và chính xác. Với tỉnh Hà Giang, đa số
nạn nhân sống ở vùng xa xôi đòi hỏi phải có nhân lực, phương tiện phục vụ
cho công tác mới đáp ứng kịp thời. Nhiều cơ quan chức năng và chính quyền
địa phương còn lúng túng khi xác định nạn nhân, không quản lý được nạn
nhân có ra nước ngoài hay không, các cơ quan chưa có cơ chế phối hợp nên
giải quyết các thủ tục xác định nạn nhân mất rất nhiều thời gian và gây chậm
trễ ảnh hưởng tới quá trình điều tra. Mặt khác, phía nước ngoài thường trao
trả nạn nhân lẫn với người xuất nhập cảnh trái phép nên khó phân loại và xác
định nạn nhân hoặc một phần không nhỏ các nạn nhân tự giải thoát, trở về địa
phương nhưng không tố giác... Do vậy, các cơ quan chức năng của tỉnh cần
tăng cường công tác quản lý nhân khẩu tại địa phương, xây dựng một cơ chế
phối hợp với phía nước ngoài và giữa các cơ quan an ninh trong nước nhằm
nhanh chóng trao đổi thông tin về nạn nhân, thu thập tư liệu, bằng chứng phục
vụ quá trình điều tra, đồng thời nắm chắc thời gian, địa điểm giao nhận để tiếp
nhận và hồi hương cho các nạn nhân. Có như vậy sẽ nắm chắc, quản lý và tiếp
nhận tốt tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em tại địa phương để
có biện pháp phòng ngừa, đấu tranh phù hợp.
Đối với các nạn nhân bị mua bán qua biên giới, việc tái hòa nhập cộng
đồng sau khi họ trở về là một công việc khó khăn, nhạy cảm, thầm lặng, tốn
102
nhiều thời gian và công sức. Nguyên nhân là do địa phương chưa khảo sát,
đánh giá số nạn nhân trở về sau khi bị mua bán nên số nạn nhân được hỗ trợ
chiếm tỷ lệ thấp, việc hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng ở nhiều nơi trên địa bàn
tỉnh mới chỉ áp dụng cho các nạn nhân trở về khi được giải cứu, trao trả và
được thực hiện bước đầu như hỗ trợ kinh tế, tâm lý, pháp lý, còn đối với rất
nhiều nạn nhân sau khi trở về nhưng địa phương do không nắm và quản lý
được thông tin nên trong nhiều trường hợp, họ không được hỗ trợ để tái hòa
nhập. Bên cạnh đó, thái độ của cộng đồng với các nạn nhân đã trở về nhiều
khi có sự kỳ thị, xa lánh đặc biệt là với các phụ nữ bị bán qua nước ngoài để
phục vụ mục đích mại dâm.
Tuy nhiên, công tác tái hòa nhập cộng đồng cho những nạn nhân trở
về sau khi bị mua bán ở tỉnh Hà Giang cũng có nhiều điểm khác biệt nên cần
có những biện pháp riêng. Với những đối tượng là phụ nữ người dân tộc thiểu
số bị bán qua biên giới khi trở về việc cần thiết với họ là ổn định kinh tế, tạo
công ăn việc làm ổn định cho họ có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Khác với
các địa phương ở khu vực trong cả nước, vấn đề gánh nặng tâm lý không phải
là vấn đề chính. Với phong tục, tập quán của người dân tộc thiểu số, đa số
những nạn nhân khi trở về vẫn được cộng đồng và gia đình chấp nhận và
được trở lại cuộc sống bình thường. Vấn đề tái hòa nhập ở địa bàn Hà Giang
là được hỗ trợ, tạo công ăn việc làm bằng các phương thức như dạy nghề,
chuyển giao khoa học, kỹ thuật đối với vật nuôi và cây trồng phù hợp để các
nạn nhân ổn định cuộc sống. Bên cạnh đó, các ngành như Sở Lao động -
Thương binh và xã hội, Hội phụ nữ cũng cần có nhiều nỗ lực để hỗ trợ các
nạn nhân như có sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công an, Biên phòng
trong việc nắm và tiếp nhận thông tin về nạn nhân; thường xuyên khảo sát, rà
soát, đánh giá tình hình nạn nhân trở về và các thương tổn tâm lý xã hội khi bị
mua bán; xây dựng mạng lưới hỗ trợ tái hòa nhập cho nạn nhân và có cơ chế
giám sát, theo dõi, đánh giá hiệu quả. Bên cạnh đó cần thường xuyên tổ chức
103
các lớp tập huấn pháp luật, chính sách, kỹ năng để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ
nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em tái hòa nhập cộng đồng.
3.3.6. Tăng cường phối hợp, hợp tác quốc tế trong công tác phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
Tỉnh Hà Giang với đặc thù có đường biên giới dài tiếp giáp với Trung
Quốc nên trong các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em, các nạn nhân đều
bị mua, bán sang Trung Quốc qua các cửa khẩu, chợ biên giới, đường tiểu
ngạch hoặc đưa qua đường biên giới Lào Cai, Lạng Sơn... Trong những năm
qua, chính quyền tỉnh Hà Giang đã đẩy mạnh hợp tác quốc tế với Trung Quốc
trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và đặc biệt là công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người và mua bán trẻ
em qua biên giới. Sự phối hợp đấu tranh phòng chống tội phạm giữa hai nước
đã đạt được những kết quả nhất định, số tội phạm người nước ngoài phạm tội
trên lãnh thổ Việt Nam và số tội phạm là người Việt Nam phạm tội bỏ trốn
sang Trung Quốc bị bắt, trao trả để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội mua
bán người, mua bán trẻ em đã tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, sự hợp tác quốc tế
với Trung Quốc trong công tác xác minh, truy bắt tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em gặp không ít khó khăn, nhiều vụ án nạn nhân hoặc chính
những người đồng phạm là người Việt Nam không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ
thể của các đối tượng bên Trung Quốc hoặc chỉ biết nơi ở nhưng không biết
địa chỉ cụ thể..., bên cạnh đó, các thủ tục để xác minh, điều tra tội phạm theo
thủ tục đối ngoại gặp rất nhiều vướng mắc, việc giải quyết một số vụ án mua
bán người, mua bán trẻ em có tổ chức, xuyên quốc gia gặp nhiều khó khăn do
chưa có sự phối hợp hoặc tạo điều kiện từ phía các cơ quan chức năng nước
ngoài. Do vậy, sự phối hợp và hợp tác quốc tế chưa được chặt chẽ, triệt để,
dẫn đến bỏ lọt nhiều đối tượng phạm tội và là một trong những nguyên nhân
khiến tội phạm manh động hơn.
Để công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua
bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang đạt hiệu quả cao hơn, các cơ quan chức
104
năng ngoài công tác tuyên truyền, phòng, chống tội phạm trong nước cần có
sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh nước láng giềng (Trung Quốc)
bằng nhiều hình thức như: thường xuyên giao ban, trao đổi thông tin hai
chiều; thông tin tình hình tội phạm kịp thời, chính xác để phối hợp điều tra,
xác minh truy bắt đối tượng và giải cứu nạn nhân bị mua bán; quản lý tốt tình
hình xuất nhập cảnh ở từng địa phương, có sự trao đổi thông tin về các đối
tượng nghi vấn; triển khai cao điểm tấn công trấn áp tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em trên tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc...
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trước yêu cầu của xu thế hội nhập quốc tế và yêu cầu cải cách tư pháp
hiện nay, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp và có chiều hướng
gia tăng về số lượng, tính chất và mức độ nguy hiểm, đòi hỏi chúng ta phải
hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng những quy
định của pháp luật hình sự trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung cũng như cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người, mua
bán trẻ em nói riêng. Đây cũng chính là mục tiêu, nhiệm vụ đã được Đảng và
Nhà nước ta đặt lên hàng đầu trong công cuộc xây dựng nền pháp chế xã hội
chủ nghĩa, đưa pháp luật Việt Nam hòa nhập với pháp luật khu vực và pháp
luật quốc tế.
Để cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ
em trên cả nước cũng như trên địa bàn tỉnh Hà Giang có hiệu quả, vấn đề đặt
ra là:
Thứ nhất, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu tranh phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em phù hợp với pháp luật quốc
tế, phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm trong xu thế hội nhập và trong
tình hình mới. Bên cạnh đó, cần có những giải pháp đấu tranh cụ thể như thực
hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm; có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố
105
tụng, giữa các cơ quan, tổ chức xã hội trong đấu tranh phòng chống tội phạm,
trong đó có tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em; nâng cao năng lực
của những người tiến hành tố tụng nhằm giải quyết vụ án một cách khách
quan, chính xác, đảm bảo cao nhất hiệu quả áp dụng pháp luật trong đấu tranh
phòng chống loại tội phạm này.
Thứ hai, đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang, cần phải kết hợp chặt chẽ
giữa các biện pháp phòng chống, tuyên truyền và đấu tranh. Với đặc điểm
kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn của địa phương thì giải pháp trọng tâm
là cùng với cả nước thực hiện tốt mục tiêu xóa đói giảm nghèo bền vững, thực
hiện tốt các mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Tìm mọi cách giúp
đỡ nam nữ thanh niên được học nghề và có việc làm ổn định, tái hòa nhập cho
các nạn nhân sau khi bị mua bán bằng việc tái thiết kinh tế, nâng cao đời sống
người dân.
Thứ ba, chú ý đến công tác tố tụng trong quá trình truy tố và xét xử tội
mua bán người, mua bán trẻ em. Thận trọng trong xét xử và phối hợp tốt giữa
các cơ quan tố tụng để kịp thời trao đổi kinh nghiệm, đẩy nhanh tiến độ xét
xử, nâng cao chất lượng tố tụng.
Thứ tư, hợp tác tốt với nước láng giềng để nắm bắt thông tin, trao đổi
tình hình và tiếp nhận nạn nhân bị mua bán người, cùng đấu tranh, truy bắt
các đối tượng lẩn trốn ra nước ngoài về thụ án.
106
KẾT LUẬN
Tội phạm mua bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em đang là một vấn
nạn, diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng ở quy mô toàn cầu. Nếu như
trước đây, mua bán người được nhìn nhận chủ yếu vì mục đích bóc lột tình
dục thì hiện nay, mua người vì mục đích lao động ngày càng được quan tâm
nhiều hơn; các nạn nhân bị mua bán vì mục đích bóc lột lao động đang bắt
đầu được công nhận và bảo vệ. Thực tế cho thấy, tại nhiều nước trên thế giới,
có rất nhiều ngành nghề sử dụng lao động nhập cư để làm những việc mà
người dân sở tại không muốn làm như: đánh cá, sản xuất nông nghiệp, khai
thác mỏ, xây dựng và giúp việc gia đình. Rất nhiều người rơi vào tình trạng bị
cưỡng bức lao động, buộc phải làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp, hầm
mỏ, trên các tàu đánh cá... Họ thường bị lạm dụng cả về thể chất lẫn tinh thần,
việc đe dọa đánh đập, bóc lột sức lao động, xâm hại thể chất diễn ra thường
xuyên. Chính vì vậy, hậu quả của nạn mua bán là rất nặng nề. Nạn nhân phải
hứng chịu những tổn thương tâm sinh lý, bị tổn hại tới sức khỏe và thậm chí
là cả tính mạng. Tệ nạn mua bán người cũng đe dọa đến sự ổn định và trật tự
an toàn xã hội, làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp.
Để phòng ngừa tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, người dân
cần xây dựng lối sống lành mạnh, không sa vào các tệ nạn xã hội; có ý thức
cảnh giác trước thủ đoạn của tội phạm mua bán người, trước những lời dụ dỗ,
hứa hẹn về việc làm hoặc lấy chồng nước ngoài. Khi phát hiện hoặc nghi ngờ
đối tượng chủ mưu, cầm đầu, môi giới mua bán người cần thông báo ngay
cho công an, chính quyền, đoàn thể xã hội ở địa phương. Cần tham khảo ý
kiến của người thân bạn bè trước khi đi làm ăn xa; tìm hiểu kỹ nơi mình định
đến, người môi giới, người mà mình đi cùng. Khi đi khỏi địa phương phải báo
cáo chính quyền địa phương, thông báo địa chỉ nơi đến, giữ mối liên lạc
thường xuyên với gia đình. Đối với từng gia đình, cần nâng cao nhận thức cho
mọi thành viên về hậu quả, tác hại của nạn mua bán người đối với bản thân,
107
gia đình và xã hội; giáo dục các thành viên trong gia đình luôn quan tâm,
thương yêu, đoàn kết, gắn bó, thắt chặt sợi dây tình cảm; giải quyết kịp thời
các mâu thuẫn, ngăn ngừa bạo lực gia đình, bạo lực học đường, đặc biệt bạo
lực đối với phụ nữ, trẻ em. Các bậc phụ huynh cần quan tâm bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục trẻ em, không để trẻ em bỏ học, lao động sớm. Cần hỗ trợ, cảm
thông, chia sẻ khó khăn với các thành viên trong gia đình bị mua bán trở về.
Khi phát hiện những trường hợp nghi vấn có hành vi mua bán người, phải kịp
thời báo cho chính quyền địa phương và công an nơi gần nhất. Đối với các cơ
quan quản lý nhà nước, các đoàn thể và cộng đồng xã hội cần tăng cường phổ
biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật liên quan đến mua bán người nhằm
nâng cao nhận thức cho người dân về phương thức, thủ đoạn, nguyên nhân,
hậu quả, tác hại của tội phạm mua bán người; cách phòng tránh và kỹ năng tự
bảo vệ mình trước tội phạm mua bán người. Ngoài ra, cần cung cấp thông tin,
trang bị kiến thức cho những người muốn di cư, những người muốn kết hôn
với người nước ngoài; truyền thông về di cư an toàn tại những điểm nóng có
nhiều người di cư; rà soát, quan tâm, giúp đỡ những phụ nữ, trẻ em trong các
gia đình gặp khó khăn về việc làm, đời sống hoặc trong gia đình có mâu thuẫn
có thể dẫn đến phụ nữ, trẻ em bỏ nhà ra đi; tăng cường hỗ trợ, tạo việc làm,
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống; hỗ trợ những người bị mua bán trở về
hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống. Lực lượng chức năng cần quản lý,
giáo dục những người có tiền án, tiền sự, những người có biểu hiện vi phạm
pháp luật; quản lý chặt chẽ nhân khẩu, khai báo tạm trú, tạm vắng; quản lý,
kiểm tra các ngành nghề kinh doanh, cơ sở sử dụng lao động và các loại hình
dịch vụ khác có liên quan đến phòng ngừa mua bán người như dịch vụ du
lịch, đưa người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài...
Với những nỗ lực và giải pháp cụ thể, tình trạng mua bán người và
mua bán trẻ em ở nước ta sẽ ngày càng được cải thiện và tạo môi trường sống
an toàn cho mỗi người dân.
108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. AIPO (2006), Tài liệu tham khảo khuôn khổ chính sách và pháp luật
chống buôn bán người trong khu vực ASEAN, Hội nghị chuyên đề về hợp
tác lập pháp trong phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em, Tổ chức tại
Hà Nội, Hà Nội.
2. Vũ Ngọc Bình (2002), Phòng, chống buôn bán và mại dâm trẻ em, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục phòng, chống tệ nạn xã hội,
Tổ chức di cư quốc tế ACTIONAID Việt Nam (2007), Tài liệu Hội thảo
về công tác hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán
từ nước ngoài về, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2004), Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam
trên tinh thần các nghị định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống buôn
bán người và di cư trái phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống
tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Nxb Tư pháp, Hà Nội
5. Bộ Tư pháp (2006), Thông tư 08/2006/TT-BTP ngày 08/12/2006 về những
cơ sở pháp lý quan trọng nhất để giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con
nuôi người nước ngoài, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp (2007), Tài liệu Hội thảo đề xuất xây dựng Luật phòng chống
buôn bán người, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (2008), Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật hiện hành về
phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em - Kiến nghị hướng hoàn thiện, Hà Nội.
8. Lê Cảm (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần
chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
9. Lê Cảm (Chủ biên) (2003), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các
tội phạm), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
109
10. Lê Văn Cảm (1998), Luật Hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng
nhà nước pháp quyền - Những vấn đề hoàn thiện các quy định cơ bản của
phần chung, Nxb Sáng tạo, Matxcơva.
11. Lê Văn Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật Hình sự Việt Nam trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền (một số vấn đề cơ bản của phần
chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
12. Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ
bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
13. Lê Văn Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Hội, Hà Nội.
14. Chính phủ (2002), Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Hà Nội.
15. Chính phủ (2004), Quyết định số 130/2004/QĐ-TTg ngày 14/7/2004 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động phòng, chống
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2004 -2010, Hà Nội.
16. Chính phủ (2004), Nghị định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15/10/2004 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm,
Hà Nội.
17. Chính phủ (2005), Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an
toàn xã hội, Hà Nội.
18. Chính phủ (2006), Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Hà Nội.
110
19. Chính phủ (2007), Chỉ thị số 16/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về tăng cường thực hiện chương trình hành động phòng, chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em, Hà Nội.
20. Chính phủ (2007), Chỉ thị số 17/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Quy chế tiếp nhận tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em
bị buôn từ nước ngoài trở về, Hà Nội.
21. Chính phủ (2008), Dự án sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình
sự, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 22/9/1998
của Bộ Chính trị về xuất khẩu lao động và chuyên gia, Hà Nội.
23. Đinh Bích Hà (2007), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội nhân dân
Trung Hoa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Hội đồng Bộ trưởng (1989), Nghị định số 12/HĐBT ngày 01/02/1989 quy
định về thủ tục về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài,
Hà Nội.
25. Đặng Xuân Khang (2004), Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên
giới Việt Nam - thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
bộ, Bộ Công an, Hà Nội.
26. Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, (Bản dịch).
27. Liên hợp quốc (1959), Tuyên ngôn về quyền trẻ em (Bản dịch).
28. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị,
(Bản dịch).
29. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa, (Bản dịch).
30. Liên hợp quốc (1969), Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân
biệt chủng tộc, (Bản dịch).
31. Liên hợp quốc (1979), Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ, (Bản dịch).
111
32. Liên hợp quốc (1989), Công ước về quyền trẻ em (Bản dịch).
33. Liên hợp quốc (1999), Công ước số 182 về nghiêm cấm và hành động
khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, (Bản dịch).
34. Liên hợp quốc (2000), Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công
ước về quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mua dâm trẻ em và văn hóa
phẩm khiêu dâm trẻ em, (Bản dịch).
35. Liên hợp quốc (2000), Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia, (Bản dịch).
36. Liên hợp quốc (2000), Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị
tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công
ước của LHQ về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, (Bản dịch).
37. Liên hợp quốc (2000), Nghị định thư về phòng, chống đưa người di cư
trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung cho Công
ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, (Bản dịch).
38. "Luật Hình sự một số nước trên thế giới", (1998), Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, (Số chuyên đề).
39. Trần Văn Luyện (2000), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
41. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
42. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
43. Quốc hội (2000), Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
44. Quốc hội (2002), Bộ luật Lao động, Hà Nội.
45. Quốc hội (2004), Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hà Nội.
46. Quốc hội (2006), Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài,
Hà Nội.
47. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
48. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
112
49. Đỗ Thị Thơm (2003), Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
50. Tổ chức Cứu trợ trẻ em Anh - Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam (1999), Sổ tay tuyên truyền luật pháp, chính sách liên quan đến công
tác phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
51. Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang (2009-2013), Báo cáo tổng kết công tác
các năm từ 2009 - 2013, Hà Giang.
52. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Tập 1,
Hà Nội.
53. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một
số quy định trong phần các tội phạm của bộ luật Hình sự năm 1985, Hà Nội.
54. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Các văn bản về hình sự, dân sự và tố
tụng, Hà Nội.
55. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo sơ kết về việc thực hiện chương
trình hành động phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em của
ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
56. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
57. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2006), Báo cáo số 429/BCA
(VPTT 130/CP) ngày 22/12/2006 sơ kết thực hiện chương trình hành
động chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em năm 2006, Hà Nội.
58. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2007), Bộ tài liệu tập huấn
về phòng, chống buôn bán người, Hà Nội.
59. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2007), Báo cáo tham luận
tại hội nghị triển khai Chương trình hành động phòng, chống tội phạm
buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn II (2007 - 2010), Hà Nội.
113
60. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2008), Báo cáo kết quả khảo
sát thực tiễn áp dụng pháp luật về điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua
bán phụ nữ, trẻ em, Hà Nội.
61. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2009), Báo cáo tổng kết 5
năm thực hiện Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán
phụ nữ, trẻ em (2004 - 2009), Hà Nội.
62. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2009), Tài liệu Hội thảo sơ
kết hoạt động của đề án 4 - Chương trình 130/CP và triển khai thi hành
các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự
liên quan đến phòng, chống buôn bán người, Hà Nội.
63. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2009), Tài liệu giao ban sơ
kết 1 năm thực hiện chỉ thị 16/TTg; 2 năm thực hiện đề án II - Chương
trình 130/CP và triển khai công tác năm 2009, Hà Nội.
64. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (1987), Bình luận khoa học Bộ Luật
Hình sự (phần các tội phạm), Tập 1, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
65. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - UNIAP (2013), Tài liệu tập huấn công
tác phòng, chống tội phạm buôn bán người, Hà Nội.
66. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang (2009-2013), Báo cáo tổng kết
công tác kiểm sát các năm từ 2009 đến 2013, Hà Giang.
67. Viện Sử học (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
68. Cao Quốc Việt (2006), "Phòng, chống tệ nạn mại dâm và tội phạm mua
bán phụ nữ, trẻ em", Kiến thức pháp luật về quốc phòng, an ninh quốc gia và
trật tự an toàn xã hội, Tập 4, tr. 116-145, Dự án VIE/02/015 về hỗ trợ thực
thi chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội.
69. Cao Quốc Việt (2006), "Tình huống pháp luật về phòng, chống tệ nạn mại
dâm và phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em", Tình huống pháp luật về
quốc phòng, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, Tập 3, tr. 100-126,
Dự án VIE/02/015 về hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội.

More Related Content

PDF
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
PDF
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
PDF
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
PDF
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
PDF
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
PDF
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
PDF
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
PDF
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên

What's hot (20)

PDF
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
PDF
LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...
PDF
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
PDF
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
DOC
Luận Văn Tình Hình Tội Trộm Cắp Tài Sản, 9 Điểm
PDF
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
PDF
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
PDF
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
PDF
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
PDF
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
PDF
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
DOCX
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
PDF
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
PDF
Đề tài: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
PDF
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
PDF
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
PDF
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
PDF
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội buôn lậu tại TPHCM, HAY
PDF
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
PDF
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận Văn Tình Hình Tội Trộm Cắp Tài Sản, 9 Điểm
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
Đề tài: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội buôn lậu tại TPHCM, HAY
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Ad

Similar to Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT (20)

PDF
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HOT
PDF
Luận văn: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, HOT
PDF
Luận văn: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, HOT
PDF
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
PDF
Chuyên đề PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI
PPTX
Nan buon ban tre em.pptx
PDF
Luận văn thạc sĩ: Tội mua bán phụ nữ, vấn đề lí luận thực tiễn, HOT
PDF
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống mua bán người, HOT
PPT
Human traficking law and Vietnam
PDF
Đề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sự
PDF
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
PDF
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
DOC
BÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂM
PDF
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
PDF
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
DOC
Bài mẫu luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
PDF
Luận văn: Thực hiện chính sách pháp luật hôn nhân và gia đình, HOT
PDF
Chính sách pháp luật hôn nhân và gia đình tại huyện Ba Tơ, HAY
DOCX
dich2.docx
PDF
Luận văn: Các tội về mại dâm tại thành phố Hồ Chí Minh, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, HOT
Luận văn: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, HOT
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
Chuyên đề PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƢỜI
Nan buon ban tre em.pptx
Luận văn thạc sĩ: Tội mua bán phụ nữ, vấn đề lí luận thực tiễn, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống mua bán người, HOT
Human traficking law and Vietnam
Đề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sự
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
BÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Bài mẫu luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Thực hiện chính sách pháp luật hôn nhân và gia đình, HOT
Chính sách pháp luật hôn nhân và gia đình tại huyện Ba Tơ, HAY
dich2.docx
Luận văn: Các tội về mại dâm tại thành phố Hồ Chí Minh, HAY
Ad

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

DOCX
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
DOCX
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
DOCX
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
DOCX
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu

Recently uploaded (20)

PDF
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
DOCX
Cao Thuy Linh-San pham cuoi khoa.- bồi dưỡng thường xuyêndocx
PDF
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
PPTX
Từ và câu NHÓM 4 - LỚP 5 CTST tiểu học.pptx
PDF
ki_nang_tu_van_ca_nhan_ve_lua_chon_va_phat_trien_nghe_final_130806_1.pdf
PPTX
[123doc] - bai-giang-hoc-phan-hanh-vi-nguoi-tieu-dung-trong-du-lich-consumer-...
PPTX
Ứng dụng AI trong hệ thống cơ điện của nhóm 3.pptx
PDF
BÀI GIẢNG TÓM TẮT XÁC SUẤT THỐNG KÊ (KHÔNG CHUYÊN TOÁN, 2 TÍN CHỈ) - KHOA SƯ...
PDF
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 THEO FORM THI MỚI BGD - TẬP 2 - NĂM HỌC 2025-202...
PPTX
VNR202 LỊCH SỬ ĐẢNG, MÔN HỌC CẦN THIẾT C
PPT
Slide Nguyên lý bảo hiểm đại học knh tế quốc dân
PPTX
Bai 11.1 Tuan hoan mau.cấu tạo và vai trò pptx
PPT
Bai 42 Su chay thanh dong cua chat long va chat khi Dinh luat Becnuli.ppt
PPTX
Bai 28 Cau tao chat Thuyet dong hoc phan tu chat khi.pptx
PDF
SÁNG KIẾN THIẾT KẾ MÔ HÌNH HỆ SINH THÁI HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH THPT TRONG ...
PDF
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 11 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
PPT
danh-sach-lien-ket_Cấu trúc dữ liệu và giải thuậ.ppt
PDF
BÀI TẬP TEST FOR UNIT TIẾNG ANH LỚP 6 GLOBAL SUCCESS CẢ NĂM THEO TỪNG ĐƠN VỊ ...
PDF
Giáo Dục Minh Triết: Tâm thế - Tâm thức bước vào kỷ nguyên mới
PPTX
CASE LÂM SÀNG MỤN TRỨNG CÁd (final, BS Vân Thanh)-SV tai lop.pptx
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
Cao Thuy Linh-San pham cuoi khoa.- bồi dưỡng thường xuyêndocx
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
Từ và câu NHÓM 4 - LỚP 5 CTST tiểu học.pptx
ki_nang_tu_van_ca_nhan_ve_lua_chon_va_phat_trien_nghe_final_130806_1.pdf
[123doc] - bai-giang-hoc-phan-hanh-vi-nguoi-tieu-dung-trong-du-lich-consumer-...
Ứng dụng AI trong hệ thống cơ điện của nhóm 3.pptx
BÀI GIẢNG TÓM TẮT XÁC SUẤT THỐNG KÊ (KHÔNG CHUYÊN TOÁN, 2 TÍN CHỈ) - KHOA SƯ...
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 THEO FORM THI MỚI BGD - TẬP 2 - NĂM HỌC 2025-202...
VNR202 LỊCH SỬ ĐẢNG, MÔN HỌC CẦN THIẾT C
Slide Nguyên lý bảo hiểm đại học knh tế quốc dân
Bai 11.1 Tuan hoan mau.cấu tạo và vai trò pptx
Bai 42 Su chay thanh dong cua chat long va chat khi Dinh luat Becnuli.ppt
Bai 28 Cau tao chat Thuyet dong hoc phan tu chat khi.pptx
SÁNG KIẾN THIẾT KẾ MÔ HÌNH HỆ SINH THÁI HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH THPT TRONG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 11 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
danh-sach-lien-ket_Cấu trúc dữ liệu và giải thuậ.ppt
BÀI TẬP TEST FOR UNIT TIẾNG ANH LỚP 6 GLOBAL SUCCESS CẢ NĂM THEO TỪNG ĐƠN VỊ ...
Giáo Dục Minh Triết: Tâm thế - Tâm thức bước vào kỷ nguyên mới
CASE LÂM SÀNG MỤN TRỨNG CÁd (final, BS Vân Thanh)-SV tai lop.pptx

Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ QUẾ TỘI MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ QUẾ TỘI MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n TrÇn ThÞ QuÕ
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM 9 1.1. Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về tội phạm buôn bán người, buôn bán trẻ em 10 1.1.1. Khái niệm buôn bán người theo quy định của luật pháp quốc tế 10 1.1.2. Khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam 16 1.2. Lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 20 1.2.1. Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 20 1.2.2. Hệ thống pháp luật phi hình sự có liên quan đến phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 24 1.3. Kinh nghiệm và sự hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 31 Chương 2: TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ HAI TỘI PHẠM NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2009 - 2013 37 2.1. Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) 37
  • 5. 5 2.1.1. Tội mua bán người (Điều 119 Bộ luật hình sự) 37 2.1.2. Tội mua bán trẻ em (Điều 120 Bộ luật hình sự) 41 2.2. Tình hình tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang 47 2.2.1. Đặc điểm chung về tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên phạm vi cả nước 47 2.2.2. Tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013 51 2.3. Tình hình xét xử tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 58 2.4. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang 72 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG 77 3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em 77 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán người và tội mua bán trẻ em 82 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang 84 3.3.1. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân tham gia phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 85 3.3.2. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, gắn xây dựng nông thôn mới với công tác xóa đói giảm nghèo, dạy nghề và tạo việc làm cho nam nữ thanh niên 87
  • 6. 6 3.3.3. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 88 3.3.4. Tăng cường sự phối hợp với các ngành chức năng trong công tác phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em 90 3.3.5. Tăng cường công tác xác minh và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 93 3.3.6. Tăng cường phối hợp, hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 95 KẾT LUẬN 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Số vụ và số bị can đã khởi tố điều tra về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 53 2.2 Số vụ và số bị can, bị cáo bị khởi tố điều tra, truy tố, xét xử về tội mua bán người, mua bán trẻ em trên phạm vi cả nước từ 2009 - 2013 56 2.3 Số vụ và số bị cáo đã xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo Điều 119, 120 Bộ luật hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 59 2.4 Tổng hợp mức hình phạt của các bị cáo đã xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ 2009 - 2013 64 2.5 Thống kê số nạn nhân theo mục đích mua bán của tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 65 2.6 Thống kê thành phần độ tuổi các nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ 2009 - 2013 68 2.7 Thống kê thành phần độ tuổi của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 69
  • 8. 8 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang 2.1 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ tổng số vụ án mua bán người, mua bán trẻ em trên tổng số vụ án về trị an xã hội của tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 53 2.2 Biểu đồ thể hiện tổng số vụ án thụ lý về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em của tỉnh Hà Giang so với cả nước từ năm 2009 - 2013 57 2.3 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số vụ án xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 62 2.4 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số bị cáo xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 63 2.5 Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo mục đích mua bán của tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 66 2.6 Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo thành phần độ tuổi bị mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 69
  • 9. 9 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hướng đến một thế giới văn minh, công bằng và bình đẳng nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của con người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em thì thế giới đã xuất hiện một hình thức xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm con người với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp và có tổ chức đó là tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Đây là một thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam. Những năm gần đây, tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em ở Việt Nam diễn biến phức tạp, có xu hướng quốc tế hóa. Trong nước đã xuất hiện nhiều đường dây mua bán người, mua bán trẻ em xuyên quốc gia, liên quan đến đối tượng thuộc nhiều địa phương, có sự cấu kết chặt chẽ giữa tội phạm trong nước và nước ngoài với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, lừa gạt dưới mọi hình thức để đạt được mục đích. Đối tượng của hoạt động mua bán người là nam giới, phụ nữ và trẻ em, thuộc mọi lứa tuổi trong đó nhiều nhất là phụ nữ và trẻ em. Phần lớn phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ các vùng nông thôn, miền núi ra đô thị, bị ép buộc làm gái mại dâm phục vụ cho các cửa hàng, dịch vụ trá hình. Nhiều nạn nhân bị buôn bán ra nước ngoài, đến các quốc gia khác nhau với nhiều hình thức bóc lột nhằm trục lợi như mại dâm và làm vợ bất hợp pháp, nam giới bị buôn bán để bóc lột sức lao động... Thực trạng phụ nữ và trẻ em bị bán ra nước ngoài qua các hình thức dịch vụ môi giới hôn nhân, cho nhận con nuôi đã trở thành vấn đề nóng bỏng, nhức nhối, ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt của nhân dân, phong tục tập quán, đạo đức xã hội. Tệ nạn mua bán người đe dọa đến sự an ninh, an toàn của con người trên nhiều phương diện, gây những tác hại nặng nề về thể chất và tinh thần cho nạn nhân, tước đoạt tự do và quyền con người, đe dọa đến an ninh toàn cầu và làm gia tăng tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Mua bán người, mua
  • 10. 10 bán trẻ em có những tác hại nặng nề đối với bản thân các nạn nhân, những người thường bị lạm dụng về thể chất và tinh thần, bị cưỡng hiếp, đe dọa đến tính mạng, sự an toàn của bản thân và gia đình họ. Mua bán người, mua bán trẻ em còn làm tăng nạn sản xuất và buôn bán giấy tờ giả, ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh, trật tự của quốc gia. Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng nhiều đề án, chương trình hành động và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Trong chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến năm 2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 130/2004/QĐ-TTg ngày 14/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ) thì một trong những nội dung quan trọng là phải xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Đặc biệt là Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã điều chỉnh Điều 119 từ tội danh mua bán phụ nữ sang tội danh mua bán người để đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống tội phạm mua bán người và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em chưa thực sự hiệu quả, tỷ lệ khám phá, xử lý tội phạm còn thấp. Các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có nhiều cố gắng trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử, bóc gỡ được nhiều đường dây buôn bán người mang tính tổ chức cao và hoạt động xuyên quốc gia, tuy nhiên, thực tế số tội phạm ẩn đối với loại hành vi này còn rất lớn. Hà Giang là tỉnh nằm ở cực Bắc của Tổ quốc, là một trong những tỉnh miền núi thuộc diện nghèo nhất nước, có đường biên giới dài, tiếp giáp với nhiều địa phương của Trung Quốc. Đảng bộ và chính quyền tỉnh Hà Giang đã tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật để đấu tranh, phòng chống với các loại tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Đồng thời, các cơ quan an ninh đã phối hợp với các ban ngành liên quan nỗ lực
  • 11. 11 phòng chống và giúp đỡ các nạn nhân bị mua bán tái hòa nhập với cộng đồng. Với những đặc thù riêng của địa phương, loại hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang có nhiều điểm khác biệt so với các địa phương trong cả nước. Do vậy, tác giả cho rằng cần có một nghiên cứu đầy đủ về thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống và thực tiễn xét xử để bổ sung cho lý luận về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nhằm áp dụng có hiệu quả vào thực tế tại tỉnh Hà Giang. Hơn nữa, là một kiểm sát viên trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, trong đó có các vụ án về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, nên tác giả muốn có nghiên cứu tổng quan để phục vụ công tác của mình. Đây cũng là lý do để tác giả lựa chọn đề tài "Tội mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học, nhằm tìm hiểu đầy đủ những cơ sở lý luận và thực tiễn về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, áp dụng một cách có hiệu quả vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nơi địa phương đang cư trú. Mặt khác, qua việc nghiên cứu này để đánh giá kết quả tìm hiểu và nghiên cứu khoa học của bản thân trong quá trình được các thầy cô bồi dưỡng và đào tạo. 2. Tình hình nghiên cứu Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về tội mua bán người, mua bán trẻ em đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, hình sự và cán bộ thực tiễn. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ pháp lý hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em đặc biệt là gắn với một địa bàn cụ thể như tỉnh Hà Giang. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội phạm này có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn phục vụ trực
  • 12. 12 tiếp cho địa bàn tỉnh Hà Giang. Về các vấn đề liên quan đến mua bán người, mua bán trẻ em đến nay đã có một số chương trình hành động, báo cáo của các tổ chức như: Chương trình hành động về phòng chống nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam (1999 - 2002) của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam trên tinh thần các Nghị định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán người và di cư trái phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Bộ Tư pháp. Trong các giải pháp phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em thì hoàn thiện hệ thống pháp luật là một vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình tội phạm và thực trạng xét xử để nâng cao hiệu quả giải quyết án là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng được một khung pháp lý tương đối đầy đủ nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm đối với nam giới, phụ nữ, trẻ em là đối tượng của hành vi mua bán như Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật hôn nhân và gia đình, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh phòng chống mại dâm... Các văn bản pháp luật này tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trong thời gian qua. Tuy nhiên, trước xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, diễn biến tình hình tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em ngày càng trở lên phức tạp. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam trong đó có các quy định của pháp luật hình sự đã bộc lộ một số bất cập, thiếu sót làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác phòng, chống loại tội phạm này. Trên phương diện hoàn thiện pháp luật và tình hình thực tiễn phòng chống tội phạm đã có một số công trình đề cập đến mua bán người, mua bán trẻ em của các tác giả Vũ Ngọc Bình, Phòng chống buôn bán và mại dâm trẻ em; Đỗ Thị Thơm, Hoàn thiện pháp luật về
  • 13. 13 quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay; Nguyễn Quang Dũng, Tình hình tội phạm mua bán phụ nữ qua biên giới nước ta và hoạt động phòng ngừa của Bộ đội Biên phòng; Phạm Văn Hùng, Quán triệt chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 - 2010; Đặng Xuân Khang, Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam - thực trạng và giải pháp... đã có những đóng góp trong việc hoàn thiện pháp luật và đưa vấn đề phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em vào khoa học hình sự nhằm tìm ra giải pháp hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm trên. 3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội mua bán người và mua bán trẻ em; đối chiếu với các quy định của pháp luật quốc tế liên quan đến hành vi mua bán người và mua bán trẻ em. Luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp lý cơ bản của tội mua bán người và tội mua bán trẻ em như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, đồng thời đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử tội mua bán người và tội mua bán trẻ em từ năm 2009 đến năm 2013 trên địa bàn tỉnh Hà Giang, có so sánh, đối chiếu với số liệu trên toàn quốc. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em và thực tiễn tội phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013, tác giả đề tài sẽ phân tích và chỉ ra thực trạng giải quyết, những tồn tại, khó khăn của các cơ quan pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Đồng thời, đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng.
  • 14. 14 Với đối tượng và mục đích nghiên cứu như trên, học viên đề ra phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Tìm hiểu một số quy định của pháp luật quốc tế về tội mua bán người, mua bán trẻ em. Nghiên cứu và hệ thống hóa những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành đối với các hành vi mua bán người và mua bán trẻ em. Phân tình hình tội phạm và thực tiễn xét xử các vụ án mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong thời gian 05 năm, từ năm 2009 đến năm 2013, nêu ra những khó khăn, vướng mắc, những tồn tại và hạn chế trong công tác giải quyết. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị trong việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em. 4. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trường, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em nói riêng. Phương pháp luận cũng dựa trên cơ sở những thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử Nhà nước và pháp luật; Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật; Xã hội học pháp luật; Tâm lý học; Tội phạm học; Luật tố tụng hình sự… và những luận điểm, luận chứng khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên báo, tạp chí của một số nhà khoa học Luật hình sự Việt Nam và nước ngoài. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của luận văn là kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, dùng lý luận để phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam đối với tội mua bán người và mua bán trẻ em. Sử dụng cơ sở lý
  • 15. 15 luận để làm rõ những vấn đề thực tiễn trong xét xử tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng, minh chứng bằng những số liệu, dẫn chứng cụ thể. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu, điều tra án điển hình... để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học - thực tiễn cần nghiên cứu trong luận văn này. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 5.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trong khoa học Luật hình sự Việt Nam. Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về các tội này trong Luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát các quy định của pháp luật quốc tế; làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em; phân tích thông qua nghiên cứu thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 và trên toàn quốc để so sánh, qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn, đặc biệt một số giải pháp gắn liền với việc phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn còn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo, nghiên cứu và học tập. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật
  • 16. 16 hình sự Việt Nam liên quan đến tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội này hiện nay và sắp tới ở địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng và cả nước nói chung. Đề tài giúp nhận thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Đề tài phân tích thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang, đánh giá đúng thực trạng giải quyết loại tội phạm này, tìm ra được những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân của tồn tại và hạn chế trong công tác đấu tranh, phòng ngừa. Từ đó xây dựng được hệ thống giải pháp hữu hiệu và có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế tại địa phương. Với cá nhân người nghiên cứu, đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, trong đó có tội mua bán người và tội mua bán trẻ em. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em. Chương 2: Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và thực tiễn xét xử hai tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2009 - 2013. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
  • 17. 17 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM Buôn bán người hình thành, phát triển và tồn tại kéo dài trong suốt lịch sử của nhân loại, từ khi hình thành hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ cho đến nay. Buôn bán người đã bị cả xã hội lên án và để chống lại tình trạng này, trong những năm đầu thế kỷ XX, một số Công ước quốc tế về chống buôn bán người đã được ký kết như Công ước bãi bỏ buôn bán nô lệ da trắng năm 1904, Công ước ngăn chặn tệ buôn bán phụ nữ năm 1910, Công ước về chống buôn bán nô lệ năm 1926... Sau khi được thành lập, Liên hợp quốc đã có nhiều văn bản pháp lý đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến phòng chống tội phạm buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em và bảo vệ các nạn nhân của tội phạm này để thay thế các văn bản quốc tế trước đó như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966, Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000... và một số Nghị định thư bổ sung cho các công ước nêu trên như: Nghị định thư không bắt buộc năm 2000 bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em về buôn bán trẻ em, mua dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em; Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em năm 2000 bổ sung cho Công ước về chống tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia... Cuộc đấu tranh chống tội phạm buôn bán người ngày càng được nhiều nước trên thế giới hưởng ứng, tham gia và đã thu được những kết quả nhất định.
  • 18. 18 1.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỘI PHẠM BUÔN BÁN NGƯỜI, BUÔN BÁN TRẺ EM Khái niệm buôn bán người, buôn bán trẻ em là một trong những vấn đề nóng bỏng và gây tranh luận trong các cuộc hội thảo trong nước và các hội nghị quốc tế. Việt Nam cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới đã và đang có những hoạt động nỗ lực nhằm ngăn chặn và đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Tuy nhiên, vẫn có những khác biệt của pháp luật quy định về tội mua bán người, mua bán trẻ em (theo pháp luật của Việt Nam) và tội buôn bán người (theo quy định của pháp luật quốc tế). Để có thể đưa ra được khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế (vì hiện nay Việt Nam đã ra nhập và ký kết nhiều văn kiện quốc tế quy định về buôn bán người) và phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như tình hình, hoàn cảnh thực tế của đất nước thì cần phải nghiên cứu toàn diện và sâu rộng các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước, trên cơ sở đó đưa ra khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em. 1.1.1. Khái niệm buôn bán người theo quy định của pháp luật quốc tế Mua bán người, mua bán trẻ em là một loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà loài người tiến bộ trên khắp thế giới đều lên án rất mạnh mẽ. Tội phạm mua bán người làm rối loạn tình hình an ninh, trật tự, xâm phạm nhân quyền. Bên cạnh đó những hậu quả của mua bán người để lại những nỗi mất mát lớn cho các nạn nhân đặc biệt về mặt tinh thần. Tuy với những đặc điểm chung của cùng một loại hình tội phạm nhưng quan niệm về tội mua bán người ở các quốc gia so với quan niệm của các quy định quốc tế có sự khác biệt đáng kể, tùy mức độ rộng hẹp của cách hiểu Pháp luật quốc tế không quy định khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em mà quy định chung về khái niệm buôn bán người. Nạn buôn người là hình thức hiện đại của nạn nô lệ, đang phá hủy gia đình và cộng đồng trên
  • 19. 19 khắp thế giới. Buôn bán người chính là hình thức mua bán, chiếm hữu nô lệ, coi con người là một loại hàng hóa và tước đoạt của họ những quyền cơ bản về tự do một cách trái pháp luật và vô đạo đức. Do có những đặc điểm riêng về truyền thống lịch sử, văn hóa xã hội, điều kiện kinh tế mà pháp luật của mỗi quốc gia quy định về khái niệm buôn bán người khác nhau. Pháp luật của một số quốc gia quy định khái niệm "buôn bán người" theo những chuẩn mực pháp lý quốc tế, thì cũng có một số quốc gia khác, khái niệm này chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp hoặc có những điểm không tương đồng với quy định của pháp luật quốc tế. Khái niệm "buôn bán người" được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế. Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em (Nghị định thư Palermo). Văn kiện này được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2000 và có hiệu lực ngày 25 tháng 12 năm 2003. Theo quy định của Nghị định thư này, khái niệm buôn bán người (trong đó có phụ nữ, trẻ em) được quy định như sau: a) Việc tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách đe dọa dùng bạo lực hay cách thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc cho hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối với người khác vì mục đích bóc lột. Hành vi bóc lột ở đây ít nhất là bao gồm bóc lột vì mục đích mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức nô lệ hay những hình thức tương tự như nô lệ, khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể. b) Việc một nạn nhân của nạn buôn bán người chấp nhận sự bóc lột có chủ ý được nêu tại điểm (a) trên đây sẽ không được tính đến nếu bất kỳ một cách thức nào nêu trong điểm (a) đã được sử dụng.
  • 20. 20 c) Việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận trẻ em với mục đích bóc lột sẽ bị coi là buôn bán người thậm chí khi không có những hình thức được nêu ở điểm (a) trên đây. d) "Trẻ em" có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi [36]. Khái niệm buôn bán người theo quy định của Nghị định thư Palermo tập trung vào các yếu tố như: Thứ nhất, về hành vi, buôn bán người bao gồm: hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận người. Thứ hai, về phương thức thực hiện hành vi là đe dọa hoặc sử dụng vũ lực hoặc các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa đảo, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị thương tổn, đưa hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người có quyền kiểm soát đối với người khác. Thứ ba, về mục đích là nhằm bóc lột người bị mua bán (bóc lột vì mục đích mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, làm khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể). Theo quy định của Nghị định thư Palermo, sự đồng ý của trẻ em là vô hiệu và bất kỳ sự tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận trẻ em nhằm mục đích bóc lột đều cấu thành tội buôn bán người, cho dù không có việc sử dụng vũ lực, cưỡng ép, man trá, lừa gạt... trẻ em đó. Đây là khái niệm có tính chính thống về buôn bán người theo tinh thần Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung Công ước về chống buôn bán người. Khái niệm này được sử dụng phổ biến trong hoạt động chống buôn bán người trên thế giới và được nội luật hóa trong pháp luật của nhiều quốc gia. Khái niệm này cũng đã bao hàm mọi hình thức buôn người và không chỉ giới hạn trong buôn người nhằm mục đích bóc lột tình dục mà còn đối với các mục đích khác. Khái niệm này đã tập trung vào các tình trạng cưỡng bức lao động, làm khổ sai, những hành vi như bắt
  • 21. 21 làm nô lệ và tương tự. Khái niệm không chỉ tập trung vào đối tượng là phụ nữ mà bao hàm mọi giới nam nữ, đều có thể là nạn nhân. Khái niệm không chỉ nói đến nạn nhân bị buôn bán qua biên giới được quốc tế công nhận mà xét đến cả những người bị buôn bán ngay trong lãnh thổ của một quốc gia, từ khu vực này đến khu vực khác. Trừ trường hợp người bị buôn bán dưới 18 tuổi, Nghị định thư đòi hỏi phải có yếu tố cản trở nguyện vọng tự do và được thông tin đầy đủ của nạn nhân. Ngoài Nghị định thư Palermo, một số văn kiện pháp luật quốc tế cũng đưa ra khái niệm liên quan đến buôn bán người, trong đó có nhiều điểm tương đồng với khái niệm của Nghị định thư chống buôn bán người, nhưng do được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, nên không một khái niệm nào đầy đủ, toàn diện như khái niệm được nêu trong Nghị định thư Palermo. Theo quy định của Nghị định thư không bắt buộc về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, bổ sung cho Công ước quyền trẻ em thì mua bán trẻ em là bất kỳ hành động giao dịch nào mà qua đó trẻ em bị chuyển giao từ bất kỳ một người hay một nhóm người này sang một người hay một nhóm người khác để lấy tiền hay bất cứ đồ vật gì khác. Khái niệm này có điểm rộng hơn khái niệm của Nghị định thư Palermo (không quy định mục đích bóc lột nạn nhân là yếu tố bắt buộc cấu thành tội phạm), nhưng lại có điểm hẹp hơn khái niệm của Nghị định thư Palermo ở chỗ chỉ giới hạn hành vi chuyển giao trẻ em vì lợi nhuận, tức là chỉ điều chỉnh hành vi mua hoặc bán. Trong khi đó, Nghị định thư Palermo đề cập đến nhiều loại hành vi buôn bán người như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp, nhận người... vì mục đích bóc lột. Theo Liên minh toàn cầu chống buôn bán phụ nữ GAATW (Global Alliance Against Trafficking of Women) phối hợp với các tổ chức Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ đã đưa ra khái niệm khái quát về buôn bán người là: Mọi hoạt động cố ý tham gia vào việc tuyển mộ, chuyên chở trong nước
  • 22. 22 hoặc qua biên giới, mua, bán, chuyển, chứa chấp hoặc nhận một người bằng thủ đoạn lừa gạt và cưỡng bức, kể cả việc dùng hoặc đe dọa dùng bạo lực, lạm dụng quyền hành hoặc lợi dụng tình hình nợ chồng chất của người đó để đưa hoặc buộc họ làm việc trong tình trạng nô lệ không tự nguyện (việc nhà, tình dục hoặc sinh sản) không hoặc có được trả công, lao động cưỡng bức hoặc có giao kèo, hoặc lao động trong các điều kiện nô lệ trong một cộng đồng mà không phải nơi mà người đó sống khi bị lừa gạt, cưỡng bức hay nợ chồng chất ban đầu. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm buôn bán người như sau: Buôn bán người là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, che giấu hoặc tiếp cận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực hoặc các hình thức khác như ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị, tình trạng dễ bị tổn thương hoặc việc đưa hoặc nhận tiền hoặc lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người mà người đó đang có quyền kiểm soát một người khác, nhằm mục đích bóc lột. Việc bóc lột bao gồm, bóc lột làm nghề mại dâm hoặc những hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc phục vụ bắt buộc, tình trạng nô lệ hoặc những việc làm tương tự như tình trạng nô lệ, khổ sai hay cắt đi những bộ phận cơ thể con người. Tuy đã có những cách hiểu rất rõ ràng về tội buôn bán người nhưng trên thực tế trong nhiều trường hợp loại tội danh này dễ nhầm lẫn với tội đưa người trái phép qua biên giới, bởi những điểm tương đồng của hai loại tội danh. Nếu không phân biệt rõ hai tội danh này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình xét xử và bỏ sót tội danh nguy hiểm. Nghị định thư về phòng, chống đưa người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung cho Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia định nghĩa: "Đưa người di cư trái phép nghĩa là việc giao dịch, để đạt được trực tiếp hoặc gián tiếp lợi ích về tài chính hoặc lợi ích vật chất khác từ việc một người nhập cảnh trái phép vào một quốc gia thành viên mà người này
  • 23. 23 không phải là công dân của quốc gia đó hoặc thường trú tại quốc gia đó". Về mặt hình thức, tội buôn bán người và tội đưa người trái phép qua biên giới có những điểm tương đối trùng khớp với nhau bởi đều tồn tại yếu tố của sự di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác bằng cách bất hợp pháp và đều vì mục đích lợi nhuận cho kẻ gây ra hành vi đó. Chính điều này đã dẫn đến nhiều quy định nhầm lẫn và bỏ sót nhiều tội danh của các đối tượng buôn bán người. Do vậy, cần phân biệt rõ giữa buôn bán người và đưa người trái phép qua biên giới bởi bản chất hai hành vi này hoàn toàn khác nhau. Về mục đích di chuyển, buôn bán người và đưa người trái phép qua biên giới đều vì mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên, đưa người trái phép qua biên giới nhận lợi nhuận từ chính người được đưa qua biên giới và kết thúc hành vi khi đưa được người qua biên giới đến đúng địa điểm đã thỏa thuận, trong khi hành vi buôn bán người không dừng lại ở đó. Sau khi đưa người qua biên giới, lợi nhuận thu được của những kẻ thực hiện việc buôn bán người là từ hành vi bóc lột, nô dịch nạn nhân (phục vụ mại dâm, lao động bất hợp pháp…). Các nạn nhân bị mua và bán phải chịu đựng các hình thức khống chế, kiểm soát và cưỡng bức có hậu quả vô cùng nghiêm trọng làm tổn hại đến sức khỏe và tính mạng con người. Về tính chất và mức độ của hành vi, đưa người trái phép qua biên giới có sự đồng thuận giữa hai bên vì mục đích riêng của mỗi bên trong khi buôn bán người đa phần phải thông qua hành vi lừa gạt, dụ dỗ, thậm chí dùng vũ lực mà không được sự đồng thuận của người bị mua bán. Hành vi buôn bán người chưa thể kết thúc khi người đã được đưa qua biên giới và trong nhiều trường hợp hành vi mua bán không nhất thiết phải thực hiện thông qua biên giới giữa các quốc gia mà có thể ngay trong nội địa từ địa phương này sang địa phương khác, khu vực này sang khu vực khác. Với tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm buôn bán người, pháp luật quốc tế đã quy định rất cụ thể từng hành vi như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người, có sự phân biệt rõ ràng giữa buôn bán người và đưa người trái
  • 24. 24 phép qua biên giới, từ đó nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tệ nạn buôn bán người (trong đó có buôn bán trẻ em). 1.1.2. Khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam Pháp luật hình sự Việt Nam không quy định về tội buôn bán người mà quy định cụ thể về tội mua bán người và mua bán trẻ em. Mua bán người là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để trao đổi người (từ đủ 16 tuổi trở lên) như một loại hàng hóa. Các hành vi đó là: bán người cho người khác, không phụ thuộc vào mục đích của người mua; mua người để bán lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào; dùng người như là tài sản để trao đổi, thanh toán; mua người để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật khác; người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi nêu trên, đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người. Mua bán trẻ em là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để trao đổi trẻ em (người dưới 16 tuổi) như một loại hàng hóa. Các hành vi mua bán trẻ em cụ thể là: bán trẻ em cho người khác, không phụ thuộc vào mục đích của người mua; mua trẻ em để bán lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào; dùng trẻ em làm phương tiện để trao đổi, thanh toán; mua trẻ em để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác; người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi nêu trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người, mua bán trẻ em, có thể thấy rằng khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em ở Việt Nam đã có một số điểm tương đồng với quy định của pháp luật quốc tế, đó là: đã quy định là tội phạm hình sự đối với hành vi mua bán người có tính chất tổ chức, nhiều lần như quy định của Công ước quốc tế;
  • 25. 25 quy định các mục đích mua bán người, mua bán trẻ em để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, để đưa ra nước ngoài, để sử dụng vào mục đích mại dâm hoặc mục đích vô nhân đạo là các tình tiết định khung hình phạt; hoặc tuy không quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự nhưng các văn bản hướng dẫn áp dụng đã hướng dẫn về các thủ đoạn phạm tội mua bán người là môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái phép, đưa người đi lao động nước ngoài trái phép, môi giới nuôi con nuôi trái pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam vẫn còn có nhiều điểm khác biệt, chưa tương thích với khái niệm buôn bán người của pháp luật quốc tế. Sự khác biệt này được thể hiện như sau: Thứ nhất, về hành vi: khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em của Việt Nam chỉ bao gồm hai loại hành vi là mua và bán, tức là việc chuyển giao người, trẻ em từ người này (hoặc nhóm người này) sang người khác (hoặc nhóm người khác) để đổi lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Như vậy, theo cách hiểu hiện nay về mua bán người, mua bán trẻ em thì không bao gồm các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp và nhận người là những hành vi khác bên cạnh hành vi mua bán xảy ra trong toàn bộ quá trình buôn bán người được bao hàm trong khái niệm của Nghị định thư Palermo. Tuy các hành vi này không bị coi là mua bán nhưng hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp và nhận người, tùy từng trường hợp cụ thể sẽ bị trừng trị theo các quy định của các điều luật tương ứng hoặc bị coi là hành vi đồng phạm hoặc phạm tội chưa đạt với tội mua bán người, mua bán trẻ em. Thứ hai, về phương thức thực hiện: pháp luật hình sự Việt Nam không quy định cấu thành của tội phạm là phương thức mà tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Trong khi đó, Nghị định thư Palermo quy định các hành vi nói trên phải được thực hiện theo các phương thức như đe dọa dùng vũ lực hay các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị thương tổn hay bằng việc cho hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối với những người
  • 26. 26 khác. Trong trường hợp đối tượng bị xâm hại là trẻ em thì không cần tính đến việc bọn tội phạm có sử dụng hay không sử dụng các phương thức này. Điều đó có nghĩa là, trong trường hợp trẻ em hoàn toàn đồng tình với hành vi mua bán người của bọn tội phạm thì vẫn bị coi là mua bán trẻ em nếu có hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao... trẻ em nhằm mục đích bóc lột. Thứ ba, về mục đích (yếu tố để bóc lột): một trong những dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội buôn bán người với các tội phạm khác chính là yếu tố "bóc lột" nạn nhân. Theo Nghị định thư Palermo thì mục đích "để bóc lột" là một trong những yếu tố bắt buộc cấu thành tội buôn bán người. Đây cũng chính là một trong những dấu hiệu chính để phân biệt tội "buôn bán người" với tội "đưa người trái phép qua biên giới" và phân biệt với các loại tội phạm khác. Chẳng hạn cùng là một hành vi đưa người sang bên kia biên giới để thu lợi nhuận nhưng sẽ cấu thành tội buôn bán người khi có dấu hiệu chứng minh là nhằm mục đích bóc lột nạn nhân và sẽ chỉ là tội đưa người trái phép qua biên giới nếu không chứng minh được mục đích này. Trong khi đó pháp luật hình sự Việt Nam không quy định mục đích "để bóc lột" là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm này, mà chỉ cần có sự chuyển giao người, trẻ em để đổi lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là đã cấu thành tội mua bán người, mua bán trẻ em. Điều này có thể dẫn đến sự khác biệt nhất định khi xác định tội danh mua bán người, mua bán trẻ em theo pháp luật Việt Nam và buôn bán người, buôn bán trẻ em theo pháp luật quốc tế trong một số trường hợp cụ thể. Hoặc trong nhiều trường hợp, người bán không cần biết người mua sử dụng nạn nhân vào mục đích gì, mà chỉ cần lấy một khoản tiền nhất định. Nếu người bán nạn nhân với mục đích để bóc lột (như làm mại dâm, lấy bộ phận cơ thể...) thì họ sẽ bị áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng (vì mục đích mại dâm, để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân...) đối với hành vi phạm tội của họ. Như vậy theo quy định của pháp luật hình sự
  • 27. 27 Việt Nam, chỉ cần có hành vi mua hoặc bán người, trẻ em để lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là cấu thành tội phạm mà không cần có yếu tố "bằng thủ đoạn và mục đích bóc lột" như quy định của Nghị định thư Palermo. Động cơ, mục đích của người phạm tội không có ý nghĩa quyết định đối với việc định tội danh mà chỉ bị coi là tình tiết định khung tăng nặng. Thứ tư, về độ tuổi của trẻ em: khái niệm "trẻ em" của pháp luật Việt Nam cũng chưa tương thích với Nghị định thư Palermo và một số văn kiện pháp lý quốc tế khác. Pháp luật Việt Nam quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi, trong khi đó quy định của Nghị định thư Palermo thì trẻ em là người dưới 18 tuổi. Như vậy, trường hợp người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị mua bán thì pháp luật Việt Nam chưa có chế tài phù hợp để xử lý, còn đối với nạn nhân là người nước ngoài thì dễ dẫn tới sự xung đột giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế, điều này sẽ làm giảm đi hiệu quả của quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống buôn bán người giữa Việt Nam với một số quốc gia. Thứ năm, về chủ thể của tội phạm: theo quy định của pháp luật quốc tế, thì tất cả những người tham gia một trong những công đoạn có liên quan trong quá trình buôn bán người, buôn bán trẻ em đều được coi là tội phạm buôn bán người, trẻ em như tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp..., trong khi đó, theo pháp luật hình sự Việt Nam thì những người này không phải là chủ thể của tội phạm mua bán người, trẻ em mà có thể là chủ thể của một số tội phạm có liên quan khác. Như vậy, cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em cho phù hợp với điều kiện đất nước và tương thích với các quy định của pháp luật quốc tế là việc làm cần thiết và lâu dài, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
  • 28. 28 1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM 1.2.1. Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, mỗi lần một triều đại mới lên nắm chính quyền là một lần các quy định pháp luật được ban hành nhằm đảm bảo sự tồn tại cho triều đại đó, đồng thời còn giải quyết các vấn đề về xã hội. Trong tất cả các văn bản pháp luật được ban hành trong xã hội phong kiến thì Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều Hình luật) được đánh giá là tiến bộ và hoàn thiện hơn cả. Quốc triều Hình luật tập hợp các ưu điểm của các văn bản pháp lý trước đó, xác định các vấn đề mà Nhà nước mà xã hội cùng quan tâm, từ đó đúc kết và đưa ra những quy định mới, tiến bộ phù hợp với xã hội phong kiến. Quốc triều hình luật cũng đã quy định về hành vi mua bán người với các chế tài hình phạt nghiêm khắc từ Giảo (thắt cổ) đến Chém bêu đầu (chỉ thấp hơn tội Lăng trì), đối với các hành vi như bán người ít tuổi từ hàng cơ thân trở xuống hoặc có thêm hành vi cướp của hoặc đồ vật... Tuy những quy định về tội mua bán người còn nhiều thiếu sót và chưa cụ thể, nhưng nếu so với thời điểm Bộ luật Hồng Đức được ban hành thì vẫn có thể xem quy định về tội mua bán người là một trong những tiến bộ rất lớn trong pháp luật phong kiến Việt Nam. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ tình hình đó nên diễn biến tội phạm xảy ra phức tạp, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện như là một kết quả tất yếu, một trong số đó là tội bắt cắp trẻ em bán cho đồng bào miền núi. Theo báo cáo tổng kết công tác và các chuyên đề xét xử năm 1964 của Tòa án nhân dân tối cao đã xác định đây là một loại tội phạm nghiêm trọng nên xử phạt thật nặng, khung hình phạt áp dụng cho kẻ có hành vi bắt
  • 29. 29 cắp là từ 3 năm đến 15 năm, người mua trẻ con mà biết rõ đứa bé đó bị đánh cắp thì bị phạt tù tới 5 năm, đồng thời cũng xác định thêm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hơn đối với loại tội phạm bắt cắp trẻ con này. Năm 1975, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do nước nhà vừa mới thống nhất nên tình hình tội phạm diễn biến rất phức tạp, nhiều loại tội phạm mới phát sinh nhưng chưa được pháp luật điều chỉnh. Trước yêu cầu bảo vệ Tổ quốc và đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngày 27 tháng 6 năm 1985, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 9 khóa VII đã thông qua Bộ luật hình sự đầu tiên của Việt Nam. Bộ luật hình sự năm 1985 được xem là một bảo đảm cho đấu tranh chống tội phạm được tiến hành trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư pháp hình sự nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội và các quyền lợi hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định về tội mua bán người mà quy định cụ thể về tội mua bán phụ nữ và mua bán trẻ em, lần đầu tiên tội mua bán phụ nữ và mua bán trẻ em được đưa vào trong luật, và được xếp vào nhóm những tội phạm nghiêm trọng cần phải đấu tranh và phòng chống. Mức phạt tối đa của hai tội này là 20 năm tù giam, khá nghiêm khắc để trừng phạt và răn đe những kẻ đã, đang và sẽ có ý định thực hiện tội phạm này. Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội mua bán phụ nữ: 1. Người nào mua bán phụ nữ thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm: a) Có tổ chức; b) Để đưa ra nước ngoài; c) Mua bán nhiều người; d) Tái phạm nguy hiểm [40].
  • 30. 30 Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em: 1. Người nào bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm: a) Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp; b) Để đưa ra nước ngoài; c) Bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo nhiều trẻ em hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác; d) Tái phạm nguy hiểm [40]. Tội mua bán phụ nữ và tội mua bán trẻ em được quy định tại Điều 115 và Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng cả hai điều luật đều không đưa ra định nghĩa cụ thể về các hành vi này. Theo Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 19 tháng 11 năm 1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1985 thì mua bán trẻ em được hiểu là: "Việc mua hoặc bán trẻ em vì mục đích tư lợi, dù là mua của kẻ đã bắt trộm hay mua của chính người có con đem bán. Hành vi mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ bị bắt trộm cũng bị xử lý về tội mua bán trẻ em" [53]. Ngoài ra, trước yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em, tại Điều 4 Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về, ban hành kèm theo Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29 tháng 01 năm 2007 đã gián tiếp đưa ra định nghĩa về mua bán phụ nữ, trẻ em gọi là nạn nhân. Theo đó nạn nhân được hiểu là: Phụ nữ, trẻ em bị một người hay một nhóm người sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hay những hình thức ép buộc khác, bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị, tình trạng dễ bị
  • 31. 31 tổn thương để mua bán (giao, nhận tiền hoặc giao, nhận một lợi ích vật chất khác) đưa ra nước ngoài nhằm mục đích bóc lột (cưỡng bức bán dâm hoặc các hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hoặc làm việc như tình trạng nô lệ hoặc lấy đi các bộ phận trên cơ thể) [19]. Bộ luật hình sự năm 1985 trải qua hai lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989 và năm 1997, đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em. Tuy nhiên, vẫn có một số bất hợp lý như việc sắp xếp hai điều luật này trong Bộ luật hình sự năm 1985. Cả hai tội đều có hành vi khách quan và có cùng khách thể là danh dự và nhân phẩm con người bị xâm hại, nhưng lại được quy định ở hai chương riêng biệt. Tội mua bán phụ nữ được quy định tại Điều 115 thuộc Chương II - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; còn tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em lại được quy định tại Điều 149 nằm trong Chương V - Các tội xâm phạm tới chế độ hôn nhân gia đình và các tội xâm phạm tới người chưa thành niên. Ngoài ra mức phạt tối thiểu của tội mua bán trẻ em còn quá nhẹ, chỉ có 1 năm trong khi loại tội phạm này gây ra những ảnh hưởng mạnh mẽ tới tâm sinh lý của trẻ, tới sự phát triển bình thường về mặt thể chất của trẻ em. Một bất cập nữa là trong quá trình phát triển của xã hội, tội phạm không chỉ dừng lại ở hành vi mua bán phụ nữ, mua bán trẻ em mà còn có cả hành vi mua bán nam giới, với nhiều mục đích khác nhau, cho nên các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự còn thiếu nhiều ở cả hai điều luật. Điều này thể hiện các nhà làm luật lúc bấy giờ, chưa đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này, cũng như chưa lường trước được những thủ đoạn xảo quyệt mà bọn tội phạm mua bán người có thể thực hiện. Phải đến năm 1999 cũng với sự ra đời của Bộ luật hình sự thứ hai của Việt Nam (đã được sửa đổi bổ sung năm 2009) thì những thiếu sót, bất cập của Bộ luật hình sự năm 1985 mới được điều chỉnh lại.
  • 32. 32 1.2.2. Hệ thống pháp luật phi hình sự có liên quan đến phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em Nhận thức được mức độ nguy hiểm của tội mua bán người, mua bán trẻ em và tầm quan trọng của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã hình thành và dần hoàn thiện những quy định liên quan đến tội danh này. Trước hết là những quy định nhằm phòng ngừa một cách có hiệu quả loại tội phạm này, sau đó là hệ thống các chế tài để xử lý hành vi mua bán người, mua bán trẻ em. Trải qua quá trình xây dựng và hoàn thiện, đến nay Việt Nam đã cơ bản có một hệ thống pháp luật đầy đủ liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Về phòng ngừa tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, trong thực tế hành vi mua bán người, mua bán trẻ em có rất nhiều hình thức khác nhau nhằm lừa gạt, dụ dỗ và cưỡng ép các nạn nhân. Để phòng ngừa các hành vi đó, pháp luật Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống các quy định ngăn chặn những nguy cơ có thể dẫn đến mua bán người, mua bán trẻ em như: Thứ nhất, quy định khi kết hôn có yếu tố nước ngoài, pháp luật Việt Nam đã tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật quốc tế. Đồng thời, trong xu thế hội nhập toàn cầu, Việt nam cũng tạo điều kiện và cho phép công dân Việt Nam được kết hôn với người nước ngoài trên cơ sở tôn trọng pháp luật và thuần phong mỹ tục của Việt Nam, kịp thời ngăn chặn và trừng trị những cá nhân, tổ chức lợi dụng việc kết hôn với người nước ngoài để thực hiện hành vi mua bán người nhằm kiếm lời bất chính. Với mục tiêu xây dựng gia đình bền vững, ổn định, giải quyết tốt các mối quan hệ trong hôn nhân có yếu tố nước ngoài, ngay từ năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 12/HĐBT ngày 01 tháng 02 năm 1989 quy định về thủ tục kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Chính phủ đã có Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
  • 33. 33 ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Theo đó, người nước ngoài muốn kết hôn với người Việt Nam phải có đầy đủ các điều kiện như: "Mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; người nước ngoài còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn, nếu việc kết hôn được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam" [43, Điều 10]. Điều 21 cũng quy định: "Hoạt động hỗ trợ kết hôn phải tuân thủ nguyên tắc nhân đạo, phi lợi nhuận. Nghiêm cấm hoạt động kinh doanh dịch vụ môi giới kết hôn hoặc lợi dụng việc hỗ trợ kết hôn nhằm mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì các mục đích trục lợi khác" [43]. Để hoàn thiện các văn bản pháp luật, góp phần tích cực vào việc quản lý Nhà nước, định hướng cho quan hệ hôn nhân và gia đình đi theo chiều hướng lành mạnh phù hợp với thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc, ngày 21 tháng 7 năm 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP, trong đó quy định cụ thể và chi tiết về trình tự, thủ tục kết hôn có yếu tố nước ngoài. Việc đăng ký kết hôn sẽ bị từ chối, nếu qua kết quả phỏng vấn, thẩm tra, xác minh cho thấy việc kết hôn thông qua môi giới bất hợp pháp; kết hôn giả tạo không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; kết hôn không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc; lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác. Thứ hai, về quy định nuôi con nuôi, đặc biệt là nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, pháp luật Việt Nam đã quy định rất rõ ràng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2001) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con
  • 34. 34 nuôi, nhằm mục đích đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ tàn tật làm con nuôi và nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác. Các quy định pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã xuất hiện từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, bắt đầu với những quy định có tính nguyên tắc tại Chương IX của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Các quy định về việc cho và nhận con nuôi đảm bảo việc cho và nhận trẻ em làm con nuôi được thực hiện trên tinh thần nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em, phòng chống việc lợi dụng nuôi con nuôi để buôn bán, bóc lột trẻ em. Đối với vấn đề nuôi con nuôi quốc tế, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP) và Thông tư 08/2006/TT-BTP ngày 08 tháng 12 năm 2006 của Bộ Tư pháp là những cơ sở pháp lý quan trọng nhất để giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài. Thứ ba, về các quy định trong việc đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Việt Nam là một trong những nước có dân số trẻ so với nhiều nước trên thế giới, với nguồn lao động dồi dào, người lao động Việt Nam có truyền thống cần cù, chịu khó, thông minh và sáng tạo. Tuy nhiên, do đặc thù của một nước nông nghiệp, lao động Việt Nam hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật so với lao động của các quốc gia khác, hình thức lao động chủ yếu là thủ công bằng chân tay nên hiệu quả lao động và thu nhập rất thấp. Đưa người lao động ra nước ngoài nhằm tạo thêm thu nhập, rèn luyện tác phong lao động, tiếp thu kỹ thuật tiên tiến là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Nước ta đã hợp tác đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài từ năm 1980. Trong thời kỳ từ 1980 - 1990, hợp tác lao động của nước ta chủ
  • 35. 35 yếu thông qua các hiệp định Chính phủ với các nước thuộc Liên Xô (cũ), các nước Đông Âu và một số nước ở Trung Đông. Trong giai đoạn này, hợp tác lao động được thực hiện theo kế hoạch của Nhà nước, do các cơ quan nhà nước tổ chức thực hiện. Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế thị trường, Nhà nước chủ yếu làm chức năng quản lý, mở thị trường, các doanh nghiệp ký kết hợp đồng và trực tiếp đưa, quản lý người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, việc đưa lao động ra nước ngoài cũng là một cơ hội cho các đối tượng tội phạm mua bán người lợi dụng để đưa người sang quốc gia khác bóc lột sức lao động dưới hình thức xuất khẩu lao động. Thực hiện Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 22 tháng 9 năm 1998 của Bộ Chính trị về xuất khẩu lao động và chuyên gia và chỉ đạo của Chính phủ, từ năm 1999 đến nay, cùng với công tác tìm kiếm thị trường lao động, công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được đẩy mạnh. Hệ thống văn bản pháp lý đã được pháp điển hóa (thành luật) và tính đến thời điểm hiện nay, việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài chịu sự điều chỉnh của các văn bản chủ yếu sau: Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 số 72/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006; Quyết định số 18/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 18 tháng 7 năm 2007 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành chương trình bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài; Quyết định số 19/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 18 tháng 7 năm 2007 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành "Quy định về tổ chức bộ máy hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và bộ máy chuyên trách để bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài"; Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người lao
  • 36. 36 động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Nghị định số 144/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 2007 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về người lao động đi làm việc ở nước ngoài đã tương đối hoàn chỉnh, tạo được cơ chế pháp lý rõ ràng để phòng chống việc mua bán người. Thứ tư, về các quy định trong quản lý các hoạt động kinh doanh, dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm. Đây là một vấn đề có tính cấp thiết bởi việc kinh doanh các dịch vụ có thể dẫn đến mua bán phụ nữ và trẻ em trong nội địa. Mại dâm và mua bán người là hai yếu tố cung và cầu nhằm bóc lột tình dục, đặc biệt với phụ nữ và trẻ em chưa thành niên nhằm trục lợi. Bên cạnh đó, việc kinh doanh dịch vụ còn làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn mại dâm, mua bán phụ nữ, mua bán trẻ em gắn với hoạt động quản lý các cơ sở kinh doanh dịch vụ như: Nghị định của Chính phủ số 39/2000/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2000 về cơ sở lưu trú du lịch; Nghị định số 08/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2001 của Chính Phủ quy định về điều kiện an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; Thông tư số 02/2001/TT-BCA ngày 04 tháng 5 năm 2001 của Bộ Công an hướng dẫn thi hành Nghị định số 08/2001/NĐ-CP; Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BLĐTBXH-BYT ngày 09 tháng 12 năm 2004 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Bộ Y tế về hướng dẫn, quy định danh mục chỗ làm việc, công việc không được sử dụng lao động dưới 18 tuổi trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm; Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội 10/2003/PL-UBTVQH ngày 17 tháng 3 năm 2003 phòng, chống mại dâm; Nghị định của Chính phủ số 178/2004/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm; Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2006
  • 37. 37 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng; Quyết định số 52/2006/QĐ-TTg ngày 08 tháng 3 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phối hợp liên ngành phòng, chống tệ nạn mại dâm giai đoạn 2006 - 2010. Với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về quản lý các hoạt động dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm đã từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý thuận lợi trong công tác phòng chống tệ nạn mại dâm, ngăn ngừa tình trạng mua bán phụ nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm. Thứ năm, về đấu tranh chống mua bán người, mua bán trẻ em và các hành vi vi phạm khác có liên quan, bên cạnh các chế tài về hình sự quy định trong Bộ luật hình sự ở các tội danh mua bán người (Điều 119), mua bán trẻ em (Điều 120) và các điều luật liên quan như tội chứa mại dâm (Điều 254), tội môi giới mại dâm (Điều 255), tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256), tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 266), tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 267), tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội (Điều 268), tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 275), tội nhận hối lộ (Điều 279), tội giả mạo trong công tác (Điều 284), tội đưa hối lộ (Điều 289), tội rửa tiền (Điều 251)..., có rất nhiều chế tài nghiêm khắc về hành chính cũng như dân sự để xử lý tội phạm này. Về chế tài hành chính, quy định việc xử phạt hành chính đối với các hành vi có liên quan đến mua bán người, mua bán trẻ em như mại dâm, lao động, cưỡng bức, xuất cảnh, nhập cảnh trái phép, tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài... mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trong Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; Nghị định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ quy
  • 38. 38 định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm; Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội... Các chế tài hành chính đối với hành vi mua bán người, mua bán trẻ em còn được thể hiện ở việc xử lý nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm trong những trường hợp xâm hại đến phụ nữ có thai hoặc trẻ em. Về chế tài dân sự, hệ thống pháp luật của nước ta không có quy định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi mua bán người, mua bán trẻ em, song nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Chương V của Bộ luật dân sự và tại Điều 42 Bộ luật hình sự. Bất cứ người nào có hành vi mua bán người, mua bán trẻ em hoặc có các hành vi vi phạm khác có liên quan mà gây thiệt hại cho nạn nhân, thì ngoài việc bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho người bị hại. Chính sách bồi thường thiệt hại cho những nạn nhân nói chung, trong đó bao gồm cả những nạn nhân bị mua bán được quy định tại Điều 604 Bộ luật dân sự và theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bị mua bán sẽ được thực hiện đồng thời khi xét xử hình sự đối với kẻ phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em. Về các quy định trong tiếp nhận, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân bị mua bán như: Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg ngày 29 ngày 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về và Thông tư liên tịch số 116/2007/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 27 tháng 9 năm 2007 của Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn nội dung chi, mức chi cho công tác xác minh, tiếp nhận và hỗ trợ phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về tái hòa nhập cộng đồng theo
  • 39. 39 Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg ngày 29 ngày 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ, đã quy định cụ thể về trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan trong việc tiếp nhận cũng như các chính sách hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng. Về các quy định trong việc nêu cao vai trò của gia đình, cộng đồng, tổ chức chính trị - xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Pháp luật hiện nay đã có các quy định liên quan đến trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc nuôi dạy, giáo dục con cái, giữ gìn an ninh trật tự, cảm hóa và giáo dục các đối tượng có quá khứ phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em; quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ các đối tượng có nguy cơ, góp phần phòng ngừa các nguy cơ bị buôn bán, xử lý và tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân. 1.3. KINH NGHIỆM VÀ SỰ HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM Buôn bán người, buôn bán trẻ em là tội phạm vi phạm nhân quyền, chống lại xã hội, xảy ra không chỉ trong phạm vi quốc gia, khu vực mà còn trên toàn cầu. Mức độ và tính chất của tội phạm này ngày càng trở lên nguy hiểm và phức tạp hơn. Việt Nam cũng không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của loại tội phạm này. Tuy nhiên, với những đặc thù riêng của Việt Nam trong bối cảnh áp lực phát triển kinh tế - xã hội, sự mất cân đối trong phát triển, vấn đề di cư, việc làm và hội nhập quốc tế, đường biên giới dài, hiểm trở... làm cho nạn buôn bán người trở lên khó kiểm soát. Những hoạt động buôn người được biết đến chủ yếu là với phụ nữ trẻ và trẻ em gái được đưa sang Campuchia, Malaisia làm nghề mại dâm, hoặc sang Trung Quốc để làm vợ rồi bị ngược đãi trong hôn nhân, bị bắt buộc hành nghề mại dâm hoặc bị bóc lột lao động. Những lĩnh vực có nhiều khả năng liên quan và cần được quan tâm hơn nữa nhằm phòng, chống nạn buôn bán người là hoạt động hôn nhân sắp đặt giữa
  • 40. 40 phụ nữ Việt Nam và nam giới Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan; lĩnh vực xuất khẩu lao động đi Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Nhật Bản, Malaisia, ít nhiều ở Trung Đông và hoạt động đưa người từ Việt Nam sang một số nước Đông Âu và Tây Âu. Với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ có chung đường biên giới, tệ nạn mua bán người, mua bán trẻ em cũng là một loại tội phạm nổi cộm nhiều năm qua. Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, Việt Nam đã ký kết và gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, và tham gia ký kết nhiều hiệp ước quốc tế với các nước láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Lào... và nhất là tham gia chống tội phạm xuyên quốc gia trong khối ASEAN. Các quốc gia trong khối ASEAN, trong đó có Việt Nam là thành viên đã ra Tuyên bố về chống tội phạm xuyên quốc gia vào năm 1997 và Tuyên bố về chống tội phạm buôn người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2004. Bản tuyên bố đã ghi nhận những nỗ lực vượt bậc trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm buôn bán người trong đó có phụ nữ và trẻ em bằng việc một lần nữa đề ra được những hành động cụ thể để trấn áp loại tội phạm này, đó là: thiết lập một mạng lưới tập trung cấp khu vực để ngăn ngừa và đấu tranh chống tội phạm buôn người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; thực hiện các biện pháp để ngăn ngừa gian lận trong việc sử dụng hộ chiếu, các giấy tờ, tài liệu đi lại chính thức, tài liệu nhận dạng và các tài liệu khác; tiến hành trao đổi quan điểm và thông tin thường xuyên về các xu hướng, luồng, mô hình di trú liên quan; củng cố kiểm soát biên giới và các cơ chế giám sát; ban hành và thực hiện các quy định pháp luật cần thiết và khả thi; tăng cường hợp tác giữa các cơ quan di trú và các cơ quan bảo vệ pháp luật; phân biệt rõ giữa các nạn
  • 41. 41 nhân và thủ phạm buôn người; đảm bảo rằng các nạn nhân được đối xử nhân đạo và được cung cấp hỗ trợ y tế cần thiết và các hỗ trợ khác bao gồm cả việc bố trí hồi hương; thực hiện các hoạt động tôn trọng và bảo đảm về các quyền con người và nhân phẩm của nạn nhân của nạn buôn người; áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với những đối tượng tham gia buôn người và cung cấp các trợ giúp rộng rãi nhất có thể để trừng phạt các hành vi này; thực hiện các giải pháp củng cố hợp tác khu vực và quốc tế nhằm ngăn chặn và đấu tranh chống buôn người [1]. Không chỉ cam kết và thông qua các tuyên bố chung, trong đấu tranh phòng chống buôn bán người, buôn bán trẻ em, ASEAN đã có rất nhiều sáng kiến hay và hiệu quả nhằm thúc đẩy hợp tác, đảm bảo an ninh quốc gia và khu vực: lãnh đạo Cơ quan cảnh sát của các nước thành viên thường xuyên có những phiên họp định kỳ (gọi tắt là ASEANPOL) nhằm trao đổi thông tin thường xuyên về tình hình tội phạm; ASEAN đã tiến hành các nghiên cứu cấp quốc gia về tội phạm buôn người dưới góc độ tư pháp hình sự, trên cơ sở đó từng quốc gia đã cụ thể hóa thành các chính sách quốc gia về chống buôn bán người; một số quốc gia còn có kế hoạch hành động quốc gia về chống buôn bán người, thành lập cơ quan chuyên trách về phòng chống buôn bán người; với các nước láng giềng, ASEAN có các thỏa thuận ghi nhớ (MOUS) để chính thức hợp tác với các nước xung quanh trong lĩnh vực chống buôn bán người; Hiệp định của các nước ASEAN về tương trợ tư pháp các vấn đề hình sự năm 2004 cho phép trao đổi chứng cứ của các nghi phạm nhằm nhanh chóng truy tố tội phạm mua bán người; việc dẫn độ tội phạm cũng được nhiều nước ASEAN ký thỏa thuận và cam kết thực thi. Đặc biệt, sáng kiến phối hợp cấp Bộ trưởng của các nước trong tiểu vùng sông Mêkông chống buôn người (gọi tắt là COMMIT) đã thể hiện một bước tiến trong hợp tác giữa các quốc gia tiểu vùng sông Mêkông và nâng cao hiệu quả đối phó với nạn buôn bán người, buôn bán trẻ em.
  • 42. 42 Ngoài ra, sự hợp tác của Cơ quan an ninh với các quốc gia khác trên thế giới để phòng chống tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em ngày càng được hoàn thiện và có sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ. Hiện nay dòng chảy của nạn mua bán người, mua bán trẻ em ở Việt Nam theo ba hướng là biên giới Tây nam qua Campuchia, khu vực miền Trung qua Lào và con đường chủ yếu nhất là qua Trung Quốc (60% tổng số vụ mua bán người là qua Trung Quốc), do địa hình nước ta có đường biên giới dài tiếp giáp với Trung Quốc. Tuy vậy, trong Bộ luật hình sự Trung Hoa năm 1997 lại không có một điều luật riêng biệt nào dành cho tội phạm buôn bán người, hành vi mua bán người chỉ được đề cập như là tình tiết tăng nặng của một số tội danh. Đây là một điểm bất cập lớn của pháp luật Trung Hoa trong việc phòng ngừa và trấn áp loại tội phạm mua bán người này và cũng là một khó khăn cho việc hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người qua biên giới Việt - Trung. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Như vậy, trên phương diện luật pháp quốc tế, sự ra đời của Nghị định thư Palermo về đấu tranh chống tội phạm buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em được Liên hợp quốc thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2000 và có hiệu lực từ ngày 25 tháng 12 năm 2003 là một bước phát triển về mặt lý luận, cung cấp khái niệm mang tính chuẩn mực làm cơ sở cho các quốc gia đưa ra quy định pháp luật riêng phù hợp với điều kiện của nước mình. Theo đó, khách thể của tội phạm buôn bán người, buôn bán trẻ em là Con người (cả nam và nữ) bị coi là hàng hóa để mua bán, trao đổi kiếm lời. Tội phạm buôn bán người, buôn bán trẻ em xâm phạm quyền bất khả xâm phạm thân thể, nhân phẩm, danh dự, quyền tự do của con người. Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để trao đổi, buôn bán người, buôn bán trẻ em như một thứ hàng hóa. Hậu quả của hành vi buôn bán người, buôn bán trẻ em là con người bị đem ra mua bán, trao đổi như
  • 43. 43 hàng hóa, danh dự nhân phẩm bị chà đạp, bị cưỡng bức lao động, bị bóc lột tình dục. Đối với pháp luật Việt Nam, mua bán người, mua bán trẻ em chỉ bao gồm hai loại hành vi mua và bán, tức là việc dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để đổi lấy người, không bao gồm các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người (là những hành vi khác bên cạnh hành vi mua bán xảy ra trong toàn bộ quá trình mua bán người, mua bán trẻ em). Pháp luật Việt Nam coi hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp (che giấu) và nhận người là các hành vi giúp sức và tạo điều kiện cho việc mua bán người, mua bán trẻ em và trên thực tế, những người thực hiện các hành vi nêu trên sẽ bị trừng trị theo các quy định pháp luật tương ứng. Về phương thức, thủ đoạn mua bán người, mua bán trẻ em, pháp luật Việt Nam không quy định phương thức bọn tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, hay nói cách khác là động cơ, mục đích, thủ đoạn không phải là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Điều này có nghĩa là chỉ cần có hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để đổi lấy người hoặc lấy trẻ em là sẽ cấu thành tội mua bán người, mua bán trẻ em, kể cả trong trường hợp nạn nhân hoàn toàn đồng ý với việc mua bán (mặc dù điều này trong thực tiễn hầu như không xảy ra, nạn nhân chỉ có thể đồng ý ban đầu do nhận thức sai về việc mình bị mua bán chứ nếu biết hoàn cảnh thật thì họ không bao giờ đồng ý). Về mục đích mua bán người, mua bán trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam, khi xác định đối tượng có hành vi mua bán người, mua bán trẻ em thì chỉ cần xác định là hành vi chuyển giao người hoặc trẻ em từ một người/nhóm người này sang một người/nhóm người khác để đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất. Về đối tượng bị buôn bán, đối tượng bị buôn bán/ mua bán theo quy định của Nghị định thư về chống buôn bán người, buôn bán trẻ em và pháp
  • 44. 44 luật Việt Nam bao gồm cả nam giới, phụ nữ và trẻ em. Theo quy định của pháp luật quốc tế, trẻ em là người dưới 18 tuổi và theo quy định của pháp luật Việt Nam trẻ em là người dưới 16 tuổi. Với những quy định rõ ràng của pháp luật Việt Nam, trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài đã xây dựng nên hệ thống pháp luật về phòng chống mua bán người và mua bán trẻ em. Với những quy định đã được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở cập nhật các quy định của quốc tế, Việt Nam hoàn toàn có đủ những căn cứ cần thiết để đấu tranh quyết liệt với tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Như vậy, từ những nhận thức về công tác phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em ở pháp luật quốc tế và các quốc gia trong ASEAN, chúng ta đã có những kinh nghiệm, bài học nhất định giúp xây dựng pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đảm bảo yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em trong tình hình mới.
  • 45. 45 Chương 2 TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ HAI TỘI PHẠM NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2009 - 2013 Bộ luật hình sự năm 1999 của nước Việt Nam chúng ta không có điều luật nào quy định tội danh "Buôn bán người" hoặc "Mua bán người". Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định tội "Mua bán phụ nữ" (Điều 119) và tội "Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em" (Điều 120). Thực tiễn áp dụng các điều luật nói trên để xử lý các hành vi về mua bán người (phụ nữ, trẻ em) cũng đã nảy sinh những trường hợp mua bán đàn ông (người trên 18 tuổi) đã không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặc dù việc mua bán đàn ông xảy ra không nhiều, nhưng rõ ràng đây là một kẽ hở của pháp luật và cũng không phù hợp (tương thích) với pháp luật quốc tế. Ngoài ra những vấn đề nảy sinh khác trong thực tiễn của đời sống xã hội cũng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung một số điều luật của Bộ luật hình sự cho phù hợp. Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ năm thông qua Nghị quyết số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009. Theo đó, Điều 119 và 120 Bộ luật hình sự đã được sửa đổi, phù hợp với cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trong thực tiễn của nước ta và phù hợp hơn với luật pháp quốc tế. 2.1. TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2009) 2.1.1. Tội mua bán người (Điều 119 Bộ luật hình sự) Điều 119 về tội mua bán người quy định: 1. Người nào mua bán người thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
  • 46. 46 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm: a) Vì mục đích mại dâm; b) Có tổ chức; c) Có tính chất chuyên nghiệp; d) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; đ) Để đưa ra nước ngoài; e) Đối với nhiều người; g) Phạm tội nhiều lần; 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm [42]. Trước năm 2009, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội mua bán phụ nữ, với quan niệm rằng chỉ có người phụ nữ và trẻ em mới là đối tượng bị mua bán, còn nam giới không phải là đối tượng bị tác động của loại tội phạm này. Thực tế cho thấy đã xuất hiện nhiều vụ mua bán người sang nước ngoài để bóc lột sức lao động mà đối tượng bị mua bán là nam giới. Để giải quyết vấn đề đó cũng như đáp ứng yêu cầu của Nghị định thư về chống buôn bán người, năm 2009 Quốc hội đã thông qua việc sửa đổi tội danh "mua bán phụ nữ" thành "mua bán người" trong Bộ luật hình sự. Đồng thời, còn bổ sung thêm tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là "để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân". Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người * Khách thể của tội phạm: Người phạm tội đã coi con người như một hàng hóa để mua, bán, trao đổi nhằm mục đích kiếm lợi. Hành vi phạm tội xâm phạm nghiêm trọng đến thân thể, nhân phẩm, danh dự, quyền tự do, quyền làm người của nạn nhân.
  • 47. 47 * Mặt khách quan của tội phạm: Thể hiện ở hành vi mua, bán, trao đổi con người để lấy tiền, hàng hóa hoặc các lợi ích vật chất khác. Đối tượng của việc mua bán là con người đủ 16 tuổi trở lên, không phân biệt giới tính (nam hay nữ) và người phạm tội phải nhận thức được hành vi của mình là hành vi mua bán người thì mới là hành vi phạm tội, nếu họ không nhận thức được hành vi của mình là hành vi mua bán người thì không phải là tội phạm. Các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp, giao nhận người trong các vụ án mua bán người có thể do một người thực hiện nhưng cũng có thể do nhiều người thực hiện. Những người thực hiện ở các vai trò chủ mưu, tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức cho người thực hiện hành vi mua bán người đều là đồng phạm của tội mua bán người. Hậu quả của hành vi mua bán người là con người bị đem ra mua bán, trao đổi như hàng hóa, danh dự nhân phẩm bị chà đạp, bị cưỡng bức lao động, bị bóc lột tình dục... ý chí có hay không của nạn nhân trong việc tự nguyện trở thành hàng hóa không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm mua bán người. Bên cạnh đó, vì là hành vi mua bán nên dấu hiệu thu lợi cũng là một dấu hiệu quan trọng, nhưng nó không phải là dấu hiệu bắt buộc, việc người phạm tội có thu lợi hay không chỉ có ý nghĩa trong việc áp dụng hình phạt (lượng hình). Trong một số trường hợp, nếu người phạm tội đã thực hiện một số hành vi như tìm kiếm người, liên hệ nơi bán, mua, thỏa thuận giá cả, nơi giao nhận… nhưng vì nguyên nhân nào đó ngoài ý muốn, mà họ không thực hiện được việc mua bán người thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, người thực hiện các hành vi đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người. * Chủ thể của tội phạm: Người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự đều là chủ thể của tội mua bán người. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nếu vi phạm vào khoản 2 Điều 119 của Bộ luật hình sự.
  • 48. 48 * Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. Điều luật không quy định động cơ, mục đích phạm tội, do vậy, người phạm tội thực hiện với động cơ, mục đích gì thì đều là phạm tội mua bán người. Về hình phạt: Điều luật quy định hai khung hình phạt Khung 1: (Cấu thành cơ bản) quy định mức hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Mức hình phạt này áp dụng cho những người phạm tội không có tình tiết tăng nặng định khung. Tuy nhiên, họ có thể bị áp dụng các tình tiết tăng nặng khác (nếu có) quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự. Khung 2: Mức hình phạt quy định tại khung 2 là hình phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm, áp dụng đối với những người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: a. Mua bán người vì mục đích mại dâm: như mua bán phụ nữ cho các ổ chứa mại dâm và buộc nạn nhân phải bán dâm ngoài ý muốn của họ. b. Có tổ chức: là trường hợp phạm tội có từ 2 người trở lên và có sự phân công vai trò, có sự cấu kết chặt chẽ khi thực hiện hành vi phạm tội của những người phạm tội. c. Có tính chất chuyên nghiệp: là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm mua bán người từ năm lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội mua bán người làm nghề sinh sống và lấy lợi nhuận thu được làm nguồn sống chính. d. Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân: là trường hợp mua bán người nhằm lấy bộ phận cơ thể của họ. Bộ phận cơ thể là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định (như tim, gan, thận, nhãn cầu, tay, chân…). đ. Để đưa ra nước ngoài: là trường hợp mua bán người để đưa nạn nhân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, kể cả trong trường hợp nạn nhân chưa bị đưa
  • 49. 49 ra nước ngoài nhưng có căn cứ xác định người phạm tội có ý định đưa nạn nhân ra nước ngoài. e. Đối với nhiều người: là trường hợp mua bán từ hai người trở lên trong cùng một lần phạm tội. g. Phạm tội nhiều lần: là trường hợp mua bán từ hai lần trở lên, không phân biệt các hành vi mua bán đó được thực hiện đối với một người hay đối với nhiều người và trong các lần mua bán đó người phạm tội chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, điều luật còn quy định hình phạt bổ sung như phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm đối với người phạm tội. 2.1.2. Tội mua bán trẻ em (Điều 120 Bộ luật hình sự) Điều 120 về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em quy định: 1. Người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Vì động cơ đê hèn; d) Đối với nhiều trẻ em; đ) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; e) Để đưa ra nước ngoài; g) Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo; h) Để sử dụng vào mục đích mại dâm; i) Tái phạm nguy hiểm; k) Gây hậu quả nghiêm trọng [42]. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
  • 50. 50 nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc phạt quản chế từ một năm đến năm năm [42]. Đây là một tội ghép của ba tội khác nhau là mua bán trẻ em, đánh tráo trẻ em và chiếm đoạt trẻ em. Mua bán trẻ em được hiểu là việc mua hoặc bán trẻ em vì mục đích tư lợi, dù là mua của kẻ bắt trộm hay của chính người có con đem bán hoặc mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ bị bắt trộm cũng bị xử lý về tội mua bán trẻ em; Đánh tráo trẻ em là dùng thủ đoạn hoặc mánh khóe gian lận để thay thế đứa trẻ này bằng đứa trẻ khác; Chiếm đoạt trẻ em là hành vi lấy đứa trẻ của người khác cho mình bằng các thủ đoạn như dựa vào vũ lực, quyền thế. Hậu quả của các hành vi trên là đứa trẻ bị đem ra mua bán, bị đánh tráo, bị chiếm đoạt thoát ra khỏi sự quản lý của bố mẹ và gia đình. Do các yếu tố cấu thành tội phạm của tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo quy định của Bộ luật hình sự là tương tự như nhau, độ tuổi của nạn nhân chỉ có ý nghĩa trong việc xác định tội danh và xác định mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Nếu nạn nhân là người lớn (từ đủ 16 tuổi trở lên) thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 119 về tội mua bán người, nếu nạn nhân là trẻ em (người dưới 16 tuổi) thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 120 về tội mua bán trẻ em với khung hình phạt nặng hơn. Do vậy, trong khuôn khổ đề tài của luận văn, tác giả chỉ đề cập phân tích hành vi mua bán trẻ em mà không đề cập đến hành vi đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trẻ em * Khách thể của tội phạm: Người phạm tội đã coi con người (cả nam và nữ) dưới 16 tuổi như một hàng hóa để mua, bán, trao đổi nhằm mục đích kiếm lợi. Hành vi phạm tội đã xâm phạm quyền tự do, thân thể của trẻ em và quyền được quản lý, chăm sóc và giáo dục của trẻ em. Cao hơn là đã xâm phạm đến quyền con người của trẻ em.
  • 51. 51 * Mặt khách quan của tội phạm: Các hành vi khách quan trong tội mua bán trẻ em thường được biểu hiện như rủ rê, lôi kéo, dụ dỗ, lừa dối trẻ em theo người phạm tội hoặc người phạm tội có thể mua để nuôi, rồi đem bán với động cơ, mục đích vụ lợi. Trong thực tiễn đã xảy ra việc tấn công bắt cóc trẻ em để bán qua Trung Quốc. Người phạm tội cũng coi trẻ em như hàng hóa để mua, bán, trao đổi lấy tiền, hàng hóa hoặc các lợi ích vật chất khác. Đối tượng của việc mua bán là con người dưới 16 tuổi, không phân biệt giới tính (nam hay nữ) và người phạm tội cũng phải nhận thức được hành vi của mình là hành vi mua bán thì mới là hành vi phạm tội. Những người thực hiện ở các vai trò chủ mưu, tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức cho người thực hiện hành vi mua bán trẻ em đều phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm. Hậu quả của hành vi mua bán trẻ em là trẻ em bị đem ra mua bán, trao đổi như hàng hóa. Hành vi phạm tội đã xâm phạm đến các quyền của trẻ em, là đối tượng được pháp luật đặc biệt bảo vệ. * Chủ thể của tội phạm: Là người có năng lực trách nhiệm hình sự từ đủ 14 tuổi trở lên. * Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. Điều luật không quy định động cơ, mục đích phạm tội, do vậy, người phạm tội thực hiện với bất kỳ động cơ, mục đích gì thì đều là phạm tội mua bán trẻ em. Về hình phạt: Điều luật quy định hai khung hình phạt Khung 1: (Cấu thành cơ bản) quy định hình phạt tù từ ba năm đến mười năm, áp dụng đối với người phạm tội không có tình tiết định khung tăng nặng. Khung 2: (Cấu thành tăng nặng) quy định hình phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, áp dụng đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
  • 52. 52 a. Có tổ chức: là trường hợp vụ án có từ hai người trở lên, khi thực hiện hành vi phạm tội mua bán trẻ em có sự phân công vai trò, trách nhiệm của từng người và có sự câu kết chặt chẽ giữa những người phạm tội. b. Có tính chất chuyên nghiệp: là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm mua bán trẻ từ năm lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội mua bán trẻ em làm nghề sinh sống và lấy lợi nhuận thu được làm nguồn sống chính. c. Vì động cơ đê hèn: là trường hợp phạm tội mua bán trẻ em để nhằm mục đích trả thù, phản trắc, bội bạc với những người thân trong gia đình, trong cơ quan hoặc nơi sinh sống hoặc cũng có thể do mâu thuẫn với một người nào đó mà thực hiện hành vi mua bán con của họ với mục đích triệt hạ nòi giống… d. Đối với nhiều trẻ em: là thực hiện hành vi mua bán từ 2 trẻ em trở lên trong một lần phạm tội. đ. Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân: là trường hợp mua bán trẻ em để người mua lấy các bộ phận cơ thể như gan, tủy, thận, nhãn cầu… của trẻ em đó. e. Để đưa ra nước ngoài: là trường hợp mua bán trẻ em đưa ra khỏi lãnh thổ nước Việt Nam, kể cả trong trường hợp nạn nhân là trẻ em chưa bị đưa ra nước ngoài nhưng có căn cứ xác định người phạm tội có ý định đưa nạn nhân ra nước ngoài. g. Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo: là trường hợp như dùng trẻ em để làm thí nghiệm, nghiên cứu, thử nghiệm thuốc… Nếu nạn nhân bị chết hoặc tổn hại sức khỏe thì người phạm tội còn có thể bị truy tố thêm về tội giết người, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. h. Để sử dụng vào mục đích mại dâm: là hành vi mua bán trẻ em rồi đưa trẻ em vào các ổ chứa mại dâm bắt bán dâm hoặc bán cho người nước ngoài để họ quan hệ tình dục.
  • 53. 53 i. Tái phạm nguy hiểm: là trường hợp người phạm tội trước đó đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mua bán trẻ em. Hoặc trường hợp đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mua bán trẻ em. k. Gây hậu quả nghiêm trọng: có thể xem xét đến hậu quả như làm cho trẻ em bị ốm đau, bệnh tật, thương tích; suy nhược thần kinh, tâm thần rối loạn; trẻ em hoảng sợ, uất ức dẫn đến tự vẫn; bị mắc các bệnh AIDS/HIV hoặc các bệnh truyền nhiễm khác...; Bố mẹ đứa trẻ vì mất con mà đau ốm triền miên, thậm chí tâm thần, điên loạn, tự sát… Ngoài những hậu quả vật chất đó, còn có thể có các hậu quả phi vật chất như ảnh hưởng đến đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, tình hình trật tự, trị an xã hội ở địa phương... Về hình phạt bổ sung, ngoài các hình phạt chính quy định tại khoản 1, khoản 2 thì tại khoản 3 Điều 119, Điều 120 Bộ luật hình sự đều quy định về hình phạt bổ sung đối với các bị cáo phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em. Theo đó, các bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Đối với tội mua bán người, bị cáo có thể bị phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm; đối với tội mua bán trẻ em, bị cáo có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc phạt quản chế từ một năm đến năm năm. Theo quy định của Bộ luật hình sự nước ta, thì mua bán người là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để trao đổi người (từ đủ 16 tuổi trở lên) như một loại hàng hóa, hành vi đó là: bán người cho người khác, không phụ thuộc vào mục đích của người mua; mua người để bán lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào; dùng người như là tài sản để trao đổi, thanh toán; mua người để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật khác; người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi mua bán người nêu trên đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người. Mua bán trẻ em là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật
  • 54. 54 chất khác để trao đổi trẻ em (người dưới 16 tuổi) như một loại hàng hóa, cụ thể là một trong các hành vi sau đây: bán trẻ em cho người khác, không phụ thuộc vào mục đích của người mua; mua trẻ em để bán lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào; dùng trẻ em làm phương tiện để trao đổi, thanh toán; mua trẻ em để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác; người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi nêu trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm. Như vậy, quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em ít nhiều đã có sự tương thích với quy định của Công ước quốc tế về tội buôn bán người. Sự tương thích thể hiện ở những điểm sau: pháp luật nước ta không những quy định là tội phạm hình sự đối với hành vi mua bán người nhỏ lẻ (một lần) mà còn quy định là tội phạm hình sự đối với hành vi mua bán người có tính chất tổ chức, nhiều lần (buôn bán) như quy định của Công ước quốc tế; hoặc tuy không quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự nhưng văn bản hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự đã hướng dẫn về các thủ đoạn phạm tội mua bán người như, môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái phép, đưa người đi lao động nước ngoài trái phép, môi giới nuôi con nuôi trái pháp luật; quy định mục đích để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, để đưa ra nước ngoài, để sử dụng vào mục đích mại dâm hoặc mục đích vô nhân đạo là các tình tiết định khung hình phạt... Tuy nhiên, sự không tương thích lớn nhất giữa quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em với quy định của Công ước quốc tế về tội buôn bán người thể hiện ở hai điểm chính, đó là: Thứ nhất, quy định về người thực hành tội phạm: theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam, thì chỉ người thực hiện hành vi mua bán người (hành vi chuyển giao) được gọi là người thực hành, bao gồm người bán (người chuyển giao) và người mua người (người tiếp nhận). Còn những người thực hiện các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp để chuyển giao mà Công
  • 55. 55 ước quốc tế coi là người thực hành thì pháp luật Việt Nam chỉ coi là người giúp sức. Theo cơ chế đồng phạm quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự Việt Nam thì ngoài người thực hành, người giúp sức còn có người tổ chức và người xúi giục cũng bị truy tố về tội mua bán người, mua bán trẻ em nếu là phạm tội có tổ chức. Hệ quả của sự không tương thích này là theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức (người tuyển mộ, người vận chuyển, người chứa chấp) với vai trò đồng phạm, khi truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi mua hoặc bán người (người chuyển giao hoặc người tiếp nhận). Thứ hai, quy định về mục đích bóc lột của tội phạm: mục đích phạm tội mua bán người theo quy định của Bộ luật hình sự nước ta chưa bao hàm hết mục đích phạm tội buôn bán người theo quy định của Công ước quốc tế. Pháp luật hình sự Việt Nam mới chỉ quy định mục đích để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, để đưa ra nước ngoài, để sử dụng vào mục đích mại dâm hoặc mục đích vô nhân đạo là các tình tiết định khung hình phạt. Còn các mục đích khác như: bóc lột tình dục; cưỡng bức lao động hoặc cung cấp dịch vụ, bao gồm lao động để trả nợ hoặc gán nợ; lao động nô lệ hoặc các hình thức tương tự; phục dịch như nô lệ, bao gồm nô lệ tình dục; lấy nội tạng; sử dụng cho hoạt động trái pháp luật hoặc phạm tội; cưỡng bức hôn nhân hoặc biến thành nô lệ thông qua hôn nhân; cưỡng bức hoặc cưỡng ép đi ăn xin; bắt tham gia vào xung đột vũ trang v.v… thì chưa được pháp luật Việt Nam quy định trong cấu thành tội phạm. 2.2. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI PHẠM MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG 2.2.1. Đặc điểm chung về tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên phạm vi cả nước Trên thế giới, theo ước tính của các tổ chức quốc tế liên quan đến phòng chống tội phạm buôn bán người, hàng năm có khoảng 600.000 đến 800.000 người chủ yếu là phụ nữ và trẻ em bị buôn bán từ quốc gia này sang
  • 56. 56 quốc gia khác. Nghiêm trọng hơn, nhiều nạn nhân của buôn bán người bị bắt phải hoạt động trong các tổ chức mại dâm hay bị bóc lột sức lao động ở những công xưởng, nhà máy không đảm bảo quyền lợi và an toàn lao động. Tội phạm buôn bán người đe dọa đến an ninh, an toàn của con người, xâm hại đến đời sống vật chất và đặc biệt là làm tổn hại nghiêm trọng đến đời sống tinh thần của nạn nhân, tước đoạt quyền con người, hủy hoại sức khỏe nhân loại. Ở nước ta, theo báo cáo của các địa phương về Kế hoạch 38/BCA, tổng điều tra, rà soát thực trạng mua bán người, mua bán trẻ em từ năm 1998 đến 2006, cả nước đã xác định được 33 tuyến, 139 địa bàn trọng điểm thường xuyên diễn ra hoạt động buôn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài. Lên danh sách và đưa vào diện quản lý 2.048 đối tượng, dựng lại 235 đường dây, với 654 đối tượng có liên quan đến hoạt động buôn bán phụ nữ, trẻ em để có kế hoạch phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn; lập danh sách 5.746 phụ nữ, trẻ em bị bán ra nước ngoài, 7.940 phụ nữ, trẻ em vắng mặt lâu ngày tại địa phương nghi đã bị bán; đề nghị Trung Quốc và Campuchia xác minh 294 phụ nữ và trẻ em đang có địa chỉ cụ thể ở hai quốc gia nói trên; rà soát được 136.000 phụ nữ kết hôn với người nước ngoài trong đó 42% ở Trung Quốc, 31% ở Đài Loan, 11% ở Hàn Quốc và 16% ở các nước khác. Tuy đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nhưng tình trạng mua bán người, mua bán trẻ em ở nước ta những năm gần đây vẫn có những dấu hiệu phức tạp và không ngừng gia tăng về phương thức và địa bàn hoạt động. Theo báo cáo của Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng, đơn vị chủ trì và nòng cốt trong Tiểu dự án 2 thuộc Đề án II, Chương trình 130/CP - Chương trình hành động phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em (gọi tắt là chương trình 130/CP) - trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2009, tình hình buôn bán phụ nữ, trẻ em đặc biệt tại các địa bàn biên giới đang diễn biến vô cùng phức tạp. Tại các tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Giang, Lào Cai,
  • 57. 57 Lai Châu; tuyến biên giới Việt Nam - Lào như Hà Tĩnh, Quảng Trị; tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia như Tây Ninh, An Giang vẫn ghi nhận những đường dây, ổ nhóm buôn bán người với quy mô lớn, hoạt động xuyên quốc gia và có tổ chức, mạng lưới rộng khắp cả nước. Khu vực biên giới trở thành địa điểm tập kết và trung chuyển "hàng hóa", đồng thời là nơi bọn tội phạm lẩn trốn. Thủ đoạn và hình thức hoạt động ngày càng tinh vi và có sự trợ giúp của công nghệ cùng với mạng lưới tội phạm tại các địa phương làm nhiệm vụ dụ dỗ, lôi kéo đưa người bán qua biên giới. Hình thức mua bán là lợi dụng sự thiếu hiểu biết, tình hình dân trí thấp của một bộ phận dân cư, bọn chúng đã dùng thủ đoạn lừa gạt để gán các phụ nữ nông thôn, miền núi cho các nhà hàng, quán trọ, khách sạn, nơi làm dịch vụ kinh doanh mại dâm trá hình... Bên cạnh đó còn là các chiêu thức khác như xin việc làm, xuất khẩu lao động, kết hôn với người ngoại quốc, cho con nuôi... Đặc biệt là tỉ lệ nạn nhân cư trú ở khu vực biên giới bị mua bán ra nước ngoài có dấu hiệu gia tăng. Theo kết quả thống kê giai đoạn 2004 - 2009 có 456/ 690 nạn nhân được giải cứu là người ở khu vực biên giới (chiếm 66.66%). Nghiêm trọng hơn là tình trạng mua bán thai nhi tại Móng Cái (Quảng Ninh) với 01 vụ, mua bán trẻ sơ sinh tại Lào Cai, Hà Giang đã phát hiện 03 vụ. Tình trạng phụ nữ và trẻ em ra khỏi nơi cư trú chưa rõ nguyên nhân với 4.000 trường hợp tại biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Bộ đội Biên phòng các địa phương đã rà soát, điều tra cơ bản, khảo sát toàn diện tình hình mua bán người, mua bán trẻ em và thu thập 1.028 hồ sơ điều tra địa bàn nội biên, 370 địa bàn ngoại biên, 53 tuyến mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới. Xác định 115 xã nội biên (chiếm 11,1%) có nạn nhân bị mua bán; 6.678 người (bao gồm cả phụ nữ, trẻ em và nam giới) đi khỏi nơi cư trú không rõ nguyên nhân, trong đó 4.678 người nghi bị mua bán; 1.446 phụ nữ tự ý ra nước ngoài lấy chồng, 356 người được xác nhận đã có con nay trở về thăm người thân; phát hiện 176/ 277 đường dây (trong đó có 155 đối tượng ở ngoại biên) có dấu hiệu nghi vấn hoạt động mua
  • 58. 58 bán người ra nước ngoài; 249 cơ sở kinh doanh nhà hàng, khách sạn, vũ trường ở ngoại biên có biểu hiện hoạt động mại dâm và chứa chấp người bị mua bán. Bộ đội Biên phòng đã xác lập và đấu tranh với 61 chuyên án, 137 kế hoạch nghiệp vụ, đấu tranh 234 vụ án, triệt phá 95 đường dây, bắt 359 vụ/ 569 đối tượng, giải cứu 690 nạn nhân (trong đó có 586 phụ nữ, 104 trẻ em), xử lý khởi tố 194 vụ/ 317 đối tượng, chuyển giao cơ quan Công an 165 vụ/ 252 đối tượng. Đồng thời Bộ đội Biên phòng đã tiếp nhận 661 nạn nhân do các nước trao trả (trong đó, Trung Quốc có 658 nạn nhân chiếm 99,54%). Theo đánh giá của Ban chỉ đạo 130/CP, trong giai đoạn từ 2009 đến 2013 tình trạng mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn cả nước vẫn có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Năm 2009, cả nước xảy ra 395 vụ, liên quan đến 748 đối tượng, lừa bán 869 nạn nhân. So với năm 2008 tăng 5,3% (395/ 375) về số vụ, tăng 4,1% 9748/ 718) số đối tượng, giảm 11,4% (869/ 981) về nạn nhân. Năm 2010, xảy ra 429 vụ, liên quan 683 đối tượng, lừa bán 671 nạn nhân, tăng 34 vụ so với năm 2009 (trong đó: mua bán phụ nữ là 385 vụ với 564 đối tượng, lừa bán 552 phụ nữ; mua bán trẻ em là 33 vụ với 70 đối tượng, lừa bán 82 trẻ em; mua bán phụ nữ, trẻ em là 11 vụ với 49 đối tượng, lừa bán 37 nạn nhân). Đặc biệt là sự gia tăng về phương thức thủ đoạn mua bán. Năm 2010, công an quận Đống Đa (Hà Nội) đã điều tra, triệt phá đường dây tội phạm mua bán người với quy mô lớn liên quan đến rất nhiều địa phương. Bước đầu cơ quan điều tra đã bắt 29 đối tượng, giải cứu 15 nạn nhân. Bọn chúng khai nhận thông qua mạng Internet đã làm quen và lừa phụ nữ, trẻ em bán ra nước ngoài (02 vụ) hoặc bán vào các ổ chứa mại dâm tại Hải Phòng (14 vụ). Hiện tượng cha mẹ bán con đẻ cũng đã xảy ra như trường hợp Pờ Xá To người Hà Nhì tại Mường Tè, Lai Châu đã bán con là Pờ Lò Xó sang Trung Quốc. Tình trạng môi giới hôn nhân, mua bán trẻ sơ sinh cũng diễn ra phức tạp, từ năm 2008 đến năm 2010 có trên 200 trẻ em cho người nước ngoài nhận làm con nuôi nghi có dấu hiệu bị mua bán. Năm 2011, cả nước phát hiện 454 vụ,
  • 59. 59 liên quan 670 đối tượng, lừa bán 821 nạn nhân. Các địa phương xảy ra nhiều nhất là Lào Cai 31 vụ, Nam Định 18 vụ, Lai Châu 17 vụ, Lạng Sơn 16 vụ, Hà Giang 15 vụ. Hoạt động của loại tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em ngày càng tinh vi và có dấu hiệu liên kết xuyên quốc gia. Tháng 01 năm 2011, Công an thành phố Cần Thơ khám phá đường dây quy mô lớn đưa người ra nước ngoài để bán thận liên quan đến 09 đối tượng do Võ Đình Văn (Sinh năm 1986, ngụ tại Thành phố Hồ Chí Minh) cầm đầu, chúng thừa nhận lừa được 75 người thuộc các địa phương phía Nam sang Trung Quốc, Singapor để bán thận. Cũng trong năm 2011, Cảnh sát Thái Lan phối hợp với cơ quan chức năng Việt Nam đã triệt phá đường dây đưa 15 phụ nữ sang Thái Lan đẻ thuê thực chất là mua bán người, bắt 04 đối tượng người Đài Loan thuộc công ty Baby 101 đăng ký kinh doanh trên đất Thái Lan, giải cứu 15 phụ nữ Việt Nam cùng các trẻ sơ sinh. Năm 2012 phát hiện 487 vụ, với 809 đối tượng, lừa bán 883 nạn nhân, tăng 7,2% số vụ, 20% số đối tượng và 7,2% số nạn nhân so với năm 2011, với các địa phương xảy ra nhiều là Lào Cai 43 vụ, Hà Nội 16 vụ, Lai Châu 13 vụ, Tây Ninh 11 vụ. Nhiều phương thức mua bán mới bị phát hiện như thông qua hoạt động xuất khẩu lao động, tuyển dụng lao động, cho vay nặng lãi rồi ép buộc nạn nhân hoạt động tình dục hoặc lao động cưỡng bức, đột nhập, bắt cóc trẻ em phụ nữ đưa qua biên giới. Năm 2013 xảy ra 507 vụ, với 697 đối tượng và 982 nạn nhân, tăng 4% số vụ, 11% số nạn nhân so với năm 2012, đặc biệt là tình trạng mua bán sang Trung Quốc chiếm 70% số vụ. 2.2.2. Tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013 Hà Giang là tỉnh miền núi nằm ở khu vực biên giới phía Bắc, có 274 km đường biên giới và trong số 11 huyện, thành phố có 07 huyện, 34 xã biên giới tiếp giáp với các huyện thuộc tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc). Do đặc điểm địa hình hiểm trở, có đường biên giới kéo dài nên tình hình vi phạm và tội phạm xảy ra vô cùng phức tạp, đặc biệt là tội phạm về mua bán người và
  • 60. 60 tội phạm mua bán trẻ em. Mặt khác, người dân sống ở khu vực giáp biên chủ yếu là người dân tộc thiểu số, phân bố nhỏ lẻ ở các sườn núi cao, trình độ dân trí hạn chế, có nhiều mối quan hệ huyết thống hoặc thân thiết với những người bên kia biên giới nên công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức và cảnh giác với các phương thức, thủ đoạn của bọn tội phạm trong việc phòng chống mua bán người, mua bán trẻ em gặp rất nhiều khó khăn. Trong giai đoạn từ năm 2004 đến 2006, Công an tỉnh Hà Giang đã xác lập và đấu tranh 07 chuyên án về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em; triệt phá 15 đường dây, ổ nhóm; giải cứu được 19 nạn nhân (14 phụ nữ và 05 trẻ em) bị lừa bán ra nước ngoài; đã khởi tố điều tra, truy tố được 26 vụ, 40 bị can; Tòa án đã đưa ra xét xử được 14 vụ, 36 bị can với mức án trên 15 năm, 03 bị cáo; 07 - 15 năm, 12 bị cáo; 03 - 07 năm, 10 bị cáo; án treo, 11 bị cáo và đưa 02 vụ xét xử lưu động nhằm tuyên truyền và giáo dục cho người dân. Trong năm 2008, theo thống kê của Công an tỉnh, trên địa bàn tỉnh Hà Giang đã triệt phá 09 đường dây mua bán người, mua bán, chiếm đoạt trẻ em; bắt 18 đối tượng; tổng số nạn nhân bị mua bán, chiếm đoạt là 42 người. So với thống kê của Tổng cục Cảnh sát, tỉnh Hà Giang có 32/ 375 vụ mua bán phụ nữ, trẻ em chiếm 8,5% và 23/ 718 bị can chiếm 3,2%. Giai đoạn từ năm 2009 - 2013, Công an tỉnh Hà Giang đã xác lập được 07 chuyên án đấu tranh với tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em, đã điều tra làm rõ 27 vụ, bắt 42 đối tượng để điều tra xử lý, xác định được 34 nạn nhân (trong đó, có 22 phụ nữ và 12 trẻ em) bị lừa bán ra nước ngoài (Trung Quốc), đã giải cứu được 19 nạn nhân. Với những số liệu trên, có thể thấy tình hình tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang diễn biến phức tạp và cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội của tỉnh, tình hình tội phạm đang có xu hướng gia tăng với nhiều phương thức và thủ đoạn tinh vi hơn.
  • 61. 61 Bảng 2.1: Số vụ và số bị can đã khởi tố điều tra về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 Năm Tổng số vụ án về trị an xã hội Số vụ mua bán người, mua bán trẻ em Số bị can mua bán người, mua bán trẻ em 2009 505 19 38 2010 417 21 60 2011 125 15 54 2012 149 10 34 2013 170 19 42 Tổng cộng 1.366 84 228 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang. Bảng thống kê trên thể hiện cụ thể số vụ và số bị can đã bị khởi tố để điều tra về tội mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong các năm từ 2009 đến 2013. Trong 05 năm, số lượng vụ án mua bán người, mua bán trẻ em là 84/ 1336 vụ chiếm 6,3%, với 228 bị can. Theo đó năm 2009, số vụ mua bán người, mua bán trẻ em trên tổng số vụ án về trị an xã hội là 19/ 505 vụ chiếm 3,8%; năm 2010 là 21/ 417 vụ chiếm 5,0%; năm 2011 là 15/ 125 vụ chiếm 12,0%; năm 2012 là 10/ 149 vụ chiếm 6,7%; năm 2013 là 19/ 170 vụ chiếm 11,2%. Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ tổng số vụ án mua bán người, mua bán trẻ em trên tổng số vụ án về trị an xã hội của tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang. 3,8% 2009 % 30 12,0% 10 0 6,7% 11,2% 20 Năm 5,0% 2010 2011 2012 2013
  • 62. 62 Sự gia tăng và suy giảm của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em từ năm 2009 đến 2013 được thể hiện bằng biểu đồ trên. Quan sát biểu đồ chúng ta nhận thấy giai đoạn từ 2009 đến 2011 tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang có dấu hiệu gia tăng và đặc biệt chiếm tỷ lệ cao nhất vào năm 2011. Đối chiếu với số bị can cũng có sự tăng vọt từ 38 bị can năm 2009 lên 60 bị can năm 2010 và vẫn giữ tỷ lệ cao với 54 bị can năm 2011. Giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2013, tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em có dấu hiệu gia tăng mạnh nhất vào năm 2013. Sự gia tăng của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang xuất phát từ những đặc thù riêng của địa phương. Các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em chủ yếu xảy ra ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công tác tuyên truyền, vận động trong quần chúng còn gặp rất nhiều khó khăn. Các vụ án xảy ra đa phần có yếu tố nước ngoài, đối tượng phạm tội lẩn trốn bên kia biên giới gây nhiều khó khăn cho công tác điều tra, phá án, đặc biệt có nhiều vụ việc do chính cha mẹ, người thân bán con em mình để lấy tiền. Trong khi đó lực lượng Biên phòng và an ninh còn mỏng lại quản lý một khu vực biên giới tương đối rộng nên công tác phòng chống gặp không ít khó khăn. Nhận thức tính chất và mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này, trong giai đoạn I (2004 - 2007) của Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em theo quyết định số 130/CP của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Hà Giang đã thực hiện tương đối tốt các biện pháp tuyên truyền, phòng ngừa tội phạm. Theo báo cáo của Tiểu ban chỉ đạo 130/CP tỉnh Hà Giang, các lực lượng Biên phòng và Công an đã phối hợp tuyên truyền được 250 buổi, thu hút 12.720 lượt người dân tham gia. Hội phụ nữ tổ chức được 10 lớp tập huấn về phòng chống mua bán phụ nữ và trẻ em, tạo việc làm cho nhiều phụ nữ khi trở về gia đình, tái hòa nhập cộng đồng. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội khảo sát và nắm tình hình các xã biên giới, mở 02 lớp
  • 63. 63 tập huấn phòng chống tệ nạn xã hội, chống xâm hại tình dục trẻ em. Tiếp nhận 49 nạn nhân do phía Trung Quốc trao trả đúng thủ tục hiện hành. Ủy ban Dân số - gia đình và trẻ em đã điều tra, phát hiện 1.465 phụ nữ và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn có nguy cơ bị bọn tội phạm lợi dụng. Sở tư pháp đã dự thảo các văn bản về phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em, phát hành 10.000 tờ rơi, giấy tờ liên quan, phát hành 500 đặc san chuyên đề phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Quán triệt tinh thần của chương trình quốc gia về phòng chống mua bán người, mua bán trẻ em, các ngành thành viên đã chủ động xây dựng kế hoạch, phối hợp với nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ. Hà Giang đã có nhiều lần gặp gỡ, trao đổi và ký kết với các địa phương của nước láng giềng nhằm hợp tác, tăng cường quản lý khu vực biên giới, theo dõi và điều tra các đối tượng mua bán người bỏ trốn sang nước ngoài. Sau khi tiếp tục triển khai giai đoạn II (2008 - 2010) của Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, tỉnh Hà Giang đã tích cực chỉ đạo các lực lượng chức năng tổ chức tuyên truyền với trên 400 buổi tuyên truyền bằng nhiều hình thức: truyền thông qua chợ phiên; xây dựng tiểu phẩm; tổ chức thi tìm hiểu kiến thức phòng chống tội phạm; tuyên truyền qua sinh hoạt thôn bản... bằng nhiều cách làm sáng tạo đã giảm thiểu các vụ chiếm đoạt, mua bán phụ nữ, trẻ em ở khu vực biên giới. Mặc dù vậy, so với cả nước, tình hình mua bán người, mua bán trẻ em ở Hà Giang vẫn diễn biến phức tạp và số lượng tương đối lớn. Là một tỉnh địa đầu của Tổ quốc, có địa hình chia cắt phức tạp với nhiều đường tiểu ngạch liên thông với các địa phương của Trung Quốc nên cùng với Quảng Ninh, Lào Cai, Lạng Sơn..., Hà Giang là điểm nóng của tệ nạn mua bán người, mua bán trẻ em. Theo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số lượng vụ án và bị can bị truy tố và xét xử về tội mua bán người, mua bán trẻ em trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2013, cụ thể như sau:
  • 64. 64 Bảng 2.2: Số vụ và số bị can, bị cáo bị khởi tố điều tra, truy tố, xét xử về tội mua bán người, mua bán trẻ em trên phạm vi cả nước từ 2009 - 2013 Năm Số liệu Số cũ Số mới Truy tố Xét xử Vụ Bị can Vụ Bị can Vụ Bị can Vụ Bị cáo 2009 Mua bán người 55 126 149 279 68 151 90 195 Mua bán trẻ em 29 68 50 103 20 61 38 86 Cộng 84 194 199 382 88 212 128 281 2010 Mua bán người 160 251 425 882 260 482 124 236 Mua bán trẻ em 60 131 146 376 83 229 47 125 Cộng 220 382 571 1258 343 711 171 361 2011 Mua bán người 48 111 154 294 119 251 147 277 Mua bán trẻ em 23 52 42 85 45 102 47 108 Cộng 71 163 196 379 164 352 194 335 2012 Mua bán người 55 105 174 376 161 339 155 319 Mua bán trẻ em 17 24 42 90 45 95 43 90 Cộng 72 129 216 466 206 434 198 409 2013 Mua bán người 61 124 176 332 174 356 169 341 Mua bán trẻ em 21 32 64 111 59 114 53 99 Cộng 82 156 240 443 233 470 222 440 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Căn cứ vào các số liệu trên thấy rằng, số vụ án mua bán người, mua bán trẻ em đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trên cả nước hàng năm là rất lớn. Số án khởi tố mới năm 2009, 199 vụ/ 382 bị can; năm 2010, 571 vụ/ 1258 bị can; năm 2011, 196 vụ/ 379 bị can; năm 2012, 216 vụ/ 466 bị can; năm 2013, 240 vụ/ 443 bị can. Số lượng án mới thụ lý trong năm tăng đột biến vào năm 2010, sau đó có chiều hướng giảm nhưng không đáng kể, vẫn giữ ở mức cao. Tổng số vụ án mua bán người, mua bán trẻ em đã xét xử trong 05 năm là 913 vụ/ 3652 bị cáo, trong đó, tỷ lệ xét xử theo Điều 119 về tội mua bán người chiếm đa số 685/ 913 vụ chiếm 75,0%; số bị cáo là 1368/ 1826 chiếm 74,9%. Căn cứ
  • 65. 65 vào số vụ án và số bị cáo đã xét xử của cả nước, có thể thấy tính chất và mức độ của loại tội phạm này ngày càng tinh vi và phức tạp, các bị cáo phạm tội có tổ chức, hoạt động theo tính chất băng nhóm, không đơn lẻ, trung bình mỗi vụ có trên 4 bị cáo. So sánh, đối chiếu số lượng án mua bán người, mua bán trẻ em của tỉnh Hà Giang với cả nước, mặc dù Hà Giang được xếp là một trong những tỉnh có tổng số án phải giải quyết hàng năm không nhiều, nhưng số lượng án mua bán người, mua bán trẻ em vẫn chiếm tỷ lệ cao: năm 2009, 19/ 199 vụ chiếm 9,5%; năm 2010, 21/ 571 vụ chiếm 3,7%; năm 2011, 15/ 196 vụ chiếm 7,7%; năm 2012, 10/216 vụ chiếm 4,6%; năm 2013, 19/ 240 vụ chiếm 7,9%. Về số bị can năm 2009, 38/ 382 bị can chiếm 9,9%; năm 2010, 60/ 1258 bị can chiếm 4,8%; năm 2011, 54/ 379 bị can chiếm 4,2%; năm 2012, 34/ 466 bị can chiếm 7,3%; năm 2013, 42/ 433 chiếm 9,5%. Chúng ta có thể cụ thể hóa tỷ lệ số vụ án về tội mua bán người, mua bán trẻ em của tỉnh Hà Giang so với cả nước bằng biểu đồ sau: Biểu đồ 2.2: Biểu đồ thể hiện tổng số vụ án thụ lý về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em của tỉnh Hà Giang so với cả nước từ năm 2009 - 2013 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang. Về tỷ lệ vụ án mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang so với cả nước, có dấu hiệu giảm dần từ năm 2009 đến 2013 tuy nhiên 2009 10 30 20 0 Năm 9,5% 3,7% 4,6% 7,9% % 7,7% 2010 2011 2012 2013
  • 66. 66 vẫn còn ở mức cao. Mặc dù có dấu hiệu giảm dần so với tình hình chung của cả nước ở các năm 2010, 2011, 2012 nhưng lại có sự gia tăng đột biến năm 2013. Điều này cho thấy, công tác trấn áp và phá vỡ các tổ chức tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang chưa thực sự hiệu quả, do tính chất tội phạm ngày càng tinh vi, manh động. Tỷ lệ số vụ án vẫn còn rất cao so với cả nước sau hơn mười năm triển khai chương trình hành động phòng, chống mua bán người và mua bán trẻ em. 2.3. TÌNH HÌNH XÉT XỬ TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI PHẠM MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG TỪ NĂM 2009 - 2013 Tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em là một trong những loại tội phạm thuộc lĩnh vực trật tự, trị an xã hội, loại tội phạm này đặc biệt tinh vi về phương thức, thủ đoạn gây án và hậu quả gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền tự do, danh dự, nhân phẩm của con người, đến sức khỏe và sự phát triển bình thường của trẻ em được pháp luật bảo vệ. Tình trạng mua bán người, mua bán trẻ em vì mục đích bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động hoặc các hành vi vô nhân đạo khác là tình trạng khá phổ biến ở các nước có nhiều vùng tiếp giáp biên giới với các quốc gia khác như nước ta. Trong 05 năm, từ năm 2009 đến năm 2013, tổng số án mua bán người, mua bán trẻ em của cả nước đã thụ lý là 1506 vụ/ 3122 bị can; truy tố 1034 vụ/ 2179 bị can; xét xử 913 vụ/ 1826 bị cáo, trong đó, tỷ lệ xét xử theo Điều 119 về tội mua bán người chiếm đa số 685/ 913 vụ chiếm 75,0%; số bị cáo là 1368/1826 chiếm 74,9%. Về số vụ và số bị cáo bị đưa ra xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013. Theo thống kê số liệu của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang, từ năm 2009 đến năm 2013, toàn tỉnh Hà Giang đã xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em là 72/ 84 vụ chiếm 85,7%, số bị cáo bị đưa ra xét xử là 119/ 228 bị cáo chiếm 52,2%. Trong đó, số vụ xét xử theo Điều 119 Bộ luật hình sự về tội mua bán người là 45/ 72 vụ chiếm 62,5%, số vụ xét xử
  • 67. 67 theo Điều 120 về tội mua bán trẻ em là 27/ 72 vụ chiếm 37,5%, số bị cáo đã bị xét xử theo Điều 119 là 68/ 119 bị cáo chiếm 57,1% và số bị cáo bị xét xử theo Điều 120 là 51/ 119 bị cáo chiếm 42,9%. Bảng 2.3: Số vụ và số bị cáo đã xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo Điều 119, 120 Bộ luật hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 Năm Số vụ Số bị cáo Theo Điều 119 Theo Điều 120 Theo Điều 119 Theo Điều 120 2009 04 07 06 09 2010 08 04 17 07 2011 11 05 18 15 2012 04 06 05 14 2013 18 05 22 06 Tổng cộng 45 27 68 51 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang. Các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em đã được các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Hà Giang khởi tố điều tra, truy tố, xét xử đều đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Trong 05 năm từ năm 2009 đến 2013 không có vụ án nào bị truy tố, xét xử oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm bị cấp phúc thẩm hủy án hoặc bị Tòa án tuyên không phạm tội. Đặc biệt, tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em xảy ra trên địa bàn tỉnh Hà Giang 100% số vụ việc xảy ra là có yếu tố nước ngoài. Các vụ án đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2013, ngoài các tình tiết định khung khác thì đều xét xử theo tình tiết định khung "Để đưa ra nước ngoài" theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 119 hoặc điểm e khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, thực tế số lượng các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em đã được đưa ra xét xử còn hạn chế so với số lượng án thực tế xảy ra. Đối
  • 68. 68 chiếu, so sánh số lượng án xét xử, với số lượng báo cáo của các cơ quan chức năng như Công an, Biên phòng thấy chưa phản ánh đúng thực trạng của loại tội phạm này, phần bị đưa ra xử lý còn hạn chế nhiều so với phần tội phạm ẩn. Nguyên nhân một phần là do các vụ mua bán người, mua bán trẻ em đa số đều xảy ra ở các khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, đặc biệt là sự hiểu biết về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em còn rất hạn chế. Công tác xác minh, điều tra, phát hiện tội phạm đòi hỏi cán bộ thực hiện phải am hiểu địa bàn, hiểu biết tiếng dân tộc thiểu số và phối hợp chặt chẽ với các lực lượng hữu quan. Đặc biệt, phong tục tập quán về kết hôn, nhận con nuôi của một số dân tộc còn xem nhẹ pháp luật, hiện tượng tảo hôn, bắt vợ một cách bừa bãi dẫn đến khó khăn trong công tác kiểm soát tại địa bàn. Nhiều dân tộc có thói quen du canh, du cư và chưa xóa bỏ tập tục này nên khi quản lý nhân khẩu, hộ khẩu rất khó xác định địa bàn cư trú chính. Nhiều vụ việc xảy ra, các nạn nhân vẫn lưu lạc, chưa biết tung tích, địa chỉ, chỉ có gia đình nạn nhân tố cáo nên chưa đủ căn cứ để khởi tố, điều tra tội phạm hoặc trong số các đối tượng phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em, nhiều đối tượng đã bỏ trốn sang nước láng giềng, do vậy, nhiều vụ án quá trình điều tra bị kéo dài hoặc không phát hiện được thủ phạm. Một số vụ án, chính nạn nhân của tội mua bán người, sau khi bị lừa bán sang Trung Quốc làm gái mại dâm lại trở về Việt Nam dụ dỗ, lừa gạt các cô gái trẻ khác đưa sang Trung Quốc bán, những đối tượng này thường có các mối quan hệ với các đối tượng nước sở tại, có kinh nghiệm thực hiện tội phạm nên gây rất nhiều khó khăn cho công tác xác minh, điều tra. Nghiêm trọng hơn, có nhiều đối tượng không phải là người Việt Nam hoặc là người Việt Nam nhưng sinh sống ở nước ngoài (chủ yếu là ở Trung Quốc), đã câu kết với các đối tượng trong nước thực hiện tội phạm, điển hình như năm 2009 có 01 vụ, năm 2010 có 05 vụ, năm 2011 có 03 vụ có sự tham gia của người nước ngoài. Một số bị cáo có quốc tịch Trung Quốc đã được xét xử năm 2009 như Vàng Mí Tính
  • 69. 69 sinh năm 1972 - 29 tháng tù; năm 2010 như Lưu Chính Khôn sinh năm 1975 - 05 năm tù, Giàng Thị Mỷ sinh năm 1965 - 12 năm tù; năm 2011 như Giàng Mí Pó sinh năm 1972 - 29 tháng tù, Thào Mí Sính sinh năm 1993 - 29 tháng tù, Lục Văn Lương sinh năm 1990 - 06 năm tù, Cổ Đức Lan sinh năm 1978 - 05 năm tù, Thào Thị Máy sinh năm 1952 - 05 năm tù. Một số vụ án, tuy đã phát hiện và xác định được thủ phạm nhưng không đưa ra xét xử được kịp thời trong năm vì liên quan đến người nước ngoài như vụ mua bán người xảy ra năm 2010 đối với nạn nhân Nùng Thị Nề sinh năm 1984, xảy ra tại huyện Xín Mần, do Hán Thiệu Dũng sinh năm 1968 và Vương Phú Quý sinh năm 1980 (đều có quốc tịch Trung Quốc) cầm đầu. Một khó khăn nữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em là có nhiều vụ án có sự tham gia của rất nhiều đối tượng thuộc nhiều thành phần, có các quốc tịch khác nhau và thực hiện tội phạm với thủ đoạn tinh vi, các bị cáo quanh co, chối tội... làm kéo dài thời gian điều tra, truy tố, xét xử, hồ sơ phải trả điều tra bổ sung vì phát sinh tình tiết mới. Điển hình như vụ mua bán trẻ em xảy ra năm 2009, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Giang đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can ngày 15 tháng 10 năm 2009 (có Quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang) đối với bị can Giàng Mí Pó sinh năm 1972, quốc tịch Trung Quốc, nạn nhân là cháu Phùng Mí Lương sinh năm 2006 bị bán sang Trung Quốc. Quá trình điều tra đã gặp rất nhiều khó khăn trong công tác thu thập chứng cứ và truy tìm nạn nhân, do đó vụ án đã kéo dài đến năm 2011 mới truy tố và xét xử đối với 09 bị cáo, trong đó có 02 bị cáo có quốc tịch Trung Quốc, với các mức án từ 29 tháng đến 11 năm tù. Về tỷ lệ giữa số vụ và số bị cáo đưa ra xét xử theo Điều 119 và Điều 120 của Bộ luật hình sự. Tỷ lệ giữa số vụ và số bị cáo bị đưa ra xét xử theo Điều 119 và Điều 120 của Bộ luật hình sự tại tỉnh Hà Giang có sự khác biệt so với tình hình của các địa phương khác trong cả nước. Các biểu đồ dưới đây sẽ cho
  • 70. 70 thấy tương quan giữa hai loại hình tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em trong thực tế xét xử của tỉnh Hà Giang. Biểu đồ 2.3: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số vụ án xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang. Như đã thể hiện trên biểu đồ, số vụ án xét xử theo Điều 119 Bộ luật hình sự về tội mua bán người chỉ nhiều hơn 25,0% so với số vụ xét xử theo Điều 120 về tội mua bán trẻ em. Sự chênh lệch này là không lớn bởi số liệu thống kê trong vòng 05 năm từ 2009 đến 2013 luôn ghi nhận tỷ lệ không nhỏ nạn nhân bị mua bán là trẻ em, có khi là trẻ sơ sinh. Các đối tượng mua bán trẻ em có rất nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm thực hiện hành vi trục lợi của mình. Đa phần những trẻ em này khi đã bị bán sang nước ngoài rất khó xác định vị trí, bởi các em chưa thể có ý thức chống lại các đối tượng mua bán người. Việc trả lại các em cho cha mẹ đa phần chỉ được thực hiện sau khi Cơ quan điều tra phá được các đường dây mua bán, thực tế có nhiều vụ việc hiện vẫn chưa xác định được các em nhỏ là nạn nhân của mua bán trẻ em hiện ở đâu. Cũng tương tự như vậy, số bị cáo xét xử theo Điều 119 Bộ luật hình sự 1999 về tội mua bán người chỉ nhiều hơn 14,28% so với số bị cáo xét xử theo Điều 120 về tội mua bán trẻ em, thể hiện ở biểu đồ dưới đây. 62,5% 37,5% Xét xử theo Điều 119 Xét xử theo Điều 120
  • 71. 71 Biểu đồ 2.4: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số bị cáo xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang. Như vậy, tội phạm mua bán trẻ em ở Hà Giang diễn ra với số lượng không nhỏ, chiếm tỷ lệ tương đối lớn so với tội phạm mua bán phụ nữ và nam giới. Sự chênh lệch này diễn ra không nhiều trong vòng 05 năm từ 2009 đến 2013 cho thấy trẻ em là một trong những đối tượng bị mua bán nhiều ở tỉnh Hà Giang và có thể xếp vào một trong những đối tượng mua bán chủ yếu bên cạnh mua bán phụ nữ. Điều này là một tình trạng đáng báo động ở một địa phương có nhiều trẻ em ở vùng sâu, vùng xa như Hà Giang. Nguyên nhân của tình trạng mua bán trẻ em một cách phổ biến ở Hà Giang là do trẻ em là đối tượng dễ mua bán và dễ đưa qua biên giới. Đặc thù của các gia đình dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa là sinh nhiều con, bên cạnh đó hoàn cảnh kinh tế khó khăn, các em phải lao động từ sớm, không được học hành, nên các đối tượng thường lợi dụng các gia đình có hoàn cảnh khó khăn để mua chuộc, dụ dỗ gia đình đồng ý cho con làm con nuôi hoặc theo các đối tượng đi làm ăn phụ giúp gia đình nếu đã có thể lao động hoặc nhiều vụ án xảy ra, do người mẹ tự nguyện mang các em theo, vô tình đã tiếp tay cho hành vi phạm tội của 57,14% 42,86% Xét xử theo Điều 119 Xét xử theo Điều 120
  • 72. 72 các bị cáo. Mặt khác, một phương thức khá phổ biến của các đối tượng là bắt cóc, thậm chí kẻ bắt cóc trẻ em lại chính là những người có quan hệ họ hàng thân thích với nạn nhân bởi đây là những trường hợp dễ tiếp cận gia đình để thực hiện hành vi bắt cóc. Khi trẻ em đã bị đưa ra nước ngoài (chủ yếu là Trung Quốc) thì rất khó tìm và xác định để đưa các em trở về, nên gây ra hậu quả rất đau lòng cho gia đình và xã hội. Về thực trạng hình phạt đã xét xử đối với các bị cáo phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Trong vòng 05 năm từ 2009 đến 2013, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang đã xét xử được 119 trên tổng số 228 bị cáo chiếm 52,19%. Trong đó, có 08/ 119 bị cáo chịu hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, chiếm 6,72%; 62/ 119 bị cáo chịu mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, chiếm 52,10%; 27/ 119 bị cáo chịu mức hình phạt tù từ trên 07 năm đến 10 năm, chiếm 22,68%; 22/ 119 bị cáo chịu mức hình phạt tù từ trên 10 năm đến chung thân, chiếm 18,50%. Số liệu cụ thể được hệ thống hóa trong bảng sau: Bảng 2.4: Tổng hợp mức hình phạt của các bị cáo đã xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ 2009 - 2013 Năm Án treo Tù 02 năm đến 07 năm Tù trên 07 năm đến 10 năm Tù trên 10 năm đến chung thân 2009 0 11 03 02 2010 0 13 02 06 2011 04 15 10 08 2012 04 06 08 02 2013 0 17 04 04 Tổng 08 62 27 22 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang. Như vậy, qua thống kê trong bảng biểu về mức hình phạt đã xét xử với tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013, chúng ta nhận thấy hình phạt chủ yếu áp dụng đối với các
  • 73. 73 bị cáo là từ 02 đến 07 năm tù, chiếm tỷ lệ 52,10%; các hình phạt khác từ trên 07 năm đến 10 năm và từ trên 10 năm đến chung thân chiếm tỷ lệ nhỏ hơn và khá cân xứng với nhau (22,68% và 18,50%). Qua thực tiễn các vụ án xét xử tại tỉnh Hà Giang từ 2009 đến 2013 đã ghi nhận nhiều vụ việc với tính chất đặc biệt nghiêm trọng, đã xét xử với mức án cao đối với những kẻ cầm đầu. Chỉ trong hai năm gần đây nhất là năm 2012 và 2013, đã có 06 trường hợp bị phạt tù từ trên 10 năm, đó là các bị cáo: Vàng Thị Dính sinh năm 1969 - 15 năm tù; Thèn Lao Thưởng sinh năm 1980 - 11 năm tù; Mua Mí Gia sinh năm 1991 - 18 năm tù; Nùng A Dìn sinh năm 1987 - 16 năm tù; Sùng Mí Pó sinh năm 1993 - 11 năm tù; Lý Văn Sinh sinh năm 1979 - 18 năm tù. Sự tăng nặng của hình phạt cho thấy mức độ nguy hiểm, phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm của các đối tượng ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Không chỉ dừng lại ở mức độ lừa bán ra nước ngoài, mà các đối tượng còn trục lợi từ hành vi bóc lột sức lao động, ép buộc, bóc lột tình dục với các nạn nhân bị mua bán. Về mục đích mua bán người, mua bán trẻ em của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến 2013. Thể hiện trong bảng sau: Bảng 2.5: Thống kê số nạn nhân theo mục đích mua bán của tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 Năm Lấy làm vợ Lấy làm con nuôi Mại dâm Bóc lột lao động Các mục đích khác 2009 12 04 04 0 03 2010 16 0 03 03 18 2011 14 0 07 01 04 2012 08 03 03 10 06 2013 37 0 04 02 01 Tổng 87 07 21 16 32 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.
  • 74. 74 Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo mục đích mua bán của tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang. Căn cứ số liệu của bảng thống kê và bảng biểu tỷ lệ, thấy rằng tỷ lệ số nạn nhân bị mua bán (chủ yếu là bán sang Trung Quốc) với mục đích để làm vợ là rất lớn 87/ 163 chiếm 53,4%. Số còn lại các nạn nhân bị mua bán với các mục đích khác chiếm tỷ lệ ít hơn, mục đích làm con nuôi 07/ 163 chiếm 4,3%; mục đích hoạt động mại dâm 21/ 163 chiếm 12,9%; mục đích bóc lột sức lao động 16/ 163 chiếm 9,8%; các mục đích khác 32/ 163 chiếm 19,6%. Qua những thông tin trên, câu hỏi đặt ra cho Hà Giang là tại sao tình trạng mua bán người, mua bán trẻ em ở Hà Giang mục đích chủ yếu lại không phải phục vụ mại dâm trong khi nhiều địa phương khác, phụ nữ đều bị bán vì mục đích phục vụ nhu cầu mua dâm của khách nước ngoài. Mặt khác, tỷ lệ nạn nhân bị mua bán cho mục đích bóc lột sức lao động và làm con nuôi không cao, số mục đích khác như mục đích để đưa người sang nước thứ ba, vì mục đích vô % 60 40 20 0 53,4% Mục đích Lấy làm vợ 4,3% 9,8% 19,6% 12,9% Lấy làm con Mại dâm Bóc lột lao động Chưa rõ
  • 75. 75 nhân đạo hoặc chưa rõ mục đích vì có những vụ án, sau khi đưa nạn nhân sang Trung Quốc giao và nhận tiền, chính bản thân các đối tượng cũng không biết các nạn nhân bị đưa đi đâu, làm gì, số mục đích này cũng chiếm tỷ lệ không lớn. Đa phần hành vi mua bán hướng về mục đích bắt các phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc làm vợ (100% các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em ở tỉnh Hà Giang là để bán sang Trung Quốc). Đây chính là một điểm khác biệt của tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang so với tình hình của các khu vực khác trên cả nước. Căn cứ để lý giải tình trạng mua bán người với mục đích lấy làm vợ người nước ngoài xuất phát từ đặc điểm khu vực biên giới của tỉnh Hà Giang. Tiếp giáp với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc), hai khu vực có nhiều người dân tộc thiểu số của Trung Quốc sinh sống, những tập tục của một số dân tộc ở hai nước có nhiều nét tương đồng, khá giống nhau. Trong tình hình mất cân bằng dân số tại Trung Quốc, tỷ lệ nam giới cao hơn nữ giới rất nhiều, điều đó khiến nam giới khu vực giáp biên có xu hướng tìm vợ và lập gia đình với phụ nữ Việt Nam. Trong một số trường hợp, tâm lý phụ nữ dân tộc vùng cao Hà Giang thích sang Trung Quốc lấy chồng vì có cuộc sống sung sướng nên rất nhiều vụ án là do nạn nhân tự nguyện nên bị lừa, vừa làm vợ, vừa bị bóc lột sức lao động, bóc lột tình dục của cả gia đình nhà chồng... Mặt khác, địa hình biên giới phía Bắc nước ta rất hiểm trở, bị chia cắt bởi nhiều sông, suối và núi cao, lực lượng bộ đội Biên phòng còn mỏng không thể tuần tra, kiểm soát một cách thường xuyên, liên tục đã tạo điều kiện cho các đối tượng dễ dàng đưa người qua các đường tiểu ngạch hoặc vượt biên trái phép. Một số thiếu nữ dân tộc thiểu số khi đến tuổi trưởng thành có nhu cầu lập gia đình nhưng bị ngăn cấm bởi các hủ tục lạc hậu, nạn thách cưới quá cao... cùng với điều kiện kinh tế khó khăn nên dễ dàng nghe theo kẻ xấu bị lợi dụng việc kết hôn để bán qua nước láng giềng. Về thành phần độ tuổi của các nạn nhân bị mua bán, qua tổng hợp số liệu cho thấy tỉ lệ như sau:
  • 76. 76 Bảng 2.6: Thống kê thành phần độ tuổi các nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ 2009 - 2013 Năm Trẻ em dưới 16 tuổi Từ 16 - 30 tuổi Trên 30 tuổi 2009 08 22 04 2010 15 36 05 2011 02 29 03 2012 05 21 03 2013 08 27 06 Tổng 38 135 21 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang. Như vậy, dựa trên số liệu về thành phần độ tuổi của nạn nhân mua bán người, mua bán trẻ em chúng ta thấy rằng tỷ lệ nạn nhân có độ tuổi từ 16 - 30 chiếm tỷ lệ cao nhất 135/ 194 nạn nhân chiếm 69,5%, tiếp đến là nạn nhân là trẻ em dưới 16 tuổi chiếm 38/ 194 chiếm 19,5%, còn lại là các nạn nhân trên 30 tuổi chiếm 21/ 194 chiếm 11%. Điều này giải thích một cách rõ hơn mục đích mua bán các nạn nhân trên địa bàn tỉnh Hà Giang chủ yếu để lấy làm vợ. Các nạn nhân ở độ tuổi 16 - 30 đang ở độ tuổi trưởng thành về thể chất và dễ bị lạm dụng về tình dục, do vậy mục đích của các đối tượng mua bán người, mua bán trẻ em là đưa các nạn nhân sang Trung Quốc để làm vợ trong các gia đình người Trung Quốc. Đây là một trong những kiểu mại dâm trá hình dưới phương thức lấy chồng người nước ngoài, 100% số nạn nhân là phụ nữ, đa phần họ bị dụ dỗ và bị bán ra nước ngoài nhằm mục đích lợi nhuận cho những đối tượng mua bán. Cũng rất đáng lo ngại là các nạn nhân trong độ tuổi dưới 16 cũng là một trong những thành phần chiếm số lượng đông trong các vụ mua bán người, mua bán trẻ em, với tỷ lệ 19,5% cho thấy ở địa bàn tỉnh Hà Giang cũng là một "điểm nóng" về tình hình tội phạm mua bán trẻ em. Đặc biệt, theo thống kê cho thấy có cả các nạn nhân là trẻ em sơ sinh dưới 01 tuổi. Các đối tượng chủ yếu thực hiện phương thức bắt cóc hoặc lừa nhận con nuôi để bán sang Trung Quốc. Biểu đồ sau sẽ thể hiện rõ hơn tỷ lệ này:
  • 77. 77 Biểu đồ 2.6: Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo thành phần độ tuổi bị mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang. Về thành phần độ tuổi của các bị cáo phạm mua bán người, mua bán trẻ em, theo thống kê của chúng tôi cho thấy tỉ lệ như sau: Bảng 2.7: Thống kê thành phần độ tuổi của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 Năm Từ 16 - 30 tuổi Trên 30 tuổi 2009 18 20 2010 19 41 2011 20 34 2012 19 15 2013 22 20 Tổng 98 130 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang. Dưới 16 tuổi Độ tuổi 69,5% 19,5% 11% % 60 40 20 0 Dưới 16 tuổi 16 - 30 tuổi Trên 30 tuổi
  • 78. 78 Đánh giá tỷ lệ giữa những người phạm tội thuộc độ tuổi từ 16 đến 30 và trên 30 tuổi nhận thấy tội phạm chủ yếu ở độ tuổi trên 30 tuổi, 130/ 228 bị can chiếm 57,0%, còn lại là các bị can có độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi, 98/ 228 bị can chiếm 43,0%. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy tội phạm ở độ tuổi rất trẻ (16 - 30 tuổi) của các vụ mua bán người, mua bán trẻ em ở tỉnh Hà Giang chiếm một số lượng không nhỏ. Cá biệt có nhiều đối tượng đang ở độ tuổi vị thành niên, từ 16 đến 18 tuổi đã dụ dỗ, lừa đảo những người xung quanh để bán sang Trung Quốc lấy tiền tiêu xài. Đây là những thanh niên không được gia đình và nhà trường giáo dục, bỏ học đi lang thang và kiếm tiền bằng những phương thức, thủ đoạn lừa lọc người khác nhằm chuộc lợi. Điều này đặt ra cho chính quyền và các cấp quản lý một khó khăn trong công tác giáo dục các đối tượng là thanh niên để có định hướng đúng đắn cho thanh niên học tập và lao động, trở thành những công dân có ích cho xã hội. Về thành phần dân tộc của các bị can và các nạn nhân bị mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang, theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang, số bị can là người dân tộc thiểu số là 197/ 228 bị can chiếm 86,4%, số nạn nhân là người dân tộc thiểu số là 190/ 194 nạn nhân chiếm 97,9%. Điều đó cho thấy đồng bào các dân tộc thiểu số là đối tượng chủ yếu của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Với đặc thù vùng miền, trên địa bàn tỉnh Hà Giang hiện nay có 22 dân tộc cùng sinh sống, trong đó, chiếm đa số là các dân tộc thiểu số như Mông, Dao, Tày, Nùng, Lô Lô, Pu Péo, Pà Thẻn... Đồng bào còn gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống, trình độ dân trí còn thấp do vậy các đối tượng dễ lôi kéo và lợi dụng để thực hiện hành vi mua bán. Mặt khác, các đối tượng thực hiện hành vi mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang cũng chiếm tới 97,9% là người dân tộc thiểu số. Điều này cho thấy thực trạng trong nội bộ dân cư, do điều kiện kinh tế khó khăn nên nảy sinh tội phạm và các đối tượng chủ yếu chính là những người trong làng, bản, thôn, xã có quan hệ thân thuộc với gia đình
  • 79. 79 nạn nhân. Việc này gây khó khăn cho công tác sàng lọc, xác minh đối tượng và điều tra tội phạm. Do vậy, nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là đời sống tại các khu vực có đông đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống chính là một trong những biện pháp tích cự để giảm thiểu phát sinh loại tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Qua phân tích thực trạng xét xử tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2009 - 2013, chúng ta có thể bước đầu rút ra một số kết luận sau: Thứ nhất, Hà Giang là một khu vực có hoạt động mua bán người và mua bán trẻ em diễn ra khá "sôi động" với nhiều thành phần tham gia hành vi mua và bán. Trong số các đối tượng mua bán người trái phép có cả người nước ngoài và một số còn cầm đầu các đường dây mua bán gây ra những vụ mua bán người, mua bán trẻ em lớn, gây hậu quả nghiêm trọng. Thứ hai, về tỷ lệ giữa số vụ và số bị can bị đưa ra xét xử theo Điều 119 Bộ luật hình sự về tội mua bán người và Điều 120 Bộ luật hình sự về tội mua bán trẻ em ở Hà Giang gần tương đương nhau. Như vậy, tình trạng mua bán trẻ em cũng đang xảy ra ở mức đáng báo động Thứ ba, về thực trạng mức hình phạt đã xét xử đối với các bị cáo phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang, tỷ lệ hình phạt từ 02 đến 07 năm là tương đối nhiều. Tuy nhiên, càng về những năm gần đây, tỷ lệ mức án cao trên 10 năm tù ngày càng tăng cho thấy mức độ phức tạp của các hành vi mua bán, từ mua bán đơn thuần đã dần có yếu tố bóc lột nhằm trục lợi. Các hoạt động mua bán người, mua bán trẻ em không còn nhỏ lẻ mà xuất hiện những đường dây mua bán có tổ chức và thực hiện nhiều hành vi vô nhân đạo đối với người bị mua bán. Thứ tư, về mục đích mua bán của các đối tượng mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang chủ yếu phục vụ nhu cầu lập gia đình của
  • 80. 80 người nước ngoài hoặc kết hôn chỉ là hình thức trá hình của nạn mại dâm, bóc lột tình dục. Tỷ lệ mua bán phụ nữ phục vụ nạn mại dâm có giảm nhưng chưa rõ rệt. Bên cạnh đó, xuất hiện hành vi mua bán nam giới nhằm bóc lột sức lao động, đây là một hành vi mới xuất hiện và rất đáng lo ngại ở khu vực biên giới. 2.4. NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG Với đặc điểm là một tỉnh miền núi thuộc một trong các tỉnh nghèo nhất của cả nước, với 274 km đường biên giới tiếp giáp với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, có nhiều dân tộc cùng sinh sống, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, thu nhập hàng năm rất thấp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, trình độ dân trí còn hạn chế, tỷ lệ mù chữ và không biết tiếng phổ thông chiếm khá cao, phân bố dân cư không đồng đều, một số sống tập trung theo chòm xóm, ngoài ra phần lớn sống phân tán, nhỏ lẻ ở khe đồi, sườn núi, lực lượng sản xuất tương đối dồi dào nhưng lại thiếu đất sản xuất canh tác, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Những năm gần đây, tình hình an ninh trật tự ở Hà Giang có nhiều diễn biến phức tạp, trong đó tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em này càng gia tăng. Các đối tượng phạm tội với những thủ đoạn mới và có sự kết hợp với một số đối tượng là người nước ngoài (Trung Quốc), người Việt Nam cư trú bất hợp pháp ở nước ngoài (Trung Quốc) để tổ chức hoạt động phạm tội. Hơn nữa, Hà Giang có cửa khẩu quốc tế, quốc gia và có nhiều đường tiểu ngạch qua lại biên giới, nhân dân hai bên biên giới có quan hệ thân tộc và dân tộc từ lâu đời. Đặc biệt là từ khi hội nhập quốc tế, quan hệ mở cửa giữa nước ta và Trung Quốc ngày càng phát triển, hoạt động xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu hàng hóa qua hai bên biên giới tăng trưởng lớn, các thủ tục qua lại biên giới thuận tiện, dễ dàng hơn nhiều so với trước đây, nên tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em đã lợi dụng đặc điểm này để hoạt động.
  • 81. 81 Với những đặc điểm đặc thù về địa lý, tình hình kinh tế, xã hội nên trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nói riêng còn gặp rất nhiều khó khăn,vướng mắc như: lực lượng trực tiếp tham gia phòng ngừa, đấu tranh, điều tra, khám phá còn mỏng và thiếu, hạn chế nhiều đến kết quả phòng ngừa và đấu tranh. Việc rà soát số người, trẻ em đi khỏi địa phương rất khó khăn (do cơ chế thị trường, bỏ đi khỏi địa phương để tìm việc làm rất nhiều), do vậy rất khó xác định số người và số trẻ em bị mua bán, lừa gạt ra nước ngoài. Với số người, trẻ em bị mua bán ra nước ngoài, thủ đoạn của bọn tội phạm chủ yếu là dụ dỗ, lừa gạt đi tìm việc làm, đi làm thuê kiếm tiền, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em, chúng bán cho chủ chứa mại dâm, bán làm vợ cho người Trung Quốc. Chủ chứa mại dâm lại bán cho chủ chứa khác, chúng triệt để lợi dụng phụ nữ, trẻ em để kiếm tiền, trông giữ chặt không cho quan hệ với bên ngoài, không có điều kiện trốn và thông tin tố giác để được giải cứu; Việc phối hợp với Công an Trung Quốc để điều tra tội phạm, giải cứu nạn nhân trong thời gian qua được hai bên tăng cường như hội đàm, khảo sát, cung cấp thông tin, giải cứu thu gom trao trả tội phạm và nạn nhân, thường xuyên và đột xuất giải cứu kịp thời được nhiều phụ nữ, trẻ em trở về gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, còn nhiều hạn chế như thông tin trao đổi không kịp thời, địa chỉ và đặc điểm (ảnh) của nạn nhân, tội phạm không có, ngôn ngữ không thông thạo... hạn chế trong công tác phòng ngừa, đấu tranh. Mặt khác, tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em là người Việt Nam cư trú bên đất Trung Quốc ta không quản lý được. Người Trung Quốc mua phụ nữ, trẻ em Việt Nam để làm gái mại dâm, làm vợ, mua đi bán lại, số đối tượng này ta không đưa về để xử lý theo pháp luật Việt Nam được, phía Trung Quốc lại không đủ chứng cứ để xét xử bọn tội phạm này, đây là vấn đề rất khó khăn và hạn chế lớn đến công tác răn đe, giáo dục, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
  • 82. 82 Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, hạn chế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em tại địa bàn tỉnh Hà Giang, đó là, do công tác tuyên truyền, vận động trong quần chúng nhân dân về các phương thức, thủ đoạn của tội phạm chưa được quan tâm đúng mức, phương pháp tuyên truyền chưa thực sự phù hợp nên hiệu quả chưa cao; bên cạnh đó, các cấp chính quyền địa phương chưa áp dụng phương thức sản xuất phù hợp với điều kiện địa lý, tự nhiên của địa phương, chưa tạo được công ăn việc làm hiệu quả cho nam nữ thanh niên; sự tăng cường, phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác đấu tranh phòng, chống, phát hiện tội phạm, công tác xác minh nạn nhân, đưa nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng... còn nhiều hạn chế; sự hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này chưa thực sự thống nhất và có hiệu quả... KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Như vậy, có thể khẳng định rằng Hà Giang là một điểm nóng về mua bán người và mua bán trẻ em với nhiều phương thức, thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực và cố gắng nhưng thiết nghĩ công tác phòng chống tệ nạn mua bán người, mua bán trẻ em ở tỉnh Hà Giang cần phải được thực hiện quyết liệt hơn nữa nhất là khâu tuyên truyền, vận động trong quần chúng nhân dân, trang bị hiểu biết, kiến thức pháp luật cho người dân nhất là các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới để tự bảo vệ mình và những người thân trong gia đình. Các cơ quan chức năng cần nâng cao trách nhiệm và năng lực của đội ngũ cán bộ để đẩy nhanh công tác khám phá, tìm ra manh mối và đưa ra ánh sáng pháp luật những đường dây mua bán đang hoạt động, giữ gìn trật tự và an toàn xã hội ở địa phương. Công tác đấu tranh phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em ở tỉnh Hà Giang thời gian qua đã gặp những khó khăn chính là: Thứ nhất, do điều kiện kinh tế địa phương là vùng núi cao, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, xuất phát từ tập quán du canh, du cư của mỗi dân
  • 83. 83 tộc nên đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, không có đất canh tác, nhu cầu tìm việc làm của người dân để tăng thêm thu nhập cho gia đình và bản thân lớn, nên nhiều đối tượng đã lợi dụng điều này để hứa hẹn tìm việc làm, thay đổi cuộc sống cho các đối tượng bị mua bán. Bên cạnh đó, tình trạng bỏ học của thanh, thiếu niên diễn ra tương đối nhiều làm cho trình độ văn hóa bị tụt hậu, kém hiểu biết. Mặt khác, tình trạng thiếu việc làm, kinh tế khó khăn, phong tục sống đơn giản, dễ dãi, khiến một bộ phận không nhỏ phụ nữ, thanh niên, dễ bị dụ dỗ, lừa bán qua biên giới làm vợ bất hợp pháp, bị bóc lột tình dục hoặc trở thành gái mại dâm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ ở nước ngoài, bị bóc lột sức lao động... Thứ hai, việc giáo dục trong phạm vi gia đình và tuyên truyền pháp luật trong cộng đồng, đặc biệt là tuyên truyền về âm mưu, thủ đoạn của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em chưa được tiến hành thường xuyên, chưa theo sát các chương trình kinh tế xã hội và nhân rộng các điển hình trong công tác phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Đồng bào các dân tộc thiểu số còn hạn chế hiểu biết vì trình độ dân trí thấp, nhiều người không biết chữ, không biết tiếng phổ thông nên rất dễ bị bọn tội phạm lừa gạt, lợi dụng. Thứ ba, người phụ nữ dân tộc thiểu số đa phần phải lao động vất vả, trở thành lực lượng lao động chính. Trong gia đình tình trạng bạo lực, bóc lột phụ nữ ở các vẫn còn phổ biến, gây gánh nặng tâm lý khiến nhiều người tìm cách thoát khỏi gia đình và rơi vào cạm bẫy của tội phạm mua bán người. Thứ tư, công tác quản lý hộ khẩu, quản lý an ninh biên giới, xuất nhập cảnh, hôn nhân và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài… còn gặp nhiều khó khăn do địa hình hiểm trở, chia cắt và tập quán lạc hậu của đồng bào các dân tộc thiểu số. Công tác điều tra cơ bản nắm tình hình chưa kịp thời, địa bàn biên giới rộng, tội phạm có nhiều thủ đoạn tinh vi và tâm lý e ngại của các gia
  • 84. 84 đình có nạn nhân bị mua bán nên việc ngăn chặn, bắt giữ, giải cứu các nạn nhân chưa kịp thời. Thứ năm, trong hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, còn chưa kịp thời, công tác trao đổi thông tin, hỗ trợ điều tra xác minh, truy bắt tội phạm, cũng như giải cứu, tiếp nhận nạn nhân gặp nhiều khó khăn. Trong các trường hợp mua bán người, mua bán trẻ em, lực lượng an ninh nước bạn đa phần đều yêu cầu Việt Nam phải có thông tin chính xác về đối tượng bị mua bán mới phối hợp và giải cứu, trong khi đó, thực tế nạn nhân là người bị mua, bán không thể xác định được địa chỉ, nên gây cản trở cho công tác truy bắt tội phạm. Thứ sáu, hiện nay tỉnh Hà Giang vẫn chưa có lực lượng chuyên trách trong công tác phòng ngừa, đấu tranh loại tội phạm này. Các cán bộ của Chương trình hành động 130/CP của Chính phủ đa phần là kiêm nhiệm, nên chưa thể tập trung toàn bộ thời gian cho nhiệm vụ chống mua bán người, mua bán trẻ em.
  • 85. 85 Chương 3 HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em được đề cập trong chương 1 và chương 2 của luận văn, đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật và có những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đối với các tội phạm này. Những giải pháp này không chỉ có giá trị trên phương diện lập pháp, hoàn thiện pháp luật hình sự, mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng ngừa, đấu tranh đối với tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên cả nước, cũng như trên địa bàn tỉnh Hà Giang. 3.1. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em nói riêng. Các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng chống tội phạm được thể hiện qua các văn kiện của Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống, cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý, chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ
  • 86. 86 Chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết đã đề ra các phương án hoàn thiện về cơ sở vật chất, cơ cấu tổ chức của các cơ quan tiến hành tố tụng như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Theo đó cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án phải luôn bám sát các nghị quyết của Đảng, chỉ thị của Nhà nước trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để có những chủ trương, biện pháp sát thực, phù hợp với địa phương, đơn vị trong đấu tranh phòng chống tội phạm, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Trong xu thế toàn cầu hóa, cùng với sự phát triển vững mạnh của đất nước, toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố gây khó khăn cho nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp về lãnh thổ, biên giới, biển đảo và tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng gay gắt, phức tạp. Nhiều vấn đề nhức nhối toàn cầu đòi hỏi các quốc gia, các tổ chức quốc tế phải cùng đứng ra giải quyết như: khoảng cách chênh lệch giữa nhóm các nước giàu và các nước nghèo ngày càng lớn, sự gia tăng dân số cùng với các luồng di cư từ các nước nghèo sang nước giàu, tình trạng khan hiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại, sự biến đổi khí hậu toàn cầu dẫn đến thiên tai, dịch bệnh... dẫn đến những khó khăn trong phát triển kinh tế, thay đổi cơ cấu xã hội khiến cho các loại tội phạm gia tăng, các loại tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm quốc tế trong đó có nạn buôn bán người, buôn bán trẻ em với tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm và tinh vi, gây ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh quốc gia và sự ổn định của khu vực. Cùng với thế giới, ở Việt Nam công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đòi hỏi phải được đặc biệt chú trọng, các chủ trương đường lối của Đảng về đấu tranh phòng chống tội phạm phải được cụ thể hóa trong từng giai đoạn, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Bên cạnh đó, việc tiếp tục thực hiện cải cách tư
  • 87. 87 pháp, đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật hình sự một cách toàn diện, kịp thời là điều kiện cần thiết và quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, cũng như tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nói riêng. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em còn một số bất cập cần phải được khắc phục và hoàn thiện để đảm bảo hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này trên cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng. Việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em phải đáp ứng được các yêu cầu sau: Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em phải đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm và phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay cũng như trong thời gian tới. Quy định về tội mua bán người, mua bán trẻ em đảm bảo rõ ràng, cụ thể và bổ sung thêm về hành vi khách quan, phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế về hành vi, độ tuổi...; bổ sung thêm một số tình tiết định khung đối với các tội phạm khác trong cùng nhóm tội hoặc các tội phạm khác có liên quan đến hành vi giúp sức cho tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em hoàn thành. Đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải bị xử lý theo pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và hành vi phạm tội, hình phạt áp dụng phù hợp với hành vi, tính chất và mức độ của tội phạm. Trong bối cảnh hiện nay, từ ngày 29 tháng 12 năm 2011, nước ta đã phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về phòng ngừa, đấu tranh và trừng phạt buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Do vậy, cần thiết phải hoàn thiện pháp luật hình sự, cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự về tội mua bán người, mua bán
  • 88. 88 trẻ em cho phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế, để đạt được hiệu quả cao nhất trong đấu tranh phòng, chống loại tội này. Theo quan điểm của tác giả, trong giai đoạn hiện nay, quy định của Bộ luật hình sự cần sửa đổi, bổ sung Điều 119 về tội mua bán người và Điều 120 về tội mua bán trẻ em như sau: Thứ nhất, quy định tại Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) không đưa ra một khái niệm hoặc mô tả cụ thể hành vi của tội mua bán người, mua bán trẻ em mà chỉ quy định "Người nào mua bán người thì bị phạt..."; "Người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt...". Như vậy, theo quy định tội mua bán người và tội mua bán trẻ em chỉ bao gồm hai loại hành vi là mua (trao đổi tiền để lấy người) và bán (trao đổi người để lấy tiền), trong khi mua bán người, mua bán trẻ em có một quá trình bao gồm nhiều hành vi khác như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp (che giấu), tiếp nhận và trong nhiều trường hợp còn có cả hành vi bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt nhằm mục đích mua và bán. Do vậy, trong thực tiễn, công tác phát hiện, điều tra và xử lý loại tội phạm này gặp những khó khăn nhất định, có nhiều quan điểm chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến trong một số trường hợp còn bỏ lọt tội phạm hoặc bỏ lọt hành vi phạm tội. Hơn nữa, việc quy định các hành vi khách quan như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, che giấu người, trẻ em còn phù hợp với xu thế chung trong quy định của Bộ luật hình sự các nước trên thế giới. Thứ hai, đối với tội mua bán người quy định của Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) chỉ quy định một số tình tiết định khung tăng nặng như: vì mục đích mại dâm; có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; để đưa ra nước ngoài; đối với nhiều người; phạm tội nhiều lần. Tuy nhiên, trong thực tiễn có rất nhiều vụ án người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng như nạn nhân hoặc người thân tự sát, chị em phụ nữ buộc phải
  • 89. 89 sinh con cho người nước ngoài, bị bóc lột tình dục...; đối với tội mua bán trẻ em quy định tại Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), ngoài các tình tiết định khung tăng nặng đã quy định, thực tiễn đã phát sinh hành vi mua bán trẻ em do lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Do vậy, cần bổ sung thêm tình tiết định khung tăng nặng tái phạm nguy hiểm; gây hậu quả nghiêm trọng trong Điều 119 và tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong Điều 120 Bộ luật hình sự, như vậy, sẽ đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em và góp phần phân hóa trách nhiệm hình sự một cách chính xác hơn khi xử lý đối với những người thực hiện tội phạm này. Từ những phân tích trên, có thể bổ sung Điều 119, Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) theo hướng như sau: Về hành vi khách quan cần bổ sung thêm các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp (che giấu), tiếp nhận hoặc các hành vi khác nhằm mục đích mua bán người, mua bán trẻ em đều phạm tội mua bán người hoặc tội mua bán trẻ em. Về điều luật cần bổ sung thêm một số tình tiết định khung tăng nặng, đối với Điều 119 quy định về tội mua bán người: 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm: a)................. h) Tái phạm nguy hiểm; i) Gây hậu quả nghiêm trọng. Đối với Điều 120 quy định về tội mua bán trẻ em: 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a)................. l) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
  • 90. 90 Ngoài ra, đối với một số tội có liên quan đến tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em như: tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 266), tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 267) và tội giả mạo trong công tác (Điều 284), cần nghiên cứu để bổ sung tình tiết định khung tăng nặng như sửa chữa, giả mạo giấy tờ, tài liệu, con dấu và sử dụng chúng để đưa người đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép. Vì trong thực tiễn tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em với mục đích để đưa ra nước ngoài, nhiều trường hợp tội phạm hoàn thành khi nạn nhân bị đưa ra nước ngoài một cách hợp pháp với "sự giúp sức" của các loại giấy tờ giả mạo, do vậy, cần nghiên cứu, bổ sung một cách hợp lý để xử lý triệt để các hành vi phạm tội. 3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM Để khắc phục những tồn tại và hạn chế những thiếu sót của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em, nhằm xử lý triệt để các hành vi mua bán trái pháp luật, cần chú ý một số giải pháp sau: Thứ nhất, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước trong từng giai đoạn, từ đó vận dụng linh hoạt vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội mua bán người, mua bán trẻ em nói riêng. Nghiêm chỉnh thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Khi áp dụng các quy định của pháp luật để xử lý đối với tội mua bán người, mua bán trẻ em cần lựa chọn, áp dụng các biện pháp phù hợp, đảm bảo đồng thời các yêu
  • 91. 91 cầu về chính trị, văn hóa, kinh tế và pháp luật, đảm bảo hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tại địa phương. Thứ hai, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các tội phạm về mua bán người và mua bán trẻ em. Đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, không bị oan sai, không bỏ lọt tội phạm và hành vi phạm tội. Thứ ba, thực hiện nghiêm các quy định của Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNN-VKSNDTC ngày 02 tháng 8 năm 2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đây là một trong những thao tác đầu tiên trong việc phát hiện và xử lý tội phạm nhất là đối với tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em, việc quản lý, giải quyết tốt tố giác, tin báo sẽ giúp cơ quan chức năng kiểm soát được tình hình mua bán người xảy ra trên địa bàn, khi có một phần nguyên nhân tội phạm ẩn của loại tội này là do chính từ phía các nạn nhân vì những lý do nào đó mà không tố giác tội phạm. Thứ tư, việc điều tra, truy tố, xét xử tội mua bán người và tội mua bán trẻ em phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Việc tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật tố tụng hình sự các quy định khác của pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo việc xử lý những người phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em được chính xác, khách quan, có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung. Thứ năm, lựa chọn, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong việc điều tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm, trong đó có tội mua bán người và mua bán trẻ em. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải là những người có năng lực, có trình độ chuyên môn
  • 92. 92 nghiệp vụ, có tâm huyết và uy tín, giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan, tạo được niềm tin trong nhân dân và có tác dụng giáo dục, thuyết phục đối với người phạm tội. Như vậy, để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội mua bán người, mua bán trẻ em, yêu cầu đặt ra với các cơ quan tiến hành tố tụng là cần tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu và các quy định một cách chính xác, linh hoạt, phù hợp với từng vụ án cụ thể. Bên cạnh đó, phải nắm vững các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, thực hiện nghiêm chỉnh và xây dựng phương hướng đổi mới để hoạt động có hiệu quả, phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp hiện nay. 3.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ MUA BÁN TRẺ EM, TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG Trong thời gian qua, cùng với cả nước, các cơ quan chức năng và các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang đã góp phần không nhỏ vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là đối với tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Xác định đây là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp, chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm ẩn làm phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác như giết người, cướp của, bắt cóc, hiếp dâm, tệ nạn mại dâm, cưỡng bức lao động, vượt biên trái phép... nên công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em đã được chú trọng, tuy nhiên, số lượng các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em qua các năm vẫn có chiều hướng gia tăng, số tội phạm ngày càng trẻ hóa, phần nào thể hiện hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa chưa thật sự hiệu quả. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Để ngăn chặn, phát hiện và xử lý triệt để loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh, tác giả xin đề xuất một số giải pháp cụ thể sau đây.
  • 93. 93 3.3.1. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân tham gia phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật luôn được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nói riêng. Tỉnh Hà Giang, với đặc điểm địa lý phức tạp, kinh tế chưa phát triển và đặc biệt là cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa vô cùng khó khăn, trình độ dân trí thấp, nên mặc dù các cấp chính quyền và các ngành địa phương đã quan tâm, chú trọng tới công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong người dân bằng các hình thức như: thông qua các đội ngũ tuyên truyền viên của cơ quan tư pháp, Hội phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc, Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên; thông qua các buổi phổ biến, giáo dục pháp luật tại thôn, bản; tuyên truyền trong các buổi giao lưu, biểu diễn văn hóa, văn nghệ; vận động người dân cho con em đi học văn hóa; tuyên truyền, vận động người dân có ý thức chấp hành pháp luật của đội ngũ cán bộ Công an, Bộ đội Biên phòng...; thông qua các hình thức tuyên truyền, giáo dục khác như phiên tòa xét xử lưu động của các cơ quan tiến hành tố tụng tại các phiên chợ vùng cao... nhưng diễn biến của tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua, cho thấy hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa cao, chưa thực sự sâu rộng nâng cao được nhận thức của người dân về hành vi mua bán người và mua bán trẻ em, để từ đó người dân có nhận thức và biện pháp tự bảo vệ mình và những người thân trong gia đình. Để công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang đạt hiệu quả cao hơn, nhất là nhận thức của nhân dân về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục theo hướng:
  • 94. 94 Thứ nhất, về đội ngũ cán bộ, tuyên truyền viên: cần lựa chọn và xây dựng tại cơ sở xã, phường, thôn, bản, đội ngũ tuyên truyền viên có năng lực, có kinh nghiệm, năng động, trách nhiệm trong công việc và có uy tín trong nhân dân, am hiểu điều kiện sống và sinh hoạt của người dân. Đội ngũ cán bộ, tuyên truyền viên này cần hoạt động chuyên trách, các hình thức tuyên truyền cần có sự đổi mới sao cho dễ truyền đạt, dễ hiểu và thu hút quần chúng vì đây là những vấn đề có phần khô cứng đòi hỏi phảỉ có phương thức truyền đạt hấp dẫn giúp người tiếp nhận có thể nắm bắt một cách hứng thú vấn đề pháp luật đã nêu ra. Thứ hai, với đặc thù của vùng dân tộc thiểu số, vai trò của trưởng thôn, trưởng bản là hết sức quan trọng trong việc vận động, tập hợp quần chúng nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, tuyên truyền viên là người địa phương, là các cán bộ chủ chốt của thôn, bản sẽ làm cho công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đạt hiệu quả cao hơn, người dân tin tưởng, có ý thức trách nhiệm và nâng cao hơn ý thức chấp hành pháp luật. Thứ ba, cần đổi mới hình thức và nội dung tuyên truyền pháp luật: bên cạnh các hình thức tuyên truyền như đã nêu trên, việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng vào mục đích nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của người dân cần được áp dụng triệt để. Đa số đồng bào dân tộc không biết chữ nên hình thức tuyên truyền trên truyền hình, đài phát thanh đặc biệt hiệu quả. Do đó, cần tăng cường đưa phổ biến, giáo dục pháp luật vào chương trình truyền hình, đài phát thanh tiếng dân tộc của từng địa phương, nội dung tuyên truyền ngắn gọn, đầy đủ và dễ hiểu, phù hợp với tập quán của từng dân tộc. Thông qua đó, có thể mô tả cụ thể những hành vi, phương thức, thủ đoạn phạm tội của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em xảy ra trên thực tế tại địa phương, nhằm giáo dục và cảnh tỉnh người dân trước nguy cơ bị dụ dỗ, cưỡng ép bán qua biên giới, đồng thời trang bị cho
  • 95. 95 người dân những kiến thức pháp luật giúp người dân nắm bắt, nhận thức được hành vi phạm tội để chủ động phòng tránh. Thứ tư, cần thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ khen thưởng, biểu dương kịp thời để khuyến khích, động viên tất cả quần chúng nhân dân tham gia phong trào toàn dân đấu tranh phòng, chống tội phạm. 3.3.2. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, gắn xây dựng nông thôn mới với công tác xóa đói giảm nghèo, dạy nghề và tạo việc làm cho nam nữ thanh niên Đây là một trong những giải pháp mang tính quyết định trong công tác phòng ngừa, đấu tranh đối với tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Nguyên nhân chủ yếu của các vụ, việc phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em là do đời sống kinh tế: người phạm tội do khó khăn về kinh tế nên kiếm lợi nhuận một cách bất hợp pháp bằng cách lừa, dụ dỗ nạn nhân đưa qua biên giới bán lấy tiền hoặc bán chính con đẻ của mình để trang trải cuộc sống hàng ngày; nạn nhân vì cuộc sống kinh tế khó khăn khi bị rủ rê, đã đồng ý sang Trung Quốc để làm thuê hoặc có nhu cầu lấy chồng người Trung Quốc để cuộc sống sung sướng hơn... nên đã bị các đối tượng phạm tội dễ dàng lợi dụng. Bên cạnh đó, xuất phát từ nguyên nhân đói nghèo, mà các nam nữ thanh niên tìm cách thoát ly sang bên kia biên giới tìm việc làm, nhiều gia đình phải cho con nuôi... Để phần nào hạn chế những nguyên nhân dẫn đến tội phạm, hạn chế tình trạng đưa người trái phép qua biên giới và tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, cần triển khai các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo trên phạm vi toàn tỉnh. Trước hết là chương trình xây dựng nông thôn mới, huy động toàn lực từ các nguồn vốn ngân sách và vốn xã hội hóa để xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao đời sống và dân trí cho nhân dân. Với đặc điểm địa hình chủ yếu là vùng núi đá, cần nghiên cứu đưa cây trồng, vật nuôi phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng của từng vùng, khuyến khích, tăng cường
  • 96. 96 dạy nghề, tạo việc làm ổn định cho nam nữ thanh niên, chuyển giao khoa học công nghệ cho người dân, tiếp thu cây, con giống mới đem lại thu nhập và hiệu quả kinh tế, từng bước giúp người dân có thu nhập, ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống sẽ giúp giảm thiểu tình trạng phạm tội, từng bước nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm. 3.3.3. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của loại tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, đó là do công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em chưa được triển khai một cách toàn diện, đồng bộ, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, đặc biệt là giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự chặt chẽ, cơ chế tổ chức bộ máy thực hiện chưa đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, còn nhiều hạn chế trong việc phối hợp phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Nhiều vụ án mua bán người, mua bán trẻ em không được phát hiện kịp thời dẫn đến nhiều đối tượng ở ngoài xã hội tiếp tục phạm tội. Trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các hành vi tố tụng theo chức năng, nhiệm vụ của mình được quy định trong luật tố tụng một cách độc lập, không phụ thuộc vào nhau. Từng cá nhân (người tiến hành tố tụng), cơ quan tiến hành tố tụng một cách độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hành vi tiến hành tố tụng. Tất cả các cá nhân, cơ quan tiến hành tố tụng đều có nghĩa vụ, trách nhiệm chung là bảo vệ pháp chế và buộc họ phải có sự phối hợp, gắn kết với nhau. Chính vì vậy, quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong mọi hoạt động của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và loại tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nói riêng là tất yếu, sự phối hợp này tạo thành sự thống nhất, định
  • 97. 97 hướng, đồng thời còn là sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi cơ quan tiến hành tố tụng hoàn thành nhiệm vụ, tránh được nhiều sai sót trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng cần tăng cường sự phối hợp để tiếp tục có biện pháp đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung cũng như công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em nói riêng, gắn công tác đấu tranh với công tác tuyên truyền, vận động. Xuất phát từ yêu cầu thực tế trong điều tra phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, đối chiếu với các quy định của pháp luật hiện hành, phải thường xuyên phối hợp, tổ chức các cuộc họp, giao ban liên ngành giữa các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án để cùng nhau xác định những vấn đề, những quy định pháp luật cần phải giải thích và hướng dẫn thi hành khi xử lý loại tội phạm này, cùng rút kinh nghiệm, tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong công tác đấu tranh phòng ngừa và trong quá trình giải quyết từng vụ án cụ thể, tìm ra nguyên nhân, điều kiện và các biện pháp giải quyết tốt nhất đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, không oan sai và không bỏ lọt tội phạm. Xây dựng các vụ án điểm về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, đưa ra xét xử lưu động nhằm răn đe, giáo dục phòng ngừa và phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Tăng cường sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, nhất là sự phối hợp chặt chẽ ngay từ giai đoạn quản lý, tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, có sự phân loại, đánh giá tính chất, mức độ vụ án để xây dựng kế hoạch giải quyết ngay từ đầu. Viện kiểm sát kiểm sát chặt chẽ quá trình khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra đảm bảo đúng thủ tục tố tụng, không để xảy ra tình trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn một cách bừa bãi. Có sự phối, kết hợp chặt chẽ giữa Điều tra viên và Kiểm sát viên được phân công trong toàn bộ quá trình điều tra vụ án, đảm bảo
  • 98. 98 kết quả điều tra khách quan, toàn diện, không để lọt tội phạm và hành vi phạm tội, không khởi tố oan sai hoặc đình chỉ vụ án do không đủ căn cứ chứng minh tội phạm. Tăng cường hơn nữa công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong việc truy tố, xét xử tội phạm, đảm bảo đúng người, đúng tội. Không để xảy ra tình trạng xét xử oan sai bị cấp phúc thẩm hủy án hoặc tòa án tuyên không phạm tội. Phối hợp đưa ra xét xử lưu động các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em có tính chất điển hình, tại các địa bàn phức tạp tiềm ẩn phát sinh nhiều loại tội phạm và nhiều đối tượng phạm tội, nhằm răn đe, giáo dục người phạm tội, tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân về công tác phòng ngừa, đấu tranh đối với loại tội phạm này. Bên cạnh đó, cần thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu về công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em cho các cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán làm công tác giải quyết án. Lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần có phương pháp, lựa chọn các cán bộ có năng lực nghiệp vụ và kinh nghiệm để tiếp nhận điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về mua bán người và mua bán trẻ em, đặc biệt là các vụ án phức tạp, có yếu tố nước ngoài. 3.3.4. Tăng cường sự phối hợp với các ngành chức năng trong công tác phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em Xuất phát từ nhiệm vụ của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nói riêng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chủ động phối hợp với nhau, phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức khác trong từng công việc cụ thể. Sự phối hợp này càng chặt chẽ bao nhiêu, càng phát huy được hiệu quả công việc bấy nhiêu và nó càng thể hiện sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội. Việc khai thác, thu thập thông tin, tài liệu phản ánh tình hình hoạt động của tội phạm và rà soát nhân khẩu một cách thường xuyên tại các địa
  • 99. 99 bàn có nguy cơ xảy ra tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em cần sự phối hợp của các đơn vị như Công an, Bộ đội Biên phòng, Hải quan và các tổ chức liên quan khác. Do đó, lực lượng Công an cần tăng cường nghiệp vụ, thường xuyên rà soát các đối tượng có dấu hiệu nghi vấn, qua đó đánh giá chính xác tình hình mua bán người, mua bán trẻ em xảy ra tại địa phương. Có sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng Bộ đội Biên phòng, Hải quan, tiến hành điều tra cơ bản trên các khu vực dọc tuyến biên giới, tập trung vào các địa bàn trọng điểm như các cửa khẩu, chợ đường biên, đường tiểu ngạch, địa bàn thường xuyên có xuất nhập cảnh trái phép... duy trì hoạt động tuần tra một cách thường xuyên, chủ động phát hiện và ngăn chặn tội phạm. Tăng cường sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc tiếp nhận, quản lý các tố giác, tin báo tội phạm từ quần chúng nhân dân, kịp thời xác minh và xử lý với những thông tin nhận được. Các tin phản ánh được tập trung về cơ quan Công an (theo quy định của Thông tư liên tịch số 06/2013 ngày 12 tháng 8 năm 2013 của Liên ngành Trung ương) để nghiên cứu, phân tích, đánh giá, nhận định tình hình tội phạm, phương thức, thủ đoạn hoạt động, ổ nhóm, đường dây, phạm vi và quy mô hoạt động, xây dựng kế hoạch, phát hiện, xác lập hiềm nghi và chuyên án đấu tranh. Đối với Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp, cần lồng ghép công tác tuyên truyền pháp luật với dạy nghề, hướng dẫn chị em phụ nữ lao động sản xuất, xóa đói giảm nghèo, những trường hợp khó khăn phải kịp thời hỗ trợ để gia đình phát triển kinh tế. Trong công tác tuyên truyền, cần hướng dẫn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho chị em phụ nữ nhận diện tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em để tự bảo vệ bản thân và gia đình. Thực trạng hiện nay tại tỉnh Hà Giang, nơi vùng sâu, vùng xa có các dân tộc thiểu số sinh sống, một phần là do phong tục tập quán, nên việc tảo hôn và sinh nhiều con đã trở thành vấn nạn, hơn nữa người phụ nữ là lao động chính trong gia đình, do sự vất vả cùng với hoàn cảnh kinh tế khó khăn là một trong những nguyên nhân
  • 100. 100 làm chị em nảy sinh tư tưởng thích sang Trung Quốc lấy chồng hoặc sang làm thuê, nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em ngày một gia tăng. Do đó, việc tuyên truyền pháp luật, vận động chị em và nhân dân phát giác, tố giác tội phạm, giúp đỡ các chị em là nạn nhân trở về hòa nhập với cộng đồng, chia sẻ, cảm hóa và giáo dục những chị em lầm lỗi cùng sinh hoạt trong Hội để giúp họ có cơ hội sửa chữa, cũng là một trong những giải pháp hiệu quả phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và mua bán trẻ em. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cần tăng cường phối hợp với cơ quan Công an, Bộ đội Biên phòng quản lý, kiểm soát được số lượng phụ nữ, nam giới, trẻ em là nạn nhân của tội phạm mua bán phụ nữ, mua bán trẻ em để tiếp nhận và có chính sách hỗ trợ tái hòa nhập nhằm giảm bớt những tổn hại về tinh thần đối với họ. Vì thực trạng hiện nay ở tỉnh Hà Giang, rất nhiều chị em phụ nữ dân tộc thiểu số là nạn nhân của tội mua bán người, bị ép bán dâm hoặc làm vợ người nước ngoài, khi được giải cứu trở về thường bị gia đình nhà chồng và xã hội ruồng bỏ dẫn đến nhiều tiêu cực hoặc họ lại bỏ sang Trung Quốc sinh sống, đây cũng là một nguy cơ tiềm ẩn làm phát sinh nhiều tội phạm sau này. Ủy ban Dân số - Gia đình và Trẻ em cần làm tốt công tác tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình, phòng chống nạn xâm hại tình dục ở phụ nữ và trẻ vị thành niên, tư vấn bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cho người dân để phòng ngừa tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Sở Tư pháp tham mưu cho lãnh đạo tỉnh xây dựng các văn bản pháp luật, các chính sách hỗ trợ, phát triển kinh tế, đảm bảo an toàn khi xuất khẩu lao động, kịp thời phòng ngừa tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Mặt trận Tổ quốc cần tăng cường đại đoàn kết tại địa phương, giúp cộng đồng cùng quan tâm đến thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục và ngăn chặn kịp thời các biểu hiện của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, tạo môi trường lành mạnh, an toàn, đẩy lùi tội phạm và các dấu hiệu phạm tội.
  • 101. 101 Ngoài ra, cần huy động mọi nguồn lực và sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội khác để tuyên truyền, vận động người dân hiểu rõ thủ đoạn của tội phạm, phòng ngừa có hiệu quả tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang. 3.3.5. Tăng cường công tác xác minh và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em Trong đấu tranh với tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em công tác xác minh nạn nhân bị mua bán luôn đòi hỏi phải khẩn trương, kịp thời hồi hương cho những nạn nhân bị mua bán. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công việc này gặp rất nhiều khó khăn do thông tin nhân thân của nạn nhân do phía nước ngoài cung cấp thường không đầy đủ và chính xác. Với tỉnh Hà Giang, đa số nạn nhân sống ở vùng xa xôi đòi hỏi phải có nhân lực, phương tiện phục vụ cho công tác mới đáp ứng kịp thời. Nhiều cơ quan chức năng và chính quyền địa phương còn lúng túng khi xác định nạn nhân, không quản lý được nạn nhân có ra nước ngoài hay không, các cơ quan chưa có cơ chế phối hợp nên giải quyết các thủ tục xác định nạn nhân mất rất nhiều thời gian và gây chậm trễ ảnh hưởng tới quá trình điều tra. Mặt khác, phía nước ngoài thường trao trả nạn nhân lẫn với người xuất nhập cảnh trái phép nên khó phân loại và xác định nạn nhân hoặc một phần không nhỏ các nạn nhân tự giải thoát, trở về địa phương nhưng không tố giác... Do vậy, các cơ quan chức năng của tỉnh cần tăng cường công tác quản lý nhân khẩu tại địa phương, xây dựng một cơ chế phối hợp với phía nước ngoài và giữa các cơ quan an ninh trong nước nhằm nhanh chóng trao đổi thông tin về nạn nhân, thu thập tư liệu, bằng chứng phục vụ quá trình điều tra, đồng thời nắm chắc thời gian, địa điểm giao nhận để tiếp nhận và hồi hương cho các nạn nhân. Có như vậy sẽ nắm chắc, quản lý và tiếp nhận tốt tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em tại địa phương để có biện pháp phòng ngừa, đấu tranh phù hợp. Đối với các nạn nhân bị mua bán qua biên giới, việc tái hòa nhập cộng đồng sau khi họ trở về là một công việc khó khăn, nhạy cảm, thầm lặng, tốn
  • 102. 102 nhiều thời gian và công sức. Nguyên nhân là do địa phương chưa khảo sát, đánh giá số nạn nhân trở về sau khi bị mua bán nên số nạn nhân được hỗ trợ chiếm tỷ lệ thấp, việc hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng ở nhiều nơi trên địa bàn tỉnh mới chỉ áp dụng cho các nạn nhân trở về khi được giải cứu, trao trả và được thực hiện bước đầu như hỗ trợ kinh tế, tâm lý, pháp lý, còn đối với rất nhiều nạn nhân sau khi trở về nhưng địa phương do không nắm và quản lý được thông tin nên trong nhiều trường hợp, họ không được hỗ trợ để tái hòa nhập. Bên cạnh đó, thái độ của cộng đồng với các nạn nhân đã trở về nhiều khi có sự kỳ thị, xa lánh đặc biệt là với các phụ nữ bị bán qua nước ngoài để phục vụ mục đích mại dâm. Tuy nhiên, công tác tái hòa nhập cộng đồng cho những nạn nhân trở về sau khi bị mua bán ở tỉnh Hà Giang cũng có nhiều điểm khác biệt nên cần có những biện pháp riêng. Với những đối tượng là phụ nữ người dân tộc thiểu số bị bán qua biên giới khi trở về việc cần thiết với họ là ổn định kinh tế, tạo công ăn việc làm ổn định cho họ có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Khác với các địa phương ở khu vực trong cả nước, vấn đề gánh nặng tâm lý không phải là vấn đề chính. Với phong tục, tập quán của người dân tộc thiểu số, đa số những nạn nhân khi trở về vẫn được cộng đồng và gia đình chấp nhận và được trở lại cuộc sống bình thường. Vấn đề tái hòa nhập ở địa bàn Hà Giang là được hỗ trợ, tạo công ăn việc làm bằng các phương thức như dạy nghề, chuyển giao khoa học, kỹ thuật đối với vật nuôi và cây trồng phù hợp để các nạn nhân ổn định cuộc sống. Bên cạnh đó, các ngành như Sở Lao động - Thương binh và xã hội, Hội phụ nữ cũng cần có nhiều nỗ lực để hỗ trợ các nạn nhân như có sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công an, Biên phòng trong việc nắm và tiếp nhận thông tin về nạn nhân; thường xuyên khảo sát, rà soát, đánh giá tình hình nạn nhân trở về và các thương tổn tâm lý xã hội khi bị mua bán; xây dựng mạng lưới hỗ trợ tái hòa nhập cho nạn nhân và có cơ chế giám sát, theo dõi, đánh giá hiệu quả. Bên cạnh đó cần thường xuyên tổ chức
  • 103. 103 các lớp tập huấn pháp luật, chính sách, kỹ năng để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em tái hòa nhập cộng đồng. 3.3.6. Tăng cường phối hợp, hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em Tỉnh Hà Giang với đặc thù có đường biên giới dài tiếp giáp với Trung Quốc nên trong các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em, các nạn nhân đều bị mua, bán sang Trung Quốc qua các cửa khẩu, chợ biên giới, đường tiểu ngạch hoặc đưa qua đường biên giới Lào Cai, Lạng Sơn... Trong những năm qua, chính quyền tỉnh Hà Giang đã đẩy mạnh hợp tác quốc tế với Trung Quốc trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và đặc biệt là công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em qua biên giới. Sự phối hợp đấu tranh phòng chống tội phạm giữa hai nước đã đạt được những kết quả nhất định, số tội phạm người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam và số tội phạm là người Việt Nam phạm tội bỏ trốn sang Trung Quốc bị bắt, trao trả để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội mua bán người, mua bán trẻ em đã tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, sự hợp tác quốc tế với Trung Quốc trong công tác xác minh, truy bắt tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em gặp không ít khó khăn, nhiều vụ án nạn nhân hoặc chính những người đồng phạm là người Việt Nam không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của các đối tượng bên Trung Quốc hoặc chỉ biết nơi ở nhưng không biết địa chỉ cụ thể..., bên cạnh đó, các thủ tục để xác minh, điều tra tội phạm theo thủ tục đối ngoại gặp rất nhiều vướng mắc, việc giải quyết một số vụ án mua bán người, mua bán trẻ em có tổ chức, xuyên quốc gia gặp nhiều khó khăn do chưa có sự phối hợp hoặc tạo điều kiện từ phía các cơ quan chức năng nước ngoài. Do vậy, sự phối hợp và hợp tác quốc tế chưa được chặt chẽ, triệt để, dẫn đến bỏ lọt nhiều đối tượng phạm tội và là một trong những nguyên nhân khiến tội phạm manh động hơn. Để công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang đạt hiệu quả cao hơn, các cơ quan chức
  • 104. 104 năng ngoài công tác tuyên truyền, phòng, chống tội phạm trong nước cần có sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh nước láng giềng (Trung Quốc) bằng nhiều hình thức như: thường xuyên giao ban, trao đổi thông tin hai chiều; thông tin tình hình tội phạm kịp thời, chính xác để phối hợp điều tra, xác minh truy bắt đối tượng và giải cứu nạn nhân bị mua bán; quản lý tốt tình hình xuất nhập cảnh ở từng địa phương, có sự trao đổi thông tin về các đối tượng nghi vấn; triển khai cao điểm tấn công trấn áp tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc... KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Trước yêu cầu của xu thế hội nhập quốc tế và yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng về số lượng, tính chất và mức độ nguy hiểm, đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung cũng như cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nói riêng. Đây cũng chính là mục tiêu, nhiệm vụ đã được Đảng và Nhà nước ta đặt lên hàng đầu trong công cuộc xây dựng nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, đưa pháp luật Việt Nam hòa nhập với pháp luật khu vực và pháp luật quốc tế. Để cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên cả nước cũng như trên địa bàn tỉnh Hà Giang có hiệu quả, vấn đề đặt ra là: Thứ nhất, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em phù hợp với pháp luật quốc tế, phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm trong xu thế hội nhập và trong tình hình mới. Bên cạnh đó, cần có những giải pháp đấu tranh cụ thể như thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm; có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố
  • 105. 105 tụng, giữa các cơ quan, tổ chức xã hội trong đấu tranh phòng chống tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em; nâng cao năng lực của những người tiến hành tố tụng nhằm giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác, đảm bảo cao nhất hiệu quả áp dụng pháp luật trong đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Thứ hai, đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp phòng chống, tuyên truyền và đấu tranh. Với đặc điểm kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn của địa phương thì giải pháp trọng tâm là cùng với cả nước thực hiện tốt mục tiêu xóa đói giảm nghèo bền vững, thực hiện tốt các mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Tìm mọi cách giúp đỡ nam nữ thanh niên được học nghề và có việc làm ổn định, tái hòa nhập cho các nạn nhân sau khi bị mua bán bằng việc tái thiết kinh tế, nâng cao đời sống người dân. Thứ ba, chú ý đến công tác tố tụng trong quá trình truy tố và xét xử tội mua bán người, mua bán trẻ em. Thận trọng trong xét xử và phối hợp tốt giữa các cơ quan tố tụng để kịp thời trao đổi kinh nghiệm, đẩy nhanh tiến độ xét xử, nâng cao chất lượng tố tụng. Thứ tư, hợp tác tốt với nước láng giềng để nắm bắt thông tin, trao đổi tình hình và tiếp nhận nạn nhân bị mua bán người, cùng đấu tranh, truy bắt các đối tượng lẩn trốn ra nước ngoài về thụ án.
  • 106. 106 KẾT LUẬN Tội phạm mua bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em đang là một vấn nạn, diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng ở quy mô toàn cầu. Nếu như trước đây, mua bán người được nhìn nhận chủ yếu vì mục đích bóc lột tình dục thì hiện nay, mua người vì mục đích lao động ngày càng được quan tâm nhiều hơn; các nạn nhân bị mua bán vì mục đích bóc lột lao động đang bắt đầu được công nhận và bảo vệ. Thực tế cho thấy, tại nhiều nước trên thế giới, có rất nhiều ngành nghề sử dụng lao động nhập cư để làm những việc mà người dân sở tại không muốn làm như: đánh cá, sản xuất nông nghiệp, khai thác mỏ, xây dựng và giúp việc gia đình. Rất nhiều người rơi vào tình trạng bị cưỡng bức lao động, buộc phải làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, trên các tàu đánh cá... Họ thường bị lạm dụng cả về thể chất lẫn tinh thần, việc đe dọa đánh đập, bóc lột sức lao động, xâm hại thể chất diễn ra thường xuyên. Chính vì vậy, hậu quả của nạn mua bán là rất nặng nề. Nạn nhân phải hứng chịu những tổn thương tâm sinh lý, bị tổn hại tới sức khỏe và thậm chí là cả tính mạng. Tệ nạn mua bán người cũng đe dọa đến sự ổn định và trật tự an toàn xã hội, làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Để phòng ngừa tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, người dân cần xây dựng lối sống lành mạnh, không sa vào các tệ nạn xã hội; có ý thức cảnh giác trước thủ đoạn của tội phạm mua bán người, trước những lời dụ dỗ, hứa hẹn về việc làm hoặc lấy chồng nước ngoài. Khi phát hiện hoặc nghi ngờ đối tượng chủ mưu, cầm đầu, môi giới mua bán người cần thông báo ngay cho công an, chính quyền, đoàn thể xã hội ở địa phương. Cần tham khảo ý kiến của người thân bạn bè trước khi đi làm ăn xa; tìm hiểu kỹ nơi mình định đến, người môi giới, người mà mình đi cùng. Khi đi khỏi địa phương phải báo cáo chính quyền địa phương, thông báo địa chỉ nơi đến, giữ mối liên lạc thường xuyên với gia đình. Đối với từng gia đình, cần nâng cao nhận thức cho mọi thành viên về hậu quả, tác hại của nạn mua bán người đối với bản thân,
  • 107. 107 gia đình và xã hội; giáo dục các thành viên trong gia đình luôn quan tâm, thương yêu, đoàn kết, gắn bó, thắt chặt sợi dây tình cảm; giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, ngăn ngừa bạo lực gia đình, bạo lực học đường, đặc biệt bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em. Các bậc phụ huynh cần quan tâm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, không để trẻ em bỏ học, lao động sớm. Cần hỗ trợ, cảm thông, chia sẻ khó khăn với các thành viên trong gia đình bị mua bán trở về. Khi phát hiện những trường hợp nghi vấn có hành vi mua bán người, phải kịp thời báo cho chính quyền địa phương và công an nơi gần nhất. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các đoàn thể và cộng đồng xã hội cần tăng cường phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật liên quan đến mua bán người nhằm nâng cao nhận thức cho người dân về phương thức, thủ đoạn, nguyên nhân, hậu quả, tác hại của tội phạm mua bán người; cách phòng tránh và kỹ năng tự bảo vệ mình trước tội phạm mua bán người. Ngoài ra, cần cung cấp thông tin, trang bị kiến thức cho những người muốn di cư, những người muốn kết hôn với người nước ngoài; truyền thông về di cư an toàn tại những điểm nóng có nhiều người di cư; rà soát, quan tâm, giúp đỡ những phụ nữ, trẻ em trong các gia đình gặp khó khăn về việc làm, đời sống hoặc trong gia đình có mâu thuẫn có thể dẫn đến phụ nữ, trẻ em bỏ nhà ra đi; tăng cường hỗ trợ, tạo việc làm, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống; hỗ trợ những người bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống. Lực lượng chức năng cần quản lý, giáo dục những người có tiền án, tiền sự, những người có biểu hiện vi phạm pháp luật; quản lý chặt chẽ nhân khẩu, khai báo tạm trú, tạm vắng; quản lý, kiểm tra các ngành nghề kinh doanh, cơ sở sử dụng lao động và các loại hình dịch vụ khác có liên quan đến phòng ngừa mua bán người như dịch vụ du lịch, đưa người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài... Với những nỗ lực và giải pháp cụ thể, tình trạng mua bán người và mua bán trẻ em ở nước ta sẽ ngày càng được cải thiện và tạo môi trường sống an toàn cho mỗi người dân.
  • 108. 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. AIPO (2006), Tài liệu tham khảo khuôn khổ chính sách và pháp luật chống buôn bán người trong khu vực ASEAN, Hội nghị chuyên đề về hợp tác lập pháp trong phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em, Tổ chức tại Hà Nội, Hà Nội. 2. Vũ Ngọc Bình (2002), Phòng, chống buôn bán và mại dâm trẻ em, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục phòng, chống tệ nạn xã hội, Tổ chức di cư quốc tế ACTIONAID Việt Nam (2007), Tài liệu Hội thảo về công tác hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài về, Hà Nội. 4. Bộ Tư pháp (2004), Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam trên tinh thần các nghị định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán người và di cư trái phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Nxb Tư pháp, Hà Nội 5. Bộ Tư pháp (2006), Thông tư 08/2006/TT-BTP ngày 08/12/2006 về những cơ sở pháp lý quan trọng nhất để giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài, Hà Nội. 6. Bộ Tư pháp (2007), Tài liệu Hội thảo đề xuất xây dựng Luật phòng chống buôn bán người, Hà Nội. 7. Bộ Tư pháp (2008), Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật hiện hành về phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em - Kiến nghị hướng hoàn thiện, Hà Nội. 8. Lê Cảm (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 9. Lê Cảm (Chủ biên) (2003), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  • 109. 109 10. Lê Văn Cảm (1998), Luật Hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền - Những vấn đề hoàn thiện các quy định cơ bản của phần chung, Nxb Sáng tạo, Matxcơva. 11. Lê Văn Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật Hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền (một số vấn đề cơ bản của phần chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 12. Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 13. Lê Văn Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Hội, Hà Nội. 14. Chính phủ (2002), Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Hà Nội. 15. Chính phủ (2004), Quyết định số 130/2004/QĐ-TTg ngày 14/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2004 -2010, Hà Nội. 16. Chính phủ (2004), Nghị định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15/10/2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, Hà Nội. 17. Chính phủ (2005), Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội, Hà Nội. 18. Chính phủ (2006), Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Hà Nội.
  • 110. 110 19. Chính phủ (2007), Chỉ thị số 16/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện chương trình hành động phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em, Hà Nội. 20. Chính phủ (2007), Chỉ thị số 17/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy chế tiếp nhận tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn từ nước ngoài trở về, Hà Nội. 21. Chính phủ (2008), Dự án sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, Hà Nội. 22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 22/9/1998 của Bộ Chính trị về xuất khẩu lao động và chuyên gia, Hà Nội. 23. Đinh Bích Hà (2007), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội nhân dân Trung Hoa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Hội đồng Bộ trưởng (1989), Nghị định số 12/HĐBT ngày 01/02/1989 quy định về thủ tục về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, Hà Nội. 25. Đặng Xuân Khang (2004), Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam - thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Công an, Hà Nội. 26. Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, (Bản dịch). 27. Liên hợp quốc (1959), Tuyên ngôn về quyền trẻ em (Bản dịch). 28. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, (Bản dịch). 29. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, (Bản dịch). 30. Liên hợp quốc (1969), Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc, (Bản dịch). 31. Liên hợp quốc (1979), Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, (Bản dịch).
  • 111. 111 32. Liên hợp quốc (1989), Công ước về quyền trẻ em (Bản dịch). 33. Liên hợp quốc (1999), Công ước số 182 về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, (Bản dịch). 34. Liên hợp quốc (2000), Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mua dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, (Bản dịch). 35. Liên hợp quốc (2000), Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, (Bản dịch). 36. Liên hợp quốc (2000), Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước của LHQ về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, (Bản dịch). 37. Liên hợp quốc (2000), Nghị định thư về phòng, chống đưa người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung cho Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, (Bản dịch). 38. "Luật Hình sự một số nước trên thế giới", (1998), Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề). 39. Trần Văn Luyện (2000), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội. 41. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội. 42. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội. 43. Quốc hội (2000), Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội. 44. Quốc hội (2002), Bộ luật Lao động, Hà Nội. 45. Quốc hội (2004), Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hà Nội. 46. Quốc hội (2006), Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, Hà Nội. 47. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 48. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
  • 112. 112 49. Đỗ Thị Thơm (2003), Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 50. Tổ chức Cứu trợ trẻ em Anh - Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (1999), Sổ tay tuyên truyền luật pháp, chính sách liên quan đến công tác phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 51. Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang (2009-2013), Báo cáo tổng kết công tác các năm từ 2009 - 2013, Hà Giang. 52. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Tập 1, Hà Nội. 53. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của bộ luật Hình sự năm 1985, Hà Nội. 54. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng, Hà Nội. 55. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo sơ kết về việc thực hiện chương trình hành động phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội. 56. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 57. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2006), Báo cáo số 429/BCA (VPTT 130/CP) ngày 22/12/2006 sơ kết thực hiện chương trình hành động chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em năm 2006, Hà Nội. 58. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2007), Bộ tài liệu tập huấn về phòng, chống buôn bán người, Hà Nội. 59. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2007), Báo cáo tham luận tại hội nghị triển khai Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn II (2007 - 2010), Hà Nội.
  • 113. 113 60. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2008), Báo cáo kết quả khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật về điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em, Hà Nội. 61. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2009), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em (2004 - 2009), Hà Nội. 62. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2009), Tài liệu Hội thảo sơ kết hoạt động của đề án 4 - Chương trình 130/CP và triển khai thi hành các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự liên quan đến phòng, chống buôn bán người, Hà Nội. 63. Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP (2009), Tài liệu giao ban sơ kết 1 năm thực hiện chỉ thị 16/TTg; 2 năm thực hiện đề án II - Chương trình 130/CP và triển khai công tác năm 2009, Hà Nội. 64. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (1987), Bình luận khoa học Bộ Luật Hình sự (phần các tội phạm), Tập 1, Nxb Pháp lý, Hà Nội. 65. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - UNIAP (2013), Tài liệu tập huấn công tác phòng, chống tội phạm buôn bán người, Hà Nội. 66. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang (2009-2013), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát các năm từ 2009 đến 2013, Hà Giang. 67. Viện Sử học (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 68. Cao Quốc Việt (2006), "Phòng, chống tệ nạn mại dâm và tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em", Kiến thức pháp luật về quốc phòng, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, Tập 4, tr. 116-145, Dự án VIE/02/015 về hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội. 69. Cao Quốc Việt (2006), "Tình huống pháp luật về phòng, chống tệ nạn mại dâm và phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em", Tình huống pháp luật về quốc phòng, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, Tập 3, tr. 100-126, Dự án VIE/02/015 về hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội.